(tiếp: clubadmiral.ru)
Địa Trung Hải: Hạm đội Mỹ tại vịnh Augusta, Sicily, Italia năm 1965.Gồm USS Saratoga CV-60, USS Shangri La CV-38 và một số tàu chiến khác.(wiki)Chính là từ đơn vị độc đáo này, đã bắt đầu hình thành hạm đội viễn dương của chúng ta . Tiếp theo binh đoàn số 5, mà vào cuối những năm 197x đã giám sát được toàn bộ khu vực Địa Trung Hải, binh đoàn số 8 tiến vào Ấn Độ Dương, còn tại Thái Bình Dương lần lượt là các binh đoàn số 17 và 10. Đại Tây Dương cũng trở thành chiến trường hoạt động cho binh đoàn 7 Hạm đội Biển Bắc.
Kể từ đó, Hạm đội Hải quân của chúng ta đã hoàn toàn kiểm soát được tình hình trên các đại dương rộng lớn.
Hạm đội Hải quân chúng ta đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình ngay trong thời kỳ "Chiến tranh Lạnh". Hạm đội Hải quân đã không cho phép bất kỳ mưu toan nào xâm phạm đến quốc gia. Không cho phép bằng tiềm năng, sức mạnh và lực lượng của chính mình. Nếu không, như các sự kiện gần đây cho thấy, chúng ta sẽ phải trả giá như Nam Tư, Iraq, như Afghanistan.
Hoạt động tác chiến của Hải quân Liên Xô - hình thức hoạt động của Hải quân Liên Xô trong những năm 196x-198x, bao hàm trong việc thực hiện nhiệm vụ trong thời bình bởi một phần lực lượng của mình, ở những vùng xa xôi, nơi mà họ sẽ cần phải tham chiến khi có chiến sự. Lực lượng Hải quân Xô viết đặt ra cho mình một mức độ hoạt động cao nhằm duy trì sự sẵn sàng chiến đấu trong thời bình. Người ta đã dự trù trước việc triển khai theo kế hoạch của lực lượng hải quân nhằm bảo vệ lợi ích của đất nước ở cả các vùng xa xôi của thế giới.
Các nhiệm vụ chiến đấu •Trực chiến bằng các tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa;
•Cảnh giới tác chiến bằng các tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa;
•Tìm kiếm phát hiện tàu ngầm mang tên lửa của các đối thủ tiềm năng và giám sát chúng;
•Làm thất bại sự theo dõi của kẻ thù tiềm năng.
Trên phương diện là những nhiệm vụ đồng hành, cần triển khai lực lượng để thực hiện : •Giám sát giao thông trên các tuyến đường biển chiến lược quan trọng;
•Nghiên cứu các khu vực có khả năng xảy ra chiến sự;
•Ngăn chặn các hoạt động trinh sát của các đối thủ tiềm năng, không cho các hoạt động đó tiếp cận được khu duyên hải của mình;
•Biểu dương lực lượng;
•Ủng hộ về tinh thần các quốc gia thân thiện;
•Bảo vệ sự di chuyển của tàu thuyền và hoạt động ngư nghiệp của nước mình.
Hình thức chiến đấu •Các tàu chiến tuần tra trong các khu vực làm nhiệm vụ chiến đấu trong tư thế sẵn sàng sử dụng vũ khí khi cần;
•Tiến hành trinh sát và giám sát hạm đội của các kẻ thù tiềm năng.
Bố trí lực lượng hạm đội trong quá trình tác chiến Theo nhiệm vụ chiến đấu, toàn thể lực lượng hạm đội Hải quân được chia ra ba thê đội (эшелон) tác chiến chiến thuật như sau:
•Thê đội tác chiến chiến thuật thứ nhất bao gồm các tàu chiến đang hoạt động trên biển và các máy bay của Hải quân đang bay trên không;
•Thê đội tác chiến chiến thuật thứ hai bao gồm các tàu chiến và máy bay có khả năng ngay lập tức tiến ra biển hoặc cất cánh lên không trung;
•Thê đội tác chiến chiến thuật thứ ba bao gồm các tàu chiến và máy bay hải quân đang sửa chữa hoặc đang trong trạng thái niêm cất dự trữ.
Như vậy, trong trường hợp giai đoạn đầu chiến tranh bất ngờ xảy ra, chỉ có thê đội 1 và 2 có thể tham chiến ngay, thêm vào đó, thê đội 1 sẽ đóng vai trò chính.
Thực hiện nhiệm vụ chiến đấu Ban đầu, các lực lượng chiến đấu, chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là sẵn sàng cho chiến tranh. Căn cứ vào khả năng thực tế, học thuyết quân sự đã thừa nhận rằng tính ổn định trong tác chiến ngoài phạm vi ảnh hưởng của lực lượng hàng không phòng thủ không phận của đất nước là thấp. Trên thực tế, điều đó có nghĩa là vai trò của các lực lượng chiến đấu bị giới hạn trong đòn tấn công đầu tiên. Các hành động tiếp theo không lường trước được.
Với việc thành lập các binh đoàn chiến thuật và sự tiến ra đại dương của Hải quân Liên Xô, vấn đề đảm bảo kỹ thuật và hậu cần cho các nhóm tàu chiến tác chiến chiến thuật của hạm đội đã trở nên gay gắt và đòi hỏi trên thực tế phải được thực hiện nhanh nhất. Bộ chỉ huy Hải quân đã quyết định thành lập trong khu vực các đại dương một hệ thống tiếp tế hậu cần-kỹ thuật, mà cơ sở của nó dựa trên " hậu cần cơ động (hậu cần nổi)" bao gồm các đơn vị (lữ đoàn, tiểu đoàn) tàu tiếp liệu, tàu kho nổi, và tàu đảm bảo kỹ thuật chuyên ngành. Việc tạo nên hậu cần nổi được tiến hành chủ yếu theo hướng trang bị lại để chuyển đổi các tàu buôn, tàu đánh bắt hải sản thành các tàu phục vụ, và chỉ ở một mức độ thấp - mới xây dựng các đề án đóng tàu chuyên ngành (ví dụ, đề án 1833).
Tuy nhiên, kinh nghiệm đã chỉ ra rằng hệ thống hậu cần cơ động của lực lượng Hải quân, theo khả năng của mình, không sẵn sàng cho các hoạt động dài ngày trên biển và đại dương. Các tàu của nó không đáp ứng đầy đủ các hoạt động trên đại dương.
"Tuyển dụng trên cơ sở thuê hạm đội tàu dầu của các cơ quan dân sự nói chung là không phù hợp với nhiệm vụ tiếp liệu cho tàu chiến trong khu vực các đại dương, vì tất cả các tàu đó được thiết kế để vận chuyển hàng hóa là chất lỏng mà không phải là tàu tiếp liệu (trong điều kiện phải bảo quản chất lượng nhiên liệu thời gian lâu dài ở vùng nhiệt đới, phù hợp tốc độ di chuyển của hải đoàn và có khả năng chuyển giao hàng hoá, nhiên liệu, và các hình thức tiếp liệu khác ngay trong hành trình di chuyển và đạt tốc độ tiếp liệu cao)". (" Binh đoàn tác chiến chiến thuật hải quân số 8". N.N. Birillo Nhà XB. "Cánh đồng Kuchkovo.", năm 2010.) Chính vì vậy, theo yêu cầu của Tổng Tư lệnh Hải quân Liên Xô, đô đốc hạm đội Liên Bang Xô viết S.G.Gorskov, các cấp lãnh đạo chính trị và quân sự tối cao của đất nước đã quyết định thành lập (xây dựng) các điểm đảm bảo cung cấp vật chất-kỹ thuật (ПМТО) cho tàu chiến của Hải quân Liên Xô tại các quốc gia đồng minh và thân thiện trong Địa Trung Hải, biển "Nam Trung Hoa", ở duyên hải phía tây châu Phi, trong vịnh Ba Tư, và tại Cuba.
Để đảm bảo hậu cần và kỹ thuật chuyên ngành cho tàu chiến của hạm đội Thái Bình Dương, khi tiến vào Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và đi ra theo chiều ngược lại, Ban lãnh đạo các lực lượng vũ trang và hạm đội hải quân Xô viết đã xem xét kỹ lưỡng phương án sắp đặt các điểm trung gian để đặt căn cứ của mình ở biển "Nam Trung Hoa" tại phần phía nam của nước Việt Nam đã được giải phóng và nước Kampuchia vừa được giải thoát khỏi chế độ "Khmer Đỏ".
...........