Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 14 Tháng Năm, 2024, 05:14:05 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Căn cứ quân sự Cam Ranh  (Đọc 531830 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #350 vào lúc: 23 Tháng Năm, 2011, 05:42:27 pm »

Thông số kỹ-chiến thuật đề án 641:

(Đối với các tàu được đóng đến năm 1966, nguồn: deepstorm.ru)

Lượng choán nước, tấn:
- Tư thế nổi: 1952 
- Tư thế ngầm: 2550 (2475?)
Tốc độ hành trình, hải lý:
- Lớn nhất, tư thế nổi: 16,8
- Lớn nhất, tư thế ngầm: 16
- Trong chế độ RDP: 8,0
- Bơi ngầm chế độ tiết kiệm: 2,0
Tầm bơi xa (ứng với tốc độ hành trình, hải lý), dặm:         
- Trong tư thế nổi khi có dự trữ nhiên liệu tăng cường: 30.000 (8,1)
- Trong chế độ RDP: 17.900 (8,0)
- Trong tư thế ngầm: 15,3 (16), 400 (2)
Chiều sâu lặn, m:
- Chiều sâu giới hạn: 280
Các yếu tố kết cấu chế tạo của tàu:
- Chiều dài: 91,3 m
- Chiều rộng: 7,5 m
- Mớn nước trung bình: 5,1 m
- Kiểu kết cấu vỏ: kết cấu hai vỏ
Vũ khí:
- Thiết bị phóng ngư lôi đuôi tàu, 533 mm: 4
- Thiết bị phóng ngư lôi mũi tàu, 533 mm: 6
- Cơ số đạn ngư lôi: 22
- Số lượng và kiểu mìn (thay cho ngư lôi): 32 (MDT)
Thiết bị năng lượng:
- Kiểu: diezen - điện
- Số lượng x công suất động cơ diezen, mã lực: 2 x 2000 (kiểu 37D)
- Số lượng x công suất động cơ chân vịt (GED), mã lực: 1 x 2700 (kiểu PG102), 2 x 1350 (PG101)
- Số lượng x công suất động cơ điện (ED) ở chế độ hành trình tiết kiệm (EKh), mã lực: 1 x 140 (kiểu PG104)
- Số lượng trục (truyền): 3
- Kiểu ắc quy, số cụm ắc quy x số yếu tố: 46SU, 4 x 112
Các yếu tố ở và sinh tồn:
- Bơi độc lập, ngày đêm : 90
- Thủy thủ đoàn, người: 70 (trong đó có 12 sỹ quan)
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #351 vào lúc: 23 Tháng Năm, 2011, 10:40:23 pm »

(tiếp)

Hệ thống "Bazalt" (với tên lửa hành trình P-500) làm việc như sau: sau khi phóng (toàn bộ loạt bắn 8 đạn) và các cánh của "bầy sói" đã mở, được sửa hướng bởi hệ thống điều khiển "Argon", sau đó đạn tự bay về phía mục tiêu, trong khi đó tên lửa đầu đàn, vừa đi trên cao độ lớn hơn (đến 5 km) vừa tiến hành sục sạo mục tiêu bằng phương pháp thụ động (cũng có thể bằng phương pháp chủ động), bắt tín hiệu định vị vô tuyến để lấy đường đi và cứ thế tiếp tục. Hướng bay được điều chỉnh theo dữ liệu nhận được, (tên lửa đầu đàn) "ném" thông tin qua băng sóng milimet (radar đối thủ không thể định hướng được nó) cho các quả đạn tên lửa còn lại, đang bay ở độ cao 40-50 m. Lần đầu tiên trên các tên lửa hành trình đã lắp đặt hệ thống gây nhiễu chủ động, sẽ được kích hoạt khi phát hiện bằng radar của bản thân các mục tiêu trên không của đối phương đang tới gần. Ngay cả nếu quả đạn lộ nhất đó (quả đạn đầu đàn) bị bắn rơi, quả đạn khác sẽ thế chỗ nó, sẽ thực hiện tiếp chính nhiệm vụ này. Khi tới gần đích, quả đạn đầu đàn sẽ chọn mục tiêu lớn nhất và chỉ hướng tới nó quả đạn mà trên thân đạn có đầu đạn đặc biệt, sau đó phân chia các mốc mục tiêu còn lại cho cả "bầy" các quả đạn, rồi tự mình hạ độ cao, tất cả đều kích hoạt đầu radar tự dẫn và toàn bộ các quả đạn lao vào mạn các con tàu mục tiêu. Thời gian để tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa hành trình ở trên tư thế nổi là nhỏ nhất: sau khi đạn tên lửa rời khỏi ống phóng, nắp đậy đóng lại và thùng chứa hạ xuống, tàu ngầm lập tức lặn nhanh và thoát khỏi sự săn đuổi.

Được thiết kế để chống lại các nhóm tàu chiến lớn của kẻ thù, P-500 chỉ hiệu quả khi bắn theo loạt, đảm bảo cho nó xác suất xuyên thủng hàng rào phương tiện phòng chống tên lửa của đối phương. Loạt bắn hình thành từ 8 tên lửa với quãng cách không quá 8 giây. Tên lửa vẫn còn một yếu điểm lớn. Nó có một động cơ hành trình tăng cường loại turbo phản lực, đòi hỏi trước khi bước vào hoạt động phải đưa vào chế độ khởi động trên không một cách trực tiếp trong thiết bị phóng bằng cách sổ nó ra trong khoảng 20-30 giây. Việc khởi động và lấy đà cho tên lửa đến tốc độ hành trình thực hiện bởi hai bộ tăng tốc dùng nhiên liệu rắn. Khi bắn loạt cần phải kích hoạt đồng thời động cơ hành trình cả 8 quả đạn đang ở trong ống phóng. Khi phóng đạn đầu tiên, khí nóng thuốc nổ phóng đạn đi rơi xuống họng thu không khí của các động cơ hành trình đang làm việc. Do tồn tại vấn đề nhiệt độ cao và tính axit của khí thuốc phóng nên vòng quay của động cơ hành trình giảm xuống, động cơ tắt. Lần đầu tiên hiện tượng ấy được phát hiện trên các tàu ngầm đề án 651 và 675 mà không thể sửa được và vì vậy trên các tàu ngầm đề án 675 đã tiếp thu vũ khí mới, người ta phải tháo một phần các thùng chứa-phóng, sau khi để lại chỉ những thiết bị đằng mũi và lái mà có khoảng cách xa nhau đáng kể. Như thế các tàu ngầm này khi đó chỉ đảm bảo loạt bắn 4 đạn.

Những người hoàn thiện thiết bị phóng SM-241 biết hiện tượng này và do vậy, trên các thiết bị phóng của các tàu chiến đề án 1143 đã dự tính một hệ thống đo lường đặc biệt trong thành phần hệ thống có các cảm biến áp suất và nhiệt độ tại các khu vực cần phải kiểm soát của thiết bị phóng. Trong những thử nghiệm phóng đầu tiên tại Biển Đen, hiện tượng đó đã lại xảy ra - khi phóng tên lửa đầu tiên thì các động cơ hành trình của các tên lửa còn lại trong ống phóng liền tắt. Chỉ sau khi tiến hành chương trình thử nghiệm đặc biệt, mới xác định được trình tự phóng các quả đạn trong một loạt bắn, đảm bảo loạt bắn ổn định với giãn cách dưới 8 giây đồng hồ. Khi hoàn thiện việc này, phần hiện vật vật chất tên lửa không phải bổ sung thêm gì, mà chỉ đòi hỏi hoàn thiện các phương tiện chương trình hóa của hệ thống điều khiển.
Nghiên cứu về đảm bảo loạt bắn ổn định của tên lửa P-500, tiến hành trên tàu sân bay "Kiev", cho phép hiểu biết chi tiết hơn nguyên nhân bị ngắt loạt bắn từ tên lửa khởi động và đã mang lại sự tự tin vào khả năng xây dựng một tổ hợp phối ghép một cách chắc chắn các thiết bị phóng thậm chí cho ngay cả loại tên lửa "đỏng đảnh" như P-500.
Tri thức đó đã rất cần thiết cho việc chế tạo thiết bị phóng SM-248 dùng cho các tàu mặt nước đề án 1164. Đầu tiên theo nhiệm vụ thiết kế kỹ thuật (Техни́ческое Зада́ние - ТЗ, техзада́ние) đã định bố trí 12 ống phóng, tuy nhiên trong quá trình hoàn thiện bản vẽ thiết kế đã quyết định nâng số thiết bị phóng bố trí trên tàu lên 16 ống đặt trên boong tàu và có các họng phụt khí riêng rẽ ra ngoài boong. Tổ hợp như vậy cho phép nâng cao hẳn mức sẵn sàng chiến đấu trên tàu cũng như sức mạnh tác chiến của con tàu, có khả năng bắn liên tiếp hai loạt với 8 đạn tên lửa mỗi loạt.
Trong kết cấu thiết bị phóng SM-248 đã áp dụng kết cấu thân và cả nắp thiết bị phóng bằng thủy tinh dẻo tổng hợp.Cơ cấu dẫn hướng cho tên lửa được chế tạo từ hợp kim nhôm độ bền cao V-95 bằng phương pháp phun trào mà sau đó không cần gia công cơ học hoàn thiện nữa.
Tiếp theo, người ta đã chế tạo các biến thể cho tổ hợp "Bazalt" - tên lửa 4K80 được trang bị tổ hợp thiết bị khởi động mới và mạnh hơn, làm tăng thêm tầm bay xa của nó. SS-N-12 Sandbox "Bazalt" đã trở thành tên lửa cuối cùng của nước Nga-Xô viết bố trí trên các tàu ngầm mà được phóng trong tư thế nổi.


