Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 12:19:39 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Căn cứ quân sự Cam Ranh  (Đọc 531506 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #510 vào lúc: 16 Tháng Mười, 2011, 09:32:52 pm »

(tiếp)

Chuyến đi biển diễn ra một cách êm ả, nhiệm vụ đã giải quyết xong. Tàu ngầm từ từ di chuyển về hướng đường xích đạo. Khí hậu ấm hơn. Sau khi vượt qua vĩ tuyến kế tiếp, tôi phát hiện ra việc quan trắc thiên văn vị trí trong vũ trụ không thực hiện được, tại sao? Chừng nào mà tôi chưa đặt vấn đề cho các hoa tiêu đến nơi đến chốn vài lần thì vẫn không rõ ràng. Và đây hoa tiêu, đại úy hải quân  Zhurkov Pavel Petrovich, nhớ rằng trong mệnh lệnh có một điểm sửa đổi mà theo đó cần phải có thủ tục báo hẹn để đảm bảo việc quan sát thiên văn qua các thiết bị vũ trụ. Chúng tôi điều chỉnh ngay. Khi làm việc trong khu vực này, để phục vụ cho các hệ thống làm mát, tàu lặn xuống độ sâu lớn đạt được nhiệt độ cần thiết nhờ sự trao đổi nhiệt với nước rồi bơi theo đường xoắn ốc mà nổi lên vào phiên liên lạc. Sau khi xác định vị trí và tiếp nhận phiên liên lạc, chúng tôi lại lặn xuống. Và cứ như thế trong một thời gian dài. Khi trở về, có một sự cố khó chịu. Tại một nơi giữa Thái Bình Dương, tàu nổi lên trong phiên liên lạc. Đại dương yên lặng. Trên biển, một đàn cá heo nhào lộn trong những lớp sóng bạc đầu nhấp nhô bên cạnh những cột thiết bị kéo xếp tháp chỉ huy. Tôi quan sát chân trời, không trung, rồi hạ lệnh dương ăng-ten. Hiệu thính viên báo cáo khởi đầu phiên liên lạc. Đặt trợ lý chính vào vị trí sau kính tiềm vọng, tôi đi vào buồng hoa tiêu. Báo cáo từ cabin liên lạc "Đồng chí thuyền trưởng, trở kháng ăng ten bằng không". Các đội viên đài vô tuyến đã nhận được bức điện – hẹn (принять телеграмму -  повестку), trong đó thông tin tại địa chỉ của chúng tôi là không có. Người trợ lý chính nhìn lên ăng ten và nói rằng ăng-ten bị bẻ cong, cao su nứt. Những gì nhìn thấy đưa tôi vào thế ở trong ngõ cụt. Ăng-ten bị uốn cong sang trái 45 độ trên trục của nó và hướng bị uốn cong là 60 độ so với trục dọc của tàu. Để uốn cong một trục thép được tôi cứng, bọc cao su bảo hiểm, dày 40 mm cần một cú đánh cực sắc, rất khó tưởng tượng. Nếu chúng tôi “húc” vào một cái gì đó đàn hồi, chẳng hạn một súc gỗ lớn, cột ăng ten kéo xếp được này mới bị uốn cong như thế chứ không thể là cột sắt. Tôi giả định rằng, một con cá heo đã nhảy qua từ góc hướng bên mạn phải 120 độ mà không tính toán chiều cao cú nhảy, hoặc nó nhảy trong lúc tàu nổi lên. Không thể khác được. Trên đường về nhà chúng tôi bắt đầu chuẩn bị đón năm mới. Tại thời điểm này, tôi có một thuyền phó chính trị mới, người thứ ba theo thống kê từ trước đến giờ, một chàng Cossacks, thiếu tá hải quân Soliarnoi Vladimir Vasilevitch.

Là một người đàn ông cao lớn, râu tóc rậm rạp, anh đã kết hôn. Phụ nữ trong thị trấn quân sự này ngắm nhìn anh chàng như con cáo ngắm chùm nho trong truyện ngụ ngôn của Krylov. Anh đi đến khắp nơi trên tàu, tập hợp các đề xuất để chuẩn bị cho bàn tiệc ngày lễ. Thật ngạc nhiên là món đầu tiên mà tất cả yêu cầu là mằn thắn. Một tuần liền chúng tôi nặn những túi mằn thắn. Tôi quay sang thủy thủ trưởng. Bằng cách đặt bánh lái về chế độ điều khiển tự động, anh ta đang bện cái gì đó bằng cuộn dây dứa. Mười phút trước khi năm mới đến, tôi xuống phòng ăn tập thể quân nhân, chúc mừng các thủy thủ và hạ sỹ quan, rồi leo lên cabin sinh hoạt chung của sỹ quan, rót rượu vang, trên biển rượu vang dành cho tất cả tập thể thành viên. Vào thời điểm này có cả ông già Noel và Nàng Bạch Tuyết tóc tết bím dài tới sàn, và một cô nàng Ấn Độ. Quả thực, tôi có chếnh choáng. Rõ là thủy thủ trưởng đã bện đồ hóa trang. Sau đó đến cuộc hòa nhạc. Cứ để ai đó nói với tôi rằng những chàng mujik khỏe mạnh, hơn hai tháng không nhìn thấy đất liền, không thể tự tổ chức nghỉ ngơi, và tôi cũng vậy ... tôi sẽ viết thêm về nó khi viết về thủy thủ đoàn.
          
05 tháng Giêng năm 1985 chúng tôi về đến căn cứ. Băng phủ rất dày. Còn cách bến tàu 10 mét, mà không thể tiếp cận. Trực ban yêu cầu tôi chờ cho đến sáng. Bây giờ ở đây rồi. Nhà ngay gần đó, và chúng tôi sẽ chờ đợi đến sáng hay sao. Sau khi trao đổi với chỉ huy ban 5, chúng tôi cho phun nước từ sitec mũi tàu. Không khí thoát ra từ đó, phá vỡ lớp băng và chúng tôi lách, lách bằng các cú đâm nhẹ, áp vào cầu tàu.

Tâm trạng này đã được diễn tả rất phù hợp bởi tác giả phần lời bài hát "Trở về" («Возвращение») bài hát được thực hiện bởi A. Viktorov:

Chuyến độc hành đã vào giờ cuối,
Tàu quay lái hướng căn cứ, về nhà.
Đây tâm hồn sôi sục reo vang,
Trong niềm vui rạng rỡ huy hoàng.

Tâm trí tràn đầy hình ảnh quê hương,
Đất liền yêu dấu, gia đình thân thương.
Đừng lau lệ mừng vui mong ngày gặp lại,
Ôi nước mắt long lanh bừng sáng mặt con người  

Giờ khắc hỡi sao lê thê,
Ngày như rùa bò mãi.
Những vòng tay đang khao khát yêu đương,
Muốn bay về bên vợ hiền yêu thương.

Tàu tăng tốc đua nhanh,
Xé sóng lao hối hả
Những anh hùng đang trở về từ biển cả
Những thủy thủ tàu ngầm gan dạ.

Con người mệt mỏi - thiên thần mệt mỏi,
Những thủy thủ kiệt sức vì đại dương.
Con đường ngầm dưới trùng khơi biết bao gian khó,
Chia tay nhau sao chẳng thể dễ dàng.

Hằng đêm mơ không khí trong lành,
Hằng đêm mơ mái nhà êm ấm.
Chán ngấy những dông tố đại dương,
Muốn về thăm ngôi nhà quê hương.

Tàu ngầm - sức mạnh kinh hoàng,
Tàu ngầm - anh hùng gặp gỡ,
Tàu ngầm - chủ nhân trên vực thẳm đại dương,
Những người đàn ông chân chính phục vụ người.


К концу подходит автономка,
На базу курс лежит домой.
Душа кричать готова громко
От светлой радости такой.

Рисуют в мыслях сцены встречи
С родной землёй, с родной семьёй,
И слёзы радости, как свечи
Блестят, их не смахнуть рукой.
Как долго тянутся минуты,
Ползут, как черепахи, дни
Уже хотят нагрузки руки,
Хотят добраться до жены.

И мчится лодка самым полным,
Кромсая море на куски,
Идут с морей герои
Отважные подводники.

Устали люди – полубоги,
Устали в море моряки.
Трудны подводные дороги,
Разлуки тоже не легки.

Ночами снится свежий воздух,
Ночами снится дом родной.
Им надоело быть угрозой,
Им хочется побыть собой.

Подводная лодка – грозная сила
Подводная лодка – героев сплотила,
Подводная лодка – хозяйка пучины,
Тебе настоящие служат мужчины.

Hiểu một cách đầy đủ chỉ có thể là các chiến sỹ tàu ngầm và gia đình họ. Hiểu ở một mức độ nào đó là những người dù chỉ mới một lần đi công tác biệt phái hàng tháng.
Những người vợ đã chuẩn bị cho chúng tôi một ngày lễ, - toàn bộ thủy thủ đoàn và gia đình cùng chào đón lại ngày lễ năm mới và tiễn năm cũ trong nhà hàng xinh xắn thuộc thị trấn quân sự nhỏ của chúng tôi. Mọi người bắt đầu bàn tán về chiếc ăng-ten bị cong. Mọi người bắt đầu bàn tán rằng tôi đã húc tàu vào cái gì đó. Chủ nhiệm ngành thông tin phân hạm đội, tôi đã nhắc đến trước đây, đã phát tán tin đồn rằng sau khi nổi lên mặt nước, tôi đã "vặn tháo" phần đầu ăng-ten và đặt nó theo ý tôi muốn. Chỉ khi tôi nói với họ rằng trong vòng ba ngày làm việc, những người công nhân cũng không thể tháo được các đai ốc trên mặt bích đầu ăng-ten thì họ mới không đuổi theo tôi.
Trên biển, tôi đã chờ đợi điện tín báo kết quả xét giải thưởng. Bây giờ thôi không chờ nữa. Khi tôi lên phòng ông ký báo cáo khẩn, tư lệnh phân hạm đội cho biết rằng Tổng tư lệnh Hải quân đã ra một quyết định chính trị. Tại Hạm đội Biển Bắc kết quả xạ kích còn tồi tệ hơn, cộng thêm việc bị mất ngư lôi. Tại hạm đội vào mùa đông 1984, khu thị trấn quân sự chìm trong băng giá, nhưng tháng Năm - một đám cháy và vụ nổ tại kho vũ khí mìn và ngư lôi. Để nâng đỡ tinh thần các thủy thủ phương bắc, Tổng tư lệnh đã quyết định - giải thưởng về cuộc tấn công bằng ngư lôi trao cho Hạm đội Biển Bắc, còn tấn công bằng đạn tên lửa - Hạm đội Thái Bình Dương. Chuyện như vậy vẫn thường xảy ra.

..........
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Mười, 2011, 01:32:06 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #511 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2011, 01:09:44 am »

(tiếp)

Phóng thiết bị vũ trụ
(Космический старт)


(Về chuyến bay của “BOR-4”, nguyên mẫu cho tàu con thoi “Buran”)
“Tập san Hàng hải”, tháng 11 năm 2004, số 11
("Морской сборник", ноябрь 2004 года, N 11)
Bài đã đăng trên site “Buran”

Dmitriev Vladimir Vasilevitch
Đại tá về hưu,
Tốt nghiệp Trường dự bị sỹ quan Hải quân Nakhimov Leningrad năm 1966 (ЛНВМУ),
và Trường Sỹ quan Kỹ thuật vô tuyến điện tử Hải quân mang tên A.S.Popov năm 1971 (ВВМУРЭ им. А.С. Попова);
kết thúc đời phục vụ quân đội năm 1997 trên cương vị trợ lý chính của Đô đốc Trực ban Sở chỉ huy Trung tâm Hải quân LB Nga với quân hàm đại tá hải quân, được tặng thưởng huân chương “Danh Dự” ("Знак Почета") và 9 huy chương.



Thiếu tá hải quân Dmitriev Vladimir Vasilevitch.
Ảnh chụp năm 1982.

 
Vào đêm trước của một trong những ngày kỷ niệm, các đồng nghiệp cũ khẩn thiết kêu gọi tôi chia sẻ những hồi ức về những sự kiện đáng nhớ nhất trong quá khứ vẻ vang của Hải quân chúng ta, mà tôi đã trực tiếp tham gia.
Tôi đã may mắn phục vụ trong Hạm đội Hải quân trên các cương vị khác nhau liên quan trực tiếp đển việc đảm bảo hoạt động thông tin liên lạc quân sự nhanh chóng trên tầm xa của hải quân hơn ba mươi năm và đã không chỉ chứng kiến mà còn tham gia nhiều sự kiện ở Liên Xô, Nga và thế giới.

Suy nghĩ về những gì sẽ viết, khi ở nhà tôi thường đến bên các tủ kính nơi tôi đã cẩn thận giữ gìn quà lưu niệm từ các nước khác nhau. Nào là san hô và vỏ trai từ các khu vực của quần đảo Dahlak, Socotra, quần đảo Chagos, Cuba, Ấn Độ và những vùng miền khác, và đây một mảnh vỡ, mặt cạnh vỡ giống như nhựa xốp màu trắng, còn mặt kia thì được đánh bóng và đen như than, như thể bị đốt cháy. ..
Ngày lịch sử của mảnh vật liệu này sẽ được thảo luận sau đây trong bài tường thuật này.
Tôi quyết định viết về một số khía cạnh nhất định của một hoạt động phức tạp, do Hải quân Xô Viết thực hiện, mà việc đảm bảo cho hoạt động đó vốn đã được lên kế hoạch và thực hiện bởi tập thể Trung tâm thông tin liên lạc tác chiến tầm xa Hải quân Xô Viết số 109 (109 TSUDOS - 109 Центра дальней оперативной связи ВМФ - 109 ЦУДОС ВМФ), và trong đó tôi đã có vinh dự phục vụ suốt 14 năm.

Trong những năm đầu thập kỷ 80 thế kỷ trước, Liên Xô đã đi gần đến việc xây dựng trong thực tế tàu vũ trụ có người lái sử dụng nhiều lần "Buran", được thiết kế để thăm dò không gian và để đảm bảo vị thế quân bình chiến lược của Liên Xô trên thế giới.
Trên cơ sở nguyên mẫu "Buran" người ta đã làm một bản copy quy mô nhỏ và bên ngoài có dáng vẻ không giống – đó là sản phẩm "BOR" ("Tàu tên lửa quỹ đạo không gian không người lái" - "Беспилотный орбитальный ракетоплан"), trên con tàu đó trong điều kiện khắc nghiệt của không gian vũ trụ bên ngoài phải kiểm nghiệm trên thực tế các giải pháp kỹ thuật khác nhau của các nhà khoa học của chúng ta (thử nghiệm về plasma, về tính cơ động, v.v.).

"Bor" – đó là sản phẩm hiện đại hóa của một trong những phiên bản nâng cấp của chiếc máy bay vũ trụ có người lái sử dụng vào mục đích quân sự, mà việc sản xuất đã bị đình chỉ.
Cuộc thử nghiệm đầu tiên thiết bị vũ trụ này, sản phẩm "Bor-4", trên quy mô hạn chế được thực hiện thành công vào năm 1980 tại trường bắn của binh chủng tên lửa chiến lược, trường bắn và thử nghiệm "Kapustin Yar" với việc tiếp đất của thiết bị trên tại trường bắn "Balkhash" mà không có sự tham gia của các lực lượng cũng như các phương tiện kỹ thuật của Hải quân Xô Viết.
Để thử nghiệm trên quy mô đầy đủ các giải pháp kỹ thuật của "Bor", cần cho sản phẩm thực hiện bay ít nhất đủ một vòng quay trên quỹ đạo xung quanh trái đất.

Khi tính đến độ rủi ro quốc tế trong việc thực hiện trên quy mô đầy đủ cuộc thử nghiệm "Bor", có một thực tế sẽ xảy ra khi thiết bị đi vào bầu khí quyển dày đặc của Trái đất và hạ cánh bằng dù xuống một khu vực được xác định trước thuộc lãnh thổ Liên Xô, các động cơ hãm của "Bor" sẽ được đưa vào hoạt động trên không phận các khu vực đông dân cư của Tây Âu và trong trường hợp không hay, rất có thể do tính chất mới mẻ trong các giải pháp của thiết bị vũ trụ này mà làm nảy sinh những vấn đề nghiêm trọng cho chính sách đối ngoại của nước ta.
Có tính đến hậu quả có thể, Ủy ban Trung ương ĐCSLX và chính phủ Liên Xô quyết định tiến hành thử nghiệm quy mô đầy đủ cho thiết bị "Bor" với việc tính toán để nó hạ cánh xuống mặt nước trong một khu vực tương đối vắng vẻ ở Nam bán cầu trên Ấn Độ Dương - khoảng 1.000 km về phía Tây Úc (phía nam của quần đảo Cocos). Địa điểm tiếp nước nói trên ở phía bên kia của địa cầu – gần như là điểm đối ảnh (antipode) với Moskva (khoảng cách không gian khoảng 20 000 km).

Năm 1981, Hải quân Liên Xô đã được giao nhiệm vụ:
• Thứ nhất – tổ chức các nhóm có lực lượng và phương tiện cần thiết để trục vớt, canh phòng, bảo vệ đối tượng, thu hồi thiết bị vũ trụ đã tiếp nước tại khu vực trách nhiệm;
• Thứ hai - tổ chức quản lý các hoạt động tìm kiếm-cứu nạn và đảm bảo không chỉ với các lực lượng Hải quân trên biển, mà còn với các sở chỉ huy điều khiển hiệp đồng của các Lực lượng vũ trang Liên Xô và các tổ chức dân sự.
Ngoài ra, mục tiêu chính không chỉ là các biện pháp tìm kiếm-cứu nạn được Hải quân thực hiện, mà còn là việc (đảm bảo) tiếp nhận các kết quả làm việc sơ bộ của thiết bị vũ trụ một cách nhanh nhất, trực tiếp nhất, ngay tại chỗ trên đại dương cho đại diện các ngành công nghiệp và viện nghiên cứu khoa học (НИИ), gửi các kết quả đó cho lãnh đạo của họ theo các kênh liên lạc của Hải quân, để sau đó báo cáo với ban lãnh đạo cấp cao Liên Xô.

Về bản chất, gánh nặng chính và trách nhiệm chính trong đảm bảo các hoạt động tìm kiếm-cứu nạn và đảm bảo cho cuộc thử nghiệm thiết bị "Bor" từ lúc thiết bị cất cánh đến khi thu hồi đưa nó về lãnh thổ Liên Xô đã được trao cho Hải quân Xô Viết.
Những vấn đề tương tự về độ lớn của quy mô, độ phức tạp của vấn đề trong quản lý chỉ huy và duy trì thông tin liên lạc thường xuyên liên tục trong thời gian thực với một nhóm tàu Hải quân cũng như với từng tàu trong nhóm, hoạt động tại một khu vực đại dương xa xôi như vậy, trong những điều kiện rất khó khăn cho việc lan truyền sóng vô tuyến, (cho đến bấy giờ) không thường xuyên được đặt ra với Hải quân Xô Viết.

Giải pháp cho những vấn đề này là phức tạp bởi yêu cầu nghiêm ngặt đối với việc chuyển các luồng thông tin lớn, gồm thông tin chỉ huy điều khiển, thông tin quỹ đạo (vị trí của thiết bị trong không gian) và thông tin đo đạc từ xa (về hoạt động của các hệ thống trên thiết bị), thông tin về tìm kiếm và trục vớt tàu vũ trụ, thời tiết, tình báo, và còn cả các thông tin về an toàn hóa chất, quét mìn cho khu vực thiết bị hạ cánh, thông tin tư vấn từ các đại diện ngành công nghiệp, các vấn đề khác và tất cả những điều đó – phải nhanh chóng và kịp thời.
Bên cạnh đó, việc truyền tải trên các kênh điện thoại dữ liệu quỹ đạo và dữ liệu đo xa từ các tàu biển về Tổ hợp Đo lường-Chỉ huy Trung ương, nằm ở Posmoskovie (ngoại ô Moskava), trong quy mô thời gian thực thời bấy giờ Hải quân Xô Viết chưa hề áp dụng (thiết bị này trên các tàu của Hải quân Xô Viết không có và việc truyền tải các thông tin trên kênh điện báo được tiến hành sau khi đã có xử lý thủ công một cách thích hợp ngay trên tàu đo đạc - chỉ huy (корабле - командно-измерительном комплексе - кик) của Hải quân Xô Viết.

.......
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Mười, 2011, 05:47:30 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #512 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2011, 02:49:24 pm »

(tiếp)


Tất cả các nhiệm vụ quản lý điều khiển cần được giải quyết trong quy mô thời gian thực, và việc thông tin liên lạc đòi hỏi được tổ chức với sở chỉ huy bộ tham mưu hành quân của nhóm tàu đặc nhiệm này, cũng như vào đúng thời điểm cần thiết với một con tàu riêng trong nhóm ở trên biển không chỉ từ Bộ Tổng Tham mưu Hải quân, mà còn từ một loạt các sở chỉ huy: các binh chủng của Lực lượng vũ trang Liên Xô, bãi phóng "Kapustin Yar", các trạm viễn trắc và trạm theo dõi quỹ đạo, các điểm điều khiển quản lý khác nhau của các ngành công nghiệp và các viện nghiên cứu. Tình hình phức tạp hơn bởi thực tế là mỗi bên tham gia có các biện pháp của riêng mình, và coi nó là quan trọng nhất.
Yêu cầu là xây dựng một tổ chức thông tin liên lạc nằm dưới sự chỉ huy quản lý duy nhất bởi Hải quân Xô Viết, để cho phép nó có khả năng giải quyết được các nhiệm vụ đặt ra.

Có kinh nghiệm trước đó về các biện pháp đặc biệt phức tạp trên quy mô lớn của Hải quân, đã từng là người tham gia trực tiếp vào các sự kiện đó chính là tôi, chẳng hạn như đảm bảo thông tin liên lạc cho Tổng bí thư UBTU ĐCSLX trong chuyến bay từ Moskva sang Mỹ đến Cuba và trở lại trong những năm 1973-1974 (sự kiện "Kavkaz-6" "Kavkaz-6K"), cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973, khi phải đồng thời đảm bảo thông tin liên lạc giữa Sở chỉ huy Trung ương Hải quân Liên Xô với 50 tàu chiến thuộc binh đoàn tác chiến cơ động số 5 của Hải quân Xô Viết (5 Опэск ВМФ) trong biển Địa Trung Hải và các khu vực chiến tranh và xung đột khác trên thế giới, khu vực xảy ra tai nạn, tập trận, trinh sát, cũng như đảm bảo thông tin liên lạc cho khu vực thử nghiệm tên lửa, vũ khí hạt nhân, và các thiết bị kỹ thuật vũ trụ mới, các chuyến bay của các phi hành gia và những người khác, giúp phát triển một tổ chức thông tin liên lạc độc nhất vô nhị vào thời gian đó, chuẩn bị các lực lượng, phương tiện để giải quyết các vấn đề tổ chức và kỹ thuật.

Trực tiếp chịu trách nhiệm chuẩn bị, điều phối và tiến hành các biện pháp này từ ngành thông tin liên lạc Hải quân, theo đề cử của Chủ nhiệm Thông tin liên lạc Hải quân Xô Viết, theo mệnh lệnh của Tổng Tham mưu trưởng Hải quân Liên Xô đã bổ nhiệm thiếu tá hải quân Vladimir Vasilevitch Dmitriev khi ấy mới chỉ là sĩ quan cao cấp ban tác chiến ứng dụng các hệ thống thông tin liên lạc vũ trụ và tự động hóa của Hải quân thuộc Trung tâm TSUDOS số 109 Hải quân Liên Xô (109 ЦУДОС ВМФ – Trung tâm điều khiển thông tin liên lạc tác chiến tầm xa), người đã có những kinh nghiệm thực tế lớn về tổ chức thông tin liên lạc vô tuyến với các trung tâm thông tin liên lạc trên bờ biển, với các tàu mặt nước và tàu ngầm của hải quân hoạt động trên các biển và đại dương.


Raduga (Gran) 11F638. Vệ tinh quỹ đạo địa tĩnh Xô Viết thế hệ đầu tiên. Những vệ tinh này tạo thành Hệ thống Thông tin Liên lạc Vệ tinh Duy nhất (Единую систему спутниковой связи - ЕССС) được tiếp nhận vào biên chế vũ khí trang bị năm 1979. Ngoài việc đảm bảo liên lạc điện thoại điện báo cho các LLVT Liên Xô, nó còn được sử dụng cho mục đích dân sự: một vệ tinh truyền dẫn tiếp sức phục vụ kinh tế quốc dân Liên Xô và được tổ chức quốc tế "Intersputnik" (Intelsat) sử dụng.

Tôi xin lưu ý rằng trong sự phát triển, huấn luyện đào tạo và chuẩn bị và ngay trong chính việc tiến hành những hoạt động đó, tham gia vào tuyến thông tin liên lạc của Hải quân, có hàng trăm con người thông minh, danh sách của họ, rất tiếc không thể kể nổi, cũng như không thể kê hết danh sách hàng ngàn quân nhân và nhân viên dân sự thuộc Bộ Tổng Tham mưu, các quân binh chủng khác nhau trong Lực lượng vũ trang Liên Xô, các đơn vị quân sự, các viện và trung tâm nghiên cứu, các trung tâm truyền thông, các chuyên gia dân sự từ các Bộ, ngành, tổ chức khác.
Nhiệm vụ quản lý chỉ huy bằng lực lượng của Hải quân trong khu vực xa xôi như vậy, nếu không có thông tin liên lạc sẽ không có chỉ huy quản lý, nhiệm vụ đó chỉ có thể được giải quyết bằng cách sử dụng toàn diện, trên số lượng và quy mô lớn các kênh vũ trụ (đó là biện pháp thông tin liên lạc chủ yếu), và kênh liên lạc vô tuyến truyền thống (dự trữ), và phải có độ dự trữ lớn gấp nhiều lần.


Molniya (11F637).


Minh họa quỹ đạo quét của hệ thống "Molniya".

Tuy nhiên, tại thời điểm lịch sử đó (1981), hệ thống truyền thông vũ trụ của Hải quân Xô Viết để đảm bảo làm việc thường xuyên trong quy mô thời gian thực nhằm cung cấp thông tin liên lạc điện thoại và điện báo của các tàu hải quân ở bất cứ đâu trên các đại dương của thế giới nằm trong một hệ thống thông tin liên lạc vũ trụ duy nhất (ESKS - Единой системе комической связи - ЕСКС) thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô thông qua vệ tinh địa tĩnh "Gran" và thiết bị vũ trụ "Molniya-3" có quỹ đạo ellipse cao, chỉ mới được tạo ra, dù cho tại các căn cứ thông tin liên lạc trên bờ biển của Hải quân Liên Xô ở trong và ngoài nước, hệ liên lạc vũ trụ này đã được sử dụng rộng rãi.


Quỹ đạo tiêu biểu (высокоэллиптические) của "Molniya". Các điểm màu đỏ đánh dấu thời gian chuyển động của vệ tinh trên quỹ đạo.

Tính toàn bộ các tàu được trang bị các đài thông tin liên lạc vệ tinh để làm việc trong hệ thống ESKS của Bộ Quốc phòng Liên Xô, ở tất cả các hạm đội Hải quân Xô Viết mới chỉ có 5 đơn vị mà thôi. Tất cả các trạm thông tin liên lạc không gian này là các mẫu đã có kinh nghiệm (đã thử nghiệm), được chăm sóc bởi các đại diện ngành công nghiệp, và không thể đảm bảo được việc duy trì thông tin liên lạc trong suốt ngày đêm. Ngoài ra, để thực hiện các nhiệm vụ ấy trong điều kiện thời tiết khó khăn và trong một khoảng thời gian dài, các tàu này vì nhiều lý do không thể ra biển theo thời gian như dự kiến.

Quá trình tiếp nhận vào biên chế trang bị, sản xuất công nghiệp hàng loạt và trang bị với số lượng và quy mô lớn các trạm liên lạc vũ trụ như vậy cho các tàu Hải quân Xô Viết, cũng như việc liên lạc vũ trụ chiếm vị trí dẫn đầu trong hệ thống liên lạc của Hải quân Xô Viết, diễn ra muộn hơn và lấy mất thời gian nhiều năm (14 năm phục vụ của tôi trong trung tâm TSUDOS Hải quân số 109).
Giúp ra khỏi tình thế thông tin liên lạc khó khăn này là quan hệ riêng của Trung tâm TSUDOS Hải quân số 109 với phi công - nhà du hành vũ trụ Liên Xô số 2, Trung tướng Titov Gherman Stepanovitch, Phó Chủ nhiệm Tổng cục trang bị Vũ trụ Bộ Quốc phòng Liên Xô, Chủ tịch Ủy ban Nhà nước về thử nghiệm thiết bị vũ trụ không người lái raketoplan.

PS1:
Ракетоплан (rocket-powered aircraft or rocket plane) – thiết bị bay dùng động cơ tên lửa:
Thiết bị bay mà quỹ đạo của nó bao gồm từ lấy đà, chiếm lĩnh độ cao được thực hiện nhờ trợ giúp của động cơ tên lửa và quá trình bay có việc hãm các động cơ này theo tính toán lực nâng khí động học của cánh hoặc thân chịu lực. Vì tiêu tốn nhiên liệu lớn cho động cơ tên lửa nên phase hoạt động tích cực của chuyến bay khi các động cơ này hoạt động diễn ra tương đối ngắn (vài phút), nhưng đổi lại tốc độ và độ cao đạt được, tùy thuộc loại động cơ lấy đà, có thể rất lớn, kể cả trên quỹ đạo. Do vậy, phạm vi bay có độ dài lớn, đạt đến tầm xuyên lục địa. Để tăng tốc độ và độ cao vào cuối giai đoạn hoạt động tích cực, raketoplan có thể có các bộ phận bỏ đi (thùng nhiên liệu, khối lấy đà tên lửa); thêm vào đó việc xuất phát từ mặt đất có thể sử dụng cách phóng raketoplan từ máy bay mẹ (с самолёта-носителя).



Phân tích tốc độ vũ trụ thứ nhất và thứ hai theo Isac Newton. A và B – đạn rơi xuống trái đất, C- đạn vào quỹ đạo tròn, D – vào quỹ đạo ellipse, E – bay ra vũ trụ mở.

Tư tưởng chế tạo raketoplan nổi lên từ những năm 20-30 thế kỷ trước trong các công trình nghiên cứu các mẫu khả thi cho tàu vũ trụ (K.E.Siolkovsky, F.E.Sander và những người khác). Năm 1944 E. Zenger (Đức) đã phát triển đề án raketoplan-ném bom siêu thanh, bay trên biên giới khí quyển với tốc độ quỹ đạo tiểu hành tinh (суборбитальной скоростью – suborbital speed, tốc độ này nhỏ hơn tốc độ vũ trụ thứ nhất để thiết bị bay không ra khỏi quỹ đạo của vệ tinh nhân tạo của trái đất, hay còn gọi là tốc độ elliptic).


Raketoplan X-15 của Mỹ.

Trong khi đó có đề xuất nâng cao tầm xa chuyến bay, sử dụng sự chuyển động trong khí quyển theo quỹ đạo hình sóng lượn mà không giảm bay.
Trong những năm 195x Công ty Hoa Kỳ “North American” đã chế tạo thiết bị raketoplan siêu thanh (hypersonic) thử nghiệm X-15, phóng từ máy bay mẹ B-52. Năm 1959 – 1967 ba bản mẫu raketoplan này đã thực hiện 199 chuyến bay có người lái. Đồng thời trong các chuyến bay khác nhau đã đạt tới tốc độ 7297 km/giờ (Trị số Mach của chuyến bay M(() = 6,72) và độ cao là 107 960 m.
Trong những năm 1957 – 1963, công ty “Boeing” và Không quân Hoa Kỳ đã tiến hành làm việc với đề án máy bay quỹ đạo raketoplan X.20, thiết kế để ra khỏi quỹ đạo và cơ động rộng rãi với việc sử dụng lực khí động khi hạ xuống trong bầu khí quyển. Hàng loạt các đề án raketoplan (rocket plane) đã được phát triển ở các quốc gia khác nhau.


PS 2:

Tàu đo đạc tổng hợp (Корабль измерительного комплекса – КИК - KIK) — lớp tàu đặc biệt của Hải quân Xô Viết, được thiết kế để kiểm tra các tham số chuyến bay của tên lửa trên các đoạn quỹ đạo khác nhau, cũng như tiếp tục công việc của các trạm quan trắc mặt đất (наземных измерительных пунктов – НИП - NIP) và đảm bảo cho công tác thử nghiệm tên lửa đạn đạo liên lục địa - Межконтинентальная баллистическая ракета МБР – MBR - ICBM) trên tầm xa tới hạn. Theo phân loại của NATO — Missile Range Instrumentation Ship.

.....
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Mười, 2011, 10:30:56 am gửi bởi qtdc » Logged
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #513 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2011, 07:21:40 pm »

Đọc "sơ-ri" của bác càng ngày càng thấy thú,  Grin; vỡ ra nhiều cái quá,  Grin.
Logged

qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #514 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2011, 08:03:29 pm »

(tiếp)


Tôi có yêu cầu chọn một chiếc tàu làm tàu – truyền dẫn tiếp sức vô tuyến của Hải quân Xô Viết trong số 3 chiếc tàu thuộc Tổ hợp chỉ huy-đo đạc độc lập số 3 (đóng căn cứ tại Leningrad) và trang bị cho chúng tôi trạm thông tin liên lạc vũ trụ cần thiết, và yêu cầu này đã được thỏa mãn.
Các con tàu, thêm vào đó, còn được trang bị chính thức các máy móc: thiết bị thu nhận quỹ đạo, thiết bị đo đạc từ xa và truyền tự động các thông tin này về Tổ hợp Chỉ huy-Đo đạc Trung ương ở Posmoskovie (TSKIK- Центральный командно-измерительный комплекс - ЦКИК) thông qua kênh thông tin liên lạc vệ tinh.

Tất cả dẫn đến những hoạt động theo kế hoạch của trung tâm TSUDOS 109 Hải quân Xô Viết tại Leningrad, chúng tôi cùng một lúc bắt tay vào chuẩn bị 3 tàu, mà chủ yếu là các tàu nghiên cứu khoa học (nis - нис) "Nhà du hành vũ trụ Georgy Dobrovolsky" ("KGD" - "Космонавт Георгий Добровольский" -"КГД"), Nis "Nhà du hành vũ trụ Viktor Patsayev" còn Nis "Nhà du hành vũ trụ Pavel Belyaev" – tàu dự bị.


Nis “Nhà du hành vũ trụ Georgy Dobrovolsky”.

Đến thời điểm này, đã xác định được trong Hải quân biên chế nhóm tàu ở hướng Ấn Độ Dương, số lượng là sáu tàu (hai trong số đó đã trang bị phương tiện thông tin liên lạc vệ tinh và số khác có hệ thống liên lạc vệ tinh):
• tàu trang bị tổ hợp chỉ huy-đo đạc (KIK) thuộc Hạm đội Thái Bình Dương "Chumikan" (thành phố Petropavlovsk-Kamchatka) – đặt Sở chỉ huy của Bộ Tham mưu hành quân;
• tàu tìm kiếm-cứu hộ (PSK) Hạm đội Biển Đen: "Yamal" – tàu chính, "Absheron" và "Baskunchak" – dự bị (thành phố Donuzlav, tỉnh Crimea);
• tàu chống ngầm cỡ lớn (BPK) thuộc Hạm đội Thái Bình Dương "Chapayev" (Vladivostok) - tàu bảo vệ và hộ tống;
• Tanker Hạm đội Thái Bình Dương (thành phố Vladivostok).

Nis "KGD” được trang bị một trạm viễn thông vệ tinh "Crystal", cho phép làm việc trong hệ thống thông tin liên lạc thống nhất qua vệ tinh (ESKS) của Bộ Quốc phòng Liên Xô trong dải sóng xăng ti mét thông qua vệ tinh địa tĩnh và thiết bị vũ trụ quỹ đạo ellipse cao và đảm bảo hoạt động cho ba kênh điện thoại và hai kênh điện báo thông tin liên lạc mở (không bí mật) hoạt động cùng một lúc. Trên các tàu của Tổ hợp chỉ huy-đo đạc độc lập số 3 không có các thiết bị liên lạc bí mật và không thể lắp đặt lên đó được (nếu không chúng sẽ mất tính chất tàu dân sự), mà sự phát triển một tổ chức thông tin liên lạc độc nhất vô nhị tại thời điểm đó yêu cầu phải đáp ứng các thủ tục chế độ mật.


Kik “Chumikan”.

......
Đọc "sơ-ri" của bác càng ngày càng thấy thú,  Grin; vỡ ra nhiều cái quá,  Grin.
Các bạn đọc hãy góp ý phê bình nhé. Kiến thức là của tất cả mọi người.
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Mười, 2011, 10:33:32 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #515 vào lúc: 19 Tháng Mười, 2011, 12:59:54 am »

(tiếp)


Trong thời hạn sớm nhất đã soạn thảo, phối hợp đồng bộ, phê duyệt tại các cấp thẩm quyền khác nhau các bộ tài liệu sau: Mệnh lệnh về Thông tin liên lạc của Bộ Tổng Tham mưu Hải quân chỉ thị các biện pháp và kế hoạch khác nhau để đào tạo, chuyển đổi trang bị (tái trang bị vũ khí) sang các trang thiết bị kỹ thuật mới, tổ chức biên chế quân nhân, phương tiện thông tin liên lạc và đảm bảo của các sở chỉ huy, các trung tâm thông tin liên lạc, và các tàu trên tuyến truyền tin, độc lập với quyền sở hữu thiết bị của các ngành nào tham gia vào tuyến thông tin liên lạc này. Hoạt động của các thành phần tham gia bắt đầu ngay lập tức.

Mệnh lệnh về các biện pháp thông tin liên lạc đã lên kế hoạch thông qua tàu-truyền dẫn tiếp sức để hệ thông tin liên lạc vũ trụ tác động theo các hướng:
• Bộ Tổng tham mưu Hải quân - NIS "KGD" – thông tin liên lạc tác chiến trên đường thoại sử dụng bảng mã thoại được phát triển một cách đặc biệt;
• TSKIK - NIS "KGD" - chuyển giao thông tin quỹ đạo và quan trắc từ xa;
• TSKIK - NIS "KGD" – phục vụ thông tin liên lạc điện thoại (không mã thoại đặc biệt);
• TSKIK - NIS "CHD" - phục vụ thông tin liên lạc điện báo;
• Bộ Tổng Tham mưu Hải quân - KIK "Chumikan" - thông tin liên lạc điện báo mã hóa theo 2  lần.
Liên lạc điện báo mã hóa 2 lần (телеграфная засекреченная связь по двум кратам) - thực chất là hai đường liên lạc điện báo, một trong số đó qua tổng đài được chuyến đến sở chỉ huy cục tìm kiếm-cứu hộ Hải quân Xô Viết (PSS VMF), còn đường kia được dành để truyền chuyển tiếp tới các sở chỉ huy khác hoặc (và) để liên lạc với PSK "Yamal", đang làm việc trên kênh vô tuyến cùng KIK "Chumikan".

Đường liên lạc điện báo mã mật trên thiết bị ZAS T-206 đã tổ chức cho Bộ Tổng tham mưu Hải quân sử dụng kết hợp cả kênh liên lạc vũ trụ, từ NIS "KGD", và kênh vô tuyến, từ KIK "Chumikan." Kênh vô tuyến "KGD - Chumikan" được nhân đôi ở ba tần số của băng song tần số ngắn KV (HF) và cực ngắn UKV (VHF và UHF); do đó NIS "KGD" tự mình hoạt động như một tổng đài chuyển mạch cho kênh liên lạc vũ trụ và tổng đài chuyển mạch có chất lượng tốt vào loại nhất của kênh vô tuyến, thực hiện chuyển tiếp – tiếp sức thông tin liên lạc theo các hướng nói trên. Ví dụ, theo lần thứ nhất liên lạc điện báo mã hóa trực tiếp được tổ chức qua Cục tìm kiếm-cứu nạn Hải quân (PSS VMF) - PSK "Yamal" theo kênh thành phần thông qua tuyến " KGD " - "Chumikan" - "Yamal", đồng thời lần thứ hai - liên lạc TSKIK - "Chumikan" hoặc với các sở chỉ huy khác và được tổ chức khi cần thiết.


PSK "Yamal".

Chính bản thân NIS "Nhà du hành vũ trụ Gheorgy Dobrovolski," là tàu tiếp sức vô tuyến (кораблю-ретранслятору), được dự kiến làm việc trong hệ thống liên lạc vũ trụ thống nhất của Bộ Quốc phòng Liên Xô thông qua thiết bị vũ trụ có quỹ đạo địa tĩnh (KA) với một trong những trung tâm thông tin ven biển của Bộ Quốc phòng Liên Xô ở Viễn Đông và sau đó truyền dẫn chuyển tiếp theo  không gian vũ trụ với Moskva đó là hai bước nhảy vào không gian vũ trụ, bởi vì do các khoảng cách rất lớn giữa tàu biển và Moskva nên sự có mặt đồng thời của chúng trong vùng tầm nhìn vô tuyến (liên lạc; hay còn gọi là vùng phủ sóng) của một vệ tinh địa tĩnh (nằm trên đường xích đạo ở độ cao 36 000 km) là không thể xảy ra.
Ngoài ra, cũng đạt được thành công trong việc lên kế hoạch và tổ chức liên lạc điện thoại qua vũ trụ trực tiếp giữa KIK "Chumikan" và Sở chỉ huy Cục tìm kiếm – cứu nạn Hải quân theo một hệ thống liên lạc vũ trụ khác trong dải sóng đề xi mét, qua thiết bị vũ trụ quỹ đạo ellipse cao "Molniya-1" bằng các phiên liên lạc trong chế độ mở. Việc liên lạc được lên kế hoạch thực hiện theo các phiên vì khoảng cách rất xa, bởi vậy khu vực tầm nhìn vô tuyến (liên lạc) tương hỗ thông qua các thiết bị vũ trụ này xảy ra giữa Moskva và KIK "Chumikan" chỉ ở các góc thấp của đường bay của thiết bị vũ trụ, khi đã ở trên đường chân trời, và nó kéo dài không lâu.


SKR “Gordelivyi”.


Ngoài ra, kế hoạch dự kiến sử dụng như là một hệ thống dự bị hoạt động liên lạc vũ trụ thuộc Hải quân Xô Viết thông qua thiết bị vũ trụ quỹ đạo thấp để liên lạc với BPK "Chapaev" trong chế độ "chuyển giao thông tin", nhưng vào phút cuối, khi đang trên biển, con tàu này đã được thay thế bởi một tàu hộ tống khác (SKR "Gordelivyi", đề án 1135M, lữ đoàn tàu chống ngầm 201 Hạm đội Thái Bình Dương. Nói thêm, vào năm 1983, trong khi làm việc tại cùng một địa điểm để thu hồi Bor-4 "Kosmos-1445", tham gia hộ tống và bảo vệ là BPK "Sposobnyi").

Tổ chức phát triển thông tin liên lạc trên biện pháp này dự kiến cả sự sử dụng rộng rãi các phương tiện liên lạc vô tuyến của các tàu trong biên đội. Việc liên lạc vô tuyến theo kế hoạch sẽ tổ chức thông qua các trung tâm truyền tin ven biển theo khu vực lãnh thổ: Trung tâm truyền tin trung ương Hải quân Xô Viết (Moskva), trung tâm truyền tin Hạm đội Thái Bình Dương (Vladivostok), trung tân truyền tin khu vực (ZUS) - 3 (Yemen), ZUS - 5 (Cam Ranh, Việt Nam), ZUS - 1 (thành phố Frunze), Sở chỉ huy binh đoàn tác chiến cơ động số 8 Hải quân Xô Viết (tại thời điểm đó là khu vực đảo Socotra - Ấn Độ Dương), và các trung tâm truyền tin khác trên khắp thế giới. Trong số này có triển vọng nhất về điều kiện thuận lợi cho vấn đề truyền dẫn sóng vô tuyến là các trung tâm truyền tin khu vực của Hải quân Xô Viết ở Việt Nam và thành phố Frunze thuộc nước CHXHCN Xô Viết Kirghizi.

Kênh vô tuyến điện báo được tổ chức từ KIK "Chumikan" và PSK "Yamal" trên thiết bị ZAS T-206 (thiết bị mã hóa điện báo) được lên kế hoạch truyền chuyển tiếp theo các kênh liên lạc vũ trụ hệ thống ESKS thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô từ các trung tâm truyền tin đó của Hải quân Xô Viết về Bộ TTM Hải quân để dự trữ liên lạc vũ trụ cho Bộ Tổng tham mưu Hải quân từ KIK "Chumikan" thông qua NIS "KGD" (đường liên lạc chính), và tổ chức truyền dẫn chuyển tiếp đến các sở chỉ huy khác. Liên lạc mã hóa đường thoại trên thiết bị mã hóa ZAS T-600 được lên kế hoạch là đường liên lạc "nóng" dự phòng cuối cùng. Liên lạc điện thoại vô tuyến mã hóa trên thiết bị ZAS T-222 đã không được xem là khả thi, nếu chỉ xét theo các điều kiện thuận lợi nhất về truyền sóng vô tuyến trong các phiên liên lạc ngắn ngủi.

........
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Mười, 2011, 01:47:58 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #516 vào lúc: 19 Tháng Mười, 2011, 12:57:25 pm »

(tiếp)

Quyết định tổ chức cụ thể liên lạc vô tuyến với các trung tâm truyền tin nào của Hải quân Xô Viết cần phải được đưa ra trên các tàu của biên đội một cách tập trung ngay tại nơi tiến hành chiến dịch tìm kiếm – cứu nạn, dựa trên các điều kiện thuận lợi nhất cho việc lan truyền sóng vô tuyến ngay khi tàu tiếp cận khu vực hoạt động hoặc có độ tin cậy cao hơn nữa - ở ngay trong khu vực hoạt động.
Vì mục đích này, đã có hoạt động thể theo yêu cầu bổ sung, ngay sau khi các con tàu ra biển, những con tàu được xem là lỗi thời và xếp về thê đội dự bị, nhưng lại đã chứng minh hiệu quả của nó, khi đó hệ thống sẽ truyền đồng thời đến tất cả các trung tâm truyền tin ven biển được phân bố theo khu vực địa lý trên toàn thế giới, một loại tín hiệu điều khiển - đánh dấu (mốc vô tuyến) trên toàn bộ băng tần số KV có thể thiết lập được. Hệ thống cho phép xác định chất lượng tín hiệu nhận được trên các tàu của biên đội, nghĩa là, theo các điều kiện lan truyền sóng vô tuyến, trung tâm truyền tin nào của Hải quân Xô Viết trên thế giới mà con tàu cần kết nối liên lạc tại thời điểm đó, việc này nhằm đảm bảo thông tin liên lạc suốt ngày đêm theo các kênh vô tuyến với các con tàu đang ở trong những khu vực bất kỳ của các đại dương thế giới (tất nhiên trừ khi không có bão từ và nhiễu loạn khác).

Toàn bộ tổ chức truyền tin phức tạp này và thậm chí là duy nhất tại thời điểm đó, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, đòi hỏi soạn thảo vô số tài liệu độc đáo về tổ chức và sử dụng nó, chỉ đạo và hướng dẫn tiến hành tái trang bị các phương tiện và thiết bị kỹ thuật truyền tin đặc biệt cho các tàu chiến (tàu thường), cho các trung tâm truyền tin, bao gồm cả trung tâm không thuộc biên chế Hải quân, phân bố theo địa lý khắp Liên Xô và ở nước ngoài, cũng như soạn thảo các tài liệu tác chiến và hướng dẫn kỹ thuật. Tất cả đều đã được bàn thảo, đồng ý, thực hiện rồi thử nghiệm trong thời hạn ngắn nhất - chỉ một vài tháng và phù hợp với thời điểm trước khi tàu ra khơi.

Nói chung, có không biết bao nhiêu "máu đã đổ" trong giai đoạn chuẩn bị nhằm soạn thảo các tài liệu, đặc biệt là trong việc lấy thỏa thuận của Bộ Tổng tham mưu các Lực lượng vũ trang Liên Xô, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tham mưu các quân binh chủng, v.v, áp dụng những công nghệ mới tại các trung tâm truyền tin, các con tàu, giảng dạy, thực tập, tập trận và biệt phái công tác khắp miền đất nước - chỉ có Chúa mới biết, nhưng khắp nơi luôn có sự giúp đỡ của mọi người. Lời cảm ơn đặc biệt của tôi dành trước hết cho ban Mã hóa thông tin liên lạc (ZAS) thuộc Cục Thông tin Liên lạc Hải quân Xô Viết, các nhà cung cấp sản phẩm, và tất nhiên các cục (phòng, ban) thông tin liên lạc thuộc các Hạm đội Thái Bình Dương, phân hạm đội Kamchatka, Hạm đội Biển Đen, căn cứ hải quân Leningrad, các sỹ quan và quân nhân, nhân viên truyền tin trên hạm và trên các căn cứ truyền tin trên bờ của Hải quân và các lực lượng vũ trang Liên Xô đã tham gia sự kiện này.


Khu vực chiến dịch thu hồi BОR-4.
4 tháng 6 năm 1982. (bản đồ của А.Sytchiov. NIS КGD).


Cuối cùng, sau nhiều lần hoãn thời hạn phóng thiết bị vũ trụ "Bor" bởi ngành công nghiệp, biên đội ba tàu tìm kiếm-cứu hộ Hạm đội Biển Đen rời Sevastopol ngày 12 tháng Tư năm 1982. Trên PSK "Yamal" có bộ tham mưu hành quân của chiến dịch. Các tàu trong nhóm tàu từ các hạm đội khác cũng ra biển gần như cùng thời điểm.
Thiếu tá hải quân Vladimir Vasilevitch Dmitriev được điều động biệt phái sang bộ tham mưu hành quân làm đại diện Bộ Tổng tham mưu Hải quân Liên Xô tại đây để đảm trách công tác phối hợp và chỉ huy quản lý hệ thống thông tin liên lạc của Hải quân trên các đơn vị tàu trong chiến dịch hoạt động này.

Trên đường vào Ấn Độ Dương trước khi đến đường xích đạo ở Bắc bán cầu – trời nóng, nhiệt độ không khí và nước 32 độ, ở thành phố Madras thuộc Cộng hòa Ấn Độ, nơi chúng tôi ghé vào nạp bổ sung dự trữ vật chất, dương 55 độ trong bóng râm, và sau khi tàu vượt đường xích đạo vào bán cầu Nam – không khí lạnh, ở đây đang mùa đông, những cơn bão dữ dội gầm rú, tốc độ gió đạt 30 m / giây. Bão biển mạnh đến nỗi, để cuộc nói chuyện của tôi với đất liền qua đường điện báo hoặc điện thoại thực hiện được, tôi phải ngồi tựa lưng vào một vách ngăn và chân thì đạp vào vách ngăn khác – nếu không sẽ bị ném ra khỏi ghế ngồi còn thiết bị phải giằng lấy như "giằng miếng thịt" vậy. Chúng tôi đã ở trong khu vực hoạt động gần kề bên khu vực "tuổi hồi xuân bốn mươi gào rú" nổi tiếng, nơi trên thực tế không bao giờ thấy thời tiết tốt trong năm tại thời gian này.

Bám theo cuộc hành trình của chúng tôi vào khu vực hoạt động là các máy bay trinh sát P-3C "Orion" của Hải quân Hoa Kỳ và Australia, đặc biệt là trước sự xuất hiện của tàu tại điểm hẹn, máy bay của họ thường xuyên quần đảo trên tàu chúng tôi, thả các chướng ngại chống tàu ngầm bằng cách thả các phao có khả năng đặc biệt để phát hiện tàu ngầm.
Cơ quan tình báo nước ngoài không thể hiểu tại sao có một nhóm lớn các tàu Hải quân Liên Xô từ các hạm đội khác nhau mang bảy loại cờ hiệu đến tập trung tại đây. Họ nhận ra điều này chỉ sau khi có thông báo của Cơ quan Thông tấn Liên Xô (TASS) về việc cấm các tàu thuyền và máy bay qua lại và hoạt động trong khu vực diễn ra hoạt động thử nghiệm kỹ thuật vũ trụ của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết.

Cuối cùng, sau nhiều lần phải ghìm bước trên đường, vì sự dời đi dời lại liên tiếp thời điểm phóng thiết bị vũ trụ bởi ngành công nghiệp tàu vũ trụ, gần hai tháng sau khi ra khơi, các tàu đã đến khu vực chiến dịch. Cuộc hội quân của các con tàu xảy ra ngày 30 tháng 5 năm 1982.
Những sự chậm trễ thời gian phóng thiết bị nhiều như vậy tự nhiên đã dẫn đến việc giảm điều kiện thời tiết thuận lợi cho chiến dịch hoạt động tại khu vực này, suýt nữa dẫn tới việc làm chậm thời hạn phóng thiết bị vũ trụ sang hẳn năm sau. Việc này sẽ được thảo luận sau.

........
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Mười, 2011, 03:09:15 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #517 vào lúc: 19 Tháng Mười, 2011, 03:18:38 pm »

(tiếp)



PSК "Yamal" hoặc "Аpsheron", SКR "Gordelivyi", và NIS "Nhà du hành vũ trụ Gheorghy Dobrovolsky"
tại điểm làm việc về BOR-4. Ảnh chụp từ KIK "Chumikan" (ảnh từ site ТОГЭ).



Các sự kiện phát triển tiếp như sau:

Bộ tham mưu hành quân chuyển từ PSK "Yamal" sang KIK "Chumikan". Bão cũng khá lịch sự, chiếc xuồng bên mạn lúc thì ở phía dưới cách đến ba tầng boong, lúc thì ở ngay trước mặt bạn mấp mé boong thượng, và bạn cần nhảy vào nó ngay trong giây lát khi tàu dừng ở điểm cao nhất, nếu không muốn như hòn đá rơi xuống. Nước trên đại dương rất trong và tất nhiên gần xuồng lúc nào cũng quanh quẩn vài chú cá mập. Nói chung, mọi việc vẫn như thường lệ.

Các tàu bắt đầu chiếm lĩnh vị trí được chỉ định trong cái gọi là "hình elip phân tán" có diện tích 1.000 km vuông, trong kế hoạch được tính toán là khu vực hạ cánh xuống mặt nước của tàu vũ trụ, tất cả bận rộn với những công việc chuẩn bị cuối cùng.
Sau khi bộ tham mưu chuyển sang tàu KIK, hầu như không kịp xem xét lại, tôi nhanh chóng tổ chức và phối hợp công tác thông tin liên lạc chiến dịch-chiến thuật, thông tin liên lạc tương hỗ ở các cấp độ, và ngay lập tức bắt đầu công tác tổng duyệt - đào tạo hàng ngày theo hướng dẫn của Bộ Tổng Tham mưu Hải quân Xô Viết. Tất cả mọi việc tất nhiên đã thành công, nhưng còn phải chờ đợi một ngày đêm nữa trước khi phóng tàu vũ trụ.

Ngày thứ hai - chỉ tập luyện về truyền tin, bây giờ là theo sáng kiến của tôi. Lần này mọi thứ dường như bình thường, không uổng công bao lần tập luyện trước khi ra khơi và cả trên đường đi tới đây. Điều duy nhất cần phải theo dõi đặc biệt – đó là quản lý sự phân phối tần số một cách tập trung, bởi vì trên thực tế các máy phát vô tuyến trên các tàu chính của biên đội sẽ đồng thời hoạt động cùng các trung tâm truyền tin phân bố theo lãnh thổ trên toàn thế giới cũng như giữa các tàu trong nhóm với nhau. Không điều phối được việc sử dụng tần số cho máy phát và máy thu sẽ dẫn đến sự cố mất liên lạc và phá hỏng việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu (tự gây nhiễu cho chính mình).

Hôm nay, về đêm, theo kế hoạch sẽ phóng thiết bị vũ trụ, chỉ còn một vài giờ nữa, thời tiết – còn chịu được (không thể tìm thấy từ cần thiết để gọi tên loại thời tiết không hấp dẫn này), chưa thấy có chiều hướng cải thiện, trong thực tế dự báo thời tiết trong vài giờ tiếp theo và triển vọng vẫn còn rất đen tối, chưa thấy có chiều hướng tốt lên.
Liên tục chúng tôi nhận qua fax bản đồ khí tượng khu vực chúng tôi từ Úc, bản đồ khí tượng khu vực đảo Diego Garcia và các điểm khác, chúng tôi ngồi phân tích, và thấy rằng theo bản đồ trong khu vực của chúng tôi – đang có một cơn bão nhiệt đới hình thành và phát triển ...
Chúng tôi hỏi Trung tâm Khí tượng Hải văn Hải quân Xô Viết. Họ xác nhận rằng các số liệu đó là có – tất cả đều là số liệu theo Trung tâm Thời tiết Thế giới (Washington DC, Mỹ), Trung tâm Quốc gia Khí tượng Hải văn biển Liên Xô không có bất kỳ lực lượng và tài nguyên nào tại khu vực đó, ở đây chỉ có lực lượng của chúng tôi mà thôi.

Bộ Tổng tham mưu Hải quân ra lệnh: quyết định tiến hành phóng "Bor" hãy tự mình đề ra, hoặc cho các tàu đi tránh bão trong khu vực khác ở phía bắc, hoặc ở lại trong khu vực này (mà cũng có thể dời đi), nhưng chờ đợi trong khi trên thực tế cơn bão nhiệt đới đang đến có thể dẫn đến việc chìm tàu và, trong bất kỳ trường hợp nào tất cả những điều này sẽ dẫn đến sự thất bại của nhiệm vụ chiến đấu và dẫn tới việc dời thời gian phóng tàu vũ trụ chậm lại một năm.
Bộ chỉ huy tham mưu hành quân ngay lập tức họp bàn về triển vọng tiến hành thử nghiệm thiết bị vũ trụ trong các điều kiện thời tiết, về các kế hoạch cho tàu tránh bão tại một khu vực an toàn. Theo báo cáo của Chủ nhiệm Khí tượng hải văn Hạm đội Biển Đen, biệt phái công tác tại bộ tham mưu hành quân, và theo những quan sát của riêng tôi (bởi vì tất cả các máy bay "Orion" từ Úc và đảo Diego Garcia vẫn đang bay), theo thông tin tình báo, bộ chỉ huy tham mưu hành quân kết luận rằng việc truyền tải các thông tin được cố tình làm sai lạc về thời tiết trong khu vực của chúng tôi là ý đồ của đối phương nhằm ép Liên Xô hủy bỏ việc thử nghiệm kỹ thuật vũ trụ mới và phá vỡ việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu của các lực lượng Hải quân Xô Viết.

Theo kết quả cuộc họp đã ra quyết định duy nhất đúng, mặc dù có nguy hiểm, quyết định phù hợp và có trách nhiệm - hành động theo đúng kế hoạch, khởi động phóng "Bor" sẽ thực hiện ngày hôm nay vào đêm 04 tháng 6 năm 1982.

Ghi chú:
1. Nếu tại thời điểm đó và tiếp sau đó không có thông tin liên lạc, tôi sẽ không viết được những hồi ức này.
2. Ý kiến cá nhân của tôi mà tôi vẫn bảo lưu cho mình, "theo thời tiết không thể phóng" bởi rủi ro là quá lớn, nhưng người ta không phán xét kẻ chiến thắng.


Chuẩn bị và thử nghiệm tại nơi chế tạo (buran.ru).

Và cuối cùng – việc phóng thiết bị vũ trụ được chờ đợi từ lâu đã được tiến hành. Các con tàu đang ở tại các vị trí được phân công trên "hình elip phân tán", tất cả các kênh liên lạc đang làm việc, như những chiếc đồng hồ. Sau một thời gian, bắt đầu thu nhận được thông tin quỹ đạo và thông tin đo đạc từ xa, xuất hiện các tín hiệu pha vô tuyến của thiết bị vũ trụ, nghĩa là dù đã mở ra và bắt đầu quá trình tiếp nước của thiết bị vũ trụ trong khu vực của chúng tôi. Toàn bộ các con tàu mở hết tốc lực chạy đến điểm hạ cánh của thiết bị vũ trụ, thực hiện dẫn đường theo các tín hiệu tầm phương vô tuyến, các máy bay trực thăng trên tàu khẩn trương cất cánh lên không trung. Thời tiết cứ mỗi giờ lại trở nên tệ hơn và tệ hơn nũa.


Kosmos-1374, BOR-4. Chuẩn bị lần cuối và phóng tại bãi phóng vũ trụ "Kapustin Yar" (buran.ru).
.......
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Mười, 2011, 10:30:45 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #518 vào lúc: 19 Tháng Mười, 2011, 09:15:53 pm »

(tiếp)



Lênh đênh trên mặt đại dương (buran.ru).

Cuối cùng, chúng tôi đã nhìn thấy "BOR": trên mình nó nổi bật lên cột tín hiệu hình nón bơm hơi cao ít nhất đến vài mét với các vệt sọc ngang màu đỏ và trắng trên thân tàu, có thể nhìn thấy từ xa. Gần đó là PSK "Yamal". Gần hơn nữa là xuồng cao su bơm hơi trên có hai thợ lặn. Tất cả các đối tượng này thường xuyên biến mất khỏi tầm nhìn sau những con sóng lớn: lúc thì xuồng, lúc thì "Yamal", lúc là "Bor" hoặc tất cả biến mất cùng một lúc. Vô tình chúng tôi bắt đầu lo lắng.
Trên không trung có một số máy bay trực thăng hải quân của chúng ta, những chiếc "Ka-25" (tổng số 5 trực thăng). Thật là đáng sợ khi thấy chúng thay phiên nhau đáp xuống mặt boong tàu đang chúi xuống trong sóng nhồi để tiếp nhiên liệu. Lượn phía trên "Bor", rất thấp, gần như ngay trên đầu họ, trong một vòng lượn tròn bán kính nhỏ là máy bay trinh sát Hải quân Hoa Kỳ "Orion" với một máy ảnh rất lớn (ống kính) trên bụng và cản trở công việc của chúng tôi (máy bay trinh sát hải quân Úc "Orion" đã bỏ đi trước đó, có lẽ đã hết nhiên liệu) . Một trong những phi công trực thăng không thể chịu được sự "khiếm nhã" của người Mỹ và phóng một tên lửa pháo hiệu cắt ngang hướng bay của "Orion". Hắn cuối cùng đã "hiểu" và bỏ đi, bắt đầu chuyển sang bay trong một vòng lượn bán kính lớn.
PSK "Yamal" đến gần "BOR" và dùng một cần cẩu đặc biệt cố gắng móc vào nó một tấm lưới, đặt lưới luồn xuống dưới "Bor", nhưng không thành công.

Lại tiếp tục tiếp cận. Nhưng lại gió, dòng chảy ngầm, sóng lớn, và "Yamal", "trống rỗng", nghĩa là, nhiên liệu, nước, thức ăn tiêu thụ hết dần và thân tàu nổi hẳn lên khỏi mặt nước, mặt cản gió lớn, không cho phép thuyền trưởng PSK "Yamal" tiến đến đúng mục tiêu, việc này không có trong quá trình thực tập tại Biển Đen khi biển lặng.
Tất cả những điều này là rất nguy hiểm, có thể mất thiết bị vũ trụ và hy sinh con người, bởi vì sau khi va vào mạn PSK "Yamal", thiết bị "BOR" đã bị vỡ mũi (nói thêm, bộ phận này gọi là "mỏ", thời đó ở Liên Xô, nó được chế tạo trong hai năm mới được hai mảnh đó) và có thể mất tính nổi của thiết bị vũ trụ, ngoài ra việc tự động cháy nốt lượng nhiên liệu còn lại trong động cơ "BOR" trong thời điểm tiếp nước đã không xảy ra và tại bất kỳ thời gian nào cũng có thể tự phát làm việc lại, nhiên liệu bản thân nó rất độc hại, sản phẩm có thể "bốc hơi" - cái chết đến tức thời, mà thợ lặn lại không có mặt nạ phòng độc, mà không thể đeo mặt nạ loại đó để hoạt động trên sóng, còn chính thiết bị lại được gài mìn – tại hai điểm có 6 kg chất nổ thuộc hệ thống tự hủy, và còn một hệ thống tự đánh chìm..., biển động dữ dội - có thể gây tử vong hoặc thương tích nặng cho các thợ lặn.
Bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra khi thiết bị vũ trụ bị sóng biển trong cơn bão lắc mạnh và đập vào thân tàu.

Ảnh chụp của Hải quân Xô Viết:
 
Xuồng với các chuyên gia dân sự thận trọng tiến đến gần "BOR".
Raketoplan "vô hại" đang được nâng lên khỏi mặt nước Ấn Độ Dương.

 
Nâng "BOR-4" lên mặt boong. Phía sau là khu trục hạm xô viết.
"BOR-4" đã trong tay chúng ta. Phía sau là một chiếc "Orion" bay thấp của hải quân Úc.

Lần tiếp cận tiếp theo của "Yamal". Thợ lặn với một chiếc xuồng bơm hơi đã hạ cánh xuống trên đầu "BOR" và mạo hiểm cuộc sống của mình, họ đã dùng chân đẩy nó xa ra khỏi mạn tàu. Thiết bị được cứu, nhưng việc cẩu nó lên vẫn thất bại thêm một lần nữa.
Ban tham mưu biên đội tàu cố gắng nghĩ ra một giải pháp tối ưu để vớt "BOR", đặt "Chumikan" (lượng choán nước là 20 ngàn tấn) và các tàu khác trên đường đi của sóng, chắn "BOR" lại..., khuyến nghị cho thuyền trưởng "Yamal", đồng thời báo cáo tình hình về Bộ Tổng tham mưu Hải quân. ..
Lần tiếp cận tiếp theo của "Yamal" và cuối cùng một nửa của "BOR" đã lọt trong lưới. Tại thời điểm này sóng nâng cả con tàu chuyển động cùng với lưới và cùng với nó là "BOR" lên cao đến vài mét (khoảng bằng tòa nhà hai tầng), thiết bị vũ trụ nằm trên các viền lưới thép trong không trung và đang cân bằng ... vài giây, rồi phút, rồi nhanh hơn nữa... Mọi người chết lặng ... nếu nó rơi xuống biển, hậu quả sẽ khó lường. Cuối cùng, cả sóng, con tàu, lưới, "BOR" cùng hạ xuống và "BOR" ...

Đồng thời, trên màn hình radar của tàu của chúng tôi xuất hiện hai mục tiêu. Đó là các frigate của Hải quân Hoa Kỳ từ căn cứ hải quân của họ ở đảo Diego Garcia, nhưng họ nhận ra rằng đã quá muộn và quay trở lại, cản trở công việc của chúng tôi, họ không thể.

... "BOR" đã trườn một cách an toàn  và "ngoan ngoãn" vào giữa lưới ...


Thu hồi "BOR-4" (Kosmos-1374) năm 1982 (buran.ru).

"BOR" được nhấc lên boong PSK "Yamal" và ngay lập tức được cố định các ống phun động cơ hãm trên biển trên một bệ máy đặc biệt tại mặt boong. Sau đó tiến hành điều khiển từ xa việc đốt hết nhiên liệu. Ấn tượng về nó, nhìn từ KIK "Chumikan" chẳng hạn thấy dường như PSK "Yamal" đang bùng nổ. Quả cầu lửa bùng lên phủ trùm hết toàn bộ hình ảnh con tàu có lượng choán nước 6.000 tấn.
Mọi thứ còn lại khác chỉ là vấn đề kỹ thuật.

Tất cả những sự kiện này xảy ra trong điều kiện lao động quên mình của các chuyên gia thông tin liên lạc trên tàu  - sỹ quan, hạ sĩ quan, thủy thủ, hoạt động trơn tru liên tục của tất cả các kênh liên lạc dự kiến không có bất kỳ ngoại lệ nào. Các hệ số hoạt động tốt của các kênh truyền tin trong giai đoạn hoạt động lên tới 100%. Thậm chí còn lập kỷ lục kỳ lạ và độc đáo – đường liên lạc xa nhất (đến 20.000 km) trong lịch sử truyền dẫn thông tin liên lạc điện thoại mật của Hải quân Xô Viết giữa Bộ Tổng tham mưu Hải quân và PSK "Yamal" qua kênh vô tuyến, mà sự thực chỉ phục vụ có một phiên liên lạc vô tuyến ngắn.
.......
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Mười, 2011, 09:50:55 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #519 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 12:13:16 am »

(tiếp)


Ảnh chụp từ máy bay hải quân Mỹ, do phi đội trưởng phi đội trinh sát P-3C "Orion" N.Cooper thực hiện. Ảnh trái: "Kosmos-1374" được nâng lên trên sàn boong "Petropavlovsk" sau khi tiếp nước thành công ngày 4 tháng 6 năm 1982. Ảnh phải: Hai ngày sau kể từ ngày đầu tiên, ngày 6 tháng 6 năm 1982. Kosmos-1374" trên sàn boong "Petropavlovsk".


Việc tổ chức thông tin liên lạc được thừa nhận trong chiến dịch này, được phát triển bởi tập thể Trung tâm thông tin liên lạc tác chiến tầm xa số 109 (TSUDOS) Hải quân Liên Xô đã chứng tỏ hiệu quả của nó. Những nền tảng đã qua thử thách của tổ chức này tiếp tục được sử dụng trong những năm tiếp theo trong hoạt động tác chiến hàng ngày của Hải quân Liên Xô và đảm bảo cho các hoạt động phức tạp khác mà Liên bang Xô Viết thực hiện với sự tham gia của các lực lượng Hải quân Liên Xô.

Chỉ có một điều cần phê bình, và nó đây - sự lãnh đạo của bộ tham mưu hành quân. Các kênh truyền tin có chừng ấy, vậy mà thường chẳng có ai qua chúng báo cáo về các sở chỉ huy bờ tình hình một cách kịp thời. Ban tham mưu biên đội chỉ huy tình huống thế mà bất cứ điều gì phải báo cáo cũng lại thường đến lượt tôi. Sự việc nhiều khi đưa đến chỗ người ta yêu cầu tôi trao đổi đồng thời với ba kênh gồm truyền tin vũ trụ, kênh vô tuyến điện báo mật và kênh sóng đề xi mét của hệ thống điện thoại vũ trụ mở, trong khi bản thân tôi đồng thời cũng phải tự cá nhân mình thực hiện công tác quản lý và phối hợp tất cả các hệ thống thông tin liên lạc của biên đội tàu.

Như vậy kết thúc ngày thứ ba không ngủ của tôi.

Không phải tất cả đã hết, được sự cho phép từ trước đây của Bộ Tổng tham mưu Hải quân, tôi đã đóng kênh thông tin liên lạc không gian với Bộ Tổng tham mưu Hải quân và cho NIS "Nhà du hành vũ trụ Gheorghy Dobrovolski" tới Singapore bổ sung vật chất và tiếp tục công việc của mình phục vụ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, cảm ơn sự cộng tác xuất sắc trong thực hiện sự nghiệp chung.

Đón chúng tôi (hay đúng hơn là "Bor") tại Sevastopol với vẻ rất hài lòng là phi công vũ trụ số 2 của Liên Xô, Trung tướng Gherman Stepanovitch Titov (mặc quần áo dân sự).

Những năm sau đã có 4 cuộc thử nghiệm "Bor" phiên bản này, mỗi năm một: một ở Ấn Độ Dương vào đêm 16 tháng 3 năm 1983, trong thời gian, theo tôi nhớ như trong năm 1982, và ba tại Biển Đen, nhưng có không có gì mới về nguyên lý. Có lẽ là lần thử nghiệm cuối cùng, thiết bị vũ trụ đã phát nổ khi tiếp nước. Các con tàu sục sạo nhưng không tìm thấy mảnh vỡ nào. Lãnh đạo các hoạt động theo đường thông tin liên lạc được tôi thực hiện từ Bộ Tổng Tham mưu Hải quân với Sở chỉ huy Cục tìm kiếm-cứu nạn Hải quân và Trạm điều khiển truyền tin Hải quân hoặc từ văn phòng mình tại Trung tâm thông tin liên lạc tác chiến tầm xa số 109 Hải quân Xô Viết.

Bản thân "Buran" trong chế độ không người lái đã được thử nghiệm chậm hơn nhiều sau này trong đêm 15 tháng 11 năm 1988, chiếc máy bay không gian đã được xây dựng như vậy và chưa hề có. Trong việc này không có lỗi của chúng tôi, bởi vì tất cả những gì phải làm để chuẩn bị cho việc sản xuất hàng loạt sản phẩm vũ trụ có tầm quan trọng chiến lược này, sản phẩm vẫn rất cần thiết cho đất nước kể cả trong thời điểm gần 25 năm sau những sự kiện ấy, chúng tôi đã hoàn thành xong từ lâu.


Chú thích:Bố trí tấm bảo vệ nhiệt ở mặt dưới thân con tàu vũ trụ. Phần có màu vàng thể hiện chỗ bôi keo dán:
1 - tấm thạch anh; 2 - lớp phủ chống xâm thực mặt cạnh; 3 - lớp sơn phủ; 4 - lớp phủ chống xâm thực mặt ngoài; 5 - lớp keo dán; 6 - vỏ kim loại; 7 - tấm bền nhiệt (PKT-FL); 8 - khung kim loại.



Chú thích:Bố trí tấm bảo vệ nhiệt ở cánh quay dạng consol tàu vũ trụ:
1 - tấm thạch anh; 2 - lớp phủ chống xâm thực mặt cạnh; 3 - lớp sơn phủ; 4 - lớp phủ chống xâm thực mặt ngoài; 5 - lớp keo dán; 6 - vỏ kim loại; 7 - phớt làm lạnh bằng nước.



Trong hồi ức của tôi – tất cả là sự thật, thế nhưng mọi thứ trong cuộc sống đều khó khăn hơn rất nhiều, kịch tính hơn, nhưng không vì thế mà vui vẻ và dễ dàng, như tôi đã giải thích trong câu chuyện này.
Đây là những kỷ niệm mà một mảnh nhỏ tấm lợp tốt nhất thế giới bọc thân "Bor" đã gợi cho tôi, nó được các nhà khoa học của chúng ta chế tạo từ sợi thạch anh sản xuất trong nước, đã chịu được áp lực vô cùng lớn và nhiệt độ trên 800 độ C khi thiết bị vũ trụ đi qua các lớp khí quyển dày đặc, mảnh nhỏ đó đã tồn tại trên vũ trụ, không bị sóng cuốn ra ngoài boong tàu và tôi nhặt lên từ sàn tàu PSK "Yamal" ở Ấn Độ Dương tại Nam bán cầu và hiện đang được lưu giữ trong nhà của tôi.


Sự thật thì tôi vẫn còn một kỷ niệm tuyệt vời hơn liên quan đến sự kiện này. Trong thời gian chiến dịch, nhà tôi đã sinh con gái thứ hai, Nina Vladimirovna Dmitrieva, mà lần đầu tiên tôi được nhìn thấy và bế cháu trên tay chỉ khi tôi được trở về nhà, lúc đó cháu được ba tháng.
Tôi viết những dòng này vào năm 2002, chỉnh sửa ngày 7 tháng 9 năm 2006.
CÔ HÊU
........
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Mười, 2011, 09:54:51 am gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM