Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2023, 04:05:16 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »
 11 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 08:08:51 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
- Tên sách: Ký ức công binh Trường Sơn
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Giao thông Vận tải
- Năm xuất bản: 2010
- Người số hóa: macbupda, vnmilitaryhistory


LỜI GIỚI THIỆU

Mỗi thế hệ, mỗi đơn vị, mỗi con người trong cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc đều có những ký ức đặc biệt sâu lắng cho riêng mình và có thể cho cùng cả đồng đội của mình. Càng khó khăn, càng gian khổ trong chiến đấu, cái sống gắn liền không ranh giới với sự hy sinh không thể dự đoán trước, lại càng làm cho những ký ức đặc biệt nổi trội không thể nào quên.


Cán bộ, chiến sĩ Cục Tham mưu Công binh Bộ Tư lệnh Trường Sơn, biên chế ở cơ quan nhưng lại có đặc thù riêng, suốt cả hai mùa mưa nắng đều cùng các đơn vị mở đường, bảo đảm giao thông, nghiên cứu thử nghiệm rà phá, vô hiệu hoá bom mìn địch, bảo đảm vật tư khí tài, giữ gìn kho tàng, đến sửa chữa tái tạo xe máy công binh...


Trong nhiều công việc chuyên môn khác nhau đó, các anh đã lăn lộn trên hệ thống đường Trường Sơn nay đã thành kỳ tích lịch sử, có chiều dài hơn 20.000 ki lô mét trên 5 trục dọc, 21 trục ngang, một con đường đã thành hệ thống mạng đường đa hình, đa dạng: đường núi, đường đèo, đường dọc, đường ngang, hẹp, rộng..., toả khắp Trường Sơn vào sâu tận chiến trường. Có con “đường hở" vận chuyển ban đêm trong cả 10 năm thành trọng điểm địch trút đủ các loại bom đạn, lại có hệ thống "đường kín” chạy ngày trong suốt 4 năm, dù có thiết bị thám sát, trinh sát hiện đại kẻ địch cũng phải bó tay, không thể phát hiện được. Hàng trăm con sông lớn nhỏ đều có ngầm, có phà, có cầu nổi, khoang thuyền bằng sắt thép được chi viện, lại có loại khoang gỗ bằng vật liệu tại chỗ tự chế.


Đầu mùa khô, các anh lên đường công tác, tận cuối mùa mưa mới có thể được gặp lại nhau, có anh ra đi... đã không trở về!

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã hoàn toàn thắng lợi, đơn vị cũ giải thể, tổ chức mới được hình thành. Đến nay nhiều anh em đã ra quân, chuyển đơn vị, chuyển ngành, đã về nghỉ hưu, nghỉ mất sức, muôn vẻ bộn bề với cuộc sống đời thường.


Tuy nhiên, hàng năm gặp nhau trong các cuộc sinh hoạt truyền thống của đơn vị, hàn huyên ôn lại chuyện xưa, chuyện chiến trường gian khổ thấm đậm tình cảm thân thương, ký ức đó mỗi năm như lại càng đầy ắp dồn nén.


Chủ trương của Ban Liên lạc Cục Tham mưu Công binh viết lại ký ức của mình, cùng hình thành một “tác phẩm” để cùng hoài niệm, cùng hiểu nhau hơn, thương nhau hơn, quý nhau hơn, thông cảm nhau hơn được anh em tán đồng thực hiện.


Cũng như các binh chủng khác, đã có nhiều trung đoàn, sư đoàn công binh Trường Sơn, các binh chủng bộ đội Trường Sơn khác viết ký ức, cuốn "Ký ức Công binh Trường Sơn” của đồng đội công tác tại cơ quan, các đơn vị trực thuộc Cục Tham mưu Công binh được các bạn ngoài binh chủng tham gia không phải là cuốn đầu tiên trong nhiều cuốn sách đó, nhưng có lẽ cũng chưa phải đã là cuốn cuối cùng.


Ban liên lạc Cục Tham mưu Công binh Trường Sơn xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Bộ Tư lệnh Công binh, Ban Quản lý dự án 47 - Bộ Quốc phòng và các cựu chiến binh Cục Tham mưu Công binh, các tập thể và cá nhân đã đóng góp bài viết và kinh phí cho việc xuất bản cuốn sách này.


Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn “Ký ức Công binh Trường Sơn”.


Ban Liên lạc Cục Tham mưu Công binh 559
Bộ đội Trường Sơ
n

 12 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 08:00:01 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
BẢN THỐNG KÊ QUÂN SỐ
QUÂN GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
(1961 - 1976)
1
(Nguồn: Đề cương tỉ mỉ báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Ban Tổng kết chiến tranh B2, 2-1979, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu  7)


Năm 1960:

- Miền Đông Nam Bộ: Khu có 1 tiểu đoàn (997 người); tỉnh có 3 đại đội và 2 trung đội (616 người); huyện có 12 trung đội và 17 tiểu đội (562 người). Toàn miền Đông Nam Bộ có 1.556 súng các loại.

- Miền Trung Nam Bộ: Khu có 1 tiểu đoàn (266 người); tỉnh có 4 đại đội và 4 trung đội (1.673 người); huyện có 27 trung đội (1.166 người). Toàn miền Trung Nam Bộ có 2.338 súng các loại.

- Miền Tây Nam Bộ: Khu có 1 tiểu đoàn (771 người); tỉnh có 4 đại đội và 3 trung đội (720 người); huyện có 32 trung đội (1.530 người). Toàn miền Tây Nam Bộ có 2.644 súng các loại.

- Cực Nam Trung Bộ: Liên tỉnh 3 (Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa) có 2 đại đội, Nam Tây Nguyên có 1 đại đội.


Năm 1961:

Quân giải phóng toàn B2 là 19.571 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 9.209 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 10.362 người


Năm 1962:

Quân giải phóng toàn B2 là 35.888 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 15.317 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 20.571 người

Trong số bộ đội chủ lực, trực thuộc Miền: 10.100 người, Quân khu Sài Gòn - Gia Định: 534 người, Quân khu 6:1.145 người, Quân khu 7:1.785 người, Quân khu 8: 786 người, Quân khu 9: 850 người, Quân khu 10: 117 người.


Năm 1963:

Quân giải phóng toàn B2 là 54.364 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 25.895 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 28.469 người

Trong số bộ đội chủ lực, trực thuộc Miền: 11.946 người, Quân khu Sài Gòn - Gia Định: 950 người, Quân khu 6:1.475 người, Quân khu 7: 1.982 người, Quân khu 8: 3.224 người, Quấn khu 9: 6.318 người.


Năm 1965:

Quân giải phóng toàn B2 là 73.332 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 35.016 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 38.316 người

Trong số bộ đội chủ lực, trực thuộc Miền: 16.362, Quân khu Sài Gòn - Gia Định: 2.882, Quân khu 6: 1.957, Quân khu 7: 2.304, Quân khu 8: 5.255, Quân khu 9: 6.256.


Năm 1966:

Quân giải phóng toàn B2 là 106.213 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 61.978 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 44.235 người

Trong số bộ đội chủ lực, trực thuộc Miền: 44.136 người, Quân khu Sài Gòn - Gia Định: 2.843 người, Quân khu 6: 2.850 người, Quân khu 7: 1.894 người, Quân khu 8: 3.655 người, Quân khu 9: 6.256 người, Quân khu 10: 344 người.