Sau khi phục vụ tại Kamchatka, Andrei Andreevitch Ysai chuyển về phục vụ tại Trường Cao đẳng kỹ thuật vô tuyến điện tử Hải quân mang tên Popov (Trường radar Hải quân), nhưng sau này chúng tôi mới biết rằng anh đã chết vì bị ong đốt.
Về sự phục vụ của chúng tôi, lần này người ta đã cho điểm "xuất sắc". Tổ quốc đã đánh giá đúng thủy thủ đoàn, còn tôi lần đấu tiên được tặng thưởng tấm huân chương duy nhất trong suốt quãng đời phục vụ của tôi, huân chương "Phụng sự Tổ quốc hạng 3".

Năm 1990, kết quả thi đua được lặp lại với nhóm tàu ngầm nguyên tử đột kích (đại tá hải quân I.V. Tsekhov) gồm 3 tàu ngầm, đã "giữ" thủy thủ đoàn 305 (trung tá hải quân I.F.Belskii), thủy thủ đoàn số 379 (trung tá hải quân V.V.Sherbak), thủy thủ đoàn 506 (trung tá hải quân N.G.Kovalevskii), giải thưởng của Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô đã ở lại vĩnh viễn trong đơn vị.
Việc đưa vào hình thức tổ chức mới đã thay đổi các yêu cầu cho việc đảm bảo sãn sàng chiến đấu trên các chiến hạm. Khác với những năm trước, bây giờ các con tàu của sư đoàn trực chiến tại căn cứ trong đội hình các nhóm đột kích và phải đảm bảo sự sẵn sàng về kỹ thuật và sự đầy đủ quân số đối với tất cả các nhóm đột kích. Trong trường hợp có nguy cơ bị tấn công từ kẻ thù tiềm tàng, nhóm đột kích phải khẩn trương ra khơi và triển khai ở gần ranh giới lên của máy bay trên tàu sân bay, để cùng với tín hiệu chỉ huy chiến đấu nhận được, tiêu diệt tàu sân bay của kẻ thù, không cho phép chúng giáng đòn tấn công từ trên không tới các vùng lãnh thổ của đất nước chúng ta. Tính tới những đòi hỏi đang tăng lên, một sự quan tâm đáng kể đã dành cho việc hoàn thiện sự hợp đồng tác chiến với các lực lượng khác của hạm đội và trước hết - với các máy bay mang tên lửa (chống hạm).
Đồng thời với việc tiếp tục hoàn thiện tổ chức mới, toàn bộ các vị trí chiến đấu (trên một con tàu) cũng như mỗi con tàu riêng biệt của sư đoàn vẫn tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu.
Từ đầu những năm 199x, trong thành phần sư đoàn đã có các con tàu thuộc thế hệ tàu ngầm nguyên tử thứ 3 đến phục vụ. Trong toàn bộ giai đoạn từ 1990 đến 1998 đã có 6 tàu ngầm nguyên tử đề án 949 đến đứng vào đội hình sư đoàn. Việc đóng các con tàu này thực hiện tại Xí nghiệp liên hợp chế tạo máy "Sevmash" (СМП - Северное Mашиностроительное Предприятие) tại Severodvinsk. Sau khi gia nhập biên chế hạm đội, các tàu ngầm nguyên tử trong một khoảng thời gian nhất định được chuyển thuộc quyền chỉ huy của sư đoàn tàu ngầm số 11 hạm đội Biển Bắc. Sau khi trau dồi và trả xong các bài tập cho các vị trí chiến đấu, tàu ngầm nguyên tử đề án 949A thực hiện các chuyến đi xuyên bắc cực dưới lớp băng Bắc Băng Dương từ hạm đội Biển Bắc sang hạm đội Thái Bình Dương. Phần lớn các chuyến đi xuyên đại dương băng tuyết này được thực hiện bởi các thủy thủ đoàn hạm đội Biển Bắc, sau đó thường họ chuyển sang phục vụ trong đội ngũ của sư đoàn tàu ngầm số 10 hạm đội Thái Bình Dương. Chuyến đi chuyển đội hình của K-150 "Tomsk" được thực hiện bởi một thủy thủ đoàn tàu ngầm hạm đội Thái Bình Dương (K-442 "Tcheliabinsk").
"Antei" đầu tiên gia nhập đội hình sư đoàn ngày 21 tháng 9 năm 1990 là K-132 đề án 949A. Sau khi hoàn thành chuyến đi xuyên cực bắc, con tàu dưới sự chỉ huy của đại tá hải quân S.M.Karialainen đã tới trú đóng tại Kamchatka. Năm 1991, biên đội K-173 và K-442 đã tới căn cứ cơ bản. Năm 1993, sư đoàn được bổ sung thêm K-456, còn năm 1994 - bổ sung tàu ngầm nguyên tử K-186 "Omsk". Sau đó đến một khoảng gián đoạn 4 năm.
Năm 1998, tàu ngầm nguyên tử K-150 "Tomsk" đến Kamchatka , trở thành con tàu cuối cùng thuộc đề án 949A, được đóng tại SevMash, cũng là con tàu cuối cùng gia nhập đội hình sư đoàn tàu ngầm số 10.
Cùng với việc có mặt các tàu ngầm nguyên tử đề án 949A chiến thuật sử dụng lực lượng của sư đoàn tàu ngầm số 10 cũng phải thay đổi dần. Về thực chất, tàu ngầm nguyên tử đề án 949A giờ đây được sử dụng như lực lượng đột kích chủ yếu, còn tàu ngầm nguyên tử đề án 671RTM - giữ vai trò tàu trinh sát - tấn công. Nhiệm vụ giáng đòn tấn công vào các nhóm tàu mặt nước (của đối phương) do tàu ngầm nguyên tử đề án 949A thực hiện về cơ bản là theo chỉ thị mục tiêu tiếp nhận từ tàu ngầm nguyên tử đề án 671RTM, từ máy bay trinh sát hoặc từ các vệ tinh trinh sát. Sau khi chuyển giao thông tin chỉ thỉ mục tiêu, trong những điều kiện chiến đấu thực tính ổn định tác chiến của tàu ngầm nguyên tử đề án 671RTM giảm xuống. Cùng với điều đó, việc hoàn chỉnh phương pháp tác chiến của lực lượng đột kích sư đoàn tàu ngầm số 10 trong quan hệ hợp đồng với các lực lượng binh chủng khác của hạm đội (cùng với sự tham chiến của tập đoàn quân không quân thuộc Bộ Tổng tư lệnh tối cao), vẫn còn tiếp tục đến giữa những năm 199x.
Năm 1998, sư đoàn tàu ngầm số 45 hạm đội Thái Bình Dương giải tán. Liên quan đến việc, theo quyết định của Bộ Tổng tham mưu Hải quân Nga, toàn bộ các tàu ngầm nguyên tử đề án 671RTM được rút khỏi biên chế hạm đội (biên chế chiến đấu), đã có quyết định tiếp nhận tàu ngầm nguyên tử đề án 971 («Щу́ка-Б») vào đội hình sư đoàn tàu ngầm số 10. Tính đến các tàu ngầm lại mới tới trong đội hình đơn vị, đã diễn ra sự biên chế lại tổ chức các nhóm tàu ngầm đột kích để hoạt động chống nhóm tàu sân bay xung kích của kẻ thù tiềm tàng. Khả năng tiến hành các chiến dịch chống ngầm đã được mở rộng đáng kể.
.....
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Năm, 2011, 03:43:07 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #352 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2011, 06:41:57 pm »

(tiếp)

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu (tại sư đoàn 38) và nghỉ phép xong, thủy thủ đoàn 379 chúng tôi tiếp nhận tàu ngầm "K-313", đưa nó lên dok sửa chữa tại Nhà máy sửa chữa tàu biển số 49.....
Trong thời gian phục vụ tại sư đoàn 10, chúng tôi đã gặp lại tất cả các tàu ngầm đề án 670 từ sư đoàn tàu ngầm 11 hạm đội Biển Bắc chuyển sang.....
Đơn vị chúng tôi trong những năm đó phải thực hiện nhiều nhiệm vụ phức tạp nhưng thú vị. Ví dụ, tàu ngầm nguyên tử "K-43" cùng với thủy thủ đoàn huấn luyện do trung tá hải quân Terenov Aleksandr Ivanovitch chỉ huy trong năm 1988 mà nhà nước chúng ta đã chuyển giao cho Hải quân Ấn Độ thuê và năm 1991 chúng tôi đã tiếp nhận lại nó.
Năm 1988, trước khi đi học theo định kỳ tại Học viện Hải quân, chuẩn đô đốc Komaritsyn A.A. tư lệnh sư đoàn 10 gọi tôi và đại tá hải quân Kulish V.P. tới và đề nghị tôi  chức vụ phó sư đoàn trưởng sư đoàn 42 mới thành lập, còn đại tá hải quân Kulish V.P. - phó sư đoàn trưởng sư đoàn 10, (sau đó anh ấy được bổ nhiệm tham mưu trưởng sư đoàn 10). Chúng tôi đã đồng ý.  
Như thế là sau khi nhận quyết định bổ nhiệm phó sư đoàn trưởng sư đoàn 42, tôi đã kết thúc thời gian phục vụ tại sư đoàn 10 đã trở thành thân thương với tôi. Nhưng với những người bạn và đồng đội sư đoàn 10, tôi vẫn chưa chia tay, bởi vì tất cả các tàu ngầm nguyên tử đề án 675MK và một phần tàu ngầm nguyên tử đề án 670 được chuyển từ sư đoàn 10 sang sư đoàn 42, còn doanh trại và ban tham mưu của chúng tôi đóng kề bên nhau. Chúng tôi thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau, lúc là các đội hình đi công tác biệt phái, lúc thì các phụ tùng và các phương tiện vật chất dự trữ (ЗИП), và tham gia vào các cuộc tập trận chung.
Trong thời gian phục vụ trên cương vị phó sư đoàn trưởng sư đoàn 42, tại một cuộc họp đảng theo thường lệ, Ủy viên Hội đồng Quân sự chuẩn đô đốc Rodionov đã phê bình tôi vì phổ biến những tin đồn không hay về Tổng bí thư Gorbachev và vợ là Raisa (tin mà Temnov V.P nghe các đồng sự tại Hạm đội Biển Đen cùng học ở học viện nói về nhà nghỉ Forosh). Nhưng trong tâm, thực ra ông ấy đứng về phía tôi và một lần trong cơn tức giận về cái phong trào cải tổ kiểu thế này, ông đã nói với tôi rằng tất cả sẽ chấm dứt bằng chủ nghĩa tư bản, tất cả chúng tôi sẽ phải trả tiền cho việc học của con cái, trả tiền chữa bệnh, trả tiền nghỉ ngơi trong nhà an dưỡng và tóm lại là phải trả tiền tất thảy.
Ông ấy đã hoàn toàn đúng. Ngày hôm nay hạm đội của chúng ta - đang trong trạng thái bảo quản, chúng tôi thì phải trả tiền cho mọi thứ, còn Tổng tư lệnh tối cao và Bộ trưởng Quốc phòng thì hát mãi những bài hát hay ho về sự sẵn sàng chiến đấu cao nhất của chúng ta, về những thứ vũ khí hùng mạnh nào đó, cả về sự cải tổ lực lượng vũ trang của chúng ta.


Thủ tướng Ấn Độ Radziv Gandhi lên thăm "K-43" ("Chakra") khi tàu đỗ tại cảng căn cứ Visakkhalatnama ngày 3 tháng 2 năm 1988 cùng Bộ trưởng Quốc phòng và Tham mưu trưởng Hải quân Ấn Độ, Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền Đông Hải quân Ấn Độ cùng 2 cận vệ. Tàu ngầm lặn xuống, các vị khách quan sát mặt biển qua kính tiềm vọng, đi thăm các khoang và được mời dự bữa chiêu đãi trọng thể tại cabin sinh hoạt tập thể của tàu (кают-компанию). Sau 5 tiếng đồng hồ, con tàu trở về lại nơi đậu. Trên bờ, ra đón tàu có toàn bộ ban lãnh đạo quân đội Ấn Độ, đại sứ Liên Xô, trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô, tại Ấn Độ và một số quan chức khác của cả hai phía, cùng nhiều nhà báo.
........
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Năm, 2011, 10:20:23 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #353 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2011, 09:53:39 pm »

(tiếp)


Năm 1982, tại sư đoàn 10 đã thành lập một thủy thủ đoàn huấn luyện từ những chuyên gia xuất sắc nhất do trung tá hải quân A.I.Terenov chỉ huy nhằm chuyển giao cho Ấn Độ thuê tàu ngầm K-43 đề án 670. Một trung tâm đào tạo đặc biệt được dựng lên trong vịnh Uliss để huấn luyện thủy thủ đoàn Ấn Độ. Ngày 5 tháng 1 năm 1989, một buổi lễ trọng thể được tổ chức để bàn giao con tàu cho phía Ấn Độ và con tàu được mang tên và số hiệu mới S-71 "Chakra".

Vào cuối năm 1990, hợp đồng cho Ấn Độ thuê sử dụng tàu ngầm "K-43" của chúng ta mà người Ấn gọi là "Chakra", dịch ra có nghĩa là bánh xe quay vĩnh cửu, đã kết thúc. Cuối tháng 12 năm 1990, tôi cùng thủy thủ đoàn của trung tá hải quân Arzamazov Piot đi tiếp nhận lại con tàu từ thủy thủ đoàn Ấn Độ. Tàu ngầm "Chakra" đã về tới vịnh Malyi Uliss thành phố Vladivostok ngay trước năm mới 1991.
Tàu ngầm ở trong tình trạng tốt, sạch sẽ, thực tế là tất cả các cơ chế tự động của tàu đều làm việc không thể chê vào đâu được. Khi thủy thủ đoàn tàu ngầm của Hải quân Ấn Độ rời tàu, một số người đã khóc và cầu nguyện cho con tàu. Con tàu đối với họ bây giờ thân thiết như ruột thịt. Họ cám ơn Tổ quốc chúng ta vì con tàu đáng tin cậy và mạnh mẽ tuyệt vời. Trong lúc trò chuyện với ban chỉ huy thủy thủ đoàn Ấn Độ, họ bày tỏ mong muốn thuê của chúng tôi tàu ngầm thế hệ thứ ba đề án 971. Chúng tôi nói với họ rằng điều này là không thực tế, và chính phủ của chúng tôi sẽ không làm vậy, vì đây là tàu ngầm nguyên tử đa mục tiêu tốt nhất ngày nay của chúng tôi, không hề thua kém tàu ngầm hạt nhân Mỹ loại "Los Angeles".
Nhưng rồi 14 năm sau, sự kiện này cũng đã diễn ra. Từ năm 2004, tại Trung tâm đào tạo Hải quân Nga ở thành phố Sosnovyi Bor, chúng tôi bắt đầu huấn luyện thủy thủ đoàn thứ 2 của Hải quân Ấn Độ để chuyển giao cho họ thuê một trong những tàu ngầm nguyên tử đề án 971 đang trong biên chế.
Tôi cùng thủy thủ đoàn của Arzamazov đã đưa con tàu "Chakra", tức K-43 , về Kamchatka gia nhập đội hình sư đoàn 42 an toàn. Chúng tôi báo cáo Bộ chỉ huy phân hạm đội về tình trạng rất tốt của tàu ngầm nguyên tử và đề nghị sử dụng nó trong biên chế huấn luyện chiến đấu của sư đoàn 10 và sư đoàn 42, nhưng Bộ chỉ huy Hạm đội và phân hạm đội đã đưa tàu vào "bảo quản" và sau đó nó đã bị loại bỏ khỏi biên chế. Lý do - không tin vào tình trạng của tàu ngầm nguyên tử sau khi đã cho Hải quân Ấn Độ thuê. Rất không may là chúng ta "mất" một tàu ngầm rất tốt và rất đáng tin cậy, đó là ý kiến của cá nhân tôi.


S-71 "Chakra" của hải quân Ấn Độ trong một cuộc tập trận chung năm 1989 tại biển Adaman.
........
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Năm, 2011, 02:12:03 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #354 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2011, 01:53:17 am »

(tiếp)

Tôi vẫn còn nhớ và muốn nói một vài lời về thủy thủ đoàn trở về của chúng tôi do đại tá hải quân Terenov Alexandr Ivanovitch lãnh đạo, người bảo hộ và dạy thủy thủ đoàn Ấn Độ. Họ cũng về đến Vladivostok với gia đình mình bằng máy bay. Đã kết thúc năm 1990, năm cao điểm của cuộc cải tổ, được gọi là "Thời đại Mịt Mù". Và họ từ thủ đô khá bình yên của đất nước Ấn Độ, nơi họ không có vấn đề gì về nhà ở, hoặc sự lựa chọn thực phẩm, nơi họ có sự hài lòng về tiền bạc và nhiều vấn đề khác, bây giờ lại phải về Vladivostok đang trong mùa đông lạnh buốt, nơi đang có những cơn gió băng giá lồng lộn, nơi mà họ không mong đợi. Và họ đã gặp phải những vấn đề phức tạp: không nhà, không có tiền lương, thiếu lương thực ở Vladivostok, trẻ em phải sắp xếp đến trường học, cần đăng ký, tìm kiếm việc làm, v.v... Một số gia đình đã bị sốc, một số đã khóc lóc, 2 chuẩn úy hải quân thậm chí còn muốn chuyển sang quốc tịch Ấn Độ và trở lại với thủy thủ đoàn "Chakra" ở Ấn Độ. Rồi mọi việc kết thúc thế nào, tôi cũng không biết, chúng tôi đã về đến Kamchatka.

Đã là giữa năm 1991. Quân đội và Hải quân đã dần dần mất khả năng chiến đấu của mình, mặc cho mọi nỗ lực của Bộ chỉ huy và đội ngũ thành viên các tàu ngầm. Không đủ khả năng tài chính để duy trì sự sẵn sàng chiến đấu của những con tàu, thỉnh thoảng những chiếc tàu ngầm, ra khơi để kiểm tra xếp hạng vào tuyến sẵn sàng chiến đấu, không thể lặn được vì các cơ cấu không còn làm việc đúng nữa và phải quay về căn cứ. Nhưng tự lừa dối chính mình, chúng tôi vẫn bảo vệ sự phê chuẩn vào tuyến của thủy thủ đoàn. Bắt đầu có vấn đề trong mọi hình thức đảm bảo cho các tàu ngầm, đặc biệt là việc trả lương cho thủy thủ đoàn. Rất nhiều người đã trải qua khi ấy giai đoạn bắt đầu "phá sản" của hạm đội. Tôi cũng không còn giữ được bình tĩnh nữa khi mà người chỉ huy sư đoàn mạnh mẽ và cứng cỏi chuẩn đô đốc Valuev V.P. chuyển đi học tập ở Học viện Bộ Tổng Tham mưu. Đến thay thế ông là đại tá hải quân Konev. Trong cuộc nói chuyện với tôi, Valuev Vladimir Prokopievitch khuyên tôi ở lại hạm đội và phấn đấu tiếp tục trên con đường sự nghiệp tại đây để trở thành chỉ huy sư đoàn. Tôi đã suy nghĩ hồi lâu về đề nghị của ông, nhưng rồi sau cùng, trên cơ sở những gì đã nếm trải vì tình trạng các tàu ngầm của sư đoàn, về những vấn đề con người khác nữa và quyết định rằng mình cần phải thoát ra về một nơi nào đó. Bởi vậy, tôi đề nghị chuyển tôi về Trung tâm đào tạo Hải quân tại thành phố Opninsk, nơi tôi rất thích tập thể ở đó và quan điểm của họ trong đào tạo và huấn luyện các thủy thủ đoàn tàu ngầm nguyên tử. Đồng thời bố mẹ tôi cũng ở không xa nơi đó lắm, tại Nizny Novgorod. Bộ chỉ huy đồng ý với tôi và chuyển tôi đến Trung tâm đào tạo, nhưng không phải ở Opninsk mà là Trung tâm đào tạo tại thành phố Sosnovyi Bor.  
Đến đây, đời phục vụ trên các con tàu ngầm của tôi đã chấm dứt.
Ngày 24 tháng 8 năm 1991, khi ở Moskva đang diễn ra các sự kiện liên quan đến UBNN về tình trạng khẩn cấp GKTCHP, tôi và gia đình rời khỏi mảnh đất Kamchatka yêu dấu của chúng tôi, chia tay trong buồn bã với những chiến sỹ tàu ngầm tuyệt vời của phân hạm đội số 2, sư đoàn 10 và sư đoàn 42, chia tay những cư dân tốt bụng và giản dị của thị trấn Rybatchii.
Khi chúng tôi bay trên máy bay, qua ánh sáng đèn chiếu có thể thấy những ngọn núi lửa đang bốc khói của Kamchatka, những dòng sông đầy cá, những khu rừng giàu có các loài thực vật và thú hoang dã...Chung cuộc, tôi muốn nói rằng thiên nhiên Kamchatka "đau khổ" vì tính chất khổng lồ. Trong những cánh rừng và trên những cánh đồng của nó, có những loại cỏ mà tầm vóc bằng với tầm vóc con người. Những cây nấm ở đây cũng có kích thước to lớn hơn hẳn ở miền Trung Nga. Những cây thanh lương trà đỏ cho những trái lớn đủ mùi chua-ngọt để chúng tôi làm ra rượu vang và mứt. Những con cá bơn (палтус) cũng có kích thước lớn hơn hẳn nếu so với những con cá cùng loại ở biển Barentsev.....  
Vĩnh biệt Kamchatka, miền đất kỳ diệu, còn rất nhiều điều có thể kể mãi về nơi đó, nhưng dẫu sao, chúng tôi vẫn bay đi Moskva.

Tôi đưa cả gia đình đến Trung tâm đào tạo Hải quân ở thành phố Sosnovyi Bor vào ngày 4 tháng 9 năm 1991. Tôi tiếp nhận công việc của mình và nhận chức trưởng ban 16, ban huấn luyện thực hành.
Dưới quyền quản lý của tôi có toàn bộ các tổ hợp thiết bị tập luyện, tại đó sẽ giảng dạy các bài tập chiến đấu trên chiến hạm cho tất cả các kíp thủy thủ tàu ngầm nguyên tử và huấn luyện các khẩu đội chiến đấu trên hạm (корабельных боевых расчетов - КБР).
Thiết bị tập luyện cơ bản lúc bấy giờ là tổ hợp tập luyện "Maiak" ("Hải Đăng") độc nhất vô nhị, bố trí trong một buồng-khoang, lặp lại 100% khoang số 3 của tàu ngầm nguyên tử đề án 705, nơi bố trí Sở chỉ huy Trung tâm (trên tàu) và là nơi tiến hành huấn luyện giữa đợt hành quân cho các thủy thủ đoàn tàu ngầm nguyên tử đề án này.


 
Trung tâm huấn luyện thành phố Sosnovyi Bor - con đẻ của Tổng tư lệnh Hải quân Xô Viết Gorshkov S.G. Nó được thiết kế để huấn luyện các thủy thủ đoàn của tàu ngầm nguyên tử đề án 705 độc nhất vô nhị của chúng ta. Đó là tàu ngầm nguyên tử nhanh nhất (Vmax = 42 hải lý), và cũng có kích thước nhỏ nhất trên thế giới. Tàu được tự động hóa cao, thủy thủ đoàn 29 người đều là sỹ quan, có lò phản ứng hạt nhân cũng độc nhất vô nhị, với chu trình 1 có vật tải là kim loại lỏng (ЖМТ, жидко-металлическим носителем 1-го контура), có vỏ bền bằng titan. Trên biển, không ai có thể tránh hay thoát khỏi (sự đeo bám của) nó, điều đó là vô ích. Thuyền trưởng các tàu ngầm và tàu mặt nước của kẻ thù tiềm năng rất sợ gặp nó trên biển. Nó có thể tấn công chúng, sử dụng phẩm chất tốc độ cao và phẩm chất cơ động linh hoạt của mình để "tránh thoát" không chỉ các con tàu đối phương mà còn cả ngư lôi của chúng. Người ta gọi nó là tàu ngầm nguyên tử của thế kỷ 21, bởi vì tất cả những giải pháp kết cấu và vũ khí của đề án này đã xác định sức sống của chính nó và ngày nay người ta đang áp dụng các giải pháp đó trên tàu ngầm nguyên tử thế hệ thứ 4. Tàu ngầm đề án 705 được tiếp nhận vào biên chế vũ khí đầu những năm 197x, nhưng phục vụ không lâu thì đã đưa vào bảo quản, sau đó loại khỏi biên chế những năm 199x..





Thiết bị ngư lôi khí ép thủy lực, đảm bảo cho tàu ngầm đề án 705 có thể bắn ngư lôi ở tất cả các dải chiều sâu lặn của tàu.

Sau khi được đưa vào biên chế vũ khí, tàu ngầm nguyên tử thế hệ 3 đề án 971, việc huấn luyện các thủy thủ đoàn của đề án này được tổ chức trong các bức tường Trung tâm Đào tạo của chúng tôi. Một căn cứ cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc Trung tâm Đào tạo dành riêng cho loại tàu ngầm nguyên tử này đã được dựng lên. Các tổ hợp thiết bị huấn luyện độc nhất vô nhị mới như "Diana-Bars", "Paltus", "Sosna" và những tổ hợp khác được xây dựng nên, nhưng buồng-khoang tàu ngầm nguyên tử đề án 705 vẫn tiếp tục được sử dụng để huấn luyện các khẩu đội chiến đấu trên hạm của tàu ngầm nguyên tử thế hệ 3 khoa mục sử dụng vũ khí ngư lôi (КБР-Т). Sau này khi đã khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên của mình, nó trở thành viện bảo tàng tàu ngầm đề án 705. Ngày nay các học sinh và người lớn thích hit thở không khí tàu ngầm đến đây để xem những chiến sỹ tàu ngầm hiện đại sống và phục vụ thế nào.

PS: Năm 2004, đại tá hải quân Temnov V.P, nghỉ hưu nhưng còn ở lại tiếp tục giảng dạy. Năm 2009 do bị nghi ngờ chuyển giao bí mật quân sự cho thủy thủ đoàn Ấn Độ học tập tại Trung tâm Đào tạo trên đề án tàu ngầm 971 trước khi chuyển giao cho thuê tàu, ông đã bị sa thải dù An ninh Nga không phát hiện được bằng chứng thực sự.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Năm, 2011, 10:54:02 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #355 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2011, 02:53:59 am »

(tiếp theo trang 23)

Mig tại Cam Ranh

Tạp chí "Hàng không và Thời đại" («Авиация и Время») 2010 №4 (114) và 2010 №5 (115)



Thiếu tá về hưu Mikhelevitch Igor Evghenevitch. Tốt nghiệp Trường Không quân Riga mang tên Yakov Alknis năm 1981. Phục vụ từ 1981 đến 1994 tại trung đoàn tiêm kích 821, tại đây trải qua con đường từ một kỹ thuật viên máy bay lên đến Trưởng bộ phận Khai thác Kỹ thuật của trung đoàn (ТЭЧ).Từ 1984 đến 1987 phục vụ tại trung đoàn không quân Cận vệ hỗn hợp độc lập 169 ở căn cứ Cam Ranh trong cương vị trưởng nhóm công tác bảo trì và quy chế về máy bay và động cơ. Được thưởng nhiều huân huy chương. Hiện nay là Tổng biên tập một nhà xuất bản, sống tại thành phố Kaliningrad.



Vịnh Cam Ranh của Việt Nam và bán đảo cùng tên do vị trí địa lý cực kỳ thuận lợi của mình từ lâu đã thu hút sự chú ý của các nhà quân sự. Trong thế kỷ 19, vịnh do những nhà thực dân người Pháp sử dụng, thời kỳ chiến tranh thế giới thứ 2, các tàu chiến Nhật đã đóng căn cứ tại đây, còn thời kỳ chiến tranh Đông Dương, đây là nơi người Mỹ đặt căn cứ. Họ đã nâng quy mô căn cứ lên rất nhiều, xây dựng một sân bay lớn, sử dụng cho các phi vụ ném bom miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên vào năm 1972, người Mỹ đã bỏ lại Cam Ranh, chuyển giao căn cứ cho phía chế độ Sài Gòn. Sau chiến thắng của miền Bắc trước miền Nam và thống nhất quốc gia, năm 1975 căn cứ đã được đặt dưới sự kiểm soát của Hải quân nước Việt Nam thống nhất (từ 1976 - Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Các nhà quân sự xô viết đã rất nhanh chóng thể hiện sự quan tâm đến căn cứ chiến lược quan trọng này. Vị trí của nó cho phép kiểm soát đường hàng hải từ Thái Bình Dương vào Ấn Độ Dương, trong trường hợp cần  ngăn chặn sự lưu thông của tàu bè vào khu vực này (thực chất là sự di chuyển các tàu chiến của hạm đội 7 Mỹ), cũng như cô lập các căn cứ Mỹ tại Philippin - căn cứ hải quân Subic Bay và căn cứ không quân Clark Field. Ngoài ra việc bố trí trên bán đảo các phương tiện trinh sát và tác chiến điện tử cho phép kiểm soát tình hình quân sự trong các khu vực lân cận mà kẻ thù tiềm tàng hoạt động.
Vào cuối năm 1978, Moskva đã gửi một phái đoàn quân sự đến Việt Nam để xem xét lại cơ sở hạ tầng và tổ chức các cuộc đàm phán sơ bộ về việc sử dụng căn cứ phục vụ lợi ích của Hải quân Liên Xô. Việc chính thức cùng sử dụng chung căn cứ Cam Ranh bởi cả hai Hạm đội Liên Xô và Việt Nam đã được xác nhận bằng Hiệp ước giữa hai chính phủ ký ngày 2 tháng 5 năm 1979. Trong năm 1982, các bên đã ký một nghị định thư bổ sung, cho phép bố trí ở Kam Ranh một binh đoàn tàu chiến chiến dịch - chiến thuật và một trung đoàn không quân hỗn hợp của Hải quân Xô viết
Các máy bay chống ngầm tầm xa Tu-142 và máy bay trinh sát tầm xa Tu-95RtS của Hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu khai thác sân bay cũ của Mỹ từ năm 1981, chúng sau đó nằm trong biên chế phi đội 2 thuộc trung đoàn không quân Cận vệ hỗn hợp độc lập 169 (OGSAP). Kể từ tháng 11 năm 1983, tại Cam Ranh có thêm phi đội 1 đóng quân gồm có các máy bay Tu-16 (các máy bay mang tên lửa chống hạm, máy bay tiếp dầu, gây nhiễu) cũng nằm trong thành phần các lực lượng binh chủng của Hạm đội Thái Bình Dương. Vào cuối năm tiếp theo (tức 1984), trung đoàn được bổ sung phi đội thứ 3 - các máy bay tiêm kích - phi đội mà tác giả của những dòng này đã phục vụ. Để bức tranh thêm đầy đủ cần nói rằng vào năm 1986 trong đội hình phi đội 2- có thêm một tốp trực thăng Mi-14 có nhiệm vụ hoạt động tìm kiếm cứu nạn, và thực hiện một số hoạt động khác nữa. Và trong thành phần trung đoàn 169 còn một máy bay vận tải An-26.


Một máy bay Mi-14PS đang thực hiện bài tập tìm kiếm cứu nạn.


Một Mi-14 PL trong thời gian đo từ tìm kiếm tàu ngầm


Phao thủy âm RGB-NM "Chinara" thường được Mi-14PL và Be-12 sử dụng.


An-26 trên sân đỗ CR.
..........
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Năm, 2011, 08:04:55 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #356 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2011, 03:27:49 pm »

(tiếp)


Mig-23MLD phi đội 3 tại Cam Ranh với vũ khí tên lửa R-24 và R-60.

Phi đội thứ ba thành lập trên cơ sở (lực lượng) của trung đoàn không quân tiêm kích 821 huân chương Suvorov hạng III (sân bay Khvalynka, thành phố Spassk - Khu Dalnyi Primorsky), việc lựa chọn nhân sự được làm rất cẩn thận và đã bắt đầu từ mùa hè năm 1984. Trung đoàn không quân tiêm kích 821 là một trong những trung đoàn ưu tú nhất của lực lượng không quân quân khu Viễn Đông. Cần nói thêm cho đầy đủ rằng đây là đơn vị gần như không có tai nạn hàng không đáng nhớ, số biến cố đã xảy ra trong các phi vụ không đáng kể. Trong quá trình khai thác loại máy bay MiG-23ML / MLD / UB từ 1981-1994 các sự cố xảy ra (2 - do lỗi thiết kế và công nghệ chế tạo, 2 - vì sai sót trong thuật lái) và một hư hỏng (lỗi phi công). Dù trung đoàn không phải cơ sở đào tạo, mà là một đội ngũ trong biên chế thông thường, đang thực hiện nhiệm vụ trực chiến trong hệ thống phòng không của đất nước, nhưng hàng năm đã có đến 20 sinh viên quân sự tốt nghiệp các trường bay đến gia nhập đội hình của trung đoàn, sau một thời gian tương đối ngắn, họ trở thành những phi công nhiều kinh nghiệm. Hàng năm tổng số giờ bay của phi công lên đến (tùy theo năm) 6-8000 giờ. Tình trạng hoạt động tốt về kỹ thuật hàng không, theo lệ thường, không bao giờ dưới 85%.Chỉ huy phi đội mới thành lập là một phi công giàu kinh nghiệm, như người ta thường nói, "phi công do Trời sinh" («пилота от Бога»), là phi đội trưởng phi đội 1 trung đoàn tiêm kích 821 trung tá không quân V. Semerov. Phi đội phó phụ trách kỹ thuật hàng không (IAS) được chỉ định làm kỹ sư hàng không của đơn vị mới - đại úy Grishin - tốt nghiệp trường không quân Riga, là chuyên gia lành nghề và một nhà tổ chức tốt. Đội ngũ bay và khai thác kỹ thuật của trung đoàn cơ sở đã tạo nên đội hình của phi đội. Ngoài ra, trong đội hình phi đội còn bao gồm các quân nhân đến từ các đơn vị đóng quân lân cận (các sân bay Tsentralnaia Uglovaia, Zolotaia Dolina, Sovietskaya Gavan).

Cần lưu ý rằng cấu trúc biên chế của đơn vị mới thành lập này khác biệt đáng kể so với bình thường, và gần với một phi đội độc lập hơn là một phi đội nằm trong đội hình một trung đoàn. Ví dụ, đã hình thành các nhóm quản lý chỉ huy (trưởng đài chỉ huy bay, các sỹ quan tác chiến), trong thành phần phi đội còn bao gồm nhóm bảo trì và bảo dưỡng thường xuyên cũng như định kỳ, nhóm chuẩn bị và huấn luyện sử dụng tên lửa có vị trí riêng. Cuộc sống đã chứng minh tính đúng đắn của biện pháp này. Những nhiệm vụ đa dạng giao cho trung đoàn 169, đặc điểm khai thác các dạng khác nhau của thiết bị bay và phục vụ bay trên mặt đất làm cho nó không thể làm việc trong các định dạng chung thông thường giữa các bộ phận hàng không. Trong phi đội, các hoạt động hàng ngày thực tế không có sự chồng chéo lên nhau, mỗi bộ phận làm việc một cách tự chủ, như ta vẫn nói, theo tổ chức biên chế quy định.

Công tác chuẩn bị và huấn luyện trực tiếp kỹ thuật hàng không, vũ khí, trang thiết bị hỗ trợ mặt đất để chuyển căn cứ bắt đầu vào mùa thu 1984. Trung đoàn tiêm kích 821 ngày đó đang khai thác những chiếc MiG-23ML, một phân đội mới được nhận những chiếc MiG-23MLD hoàn thiện hơn. 12 chiếc Mig 23MLD này được các máy bay IL-76 và An-22 cõng từ căn cứ Shatalovo (tỉnh Smolensk) đến trung đoàn ruột thịt của chúng tôi, cùng hai "Sparka" MiG-23UB mượn (như thường thấy - không hoàn lại). Máy bay chiến đấu được gửi tới Việt Nam theo đường biển. Tại sao không làm điều đó bằng cách chở chúng trong "khoang" máy bay vận tải quân sự (ВТА), tôi không thể nói. Máy bay được tháo rời, đóng gói, chất vào các thùng chứa đặc biệt. Mỗi chiếc "MiG" chứa trong ba container: một container- phần đầu của thân máy bay tính đến sườn khung số 28 (cùng với động cơ), một container khác - phần đuôi, container thứ ba - cánh chính và các cánh ổn định. Container thứ tư dành cho các thiết bị phục vụ mặt đất (thang xếp lên máy bay, dầm dẫn hướng, túi bọc, guốc phanh, v.v...) Trong cùng một container đã kết hợp thành công các phụ tùng và phương tiện tối cần thiết, dự trữ sẵn sàng cho nhiều việc theo tính toán trong cả một năm trú đóng.
Trước khi phái người đi, đại diện "các cơ quan có thẩm quyền" đã hướng dẫn kỹ lưỡng cho những người đi về việc giữ bí mật thời hạn công tác và địa điểm công tác. Địa chỉ hòm thư của nơi phục vụ mới rất ngắn gọn: Moskva - 400, hòm thư dã chiến .... Nói trước một chút, tôi sẽ cho các bạn biết rằng dù hiển nhiên là hệ thống (an ninh) đã cố gắng giữ bí mật, nhưng ngay một ngày sau khi chúng tôi đến nơi, đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" đã thông báo về sự xuất hiện của chúng tôi tại Cam Ranh, còn hơn cả là họ chào mừng.
.........
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Năm, 2011, 02:19:23 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #357 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2011, 12:30:37 am »

(tiếp)

Việc tháo dỡ các máy bay và đóng gói thực hiện chủ yếu bởi lực lượng bảo trì khai thác bay của trung đoàn 821 (bộ phận TECH), với sự tham gia tích cực của tất cả các chuyên viên kỹ thuật khi đó ở trong thành phần nhóm đi công tác, và diễn ra khá đồng đều và nhanh chóng. Thực ra với những chiếc máy bay đầu tiên đã có một chút lúng túng. Nếu tháo dỡ thân máy bay và các bộ phận cánh với các chuyên gia TECH là rất quen thuộc (công việc thường xuyên khi làm công tác quy chế), thì việc tháo một nửa số cánh ổn định với bề ngoài tưởng như đơn giản lúc đầu lại thực sự là một vấn đề. Để thực hiện thao tác này cần phải tháo toàn bộ hai loạt đai ốc thân để giải phóng các gối đỡ trên đó cánh ổn định quay tương đối so với trục. Đôi khi, gối đỡ gốc hơi nghiêng và cánh lái (ổn định) thực sự bị kẹt tại trục trong tư thế được "tháo nửa chùng". Ngoài ra, ban đầu không quen đặc tính này, một số chàng trai thiếu kiên nhẫn hành động theo nguyên tắc "nghĩ gì ở đây được - phải lay cái đã", như vậy chỉ làm tình hình xấu thêm, tạo ra sự cong vênh không hợp lệ. Cuối cùng vấn đề này cũng được tháo gỡ giải quyết khá nhanh chóng, và sau đó các tấm lái đã trượt ra khỏi trục trơn tru nhẹ nhàng giống như được bôi dầu vậy.
Những chiếc tiêm kích đã "đóng hộp" và "phân tán" vào các thùng chứa, vũ khí và tất cả các thiết bị mặt đất (mà loại này rất nhiều) được chuyển đến xếp trên sân ga đường sắt và theo đường này được gửi đến cảng Vladivostok. Đi cùng hàng là đội trưởng cảnh vệ và hai kỹ thuật viên của chúng tôi, hai anh bạn không thể tách rời A.Streltsov và N.Lonshakov. Họ hộ tống trang thiết bị kỹ thuật cả khi trên đường sắt cũng như trên biển, trên tàu chở hàng khô "Amderma". Người ta cho chúng tôi một vài ngày chuẩn bị, thay quân phục hải quân, và ngày 25 tháng 11, đến đón chúng tôi là chiếc máy bay IL-62 "to lớn, đẹp đẽ" thuộc biên chế hàng không hải quân. Một đội máy bay chở khách đường dài cỡ lớn như vậy bảo đảm cho việc quay vòng  đội ngũ thành viên các căn cứ đảm bảo vật chất - kỹ thuật hải quân trên không gian rộng lớn các đại dương của thế giới.Đi tiễn chúng tôi, Bộ tư lệnh Không quân quân khu Viễn Đông nói những lời dặn dò thân thiết và lời chúc may mắn của người cha với những đứa con đi xa. Họ hứa rằng chỉ sang năm thôi sẽ đón chúng tôi "ở đúng chỗ này, đúng giờ này", chuyển công tác cho mọi người đến các quân khu phía Tây và đảm bảo một bước đường sự nghiệp tốt đẹp. Những lời của họ - có lọt tai Chúa hay không... Nhưng trong cuộc sống, mọi thứ đã xảy ra chính xác nhưng là điều ngược lại.

Thế là dưới hình thức các chuyên gia kỹ thuật kinh tế quốc dân, tất cả trong "xi vin dân sự", chúng tôi qua kiểm tra thuế quan và hộ chiếu xuất cảnh tại sân bay Khabarovsk, sau đó bay đến nơi phục vụ mới. Chuyến bay trên vùng biển quốc tế, tầm nhìn thật hiếm có, và mọi người đều muốn ngắm nhìn thật kỹ ánh đèn chiếu sáng quần đảo Nhật Bản. Thực tế, suốt cả chặng hành trình, trải dài gần quần đảo, "con tàu" của chúng tôi luôn được các máy bay tiêm kích thuộc lực lượng phòng vệ Đất nước Mặt trời mọc bay kèm. Và nếu máy bay F-15 còn ở trên một khoảng cách vừa phải thì máy bay "Con Ma" lại xúm đến xếp đội hình dưới cánh bay chúng tôi chỉ cách vài mét. Có lẽ phi hành đoàn IL-62 đã chán ngấy các hàng xóm như vậy, và chiếc phản lực cơ cỡ lớn một lần khẽ "chao cặp cánh". Điều đó là đủ để các hậu duệ các samurai như hòn sỏi lao vút xuống dưới đâu đó cách vài kilomet và không còn xáp lại gần chúng tôi nữa. Sau một thời gian các "chiến sỹ thế giới tự do" của Đài Loan đến thế người Nhật, nhưng chúng hộ tống chúng tôi không lâu, dù cho chúng bay treo trước mũi máy bay chúng tôi.


Cảnh thường diễn ra trên Thái Bình Dương và biển Nhật Bản thời kỳ chiến tranh lạnh. Ba chiếc tiêm kích (F-14A) xếp đội hình kè một chiếc Tu-95RtS.(Tạp chí "Hàng không thế giới" số 12)

Sáng ngày 26 tháng 11, "con tàu" tiếp đất tại Cam Ranh. Ngay lập tức cái nóng và không khí ẩm ùa vào khoang cửa, thế nên trong đầu tôi ập đến ý nghĩ: Ở đây thì thở bằng gì? Thêm nữa chúng tôi đang mặc quần áo mùa đông (khi bay từ Spassk nhiệt độ đang là -25 độ), và mồ hôi từ người chúng tôi, nói thế nào đây, tuôn xuống như mưa. Bộ chỉ huy binh đoàn 17 và ban chỉ huy trung đoàn không quân ra đón chúng tôi. Đáp lời chào mừng của phó đô đốc tư lệnh binh đoàn, chúng tôi theo thói quen bình dị của Không quân chỉ trả lời: "Chúc sức khỏe, đồng chí trung tướng!". Ông bĩu môi, như thể đang rất đau răng. Nhưng nói chung cuộc đón tiếp đã diễn ra rất chân tình và thân mật.


Toàn cảnh sân bay căn cứ Cam Ranh, năm 1981 các thủy thủ xô viết đã thấy sân bay như vậy.
........
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Năm, 2011, 03:19:45 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #358 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2011, 12:42:52 pm »

(tiếp)

Người ta sắp xếp chúng tôi ở trong một ngôi nhà ván lắp ghép theo tiêu chuẩn, được gọi tên (tính đến điều kiện đặc thù địa phương) là bungalow, ban đầu -  4 người trong một phòng. Nhưng cảnh chật chội không kéo dài - những người xây dựng đã nhanh chóng hoàn tất ngôi nhà thứ hai, và chúng tôi được bố trí lại hai người một phòng. Khi máy điều hòa không khí trong phòng hoạt động, điều kiện khá thoải mái, nhưng khi buồng làm việc mất nguồn điện lưới từ máy phát, mà việc này rất hay xảy ra, thì bạn không thể nào ở lại trong đó được.
Ngày hôm sau khi chúng tôi đến nơi, chúng tôi bắt tay vào chuẩn bị địa điểm đóng quân của mình. Phi đội được bố trí cho một sân đỗ máy bay lớn ở đầu đường cất - hạ cánh (VPP). Việc đầu tiên đập vào mắt khi chúng tôi đến sân đỗ máy bay, - chất lượng rất cao của lớp phủ mặt sân bay. Lớp bê tông đúc nhám trong khuôn tại chỗ (không phải dạng tấm đúc sẵn bên ngoài) với các khe nối đổ đầy một hỗn hợp đặc biệt như cao su, ngay cả với cái nóng thế này nó cũng không bị chảy hay biến tính. Như sau này chứng tỏ, kể cả dầu hỏa cũng không làm "tan" nó được. Bạn chắc nhớ đến nhựa đường trong nước ta vào mùa hè thường chảy dính vào đế giày! Những chỗ bê tông sứt mẻ và có vết nứt được lấp đầy bằng một chất gì đó gợi nhớ keo epoxy (rõ ràng không phải do người Việt Nam sửa chữa). Những vết vá này cứ trơ trơ với thời gian không hề bị vỡ hoặc nứt hỏng. Mặc dù sân bay được xây dựng vào đầu những năm 196x (một số chỗ trên mặt sân còn ghi chú ngày đổ bê tông - tháng tám, chín, và cứ thế tiếp tục trong năm 1962) và sau khi người Mỹ rút đi, không còn ai thực sự quan tâm bảo dưỡng nó, nhưng lớp phủ đường băng và đường lăn (RD - рулежек (РД - Рулёжная дорожка)) vẫn đang ở trong tình trạng hoàn hảo.








Mặt đường băng, đường lăn và sân đỗ sân bay Cam Ranh những năm 1965-1966.Phần bê tông và phần ghi sắt (http://travel.webshots.com/photo/2038156380105240299KvpDma#facebook-share)

Sân bay chỉ có một đường băng cất - hạ cánh (CHC),  trong khi đa số các sân bay ở miền Nam Việt Nam do Mỹ xây dựng có hai đường băng. Làn đường băng thứ hai trên sân bay Cam Ranh rõ ràng là không có đủ thời gian để xây dựng. Tuy nhiên, sân bay này thế cũng đã có khả năng hoạt động rất lớn. Đường CHC dài ba km của nó có chiều rộng 60 m. Nằm hẳn về một bên và trên tuyến song song với  nó (đường CHC) là đường lăn chính bằng bê tông  rộng  40 m, và phía bên kia - đường lăn bê tông asphalt có chiều rộng đến 20 mét. Cộng thêm vào đó là vài sân đỗ quy mô lớn nơi đỗ của các máy bay và khí tài hàng không. Sân đậu của những chiếc Tu-16 và Tu-95/142 nói một cách đơn giản là cực lớn và tuyệt vời. Còn sân đỗ của chúng tôi thì khó mà gọi là nhỏ.
Đường lăn bê tông trong quá trình thực hiện các chuyến bay được sử dụng như một làn đường băng dự trữ. Và đây, trong một lần thay phiên chuyến bay, chiếc Tu-16 đang hạ cánh bị một cơn gió mạnh tạt ngang sườn cuốn sang cạnh đường băng, chúi mũi xuống cát. Tại thời điểm này trên không trung đang có một chiếc Tu-95RtS, được lệnh hạ cánh trên đường lăn chính, và phi hành đoàn Tu-95RtS đã dễ dàng chỉnh hướng và hạ cánh an toàn. Chiếc Tu-16 sau đó được phục hồi rồi đưa vào hoạt động: lực lượng kỹ thuật bằng sức  của chính mình đã hoàn toàn thay thế được phần mũi của máy bay.
Trường hợp cần thiết, từ đường lăn chính có thể thực hiện cả việc cất cánh. Đường lăn thứ hai cũng hoàn toàn có thể sử dụng để hạ cánh, ít nhất là bởi các máy bay tiêm kích của chúng tôi. Nói thêm nữa, đường trải bê tông nhựa trên toàn bộ bán đảo cũng ở trong tình trạng gần như hoàn hảo, mặc dù nền dưới hoàn toàn là cát và khí hậu bất lợi. Người ta thật biết làm!
Chúng tôi đến được sân đỗ đã lâu chưa sử dụng và cát đã phủ gần một nửa. Cần phải làm sạch sân đỗ, rào bảo vệ bằng dây thép gai. Ngoài ra, cần chuẩn bị địa điểm thực hiện các công tác quy chế và triển khai các vị trí chuẩn bị tên lửa. Song song với chúng tôi, tổ hợp xây dựng "Zagranspetsstroy" đang khẩn trương làm việc và đã hoàn thành các ngôi nhà cho phi đội và hầm chứa vũ khí đạn dược. Nhìn chung, công việc sẽ hoàn thành đầy đủ trước khi các máy bay được chở đến nơi.
........
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Năm, 2011, 06:19:57 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #359 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2011, 04:39:49 pm »

(tiếp)

Gần cuối tháng mười hai tàu "Amderma" đã đến cập tại cảng Cam Ranh cùng với trang thiết bị kỹ thuật của chúng tôi. Việc dỡ hàng được tổ chức suốt ngày đêm. Ngoài máy bay và vũ khí đạn dược, các thiết bị kỹ thuật chuyên ngành đồng bộ (spetsav-totehnika) chở đến bằng tàu thủy dân sự cho chúng tôi: xe APA (аэродромные подвижные электорагрегаты - xe khởi động điện), xe bơm dầu và các loại xe máy khác.


Xe khởi động APA-5D trên cơ sở xe Ural 4320-10.


Xe bơm dầu cho máy bay ATZ - Топливозаправщик АТЗ-40-5233Н2.


Xe bồn căn cứ Cam Ranh, những năm 199x.

Thật là một điều ngạc nhiên khi chúng tôi thấy cả một khối tài sản không phải là nhỏ của mình lại chiếm một chỗ rất khiêm tốn trong các hầm tàu và trên khoảng boong trống của chiếc tàu chở hàng khổng lồ này (nếu trí nhớ không phản bội tôi, độ choán nước của nó là 35 nghìn tấn). Những chiếc tàu cần cẩu khổng lồ cẩu các container từ bụng con tàu lên một cách rất cẩn thận rồi đặt xuống trên một chiếc xe kéo chuyên dùng được chuẩn bị trước.
Việc bốc dỡ không kéo quá hai ngày đêm, sau đó các container được vận chuyển đến sân  đậu máy bay. Song song với quá trình này là quá trình bắt đầu lắp ráp máy bay. Công việc lắp ráp đã diễn ra như sau. Phần đầu của thân máy bay sau khi mở bao gói được đẩy ra giá từ container, người ta kết nối hệ thống thủy lực với nguồn áp lực hệ thống mặt đất. Trong buồng lái một kỹ thuật viên nào đó ngồi vào, cần cẩu ô tô sẽ nhấc từng "miếng" thân máy bay từ giá. Sau đó, người ta nối dài thêm khung bệ trên đó có chiếc máy bay đã được hạ xuống. Tiếp theo, phần đầu được kéo đển nơi lắp ráp, tại đó nó được đặt trên các kích thủy lực, được ráp phần đuôi, ghép consol cánh và cánh ổn định.
Việc lắp ráp máy bay mất khá nhiều công sức và thời gian. Ví dụ, trong quá trình bảo dưỡng định kỳ hệ thống ống dẫn (thủy lực), cũng như đường dẫn điện giữa các phần quay của cánh và mặt phẳng trung tâm không tách biệt ra được, còn ở đây tất cả mọi thứ đã được tách và hãm từ cả hai phía.
Các thợ cơ khí, đến căn cứ cùng với chúng tôi, được triệu tập gần như từ khắp cả khu Primorie. Và nếu chúng tôi đã lựa chọn những người tốt nhất vào trung đoàn mình, thì trong các đơn vị khác, tin về việc cử các binh sỹ đi phục vụ biệt phái được người ta chấp nhận như một cơ hội để thoát khỏi những kẻ làm ăn cẩu thả. Trên thực tế họ không biết gì về phần tài liệu, vì thế việc đào tạo tiến hành đồng thời cùng với việc lắp ráp các "máy bay". Và song song với công việc người ta đã "biến" những quân nhân vi phạm kỷ luật quân sự và bất trị trở thành những "chiến sỹ xuất sắc cả về quân sự và chính trị". Bằng cách này, các chú chàng có vấn đề nhất thì đến cuối năm đồn trú đầu tiên đã thực sự trở thành chuyên gia trong lĩnh vực của họ tại phi đội của chúng tôi, các em đã được nhận quân hàm trung sỹ, mà có lẽ với lòng biết ơn, các em vẫn còn nhớ đến thời kỳ phục vụ ấy. Các thủy thủ thay thế họ đến từ các trường đào tạo chuyên gia sơ cấp của hạm đội. Đó là một món quà thực sự cho chúng tôi. Được đào tạo trong các điều kiện kỹ thuật chuẩn mực, họ nhanh chóng làm chủ được các thiết bị hàng không mới mẻ với họ, và các vấn đề kỷ luật nghiêm trọng không xảy ra. Nhìn chung, các thợ cơ khí của chúng tôi đã để lại cho tôi những kỷ niệm rất tốt, nhiều người tôi vẫn còn nhớ tên và họ. Những chàng trai này đã phục vụ, có thể nói như vậy, theo đúng lương tâm.

Nhưng chúng ta hãy trở lại vấn đề máy bay. Để thực hiện công việc lắp ráp đã tổ chức hai đội nhân viên kỹ thuật, giữa họ đã phát động một cuộc thi đua chân chính. Nếu như bạn lắp ráp những chiếc máy bay đầu tiên mất gần hai ngày (với 12 giờ làm việc một ngày), thì sau đó ở giai đoạn lắp ráp cuối, các đội đã "xuất xưởng" hai máy bay tiêm kích sẵn sàng chiến đấu trong một ngày.
Việc lắp ráp máy bay và thử nghiệm các hệ thống làm việc của chúng chiếm mất hai tuần lễ. Đồng thời tất cả mọi người đều lãng quên "giờ nhiệt đới" (từ 12 đến 15 giờ được khuyên không nên ở ngoài nắng vì bức xạ mạnh của mặt trời, mà kể cả lúc bình thường cũng không thể gọi là thấp). Ở khắp mọi chỗ không ai quan tâm đến ánh mặt trời đang thiêu đốt và nhiệt lượng cao đang tỏa ra (từ kim loại bị hun nóng). Mọi người chỉ quan tâm một vấn đề - nhanh chóng đưa máy bay vào hoạt động và bước vào các chuyến bay để tìm hiểu và làm chủ khu vực này, rồi chuyển sang trực ban sẵn sàng chiến đấu.
.....
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Năm, 2011, 08:30:20 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM