Ở những chỗ chúng tôi dừng chân nghỉ, những nữ thanh niên xung phong Việt Nam đã đến chào hỏi chúng tôi. Qua tiếp xúc, chúng tôi biết họ là những người san lấp hố bom hoặc gánh gạo vào các vùng giáp ranh Sài Gòn. Họ vui cười, nắm lấy cánh tay chúng tôi. Các chị quan tâm đến tuổi tác và gia đình chúng tôi. Đôi khi các chị còn xin một điếu thuốc, không buông tay cho đến khi chưa đụng vào chiếc xe jeep của chúng tôi. Những người đàn ông chuyển gạo trong bao tải đặt trên một chiếc xe đạp. Để điều khiển xe đạp, họ dùng một cây gậy buộc vào phía bên trái của ghi đông và cột chặt một đoạn tre thẳng đứng vào ghế yên của xe đạp, tay trái cầm cây gậy đã buộc vào ghi đông, tay phải bám vào cột đứng để giữ xe đạp ở vị trí thẳng đứng và đẩy xe đạp đi về phía trước. Mọi người dân Việt Nam đối với chúng tôi rất thân thiện và cởi mở. Khi gặp chúng tôi, mọi người đều điệp khúc câu: “Liên Xô, Liên Xô”.
Ngày 15 tháng 11 năm 1972, một điều bất ngờ đến với chúng tôi và Chỉ huy Trung đoàn Tên lửa Phòng không 236 Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là lệnh tất cả chúng tôi hành quân ra Hà Nội. Hai xe GAZ-69 và một xe tải GAZ-63 đưa chúng tôi ra Hà Nội. Ngày 17 tháng 11 năm 1972 chúng tôi đã về đến khách sạn Kim Liên. Nhóm chuyên gia chúng tôi giải thể, các thành viên được phân công về các đơn vị khác nhau. Tôi được đi đến Hải Phòng. Trưởng nhóm chuyên gia ở Hải Phòng là Trung tá Krivokhizh. Điều kiện sinh hoạt và ăn uống ở đây thật tuyệt vời. Trong sân có một vòi nước, một hầm trú ẩn bom hiện đại. Hầm xây bê tông, rộng rãi, trên nóc hầm đổ một lớp đá hộc có độ dày khoảng 5 mét. Nhờ đó, khi ngồi dưới hầm không nghe rõ tiếng bom nổ và tiếng gầm rú của 8 động cơ máy bay B-52. Tiếng gầm của B-52 chấn động toàn bộ không gian, vang đi tứ phía, thậm chí xuyên qua trái đất, nhưng B-52 chúng không phải là thần thánh. Căn cứ vào các số liệu của các phương tiện truyền thông đại chúng của chúng tôi, một số chỉ huy B-52 đã chọn con đường đi của mình là đến tòa án, chứ không đi vào không phận của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Tính riêng trong thời gian chúng tôi ở Việt Nam, Trung đoàn Tên lửa Phòng không 236 QĐND Việt Nam đã bắn hạ được hơn 20 máy bay Mỹ (trong đó có 4 máy bay B-52).
Thượng tướng Khyupenen trong hồi ký của mình, ông đã viết: “Có thể ghi nhận trong nhóm chuyên gia quân sự Liên Xô do Trung tá Philippov làm Trưởng đoàn, tất cả các chuyên gia đều xứng đáng nhận giải thưởng của Chính phủ Liên Xô và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
Trích từ tập hồ sơ cá nhân, có đoạn ghi: “Đại úy Yurin Viktor Alekseevich đã hoàn thành một cách vẻ vang nhiệm vụ do Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ Liên Xô giao cho và hoàn thành nhiệm vụ quốc tế của mình”.
*
* *
* *
Phần cuối của bài viết, tôi muốn mượn lời nhận xét của Nhà bình luận Mỹ William Lipman để nói lên giá trị chiến thắng của Quân đội và Nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Không quân Mỹ. Ông William Lipman đã viết: “Chúng tôi phải thừa nhận rằng, quân đội Mỹ không thể kiểm soát được châu Á. Chứng minh nhận xét này là điều xấu hổ và nhục nhã của Mỹ ở Việt Nam mà chúng tôi phải gánh chịu”.
Để một nhà bình luận Mỹ phải công nhận sự thất bại của quân đội nước mình trước truyền thông thế giới, Quân đội và Nhân dân Việt Nam trong thời gian từ ngày 05 tháng 8 năm 1964 đến ngày 31 tháng 12 năm 1972, đã bắn rơi 4181 máy bay các loại của Hoa Kỳ, mà phi công của những máy bay bị rơi trên miền Bắc Việt Nam đều là những phi công chuyên nghiệp cao cấp nhất. Ngồi trên các máy bay tiêm kích đã được treo những quả bom tấn, những “phi công tài năng” đó đã thể hiện sự hợp đồng ở độ cao rất thấp, tính toán làm sao để thời gian tương tác có thể rút ngắn chẳng khác nào tốc độ của đĩa bay viễn tưởng.
Ngày 31 tháng 12 năm 1972, Không quân Mỹ đã bị tổn thất nặng trên bầu trời miền Bắc Việt Nam: trong 12 ngày đêm hạ tuần tháng 12 năm 1972, Quân và dân Việt Nam đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc pháo đài bay B-52 và 3 chiếc F-111. Hoa Kỳ đã buộc phải ngừng cuộc chiến bằng không quân trên miền Bắc Việt Nam, và ngày 27 tháng 1 năm 1973, họ đã ký hiệp định “Về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Nhân dân Việt Nam đã đứng lên, không quỳ gối trước sức mạnh của “quái vật” bên kia Đại Tây Dương.
Ông Sherbakov, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại Việt Nam, đã phát biểu trong một cuộc gặp mặt các chuyên gia quân sự Liên Xô nhân dịp đón Tết - Năm mới của Việt Nam, tháng 2 năm 1973: “... Các chuyên gia quân sự Liên Xô đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Bằng thao lược quân sự của mình, họ đã tạo ra khả năng và mở ra con đường thiết lập quan hệ ngoại giao tốt với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bây giờ, họ cần xây dựng mối quan hệ kinh tế...”.
Ngày 20 tháng 01 năm 1973, là thời điểm kết thúc chuyến công tác của chúng tôi. Chúng tôi lên máy bay, và sau 28 giờ đã về đến Moskva ...
Ký ức về tất cả những người mà cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã gắn kết tôi với họ, sẽ mãi mãi trong tâm trí tôi.
Thành phố Kurgan, năm 2008