Năm 1968:

Quân giải phóng toàn B2 là 166.000 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 127.500 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 38.500 người


Năm 1969:

Quân giải phóng toàn B2 là 184.754 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 100.626 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện : 84.128 người


Năm 1970:

Quân giải phóng toàn B2 là 174.504 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 140.586 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 33.918 người


Năm 1972:

Quân giải phóng toàn B2 là 185.732 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 149.129 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 36.603 người


Năm 1975:

Quân giải phóng toàn B2 là 278.237 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 209.325 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện : 68.912 người


Từ 1960 đến 1975:

Hậu phương miền Bắc chi viện cho chiến trường B2:

Quân số: gần 400.000 người (riêng tân binh là 236.000 người). Cụ thể về đơn vị, có:

- 3 sư đoàn, 12 trung đoàn, 26 tiểu đoàn bộ binh.

- 4 trung đoàn, 30 tiểu đoàn, 9 đại đội trợ chiến, pháo cao xạ.

- 1 trung đoàn, 6 tiểu đoàn, 1 đại đội tăng - thiết giáp.

- 4 trung đoàn, 9 tiểu đoàn, 16 đại đội pháo mặt đất.

- 36 tiểu đoàn, 111 đại đội đặc công.

- 7 tiểu đoàn, 2 đại đội thông tin.

- 1 tiểu đoàn, 2 đại đội trinh sát.

- 4 tiểu đoàn, 19 đại đội công binh.

- 1 trung đoàn, 2 tiểu đoàn, 1 đại đội vận tải.

Vũ khí đạn được và một số mặt hàng khác:

- 62.445 tấn vũ khí, đạn dược và phương tiện khí tài kỹ thuật

- 33.494 tấn xăng, dầu, mỡ.

- 59.934 tấn lương thực, 1.043 tấn muối.

- 2.827 tấn quân trang, 2.725 tấn thuốc quân y.

 13 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 07:54:22 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
PHỤ LỤC

DANH SÁCH BỘ CHỈ HUY QUÂN GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
(1961 - 1976)


Giai đoạn 1961-1962:

- Trần Nam Trung   Trưởng ban quân sự
- Nguyễn Văn Linh   Chính ủy
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó ban quân sự


Giai đoạn 1962-1964:
- Trần Văn Quang   Trưởng ban quân sự, Tư lệnh
- Nguyễn Văn Linh   Chính ủy
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó ban quân sự, Phó Tư lệnh


Giai đoạn 1964-1967:
- Trần Văn Trà   Tư lệnh
- Nguyễn Chí Thanh   Chính ủy
- Lê Trọng Tấn   Phó Tư lệnh
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó Tư lệnh, từ năm 1965
- Nguyễn Thị Định   Phó Tư lệnh, từ năm 1965
- Đồng Văn Cống   Phó Tư lệnh, từ năm 1965
- Trần Độ   Phó Chính ủy, từ năm 1965


Giai đoạn 1967-1973:
- Hoàng Văn Thái   Tư lệnh
- Phạm Hùng      Chính ủy
- Trần Văn Trà   Phó Tư lệnh
- Lê Trọng Tấn   Phó Tư lệnh, đến năm 1969
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó Tư lệnh
- Nguyễn Thị Định   Phó Tư lệnh
- Lê Đức Anh   Phó Tư lệnh, từ năm 1969
- Đồng Văn Cống   Phó Tư lệnh, 1969-1972
- Trần Độ   Phó Chính ủy
- Lê Văn Tưởng   Phó Chính ủy, từ năm 1972


Giai đoạn 1973-1976:   
- Trần Văn Trà   Tư lệnh
- Phạm Hùng   Chính ủy
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó Tư lệnh, đến năm 1974
- Nguyễn Thị Định   Phó Tư lệnh
- Lê Đức Anh      Phó Tư lệnh
- Đồng Văn Cống      Phó Tư lệnh, từ năm 1974
- Trần Độ   Phó Chính ủy, đến năm 1974
- Lê Văn Tưởng      Phó Chính ủy

 14 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 07:51:25 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
3.

Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành cua Quan giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 chứng minh rằng: mọi thắng lợi của quân đội cách mạng đều là kết quả sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước, thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn đường lối chính trị, đường lối quân sự và quán triệt một cách đầy đủ đường lối đó trong xây dựng và hoạt động của Quân giải phóng.


Trong quá trình hoạt động, Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã quán triệt đầy đủ đường lối của Đảng về độc lập dân tộc, nắm vững nhiệm vụ; từ đó, có những quyết sách thích hợp trong việc vừa đề cao tinh thần tự lực tự cường, khắc phục những khó khăn của chiến trường, vừa hết sức tranh thủ sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa và phát huy có hiệu quả sự chi viện ấy; đồng thời tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia trong chiến đấu chống kẻ thù chung. Trong khi quán triệt đường lối của Đảng, Quân giải phóng luôn luôn nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng chiến lược tiến công. Đó là, con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, lấy chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân để đánh bại chiến tranh xâm lược của Mỹ - ngụy. Đó là, muốn thực hiện tiêu diệt sinh lực địch, làm thay đổi so sánh lực lượng, thay đổi cục diện và làm chủ chiến trường, phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, tiến công kiên quyết và liên tục, kết hợp tiến công với nổi dậy, tấn công với phản công, tiến công toàn diện, khắp nơi, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Đi đôi với việc quán triệt đường lối chính trị, Quân giải phóng thường xuyên nắm vững đường lối quân sự của Đảng, nắm vững quy luật chiến tranh, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, giữa tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ, giữa chỉ đạo chiến lược và nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch, chiến thuật, kết hợp các phương thức tác chiến, nắm vững đường lối và nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng hậu phương tại chỗ và căn cứ địa cách mạng.


Nhờ nắm vững đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng mà Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã giải quyết thành công những vấn đề về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, trên tất cả các lĩnh vực tác chiến và xây dựng lực lượng vũ trang, công tác hậu cần kỹ thuật, công tác đảng, công tác chính trị, công tác tổ chức tham mưu cho Đảng ủy cấp trên và công tác bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang trên toàn chiến trường B2. Thực tiên hoạt động từ khi thành lập cho đến lúc kết thúc nhiệm vụ chứng tỏ Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã luôn luôn bám chắc vào mục tiêu cuối cùng của cách mạng, nắm vững ý đồ chiến lược của cấp trên, hiểu rõ đặc điểm vị trí, vai trò của chiến trường, vững vàng trên quan điểm bạo lực và tư tưởng tiến công mà đề ra phương hướng, kế hoạch thực hiện cả cho trước mắt lẫn lâu dài.


Tư tưởng tiến công, quan điểm bạo lực cách mạng được thể hiện xuyên suốt từ đầu đến cuối trong quá trình tác chiến và xây dựng lực lượng. Đó là, Quân giải phóng ở chiến trường B2 hình thành và phát triển dựa trên hai nguồn: từ phong trào chính trị, lực lượng chính trị tại chỗ và từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngay từ những năm đầu của cuộc chiến tranh cách mạng, các địa phương ở Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ đã tìm mọi cách phát triển dân quân du kích, phát triển bộ đội địa phương, đồng thời kiên quyết khẩn trương xây dựng lực lượng chủ lực. Từ đó dần hình thành các sư đoàn chủ lực rồi quân đoàn của Miền, các trung đoàn rồi sư đoàn của các quân khu, các tiểu đoàn rồi trung đoàn của các tỉnh, thành phố, các binh chủng kỹ thuật khí tài hiện đại. Tất cả được quy hoạch phát triển một cách cân đối, phù hợp với yêu cầu và ý đồ chiến lược chung và được bố trí đội hình thích hợp nhằm tạo thế, giành quyền chủ động tiến công trên các chiến trường. Đó là, Quân giải phóng đã tổ chức có hiệu quả mạng lưới nắm địch, theo dõi chặt chẽ tình hình địch - ta, phân tích đánh giá chính xác để vận dụng vào thực tiễn chỉ đạo chiến lược, tổ chức chiến dịch và trận đánh, đề ra và vận dụng sáng tạo các phương châm, phương thức tác chiến phù hợp. Đó là chủ trương đẩy mạnh phương thức tác chiến tiêu diệt, tiêu hao địch rộng rãi của bộ đội địa phương, đồng thời sử dụng lực lượng chủ lực đánh đòn tập trung, tiêu diệt lớn nhằm làm thay đổi cục diện chiến trường; là phương châm kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, phương thức tác chiến đánh bồi, đánh nhồi, sử dụng lực lượng binh chủng trong tác chiến hiệp đồng hoặc tác chiến độc lập đánh trong thành phố, thị xã, hậu cứ, kho tàng; đẩy mạnh đánh phá địch bình định, giành quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng vùng kiểm soát ở nông thôn, đồng bằng, rừng núi. Đó là, Quân giải phóng thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm nhằm không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về đường lối chiến tranh cách mạng, về nghệ thuật quân sự, về trình độ chỉ huy cho cán bộ, trình độ kỹ chiến thuật cho chiến sĩ. Đồng thời chú trọng giải quyết những vấn đề về chiến thuật nhằm nâng cao khả nảng hoàn thành nhiệm vụ của các chiến dịch, các đợt hoạt động như chiến đấu vận động, vận động phục kích, tập kích, chiến thuật đánh cơ giới, đánh tiêu diệt từng cụm cơ giới, đánh cụm dã ngoại của kỵ binh, không vận Mỹ, chiến thuật vây lấn, chốt chặn... với những sáng tạo hết sức phong phú.


Xuyên suốt các giai đoạn của cuộc chiến tranh, Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác đảng, công tác chính trị. Ngay từ khi thành lập, đồng thời với việc khẩn trương xây dựng hệ thống tổ chức Đảng các cấp, cấp ủy đảng trong các đơn vị Quân giải phóng đã chú trọng chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu, nhất là trong những lúc tình hình có sự chuyển biến phức tạp. Nội dung công tác giáo dục chính trị tập trung vào việc quán triệt đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, quán triệt phương hướng, mục tiêu, phương châm, phương thức của chiến tranh cách mạng và nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Từ đó xây dựng quyết tâm chiến lược, chiến dịch và chiến đấu cho lực lượng vũ trang, bồi dưỡng lập trường cách mạng, thực hiện dân chủ quân sự, xây dựng lòng tin vào thắng lợi, động viên tinh thần khắc phục khó khăn, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, trụ bám và chiến đấu liên tục dài ngày trong các chiến dịch, các đợt hoạt động và trong những thời điểm cam go nhất của cuộc kháng chiến. Trong công tác xây dựng đảng, Quân giải phóng thường xuyên đặt vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang thành nhiệm vụ hàng đầu; thực hiện nghiêm ngặt chế độ ra nghị quyết, triển khai và kiểm tra kết quả thực hiện nghị quyết của Quân ủy Miền; coi trọng các khâu rèn luyện đảng viên, phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng chi bộ vững mạnh, duy trì nguyên tắc chế độ công tác đảng ủy, chế độ sinh hoạt đảng và đại hội nhiệm kỳ đảng bộ các cấp. Nhằm bổ sung kịp thời số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ, công tác cán bộ được ưu tiên chỉ đạo một cách căn cơ, đúng hướng, từ tạo nguồn đến đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm; bảo đảm có lực lượng dự trữ và lực lượng bổ sung đầy đủ, nhất là sau mỗi biến cố lớn của chiến trường. Công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, công tác chính sách như khen thưởng trong chiến đấu, sau chiến đấu, nhân rộng điển hình, chính sách hậu phương quân đội, thương binh, bệnh binh, liệt sĩ, quy tập mộ liệt sĩ, làm sơ đồ mộ chí, xác minh liệt sĩ và báo tử, chính sách đối với quân nhân bị địch bắt trở về... được quan tâm chỉ đạo thực hiện một cách kịp thời, công minh, có tác dụng khích lệ tinh thần hăng hái của bộ đội trong điều kiện chiến tranh gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại.


Một vấn đề có ý nghĩa quy luật là, khi có hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang thì lập tức phải có hệ thống tổ chức hậu cần - kỹ thuật, lực lượng vũ trang càng lớn mạnh thì hệ thống tổ chức hậu cần - kỹ thuật cũng phải ngày càng vững mạnh và công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật cần được tổ chức tốt, phù hợp với đặc điểm chiến trường và sự phát triển của cuộc chiến tranh. Nắm vững quy luật trên, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã thực hiện công tác hậu cần - kỹ thuật một cách có hiệu quả. Ngay sau khi thành lập và xuyên suốt các giai đoạn của cuộc chiến tranh, cùng với việc xây dựng hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang các cấp, xây dựng các cơ quan tham mưu, chính trị, Quân giải phóng đã tập trung xây dựng hệ thống hậu cần trong quân đội. Tổ chức hậu cần quân đội gắn liền với căn cứ địa bằng hình thức tổ chức khu vực hậu cần. Các khu vực hậu cần được xây dựng trong thế bố trí chiến lược: hậu cần khu vực - hậu phương tại chỗ - hậu phương trực tiếp gần đó - hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi tổ chức hậu cần khu vực đều có các lực lượng thu mua hàng hóa, sản xuất vũ khí vận tải, kho tàng dự trữ chiến lược và chiến dịch, giao thông liên lạc, các tuyến bệnh viện quân - dân y, tổ chức chiến đấu. Hệ thống tổ chức và bố trí hậu cần theo khu vực đã bảo đảm nối liền hậu cần tại chỗ với nguồn chi viện của Trung ương, giữ vững tính vững chắc liên hoàn cho cả phía trước và phía sau, trên các hướng chiến lược quan trọng; đồng thời bảo đảm tính ổn định, cơ động, kịp thời trước mọi nhu cầu và diễn biến của tình hình. Nắm vững quan điểm hậu cần của chiến tranh nhân dân, dựa vào dân, kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, quan điếm cần kiệm, tự lực tự cường, Quân giải phóng đã giải quyết thành công vấn đề tạo nguồn và khai thác các nguồn chuẩn bị hậu cần - kỹ thuật. Đó là nguồn đóng góp của nhân dân, thu mua từ vùng địch tạm chiếm, thu mua từ Campuchia, sản xuất tự túc và thu chiến lợi phẩm.


Từ sau ngày Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 kết thúc nhiệm vụ, trên địa bàn Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, lực lượng vũ trang các quân khu, quân đoàn, dưói sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã kế thừa và phát huy truyền thống của Quân giải phóng miền Nam trong thơi kỷ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia; xây dựng tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân; xây dựng quân đội nhân dân "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

 15 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 07:50:12 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
2.

Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chấp hành sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, trong suốt quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Xứ ủy, Trung ương Cục miền Nam và các cấp ủy Đảng xuất phát từ tình hình thực tiễn, tình hình lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ba thứ quân, phát động quần chúng xây dựng lực lượng chính trị và trên cơ sở đó xây dựng lực lượng vũ trang đi đôi với vũ trang cho quần chúng rộng rãi. Lịch sử Quân giải phóng miền Nam tại chiến trường B2 diễn ra trên nền tảng ấy.


Từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ - Diệm tiến hành phá hoại Hiệp định, điên cuồng sử dụng bạo lực phản cách mạng đánh phá khốc liệt cách mạng miền Nam. Trước nhu cầu bức xúc bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tại nhiều nơi ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, từ năm 1956, tổ chức Đảng Cộng sản địa phương đã từng bước tổ chức các đơn vị vũ trang (xã, ấp có du kích, tự vệ, tỉnh có đại đội). Đó là những cán bộ quân sự từ kháng chiến chống Pháp được bố trí ở lại, những cơ sở nòng cốt trong lực lượng chính trị và một bộ phận tích cực trong lực lượng giáo phái Cao Đài - Hòa Hảo - Bình Xuyên. Có thể nói đây là lực lượng quân sự đầu tiên hình thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xuất phát từ đòi hỏi bức bách của tình hình, vừa mới ra đời, các đơn vị vũ trang nói trên đã lập được nhiều thành tích xuất sắc trong vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng, xây dựng cơ sở, diệt ác, trừ gian, bảo vệ cán bộ, và tiến tói tác chiến tiêu diệt địch. Họ là lực lượng chủ yếu làm nên những thắng lợi quân sự ở Trại Be, Bến Củi, Minh Thạnh, Dầu Tiếng, Giồng Thị Đam, Gò Quản Cung, Tua Hai và cao trào Đồng khởi năm 1960.


Khi Mỹ - ngụy thay đổi chiến lược, tiến hành “chiến tranh đặc biệt”, cuộc đấu tranh ở miền Nam từ khởi nghĩa từng phần cũng đã sang chiến tranh cách mạng. Hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang được đặt ra như là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của cách mạng miền Nam. Ngày 15-2-1961, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Tháng 11-1961, Hội nghị Trung ương Cục quyết định “gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang tập trung, khắc phục chênh lệch giữa ba thứ quân”. Hệ thống Đảng và hệ thống quân sự được thiết lập xuyên suốt từ trên xuống dưới. Hàng đoàn cán bộ tập kết ra miền Bắc lần lượt trở về. Chi viện của Trung ương về người và vũ khí diễn ra với quy mô ngày một lớn. Trong bối cảnh ấy, ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, hệ thống dân quân du kích phát triển mạnh. Các huyện củng cố và xây dựng bộ đội địa phương huyện, các tỉnh xây dựng tiểu đoàn tập trung tỉnh, khu và Miền xây dựng bộ đội chủ lực đến cấp trung đoàn. Tính chung cả B2, nếu trong năm 1961, bộ đội chủ lực có 7.473 người, bộ đội địa phương có 8.222 người, thì đến năm 1964, đã có 35.016 bộ đội chủ lực, 37.575 bộ đội địa phương. Chất lượng Quân giải phóng phát triển một bước căn bản. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương cùng với dân quân du kích thực sự trở thành nòng cốt trong phong trào đấu tranh làm phá sản các chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận”, quốc sách “ấp chiến lược” của địch, và làm nên các sự kiện quân sự vang dội như trận Phước Thành sân bay Biên Hòa, Chiến dịch Bình Giã...


Từ giữa năm 1965, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân chiến đấu Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Địa bàn B2 trở thành một trong những “đầu cầu” tiếp nhận quân viễn chinh xâm lược. Tình hình so sánh lực lượng địch - ta tại chỗ thay đổi đột ngột. Để đương đầu với không chỉ quân đội Sài Gòn mà cả quân Mỹ, quân chư hầu được huấn luyện bài bản và trang bị vũ khí hiện đại, cần có các đơn vị quân đội chủ lực mạnh. Vấn đề đẩy mạnh tốc độ xây dựng lực lượng vũ trang trên chiến trường B2 trở nên cấp bách. Tháng 8-1965, Hội nghị Trung ương Cục miền Nam quyết định “nỗ lực xây dựng chủ lực của ta thành những quả đấm thật mạnh và tinh nhuệ, đồng thời hết sức củng cố và phát triển lực lượng dân quân du kích và bộ đội địa phương”. Cũng từ năm 1965, hành lang chiến lược nối từ B2 ra Trung ương và nội vùng B2 được xây dựng liên hoàn, căn cứ địa và vùng giải phóng mở rộng, phát huy được tác dụng hậu phương tại chỗ. Sự chi viện của miền Bắc (đặc biệt là vũ khí), ngày một nhiều. Đó là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng vũ trang trong giai đoạn lịch sử này. Ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Quân giải phóng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Bộ đội chủ lực Miền phát triển đến cấp sư đoàn. Bộ đội chủ lực của khu, phân khu phát triển về đầu đơn vị. Bộ đội địa phương của tỉnh, huyện được chủ ý tăng cường về chất lượng tuy quân số có phần giảm do được rút lên xây dựng chủ lực Miền. Trang bị vũ khí có bước tiến bộ mới. Trong chiến dịch phản công đánh bại cuộc càn Junction City, một số đơn vị bộ đội địa phương có cả súng chống tăng B40, B41 và DKZ75 súng cối và hỏa tiễn, sơn pháo 105mm. Tính chung toàn B2 đến cuối năm 1968 bộ đội chủ lực có 120.996 cán bộ, chiến sĩ; bộ đội địa phương có 43.600 cán bộ, chiến sĩ. Đây là giai đoạn phát triển vượt bậc của Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2. Sự ra đời của các sư đoàn chủ lực Miền đánh dấu sự phát triển hoàn chỉnh về tổ chức và trang bị của lực lượng vũ trang ba thứ quân trên chiến trường B2, giai đoạn phát triển cao độ tiến công địch bằng hai chân, ba mũi, ba vùng, góp phần lần lượt đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô của Mỹ - ngụy và thực hành cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân năm 1968.


Sau Tết Mậu Thân, Mỹ - ngụy chuyển hướng chiến lược, thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiến hành đánh phá ác liệt phong trào cách mạng miền Nam. Chúng tập trung mọi nỗ lực để bình định nông thôn, tìm diệt chủ lực Quân giải phóng và mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Quân giải phóng miền Nam phải tiến hành xây dựng trong điều kiện tác chiến liên tục: đánh trả sự phản công ào ạt của địch, mở rộng hoạt động sang chiến trường Campuchia, thực hiện đòn tiến công chiến lược năm 1972. Đây là thời kỳ Quân giải phóng vừa chiến đấu vừa xây dựng với nhịp độ khẩn trương và gay go nhất. Trong khi khối chủ lực của khu và Miền giữ được mức ổn định về số lượng, thì bộ đội địa phương bị giảm sút quân số. Trên toàn chiến trường B2, đến cuối năm 1971, lực lượng chủ lực có 135.586 người, bộ đội địa phương còn 33.918 người. Đến cuối năm 1972, con số này không phát triển thêm được bao nhiêu (149.129 chủ lực, 36.603 bộ đội địa phương). Mặc dù vậy, chất lượng chiến đấu của các thứ quân được nâng lên rõ rệt. Một số đơn vị bộ đội binh chủng kỹ thuật ra đời. Quân giải phóng miền Nam đã kiên cường bám trụ và chiến đấu, đánh địch bình định ở đồng bằng, đánh địch càn quét ở biên giới, khôi phục thế chiến tranh nhân dân trên các vùng chiến trường, tiến công có hiệu quả trong mùa hè năm 1972, góp phần buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari và rút quân chiến đấu Mỹ và chư hầu về nước.


Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, lực lượng vũ trang ở B2 được xây dựng một cách toàn diện. Nhờ có sự chi viện lớn của hậu phương miền Bắc (quân số, vũ khí và phương tiện kỹ thuật, hàng quân y, quân nhu, xăng dầu...), lực lượng vũ trang ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ phát triển nhảy vọt. Bộ đội chủ lực Miền hình thành hai binh đoàn (Quân đoàn 4, Binh đoàn 232). Lực lượng chủ lực của các khu thành lập đến cấp sư đoàn. Bộ đội địa phương của tỉnh, huyện tăng gấp đôi quân số so với cuối năm 1972. Các binh chủng như xe tăng, pháo binh, công binh, thông tin... phát triển mạnh mẽ về đầu đơn vị, số lượng với nhiều chủng loại trang bị khí tài lớn và hiện đại. Nhờ vậy, Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã nhanh chóng khắc phục những lúng túng ban đầu về nhận thức nhiệm vụ, kịp thời chuyển sang tiến công giành thế chủ động, đánh địch lấn chiếm vi phạm Hiệp định Pari, tạo thế, tạo lực giải phóng cục bộ từng vùng, tiến hành Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, chuẩn bị chiến trường, tạo điều kiện về mọi mặt và phối hợp cùng các binh đoàn chủ lực của Bộ tiến công giải phóng các địa phương, giải phóng Sài Gòn - Gia Định và các đảo, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các đơn vị Quân giải phóng thực hiện công tác quân quản, truy quét tàn quân địch, bảo vệ chính quyền cách mạng, tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng kinh tế.


15 năm kể từ ngày thành lập (1961) đến ngày kết thúc nhiệm vụ (1976), Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Quân đội giao phó, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thành qua mà Quân giải phóng đã giành được trong mười lăm năm ấy bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đó là nhờ có đường lối chiến tranh cách mạng, sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng mà trực tiếp là Trung ương Cục sự chỉ đạo chính xác kịp thời của Bộ Tổng Tư lệnh, Quân ủy - Bộ Tư lệnh Miền; nhờ toàn thể cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng trên toàn chiến trường B2 có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ quản lý, chỉ huy và kỷ chiến thuật chiến đấu giỏi có quyết tâm chiến đấu và tinh thần đoàn kết, tổ chức kỷ luật cao, dũng cảm, mưu trí, năng động sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ; có sự phối hợp nhịp nhàng của lực lượng chính trị quần chúng trong thế trận chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện, sự hỗ trợ của các cơ quan ban ngành đoàn thể kháng chiến, sự chi viện to lớn của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

 16 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 07:49:19 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
KẾT LUẬN


1.

Địa bàn Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên (gọi tắt là B2) là phần đất cuối cùng phía nam của Tổ quốc, có vùng rừng núi chạy giáp liền với chân dãy Trường Sơn, có thành phố thủ phủ của các chế độ ngụy quyền Sài Gòn, có đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, có bờ biển dài với nhiều cửa sông và đường biên giới giáp với Vương quốc Campuchia. Tựu trung, chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên có ba vùng chiến lược hoàn chỉnh: rừng núi, đồng bằng và đô thị. Vùng rừng núi kéo dài từ miền Đông Nam Bộ đến phía tây các tỉnh Khu 6 cũ, nối liền với Nam Tây Nguyên, đông bắc Campuchia và Hạ Lào. Núi cao, rừng rậm và tương đối bằng phẳng, vùng rừng núi ở chiến trường B2 có đặc điểm thuận lợi cho việc cơ động và trú đóng quân, xây dựng lực lượng và dự trữ cơ sở vật chất, hình thành căn cứ địa và hậu phương chiến lược tại chỗ rộng lớn của cả miền Nam Đông Dương. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nơi đây trở thành căn cứ địa của các cơ quan đầu não kháng chiến, nơi xây dựng các đơn vị chủ lực mạnh, nơi tập kết đứng chân và phát triển tiến công của các binh đoàn chủ lực về giải phóng Sài Gòn trên các hướng bắc và đông bắc. Vùng đô thị bao gồm Sài Gòn và các thành phố, thị xã lớn khác như Biên Hòa, Vũng Tàu, Đà Lạt, Mỹ Tho, Cần Thơ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các đô thị ở B2, đặc biệt là thành phố Sài Gòn, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và hệ thống căn cứ quân sự của địch, nơi đặt bản doanh chỉ đạo, chỉ huy toàn bộ cuộc chiến tranh hoặc từng vùng chiến trường của thế lực xâm lược và bè lũ tay sai. Với ta, nơi đây là trung tâm các phong trào đấu tranh chính trị, nơi cung cấp nhiều sức người sức của để xây dựng lực lượng Quân giải phóng, là điểm quyết chiến chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.


Cư trú ở Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên có nhiều thành phần dân tộc khác nhau như Việt, Xtiêng, Châu Ro, Châu Mạ, Mnông, Chăm, Hoa, Khmer... với nhiều tôn giáo lớn như Thiên Chúa, Phật, Hồi, Cao Đài, Hòa Hảo... Chiếm tuyệt đại bộ phận trong số họ là nông dân. Công cuộc khẩn hoang, làm chủ thiên nhiên và đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống giặc ngoại xâm trên vùng đất mới đã cố kết họ thành một khối đoàn kết gắn bó hun đúc nơi họ ý chí khảng khái, bất khuất trước mọi cản trở của hoàn cảnh, tinh thần tự lực, tự cường và sự năng động sáng tạo cả trong làm ăn và đánh giặc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đòi, phong trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra liên tục và đều khắp với những cao trào mang dấu ấn sâu sắc trong lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Quân giải phóng miền Nam ra đời, xây dựng, chiến đấu với hành trang truyền thống và kinh nghiệm rất phong phú được tích lũy từ trong tiến trình lịch sử 300 năm của cư dân Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên.


Chiến trường B2 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Đối với kẻ thù, đây là nơi thực hiện tập trung nhất chủ nghĩa thực dân kiểu mới và các chiến lược chiến tranh; nơi chúng thực hiện thí điểm các biện pháp chiến lược, chiến thuật như “ấp chiến lược”, “thiết xa vận”, “trực thăng vận” (trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”); “tìm diệt”, “bình định”, “quét và giữ” (trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”); “bình định thí điểm”, “bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt” (trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”); là địa bàn cố thủ cuối cùng trong nỗ lực chia cắt đất nước, duy trì ách thống trị của đế quốc Mỹ và chế độ ngụy quyền tay sai. Đối với lực lượng kháng chien, Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên là chiến trường trọng điểm của toàn miền Nam, nơi Trung ương Đảng tập trung chỉ đạo giải quyết những vấn đề chiến lược chủ yếu nhất tại chiến trường nhằm phát triển cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Phong trào Đồng khởi năm 1960, phong trào phá ấp chiến lược năm 1963, những trận đánh Mỹ đầu tiên và những chiến dịch tiêu diệt lớn những năm 1965 - 1967, cuộc Tổng công kích Xuân Mậu Thân (năm 1968), phong trào đấu tranh đô thị, đòn phản công trên tuyến biên giới và phát triển tiến công mở rộng vùng giải phóng sang Campuchia năm 1970, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 trên chiến trường B2 là chuỗi biến cố lịch sử mà ý nghĩa của nó có tác dụng làm chuyển biến toàn bộ tiến trình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tựu trung, Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên là địa bàn có khả năng thể hiện sự vận dụng đầy đủ đường lối quân sự, đường lối chính trị của Đảng ta về tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, địa bàn có điều kiện thể hiện một cách trực tiếp truyền thống đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt Nam - Campuchia, nơi mở đầu và kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1945-1975.

 17 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 07:47:03 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
TÀI LIỆU THAM KHẢO


* TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Am - Đặng Quang Minh (1987), Bác Hồ với Cách mạng Tháng Mười, Lê-nin và tình hữu nghị Việt - Xô, Hội hữu nghị Việt - Xô, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 - 1975) - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Báo cáo thành tích ngoại giao 8 năm kháng chiến (1946 - 1954) của Bộ Ngoại giao, Cục Lưu trữ Nhà nước, Trung tâm lưu trữ Quốc gia 1, phông Phủ Thủ tướng, Đơn vị bảo quản số 1580.

5. Báo cáo về tình hình thế giới, công tác đối ngoại năm 1962 uà phương hướng công tác trong thời gian tới, Hồ sơ Cp, số 51/KTĐN-N, Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

6. Báo Liên Xô ngày nay, số 1+2/ tháng 1, 1980.

7. Báo Quân đội nhân dân, số 12/ tháng 6, 1970.

8. Biên bản Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa II), ĐVBQ 29, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.

9. Biên bản trao đôi ý kiến giữa ngoại giao và quân sự về công tác đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, Hồ sơ số 250, phông TK, Phòng Lưu trữ, Bộ Ngoại giao.

10. Nguyễn Đình Bin (2002), Ngoại giao Việt Nam (1945 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

12. Bộ Ngoại giao (1983), Việt Nam - Liên Xô 30 năm quan hệ: Văn kiện và tài liệu, Nxb Ngoại giao, Hà Nội.

13. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb Sự thật, Hà Nội.

14. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2002), Quân đội nhân dân Việt Nam - Biên niên sự kiện, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

15. Bộ Ngoại giao (2000), Ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Brêgiơnhép L. I. (1981), Đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của trái tim và trí tuệ, Nxb Sự thật, Hà Nội.

17. Brêgiơnhép I. V. (1981), Đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của trái tim và trí tuệ, Nxb Sự thật, Hà Nội.

18. Bưkharkin I. V. (1988), Kremli và Hồ Chí Minh 1945 - 1969, Bản dịch, Lưu tại Viện Sử học.

19. Bùi Khắc Bút (2000), "Quan hệ Việt - Nga 50 năm một chặng đường lớn", Học viện Quan hệ quốc tế, Bộ Ngoại giao, số 3 (33).

20. Cách mạng Tháng Mười và tình hữu nghị Việt - Xô (1987) Nxb Sự thật, Hà Nội.

21. Trường Chinh (1983), Tượng đài hùng vĩ của tình hữu nghị Việt - Xô, Nxb Sự thật, Hà Nội.

22. Trường Chinh (1968), Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi theo con đường Mác đã vạch ra, Nxb Sự thật, Hà Nội.

23. Lý Thực Cốc (1996), Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam (1991), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội.

25. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam (1987), Nxb Sự thật, Hà Nội.

26. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại (1975), tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.

27. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại (1975), tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.

28. Cuộc xung đột Trung Quốc - Việt Nam (1980), Chuyên san, bản dịch, lưu trữ tại Thư viện Quân đội.

29. Đại sự ký tổng hợp, Đấu tranh ngoại giao và vận động quốc tế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Ban Tổng kết Học viện Quan hệ quốc tế, Bộ Ngoại giao, Tài liệu lưu trữ tại Khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao, Học viện Quan hệ quốc tế.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
   
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đấu tranh ngoại giao thời kỳ 1965 - 1975, Hồ sơ 243, phông TK, Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

46. Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tập 2, (1946 - 1954) (1976), Bộ phận tổng kết, Bộ Ngoại giao, Hà Nội.

47. Đề cương sơ thảo "Lịch sử quan hệ đối ngoại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945 - 1975)", Hồ sơ, phông TK, Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

48. Đivincôpxki - Iôgơnhetôp (1977), Con đường đi đến thắng lợi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Phạm Văn Đồng (1983), Tinh hữu nghị Việt - Xô mãi mãi xanh tươi và đời đời bền vững, Nxb Sự thật, Hà Nội.

50. Lê Duẩn (1985), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vi độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.

51. Lê Duẩn (1982), Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và tình cảm của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.

52. Lê Duẩn (1983), Ngọn cờ của Lênin và Bác Hồ sẽ được mang đến đích thắng lợi cuối cùng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

53. Lê Duẩn (1981), Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của chứng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.

54. Lê Duẩn (1978), Cách mạng Tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

55. Lê Trung Dũng, Quan hệ Nga - Việt trước năm 1950, Tài liệu lưu trữ tại Viện Sử học.

56. Trần Kim Dung (2002), "Nửa thế kỷ hợp tác văn hoá Liên bang Nga", Báo Nhân Dân, số 13 - tháng 2.

57. Gabriel Kolko (1991), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

58. Gaiduk. V. I (1999), Liên bang Xôviết và cuộc chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

59. Phạm Giảng (1962;, Lịch sử quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ II (1945 - 1954), Tài liệu lưu trữ tại Viện Sử học, Hà Nội.

60. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

61. Trần Văn Giàu (1957), "Những ảnh hưởng đầu tiên của Cách mạng Tháng Mười Nga đến thời cuộc chính trị ở Việt Nam”, Tạp chí Học tập, số 9 (9-1957)

62. Giôdép. A. Amtơ (1985), Lời phán quyết về Việt Nam Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

63. Gioócgiơ C. Herinh (1998), Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Grigoripôpôp - Alêchxâyxerôp (1975;, Liên Xô - Việt Nam, tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác, Nxb Thông tấn xã Nôvôtxti.

65. Hoàng Hải (2000), "Quan hệ kinh tế Việt - Nga những năm cuối thế kỷ XX", Báo cáo tại Hội thảo 50 năm quan hệ Việt - Nga.

66. Hồng Hạnh - Hải Hà (2000), "Tìm hiểu sự giúp dở của Liên Xô trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam (1945 - 1975)", Tạp chí Lịch sử quân sự, số 4.

67. Hồ Chí Minh (1985), về tình hữu nghị vĩ đại Việt - Xô, Nxb Sự thật, Hà Nội.

68. Hồ Chí Minh (1957), Cách mạng Tháng Mười mở con đường giải phóng cho các dân tộc, Nxb Sự thật, Hà Nội.

69. Hồ Chí Minh (1985), về Lênin và Cách mạng Tháng Mười, Nxb Sự thật, Hà Nội.

70. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hồ Nội.

76. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử (1996), tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Hồ sơ 81, phông CA IV, Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

80. Hồ sơ 85, phông CA IV, Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

81. Hồ sơ 86, phông CA IV, Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

82. Hồ sơ 90, phông CA IV, Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

83. Hồ sơ 92, phông CA IV, Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

84. Học viện Quan hệ quốc tế (2002), Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1945 - 1995), Tài liệu lưu trữ nội bộ.

85. Đỗ Quang Hưng (2000), "Bác Hồ và mùa xuân 1950", Tạp chí Xưa và nay, số 5.

86. Ixaep. M. P. - Trécnưsep. A. X (1975), Quan hệ Xô - Việt, Nxb Tư tưởng Mátxcơva (bản dịch của Viện Sử học).

87. Lê Khắc (1983), "Quan hệ kinh tế- thương mại và hàng hải Việt Nam - Liên Xô ngày càng phát triển và mở rộngtrích sách: Thắng lợi của tình hữu nghị và hợp tác toàn diện, Nxb Sự thật, Hà Nội.

88. Khorusov N, Hồi ký, Nxb Robert Lafont Pari, Bản dịch, lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

89. Kỷ yếu hội thảo khoa học (2002), Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga: lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân vàn - Trung tâm ngoại giao châu Á - Viện Sử học, Hà Nội.

90. Lịch sử chính sách đối ngoại của Liên Xô (1945 - 1970) (1971), Nxb Khoa học, Mátxcơva, Tài liệu lưu trữ tại Viện Sử học.

91. Liên Xô phất cao ngọn cờ hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc (1955), Nxb Sự thật, Hà Nội.

92. Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945 -1975), tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

93. Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Mac Namara (1995), Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Malencov (1954), Tình hình quốc tế và chính sách ngoại giao của Liên Xô, Nxb Sự thật, Hà Nội.

96. Mấy vấn đề về chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975) (1998), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

97. Trương Tiểu Minh (2002), Chiến tranh lạnh và di sản của nó, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. Một số văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1985), tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

99. Một số văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1985), tập 2, Nxb Sự thật, Ha Nội.

100. 50 năm ngoại thương Liên Xô (1967), tiếng Nga, Tài liệu dịch lưu trữ tại Viện Sử học, Mátxcơva.

101. Ngoại giao Việt Nam - Thắng lợi và bài học (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

102. Đào Huy Ngọc (1996), Lịch sử quan hệ quốc tế, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.

103. Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 3, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.

104. Trần Hồng Quân (1988), Hợp tác Xô - Việt trong Liên Xô giáo dục Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện, Nxb Sự thật, Hà Nội.

105. Văn Quân (1958), Quan hệ giữa Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

106. Quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện Liên Xô - Việt Nam (1988), Nxb Sự thật, Hà Nội.

107.   "Quan hệ Việt Nam - Liên Xô từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (30.1.1950 - 30.1.1980)" (1980) sổ tay tuyên truyền, số 1+2.

108. Quan hệ Việt - Xô trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tài liệu lưu trữ tại Viện Hồ Chí Minh Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

109. Quan hệ Xô - Việt (1945 - 19SB). Tài liệu lưu tra tụi Bộ Ngoại giao.

110. Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung (1996), Nxb Đà Nẵng.

111. Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1985), Nxb Khoa học xă hội, Hà Nội.

112. Sức mạnh Việt Nam (1976), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

113. Nguyễn Duy Trinh (1996), Sức mạnh ngoại giao thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.

114. Nguyễn Duy Trinh (1972), Thế đi lên của ta trên mặt trận ngoại giao, Nxb Sự thật, Hà Nội.

115. Trong cuộc đối đầu thê kỷ (1996), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

116. Thống kê số liệu viện trợ quốc tế, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Hồ sơ 795, số 15.

117. Nguyễn Anh Tuấn (1983), "Những bông hoa rực rỡ của tình hữu nghị Việt - Xô trên địa bàn Thủ đô Hà Nội", Sách "Cách mạng Tháng Mười và tình hữu nghị Việt - Xô", Hội hữu nghị Việt - Xô, Hà Nội.

118. Lý Đan Tuệ (2000), "Xung đột và mâu thuẫn Trung Quốc - Liên Xô trong vấn đề viện trợ cho Việt Nam chống Mỹ", Tạp chí Nghiên cứu Liên Xô - Trung Quốc đương đại, số 3, Tài liệu dịch từ tiếng Trung Quốc, lưu trữ tai Viên sử hoc.

119. "Tuyên bố của Thông tấn xã Liên Xô" (TASS, 1964), Bản dịch lưu trữ tại Viện Sử học, Báo Sự thật (Liên Xô), ngày 6-8.

120. "Tuyên bố của Thông tấn xã Liên Xô" (TASS, 1964), Bản dịch lưu trữ tại Viện Sử học, Báo Sự thật (Liên Xô), ngày 22-9.

121. Văn kiện Đảng về cuộc kháng chiến chống pháp (1946 -1950) (1988), tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội

122. Văn kiện ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1964), sáu tháng đầu năm 1964, Nxb Bộ Ngoại giao, Hà Nội.

123. Văn kiện ngoại giao Việt Nam Dãn chủ Cộng hòa (1969), sáu tháng cuôi năm 1964, Nxb Bộ Ngoại giao Hà Nội.

124. Văn kiện ngoại giao Việt Nam Dăn chủ Cộng hòa (1965), sáu tháng đầu năm 1965, Nxb Bộ Ngoại giao Hà Nội.

125. Văn kiện ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1965), sáu tháng cuối năm 1965, Nxb Bộ Ngoại giao Hà Nội.

126. Việt Nam - con số và sự kiện (1990), Nxb Sự thật Hà Nội.

127. Việt Nam - Liên Xô - Tình hữu nghị đời đời bền vững Hội hữu nghị Xô - Việt, Bản dịch lưu trữ tại Hội Hữu nghị Việt - Nga.

128. Việt Nam - Liên Xô: 30 năm quan hệ (1950 - 1980) (1982), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

129. Việt Nam - Liên Xô những chặng đường quan hệ hữu nghị (1990), Bản dịch lưu trữ tại Thư viện Quân đội.

130. Việt Nam - Liên Xô xa mà gần (1983), Nxb Ngoại văn, Hà Nội.


* TIẾNG ANH

131.Chen Jian: "The Sino - Soviet Alliance and China’s Entry into the Korean War", Cold War International History Project, Woodrow Wilson International Center for Scholars Washington. D.c, June 1992.

132. Foreign relations of the United States, 1950, State United States Department of State Office of the Historian, vol. 1.

133. Christopher E. Goscha, "Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Integration of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945 - 1950)", Journal of Vietnamese Studies, Vol I, NO. 1-2, (February, August), 2006.

134.   Cosughin's Forthcoming Visit to Hanoi, CIA Released Documents, National Archives and Records Administration.

135.   Memorandum of Conversation (USSR), AVP RF, f. 0129, op. 53, p. 399, d. 6,1. 44 - 50. Secret, N° 34.

136. Note Ftvm the Soviet Leader to President Nixon, National Archives, Nixon Presidential Materials, NSC Files, Pr esident’s Trip Files, Kissinger/Dorynin, 1969, Pt.l.

137. Report on Meetings with the KGB of the USSR on 30 November and 1 December 1964, Office of the Federal Commissioner for the Stasi Records (BStU), MfS, SdM 576.

138.   SNIE: The Outlook for North Vietnam, CIA Released Documents, National Archives and Records Administration.

139. Sources of Military Equipment to North Vietnamese Military Forces, 1975, Archives, The International Institute For Strategic Studies, Volume I.

140. Sources of Military Equipment to North Vietnamese Military Forces, 1975, Archives, The International Institute For Strategic Studies, Volume II.

141. States of Soviet and Chinese Military Aid to North Vietnam, Special Report, Page 5, Central - intelligence agency, CIA Released Documents, National Archives and Records Administration.

142. Telegram, Communist Party of the Soviet Union Central Committee to Chinese Communist Party, 26 February 1954, Department of Archives, Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China (PRCFMA), 109 - 00396 - 01.

143. Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, June 25, 1965, National Archives and Records Administration, RG 59, Conference Files: Lot 66 D 347, CF 86. Confidential, Document 115.

144.   Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, July 21, 1965, Department of State, Kohler Files: Lot 71 D 460, Telegrams. Secret; Immediate, Document 119.

145. Telegram From the Embassy in the Soviet Union to the Department of State, Moscow, August 20, 1965, National Archives and Records Administration, RG 59, Central Files 1964-66, POL 27 VIET S. Secret, Document 121.

146. The Polish - Soviet Talks in Moscow: October 10 - 15, 1966, Andrzej Paczkowski, ed. Tajne Dokumenty Biura Politycznego PRL - ZSRR, 1956 - 1970. London: Aneks Publishers, 1996.

147. Letter from Allen S. Whiting to Kissinger, 16 August 1969, enclosing report, "Sino - Soviet Hostilities and Implications for U.S. Policy'', National Archives, Nixon Presidential Materials Project, box 839, China.

148. Douglas Pike (1987), Vietnam and the Soviet Union: Anatomy of an Alliance, Boulder: Westview Press.

149. Gareth Porter (ed.) (1979), Vietnam: The Definitive Documentation of Human Decision, Vol. II, New York.

150. Gary R. Hess (1994), The Unending Debate: Historians and the Vietnam War, Diplomatic History.

151. Mari Olsen (2006), Soviet - Vietnam Relations and the Role of China, 1949 - 1964, Routledge.

152. Min Chen (1992), The Strategic Triangle and Regional Conflict - Lessons from the Indochina Wars, Lynne Rienner Publisher, Boulder and London.

153. Ronal H. Spector, Advice and Support: The Early years of the United Stales Army in Vietnam 1941 - I960, The free Press, New York, Collier Macmilan Publishers.

154. Qiang Zhai (2000), China and the Vietnam War, 1950 - 1975, Chapel Hill and London: The University of North Carolina Press.


* TIẾNG NGA

155.   И.В. ГАЙДУК, Советский Союз и война во Вьетнаме, осмысление истории М, 1996.

156.   И.В. ГАЙДУК, Советский Союз и война во Вьетнаме, Указ, соч.

157.   Коммунистическая партия Советского Союза в резолюциях и решениях съездов, конференций и Пленумов ЦК (98-1986). Издательство Политика- М., 1983.

 18 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 07:40:22 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
Phụ lục VI
NGHỊ ĐỊNH THƯ NGÀY 29-12-1971
*
(Đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghía Xôviết đã ký)
(Thuộc Hiệp định 22-10-1970 ký tại Mátxcơva
về xây dựng các nhà bảo quản vũ khí, khí tài kỹ thuật,
tên lửa, đạn pháo)


Kèm theo Hiệp định giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết ký ngày 22 tháng 10 năm 1970 về giúp đỡ quân sự không hoàn lại bổ sung cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong năm 1971 và giúp hợp tác kỹ thuật không hoàn lại trong việc xây dựng và bổ sung thiết bị cho các công trình quân sự.


Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết, nhằm tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị và sự hợp tác anh em giữa hai nước, và theo yêu cầu của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã thỏa thuận về những điều sau đây:

Điều 1

Căn cứ theo Hiệp định giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết ngày 22 tháng 10 năm 1970, các tổ chức có liên quan của Liên Xô sẽ giúp cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sự hợp tác kỹ thuật không hoàn lại (không phải trả tiền) trong việc xây dựng kho để bảo quản trang bị, kỹ thuật quân sự, tên lửa phòng không và đạn pháo tính vào số tiền 6 triệu rúp quy định trong Điều 3 của Hiệp định trên ngày 22 tháng 10 năm 1970.

Trong Phụ lục 1 kèm theo Nghị định thư có ghi khối lượng và thời hạn giúp hợp tác kỳ thuật trong việc xây dựng các kho nói trên, còn trong Phụ lục 2 kèm theo Nghị định thư là tính năng kỹ thuật của các kho đó.


Điều 2

Về tất cả những điều còn lại không quy định trong Nghị định thư này, hai bên sẽ theo đúng các điều khoản của Hiệp định ngày 22 tháng 10 năm 1970.


Điều 3

Nghị định thư này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Các phụ lục 1 và 2 là phần không tách rời của Nghị định thư này.

Làm tại Mátxcơva, tháng 12 năm 1971 thành hai bản chính, mỗi bản bằng tiếng Việt Nam và tiếng Nga, cả hai văn bản có hiệu lực như nhau. Phụ lục kèm theo Nghị định thư bằng tiếng Nga.
 

Phụ lục 1
(Kèm theo Nghị định thư năm 1971)

KHỐI LƯỢNG VÀ THỜI HẠN

Giúp hợp tác kỹ thuật cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc xây dựng các kho để bảo quản trang bị, kỹ thuật quân sự, tên lửa phòng không và đạn pháo.



Phụ lục 2
(Kèm theo Nghị định thư năm 1971)


TÍNH NĂNG KỸ THUẬT

Các nhà bảo quản trang bị, kỹ thuật, quân sự, tên lửa phòng không và đạn pháo, xây dựng tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


Chú thích:

1. Cột, khung nhà và dầm dọc của các nhà bảo quản bằng kim loại, mái và tường bằng phibrô xi măng.

2. Tại các nhà để bảo quản máy móc chính xác và phương tiện rađa sẽ có thiết bị để đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm cần thiết.

3. Khi thiết kế cần xác minh lại diện tích của các kho, kích thước nhà bảo quản và mái hiên.

 19 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 07:37:37 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
Phụ lục V
THƯ GHI NHỚ


Ủy ban liên lạc kinh tế đối ngoại thuộc Hội đồng bộ trưởng Liên Xô được ủy nhiệm thông báo như sau:

Chính phủ Liên Xô đồng ý cung cấp cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các vật liệu xây dựng (thép cán và phibrô xi măng), cần thiết để xây dựng các kho trang bị và khí tài quân sự với trị giá đến 1 triệu rúp tính vào số tiền 6 triệu rúp theo Hiệp định ngày 22 tháng 10 năm 1970.


Đồng thời cũng xin thông báo rằng, theo ý kiến của các tổ chức của Liên Xô có thẩm quyền thì trong điều kiện khí hậu của Việt Nam việc dùng các kho chứa bằng kim loại là không hợp lý, vì trong khoảng thời gian nóng tại các kho chứa đó nhiệt độ sẽ rất cao, ngoài ra trong điều kiện độ ẩm cao, các kho chứa độ sẽ hư hỏng nhanh vì sự ăn mòn kim loại lớn.


Mátxcơva, ngày 17 tháng 9 năm 1971
Số 6188/11 - 21

 20 
 vào lúc: 27 Tháng Ba, 2023, 07:35:54 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
Phụ lục 1
(Kèm theo Nghị định thư ngày 29 tháng 12 năm 1971)


KHỐI LƯỢNG VÀ THỜI HẠN

Giúp hợp tác kỹ thuật cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc xây dựng các nhà bảo quản trang bị, kỹ thuật quân sự, tên lửa phòng không và đạn pháo.


Chú thích:

1. Tài liệu thiết kế và tài liệu kỹ thuật chuyển giao bằng tiếng Nga.

2. Các tổ chức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cần tự đảm nhiệm việc vận dụng thiết kế kỹ thuật các nhà bảo quản vào địa hình cụ thể, lập bản vẽ thi công, hoàn thành công tác xây dựng và lắp ráp, đảm bảo cho công tác xây dựng các vật liệu lắp ráp và xây dựng cần thiết ngoài số lượng đã được cung cấp theo Nghị định thư này.


Phụ lục 2
(Kèm theo Nghị định thư ngày 29 tháng 12 năm 1971)


TÍNH NĂNG KỸ THUẬT

Các nhà bảo quản trang bị, kỹ thuật quân sự, tên lửa phòng không và đạn pháo xây dựng tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


Chú thích:

1. Cột, khung nhà và dầm dọc của các nhà bảo quản bằng kim loại, mái và tường bằng phibrô xi măng.

2. Tại các nhà bảo quản các máy móc chính xác và phương tiện rađa sẽ có thiết bị để đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm cần thiết.



Chú thích:

1. Tài liệu thiết kế và tài liệu kỹ thuật chuyển giao bằng tiếng Nga.

2. Các tổ chức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cần tự đảm nhiệm việc vận dụng thiết kế kỹ thuật của các kho vào địa hình cụ thể, lập các bản vẽ thi công, thực hiện công tác xây dựng và lắp ráp đảm bảo cho công tác xây dựng các vật liệu xây dựng và lắp ráp cần thiết (trong đó kể cà xi măng) ngoài số lượng được cung cấp theo Nghị định thư này.

Nguồn: Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng tham mưu, Hồ sơ số 360.

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »
Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM