Một dịp nữa để tôi có thêm tư liệu về tình hình Campuchia. Đó là việc Trung tướng Hoàng Cầm, Phó Tư lệnh Quân tình nguyện đi thị sát tình hình biên giới phía Bắc Campuchia.Đoàn được tổ chức khá đầy đủ cán bộ các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật đi theo đến một số đơn vị chốt giữ những vị trí trọng yếu ở phía Bắc giáp giới với Thái Lan, tức là đến với các đơn vị chủ lực của ta.
Nơi đầu tiên chúng tôi đến là Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Đoàn 479, sau gọi là Mặt trận 479 gồm hai tỉnh Batambang và Xiêm Riệp. Có thể nói, khu vực hai tỉnh này có nhiều điểm nóng nhất so với các nơi khác vì còn nhiều tàn quân của nhiều đầu sư đoàn bọn Pôn Pốt hoạt động ở đây. Trụ sở của Bộ Tư lệnh 479 đặt tại một khu vực vắng vẻ ở Trung tâm Xiêm Riệp, chỉ cách khu đền Ăngco nổi tiếng của Campuchia bảy kilômét. Trong khu đền Ăngco chỉ có Ăngco Vát là khu vực chính, đồ sộ nhất và tương đối an toàn, còn từ đó vào phía trong Ăngco Thom, bọn tàn quân Pôn Pốt còn lén lút hoạt động.
Sau khi làm việc ở Bộ Tư lệnh Mặt trận, theo ý kiến đồng chí Hoàng Cầm chúng tôi vào khu đền Ăngco Vát trước. Có lẽ, anh cũng muốn kết hợp cho nhiều anh em trong đoàn được tham quan một di tích nổi tiếng. Đi với anh, một cán bộ dầy dạn trận mạc, trưởng thành từ cán bộ cơ sở của Sư đoàn 312, chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ những ngày đầu tiên, tính tình cởi mở, gần gũi rất dễ mến. Trước khi anh nhận nhiệm vụ làm Phó Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, anh là Tư lệnh Quân đoàn 4.
Cùng đi với đoàn có một phiên dịch tiếng Campuchia. Khi chúng tôi đến Ăngco Vát, người hướng dẫn viên giới thiệu quản lý khu đền là một người khoảng gần 40 tuổi. Trông anh ta bủng beo như người bị bệnh sốt rét rừng, quần áo còn tồi tàn, nhưng giới thiệu về Ăngco Vát rất nhiệt tình, hiểu biết thấu đáo, lịch sự đối với khách tham quan. Khi kết thúc cuộc tham quan, Đoàn cảm ơn anh ta thì anh nói bằng tiếng Pháp muốn đề nghị với chúng tôi một việc. Trong số anh em chúng tôi chắc cũng có người nói được tiếng Pháp nhưng các anh cũng rụt rè chưa muốn nói. Tôi nói với anh ta "có gì anh cứ nói", anh ta tiếp tục nói bằng tiếng Pháp: "Tôi đề nghị với các ông, ở đây có ai biết ông G. (tôi quên mất tên) là nhà khảo cổ học người Pháp đã từng gắn bó với Ăngco nhiều năm, giúp chúng tôi trùng tu, nghiên cứu, quản lý khu đền này. Ông là một chuyên gia khảo cổ học giỏi, là thầy dạy chúng tôi. Từ khi Pôn Pốt cầm quyền, ông G. bỏ về Pháp nay chế độ Pôn Pốt đã sụp đổ, đề nghị các vị ở đây, ai có thể báo cho ông ấy trở lại giúp chúng tôi, chúng tôi xin cảm ơn!".
Tôi trả lời anh ta là trong chúng tôi không ai biết ông ấy, anh nên đề nghị với chính quyền cách mạng Campuchia việc này. Tôi thấy điều rất đáng quý ở anh là trách nhiệm của một người công dân đối với việc bảo tồn văn hóa lịch sử của đất nước mình và tình nghĩa thầy trò đối với nhà khảo cổ học người Pháp.
Sáng hôm sau, rời Mặt trận 479, chúng tôi đi bằng trực thăng đến một địa điểm giáp biên giới Thái Lan. Vị trí này vừa là điểm nóng, vừa là vùng cực kỳ trọng yêu. Đó là khu đền Prết Vihia (Preah Vihcar) cổ kính, trên đó có một tiểu đoàn mạnh của ta đang chốt giữ. Ngôi đền này tọa lạc trên một cao điểm của rặng núi Đăngrếch (Dangrek) (nếu tôi nhớ không lâm) ở độ cao 600 mét so với mực nước biển, về phía Campuchiaphải đi qua một dốc đá khá dài gần như dốc đứng, quanh co khúc khuỷu và phải mất vài giờ đồng hồ mới tới nơi. Còn về phía Thái Lan có một con đường trải nhựa đến tận cổng của khu đền, xe cơ giới có thể đi tốt.
Khu vực dưới chân dốc phía Campuchia có một sư đoàn của Quân khu 5 bố trí ở đó. Sư đoàn này vừa làm nhiệm vụ truy sát tàn quân Pôn Pốt còn lẩn trốn ở đó khá nhiều, vừa bảo vệ khu đền. Trực thăng tiếp đất trên một bãi phẳng tương đối kín đáo trong khu vực đóng quân của sư đoàn. Từ đó, chúng tôi đi bộ qua những khu vực đóng quân của một số đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ trú quân ở đây rất tích cực trồng các loại rau, bí để cải thiện sinh hoạt. Đi qua những giàn bí đao trĩu quả, được bộ đội đan lưới đỡ từng quả một, đoàn chúng tôi thấy bộ đội rất trân trọng với thành quả lao động của mình. Tôi nói vui "bí được đeo xu chiêng", anh Hoàng Cầm cũng rất thú vị cười "đúng là xu chiêng thật". Bắt đầu leo dốc khoảng độ một giờ đồng hồ, nhiều người đã đổ mồ hôi như tắm, những vị nặng cân đã bắt đầu thở phì phò.
Đến khu vực đền, mọi người ngạc nhiên thấy đó là một bãi đất khá phẳng phiu, cây cối mọc khá đẹp. Các đồng chí chỉ huy tiểu đoàn cho biết diện tích khu đền rộng khoảng 50 hécta. Nhà chỉ huy và lán của bộ đội nền được đào chìm khoảng hơn một mét để tránh pháo, cối của địch bắn từ xa. Công sự chiến đấu được bố trí tương đối tốt. Anh Hoàng Cầm và anh em chúng tôi đi theo thấy đơn vị bố trí phòng thủ như vậy, anh đã kịp thời biểu dương anh em và tham gia một số ý kiến bổ sung cho kế hoạch tác chiến phòng ngự.
Đứng ở cổng đền sát ngay đầu đường trải nhựa bên phía Thái Lan, xa xa khoảng một kilômét, tôi nhìn thấy một "barie" chắn ngang đường nhựa, thấp thoáng thấy một vài bóng người lính Thái Lan đi lại có vẻ bình yên. Từ trước đến lúc này chưa có sự va chạm nào giữa binh lính Thái Lan và bộ đội ta.
Khoảng 2 đến 3 giờ chiều, chúng tôi tụt dốc trở lại nơi trực thăng đậu để trở về Batambang, còn một điểm nữa cần kiểm tra đó là Nimít, một cửa khẩu trước đây giáp Thái Lan. Trực thăng khởi hành lúc hơn 5 giờ chiều, bay dọc theo dãy núi Đăngrêch. Đi được một lúc thì trời bỗng tối sầm và một cơn mưa như trút nước đổ xuống kèm theo sấm chớp. Trực thăng bay giữa không gian tối như bưng, thỉnh thoảng một tia chớp lóe lên thấy nước mưa sối vào các ô cửa kính. Một không khí yên lặng rất căng thẳng trong máy bay, không ai nói với ai một câu nào, chỉ thấy tiếng nước mưa quật vào thân trực thăng. Tôi nghĩ mọi người đang lo lắng cho sự an toàn của chuyến bay. Cũng không thấy anh em tổ lái thông báo gì. Tôi nghĩ sẽ rất nguy hiểm nếu trực thăng bay vào một đám mây tích điện thì tai nạn là không thể tránh khỏi, rất may là chuyện đó không xảy ra. Khi gần đến sân bay Batambang thì mưa dần dần tạnh và trực thăng tiếp đất an toàn. Ra khỏi máy bay, dưới ánh điện mờ mờ, tôi thấy mình rất mệt và nhìn vẻ mặt của mọi người thấy rõ sự mệt mỏi sau một chuyến bay rất nguy hiểm và căng thẳng.
|