Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 05:22:37 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Căn cứ quân sự Cam Ranh  (Đọc 531485 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #580 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2011, 09:52:30 pm »

(tiếp)

Chẳng bao lâu chúng tôi được lệnh trở về căn cứ. Mỗi tàu ngầm được chỉ định một hành trình. Tôi đưa hành trình lên tấm bản đồ tác chiến của mình và chợt phát hiện ra cả hai tàu ngầm đi cùng một thời gian trên cùng một chiều sâu qua điểm kiểm tra. Tôi kiểm tra những bức điện nhận được theo một kênh khác - cũng như vậy. Tôi gửi một bức điện thông báo sự việc vào địa chỉ Tham mưu trưởng hạm đội. Sau 2 giờ tại địa chỉ một trong hai tàu ngầm đã nhận được một bức điện thay đổi hành trình. Sau một lúc nữa có một bức điện ký tên Tổng tư lệnh Hải quân Xô Viết gửi tới địa chỉ của tôi chỉ dẫn hành trình thay đổi của tàu ngầm của tôi. Tôi được lệnh đi lối eo biển Amtchik vào biển Bering, vượt từ hướng đông-bắc và theo một đường cong thoải, vòng qua phía bắc đảo Pribylov, qua eo biển Kamchatka đi ra Thái Bình Dương. Hải trình này rất khó vì độ sâu biển ở phía đông-bắc và phía nam đảo Pribylov khá nhỏ. Chúng tôi đã trở về căn cứ, phúc trình về chuyến hành quân và im lặng.



Eo biển hẹp Amtchik trong quần đảo Aleutian giữa các đảo Delaroff và các đảo Rat.

Vị trí đảo Pribylov tại Alaska.

Chúng ta hãy đọc tiếp xem đô đốc hạm đội CHERNAVIN V.N. nói gì: «…Các thuyền trưởng tàu ngầm được tặng thưởng huân chương Cờ Đỏ. Các sỹ quan và hạ sỹ quan khác cũng nhận được phần thưởng của chính phủ vì đã tỏ rõ sự xuất sắc trong chuyến đi biển căng thẳng 3 tháng này » - đó là những lời nói về các thủy thủ tàu ngầm Hạm đội Biển Bắc, sau khi hoàn thành chiến dịch «Аtrina» năm 1987.

Còn tại Hạm đội Thái Bình Dương – không một người nào được thưởng, thậm chí không cả lời cảm ơn. Thực ra, Igor Ivanovitch GORDEEV đã cố gắng đề đạt lên trên, nhưng Ủy viên Hội đồng Quân sự, vẫn con người đó, đã cắt cánh của ông.

GОRDEEV: «Đến tận bây giờ trong tai tôi vẫn còn vang lên những lời nói xúc phạm những con người đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu một cách dũng cảm quên mình, những lời nói ra từ miệng Uỷ viên Hội đồng Quân sự phân hạm đội tại cuộc họp mở rộng Hội đồng Quân sự: «…họ đã đến đấy, dùi lỗ để đeo huân chương, họ cứ thế mà đi, rung rung lắc lắc những cái bụng, các anh xem có tìm được anh hùng không…».


Bức tranh nhận được thật thú vị. Ý tưởng hình thành từ Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc cuối những năm 197x, đầu những năm 198x các thủy binh Thái Bình Dương thực hiện, còn tất cả vòng nguyệt quế thì thuộc về các thủy binh Biển Bắc. Ngoài ra, cho đến tận bây giờ, về các chiến dịch của Hạm đội Thái Bình Dương như «Gió tươi», khúc dạo đầu cho chiến dịch «Chim sơn tước lông dài», cũng như  «Аport» đối với «Аtrina», người ta không hề nói một lời nào. Các độc giả hãy hiểu tôi, không phải là tôi ghen tỵ, mà là tôi muốn sự công bằng. Tôi, với tư cách một thủy thủ tàu ngầm, hiểu rất rõ rằng, сác thuyền trưởng vấp phải vấn đề thế nào – các thủy binh Biển Bắc. Đương nhiên, phần thưởng của họ là xứng đáng, nhưng câu chuyện không nói về điều đó. Phải chăng Tổng tư lệnh không thể nào bất công như vậy đối với mọi người. Tất cả chúng ta cùng phục vụ một sự nghiệp. Để khẳng định điều đã nói, tôi dẫn ra chỉ một ví dụ quá rõ ràng. Khi hành quân chuyển căn cứ cho các tàu ngầm, những tàu đã cũ, từ Hạm đội Biển Bắc sang Hạm đội Thái Bình Dương 90% các thuyền trưởng tàu ngầm và không chỉ các thuyền trưởng tàu ngầm đều được phong danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô Viết. Còn vào thời kỳ 1981- 1983, khi có 3 tàu ngầm mới nhất hành quân chuyển cứ từ đội hình sư đoàn 45 sang Hạm đội Biển Bắc, chỉ có một thuyền trưởng được thưởng huân chương Lê nin. Đồng thời tư lệnh sư đoàn 45 ЕRОFЕЕV và GОRDЕЕV là sỹ quan chỉ huy cao cấp trên chuyến hành quân một lần, còn sư đoàn phó phụ trách cơ điện hàng hải của họ đại tá hải quân LYSHENКО -  thực hiện 3 chuyến hành quân tương tự mà chẳng có phần thưởng nào, như thể ông ta đi du lịch trên tàu thủy chở khách. Chúng tôi đã phục vụ như vậy đấy, tất nhiên, không phải vì phần thưởng.

Chúng ta hãy đọc tiếp CHERNAVIN: các phần thưởng « M.S.Gorbachev trao, trong đầu ông ta từ hồi ấy đã nảy nở và đặt ra luận đề về "học thuyết phòng thủ" mới. Nhưng ai trong số những người đang đứng trên boong các tàu ngầm trong những phút huy hoàng đó có thể nghĩ rằng, tất cả những nỗ lực siêu nhân vượt quá sức con người nhằm duy trì cân bằng chiến lược với thế giới phương Tây sẽ được đưa về không bởi nỗ lực ngay từ đầu của những nhà cải cách nhiệt thành, và sau đó chỉ đơn giản là những kẻ phản bội nhân dân ta?» – ở đây tôi gạch đậm dưới từng lời của ông.
Tôi quyết định viết về chiến dịch này bởi vì chưa có ai viết về nó, về những con người xứng đáng để mọi người biết đến họ, còn «Аtrina» đã được nói đến phát ngán rồi.

Vào tháng 9, tôi và GORDEEV chờ điện đến, những bức điện rất quan trọng với chúng tôi – con gái ông ấy và con gái tôi vào đại học. Kết quả thi chúng tôi đang nóng lòng chờ đợi. Nhưng, như chúng tôi đã đoán, chúng tôi không nhận được điện. Tôi hiểu rằng, tại sao người ta không gửi đến cho tôi, nhưng sư đoàn trưởng thì họ có thể gửi chứ – ông ấy ở trên tàu mặt nước. Tôi về nhà và nghĩ, ai sẽ mở cửa đây – vợ hay con gái? Vợ tôi mở cửa, còn tôi đảo mắt tìm con gái, nhưng chỉ thấy con trai. Qua cặp mắt của vợ mà tôi hiểu, con gái đã vào đại học. Cả hai đều cùng vào. Vợ tôi kể cho tôi rằng, họ làm việc với ban chính trị về việc này – người ta hứa hàng núi vàng, nhưng kết cục - chẳng có gì.

Sau khi kết thúc nhiệm vụ trở về, chúng tôi trao tàu cho thủy thủ đoàn khác và đi nghỉ phép. Thời gian này, tư lệnh sư đoàn chuẩn đô đốc GORDEEV И.И. do tình trạng sức khỏe đã ra khỏi danh sách đi biển và nhận nhiệm vụ tại Moskva. Thay ông làm chỉ huy sư đoàn người ta bổ nhiệm đại tá hải quân VОDОVАТОV Viktor Аlekseevitch, nguyên Tham mưu trưởng sư đoàn trước đó. Ông ấy tốt nghiệp sau tôi một khóa tại cùng một Trường Hải quân, tôi biết ông ấy khi còn là sinh viên sỹ quan. Tôi chưa biết ông ta trên thực tế khi là thuyền trưởng thế nào, ông đến đơn vị này trước tôi. Năm 1982 ông ta vào Học viện và khi trở về năm 1984 đã được bổ nhiệm Tham mưu trưởng sư đoàn 45.

   
Sư đoàn trưởng sư đoàn 45 V.A.Vodovatov. Ảnh phải: Nhóm khẩu đội tác chiến trên hạm giành được giải thưởng xạ kích của Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô năm 1986. Hàng ngồi từ trái sang phải: đại úy hải quân SIMONOV V.V., đại úy hải quân PОLUEKТОV Е., trung tá hải quân ТRUSHKIN А.N., tôi, đại úy hải quân CHUVАЕV YU.А., đại úy hải quân RUKHLIADА V.А., hàng đứng: đại úy hải quân PLЕТNIOV А.А., chuẩn úy hải quân КLОTCHКОV А.F., đại úy hải quân АКSIONОV S.B., thượng úy hải quân SТЕPАNTCHENKO S.I., đại úy hải quân GRАDОBОЕV I.А., thiếu tá hải quân КISIL I.S., thượng úy hải quân ТАТКАLО V.V.

Nghỉ phép xong, khi về tôi nhận lại con tàu và rèn luyện qua một khóa huấn luyện chiến đấu theo quy định. Trong một chuyến ra biển, vào lúc gần nửa đêm, VODOVATOV đi vào buồng trung tâm,  và đề nghị tôi cho kiểm tra tổ chức hoạt động có dùng anten «PАRАVАN». Các lý do tôi đưa ra chứng minh không cần làm điều đó không được ông chấp nhận. Dương anten lên, hiệu thính viên báo cáo có tín hiệu và bắt đầu xếp anten vào hầm chứa. Ba lần cố gắng đều không thành công. Qua camera từ xa đằng đuôi tàu có thể thấy rõ phần đuôi tàu ngầm, còn tiếp nữa thì không. Tôi đề nghị với VОDОVАТОV nới cáp kéo về cuối rồi để thế đến sáng mai. Nếu độc giả còn nhớ – tình thế như vậy đã xảy ra năm 1984. Ông ta đồng ý. Một giờ rưỡi sau, ông lại vào buồng trung tâm và đề nghị thử kéo lại một lần nữa. Tại sao con người ta không nhất quán thế nhỉ? Chúng tôi thử lại và …    cáp treo đứt. Vâng, đó không phải là GORDEEV. Tìm kiếm, tất nhiên không cho kết quả tích cực, cuối cùng thì thủy thủ đoàn bị buộc tội không có kỹ năng và tổ chức kém, và nhiều thứ khác nữa. Người ta lại tháo tời, sửa chữa lại, nhưng sau đó kết thúc thế nào tôi cũng chẳng còn nhớ.

Trong toàn bộ năm 1986, thủy thủ đoàn của tôi vô cùng nhàn rỗi – không có kế hoạch thực hiện bất kỳ nhiệm vụ phục vụ chiến đấu nào và mùa hè chúng tôi đi nghỉ phép. Chắc các bạn cũng biết đó là năm xảy ra thảm kịch tại nhà máy điện nguyên tử Chernobyl. Chúng tôi nghĩ rằng ban chính trị gắn một ẩn ý nào đó với sự kiện này. Nhưng không có gì như thế cả. Tôi yêu cầu Vladimir Vasilevitch nói chuyện với các sỹ quan về việc giúp đỡ vật chất cho các nạn nhân thảm họa - bao nhiêu tùy khả năng. Thế mới biết mọi người đang chờ đợi một đề nghị tương tự. Nhưng chủ yếu là toàn bộ thủy thủ đoàn đã tham gia vào công việc này. Sau khi tập hợp số quyên góp, thuyền phó chính trị trao nó cho ban chính trị. Và ở đây bắt đầu.....danh tiếng công tác của ban chính trị.

.......
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Mười Hai, 2011, 09:52:59 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #581 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2011, 01:03:34 am »

(tiếp)


Khi đang làm giấy tờ đi nghỉ phép thì bác sỹ trên tàu ngầm đến chỗ tôi và đề nghị một phiếu an dưỡng kép đi nghỉ ở nhà an dưỡng «Divnоmоrskoie» (Gelendzhik, ở Biển Đen). Vì món xổ số này mà tôi đã sẵn sàng "giết chết" ông thần y của tôi – sao mùa hè không có phiếu nghỉ hai người?. Mùa đông cần gì đến đấy. Nhưng dù sao vẫn đúng là như vậy. Tôi chẳng hiểu gì cả. Tại sao lại có phiếu – đó là một câu chuyện riêng. Về tấm phiếu đi nghỉ tôi đã vỡ lẽ tất, khi chăm chú xem xét nó trong chuyến tàu hỏa «Моskva – Nоvоrоssisk». Trên mặt sau phiếu nghỉ có nét bút chì đã tẩy nhưng còn đọc được. Phiếu nghỉ lúc đầu dành cho phó tư lệnh phụ trách hậu cần phân hạm đội thiếu tướng КRАSАVIN А.I.  Bởi lẽ «ông tướng tác chiến» này sợ đi nghỉ ở vùng có khả năng nhiễm phóng xạ, thì cứ để thuyền trưởng tàu ngầm nguyên tử đi đi, với hắn ta dù sao cũng thế– hắn còn ngủ cạnh hai lò phản ứng nguyên tử cơ mà. Chúng tôi đã đi và nghỉ ngơi rất tuyệt.

Sau khi nghỉ phép về, một bất ngờ không có trong kế hoạch của chúng tôi đó là khẩu đội tác chiến hạm của tôi cần phải đến thành phố Sоsnоvyi Bor để tranh tài giành giải thưởng của Tổng tư lệnh Hải quân giữa Hạm đội Thái Bình Dương và Hạm đội Biển Bắc, về các công tác săn tìm, theo dõi và tấn công SSBN. Bên phía Hạm đội Biển Bắc thi đấu với chúng tôi là khẩu đội tác chiến hạm của trung tá hải quân КОRОPЕTS V.P. Chúng tôi đã đi đến tận nơi, đã thi đấu, đoạt giải và quay về.

Khi trở về từ chuyến công tác biệt phái, chúng tôi tiếp nhận lại con tàu của mình và bắt tay vào huấn luyện chuẩn bị cho chuyến đi làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu kỳ tới. Đầu tháng 12 chúng tôi đi vào vịnh «Моkhovаia» để đo từ trường cho tàu ngầm. Chúng tôi đã đến nơi, đưa tàu lên 3 trụ – trụ đỡ đuôi bên trái không có.



Chúng tôi đo từ trường và phát hiện ra phải quấn lại cuộn dây. Đó là một công việc khổ ải như dưới địa ngục, nhất là làm dưới băng giá và gió mạnh. Tất cả đều làm việc – các sỹ quan, hạ sỹ quan và toàn bộ các quân nhân phục vụ theo thời hạn. Bắt đầu ta phải khởi động xích tải. Xích được quấn vòng, nó được thả xuống nước từ phần mũi tàu bằng cách sao cho tạo thành một vòng đi quanh thân tàu. Sau đó xích được mở ra và nhờ một đai ốc nó được dây cáp xoắn lại giữ một đầu. Một vài người nắm lấy đầu xích thứ hai kéo cáp dưới thân tàu, nối nó thành một vòng, và cứ thế hết vòng này đến vòng kia phủ quanh thân con tàu ngầm từ mũi tàu đến đuôi tàu – đó chính là cuộn dây. Số lượng cuộn dây phụ thuộc độ lớn của từ trường con tàu. Lần này phải đặt nhiều cuộn dây. Sau đó các cuộn dây được nối với nhau theo sơ đồ đã xác định và con tàu chuyên dùng sẽ phóng dòng bù qua cuộn dây. Cái mà các bạn thấy trên tấm hình – đó là một phần nhỏ việc chúng tôi phải làm. Công việc gặp trở ngại bởi tuyết ướt, mặt boong trơn trượt. Phải rắc muối để tuyết tan nhanh. Trên tàu rất lạnh, chẳng có chỗ nào để làm khô quần áo ẩm.

Sau hai giờ một lần lại thay phiên kíp làm trên boong, kíp trước uống trà nóng với bánh nướng và đi ngủ. Cuối cùng nhiên liệu diesel đã cạn, muối và bột mì cũng hết. Việc bổ sung dự trữ được tôi dự định sau khi rời giá khử từ. Chúng tôi tin rằng trường từ của con tàu là bình thường. Tôi trao đổi với trực ban tác chiến phân hạm đội, để anh ta gọi cho tư lệnh sư đoàn, chuyển yêu cầu của tôi xin được giúp đỡ cung cấp bột mì và muối. Một phần nhiên liệu đã được tàu phóng lôi đi gần đó cung cấp cho chúng tôi. Người ta nói rằng sẽ chẳng có vấn đề gì đâu. Chúng tôi nhận được tin báo bão, trực ban tác chiến phân hạm đội Kamchatka yêu cầu tôi cho tàu kéo đến kéo tàu kiểm tra trường vật lý Sarannaia (Саранная СФП - судно контроля физических полей) vào vịnh. Tại phân hạm đội không tìm thấy tàu kéo. Điều này phải mất ít nhất hai ngày. Tôi ở vào tình thế khó khăn. Thiếu mất một trụ, con tàu bọc các cuộn dây giống như một cây Thông Giáng sinh, đứng ngay gần bờ và đang có báo bão. Tôi phải đưa ra quyết định thôi. Tôi liên lạc với trực ban, yêu cầu chấp thuận cho chạy lò phản ứng.

Một giờ sau tôi được mời vào phòng vô tuyến điện. Trên đầu dây kia là Tham mưu trưởng phân hạm đội chuẩn đô đốc ЕRIOМЕNКО А.P. – cháu một nguyên soái. Tôi sẽ không kể chi tiết cuộc nói chuyện, nhưng tất cả bắt đầu bằng những câu chửi tục. Đầu tiên từ việc (tôi kêu ca) tàu không được bổ sung dự trữ vật chất, và kết thúc với lời châm chọc – cậu lại còn đòi chấp thuận chạy lò phản ứng. Tôi lặng lẽ nghe, báo cáo tình hình, đôi lần cũng nhún nhường và cuối cùng nói rằng nếu gió lôi tàu ra khỏi các trụ đỡ quẳng xuống bờ – người có lỗi sẽ là bộ tham mưu phân hạm đội. Các chân vịt đẩy hỗ trợ của tôi sẽ chẳng làm được chuyện gì. Và tôi nhắc trước rằng cuộc nói chuyện của chúng tôi đã được ghi vào băng từ. Sau một giờ nữa tôi nhận được chấp thuận cho chạy thiết bị năng lượng chính. Khi thông báo cho toàn tàu báo động chiến đấu ban 5 và ban hóa để khởi động lò phản ứng – khắp con tàu vang rền tiếng "Ura". Với việc đưa thiết bị vào hoạt động, trên tàu không còn phải hạn chế dự trữ điện năng, nước và, cái chính, sưởi ấm. Gió mỗi giờ càng mạnh lên. Chúng tôi cho hoạt động tuabin (trục truyền động chính) để phân đều tải trọng trên cáp neo. Tổng thể, chúng tôi phải ở trên giá khử từ 2 tuần lễ.

Xin nói vài lời về cái giá này. Nó được bố trí đối diện với một trong các nhà máy cá hộp của thành phố Petropavlovsk. Có một chú hải tượng (Морж -walrus - voi biển (лат. Odobenus rosmarus)) quen sống ở đây. Nó không cần tìm cá - chỉ cần xơi các phế phẩm từ nguồn cá chế biến của nhà máy. Nếu trên giá có một con tàu nào đó, thể nào nó cũng trèo lên boong thượng đằng đuôi nằm sưởi ấm dưới mặt trời. Nó cũng bò lên con tàu ngầm của tôi. Tôi trưng ra đây một tấm ảnh lấy từ internet. Khoảng trên dưới một năm trước trên báo chí đã có thông báo rằng những kẻ cặn bã nào đó đã bắn chết nó. Có lẽ với con người chẳng có gì là thiêng liêng. Con vật như thể một kỳ quan của thành phố.



Một đồ thủ công mỹ nghệ làm khoảng 1940 miêu tả cảnh gấu trắng bắc cực đánh nhau với voi biển, trưng bày tại bảo tàng Magadan, Nga.


Người Eskimo và cặp ngà voi biển.

Đại úy hải quân, chỉ huy nhóm trinh sát vô tuyến điện tử КISIL Ivan Stepanovitch (ảnh dưới) đến gặp tôi đề nghị ký báo cáo cho anh xin chuyển lên làm việc trên căn cứ bờ. Trong chức trách trên hạm anh đã phục vụ hết cả rồi. Tôi không phản đối, nhưng đề nghị anh một phương án khác, dù vẫn ký. Vấn đề ở chỗ mới đây Quân đội Xô Viết đã ra sắc lệnh về phong quân hàm theo niên hạn cho các sỹ quan mà chức vụ chính thức của những sỹ quan đó thấp hơn quân hàm đến hạn. Tôi đã chuẩn bị đề xuất  phong quân hàm đến hạn cho đại úy hải quân КISIL, trong thủy thủ đoàn chỉ có anh ấy phù hợp nhất với sắc lệnh này. Nếu tôi ký đơn cho anh, người ta sẽ trả đề xuất lại cho tôi, bởi lẽ sỹ quan mà lên bờ, nghĩa là, anh ta đến đó mà nhận quân hàm.



Vậy đó. Liên quan đến vấn đề lên sỹ quan cao cấp, chỗ phục vụ mới sẽ tốt hơn nhiều. Về điều đó tôi đã nói với anh. Anh ấy đồng ý với đề nghị của tôi. Chẳng bao lâu, tôi đã trao được cho Ivan Stepanovitch cầu vai quân hàm mới theo niên hạn, và sau vài tháng anh chuyển đến nơi phục vụ mới thuộc phần châu Âu của Liên Xô. Tiếp theo người ta đề nghị anh ấy làm việc tại một cơ quan khác. Anh đồng ý với một điều kiện - vẫn giữ quân phục hải quân. Lãnh đạo cơ quan cực chẳng đã phải đồng ý. Thủy thủ vẫn cứ là thủy thủ, cừ lắm Ivan Stepanovitch!

Тhủy thủ đoàn đã kết thúc năm 1986 như vậy đấy. Sang năm mới chúng tôi vẫn tiếp tục thao luyện các bài tập cho thuần thục và chuẩn bị hành quân. Tháng 2, thủy thủ đoàn thực hành xong bài tập LVD (задач ЛВД - легководолазное дело; легководолаз - scuba [skin ] diver - lặn có khí tài nhẹ, lặn nông có khí tài) tại trung tâm đào tạo của phân hạm đội. Một hôm bỗng có điều gì đó không thể hiểu nổi xảy ra với tôi. Bỗng nhiên tôi chảy nước mắt. Lệ cứ chảy thành 2 hàng mà tôi chẳng sao hiểu được. Thuyền phó chính trị gọi điện cho sư đoàn trưởng. Xe con đến chở tôi về bộ tham mưu.



Ví dú về lặn nhẹ có khí tài. Ảnh trên: Chuẩn bị lặn kiểm tra bánh lái, trung tá Temnov (mặc đồ lặn giữa hình) thuyền trưởng K-313 đề án 670 trên biển Đông, và thiếu tá Yarosh. Tháng 2 năm 1987, ảnh chụp khi K-313 đến thi hành nhiệm vụ trong đội hình sư đoàn tàu ngầm 38, binh đoàn 17 tại Cam Ranh. Ảnh dưới: Lặn nhẹ có khí tài với bộ đồ IPA-1 trang bị cho lực lượng Hải quân của Hồng quân Công nông Liên bang Xô Viết năm 1934.(ảnh từ nguồn: СПАСАТЕЛЬ ВМФ).

Tôi đi vào văn phòng. Trước mặt sư đoàn trưởng và chủ nhiệm chính trị tôi lại bắt đầu chảy nước mắt. Người ta cuống cà kê lên và đưa ngay tôi vào bệnh viện. Tôi được tiêm thuốc gì đó và ngủ thiếp đi. Vào buổi tối, Tham mưu trưởng phân hạm đội, Chuẩn Đô đốc ЕRIOМЕNКО  mang tôi đi và cho xe chở đến khu nghỉ mát Paratunka, nơi Đại tá quân y MARAKULIN đang nghỉ ngơi, ông ấy là bác sỹ trưởng ngành thần kinh của Hải quân. Sau khi nói chuyện với tôi, ông nói rằng không có gì nghiêm trọng - chỉ là suy nhược thần kinh. Cần bay tới Vladivostok nhập bệnh viện hải quân đầu mối chính của hạm đội. Một vài ngày sau, tôi bay đến Vladivostok. Tại khoa thần kinh không còn chỗ. Một tuần liền tôi quay cuồng trong khoa răng hàm mặt. Làm các xét nghiệm, đi đến các bác sĩ, dùng một số thuốc. Tôi nhớ lần đến thăm người đứng đầu khoa tim mạch. Tôi đi vào văn phòng, ngồi sau bàn là một vị đại tá đeo cặp kính gọng lớn và có mái tóc màu xám bạc. Ông trễ kính xuống nhìn lên và hỏi tôi chức vụ gì và ở chức vụ đó bao nhiêu năm rồi. Câu trả lời của tôi: "thuyền trưởng tàu ngầm hạt nhân đã 9 năm". "Và anh vẫn còn sống cơ à?" câu hỏi của ông thật bất ngờ. Điều trị tiếp tục. Việc sẽ gạch tên tôi khỏi danh sách đi biển là không còn nghi ngờ gì nữa. Ngày 12 hoặc 11 tháng ba, cô y tá mời tôi đến văn phòng chủ nhiệm khoa. Trong văn phòng, ngoài ông ấy còn một người đàn ông nữa - thành viên ủy ban bác sỹ quân y. Họ cho tôi lời phán quyết - không thích hợp với việc tiếp tục phục vụ trong quân số thường trực đi biển. Tôi ngẩn người ra. Suy nghĩ ngay lập tức đưa tôi đến Kamchatka và sự vui mừng một cách độc địa của các "đối thủ" của tôi - sợ đi làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu nên đóng vai một kẻ ngốc, nhưng chẳng đạt được điều gì. Còn chủ nhiệm khoa  bắt đầu nói rằng trong quý này họ đã gạch tên 5 thuyền trưởng khỏi danh sách đi biển, và nếu tôi là người thứ 6 thì.... Tôi ra khỏi văn phòng. Bác sĩ của tôi đặt tay lên vai tôi và nói với tôi một cách bình tĩnh: "Đừng lo, thuyền trưởng. Anh sẽ phải quay lại chỗ chúng tôi một vài tháng nữa, và khi đó chúng ta sẽ tính". Sao vậy, lại còn thế nữa! Năm phút sau, tôi được gọi lên một lần nữa. Chủ nhiệm khoa quay về phía tôi, gọi theo tên cha, xin lỗi và nói rằng người ta chỉ vừa mới mang đến cho ông lịch sử bệnh án của tôi trong đó các bác sĩ tim mạch bệnh viện ghi như sau: "theo các Điều số ... mệnh lệnh số ... của Bộ Quốc phòng Liên Xô không thích hợp cho việc phục vụ trong quân số đi biển, không thích hợp làm việc với môi trường có sóng tần số siêu cao (СВЧ). Chỉ thích hợp để phục vụ trong thời bình bên ngoài biên chế".

.......
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Mười Hai, 2011, 12:19:25 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #582 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2011, 09:57:42 pm »

(tiếp)

Tôi bay tới Kamchatka ngày 14 tháng 3. Trời ấm, tuyết tan rất nhanh. Dưới tuyết đầy nước. Tôi đi vào bộ tham mưu sư đoàn. Nửa đường tôi gặp chủ nhiệm chính trị sư đoàn đại tá hải quân GORNOSTAEV YU.N. và giữa chúng tôi diễn ra cuộc đối thoại này:
- Victor Konstantinovitch, xin chào, chúng tôi đang chờ cậu. Nhanh mà đi biển nhé.
- Xin chào Yuri  Nikolaevitch. Tôi sẽ không đi biển nữa đâu - "quá muộn để uống nước khoáng khi không có dạ dày". Tôi đã bị cấm đi biển rồi.
- Cấm khi nào vậy? Sư đoàn trưởng Viktor Alekseevitch, đang ở Vladivostok và người ta cho ông ấy biết rằng cậu vẫn thích hợp để tiếp tục phục vụ.
- Giấy tờ của tôi đã gửi đi Moskva để trình Hội đồng Bác sỹ Quân y Trung ương phê duyệt kết luận của Bệnh viện Hải quân Hạm đội Thái Bình Dương.
Làm thế nào sau đó có thể nói chuyện được với tư lệnh sư đoàn? Đã ở Vladivostok, đã ở trong bệnh viện, thế mà người thuyền trưởng tàu ngầm dưới quyền mình, người đã đóng góp lao động của anh ta cho cầu vai đô đốc trong tương lai cho mình, ông ấy lại không đến thăm anh ta. Phải chăng đó là người sư đoàn trưởng chân chính? Đây không phải là GORDEEV I.I. Ông ấy sẽ không bao giờ cho phép xảy ra một điều như vậy.
Tôi ra biển một ngày trong tháng Sáu. Cần phải xác nhận tính tuyến tính của con tàu. Việc đã xong. Tôi chuyển sang chờ đợi lệnh bổ nhiệm làm giảng viên cao cấp tại Trung tâm Đào tạo Hải quân ở thành phố Obninsk.

Một buổi sáng đầu tháng mười, tôi được gọi lên bộ tham mưu. Container của một sỹ quan được phân căn hộ của tôi đã chuyển đến, lần này là một thuyền trưởng trẻ, và cần phân chia ở mức diện tích tối đa để cậu ta để tài sản của mình. Tư lệnh sư đoàn quyết định tôi phải giải quyết các vấn đề liên quan đến lô hàng chứa trong container sắp chuyển đi của tôi.

Trong văn phòng của Tham Mưu Trưởng, có Tư lệnh sư đoàn và chủ nhiệm chính trị. Chủ nhiệm Chính trị hỏi tôi về hai chuẩn úy của tôi - thủy thủ trưởng, chuẩn úy hải quân KLOTCHKOV Alexandr Fedorovitch và thủy thủ trưởng đội tuabin chuẩn úy hải quân BURMISTROV Yuri Pavlovich. Họ phải ở trên tàu. Và tiếp ngay sau đó ông ta nói với tôi rằng trên tàu không có họ. Theo lệnh của tôi, họ đi đánh cá để lấy cá cho tôi gửi đi cùng với container. Quay lại phía sư đoàn trưởng, ông nói, "mọi thứ đều rõ ràng và không có gì là không thể. Đó người thuyền trưởng "danh giá" của chúng ta là thế đấy". Tôi không thể hiểu ông ta nói đến những con cá nào, cá của ai và gửi đi đâu. Rõ ràng người "kỹ sư của tâm hồn con người" này phán xét theo ý mình. Con người ấy luôn chỉ tìm một cái cớ để buộc tội tôi. Một lần nào đó ông ta từng cố gắng giáo dục tôi, khi thấy hai thủy thủ trên tàu của tôi, mang về nhà cho tôi hai bó gỗ để đun nước nóng. Dự kiến cuộc đi biển không theo kế hoạch sắp xếp, tôi vào khu nồi hơi và hỏi xin người trực hai bó củi. Khi mà tôi còn chưa nói với ngài "kỹ sư" điều này, rằng tôi không có xe ô tô riêng như ông ta có, để người ta chở gỗ về cho ông ta, thì ông ta chưa chịu thôi. Tôi không bao giờ hiểu được những người thủ trưởng, không chịu hiểu một sự thật rằng hành vi của họ, cấp dưới vẫn theo dõi rất chặt chẽ. Ta quay trở lại chuyện hai chuẩn úy hải quân.


Hóa ra sáng nay, vợ của đội trưởng đội turbin gọi điện đến ban tham mưu và cho biết chồng cô ta mất tích. Buổi chiều hôm qua anh ta đi hái nấm và bây giờ chưa trở về. Tôi được mượn một chiếc xe và phải đi tìm kiếm hai cậu chuẩn úy ở nơi nào có thể nghĩ ra. Tất nhiên, họ nghĩ đến sông Viluy. Đi cùng tôi là một sĩ quan. Trên đường đi ông ta nói với tôi cấm tôi tiếp xúc với hai chuẩn úy của tôi. Đó là một người hẹp hòi và thực sự tin rằng sẽ tìm thấy họ đang đi đánh cá. Chỉ vừa qua vọng gác đầu làng, chúng tôi đã thấy đang đi về phía mình là 2 chiếc mô tô trên đó có hai chuẩn úy của tôi - hai người bạn chia ngọt sẻ bùi cả "xúc xích và cái đuôi chó sói". Không ra khỏi xe, tôi đề nghị viên sỹ quan ra lệnh cho hai kẻ lãng du này đến ngay ban tham mưu vào phòng sư đoàn trưởng. Điều gì thực sự xảy ra? Hai người bạn quả thực đã vào rừng. Thủy thủ trưởng mang theo cả vợ. Không thuộc địa hình khu vực, họ lạc vào một khu đầm lầy, một mô tô chết máy. Khởi động mãi không được. Sau đó, thủy thủ trưởng đưa vợ về nhà, vì đêm xuống rồi và quay trở lại. Họ dắt chiếc xe thứ hai và kéo về làng lúc đã 11 giờ đêm. Khi chúng tôi về đến ban tham mưu, ở đây diễn ra một cuộc kiểm điểm tình hình rất căng. Chủ nhiệm chính trị chỉ quan tâm đến hai câu hỏi - có bao nhiêu cá đã được đánh bắt cho các chỉ huy và nó được để ở đâu. Thật là một "buổi hòa nhạc"  đau đớn và buồn cười. Nhưng tôi đã rất ngạc nhiên vì thái độ của Tư lệnh sư đoàn. Ông ngồi im lặng. Cầm cây gậy Giáng sinh, ông đang chỉ huy sư đoàn, ông hãy chấm dứt trò hề này! Kết quả là, - phóng thích những anh chàng đi hái nấm thất bại kia. Tất nhiên, tôi vẫn có cá - ở Kamchatka, cá không phải là vấn đề. Vợ chồng tôi mua bốn lô cá hồi tại bến cá, đặt người ta sấy khô rồi nạp vào container. Nhưng chúng tôi không may mắn. Container đi đường rất lâu, tất cả đều đóng băng, và lô cá hình như được bắt từ hồi năm ngoái và chúng tôi bắt nó ... Nhưng dẫu sao tôi vẫn giành chiến thắng. Đầu tiên, tôi hỏi đồng nghiệp của tôi cho tôi một vài người để chất tải, trong bất kỳ trường hợp nào - họ cũng sẽ thấy những gì được nạp vào container. Tôi đề nghị một sĩ quan ngày mai hãy nói với chủ nhiệm chính trị rằng trong căn hộ của tôi vẫn còn một thùng cá - không nạp vào container. Sau đó họ viết cho tôi, con người này đã lên xe đi lấy cá ngay với sự hân hoan độc ác thế nào, mà tại đó người chủ mới đã dọn dẹp giải quyết. Khi được hỏi thùng cá để ở đâu, anh chủ nhà mới kia, rất ngạc nhiên hỏi lại "cá nào?". Vẫn còn một chuyện nữa về việc này.

Trước lối vào cửa nhà tôi là nơi ở của bí thư đảng phân hạm đội. Khi ông đi khỏi Kamchatka, container được chất hàng vào ban đêm. Sự việc là như vậy, tiện thể tôi nói thêm.
Mệnh lệnh tới nơi vào tháng Tám, còn người ta cho tôi đi vào cuối tháng Mười - không có người nào để chuyển giao lại vũ khí đặc biệt (vũ khí hạt nhân). Thời gian cứ trôi qua và mệnh lệnh có thể bị thu hồi nếu không thực hiện. Ở đây cần thể hiện sự kiên trì của mình và cuối cùng, Tham mưu trưởng sư đoàn đại tá hải quân ZAKHARENKO M.G. đã buộc phải tiếp nhận con tàu ngầm của tôi để tôi có thể đi được.
 
TẠI ĐÂY QUÁ TRÌNH PHỤC VỤ CỦA TÔI TRONG ĐỘI HÌNH ĐI BIỂN ĐÃ CHẤM DỨT
Tổng kết quá trình phục vụ này như sau:
- Hơn 18 năm phục vụ trên tàu
- 9,5 năm làm thuyền trưởng
- 6 chuyến hành quân thực hiện nhiệm vụ phục vụ chiến đấu trong đó có 5 chuyến trên cương vị thuyền trưởng tàu ngầm hạt nhân
- Hai lần đoạt giải thưởng của Tổng tư lệnh Hải quân
- Đã hai lần đạt được tiếp xúc thủy âm với tàu ngầm Mỹ
- 14 ngày đêm liên tục theo dõi ba tàu sân bay Mỹ
- Ba sĩ quan từng phục vụ dưới quyền tôi, đã trở thành thuyền trưởng tàu ngầm
- Quãng đường trên biển đã đi qua bằng hơn bảy lần vòng quanh thế giới dọc theo đường xích đạo
- Gần sáu năm sống xa gia đình
- Đã nhìn thấy chòm sao Thập tự Phương Nam
- Không để mất bất cứ người nào

Kết thúc đời phục vụ trong quân số đi biển nhưng chưa kết thúc đời phục vụ Hải quân.
.......
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Mười Hai, 2011, 02:35:27 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #583 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2012, 03:06:05 am »

(tiếp theo: clubadmiral.ru)

Bức thư-tâm tình

Bản tổng quan lịch sử về quá trình trú đóng của hải quân Liên Xô và hải quân Nga trên bán đảo và trong vịnh Cam Ranh của nước CHXHCNVN, không chỉ hé lộ về các hoạt động quân sự và các cơ quan và đơn vị đóng quân ở căn cứ Cam Ranh, công cuộc xây dựng tất cả các hạng mục của căn cứ, mà còn soi sáng đời sống riêng tư của các cựu chiến binh Cam Ranh. Thật thú vị, ví dụ như câu chuyện kể của Gnilyakov A.A về các cộng sự của ông tại Phòng quản lý xây lắp số 7 SMU-7 và gia đình của mình. Bạn sẽ hài lòng khi đọc nó.

Không kém phần thú vị, là lá thư-tâm tình của thủy thủ Shamil gửi đến, anh thi hành nghĩa vụ quân sự tại căn cứ đảm bảo hậu cần-kỹ thuật số 922 (922 PMTO) năm 1984. Tại PMTO, anh đã gặp và đem lòng yêu cô gái Việt tên Trang. Các cơ quan giám sát của Liên Xô và CHXHCNVN đã làm tất cả để tách rời những người yêu nhau. Trang được cử đi khỏi bán đảo vào đất liền chuyển sang bộ phận khác, và Shamil thì chuyển đến phân đội xăng dầu căn cứ đảm bảo hậu cần-kỹ thuật số 922.

Và đây, sau 20 năm bặt tin xa cách họ đã gặp lại nhau. Điều đó xảy ra thế nào, Bạn sẽ biết từ lá thư của Shamil, gửi tới chúng tôi qua hộp thư điện tử. Và với sự đồng ý của ông, chúng tôi xuất bản lá thư - tâm tình này mà không hề cắt xén và cũng không bình luận. Như thế sẽ tốt hơn. Một câu chuyện tuyệt vời và kỳ lạ! Tôi chắc chắn Bạn sẽ không hững hờ với nó.   
.......
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #584 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2012, 11:38:44 pm »

(tiếp)

«Здравствуй, чужая милая,
Та, что была моей,
Как же тебя любил бы я,
До самых последних дней.
Прошлое не воротится,
И не поможет слеза,
Поцеловать мне хочется,
Дочки твоей глаза…»

"Hỡi em, người xa lạ thân yêu,
Cô gái của anh ngày xưa,
Giá anh có thể yêu em,
Đến giờ phút cuối cùng.
Dĩ vãng không trở lại,
Nước mắt giúp gì cho ta,
Anh chỉ muốn được hôn,
Đôi mắt con gái em..."

Sin Trào (Синь тяо)! Tôi quyết định viết một lá thư cho các bạn và kể lại câu chuyện của mình về một Việt Nam không thể nào quên, câu chuyện này hệt như một câu chuyện cổ tích, mà tính xác thực của nó đôi khi ngay bản thân tôi cũng không thể nào tin nổi.

Năm 1984-1986, tôi phục vụ tại CHXHCN Việt Nam trong căn cứ hải quân ở Cam Ranh. Tôi hiểu rằng đây là một thời điểm khá trễ sau thời kỳ cuộc sống hừng hực các sự kiện chiến tranh của các bạn. Nhưng nhiệm vụ phục vụ quân đội của tôi do hoàn cảnh quy định cũng không hề kém thú vị và sôi động như khi mới nhìn nó một cách thoáng qua. Trong những ngày đó, Liên bang Xô Viết vẫn còn là một cường quốc vĩ đại trên biển, các tàu chiến và máy bay của nó ngang dọc khắp các đại dương thế giới và sự hiện diện của chúng trên bất kỳ khu vực nào của trái đất không phải là chuyện gì đó quá đặc biệt, các phương tiện truyền thông đại chúng không rùm beng như bây giờ về mỗi chuyến bay của các máy bay ném bom chiến lược của chúng tôi hoặc về các chuyến tàu của chúng tôi ghé vào cảng này hay cảng nọ. Căn cứ tại Cam Ranh chiếm lĩnh một vị trí địa chính trị quan trọng và các chuyến bay của không quân chiến lược và các chuyến tuần dương của các con tàu thuộc binh đoàn đóng căn cứ tại Cam Ranh, trong thời kỳ trước perestroika ấy là công việc diễn ra hàng ngày, nói theo "phong cách cao quý", đó là chúng ta đang phục vụ Tổ quốc và cảm thấy tự hào về đất nước chúng ta, cảm thấy sức mạnh cũng như ý nghĩa và tầm quan trọng của mình.

Mùa xuân năm 1984, mặc đồ "dân sự" với hộ chiếu công vụ màu xanh, không hiểu vì lý do gì visa được mở sẵn 7 năm, trên boong một con tàu dân sự tôi đã đến vịnh Cam Ranh. Tại thời điểm tôi đến, căn cứ có không quá 300 chuyên gia quân sự, không kể các thủy thủ đoàn các tàu chiến. Nhân viên dân sự nói chung có thể đếm trên đầu ngón tay. Trong thời gian này, căn cứ đang được khẩn trương xây dựng. Số lượng nhân viên phục vụ vào thời gian tôi ở đây đã tăng lên nhiều lần. Các nhà xây dựng dân sự của SovSMO (Tổ hợp xây lắp Xô Viết) đã có mặt. Quan hệ ở cấp lãnh đạo chính trị giữa hai nước trong thời kỳ này có phần lạnh nhạt. Tại Liên bang Xô Viết perestroika chưa bắt đầu, còn ở Việt Nam cũng chưa bắt đầu công cuộc cải cách "đổi mới". Việt Nam đang ở ngã ba đường của sự lựa chọn chính trị cho con đường phát triển, khắp đất nước lan truyền các tâm trạng khác nhau, đặc biệt là ở miền Nam. Băng đảng FULRO còn ẩn náu trong các vùng rừng núi, các nhóm biệt kích phá hoại khác nhau cố gắng xâm nhập lãnh thổ miền Nam Việt Nam từ Lào và Campuchia, đang chuẩn bị tấn công khủng bố chống lại các chuyên gia Liên Xô của XNLD "Vietsovpetro", cũng như những chuyên gia khác tại Đà Nẵng và Phan Rang.

Điều này không thể không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh căn cứ, mối quan tâm đến nó không phải chỉ luôn luôn, như người ta nói trước kia, từ phía "tình báo đế quốc", mà còn từ cả tình báo quân sự Việt Nam. Chẳng có gì thực sự đáng ngạc nhiên bởi vì họ không thể và cũng không nên bỏ lỡ một cơ hội nghiên cứu căn cứ của chúng ta từ bên trong. Tại các căn phòng khác nhau, ví dụ như "phòng Lênin", nơi diễn ra các hội nghị hoặc các cuộc họp của các chỉ huy và các tòa nhà nơi "người của ta" sống, trên các đường dây điện thoại, chúng tôi đã nhiều lần tìm thấy thiết bị nghe lén. Đồng thời ở thị trấn PMTO, các tòa nhà của phía Việt Nam và Liên Xô nằm xen kẽ nhau, cho phép người Việt Nam quan sát các dịch vụ nào phục vụ cho những mục đích gì, ai chỉ huy đơn vị nào, mối quan hệ giữa các chỉ huy và cấp dưới, nói chung là tiến hành giám sát thường xuyên cuộc sống của chúng ta.

Một trong những tòa nhà của Việt Nam tại trung tâm thị trấn PMTO được trao nhiệm vụ quay phim và chụp ảnh bí mật. Tất cả các vọng gác và lối ra vào dọc theo chu vi bên ngoài các công trình của Liên Xô là của người Việt Nam bất chấp thực tế là việc bảo vệ bên trong các hạng mục của chúng tôi do bản thân chúng tôi thực hiện. Nói cách khác, số lượng, mọi di chuyển của các nhân viên xô viết trong căn cứ trên bán đảo, có bao nhiêu tàu ra-vào xuất nhập bổ sung dự trữ vật chất từ các kho nguyên nhiên liệu v.v..., không phải là cái gì bí mật đối với tình báo quân sự Việt Nam. Phòng không trên bán đảo và tiểu đoàn bảo vệ bờ biển trên đảo Bình Ba, bảo vệ các mục tiêu trong vịnh, nằm dưới sự kiểm soát của Việt Nam. Nghĩa là, nếu muốn, không một chiếc tàu nào được ra biển, không chiếc máy bay nào cất cánh được lên trời. Nói chung, giống như trong câu chuyện ngụ ngôn: "Tình bạn đương nhiên là tình bạn, còn giám sát vẫn cứ là giám sát". Thời đại đã khác, và chúng ta đang sống trong một quốc gia khác. Nhưng không phải tôi muốn nói với các bạn về điều này, đó chỉ là một lời giới thiệu ngắn gọn nhưng cần thiết để hiểu rõ hơn về bầu không khí ngờ vực giữa hai nước chúng ta, đã ảnh hưởng đến số phận của hai con người gặp nhau tình cờ gần một phần tư thế kỷ trước ...

Nói chung, do đặc điểm quân sự mà quan hệ giữa cư dân địa phương và các thành viên của căn cứ quân sự xô viết không được cả hai bên khuyến khích. Mặc dù vậy không được tiếp xúc, khi đang sống giữa họ... hoặc họ đang sống giữa chúng ta, điều đó đối với bất kỳ ai đi nữa, dẫu lệnh cấm cực kỳ nghiêm khắc của các cấp chỉ huy, cũng là không thể, ít nhất trong giai đoạn trước perestroika.
........
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #585 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2012, 07:52:53 pm »

(tiếp)

Thời điểm tôi đến vịnh Cam Ranh, tại thị trấn PMTO, chỉ có ba trong sáu tòa nhà ở được bàn giao cho phía Liên Xô sử dụng. Các tòa nhà còn lại do người Việt Nam dùng, hai tòa nhà trong số đó bố trí để ban phục vụ chuyên gia làm việc (đó là tên dịch ra tiếng Nga của phân đội QDNDVN này), trưởng ban đầu tiên là đại úy Ấm, sau đó là thượng úy Lân. Tòa nhà thứ ba người Việt Nam không ở, mà nó dành cho nhiệm vụ như tôi viết ở trên. Như thế là các tòa nhà thuộc quyền sử dụng của chúng tôi được dùng làm nhà ăn, nhà bếp và nướng bánh, nhà tắm và giặt đồ, nhà kho. Khi đó, các nhà xây dựng quân sự của chúng tôi đã có mặt, dựng lên các ngôi nhà mới bằng gỗ theo kiểu mô-đun dành riêng cho mình trên khoảnh đất người Việt Nam chia cho bên cạnh PMTO. Trong ban phục vụ có khoảng 30-35 người Việt Nam làm việc, trong đó 6,7 "ko gai" (cô gái). Tại miền Bắc, người ta thường dùng từ "kon gai" (con gái), ở miền Nam thường gọi là "ko gai" (cô gái). Tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết, nhưng hóa ra tôi đã rất nhanh chóng có một nhóm quen biết rộng rãi trong số những người Việt Nam phục vụ tại căn cứ, cũng như những người sống trong các làng gần đó. Sau chừng 2-3 tháng tôi lưu trú tại Cam Ranh, trong thị trấn PMTO xuất hiện một cô gái lạ tôi chưa quen. Cô gái ấy bé nhỏ và rất mảnh mai, có vẻ ngoài không quá 14 tuổi, có đôi tai nhỏ hơi vểnh kiểu trẻ con, giống như hai tai của chú sóc nhấp nháy vì ánh nắng mặt trời đốt nóng.

Với mái tóc đen dài tết thành bím và đôi mắt đen tinh nghịch, trông cô rất dễ thương và tự nhiên. Dáng vẻ cô ấy thật thân thiện và cởi mở. Giọng nói của cô cũng trong trẻo như tên của cô Tran-n-ng, như thể tiếng chuông ngân. Tôi không thể không nhận thấy rằng mỗi khi gặp tôi, cô ấy bối rối và cụp mắt xuống. Đôi khi tôi thấy cô ngồi trên một tảng đá gần nơi tôi làm nhiệm vụ và nhìn tôi từ xa. Tháng đầu tiên kể từ khi cô có mặt tôi đã vài lần thấy cô ấy đi cùng một chàng trai tên là Hiền và họ nắm tay nhau. Điều này, theo tôi nhớ, gây cho tôi một chút ngạc nhiên, xin lỗi vì chi tiết thú vị này, vì tôi biết anh ta như một người đàn ông có một khuynh hướng phi truyền thống, mà anh không đặc biệt che giấu các "korefan" (chúng tôi vẫn gọi người Việt Nam như vậy) khác, những người vẫn vừa cười vừa nói với tôi rằng họ chỉ là "bạn gái". Tôi đề nghị Hiền giới thiệu tôi với cô ấy. Từ đó tôi mới biết tên cô. Trang ngày càng hay tới mỗi khi tôi đổi phiên trực. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ cô ấy thường mặc một chiếc áo sáng màu xanh lá cây khoác ngoài bộ áo dài, dường như là trang phục yêu thích của cô. Tôi nhớ khi đến thay ca, các đồng nghiệp của tôi nói với tôi:
- Người "của cậu" đến kìa!
Tôi trả lời: - Sao các cậu lại nghĩ cô ấy là của tôi?
- Vì cô ta vẫn thường kêu "Samil! Samil ". Chúng tôi ra dấu cho cô ấy (áp bàn tay dưới má), ám chỉ rằng anh ta đang ngủ, anh đang nghỉ ngơi, thế là cô ta bỏ đi.

Có lần tôi gặp một tốp các cô gái trên đường phố, trong số đó có Trang. Họ vừa cười vừa kêu lên với tôi, "Trang iu Samil" («Чанг ию Самил» - Чанг любит Шамиля), và cô đã đấm tay vào lưng họ, giận dỗi vì đã trao niềm tin tưởng của mình khi san sẻ những bí mật của phụ nữ cho họ.

Không cần phải giải thích những đau khổ về thể xác nào đã giày vò bạn khi thiếu vắng cá thể khác giới, khi bạn xa Tổ quốc và khi bạn mới chỉ 19 tuổi. Nói chung, mọi thứ đã được sắp đặt để sao cho tôi không thể, và tất nhiên cũng không muốn, bỏ qua sự chú ý của một cô gái trẻ đẹp, mà rất tự nhiên đòi hỏi tôi có phản ứng đáp lại phù hợp. Dù sao chăng nữa, trong một lần đến lượt thay phiên, tôi đi đến gần cô ấy và hỏi (mà bỗng nhiên không hiểu sao lại là câu hỏi liên quan đến vụ lợi?), "Banh mi mong?" (bạn có muốn bánh mì không?). Cô buồn bã nhìn tôi, đứng dậy và dợm bước bỏ đi. Tôi cảm thấy rằng điều vừa nói làm tổn thương cô ấy, "Một phu" (Chờ một phút!), rồi lao vào cabin lấy đưa ra cho cô xem bức ảnh chụp gia đình, người thân, một tấm bưu thiếp về Kazan. Cô rất vui mừng, chạy về chỗ mình rồi mang lại những bức ảnh của cô. Kể từ ngày đó lịch sử mối quan hệ của chúng tôi đã bắt đầu như thế đấy. Cô ngày càng hay đến trong thời gian tôi trực và nếu tôi và cô ấy có thời gian rảnh, chúng tôi "tán chuyện" nếu tôi có thể gọi như vậy bằng một hỗn hợp các thứ tiếng Anh, tiếng Việt Nam và cử chỉ. Nhờ có cô, dù cho sự phức tạp của ngôn ngữ và sự đa dạng của các vùng phương ngữ, tôi đã nói được một ít tiếng Việt, và đôi khi thậm chí hiểu được ý nghĩa một số cuộc nói chuyện của họ. Chúng tôi cố gắng che giấu mối quan hệ của chúng tôi trước những người khác, chúng tôi thỏa thuận hò hẹn thông qua Hiền "bạn gái" của cô ấy về các cuộc gặp gỡ của chúng tôi ngoài phạm vi thị trấn PMTO, và thường là chúng tôi hay "chạy" tới tu viện thiên chúa giáo cũ của người Pháp, nằm gần thị trấn PMTO, hoặc ở khu vực thôn Mỹ Ka bên bờ vịnh Cam Ranh. Đôi khi chúng tôi gặp nhau trong tòa nhà trống thứ tư trong thị trấn. Khi có cơ hội di chuyển tự do quanh bán đảo, tôi có thể cho phép mình đôi khi biến mất khỏi cặp mắt theo dõi của các chỉ huy trong một thời gian nhất định, tôi đã có một thời kỳ có khả năng như vậy cho đến trước khi bắt đầu năm 1985.

Tôi nhớ những cuộc gặp gỡ của chúng tôi, tràn đầy sự dịu dàng và quan tâm lẫn nhau. Theo truyền thống của những người phụ nữ Việt Nam luôn thể hiện sự quan tâm mọi mặt đến người đàn ông của mình, khi đi đến các cuộc hẹn hò của chúng tôi cô không bao giờ quên mang theo một vài món quà mà ban đầu làm tôi hơi bối rối, nó có thể thậm chí là một chai bia "33" hoặc một gói thuốc lá Bông Sen. Thời đó, chúng tôi còn trẻ, chúng tôi mới có 19 tuổi, bởi thế sự trong sáng, chân thành và vị tha trong những cảm xúc của chúng tôi cho đến bây giờ đối với tôi vẫn lạ lùng và kỳ diệu như chưa từng thấy. Như những đứa trẻ nhỏ che giấu "bí mật" của mình, chúng tôi cố gắng bảo vệ thế giới tinh tế nhỏ bé của mối quan hệ của chúng tôi trước những bậc cha chú xa lạ đang đeo đẳng gánh nặng chính trị khó khăn, trước những suy nghĩ toát mồ hôi nảy sinh trong đầu họ, trước những cấp phó chính trị vô tích sự, chỉ duy nhất quan tâm đến việc theo dõi "bộ mặt đạo đức" của các quân nhân Liên Xô, để ngăn chặn trong hàng ngũ Hồng quân chính cái gọi là sự tha hóa đạo đức chỉ thỏa mãn niềm vui của bè lũ tư sản đáng nguyền rủa.

Ngay cả chiếc giường tình yêu chúng tôi cũng là biểu tượng đặc trưng của kỷ nguyên đó - đống đổ nát của các cánh máy bay trực thăng Mỹ bị rơi trong rừng rậm Nam Việt Nam. Trang cẩn thận đặt chiếc chiếu phủ lên chúng, cố gắng bằng bàn tay phụ nữ của mình tạo ra ít nhất một tiện nghi gia đình. Nơi mà thể xác của chúng tôi được nhất thể hóa cũng giống như một ngã tư của thời gian, của một thời đại, của các nền văn hóa và các hệ thống chính trị. Dường như mọi đường kinh tuyến của Trái đất cùng hòa làm một tại nơi giao nhau của thể xác, cuốn chúng tôi vào lỗ đen của sự lãng quên. Tôi được tắm mình trong sự dịu dàng của cô ấy và tận hưởng sự âu yếm vuốt ve của người phụ nữ châu Á, được giáo dục theo truyền thống cách chăm sóc cho người đàn ông của mình. Tôi không thể nào quên sự động chạm của bàn tay cô, giống như hơi thở của làn gió tươi mát trong cái nóng bức ngột ngạt miền nhiệt đới. Và mùi hương nồng nàn của làn da trong như hổ phách được mặt trời sưởi ấm?!... thoảng mùi trái dừa. Trang không bao giờ hỏi một câu hỏi nào, không cự cãi, không quấy rầy vô lối, khi cố gắng tất cả chiều lòng tôi. Trong cô ấy là cả niềm đam mê khao khát tình yêu của người phụ nữ và lòng chung thủy vô biên. Tôi nghĩ rằng rất nhiều người đàn ông muốn có một người phụ nữ đặc biệt như vậy và sự đối xử cũng đặc biệt như thế. Trong số các phụ nữ kế tiếp nhau đi vào cuộc đời tiếp theo của tôi, khó mà tìm thấy điều gì tương tự. Tôi không thể nói thế về tất cả phụ nữ Việt Nam, nhưng ấn tượng về họ còn lại trong tôi là ấn tượng về những sinh vật do tạo hóa sinh ra vô cùng dễ thương, dịu dàng, bẽn lẽn mà ngọt ngào và tràn đầy nữ tính. Trên thực tế thông qua cô ấy và nhờ cô mà tôi yêu mến đất nước huyền thoại tuyệt vời này với những con người bé nhỏ và tốt bụng của nó. Mặc dù, tôi có thể hơi lý tưởng hóa mọi thứ liên quan đến Việt Nam, nhưng nó là cảm xúc chân thành và ấn tượng của tôi. Tôi muốn viết ngắn hơn, nhưng kết quả lại là một tác phẩm kiểu văn-triết về những kỷ niệm lãng mạn.

Câu chuyện cổ tích này kéo dài được 9 tháng, như một tiếng thở dài. Vào những ngày cuối tháng Ba năm 1985, gặp cô tình cờ trên đường phố, tôi đột nhiên gặp phải ánh mắt tối sầm của cô ấy tràn đầy khinh miệt và thù hận. Cô tránh sang phía khác ... như thể muốn bỏ đi. Bầu trời đổ sụp xuống mặt đất dưới chân tôi. Cái nhìn kia sẽ đốt cháy tâm can tôi suốt 22 năm. Đó là cuộc gặp cuối cùng của chúng tôi trong cuộc đời đã qua ấy ...

Trái tim đau nhói mà không thể hiểu gì. Tôi vội vã bổ đi tìm Hiền, hỏi cho ra nhẽ nguyên nhân sự việc. Ngập ngừng một lúc anh ta nói với tôi rằng cô ấy được thượng úy Lân (trưởng ban phục vụ chuyên gia) gọi lên, ông la mắng cô, ông nói rằng các cô gái Việt Nam không nên gặp gỡ "Tây" (người nước ngoài), rằng ông biết mối quan hệ của cô với Shamil do đồng chí "lenso sikvan" (sĩ quan xô viết) Vova đến báo, (Hiền lấy ngón tay "vẽ" lên vai áo của mình hình hai ngôi sao và hai vạch). Tôi hiểu rằng đó chính là người phó chỉ huy về chính trị của chúng tôi (tôi đang kể như nguyên thủy nó được dịch sang tiếng Nga), chính ông ấy đã nói với thượng úy Lân như thể rằng bản thân Shamil yêu cầu ông ấy bảo vệ anh ta trước Trang, rằng nói chung anh ta rất đểu cáng và là một kẻ "khom tot" (không tốt - tức rất xấu), v.v.., và không đáng để cô ấy gặp gỡ hắn (tức là tôi) và ông đã phái cô ấy đến một đơn vị đâu đó ở Kamphu (Cam Phúc), mà tên gọi của nó làm tôi nhớ đến một từ đồng âm với võ thuật (kungfu). Sau đó trong quá trình trình bày của tôi, cái tên đó lại bật lên. Tôi cố gắng thuyết phục anh ta để anh ấy nói với cô rằng điều đó là không đúng sự thật (nói điêu), nhưng anh ấy chỉ lắc đầu buồn bã khi cho tôi biết rằng đó là việc không thể làm được.
.......
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Hai, 2012, 12:54:34 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #586 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2012, 10:44:39 pm »

(tiếp)

Từ đó cho đến tận gần đây tôi đã không còn thấy cô ấy. Nhưng tôi đang đi quá nhanh về phía trước mất rồi. Sau đó, người ta đã "phái" tôi sang phục vụ ở kho nhiên liệu. Tất cả các lối vào tòa nhà số 4 được người ta lấy dây thép gai rào lại. Và còn những sự kiện khác diễn ra sau đó gián tiếp liên quan đến mối quan hệ của tôi với Trang, tôi sẽ viết về điều đó cho đến khi có điều kiện thích hợp. Thật không may, không phải tôi không muốn chia sẻ, nhưng cho đến nay tôi vẫn đang kiềm chế vì những người tham gia các sự kiện đó vẫn còn sống và khỏe mạnh cho đến ngày nay và cầu Chúa, thậm chí tôi không muốn làm gì có hại cho họ, ở vài chỗ tôi thay thế tên thật của họ bằng những cái tên hư cấu. Tôi sẽ chỉ phát biểu một giả thiết, cho đến mãi ngày nay vẫn giày vò tôi. Bây giờ khi đã có một số kinh nghiệm cuộc sống và sự hiểu biết về các phương pháp hoạt động của các cơ quan đặc biệt, có vẻ như tôi thấy rằng mối quan hệ của tôi với Trang, các cuộc gặp gỡ của chúng tôi, cũng như sự vu khống ám chỉ đối với tôi, chính là một phần của một kịch bản trò chơi nhiều giai đoạn giữa công an (cơ quan bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam) và các nhân viên đặc biệt của chúng tôi.

Nói chung, tôi đã trải qua 22 năm sống với sự xúc xiểm không hoàn hảo này về sự phản bội của tôi và gánh nặng cay đắng của mối quan hệ không được làm sáng tỏ. Vợ và cả các bạn gái đã gặp tôi trên con đường đời về sau đã khóc vì câu chuyện này, họ nói rằng chúng ta phải tìm bằng được cô ấy, viết thư cho cô ấy để chuyển giao thông điệp "Đợi anh về", anh và cô ấy thể nào cũng sẽ gặp nhau và anh hãy giải thích tất cả với cô ấy. Nhưng cuộc sống trôi theo dòng chảy tuần tự của nó, chàng thanh niên đầy nhiệt huyết tên Shamil đã trở thành Shamil Talgatovitch với sự lão hóa bất khả kháng hiện ra trong cái bụng bia, được những thành công nuông chiều, hư hỏng vì phụ nữ và không còn tin vào sự vị tha của họ. Ở đây không cần phải thể nghiệm bất kỳ ảo tưởng hay cảm xúc nào, mà không may, tôi đã không giữ được với cô - tạo hóa đã xây dựng người đàn ông như vậy. Điều duy nhất còn lại của cuộc đời kia đó là ký ức về một cô gái nhỏ nhắn dịu dàng, từ một đất nước xa xôi và huyền diệu như cổ tích. Đôi khi, lúc đã say mềm, tôi lôi từ ký ức như từ một chiếc hộp ra những cảm xúc chưa từng biết đến mà bây giờ đã bị lãng quên, nâng niu nó như một kho báu chưa từng có và vô giá đối với tôi rồi đặt chúng trở lại, đóng nắp hộp ký ức của mình, cố gắng để quên chúng đi ngay, vì chúng khuấy lộn cuộc sống của tôi, gây mâu thuẫn với sự tồn tại hiện tại và cảm nhận thế giới hiện tại của tôi. Xác suất gặp lại cô ấy là bằng không. Không có tên họ đầy đủ, và tôi cũng không biết địa chỉ của cô. Và những điều đó nếu có cũng chẳng để làm gì. Phải chăng điều đó làm thỏa mãn cái tôi ích kỷ của nam giới và chứng minh rằng tôi không phải "như thế" như em nghĩ về tôi, rằng tôi chỉ là một kẻ "mặt trắng và đầy lông măng".

Tuy nhiên cuối cùng thì mùa hè năm 2007 tôi đã quyết định bay đến Việt Nam để thăm lại vị trí từng đặt căn cứ hải quân cũ tại Cam Ranh.


Trang.


Shamil (bên phải).
........
Logged
tuaans
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 3774


« Trả lời #587 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2012, 11:53:27 pm »

Thank bác,
Có tí yêu đương, trai gái vào cái căn cứ quân sự này thì hấp dẫn hẳn lên!  Grin
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #588 vào lúc: 01 Tháng Hai, 2012, 12:53:52 pm »

(tiếp)

Bây giờ, khi đã biết hồi kết thúc của thiên truyện này, nhiều phụ nữ vừa lau những dòng nước mắt tràn đầy cảm xúc vừa âu yếm hỏi tôi: "Thế là anh đã đến tận đó để tìm cô ấy ư?" Than ôi ... Trung thực mà nói, tôi cũng không sao ngờ nổi cuộc gặp gỡ của chúng tôi lại có thể xảy ra. Quá khó tin. Theo lời người thông dịch viên-hướng dẫn viên du lịch dân số Việt Nam qua một số báo cáo năm 2007 đã đạt gần 100 triệu người. Có nghĩa đó không còn là việc tìm kiếm một cây kim trong đống cỏ khô nữa. Kế hoạch của tôi chỉ gắn với một chuyến viếng thăm bán đảo Cam Ranh, địa điểm thiên đường này nơi tôi sẽ có thể chạm viên đá lửa quý giá ấy vào trái tim của tôi và cảm thấy sự ấm áp tỏa ra từ những hồi ức của trái tim tôi về dĩ vãng xa xôi. Và trong cả giấc mơ và thực tại, trong tâm trí tôi luôn dội lên những hình ảnh gắn với những nơi này. Nostalgia - đó là những giấc mơ về quá khứ.

Nhưng tất cả đều có trật tự của nó. Tôi cho rằng chuyến thăm của tôi đến nơi đặt căn cứ hải quân của Liên Xô cũ ở bán đảo Cam Ranh sẽ gặp khó khăn, bởi vì bây giờ tất cả các hạng mục của căn cứ cũ đã nằm trong thành phần cơ sở hạ tầng của Hải quân Việt Nam và ở đây, như trước kia, vẫn là trụ sở của Vùng 4 Hải quân CHXHCNVN.


Về vấn đề này, tôi quay sang nhờ sự giúp đỡ tác động của bà Côi (Đào Thị Côi) - lãnh đạo xí nghiệp liên doanh "Vitarus", hiện sống ở Kazan. Tôi biết rằng bà được kính trọng và có uy tín lớn trong giới ngoại giao, và cái mà có lẽ với tôi rất quan trọng, đó là giới quân sự Việt Nam, đặc biệt là tùy viên quân sự CHXHCNVN ở Moskva. Khi quen biết bà, tôi đã ngạc nhiên bởi sự quan tâm của bà ấy với yêu cầu của tôi, và bà sẵn sàng giúp đỡ tôi. Trong cuộc trò chuyện dài hai giờ của chúng tôi, bà ấy ngay lập tức đã liên lạc với lãnh sự qua điện thoại. Bà khuyến khích tôi, nói rằng khi đến nơi tôi cần liên hệ ngay với chính quyền địa phương và tôi có thể nhận được sự cho phép vào thăm căn cứ. Con người cứ đề xuất và Thiên Chúa sẽ định đoạt.

16 Tháng Sáu 2007, buổi tối tôi đã bay từ Moskva trên chiếc Boeing 747 của hãng Việt Nam Airlines. Khi đến Hà Nội vào sáng hôm sau tại sân bay tôi hoàn thành thị thực nhập cảnh, và bắt đầu chuyến du lịch trên đất nước kỳ diệu này, nơi phép lạ vẫn thường xảy ra. Sau hai ngày tại Hà Nội ngày 19 tháng 6 vào buổi sáng tôi bay tới thành phố nghỉ mát Nha Trang, nằm cách bán đảo Cam Ranh15 km. Trong vé máy bay và tại quầy đăng ký, đích đến là thành phố Nha Trang. Chuyến bay diễn ra mất hơn một giờ. Hãy tưởng tượng sự bàng hoàng của tôi khi máy bay hạ độ cao trước khi đáp xuống hạ cánh, tôi đã nhìn thấy qua cửa sổ những cảnh quan của bán đảo từng quen thuộc đến đau đớn đối với tôi. Tôi không hề tưởng tượng được rằng sân bay vào thành phố Nha Trang lại là sân bay quân sự cũ "của chúng tôi" tại Cam Ranh, nơi trước đây các máy bay Tu-16 và Tu-95 của trung đoàn không quân hỗn hợp 169 đóng quân. Cảm xúc lớn khiến máu chạy rần rật đập thành tiếng trong màng nhĩ. Ngay khi vừa bước ra khỏi cabin đặt chân trên bậc thang máy bay, tôi ngửi ngay thấy mùi của nắng hun bê tông trên đường băng cất hạ cánh, và làn gió biển nhẹ phả dến một mùi hương đậm đà và rất quen thuộc với tôi từ cỏ cây thực vật miền nhiệt đới, bất ngờ cuốn tôi vào cơn bão của những kỷ niệm, đưa tôi trở lại thời quá khứ. Tôi hoàn toàn chìm vào trong một niềm xúc động mạnh mẽ. Người phiên dịch viên và hướng dẫn du lịch tên Bá và người lái xe đón tôi ở sân bay, nhìn tôi rất hoang mang. Theo yêu cầu của tôi, chỉ có thể sánh với một lời thỉnh nguyện, họ đồng ý lái xe qua thị trấn PMTO, không dừng lại cho đến chỗ cây cầu Mỹ Ka (tức cầu Long Hổ) rồi trở lại, vì thành phố nằm ở phía đối diện, và chương trình lưu trú ba ngày của tôi ở Nha Trang chỉ gồm chuyến đón khách tại sân bay và trung chuyển đến khách sạn. Trên đường chúng tôi đi qua có những biển báo hiệu đề dòng chữ Cam vao (Cấm Vào). Nhưng đã có khi nào đấy từng có những điều cấm chúng tôi dừng lại? Sự ngứa ngáy thiếu kiên nhẫn giằng xé tôi từ bên trong. Ai đã từng phục vụ ở đó, họ sẽ hiểu tôi. Bá nói rằng nếu không có sự cho phép, tôi sẽ không thể đi vào bên trong bán đảo và xung quanh chu vi của nó, như tôi đã lên kế hoạch. Sau khi thống nhất với Bá rằng anh ta sẽ chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề, chúng tôi chia tay với anh ta và hẹn gặp lại vào buổi tối ngày hôm sau. Ba ngày tiếp theo tôi dành để khám phá những điểm danh thắng hấp dẫn trong và xung quanh Nha Trang. Định kỳ gọi cho Bá qua điện thoại để biết về tiến trình "chiến dịch", tôi bắt đầu nhận ra rằng giấc mơ của tôi đến thăm nơi từng thi hành nghĩa vụ quân sự đã dính vào mớ phức tạp của bộ máy quan liêu của chính quyền địa phương sở tại, của cảnh sát và quân đội, và thỏa thuận đồng ý với yêu cầu của tôi sẽ cần thời gian giải quyết ít nhất là mười ngày, mà tôi không thể có. Ngày 23 tháng 6 tôi đã đặt vé máy bay đi Sài Gòn (TP Hồ Chí Minh), và ngày 25 - bay về Moskva. Trong một buổi tối Bá nói với tôi rằng anh ấy đi đón một nhóm du khách từ Nga và kể cho họ nghe trên xe buýt câu chuyện của tôi về Trang và họ yêu cầu anh ta chuyển đến tôi lời động viên cùng lời chúc thành công và may mắn.
.........
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #589 vào lúc: 01 Tháng Hai, 2012, 05:48:58 pm »

(tiếp)

Với niềm tin vào "vận may" Nga của chúng tôi và "nơi mà chúng ta đã không gục ngã", vào ngày thứ tư, khắc phục nỗi sợ hãi và nguy hiểm, tôi quyết định thử một "chuyến thăm" căn cứ, mang theo anh bạn đồng hành Bá một cách miễn cưỡng, trước khi "động viên" anh ta và người lái xe. Không gì có thể ngăn chặn tôi được nữa. Sau khi thả tôi xuống cổng thị trấn cũ của PMTO, Ba đi về hướng tòa nhà văn phòng mới đặt trong khu vực này nhằm tìm kiếm ai đó có thể cho phép chúng tôi vào thăm thị trấn. Sốt ruột, tôi bắt đầu quay phim và đã bước chân vào lãnh thổ của thị trấn. Trong những tòa nhà cũ của chúng tôi chẳng còn lại gì ... Tôi cứ thế đi ...chụp ảnh ... và bật khóc ... tôi hồi tưởng lại trong tâm những hình ảnh như những tờ thư cũ ố vàng bởi thời gian. Rồi từ khi nào đó Bá đã đến bên tôi, đi cạnh tôi một cách âm thầm. Thế là tôi biết anh ta không tìm thấy ai có thể cấp phép. Đi vòng quanh chu vi thị trấn, tôi đã hoàn thành việc chụp ảnh, tôi thu hết can đảm và đi vào tòa nhà duy nhất còn nguyên vẹn trong thị trấn. Những tấm lát trên sàn nhà, phòng tắm hoa sen, cầu thang, lan can, tất cả là những lời nhắc nhở về những năm tháng đã trải qua ở nơi này. Tôi thấy đi lại phía chúng tôi có một nhóm ba người Việt Nam theo bề ngoài có thể giả định rằng đó là các quân nhân (đối với việc mặc đồng phục hàng ngày các quân nhân Việt Nam cho phép bản thân mình có thể không tuân thủ một số quy định cụ thể của nó), mặc dù họ không mang vũ khí. Một trong số đó, tách khỏi nhóm đến gần chúng tôi mà không mỉm cười? (người Việt Nam rất thân thiện với người nước ngoài và trước đó tôi chỉ thấy những vẻ mặt chan hòa nụ cười). Toàn bộ vẻ ngoài của ông cho thấy sự tức giận sâu sắc và phải thừa nhận ngay không cần nêu lý do. Bá nói cái gì đó bằng tiếng Việt, ông ta ra hiệu, "Hãy lại đây!", rất dễ hiểu mà không cần lời, ông ta mời tôi vào một phòng trong tòa nhà này. Đến lượt mình Bá vội vàng giải thích với anh ta một điều gì đó, gật đầu trỏ về hướng của tôi. Ông yêu cầu xem giấy tờ của tôi và tôi đã lấy ra bức ảnh mang theo mình từ những ngày xa xưa ấy. Tôi giải thích với ông rằng tôi đã phục vụ ở đây thời kỳ 1984-1986.     


Bên cổng vào thị trấn PMTO xô viết cũ.


Cạnh căn nhà cũ duy nhất còn giữ lại trong khu PMTO ngày xưa.
..........
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM