Ngày 18/12/1968, tôi đã thay mặt Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền đến một điểm thuộc tỉnh Tây Ninh làm việc và giao nhiệm vụ cho trung đoàn ở nơi tập kết để chuẩn bị mọi mặt cho công tác mới. Ròng rã ngót chục ngày đường đi bộ, vai mang ba lô, tay chống gậy mây, quần xắn trên đầu gối, với đôi dép cao su vạn dặm, tôi cùng một tiểu đội bảo vệ được vũ trang mạnh, len lỏi qua những đường rừng quanh co, những trảng trống ngập đầy nước đọng. Rừng hoang nhiệt đới, cây to đủ loại, dây leo chằng chịt ngày trước, nay xơ xác trống trải, ngọn cây cụt, lá cháy trụi bởi bom đạn và chất độc hóa học, trông thật đau lòng. Đồng chí Hùng, cán bộ bảo vệ của tôi, người nhỏ thó nhưng chắc nịch, quê ở Bến Cát, nơi cũng có nhiều rừng, nằm trên võng mắc gần võng tôi trong khóm cây còn chưa trụi lá. Sau một ngày đi vất vả Hùng cứ trằn trọc đung đưa võng. Tôi hỏi: “Hùng, sao em không ngủ để lấy sức mai đi sớm, đường còn xa đấy”. Hùng trả lời: “Ủa, thấy anh nằm im, em tưởng anh ngủ rồi. Anh Tư ạ, em đang tiếc là rừng ta bị phá nhiều quá. Mấy chục năm mới có được một cây thế này” - Hùng chỉ cây gỗ to bị bom đào tróc gốc nằm ngay bên cạnh chúng tôi - “Quê em bây giờ cũng thành bình địa rồi anh à!”. Tôi cảm động an ủi Hùng nhưng cũng là để tự nói với mình: “Diệt hết quân thù ngày mai đất nước sẽ rạng rỡ. Dân ta có đủ tài năng và sáng tạo, lo gì! Rừng ta rồi sẽ trở lại màu xanh”.
Đến chỗ Trung đoàn trú quân, rừng còn khá hơn một ít, lán trại dựng tạm với những cành cây nhỏ và lợp lá trung quân (loại lá cây to bằng bàn tay, đặc biệt là đốt không cháy dù đã khô, mọc đầy khắp rừng miền Nam ta). Mỗi trại vừa đủ cho một tiểu đội. Tôi và tiểu đội của tôi cũng được phân cho một cái. Đại biểu Tỉnh ủy và Tỉnh đội Long An đã có mặt sớm hơn tôi một ngày để cùng dự buổi họp làm việc và bàn kế hoạch hợp đồng với tham mưu trung đoàn. Tôi đã gặp các đồng chí Nguyễn Đức Khôi - Trung đoàn trưởng, Lê Văn Minh - Chính ủy, Hồng Hải, Trình Ngọc Chậm - Trung đoàn phó, các đồng chí thân yêu và dũng cảm này lần lượt hy sinh oanh liệt trong chiến đấu vào những năm 1969 - 1970. Tôi cũng đã gặp nhiều đồng chí cán bộ ưu tú khác trong Bộ Chỉ huy Trung đoàn, trong các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Trung đoàn và các ban chỉ huy tiểu đoàn mà ngày nay có đồng chí đã thành liệt sĩ, có đồng chí đã trưởng thành, dày dạn, tiếp tục xây đắp truyền thống vinh quang của Trung đoàn, hay được phân phối công tác khắp các nơi.
Cuộc họp diễn ra ngay sau khi tôi tới một tiếng đồng hồ - thời gian vừa đủ cho việc triệu tập cán bộ lại. Không cần hội trường, chả có bàn ghế, anh em ngồi trên những mô đất, những thân cây gãy, giữa một khu rừng sạch sẽ, dưới tán cây lá xác xơ. Chúng tôi chỉ làm việc ban ngày. Về đêm dưới ánh sáng trăng, sao, tôi đi thăm từng lán trại, nói chuyện với chiến sĩ, cán bộ, về quê hương, gia đình, về tình hình chiến cuộc miền Nam, về Thủ đô Hà Nội cho đến cả tình hình nước Mỹ, tình hình thế giới. Thôi thì đủ chuyện, nghiêm nghị có, đùa vui có, và cả những tâm tình, những thắc mắc riêng tư... Đêm nào tôi cũng về đến lán của mình ngủ khá khuya. Thế mà có đủ thì giờ đâu - không làm sao đi khắp được các lán trại.
Trước một bản đồ miền Đông Nam Bộ bao gồm cả tỉnh Long An, Gò Công, một phần Đồng Tháp Mười, treo trên thân cây, với que trúc vừa chặt ở bụi bên cạnh, tôi nghiêm trang truyền đạt mệnh lệnh trực tiếp cho Trung đoàn. Tiếp theo đó tôi giải thích rõ về địa hình, về tình hình ta và địch ở các nơi mà đơn vị sẽ hoạt động. Cán bộ của trung đoàn chưa ai hiểu biết về vùng này. Riêng tôi nhờ hoạt động từ hồi kháng chiến chống Pháp tới nay, tôi đã từng lội bộ khắp nơi này nên biết rõ về con người và địa vật để truyền đạt cặn kẽ bước đầu cho anh em. Tôi đã chỉ thị cụ thể về nhiệm vụ, phương châm, phương thức tác chiến, về những hình thức chiến thuật địch đã và sẽ dùng ở từng nơi trong tỉnh, về chiến thuật và kỹ thuật mà ta cần áp dụng để đánh thắng. Tôi đã nói về phương pháp vận động quần chúng, về công tác tổ chức du kích và giúp đỡ bộ đội địa phương, về việc kết hợp giữa các đơn vị của Trung đoàn với xã và huyện sở tại, giữa Trung đoàn và tỉnh đội. Cuối cùng, tôi đã chỉ thị về công tác Đảng và công tác chính trị, về sinh hoạt tinh thần và vật chất của cán bộ chiến sĩ trong mỗi trường hợp hoạt động từng đơn vị lớn, nhỏ, từng tổ lẻ rải rác.
Sau đó, anh em có hai ngày thảo luận về mọi mặt và nêu những gì còn thắc mắc chưa rõ để tôi giải đáp cuối cùng.
Những ngày làm việc khẩn trương và nghiêm túc, những tình cảm thân thiết chan hòa ở Trung đoàn 320 không thể nào quên. Anh em từ cán bộ đến chiến sĩ đều rất phấn khởi được nhận nhiệm vụ, vui vẻ bàn bạc và cố hình dung những trận chiến đấu sắp tới, những gì gian khổ đang chờ đợi.
Nói sao hết những tháng ngày vô cùng khó khăn mà cán bộ và chiến sĩ của toàn Trung đoàn đã đồng cam cộng khổ với cán bộ địa phương, với du kích và nhân dân, một bước không đi, một ly không rời, mặc bom đạn tập trung ác liệt mà anh em chỉ có những gốc dừa nước mỏng manh làm cộng sự. Có ai ghi lại những sinh hoạt kỳ lạ của anh em, ngày ngày dầm mình dưới bùn lấy nước đọng của bãi lá, bắn trực thăng, phi cơ, đánh càn quét, “nhảy dò” của Lữ 3 Sư đoàn 9 Mỹ, đêm đêm lại cùng nhân dân bàn mưu tính kế đánh địch, mua tải lương thực đạn dược trong các ấp chiến lược. Làm sao quên được những đêm hành quân qua sông Vàm Cỏ, căng thẳng, lo âu. Một đại đội từ huyện này qua huyện bên cạnh phải mất 5, 7 đêm liền, rồi lại qua đường 4 của địch căng dày đồn bót, dây thép gai, bãi mìn... Thế mà từ tháng này qua tháng nọ phải cõng thương binh về phía sau, đưa vũ khí đạn dược và tân binh lên bổ sung tại chỗ trên đoạn đường dài của vùng xen kẽ gần 100 cây số với khẩu hiệu “kiên trì, bám trụ, chủ động tấn công”, “sống chiến đấu ở đây mà chết cũng ở đây, vì thành công của cách mạng” (ngày nay nhân dân vùng Cần Đước, Tân Trụ, Đức Huệ, Châu Thành... hằng năm vào những ngày quét mộ sắp tết, các má, các bà con đã đắp lên nấm mộ vô danh của chiến sĩ Trung đoàn 320 những nắm đất tưởng lệ nhớ thương, nghĩa tình!). Chính vì vậy mà Trung đoàn đã cùng địa phương giữ vững được cơ sở cách mạng, các căn cứ của huyện, xã, các lõm du kích qua nổi thời kỳ khó khăn nhất. Mùa xuân 1975, Trung đoàn nằm trong đội hình của Sư đoàn 8 thuộc Quân khu 8 cùng các lực lượng khác tham gia tiêu diệt từng tiểu đoàn, trung đoàn, Sư đoàn 7 ngụy và kết hợp với nổi dậy của nhân dân, giải phóng vùng Tiền Giang. Với gương chiến đấu oanh liệt của mình, Trung đoàn cũng như các đơn vị và địa phương khắp các chiến trường đã góp cho B2 những kinh nghiệm quý báu. Qua những sự việc điển hình ở chiến trường như vậy mà các đồng chí trong Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền đã không đồng ý rút lực lượng phía trước về phía sau mà lệnh phải củng cố chấn chỉnh tại chỗ, giữ vững thế xen kẽ ba vùng và đã tích cực báo cáo ý kiến này với Trung ương.
Lại còn vấn đề hai vùng hay ba vùng. Trong suốt cuộc chiến tranh một mất một còn giữa ta và địch, sự đấu tranh ác liệt căng thẳng đã diễn ra trên toàn chiến trường và từ đó đã hình thành ba vùng:
- Vùng ta mạnh, lực lượng vũ trang lớn của ta đứng chân, nhân dân ở đây tham gia mọi hoạt động trong các tổ chức quần chúng, tham gia đánh địch bằng mọi cách, chính trị, binh vận và quân sự.
- Vùng địch mạnh, chúng kiểm soát bằng quân sự và cảnh sát, đàn áp bóc lột nặng nề. Ở đó, ta tổ chức quần chúng bí mật, có du kích, bộ đội biệt động và đặc công. Ta có những lõm chính trị mà nhân dân bí mật cất giấu cán bộ và giúp cách mạng bằng nhiều biện pháp che mắt địch, lồng trong công khai hợp pháp. Những lõm căn cứ du kích, cất giấu vũ khí lương thực, có du kích, có khi có bộ đội địa phương và đơn vị mũi nhọn của chủ lực đứng chân hoạt động. Tất nhiên có các chi bộ Đảng lãnh đạo tại chỗ - nhân tố trung tâm của phong trào.
- Giữa hai vùng ta và vùng địch ấy có một vùng ta gọi là vùng tranh chấp, rộng hẹp tùy nơi. Đây là một vùng mà sức mạnh đôi bên tương xứng, đang tranh giành nhau quyết liệt, luôn luôn xáo động, biến chuyển có khi từng ngày, từng giờ. Ở đây quần chúng nhân dân phần lớn là đi với cách mạng, các loại lực lượng và tổ chức cách mạng đều có. Bộ đội địa phương huyện, tỉnh thường hoạt động ở đây, đôi khi có đơn vị chủ lực của khu hay của trên thọc về đây đánh địch và hỗ trợ cho địa phương. Địch thường hành quân đánh phá, càn quét, dùng phi pháo oanh tạc, gom dân về vùng chúng. Có thể nói, cuộc đấu tranh ở đây bằng mọi hình thức của cả đôi bên diễn ra hàng giờ, cả ngày và đêm. Có nơi ban ngày do địch ban đêm do ta kiểm soát. Bên này cố đẩy lùi bên kia để biến dần thành vùng mình kiểm soát. Do vậy, vùng tranh chấp thường thay đổi liên tục giống như một vùng đất đai toàn cát, nằm giữa hai chiều gió. Nếu gió từ bên này thổi mạnh hơn thì cát đổ xô về phía kia, lấn vào phía kia, hoặc ngược lại. Khi nào còn hai phía, cách mạng và phản cách mạng và hai phía ấy còn đấu tranh chống nhau cố giành đất, giành dân về mình thì còn có vùng tranh chấp. Nó sẽ chỉ mất đi khi không còn có đấu tranh giữa hai bên nữa, nghĩa là một bên chịu khuất phục và bên kia toàn thắng.
Hiệp định Paris không phải chấm dứt đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng và cũng không chấm dứt đấu tranh được ngay cả đấu tranh vũ trang mà nó quy định vì địch vi phạm, lấn chiếm như nói trên kia với ý đồ là chỉ còn một chính quyền ngụy, một quân đội ngụy. Thế mà chủ trương tự ta nên phân định dứt khoát thành hai vùng thôi, vùng địch và vùng ta, để có phương châm đấu tranh thích hợp cho mỗi vùng, để ổn định ngay tình hình, để ta có thể củng cố xây dựng lại lực lượng vũ trang của ta đã yếu rồi, xây dựng vùng kinh tế của ta, xây dựng chính quyền của ta, thì thật là không phù hợp chút nào. Tôi còn nhớ trong cuộc họp các đồng chí trong Trung ương Cục chuẩn bị tham gia Hội nghị Bộ Chính trị, các đồng chí đều khẳng định là căn cứ vào thực tế chiến trường B2 thì bất cứ tình hình nào, thời kỳ nào cũng phải giữ đấu tranh ở cả ba vùng. Trừ phi ta thủ tiêu đấu tranh thì mới mất đi vùng tranh chấp. Thực tế không phải mất đi mà vùng ta lần lượt biến thành vùng tranh chấp, vùng tranh chấp sẽ biến thành vùng địch, cho tới khi không còn cả vùng ta lẫn vùng tranh chấp mà chỉ còn độc nhất vùng địch kiểm soát. Các đồng chí còn phân tích rằng, thực tế không bao giờ có tình hình ổn định trên chiến trường vì cả ta và địch không bên nào thủ tiêu đấu tranh cả, cho dù không còn chiến đấu vũ trang thì vẫn còn đấu tranh chính trị, kinh tế.
Trong lúc đang họp Bộ Chính trị mở rộng thì đồng chí Trần Hữu Dực được Trung ương phái vào chiến trường Trị Thiên nghiên cứu tình hình thực tế đã về và báo cáo tại hội nghị rằng Trị Thiên đã phân vùng xong, từ đường xe lửa trở về biển là vùng địch, từ đường xe lửa lên biên giới với Lào là vùng ta. Đã rút bộ đội về vùng ta củng cố. Tình hình hiện nay đã ổn định, anh em đều phấn khởi...
Chúng tôi đã trình bày quan điểm của mình cho rằng làm như vậy là nguy hiểm. Sự ổn định chẳng qua là tạm thời. Khi địch có được một bước chấn chỉnh sẽ đánh lấn lên tây đường xe lửa và nếu chúng ta chống lại thì sẽ xuất hiện ra vùng tranh chấp trở lại. Nhưng lần này vùng tranh chấp sẽ nằm ở tây đường xe lửa thôi. Vô hình trung ta đã tự nguyện đưa thêm đất thêm dân cho địch và giúp chúng phá được thế xen kẽ, xóa được trạng thái da beo, hoàn chỉnh vùng của chúng - một vùng gồm đất đai phì nhiêu, đường sá thuận lợi, nhân dân đông đúc, bao gồm hầu hết các thị trấn, thị xã, đô thị - và triển vọng tình hình sắp tới thế nào hẳn ai cũng đoán được... Phân vùng theo cách như vậy đối với địch là lý tưởng. Ngụy quyền Thiệu, cũng như các hãng nghiên cứu chiến lược Mỹ đã từng nghiên cứu ba phương án phân vùng để làm cơ sở đấu tranh ở bàn hội nghị Paris:
1. Phân vùng bằng cách cắt ngang miền Nam Việt Nam theo vĩ tuyến, phía bắc vĩ tuyến ấy là vùng “Việt cộng” (Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), phía nam là vùng ngụy quyền Thiệu.
2. Chia dọc theo chiều dài miền Nam Việt Nam, vùng trên núi dọc theo biên giới Lào, Campuchia, ít dân, nghèo về kinh tế, đường sá giao thông không thuận tiện là vùng “Việt cộng”, vùng dọc theo biển, giàu có đông dân, thuận lợi mọi mặt là vùng ngụy quyền Thiệu.
3. Ngừng bắn tại chỗ, ai ở đâu đứng đó và thành vùng kiểm soát xen kẽ lẫn nhau.
Trong ba phương án ấy ngụy sợ nhất là phương án 3, vùng xen kẽ da beo, vì chúng cho như vậy sẽ không thể ngừng bắn, nguy hiểm cho chúng, vì rất nhiều khả năng nhân dân sẽ nổi dậy chống và tiêu diệt chúng. Vùng chúng không hoàn chỉnh sẽ rất khó xây dựng kinh tế, khó cai trị hữu hiệu,... Chúng thích nhất là chia dọc theo phương án 2. Vì chia như vậy hoàn toàn có lợi cho chúng. Chúng nghĩ không bao lâu với sự giúp đỡ và viện trợ của Mỹ, chúng sẽ giàu mạnh, nắm nhiều dân và sẽ đi đến tiêu diệt Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và độc chiếm miền Nam Việt Nam.
Ta đã đấu tranh trên bàn hội nghị, nhưng chính là đổ máu nhiều ở chiến trường mới buộc địch phải bất đắc dĩ nhận ngừng bắn tại chỗ. Bây giờ ta lại tự dưng chia theo dọc ư?
Nghị quyết 21 đã xác định rõ: “Thế và lực của cách mạng miền Nam hiện nay mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào từ 1954 đến nay” và “thắng lợi mới của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã dẫn đến sự thay đổi trong so sánh lực lượng trên bán đảo Đông Dương có lợi hơn bao giờ hết cho cách mạng miền Nam”.
Thực tế tình hình diễn biến trên chiến trường càng ngày càng rõ sự xác định này rất chính xác, lực lượng cách mạng đã mạnh hơn hẳn lực lượng phản cách mạng ở miền Nam Việt Nam.
Sau này, trong Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở rộng vào tháng 12/1974 để bàn kế hoạch chiến lược 1975 - 1976, nghĩa là gần hai năm sau khi thực tế đã rõ, anh Lê Đức Thọ đã phát biểu đại ý: Từ Hiệp định tới nay nói chung là ta đánh giá địch cao, ta thấp. Thực tế trên chiến trường chỉ rõ: Khu 5 khi đánh thì sợ địch đánh phía sau, khi trên ra lệnh kiên quyết đánh thì giành thắng lợi. Trị Thiên cũng ngại địch. Đồng bằng sông Cửu Long, một tháng 12 thôi ta gỡ trên 500 đồn bót địch đóng trái phép. Mới một tháng mà đạt chỉ tiêu 70% sáu tháng mùa khô. Bây giờ qua thực tiễn rõ ràng ta mạnh hơn địch. Thế mà trước đây khi bàn để ra Nghị quyết 21, vẫn cãi nhau ta mạnh hay địch mạnh.
Nghị quyết 21 còn xác định: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tấn công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”. Nghị quyết đã đề ra phương châm đấu tranh cho từng vùng: “Vùng giải phóng... phải xây dựng mạnh cả về quân sự, chính trị, kinh tế và phải giữ vững bằng mọi cách”; “vùng tranh chấp... phải giữ vững cả thế và lực của ta, và từng bước chuyển lên...” và “vùng địch kiểm soát cần lãnh đạo quần chúng đấu tranh”.
Sự xác định chiến lược và đề ra nhiệm vụ như thế đã dẹp đi những tư tưởng (nhưng chưa hẳn đã đập tan) còn tin nơi Mỹ - ngụy có thể thi hành Hiệp định, tưởng có thể có hòa bình, có ổn định. Nó cũng làm bớt đi tư tưởng sợ địch mạnh. Cũng trong cuộc họp Bộ Chính trị này đã xác định ta phải đánh trả một cách kiên quyết kẻ địch vi phạm Hiệp định. Nghị quyết 21 đã nêu: “Hiện nay, phương hướng chủ động tích cực, có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng của cả nước là luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình và chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi hành Hiệp định Paris để thắng địch”. Rõ ràng Đảng ta đã nhận định nhất quán từ đầu, Hiệp định Paris là một thắng lợi của ta, ta phải đấu tranh buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh, ta có chính nghĩa ta nhất định thắng. Ta đã ký và ta tôn trọng chữ ký của ta. Ta cũng bắt chúng phải tôn trọng chữ ký của chúng. Không cho phép Mỹ - ngụy trắng trợn phá hoại Hiệp định. Để giữ thành quả của cách mạng, ta phải trừng trị kẻ địch vi phạm Hiệp định tiến hành lấn chiếm và bình định. Không phải ta bị động đánh trả nơi nào địch thấy có lợi cho chúng để vi phạm tấn công ta. Ta phải chủ động đánh trả chúng thật đau, đánh ngay vào cả những nơi xuất phát tấn công của chúng, vào nơi bất lợi của chúng. Trên tinh thần đó vào tháng 9/1973 chúng ta đã tuyên bố công khai trên đài truyền thanh của ta để cảnh báo trước kẻ địch và để thế giới hiểu rõ hành động chính đáng của ta.
Chúng ta mong rằng với sự cảnh cáo này, Mỹ - ngụy sẽ tỉnh ngộ lại để tránh cho ta buộc lòng phải hành động nổ súng thật. Những điều kiện để đi vào thi hành Hiệp định vẫn còn đó, cánh cửa vẫn còn mở cả ở Paris cả ở Tân Sơn Nhất. Nhưng Thiệu có lẽ tưởng chúng nó mạnh thật, tưởng quan thầy Mỹ của chúng vẫn là chỗ dựa vững vàng. Vì thế Thiệu càng đẩy mạnh chiến tranh, bất chấp Hiệp định, bất chấp những lời cảnh cáo, mong ngự trị mãi mãi miền Nam Việt Nam.
Hãy nghe một người Mỹ, Weldon A. Brown kể trong quyển sách “Chiếc trực thăng cuối cùng” của ông ta:
“... Thiệu vẫn nghĩ là được Mỹ viện trợ và với những lời cam kết bí mật của Nixon, ông ta chẳng có gì phải lo ngại cả. Lời cam kết vẫn có giá trị và đã được tăng cường qua việc Mỹ đã cung cấp thêm cho ông ta các máy bay phản lực chiến đấu và các vũ khí rất hiện đại, thậm chí năm 1975 khi Quốc hội Mỹ cấm không được tiếp tục giúp đỡ về mặt chiến đấu, Thiệu vẫn cảm thấy ung dung vì đã có lời cam kết của Nixon. Chương trình viện trợ, và những lời hứa của chúng ta đã làm cho Thiệu cảm thấy an toàn một cách giả tạo và do đó đã dẫn tới kết quả là Thiệu đã từ chối mọi nỗ lực hòa giải hoặc thương lượng với đối phương và đã làm cho Thiệu coi thường Hiệp định Paris. Trong năm đầu sau khi ký Hiệp định, Thiệu đã tiến hành các cuộc tấn công nhỏ, đẩy quân cộng sản ra khỏi một số khu vực thuộc châu thổ sông Cửu Long và dọc theo bờ biển, thiết lập các tiền đồn ở đó, và tái định cư những người tị nạn vào các khu vực mới chiếm lại được và thậm chí còn cho quân đột kích vào cả Campuchia nữa”.
Thiệu không muốn cho quá trình chính trị thành công để làm suy yếu chính quyền của ông ta, dù bất cứ dưới hình thức nào - Anthony Lewis đã viết như sau:
“Thiệu cấm mọi người không được đi từ vùng này sang vùng khác, biến những người tù chính trị thành các tù thường phạm để tiếp tục giam giữ họ và cấm hoàn toàn các đảng phái không được hoạt động trừ đảng của ông ta. Thiệu không chỉ từ chối không chịu thực hiện các điều khoản của Hiệp định Paris mà còn coi việc tuyên truyền cho Hiệp định ở Nam Việt Nam là một tội lỗi, và vào lúc cuộc ngừng bắn sắp được thực hiện thì Thiệu đã phát động các cuộc hành quân gây hấn. Thiệu cần chúng ta ngấm ngầm ủng hộ các hoạt động vi phạm Hiệp định ấy của ông ta và hình như Thiệu đã được chúng ta ủng hộ như vậy. Ngay trước khi có cuộc hưu chiến Washington đã nhanh chóng chuyên chở cho Thiệu một đợt vũ khí mới trị giá một tỷ đôla. Có tin là đầu tháng 02/1975, Thiệu đã nói với một nhà báo người Mỹ rằng kể từ khi ký Hiệp định Paris, Hoa Kỳ chưa bao giờ gây sức ép buộc ông ta phải có những nhượng bộ chính trị với phía cộng sản cả, tức là thực hiện các điều khoản gìn giữ hòa bình”.
“Shipler đã viết rằng Đại sứ Martin và Mỹ đã chẳng làm gì để can ngăn những hành động liều lĩnh này và chẳng làm gì để thuyết phục Thiệu thực hiện Hiệp định Paris”.
Như vậy là đã rõ, kẻ đã vi phạm Hiệp định, cố tình đẩy mạnh chiến tranh là ai. Và nhất thiết kẻ vi phạm ấy phải bị trừng trị.
-------------------------------------------------------------------
1. “Nhảy dò” là danh từ địa phương đặt cho một loại chiến thuật phổ biến của quân Mỹ ở Long An lúc ấy. Đó là dùng từng toán quân nhỏ đổ bộ đột kích từ vài chiếc trực thăng đang bay thấp và chậm, bất ngờ bắn phá bừa bãi và dữ dội một vài điểm nghi có quân ta, có căn cứ của cán bộ địa phương, nơi tập trung của nhân dân để làm công tác cách mạng. Sau đó lập tức nhảy lên trực thăng nhanh chóng trốn thoát.

1
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 02:56:07 pm
|
||
Tác giả hoi_ls - Bài mới nhất gửi bởi hoi_ls | ||
2
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 02:50:48 pm
|
||
Tác giả hoi_ls - Bài mới nhất gửi bởi hoi_ls | ||
Trong lúc đó, về phía ta, do qua một thời gian dài hoạt động liên tục từ tháng 4/1972 đến nay, nên cán bộ chiến sĩ mỏi mệt, quân số tiêu hao chưa kịp bổ sung, đơn vị nào cũng xốc xếch, thiếu người cầm súng, lương thực, đạn dược kém sút, vì vậy mà rất khó đối phó với các cuộc tấn công của địch. Một số nơi buộc phải lùi để địch chiếm mất đất, mất dân. Thêm vào đó, một số cán bộ, một ít địa phương, với tinh thần chấp hành chỉ thị của trên là đấu tranh thi hành triệt để Hiệp định Paris, sợ đánh trả địch thì vi phạm Hiệp định, chấp hành chủ trương công tác binh địch vận vô hiệu hóa quân ngụy một cách hữu khuynh, nguy hiểm, cụ thể hóa ra thành 5 cấm: cấm tấn công địch, cấm đánh quân địch càn quét lấn chiếm, cấm bao vây đồn, cấm pháo kích đồn ngụy và cấm xây dựng xã chiến đấu. Tưởng như vậy để ổn định tình hình, tránh gây căng thẳng để đi vào hòa giải hòa hợp dân tộc. Một số nơi rút các đơn vị ở phía trước về phía sau để chấn chỉnh, củng cố; cho rằng, không rút về sau thì đơn vị sẽ bị tiêu diệt. Thực tế là khi rút đơn vị vũ trang ta về, thì địch lại lấn lướt phá cơ sở quần chúng, diệt cơ sở Đảng ta, xóa trạng thái da beo ở đây.
Giữa bối cảnh như vậy, nhìn vào hiện tượng rối bời lúc đầu ấy, một số cán bộ từ Trung ương đến địa phương nghĩ rằng sau Hiệp định, ta yếu đi nhiều, còn địch thì mạnh lên. Địch thu nhiều thắng lợi mới còn ta thì bị thiệt hại mất mát thêm. Từ đó kết luận rằng, hiện nay địch mạnh hơn ta, tương quan lực lượng trên chiến trường có lợi cho địch, bất lợi cho ta, nguy hiểm cho cách mạng. Trên cơ sở nhận định đó mà có một số chủ trương, hành động sai lầm. Tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề cụ thể này. Hội nghị Chính trị Trung ương Đảng lần này đã giải đáp một cách đầy đủ tất cả băn khoăn của cán bộ, của các chiến trường. Hội nghị đã phân tích một cách khoa học đúng đắn tương quan lực lượng ta địch, đánh giá một cách sâu sắc tình hình, đề ra chủ trương sáng suốt đưa cuộc cách mạng miền Nam đi lên giành thắng lợi. Kết quả của hội nghị này đã được Trung ương Đảng thảo luận nhất trí và thành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nhưng để đi đến kết quả nhất trí đó, Hội nghị Bộ Chính trị đã trải qua một cuộc thảo luận khá sôi nổi, có lúc rất găng. Một sự cọ xát giữa nhiều ý kiến khác nhau, giữa nhiều nhận thức về thực tế diễn biến trên các chiến trường... Được dự cuộc hội nghị này, tôi thấm thía biết bao về tinh thần trách nhiệm cao của từng đồng chí dự họp, tinh thần thẳng thắn phản ánh thực tế tình hình chiến trường, tinh thần đấu tranh mạnh mẽ vì chân lý và tinh thần yêu nước, đoàn kết, khách quan. Đó là cách làm việc dân chủ và tập trung của Đảng ta, bí quyết của mọi chủ trương đúng đắn, của mọi thành công. Vấn đề thảo luận sôi nổi nhất, ngay từ đầu là vấn đề ta mạnh hay địch mạnh. Nhận xét về mạnh yếu không phải là chuyện dễ dàng. Nói chung chung mà không đi vào cụ thể thì không thể xác minh đó là mạnh, yếu. Đi vào cụ thể mà không phải cái cụ thể chung nhất thì nói yếu mạnh không hẳn là đúng mà có khi ngược lại. Lại còn cái mạnh, cái yếu ở nơi nào, thời điểm nào, là nhất thời hay cơ bản và khả năng vận động chuyển hóa của sự vật, của cái yếu và cái mạnh ấy. Và cũng phải hiểu thế nào là sức mạnh. Ví dụ sau Hiệp định một tiểu đoàn chủ lực ngụy được bổ sung nhanh lên đến 400 - 500 tên, lương thực, đạn dược đầy đủ, trong lúc đó tiểu đoàn chủ lực của ta chưa được bổ sung, cao lắm là được 200 quân, đạn dược thiếu, lương thực kém. Tổng quân số ngụy sau khi quân Mỹ và chư hầu rút, có từ 70 vạn đến một triệu mốt, còn ta tại chiến trường đạt tỷ lệ 1/3 so với địch là cao rồi. Nếu lấy cái cụ thể đó mà kết luận rằng, ngụy mạnh ta yếu thì không thể đúng được. Ngoài số lượng vật chất ấy còn phải tính đến rất nhiều yếu tố khác cộng lại, như sức mạnh tinh thần của người chiến sĩ, chất chiến đấu về kỹ thuật, chiến thuật của đơn vị, nghệ thuật chỉ huy của cán bộ, thế bố trí của đơn vị, nhiệm vụ của nó, trong kế hoạch chiến dịch và chiến lược, trong tấn công hay phòng ngự, ngày hôm nay hay ngày mai... Đó là chưa nói đến vấn đề rộng lớn hơn nhiều là yếu tố chính trị, mục đích cuộc chiến đấu, yếu tố nhân dân... mà không một quân đội nào thoát ra ngoài được. Cuộc chiến tranh giải phóng, chính nghĩa của ta mà bao nhiêu nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ là tiến hành bằng cả hai lực lượng quân sự và chính trị. Ta tấn công địch bằng cả lực lượng quân sự và cả lực lượng chính trị quần chúng. Nói mạnh yếu không thể chỉ nhìn khía cạnh quân sự thôi mà phải nhìn mọi mặt, cả khía cạnh chính trị đôi bên nữa. Hàng chục năm trong chiến tranh, có biết bao lần ta phải đánh giá tương quan lực lượng ta địch. Năm 1959 là thời kỳ khó khăn nhất của cách mạng miền Nam, ngụy quyền Ngô Đình Diệm lê máy chém đi khắp nơi, đàn áp phátxít đẫm máu. Chỉ có một quân đội của Diệm tung hoành trên chiến trường như một võ sĩ diễu võ dương oai trên võ đài, không có đối thủ. Thế mà Nghị quyết Trung ương 15 đã tạo ra một phong trào Đồng khởi với sức mạnh vũ bão, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, làm cho Mỹ hoảng hốt phải mở cuộc chiến tranh đặc biệt để cứu bè lũ Diệm khỏi sụp đổ. Lúc này, nếu không có cái nhìn của cách mạng, biện chứng thì không thể nào thấy sức mạnh của ta đang còn tiềm tàng trong dân, mà chỉ thấy sức mạnh cụ thể của địch. Năm 1965, số dân đi với cách mạng trong các vùng đã khá đông, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng cũng không thể nhiều hơn dân bị địch kìm kẹp (nhưng đừng ai tưởng rằng số dân địch kìm kẹp là của địch). Lực lượng vũ trang ta thì du kích tương đối mạnh, nhưng chủ lực mới xây dựng một số ít trung đoàn. B2 lúc ấy mới có 2 trung đoàn chiến đấu được. Còn địch ngoài bảo an, dân vệ chúng có hàng chục sư đoàn trang bị kỹ thuật mạnh và hàng vạn cố vấn Mỹ, lại có các đơn vị trực thăng, phi cơ chiến đấu, tàu hải quân Mỹ yểm trợ và tham gia trực tiếp chiến đấu. Thế mà chúng ta đã mở chiến dịch Bình Giã, tiêu diệt gọn nhiều tiểu đoàn mạnh của địch và các chi đoàn thiết giáp, hạ nhiều máy bay, mở ra một thời kỳ mới trong chiến tranh. Sau các trận đánh sân bay Biên Hòa, chiến dịch Bình Giã rồi các trận thắng Ba Gia, Pleiku, Mỹ - ngụy đã thấy rõ nguy cơ ngụy quân bị tiêu diệt, ngụy quyền sụp đổ. Vì vậy mà Mỹ phải ồ ạt đưa quân Mỹ vào để cứu nguy, chữa cháy, chuyển chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” thành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, theo đúng chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của Mỹ để làm tròn vai trò sen đầm quốc tế. Trước khi quân Mỹ vào, so sánh tương quan lực lượng ta địch, nếu cứ nhìn số lượng cụ thể, vật chất kỹ thuật đơn thuần, thì ai dám bảo rằng ta mạnh, có khả năng tiêu diệt ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền? Rồi khi quân Mỹ ào ạt vào một lúc khoảng 20 vạn quân, trang bị hiện đại, dựa vào sức mạnh của hỏa lực áp đảo và cơ động nhanh, tiến hành phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, ta nhận định rằng Mỹ - ngụy không mạnh và bị động, và ta vẫn nắm vững chiến lược tấn công, ta mở chiến dịch tấn công Bàu Bàng - Dầu Tiếng và giành chủ động chiến trường, thu nhiều thắng lợi. Năm 1968, khi quân Mỹ lên tới gần nửa triệu quân với các vũ khí hiện đại đủ loại, trừ bom nguyên tử, lại mua được xương máu của một số quân chư hầu tay sai ngoài quân đội Thiệu, thế mà ta thấy rõ được chỗ yếu của địch, thấy được sức mạnh của ta, phát huy sức mạnh ấy cao độ tiến hành cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, có một không hai trong lịch sử chiến tranh xưa nay. Đòn Mậu Thân không những đánh địch cùng một lúc vào mọi trung tâm đô thị, các cơ quan đầu não chiến tranh xâm lược Mỹ ở Sài Gòn - thủ đô ngụy, mà còn tiêu diệt được nhiều sinh lực quan trọng của Mỹ - ngụy. Đòn chiến lược này đã thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, đi vào hòa đàm Paris, chuyển qua chiến lược “phi Mỹ hóa chiến tranh” rồi chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Như vậy ta đã dập tan từ đó chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ. Tên sen đầm quốc tế đã phải run sợ với vai trò tự đặt ra cho nó, tiêu tan mộng ảo “sức mạnh quân sự tuyệt đối Hoa Kỳ”. Nhưng mặt khác trong Tết Mậu Thân, ta không đánh giá đúng về tương quan lực lượng ta địch cụ thể lúc ấy, không thấy hết khả năng còn lớn của địch và điều kiện còn hạn chế của ta, đề ra yêu cầu cao quá sức thực tế ta có. Nghĩa là ta không dựa vào sự tính toán khoa học, cân nhắc sâu sắc mọi yếu tố mà có phần ảo tưởng dựa vào sự mong muốn chủ quan. Chính vì vậy, mặc dầu là một chủ trương tài tình, độc đáo, đúng thời cơ, việc tổ chức thực hành giỏi, táo bạo, hợp đồng tuyệt diệu trên toàn chiến trường, mọi người hành động vô cùng dũng cảm, xả thân, giành thắng lợi hết sức to lớn, tạo ra một bước ngoặt chiến lược có ý nghĩa ở Việt Nam, Đông Dương, nhưng chúng ta đã phải chịu một hy sinh thiệt hại lớn lao về sức người, sức của, đặc biệt là cán bộ các cấp, làm cho sức ta yếu xuống rõ rệt. Sau đó không những ta không giữ được tất cả các thành tựu đã đạt được mà còn chịu muôn vàn khó khăn tiếp theo trong những năm 1969 - 1970 để giữ cho cách mạng đứng vững trước cơn sóng gió. Đành rằng con đường cách mạng không bao giờ là con đường suôn sẻ đi lên mãi mãi, thắng lợi nào mà không chịu sự hy sinh, nhưng trong trường hợp Tết Mậu Thân nếu ta cân nhắc chu đáo, phù hợp với tương quan lực lượng đôi bên, đề ra yêu cầu xác đáng thì thắng lợi ta còn to lớn hơn nhiều, tiết kiệm được nhiều xương máu của cán bộ, chiến sĩ, của nhân dân và sự tiến triển sau đó của cách mạng chắc chắn là khác nhiều. Năm 1972, sau một thời gian nỗ lực vượt bao khó khăn hàn gắn những tổn thất to lớn vừa qua, phát triển thế và lực với một tinh thần cách mạng tuyệt vời của chiến sĩ và nhân dân, bộ đội ta đã tham gia giành những thắng lợi ở Campuchia, Lào, tuy vậy chủ lực ta vẫn chưa về hoàn toàn được đất miền Nam. Trong tình hình như vậy, ta đã xác định đúng thế và lực của đôi bên, mở các chiến dịch tấn công, giành nhiều thắng lợi, phá tan nhiều tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, mở ra nhiều vùng giải phóng liên hoàn ở Đông Hà, Đắk Tô, Tân Cảnh, Lộc Ninh, Bù Đốp, Bắc Tây Ninh, rồi phối hợp với chiến thắng lớn “Điện Biên Phủ trên không” ở miền Bắc, thực hiện được quyết tâm của ta là đánh tan ý đồ ảo tưởng thương lượng trên thế mạnh của Mỹ, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris có lợi cho ta. Rõ ràng qua mỗi giai đoạn của cách mạng, của chiến tranh cách mạng, việc đánh giá đúng đắn sức mạnh của ta và địch, thấy rõ cái yếu của địch và cái yếu của ta, đánh giá đúng tương quan lực lượng đôi bên là điều kiện cơ bản nhất cho những chủ trương đúng tiếp theo, đưa cuộc cách mạng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến toàn thắng cũng xuất phát từ sự đánh giá tình hình, đánh giá tương quan giữa cách mạng và phản cách mạng, không những trong nước mà cả trên thế giới, nói chung là chính xác, mặc dầu có lúc có nơi, có cái cụ thể, đã phạm sai lầm, nhưng cái đúng là bao trùm nên nó quyết định thắng lợi. Có cái gì trên thực tế là hoàn toàn đúng hết đâu. Đừng sợ khi nói đến cái sai, chỉ sợ có sai mà không thấy và không sửa. Nhưng mỗi lần đánh giá sai tương quan lực lượng ta địch thì thế nào cũng đi tới hữu khuynh sợ địch hoặc tả khuynh chủ quan, vấp váp trong chủ trương và hành động. Chính vì vậy mà việc đánh giá tình hình, đánh giá tương quan lực lượng, xuất phát điểm của chủ trương đường lối, phải là tập trung trí tuệ tập thể, căn cứ vào thực tế diễn biến mà suy luận đánh giá. Hiệp định Paris được ký kết là thể hiện rõ nhất tương quan lực lượng trên chiến trường lúc ấy. Mỹ - ngụy cũng đánh giá kỹ tương quan lực lượng đôi bên, sau khi đã cố gắng giằng co ở miền Nam, không để mất thêm đất, và đã dở tới thủ đoạn dã man độc ác nhất là dùng B-52 oanh tạc tập trung Hà Nội, Hải Phòng và phong tỏa miền Bắc. Chúng đã đánh giá khả năng ý chí của chúng cũng như “nắn nót” khả năng ý chí của đối phương rồi mới chịu cầm bút ký vào Hiệp định, chịu một số điều kiện không lợi cho chúng. Ta cũng cân nhắc kỹ sức mạnh của địch đến đâu, mưu đồ của nó là gì và sức lực có thể của ta để ký vào một Hiệp định có nhiều điểm lợi cho ta. Như vậy là Hiệp định Paris được ký kết trên cơ sở cả ta và địch đều cân nhắc mạnh yếu của nhau và cân nhắc cả tương quan lực lượng trên thế giới nữa. Ký kết Hiệp định Paris là Mỹ đã chịu thua một bước nhưng chỉ chịu thua tới đó thôi, ta đã giành thắng lợi nhưng thắng lợi đến đó thôi. Nhưng bước thua đó của Mỹ và mức thắng ấy của ta đã chứng tỏ rằng cách mạng mạnh hơn phản cách mạng rồi. Sao lại cho là ta yếu địch mạnh? Điều kiện quan trọng nhất ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc chiến tranh mà Hiệp định đạt được là quân Mỹ và chư hầu phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam và Mỹ phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta. Cái hay ở chỗ là điều kiện này giống như phù hợp với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, phù hợp với chủ thuyết Nixon “Liên minh khu vực, tự phòng thủ” mà không phải là thua phải bỏ chạy. Cái hay ở chỗ là giúp cho Mỹ rút quân đội về nước, thỏa mãn yêu cầu của nhân dân Mỹ, gỡ thế bí là không thể tiếp tục duy trì một đội quân Mỹ ở hải ngoại như vậy lâu hơn nữa mà càng ngày càng bị thua thiệt dẫn đến nguy cơ bị thua hoàn toàn. Việc rút khỏi miền Nam Việt Nam ấy theo sự quy định của Hiệp định tức là có sự thỏa thuận đôi bên làm cho Mỹ đỡ mất mặt một phần. Còn về ta thì điều kiện ấy vô cùng quan trọng cho sự tiến triển của cách mạng của ta và của cả Đông Dương. Trước Hiệp định ta phải đánh với cả quân ngụy và hàng chục vạn quân Mỹ và chư hầu, với sự yểm trợ mạnh mẽ của hải quân, không quân Mỹ bao gồm cả máy bay chiến lược B-52. Khi Hiệp định đã có hiệu lực, quân Mỹ và chư hầu rút hết khỏi chiến trường. Quân ngụy không còn chỗ dựa là quân Mỹ, không còn được sự yểm trợ mạnh mẽ như trước của không quân, hải quân Mỹ. Hỏa lực của ngụy kém sút hơn Mỹ nhiều. Mặc dù quân ngụy có tăng thêm lực lượng, được chủ Mỹ cho thêm phương tiện, vũ khí có cả vũ khí hiện đại hơn trước, nhưng muốn phát huy được hiệu lực của các binh chủng mới, của lực lượng mới, phải qua một thời gian huấn luyện và rèn luyện trên thực tế. Đã vậy việc đảm bảo kỹ thuật cho từng ấy quân ngụy, hiện đại hóa, không phải là chuyện dễ dàng và càng không thể khắc phục trong một vài năm. Đó là chưa nói hết đến trạng thái tinh thần của quân ngụy đã bị hoang mang do sự tác động của quần chúng nhân dân sau khi Hiệp định Paris được ký kết. Thực tế trên chiến trường qua báo cáo của tất cả các đơn vị, địa phương, thì sau Hiệp định, hỏa lực pháo và không quân của ngụy trong tác chiến đã giảm sút đáng kể và ngày càng có chiều hướng giảm sút. Sự chi viện của pháo và không quân ngụy cho bộ binh rất tồi vì bắn không chính xác và số đạn hạn chế. Quân ngụy trước nay quen dựa vào quân Mỹ, nay phải đơn độc tác chiến, thiếu sự chi viện và yểm trợ có hiệu lực của Mỹ, nên tinh thần sa sút rất rõ. Như vậy sau Hiệp định, tương quan lực lượng trên chiến trường đã thay đổi một cách rất quan trọng, có lợi cho ta, sức chiến đấu của quân ngụy tụt xuống rõ ràng, thế và lực ta phát huy mạnh mẽ. Thế mà lại cho rằng Mỹ rút mà ngụy mạnh lên, mạnh hơn ta thì thật là một sự suy luận không có căn cứ, không khác nào tưởng tượng ra ma để tự nhát mình. Hiệp định đã quy định chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Hoa Kỳ chống lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng mọi lực lượng trên bộ, trên không, trên biển bất cứ từ đâu tới... Như vậy miền Bắc xã hội chủ nghĩa sẽ có điều kiện rất tốt, phát huy hiệu quả to lớn của căn cứ địa của cả nước, có điều kiện làm tròn tốt nhất nhiệm vụ hậu phương lớn của cách mạng miền Nam. Thế và lực của miền Nam ta mạnh, của cả nước ta mạnh thì sẽ hoàn thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng vẻ vang của mình là điều chắc chắn, tuy còn phải trải qua nhiều khó khăn. Song, ta cũng phải thấy hết cái yếu còn tồn tại của ta để không chủ quan, để nỗ lực khắc phục. Lực lượng vũ trang của ta đã xốc xếch, cần phải gấp rút bổ sung, củng cố. Lực lượng quân địa phương và du kích còn quá ít, công tác dân vận của ta còn nhiều kém cỏi... Nhưng ta khắc phục những cái yếu và khó khăn ấy trong thế thắng, thế mạnh với một tinh thần phấn khởi tự tin. Vì không nhận thức như vậy nên lúc ấy có sự lo ngại lực lượng đứng sau của ta bị tiêu diệt, ngại vùng tự do của ta bị chiếm, bị mất, nên có một số chủ trương cụ thể vội vã và sai lầm mà Hội nghị Bộ Chính trị, Nghị quyết 21 (10/1973) đã chấn chỉnh, nếu không sẽ đẻ ra bao tai họa. Đó là chủ trương sai lầm gấp rút ổn định tình hình bằng cách bỏ vùng tranh chấp chủ động chuyển thành hai vùng: vùng ta và vùng địch; là phải điều chỉnh lại, bố trí lại lực lượng, rút lực lượng của ta từ vùng địch về vùng ta để củng cố chấn chỉnh lại; là phải nhanh chóng tiến hành các việc ấy, hoàn thành trong một thời hạn ngắn nhất; là phải dứt khoát phân định vùng để có phương châm đấu tranh phù hợp, không được nhập nhằng. Rõ ràng ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu rất mong được như vậy. Chúng rất sợ hình thái xen kẽ da beo trên chiến trường mà nơi nào cũng có lực lượng của ta, ngay cả trong vùng đô thị, thủ đô của chúng. Chúng đánh giá được hiệu năng hoạt động, chiến đấu của mỗi một đảng viên, mỗi chiến sĩ biệt động, du kích của ta... Chúng cũng đánh giá được một đơn vị vũ trang nhỏ của ta đứng ở vùng chúng kìm kẹp, ở vùng lõm du kích. Mỗi một người đó, mỗi đơn vị đó là một họng súng kề lên thái dương địch, là một chỗ dựa tinh thần của nhân dân, là một cột trụ của các tổ chức quần chúng bí mật tại chỗ. Mỗi hành động của họ là một nguồn tuyên truyền cổ vũ cho lòng yêu nước, cho cách mạng, chống đàn áp bóc lột, bất công. Họ không nói gì nhiều đâu mà họ hành động. Hình ảnh của họ là ánh sáng trong vùng đen tối, ánh sáng ấy ban đầu tuy nhỏ nhưng ngày càng tỏa sáng rộng ra xung quanh mà không thể nào tắt đi được. Mỗi đảng viên và chiến sĩ đó, mỗi đơn vị nhỏ đó lại có chỗ dựa của họ là các đơn vị lớn hơn của ta. Đó là một hệ thống không thể mất đi của mắt xích nào. Đó là trận đồ bát quái của chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân của ta, làm cho quân địch nghẹt thở, nơm nớp lo sợ ngày đêm, thấy chỗ nào cũng phải phòng ngự, phải có quân mạnh mới yên tâm. Mỹ chẳng phải đã đánh giá là để đối phó với một người của ta chúng phải có 5 rồi sau tăng lên 10 - 20 tên đó sao. Thế mà ta tình nguyện “chủ động” rút lui các lực lượng ta ở vùng địch kiểm soát, ở vùng tranh chấp về phía sau để củng cố, tự mình xóa đi thế cài răng lược rất lợi hại của cách mạng đã từng làm cho địch run sợ. Có phải như thế là ta đã giúp địch một tay để làm được cái việc vô cùng quan trọng mà chúng phải đánh phá ác liệt và bình định bao nhiêu năm vẫn không làm được? Nếu lập luận rằng đây là tạm thời trong một thời gian để củng cố lực lượng ta thôi, khi ta mạnh rồi thì trở vào và tác dụng sẽ lớn hơn nhiều... Đó là tưởng tượng của những người không có thực tế. Thực tế ở chiến trường B2 của ta là khi đã rút đi, bỏ cơ sở nào đó, dù là chủ động, thì không cần một thời gian lâu đâu mà trong vài ba ngày thôi, địch đã lấp lại vùng đó, kìm dân, càn quét, đóng đồn. Khi ta muốn đưa lực lượng trở lại mở vùng, mở lõm, tổ chức quần chúng của ta thì không khác nào như làm lại hoàn toàn từ đầu, còn khó hơn nhiều là công tác ở vùng mà trước ta chưa có cơ sở gì, lại phải đổ bao nhiêu máu của đồng chí, đồng bào ta. Các đồng chí đã từng hoạt động ở địch hậu, ở vùng tranh chấp, hẳn thấm thía nhiều với kinh nghiệm này. Mỗi một đồng chí ta, mỗi một đơn vị bám trụ được một cơ sở nào đó, tạo được một lõm căn cứ chính trị, căn cứ du kích nào đó là vô cùng quý giá trong một cuộc đấu tranh sống còn như của ta với địch vừa rồi. Mỗi lần mất đi một cơ sở, một lõm căn cứ như vậy là một lo nghĩ, một đau lòng mà ta phải tìm mọi cách khôi phục. Ở đây tôi muốn nhắc lại tấm gương anh dũng vô song của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 320, năm 1969 - 1970 nhận nhiệm vụ để hoạt động ở tỉnh Long An, vùng Đức Huệ, Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Tân Trụ, Châu Thành, Tân An. Thời kỳ ấy mọi người chúng ta đều không thể quên - sau Tết Mậu Thân, Mỹ tăng thêm quân vào Việt Nam, tăng thêm vũ khí đạn dược đủ loại, đạt tới số quân cao nhất trong chiến tranh, điên cuồng phản kích lại ta. Mỹ - ngụy đã liên tục đánh phá càn quét, bình định, vô cùng ác liệt. Nhiều nơi nhân dân ta bị tàn sát, bị gom vào ấp chiến lược, nhiều cơ sở bị mất, nhiều đồng chí hy sinh. Đặc biệt là các vùng ven giáp đô thị, các vùng đông dân có vị trí chiến lược quan trọng. Long An thuộc vùng như vậy. Đó là vùng bao bọc Sài Gòn từ hướng tây bắc cho đến hướng tây nam, vùng đông dân phì nhiêu, cửa ngõ của đồng bằng sông Cửu Long, nối đồng bằng với thành phố Sài Gòn, nối vùng Đồng Tháp Mười của ta với căn cứ cách mạng Bắc Tây Ninh. Long An còn là một tỉnh mà phong trào cách mạng đã có truyền thống từ lâu đời, chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân rất yêu nước và kiên cường mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tặng 8 chữ vàng: “Trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc”. Chính vì vậy mà Mỹ - ngụy tập trung đánh phá ở đây, có lúc lấy đây làm thí điểm bình định, nhưng vẫn thất bại cay đắng. Ngoài lực lượng đủ loại của quân ngụy, Mỹ còn dùng một phần của Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới” và Lữ 3 Sư đoàn 9 Mỹ cùng hoạt động và kèm cặp ngụy ở vùng này. Tôi còn nhớ thời kỳ ấy các đồng chí ở Long An đã nói với chúng tôi như sau: “Quả thiệt địch đã xuống thang chiến tranh, nhưng chân thang chúng lại đặt ở tỉnh Long An!”. Đây là nấc thang cuối cùng nên chúng càng xuống thang thì quân của chúng càng dày đặc ở đây, càng đánh phá trút bom đạn ác liệt! Thật là một hình dung bất hủ, mới nghe ai cũng phì cười, nhưng nó đã tả đúng sự diễn biến lúc ấy. Nhất định ta không để cho địch thành công ở đây, nó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến phong trào chung. Bộ Tư lệnh Miền đã thảo luận nhiều, cân nhắc mọi mặt và quyết định tăng cường lực lượng cho Long An, đưa Trung đoàn 320 về đây cùng với địa phương chống địch giữ vững phong trào, giữ vững cơ sở và các vùng căn cứ du kích của ta. Trung đoàn 320 là một đơn vị có nhiều thành tích, đã có nhiều thử thách trong chiến đấu, trong chịu đựng gian khổ ác liệt. Là một trung đoàn chủ lực độc lập, lâu nay thường hoạt động tập trung và quen thạo chiến trường rừng núi, nay được phái về một vùng đồng bằng đông dân, địa hình trống trải, nhiều sông rạch chia cắt, phải chiến đấu linh hoạt với nhiều hình thức từng đại đội, tiểu đoàn riêng lẻ và rất nhiều khi phải đánh phân tán, cỡ trung đội, tiểu đội. Không những phải tác chiến tiêu diệt địch mà còn phải biết vận động tổ chức quần chúng, binh địch vận, trừ gian diệt ác, tổ chức và hướng dẫn, phối hợp du kích, bộ đội huyện hoạt động. Phải chuyển một đơn vị chủ lực tập trung về hoạt động phân tán như thế này, có thể nói hầu như không còn là một đơn vị chủ lực nữa, là một việc bất đắc dĩ nhưng không có không được trong một hoàn cảnh nhất định và một thời điểm nhất định. Trong cuộc chiến tranh mà hình thức hoạt động muôn hình muôn vẻ của ta suốt hàng chục năm trường, mà chiến trường thay đổi trạng thái hàng ngày, những quyết định như thế này, không phải chỉ một lần ở một hướng nào đó, khi mà du kích và bộ đội địa phương ở hướng đó bị tiêu hao chưa củng cố kịp mà ta cần giữ vững phong trào, thì đấy là những quyết định đúng. Nhưng cũng có trường hợp dùng chủ lực không phù hợp ở vùng đồng bằng, tưởng đâu đưa chủ lực về là có thể mở toang đồng bằng ra. Kỳ thật không phải vậy (tôi nói kỹ về vấn đề này trong trường hợp khác). |
3
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Re: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 02:48:48 pm
|
||
Tác giả hoi_ls - Bài mới nhất gửi bởi hoi_ls | ||
CHƯƠNG II Chỉ có con đường bạo lực cách mạng Ngay sau khi ra tới Hà Nội, tôi đã được gặp các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, báo cáo về công việc của Ban Liên hợp quân sự bốn bên; những vấn đề đã đạt và những vấn đề chưa đạt được; những gì tôi đã rút ra kết luận sau 60 ngày mặt giáp mặt với Mỹ - ngụy; những nhận định của tôi về tình hình... Tôi đã nghe các đồng chí nhận xét, đánh giá tốt về công tác của Ban Liên hợp quân sự bốn bên, về âm mưu địch và những gì ta sẽ làm tiếp. Sau đó tôi được phép nghỉ vài hôm rồi tiến hành chuẩn bị và tham gia hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở rộng bàn về tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam Việt Nam. Các anh trong Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền, anh Phạm Hùng, Mười Cúc 1, Hai Hậu 2, Mười Khang, Sáu Dân 3, đi theo đường Trường Sơn cũng lần lượt ra tới Hà Nội. Chúng tôi họp riêng phần chiến trường B2 để thống nhất đánh giá tình hình, nhận định sự diễn biến thực tế vừa qua và dự kiến sắp tới. Cũng đã trao đổi kinh nghiệm với các anh Năm Công 4, Chu Huy Mân ở chiến trường Khu 5 và anh Hoàng Minh Thảo ở B3 ra dự hội nghị. Hạ tuần tháng 4/1973 họp Bộ Chính trị Trung ương Đảng có đủ đại biểu các chiến trường ở miền Nam tham gia. Đấy là một cuộc họp hội nghị vô cùng quan trọng. Sau khi các bên đã ký kết Hiệp định Paris, tức là ta đã giành được một thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, buộc quân Mỹ và chư hầu rút hết khỏi miền Nam Việt Nam, và đặc biệt là sau 60 ngày thi hành Hiệp định ta đã có thêm được một số thực tế diễn biến ở chiến trường, cuộc hội nghị này nhằm đánh giá lại tình hình, đánh giá tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, vạch ra đường đi nước bước của cách mạng miền Nam trong giai đoạn chiến lược mới. Đó là điều mong mỏi của tất cả mọi người, cán bộ cũng như chiến sĩ, nhân dân. Cho đến lúc ấy, thực ra là trong hàng ngũ cán bộ các cấp, ở các chiến trường cũng như ở Trung ương, chưa phải đã nhất trí với nhau về giá trị của Hiệp định Paris, về tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, và đặc biệt là về cách thi hành Hiệp định như thế nào, về cách đối phó với kẻ địch đang ngày càng vi phạm các điều khoản của Hiệp định. Ngay đến diễn biến ở mỗi chiến trường cũng khác nhau vì ở mỗi chiến trường điều kiện về ta và về địch hoàn toàn không giống nhau, giá trị chiến lược của mỗi chiến trường đối với toàn bộ cuộc chiến tranh không giống nhau, cấp lãnh đạo ở chiến trường đó suy nghĩ nhận thức vấn đề và hành động cũng khác nhau. Và đó cũng là một thực tế không thể khác được. Cho nên căn cứ thực tế diễn ra ở một chiến trường nào đó để đánh giá và chủ trương cho chung sẽ không tránh khỏi sai lầm nguy hiểm nếu không phải là một chiến trường có nhiều cái chung, có tính tiêu biểu cho toàn cục, có giá trị chiến lược quan trọng đối với toàn bộ cuộc chiến tranh. Trong lúc đang diễn biến chiến tranh, không đánh giá đúng vai trò của từng chiến trường sẽ dẫn đến sai lầm trong tổ chức bố trí lực lượng các mặt, trong chủ trương về chiến lược, chiến dịch, chiến đấu, và tất nhiên ảnh hưởng đến thắng lợi hay thất bại của chiến tranh. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược giải phóng đất nước của ta không phải không có trường hợp sai lầm. Nhưng nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt, dân chủ và tập trung của Đảng ta mà ta kịp thời sửa chữa sai lầm và giành thắng lợi. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Mỗi thành bại của cách mạng trong từng giai đoạn đều là thành bại của ý nghĩ và hành động của hàng triệu con người mà trước tiên là của tập thể lãnh đạo. Chớ có bao giờ, bại là do anh mà thành là do tôi. Ở mỗi giai đoạn của cách mạng, mỗi khúc quanh của lịch sử, chủ trương và hành động đúng cũng đều là kết quả của tư duy, của nhận thức tập thể, của bao nhiêu đầu óc cộng lại, từ đầu óc của người lãnh đạo cao nhất tới đầu óc của người chiến sĩ, người dân bình thường vì yêu nước yêu dân mà xông pha vào thực tế cụ thể sinh động ở chiến trường. Không một người nào luôn là đúng, cũng không một người nào luôn là sai, vì tất cả đều là con người. Cái cao quý nhất, sáng suốt nhất là nhận ra được cái sai và kiên quyết kịp thời sửa chữa. Ngay cả tập thể nữa không phải lúc nào cũng đúng hết. Nhưng chắc chắn tập thể ít sai lầm hơn là cá nhân chuyên quyền. Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng ta, của dân tộc ta đã tổng kết và nêu lên truyền thống của Đảng, của dân tộc bằng một câu rất gọn nhưng rất thâm thúy: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết đây là đoàn kết thực sự, qua đấu tranh để đoàn kết, không phải chỉ là đoàn kết trong hành động mà trong mọi lĩnh vực từ hướng suy nghĩ, nhận thức, tư tưởng, ý chí. Và cũng chính vì thấm nhuần truyền thống ấy mà Người thành con người hết sức giản dị, hết sức khiêm tốn. Người là tập trung trí tuệ của mọi người, ý nghĩ của Người trở thành ý nghĩ của mọi người. Đạo đức Hồ Chí Minh tỏa sáng non sông, chiếu rọi từng tấm lòng Việt Nam. Người không chỉ thấy rõ mình mà thấy rõ cả mọi người, công minh, chính trực, lòng thương mênh mông. Dân tộc ta cũng đã đúc kết truyền thống của mình trong quá trình dựng nước và giữ nước bằng câu châm ngôn: "Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Dân tộc Việt Nam là như vậy, Hồ Chí Minh là như vậy! Trong thời kỳ này tôi còn nhớ nhiều câu hỏi của nhiều đồng chí cán bộ ở các chiến trường nêu lên. “Vì sao Hiệp định đã ký rồi mà ngụy quân, ngụy quyền không rã nhiều”? Hay nhận định: “Hiện nay Mỹ cút nhưng ngụy không nhào mà lại mạnh hơn lên”, hoặc: “Vừa qua là quá trình Mỹ thua nhưng cũng là quá trình ngụy quyền tồn tại và mạnh lên, cả về chính quyền, về quân đội và về kinh tế...”. Có một số triệu chứng bề ngoài cộng với những âm mưu đen tối và ngoan cố, những kế hoạch chủ quan cao độ của Mỹ - ngụy, đã làm cho các đồng chí ấy không hiểu được thực chất của tình hình. Ngay cả Hiệp định Paris có hiệu lực, ngụy đã xua quân lấn chiếm một số vùng quan trọng của ta như Cửa Việt (Trị Thiên), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), đường 4 (Mỹ Tho), đường 2 (Bà Rịa), vùng Bảy Núi (Long Xuyên)... Không những chúng đã lấn chiếm nhiều vùng ta mới mở ra trước ngày 28/01 mà còn chiếm thêm một số vùng ta đã làm chủ từ trước. Trong lúc đó chúng tiến hành ào ạt nhiều cuộc hành quân càn quét và cảnh sát trong các vùng trước nay đang tranh chấp giữa ta và địch, các vùng mà chúng đang kìm kẹp, tiến hành bình định, lấp các lõm căn cứ du kích của ta, phá cho được thế xen kẽ, da beo, hoàn chỉnh vùng của chúng. Hầu hết ở các chiến trường, chúng đều đóng thêm đồn bót ở nơi mới lấn chiếm và ken dày thêm nơi chúng kìm kẹp, dọc đường giao thông chiến lược, quanh đô thị lớn. Riêng ở bốn tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Kiến Tường, Bến Tre, từ tháng 01 đến tháng 4/1973 chúng đóng thêm 287 đồn trong 129 ấp thuộc 24 xã. Cũng trong thời gian đó, Mỹ đã ra sức chở vũ khí, phương tiện chiến tranh từ Mỹ, Nhật, Philíppin qua củng cố và phát triển quân đội ngụy. Chúng trang bị thêm các loại vũ khí hiện đại cho quân ngụy như xe tăng M48, pháo 175 ly “vua chiến trường” của Mỹ, phi cơ F5E... Ngụy đã dùng mọi biện pháp bắt lính đại quy mô. Đổ đồng mỗi tháng chúng bắt 15.000 thanh niên. Nhờ đó đã bổ sung được đủ và nhanh cho quân chủ lực của chúng và số còn lại, số dự trữ để bổ sung khá lớn, được huấn luyện tại các trung tâm huấn luyện tân binh mà lúc ấy không nơi nào còn đủ chỗ chứa. Quân bảo an và phòng vệ dân sự cũng tăng lên nhiều. Lập các liên đoàn bảo an để cơ động chiến đấu tại địa phương thay cho chủ lực. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1973, số tiểu đoàn bảo an toàn Miền của chúng đã từ 189 lên 337. Ở các đô thị thì phát triển mạnh cảnh sát. Thành lập nhiều tiểu đoàn cảnh sát dã chiến, đặc biệt là ở Sài Gòn. Kế hoạch của Mỹ - ngụy là liên tục phát triển quân đội ngụy thành một đội quân mạnh 1.100.000 tên, hiện đại hóa, trẻ trung hóa, hữu hiệu hóa..., nhất là tăng cường các binh chủng kỹ thuật. Không quân sẽ lên đến 1.500 - 1.800 phi cơ các loại. Cơ giới sẽ có 31 - 35 thiết đoàn... Đi đôi củng cố phát triển ngụy quân, chúng tận lực củng cố ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở. Tung cán bộ bình định về xã ấp, đưa sĩ quan quân đội về lập các phân chi khu ở xã - công cụ đàn áp phátxít chủ yếu - ra sức kìm kẹp nhân dân chặt chẽ hơn như: củng cố hộ liên gia, phát triển “đoàn ngũ hóa quần chúng”... Chúng phát triển do thám gián điệp khắp thôn ấp, tung ra vùng tranh chấp và vùng giải phóng của ta. Để hậu thuẫn cho ngụy quyền Thiệu để sẵn sàng yểm trợ quân đội tay sai ở Đông Dương, chủ yếu là ở miền Nam Việt Nam, Mỹ đã để ở Đông Nam Á một lực lượng quân sự cơ động gồm bốn hàng không mẫu hạm, 735 máy bay chiến thuật, 173 máy bay chiến lược B-52. Tất cả những việc nêu trên đây, Mỹ - ngụy đã tiến hành một cách mạnh mẽ ngay từ khi có Hiệp định. Có thể nói có Hiệp định rồi, chúng lại tích cực đánh phá nhiều hơn, kìm dân chặt hơn, gây cho ta không ít khó khăn ở tất cả các địa phương. ------------------------------------------------------------------ 1. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung ương Cục. 2. Đồng chí Trần Nam Trung. 3. Đồng chí Võ Văn Kiệt. 4. Đồng chí Võ Chí Công. |
4
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 08:52:33 am
|
||
Tác giả saoden - Bài mới nhất gửi bởi saoden | ||
11. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ 12 CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
Về tình hình và nhiệm vụ mới (Ngày 27 tháng 12 năm 1965) Toàn dân ta nhất định đánh bại giặc Mỹ xâm lược để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Chúng ta lại phải nhận rõ mối quan hệ khăng khít giữa hai nhiệm vụ đó trong hoàn cảnh mới hiện nay. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ cách mạng của cả nước ta, nhân dân ta, miền Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam trong cả nước. Hiện nay đế quốc Mỹ đang tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta, cho nên đánh bại đế quốc Mỹ trên chiến trường chính là miền Nam không những là nhằm giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, mà đồng thời là biện pháp tích cực nhất để bảo vệ miền Bắc, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Chính vì vậy mà nhiệm vụ của nhân dân ta ở miền Bắc là phát huy đến cao độ tác dụng hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn là miền Nam, động viên sức người, sức của, tích cực tham gia vào cuộc chiến tranh giải phóng trên chiến trường chính là miền Nam, đồng thời kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc và chuẩn bị sẵn sàng để chiến thắng địch, nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Nhiệm vụ củạ nhân dân ta ở miền Nam là kiên quyết chiến đấu tiêu diệt bọn xâm lược Mỹ và tay sai để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Trong tình hình hiện nay, kiên trì phấn đấu theo phương hướng nói trên, tập trung lực lượng cả nước, kiên quyết đánh địch và thắng địch trên chiến trường chính là miền Nam cũng tức là kiên trì phương châm ra sức hạn chế cuộc chiến tranh xâm lược của địch và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó. Chúng ta động viên lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng bị sa lầy và thất bại nghiêm trọng thì chúng ta nhất định có thể giành thắng lợi quyết định ở miền Nam. (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2003, tr.636-651) |
5
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 08:52:00 am
|
||
Tác giả saoden - Bài mới nhất gửi bởi saoden | ||
10. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ 11
Về tình hình và nhiệm vụ trước mắt (Họp ngày 25, 26, 27 tháng 3 năm 1965) Trước tình hình mới, nhiệm vụ cơ bản của ta là tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra; tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam; ra sức giúp đỡ cách mạng Lào. (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 26, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 2003, tr. 107, 118) |
6
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 08:51:32 am
|
||
Tác giả saoden - Bài mới nhất gửi bởi saoden | ||
9. CHỈ THỊ SỐ 40/CT.T-69 Về việc tăng cường xây dựng và chỉ đạo, chỉ huy lực lượng "cảnh vệ" ở các cấp (Tuyệt mật)
Thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng nhằm phát huy đắc lực vai trò chức năng công cụ chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản trước mắt, và làu dài của lực lượng ANVT là không ngừng xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng ANVT đủ sức mạnh, đáp ứng kịp thời với tình hình trước mắt và đang phát triển nhằm trấn áp bọn phản cách mạng đánh diệt đúng đối tượng do an ninh phụ trách, chủ động đập tan âm mưu hoạt động công khai và bí mật của bọn tình báo gián điệp, cảnh sát, của bọn phản động chống phá cách mạng dưới mọi hình thức, trong mọi tình huống, đồng thời đi đôi với tấn công địch mà tích cực bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng bảo vệ nhân dân đến bảo vệ biên giới hải phận bảo vệ các địa bàn và bảo vệ mục tiêu do Đảng quy định kết hợp với lực lượng phòng gian bảo mật rộng khắp của nhân dân, của các cơ quan đoàn thể thì sức mạnh của AN và lực lượng vũ trang của AN hoàn toàn có đầy đủ khả năng đánh bại âm mưu gián điệp và phá hoại của địch. B. Lực lượng ANVT là lực lượng vũ trang của Đảng, của chính quyền cách mạng bao gồm các đơn vị ANVT tập trung, các đội cảnh vệ cận vệ các đội TSVT được hưởng mọi quyền lợi chính trị, tinh thần (như: học tập, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, v.v...) như quân giải phóng, Ban AN ở cấp nào thì được sự ủy nhiệm của cấp ủy chịu trách nhiệm xây dựng huấn luyện, quản lý sử dụng lực lượng ANVT theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy nơi đó. C. Việc đề bạt, khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với cán bộ chiến sĩ của lực lượng ANVT, Ban AN TWC và Ban AN các cấp được sự ủy nhiệm của TWC và cấp ủy các cấp chịu trách nhiệm nghiên cửu theo dõi và giải quyết đúng theo nguyên tắc phân cấp quản lý đã quy định trong Chỉ thị số 12/CTNT ngày 3/5/1968. 2. Lực lượng cảnh vệ (kể cả vệ sĩ bảo vệ cán bộ) bao gồm: các dội vũ trang bảo vệ cấp ủy các cấp, các đội vũ trang bảo vệ cơ quan của ngành, giới các cấp và các vệ sĩ bảo vệ cán bộ các cấp, nay thống nhất là cảnh vệ thuộc hệ ANVT của Đảng (trừ các cơ quan quân sự các cấp thì do hệ quân sự phụ trách). A. Nhiệm vụ của lực lượng cảnh vệ (kể cả vệ sĩ) được quy định như sau: + Bảo vệ tiếp cận nhằm: bảo vệ tuyệt đối an toàn cho được thường xuyên liên tục trong mọi tình huống. Đảm bảo an toàn cho các cơ quan, các mục tiêu và cá nhân do Đảng quy định. Phải ra sức ngăn ngừa đến mức tối đa những vấn đề có thể xảy ra không an toàn cho cấp ủy, cấp ủy viên cho cơ quan và cán bộ của Đảng. + Sẵn sàng làm công tác phục vụ cần thiết để đảm bảo đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ. + Ra sức học tập chính trị, quân sự, nghiệp vụ, văn hóa để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, củng cố quan diêm lập trường chiến đấu bảo vệ, kiên định, yên tâm phấn khởi công tác nhằm: đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ được tốt nhất trong tình hình hiện nay và sắp tới. B. Về tổ chức, biên chế và chỉ đạo, chỉ huy lực lượng cảnh vệ. + Trước mắt, lực lượng cảnh vệ tổ chức, biên chế thành Đội hoặc Liên đội có Ban chỉ huy Liên đội (mỗi đội có thể tương đương 1A hoặc 1B) nếu trường hợp mục tiêu bảo vệ nhiều bộ phận cách xa hoặc cần phải ngăn cách giữ bí mật, hoặc số lượng nhiều không tiện sinh hoạt... nếu xét cần thiết tổ chức thành Liên đội gồm nhiều nơi (Ban an ninh nghiên cứu để xuất với cấp ủy nơi đó để giải quyết). Hướng xây dựng trước mắt nhằm: xây dựng các đội cảnh vệ bảo vệ các cấp ủy, vệ sĩ bảo vệ cấp ủy viên và bảo vệ cán bộ cốt cán của Đảng, các đội bảo vệ các cơ quan, bộ phận quan trọng của Đảng (cơ yếu điện đài bảo vệ tài liệu bí mật v.v...). + Xây dựng lực lượng cảnh vệ gồm có: Các đội cảnh vệ bảo vệ cấp ủy, các cấp ủy viên và các đội cảnh vệ bảo vệ các mục tiêu cần thiết do cấp ủy quy định (nếu có) như bảo vệ trường Đảng, bảo vệ chính quyền, mặt trận v.v... và AN chịu trách nhiệm xây dựng, quản lý, chỉ đạo, chỉ huy... thuộc về biên chế của AN phải biết đến các mục tiêu để bảo vệ. Thủ trưởng cơ quan đó sử dụng theo đúng chức năng nhiệm vụ của nó (giữa AN và các cơ quan đó phải có sự hợp đồng cụ thể, chặt chẽ nhằm sử dụng lực lượng bảo vệ được tốt nhất). Các đội cảnh vệ riêng của các cơ quan, DCĐ do các cơ quan tự xây dựng (thuộc biên chế của cơ quan) thì do cơ quan quản lý chỉ đạo, chỉ huy sử dụng hằng theo chức năng nhiệm vụ của nó, cơ quan AN có trách nhiệm huấn luyện, bồi dưỡng về quân sự, nghiệp vụ trang bị... về phối hợp chặt chẽ với các cơ quan để thực hiện đúng chính sách do Đảng quy định. + Xuất phát từ tính chất, nhiệm vụ, hướng xây dựng lực lượng cảnh vệ khi chọn cán bộ và chiến sĩ của đội cảnh vệ cần đảm bảo đúng tiêu chuẩn: Thành phần cơ bản, lý lịch rõ ràng, trong sạch. Có phẩm chất, đạo đức cách mạng tốt nhất là có tinh thần tấn công địch triệt để và đảm bảo sự trung thành đối với Đảng, với cách mạng và với nhân dân. Ít nhiều đã được rèn luyện, thử thách qua thực tế công tác và chiến đấu. C. Sử dụng lực lượng cảnh vệ là lực lượng bảo vệ tiếp cận cấp ủy, cấp ủy viên, cơ quan cán bộ cốt cán của Đảng và các bộ phận quan trọng... nên biết rất nhiều vấn đề quan trọng tối mật của Đảng, biết cả đặc điểm đặc tính của từ cấp ủy viên và cán bộ cốt cán của Đảng mà kẻ địch đang ra sức khai thác và tìm hiểu; chiến tranh lại đang diễn ra ác liệt, mặt khác công tác bảo vệ cần không chỉ là trước mắt mà phải đảm bảo lâu dài, chẳng những phải vững vàng kiên định về lập trường chiến đấu với địch, sẵn sàng hy sinh bảo vệ Đảng mà còn đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ, tức là: "bản thân phải có kinh nghiệm tích lũy trong quá trình làm công tác bảo vệ", do đó mà sử dụng các đội cảnh vệ phải đúng theo nguyên tắc. - Bố trí phải được ổn định, không được điều động cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ đi làm công tác khác, nhất là không được đưa cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ ra các đơn vị chiến đấu ngoài tiền tuyến. Những chiến sĩ biết nhiều vấn đề quan trọng tối mật của Đảng, không nên phân công đi công tác lẻ, những vùng có nhiều nguy hiểm mà kiểm tra không được chặt chẽ và công việc không quan trọng cần thiết lắm. - Sử dụng phải giữ tính chất tập trung, cơ động, có thể sử dụng phân tán tạm thời, có thời gian, không phân tán từ người, từ tổ trong một căn cứ lâu ngày, không có thời gian tập trung, làm cho đơn vị trở nên yếu không đủ sức đảm bảo được nhiệm vụ của nó. Sử dụng phải trưng nhiệm có chức năng, tránh sử dụng lung tung. - Phải quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng, nâng cao quan điểm lập trường, quan tâm đời sống, sức khỏe v.v... tránh tình trạng chỉ sử dụng mà không chú ý đến học tập, rèn luyện, đời sống, sức khỏe anh em v.v... 3. Về công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng ANVT - Xây dựng lực lượng ANVT phải lấy "giáo dục chính trị làm gốc lãnh đạo tư tưởng" thành công tác hàng đầu, lấy xây dựng Đảng làm nền tảng, đồng thời không ngừng nâng cao trình độ quân sự và nghiệp vụ AN. - Theo Chỉ thị 17 của TWC, cấp ủy các cấp ủy nhiệm cho Ban AN các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, tổ chức và xây dựng Đảng trong lực lượng ANVT. Tỉnh ủy cần chỉ định một số đồng chí trong Ban lãnh đạo an ninh tỉnh (2 hoặc 3 đồng chí) chuyên trách công tác Đảng trong lực lượng ANVT. Các đơn vị ANVT từ Trung đội (hoặc Đội) đã lập Đại đội (hoặc Liên đội) Tiểu đoàn đều có chỉ bộ, chi ủy viên, đoàn ủy... chịu trách nhiệm lãnh đạo toàn diện về mọi mặt trong đơn vị mình phụ trách trực tiếp với Ban lãnh đạo AN do cấp ủy ủy nhiệm. Một số vấn đề cần chú ý trong công tác lãnh đạo ANVT. + Về nguyên tắc lực lượng ANVT ở cấp ủy nào thì phải chịu sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của cấp ủy đó, do đó cấp ủy viên ngoài việc phải nắm vững những vấn đề cơ bản của các mặt công tác an ninh còn phải nghiên cứu, thảo luận Chỉ thị 17 của TWC và chủ trương của TV và xây dựng lực lượng ANVT của Đảng... nắm vững tính chất, chức năng, nhiệm vụ, phương châm xây dựng ANVT để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, sử dụng thực hiện chế độ, chính sách của Đảng cho đúng. + Phải được quan tâm đúng mức công tác Đảng, công tác chính trị tư tưởng trong lực lượng ANVT nhằm không ngừng nâng cao trình độ chính trị, củng cố quan điểm, lập trường chiến đấu bảo vệ một cách dứt khoát, kiên định. + Lãnh đạo chỉ đạo chặt chẽ AN có kế hoạch tở bưỏc nhưng khẩn trương cùng cố xây dựng lực lượng "cảnh vệ" theo đúng yêu cầu đúng hướng, sử dụng đúng chức năng nhiệm vụ, nhằm đảm bảo được tốt nhất yêu cầu bảo vệ hiện nay và tích cực chuẩn bị cho sau này. Khi nhận được Chỉ thị, tỉnh ủy nghiên cứu trao đổi nắm vững tinh thần, nội dung và làm cho HU thông để chỉ đạo kiểm tra thực hiện được tốt. Ban an ninh thảo luận thông suốt tinh thần Chỉ thị kết hợp với tình hình thực tế vạch kế hoạch cụ thể củng cố xây dựng lực lượng bảo vệ cấp mình và hướng dẫn cho dướỉ thực hiện được tốt. Các đồng chí cấp ủy viên phụ trách an ninh chủ trì triệu tập cuộc họp các cơ quan ngành, giới để thảo luận và có kế hoạch triển khai cho tốt. Thi hành đến đâu báo cáo kết quả về Thường vụ Ty biết. Ngày 5 tháng 9 năm 1970 TM: TV-Ty Bảy Thắng |
7
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 08:50:05 am
|
||
Tác giả saoden - Bài mới nhất gửi bởi saoden | ||
III. TỔ CHỨC BIÊN CHẾ VÀ MỘT SỐ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH CẦN THIẾT
1. Lực lượng An ninh vũ trang bao gồm: các đơn vị an ninh vũ trang tập trung, các đội Cảnh vệ, Cận vệ, các đội Trinh sát vũ trang. Trước mắt, các lực lượng này được biên chế từ Tiểu đội, Trung đội, Đại đội đến Tiểu đoàn theo sự quy định của Năm Trường cho từng địa phương và khu vực. Sắp tới tùy theo yêu cầu và tình hình phát triển, Thường vụ Năm Trường sẽ có quy định bổ sung thêm. Riêng đối với việc tổ chức biên chế từng khu, phân khu, tỉnh trực thuộc, quận, thị xã, thị trấn, Ban an ninh Năm Trường sẽ có kế hoạch hướng dẫn cụ thể. 2. Nhiệm vụ cụ thể của từng loại lực lượng An ninh vũ trang như sau: a. Các đơn vị An ninh vũ trang tập trung: - Bảo vệ vòng ngoài căn cứ, tổ chức tuần tra cảnh giới, thường trực canh gác. - Sẵn sàng chiến đấu, chuẩn bị đầy đủ kế hoạch, biện pháp một cách chủ động đảm bảo an toàn cho các địa bàn hoạt động của các cấp ủy của các cơ quan chính quyền trong mọi tình huống. Để đảm bảo công tác bảo vệ tốt, các đơn vị hoạt động ở vòng ngoài phải có kế hoạch phối hợp với địa phương quân, du kích xã, du kích cơ quan trong phạm vi căn cứ để xây dựng xã, ấp, cơ quan chiến đấu, phối hợp nhau trong công tác phòng gian bảo mật để đập tan mọi hoạt động gián điệp, các hoạt động tập kích, biệt kích bằng trực thăng hoặc bộ binh của địch. Trong khi thực hiện nhiệm vụ trước mắt trên đây cũng cần có sự tính toán chuẩn bị trước về kế hoạch lực lượng mở rộng phạm vi hoạt động khi tình hình phát triển. b. Các đơn vị Cảnh vệ và Cận vệ: - Bảo vệ tiếp cặn, bảo đảm an toàn mục tiêu và cá nhân do Đảng quy định. - Canh gác trại giam, quản chế tội phạm, tiến hành bố phòng, chiến đấu chống phi pháo, chống địch đánh phá giải thoát tội phạm. c. Các đội Trinh sát vũ trang: - Địa bàn hoạt động của Trinh sát vũ trang là: thành phố, thị xã, thị trấn, các bàn đạp mà bọn công an, tình báo gián điệp dùng làm chỗ dựa để đánh phá vùng giải phóng của ta. - Do đó, nhiệm vụ cụ thể của Trinh sát vũ trang là: diệt bọn đầu sỏ ngụy quyền, công an, tình báo, đảng phái phản động (bọn công khai và bí mật) các phần tử phản động chui vào các tôn giáo, dân tộc ít người, đánh chiếm các hồ sơ tài liệu mặt, các trung tâm và phương tiện kỹ thuật gián điệp của địch. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên, Trinh sát vũ trang cần phối hợp chặt chẽ với Trinh sát bảo vệ chính trị, Điệp báo, An ninh bí mật sử dụng phương thức chiến đấu cá nhân, từng tổ, tùng đội để đánh bất ngờ bằng đặc công, kỳ tập hoặc khi cần thiết, có thể phối hợp với Trinh sát vũ trang bên ngoài hay với các lực lượng vũ trang khác để giải quyết nhanh, gọn các đối tượng mục tiêu do an ninh phụ trách. 3. Xuất phát từ tính chất, nhiệm vụ, phương hướng xây dựng An ninh vũ trang, khi chọn lựa cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị này, cần chú trọng đảm bảo được yêu cầu: - Thành phần cơ bản, lý lịch rõ ràng, trong sạch. - Có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt, nhất là có tinh thần tấn công địch triệt để và đảm bảo sự trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng và với nhân dân. Ít nhiều đã được rèn luyện, thử thách qua thực tế công tác và chiến đấu. 4. Nói chung, cán bộ, chiến sĩ của lực lượng An ninh vũ trang đều phải được trang bị vũ khí đầy đủ, sắc bén nhưng phải thích hợp với nhiệm vụ công tác và phương thức tác chiến của từng đơn vị, của từng địa bàn hoạt động, hướng trang bị cho lực lượng này là: - Một mặt do Đảng cấp phát. - Mặt khác, phải qua việc tích cực tấn công địch lấy súng địch để trang bị cho ta. Về kế hoạch, thủ tục cấp phát vũ khí, nên chấp hành theo chỉ thị số... của TV NT đã quy định. MỘT SỐ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH CẦN THIẾT Căn cứ vào tính chất, nhiệm vụ công tác, Thường vụ NT xác nhận lực lượng An ninh vũ trang là một lực lượng vũ trang của Đảng, của chính quyền các mạng, được hưởng mọi quyền lợi chính trị, tinh thần (như học tập, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật vv...). Về vật chất (như trang bị, cấp phát v.v...) như quân giải phóng. Riêng về đề bạt, khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với cán bộ chiến sĩ của lực lượng An ninh vũ trang, Ban an ninh NT và Ban an ninh các cấp được ủy nhiệm của TV NT và cấp ủy các cấp, chịu trách nhiệm nghiên cứu, theo dõi và giải quyết đúng theo nguyên tắc phân cấp quản lý đã quy định trong chỉ thị số 12/CTNT ngày 3/5/1968. MẤY VẤN ĐỀ VỀ NGUYÊN TẮC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG Về nguyên tắc: lực lượng ANVT ở cấp nào phải chịu sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của cấp ủy nơi đó. Nhưng, để cho sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với lực lượng này được sâu sát, trực tiếp, TVNT chỉ thị cho cấp ủy các cấp ủy nhiệm cho Ban an ninh các cấp một số quyền hạn như sau: Về nhiệm vụ chuyên môn: - Ban an ninh ở cấp nào, thì chịu trách nhiệm xây dựng, huấn luyện, quản lý, sử dụng ANVT theo sự lãnh đạo và chỉ đạo của cấp ủy đó. - Ban an ninh cấp trên có trách nhiệm hướng dẫn, phổ biến kinh nghiệm về tổ chức, xây dựng, đào tạo, rèn luyện giáo dục, quản lý sử dụng lực lượng ANVT cho Ban an ninh cấp dưới để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo được thống nhất và chặt chẽ. Về Đảng: - Ban an ninh các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, tổ chức và xây dựng Đảng trong lực lượng ANVT. Các cấp ủy Đảng cần chỉ định một số đồng chí trong ban lãnh đạo an ninh các cấp chuyên trách công tác Đảng trong lực lượng ANVT. - Các đơn vị ANVT từ Trung đội độc lập, Đại đội, Tiểu đoàn đều có chi ủy, tiểu đoàn ủy và chịu trách nhiệm lãnh đạo toàn diện về mọi mặt trong đơn vị mình phụ trách và chịu hệ thống trực tiếp với Ban lãnh đạo an ninh do cấp ủy ủy nhiệm. Trên đây chỉ là những điểm cơ bản thuộc về quan điểm và một số nguyên tắc lớn về xây dựng lực lượng ANVT. Ban an ninh NT căn cứ vào tinh thần và nguyên tắc cơ bản trên đây có hướng dẫn cụ thể cho Ban an ninh các cấp. Các cấp ủy cần nghiên cứu kỹ chỉ thị này để chỉ đạo cho Ban an ninh các cấp khẩn trương xây dựng lực lượng An ninh vũ trang và báo cáo kết quả thực hiện về TVNT biết. Ngày 9 tháng 6 năm 1968 TL/ Thường vụ Năm Trường Uỷ viên Thường trực Ba Bình (Đã ký) |
8
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 08:48:55 am
|
||
Tác giả saoden - Bài mới nhất gửi bởi saoden | ||
8. CHỈ THỊ SỐ 17/CTNT, NGÀY 09-6-1968, VỀ VIỆC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG
I- XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG LÀ YÊU CẦU CẤP THIẾT TRƯỚC MẮT VÀ TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI 1. Từ khi thay chân thực dân Pháp đến nay, đế quốc Mỹ đang "tiếp tục thực hiện dã tâm xâm lược miền Nam Việt Nam, hòng chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng". Dựa vào giai cấp địa chủ phong kiến quan liêu, tư sản mại bản các đảng phái chính trị phản động (Đại Việt, Việt Nam quốc dân đảng, Cần lao nhân vị) và những phần tử phản động khác chui vào các tôn giáo dân tộc ít người, chúng đã xây dựng lên một chính quyền tay sai độc tài phát xít với một quân đội đông người được trang bị bằng phương tiện, vũ khí tối tân và một bộ máy công an cảnh sát, tình báo ác ôn đều khắp, để liên tục đàn áp, đánh phá phong trào cách mạng miền Nam, hòng bắt nhân dân miền Nam khuất phục và chấp nhặn chế độ thực dân kiểu mới của chúng. Nhưng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân và quân ta vốn căm thù sâu sắc địch luôn luôn anh dũng kiên cường bất khuất lại có kinh nghiệm chống, đánh địch, nên từ những năm Đồng Khời năm 59-60 đã liên tục nổi dậy, liên tục tấn công liên tục giành chiến thắng, đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng phần và đến nay đã bước sang giai đoạn Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa. Trước những "thắng lợi to lớn chưa từng có "lần đầu tiên ta đã chủ động đưa cuộc tấn công và đánh nhau với địch rất ác liệt trong thế trận xen kẽ, cài răng lược, lộn ẩu để tiến lên" đánh đổ hoàn toàn ngụy quyền tay sai, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược cục bộ của đế quốc Mỹ, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân". Đặc điểm diễn biến của thế trận này đã bày ra hai khả năng: Một là: vì tiếp cận sát địch, đứng về phía công tác an ninh, ta có điều kiện nắm tình hình, hiểu địch hơn, do đó mà có nhiều khả năng tiêu hao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch hơn, đánh đúng đối tượng, gỡ được nhiều màng lưới bí mật của bọn công an, tình báo, gián điệp hơn. Hai là: trái lại, vì tiếp cận sát địch, nếu ta không liên tục tấn công chúng, không liên tục đánh bại mọi âm mưu về quân sự và gián điệp của chúng, không đập tan được bộ máy chính quyền công cụ đàn áp của chúng, nếu ta chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, không tích cực bảo vệ ta chu đáo địch cũng có khả năng lợi dụng sơ hở để đánh phá ta gây nhiều khó khăn và thậm chí sẽ gây thiệt hại đáng kể cho ta. Tấn công địch bảo vệ ta là hai mặt của một vấn đề, có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại rất khăng khít. Bảo vệ một cách đơn thuần, xem nhẹ tấn công hoặc chỉ lo tấn công buông lơi bảo vệ đều là sai lầm cần gấp rút khắc phục. Từ khi chế độ Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, chiến tranh đặc biệt bị phá sản, chiến tranh cục bộ tiếp tục thất bại, hai lần phản công chiến lược mùa khô bị bẻ gãy, nhất là từ khi ta chuyển sang giai đoạn tổng công kích, tổng khởi nghĩa đến nay, tuy bị thất bại liên tục, thảm hại, nhưng do bản chất ngoan cố và xảo quyệt, đế quốc Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ ý đồ đen tối của chúng. Càng thất bại trong chiến tranh công khai về quân sự, chính trị bao nhiêu, chúng càng chuyển sang đẩy mạnh chiến tranh gián điệp, bí mật bấy nhiêu. Với lực lượng hiện có, một mặt đi đôi với việc cố gắng mở nhiều đợt phản kích, tìm mọi cách thọc sâu vào căn cứ, hậu phương ta nhằm tìm diệt cơ quan đầu não, lực lượng vũ trang ta, đánh phá các hành lang kho tàng, đường tiếp vận xung yếu của ta, ra sức vơ vét tăng cường quân số, trang bị vũ khí cho bọn công an, cảnh sát dã chiến tiến hành lùng sục, vây ráp khủng bố, chống trả các lực lượng tấn công ta, hòng đẩy lùi ta khỏi nội ô, vùng ven đô, thị trấn. Mặt khác, chúng cũng đã ra sức tập hợp lại lực lượng phản động, củng cố lại cơ sở, mạng lướỉ bí mật, trang bị và giấu sẵn phương tiện vũ khí, tạo điều kiện cho bọn tay sai phản động bí mật cài sâu núp kín vào các vùng tôn giáo, biên giới, dân tộc ít người để phục vụ cho âm mưu quân sự trước mắt và chuẩn bị khi chính quyền hoàn toàn về ta; sẽ tiếp tục phá hoại thành quả cách mạng của ta về kinh tế, chính trị, xã hội, chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây phỉ, gây bạo loạn, làm mất trật tự an ninh hòng lật đổ chính quyền ta. Rõ ràng suốt 13 năm qua, đế quốc Mỹ đã nắm chặt bạo lực vũ trang phản cách mạng để không ngừng bảo vệ, củng cố chính quyền độc tài phát xít của chúng, không ngừng tiến hành đánh phá phong trào cách mạng miền Nam, không những có âm mưu trước mắt mà còn chuẩn bị cho thời gian sắp tới. Do đó, để tấn công địch, bảo vệ ta, đập tan mọi ý đồ xâm lược và mọi bạo lực phản cách mạng của địch. Căn cứ Chỉ thị số 32/CT ngày 15-12-1967. Tất cả tình hình trên đây đặt ra cho cấp ủy các cấp cần gấp rút củng cố, xây dựng Ban an ninh các cấp và để cho Ban an ninh đủ sức mạnh làm tròn chức năng công cụ chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng, yêu cầu cấp thiết trước mắt sắp tới là phải tích cực, khẩn trương xây dựng lực lượng An ninh vũ trang thành mũi nhọn tấn công sắc bén và bảo vệ vững chắc để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao phó trong bất kỳ tình huống nào. II. TÍNH CHẤT, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG A. TÍNH CHẤT Vấn đề cơ bản của cách mạng là chính quyền. Từ cách mạng Tháng Tám đến nay, lịch sử đã chứng minh: muốn đánh đổ chính quyền địch giành chính quyền về ta, không còn con đường nào khác là dùng bạo lực cách mạng đế đánh đố bạo lực phản cách mạng của địch. "Bạo lực là bà đỡ" của bất kỳ cuộc cách mạng nào. - Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của Đảng ở miền Nam, xuất phát từ bản chất ngoan cố và âm mưu thủ đoạn xảo quyệt của đế quốc Mỹ và tay sai, xuất phát từ tính chất, vai trò nhiệm vụ của ngành An ninh được Đảng xác nhận trong Chỉ thị số 32 CT. - Để "liên tục tấn công tiêu diệt địch, bảo vệ ta vững chắc" lực lượng An ninh vũ trang phải thể hiện đầy đủ tính chiến đấu cao bằng vũ trang và tính nghiệp vụ chuyên môn của công tác an ninh. Do đó, đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với ngành an ninh và với lực lượng vũ trang là vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc. Không nắm chắc công cụ chuyên chính và bạo lực vũ trang, buông lơi quyền lãnh đạo của Đảng đối với ngành An ninh là Ban nghiên cứu đơn thuần về nghiệp vụ, không quan tâm củng cố, xây dựng lực lượng an ninh vũ trang ngày càng vững mạnh là sai lầm hữu khuynh, là làm cho công cụ bạo lực bằng vũ trang của Đảng bị suy yếu, là làm cho sức chiến đấu và tinh thần tấn công địch bảo vệ ta bị giảm sút. B. NHIỆM VỤ Thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, nhằm phát huy đắc lực vai trò, chức năng công cụ chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng, yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản trước mắt và lâu dài của lực lượng An ninh vũ trang là: "Không ngừng củng cố, xây dựng, phát triển lực lượng An ninh vũ trang đủ sức mạnh đáp ứng kịp thời với yêu cầu của tình hình trước mắt và đang phát triển nhằm: trấn áp bọn phản cách mạng, đánh diệt đúng đối tượng do an ninh phụ trách, chủ động đập tan mọi âm mưu hoạt động công khai và bí mật của bọn tình báo, gián điệp, cảnh sát, của bọn phản động chống phá cách mạng dưới mọi hình thức trong mọi tình huống, đồng thời đi đôi với tấn công địch mà tích cực bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ biên giới, hải phận, bảo vệ các địa bàn và mục tiêu do Đảng quy định. Kết hợp với lực lượng phòng gian bảo mật rộng khắp của nhân dân của các cơ quan đoàn thể thì sức mạnh của an ninh và lực lượng vũ trang của an ninh hoàn toàn có đầy đủ khả năng đánh bại mọi âm mưu gián điệp và phá hoại của địch". PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG Dựa trên phương châm: "tích cực, khẩn trương, kịp thời, gọn nhẹ, sắc bén, chú trọng cả chất lượng và số lượng" vì có nơi chưa xây dựng hay có cũng có rất ít, "xây dựng đến đâu tổ chức chiến đấu đến đó, vừa chiến đấu vừa xây dựng, tiến lên một cách vững chắc, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến hoàn chỉnh, hướng xây dựng lực lượng An ninh vũ trang cần chú trọng: "Lấy giáo dục chính trị làm gốc, lãnh đạo tư tưởng thành công tác hàng đầu, lấy xây dựng Đảng làm nền tảng, đồng thời không ngừng nâng cao trình độ quân sự và nghiệp vụ an ninh". Cụ thể là: 1. Ra sức củng cố, xây dựng, phát triển cơ sở Đảng trong lực lượng An ninh vũ trang, tăng cường giáo dục chủ trương đường lối chính sách của Đảng, của ngành an ninh, trong từng thời kỳ, rèn luyện xây dựng lập trường của giai cấp công nhân, không ngừng nâng cao quan điểm bạo lực, quan điểm cách mạng triệt để, tấn công địch liên tục, xây dựng lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với chính quyền cách mạng, luôn luôn dũng cảm kiên cường bất khuất chiến đấu, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, dám quên mình hy sinh bảo vệ Đảng, trên cơ sở đó mà không ngừng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của người cán bộ, chiến sĩ an ninh cách mạng. 2. Xây dựng ý thức và tính tổ chức kỷ luật cao, tự giác và tích cực chấp hành nghiêm các chủ trương, đường lối chính sách, điểu lệ, điều lệnh của ngành an ninh quy định dưới sự lãnh đạo của Đảng. 3. Giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần quan điểm quần chúng của Đảng, thể hiện trên các mặt: tin dân, dựa vào dân, tôn trọng dân, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật đối với quần chúng. 4. Giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ chấp hành tốt về lãnh đạo, lề lối làm việc đúng nguyên tắc dân chủ tập thế, luôn luôn phát huy tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng, luôn luôn để cao tinh thần trách nhiệm, tỉnh thần đoàn kết thương yêu giai cấp, thật thà, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau để cùng tiến bộ. 5. Rèn luyện và không ngừng nâng cao về trình độ quân sự và nghiệp vụ an ninh cho cán bộ chiến sĩ phù hợp với tính chất và nhiệm vụ công tác của từng loại lực lượng. |
9
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 08:47:08 am
|
||
Tác giả saoden - Bài mới nhất gửi bởi saoden | ||
7. CHỈ THỊ SỐ 12CTNT, NGÀY 03-05-1968, VỀ VIỆC TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT NGÀY 07-04-1968 CỦA THƯỜNG VỤ NĂM TRƯỜNG VÀ HƯỚNG DẪN THÊM MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CHỈ THỊ SỐ 32 NGÀY 15-12-1967 (Chỉ lưu hành đến Tỉnh ủy và An ninh Tỉnh)
II. Chủ trương công tác Cần nhận rõ: Do bản chất đế quốc Mỹ rất ngoan cố xảo quyệt, thâm độc, nên tuy bị thất bại toàn diện trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế; tuy cả thế và lực đang trên đà xuống dốc nhưng chúng càng lồng lộn phản ứng gay gắt gắt chống lại ta nhất là càng thất bại về quân sự thì càng tăng cường chiến tranh gián điệp. Do đó, tính chất ác liệt không chỉ thể hiện trên mặt trận quân sự, chính trị mà còn thể hiện trên mặt trận gián điệp nữa. Trước những thắng lợi của ta, trước nguy cơ bị bị đánh bại, bọn công an gián điệp, đảng phái phản động đã chuyển vào hoạt động bí mật. Một mặt, chúng tăng cường hoạt động gián điệp phục vụ cho địch phản kích ta bảo vệ đố thị, thị xã, thị trấn, đánh xỉa ra vùng ven, các đường giao thông chiến lược phá rối hậu phương ta, nhằm ngăn ngừa hạn chế sức tấn công của ta; mặt khác, chúng tích cực chuẩn bị lực lượng gián điệp phản động để tiếp tục phá hoại cách mạng sau này. Do đó, đấu tranh và chống gián điệp chẳng những là một nhiệm vụ chính trị quan trọng trước mắt mà còn là nhiệm vụ chính trị, một cuộc đấu tranh gay go ác liệt và lâu dài nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ quân đội, bảo vệ thành quả cách mạng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để cho an ninh đủ sức hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao phó, góp phần tích cực trong việc đánh đổ ngụy quyền giành chính quyền về tay nhân dân, khẩn trương xây dựng lực lượng chuẩn bị sẵn sàng mở rộng triển khai công tac an ninh trong tình hình mới, Thường vụ Năm Trường chủ trương: 1. Các cấp ủy tổ chức tập thể nghiên cứu học tập chủ trương, đường lối, phương châm công tác, chính sách trấn áp phản cách mạng và các chỉ thị của Đảng về công tác an ninh, lấy chỉ thị số 32 và chỉ thị này làm cơ sở, với yêu cầu là: - Làm cho toàn Đảng quán triệt quan điểm chuyên chính vô sản của Đảng, nâng cao lập trường giai cấp, khắc phục thái độ mơ hồ quân thù, trên cơ sở đó mà lãnh đạo tốt hơn nữa công tác an ninh. - Nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, chức năng của ngành an ninh là công cụ chuyên chính của Đảng, là một lực lượng chiến đấu một mũi nhọn tấn công trấn áp bọn phản cách mạng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ quân đội để ra sức xây dựng cho ngành an ninh các cấp ngày càng vững mạnh, đáp ứng kịp thời với yêu cầu của tình hình đang phát triển. - Cần phải đánh giá đúng quân thù, thấy rõ sự ngoan cố, xảo quyệt, thâm độc của chúng, đồng thời cũng thấy rõ sự suy yếu, những nhược điểm cơ bản của chúng để nâng cao ý thức cảnh giác có quan điểm chuyên môn đúng đắn kiên quyết dựa vào quần chúng mà phát huy tác dụng của ngành an ninh để đánh bại địch, khắc phục mọi tư tưởng hữu khuynh cố thủ, cầu an, sợ ác liệt, ảo tưởng hòa bình xây dựng một tinh thần triệt để cách mạng, liên tục tấn công địch thể hiện các mặt công tác đánh địch bảo vệ mình trên ba vùng trong mọi tình huống. 2. Về nội dung yêu cầu công tác trên ba vùng đã có chỉ thị số 08/CTNT của Thường vụ TWC và chỉ thị hướng dẫn số 155 của an ninh Năm Trường. Nhưng cần đặc biệt chú ý là: Hiện nay địch đã chuyên vào hoạt động bí mật bọn công khai thì đã thay đổi chỗ ở, bọn bí mật thì càng cài sâu núp kín hơn. Do đó an ninh các cấp cần phải khẩn trương liên tục điều tra nghiên cứu phân tích nắm vững tình hình kẻ địch để thấy đúng đối tượng, đúng phương hướng tấn công để có kế hoạch tiêu diệt chúng. 3. Tăng cường bộ máy an ninh các cấp: Trên cơ sở nhận thức đúng đắn vị trí, nhiệm vụ chức năng của ngành an ninh là công cụ chuyên chính của Đảng, là lực lượng chiến đấu, mũi nhọn tấn công trấn áp bọn công an, gián điệp, bọn phản động, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng ngành an ninh vững mạnh đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt, đồng thời chuẩn bị các lực lượng, điều kiện cần thiết để mở rộng hoạt động khi tình hình phát triển. a. Yêu cầu chung trong việc xây dựng cơ quan an ninh các cấp là: Củng cố và phát triển các bộ môn và lực lượng chiến đấu cần thiết phục vụ cho yêu cầu nhiệm vụ chính trị trước mắt đồng thời từng bước vững chắc có kế hoạch hoàn chỉnh theo sự phát triển của tình hình. Trong khi xây dựng cần phải lấy chất lượng là chính (chính trị tư tưởng và chuyên môn) đồng thời coi trọng số lượng. (Về cơ cấu tổ chức sẽ có chỉ thị riêng). b. Phương châm, phương hướng xây dựng: Trong việc củng cố và phát triển ngành an ninh, cần phải nắm rõ khâu quan trọng có tính chất chiến lược là an ninh các cấp tỉnh và cấp xã, phố phường. Còn an ninh các cấp huyện là báo cáo trực tiếp chỉ đạo và chiến đấu. Tình hình hiện nay các cấp an ninh đều yếu nên: - Về cấp, thì trước hết phải tăng cường củng cố an ninh tỉnh và an ninh xã, an ninh phố phường ở đô thị. - Về củng cố phát triển các bộ môn trước hết là ban lãnh đạo các cấp khu, tỉnh, huyện và xã, kế đó từ huyện trở lên thì tăng cường các tiểu ban chuyên môn trực tiếp chiến đấu như: an ninh đô thị (điệp báo, trinh sát vũ trang, an ninh bí mật), bảo vệ chính trị, chấp pháp, trại giam, an ninh vũ trang, NTTH. c. Đào tạo, bồi dưỡng, quản lý cán bộ: Do yêu cầu xây dựng ngành an ninh vững mạnh về chính trị, tư tưởng và chuyên môn, TV Năm Trường quyết định: Tăng cường cán bộ an ninh các cấp theo phương hướng: + An ninh các cấp điều chỉnh cán bộ trong địa phương thích hợp với khả năng chuyên môn của cán bộ, theo yêu cầu công tác. + Các cấp ủy Đảng bổ sung cho cán bộ an ninh trực thuộc theo yêu cầu nhiệm vụ. An ninh Năm Trường có thể điều động một số cán hộ cấn thiết cho bộ máy an ninh nhưng không làm yếu cấp dưới. Đào tạo bồi dường cán bộ: + Để đáp ứng yêu cầu to lớn về cán bộ an ninh của các cấp an ninh Nàm Trường, khu, tỉnh cần có trường huấn luyện đào tạo cán bộ. Phương châm đào tạo là: cần gì học nấy, cần gì đào tạo nấy, học ngắn ngày, từng bước bổ túc. Tăng cường tập huấn hội nghị rút kinh nghiệm, học tập tại chức kết hợp mở lớp. Quản lý cán bộ: Để đảm bảo sự chỉ đạo về nghiệp vụ, đảm bảo cho an ninh có một đội ngũ cán bộ tốt được rèn luyện về chính trị, tư tường và nghiệp vụ theo tỉnh thần chỉ thị số 32 ngày 15-12-1967, an ninh các cấp cần chấp hành chế độ quản lý cán bộ như sau: + An ninh Năm Trường quản lý cán bộ cao và trung cấp trong toàn ngành. + An ninh khu quản lý cán bộ sơ cấp trong địa phương. + An ninh tỉnh quản lý cán bộ cơ sở trong địa phương. d. Củng cố tăng cường hệ thống giao thông giữa an ninh các cấp. Để đảm bảo chỉ đạo về chuyên môn, an ninh các cấp cần phải có hệ thống giao thông liên lạc thông suốt từ trên xuống dưới. Đối với các tỉnh xa khu có thể đặt điện đài để liên lạc giữa an ninh khu và an ninh tỉnh. đ. Trang bị vũ khí cho an ninh các cấp: Nói chung an ninh các cấp phải được trang bị để chiến đấu, trước nhất là ANVT, TSVT, các đơn vị canh giữ trại giam giam, giao thông liên lạc BVCT, các trưởng phó an ninh và các trường phó tiểu ban các cấp; an ninh xã cũng được trang bị, trước hết là trưởng phó ban xã. Nguồn trang bị vũ khí: một là do Đảng cáp phát, mặt khác phải lấy súng địch trang bị ta, trang bị đến đâu phải tổ chức quản lý, bảo quản chặt chẽ. Ban an ninh tỉnh, khu làm kế hoạch trang bị thông qua cấp ủy địa phương, cấp ủy khu chịu trách nhiệm cấp phát cho an ninh trong khu. Từ nay trong báo cáo đợt công tác, hàng tháng, ba tháng, một năm các cấp ủy và an ninh các cấp đều phải báo cáo tình hình công tác an ninh cho cấp ủy trên đúng theo nội quy và thời gian đã quy định. Nhận được chỉ thị này, các cấp ủy và an ninh các cấp cần nghiên cứu kỹ và khẩn trương triển khai chấp hành tốt. Thực hiện đến đâu và báo cáo thường xuyên về An ninh Năm Trường biết. Ngày 03 tháng 5 năm 1968 TMTV Năm Trường Ủy viên thường trực Ba Bình (Đã ký) |
10
Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam / Tài liệu - Hồi ký Việt Nam / Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
vào lúc: 29 Tháng Chín, 2023, 08:45:50 am
|
||
Tác giả saoden - Bài mới nhất gửi bởi saoden | ||
V. Tăng cường bộ máy an ninh các cấp
1. Đảng lãnh đạo công tác an ninh - Các cấp ủy đảng cần nhận rõ an ninh là công cụ chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng để trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính quyền cách mạng. Do đó các cấp ủy phải quan tâm đúng mức lãnh đạo an ninh đảm bảo nội dung sau đây: + Lãnh đạo ngành an ninh quán triệt nhiệm vụ chính trị của Đảng, tin tưởng và chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng, nâng cao tư tưởng tích cực kiên quyết tấn công địch. + Lãnh đạo ngành an ninh quán triệt phương châm hai chân, ba mũi để kết hợp với lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, binh vận tấn công đánh địch trên khắp ba vùng phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng. + Lãnh đạo ngành an ninh thông suốt nhiệm vụ đường lối phương châm, chính sách của ngành an ninh và vận dụng cho sát đúng tình hình từng nơi từng lúc, khắc phục những khuynh hướng máy móc chuyên môn đơn thuần, xây dựng lập trường tư tưởng, tác phong tư cách đạo đức của cán bộ và chiến sỹ an ninh. + Từng thời gian đề ra chủ trương, phương hướng công tác cho an ninh; động viên toàn đảng, toàn quân, toàn dân cùng an ninh thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống gián điệp, phản động và bảo vệ cách mạng. + Thường xuyên theo dõi tình hình, kiểm tra công tác, các mặt công tác của an ninh để kịp thời có chủ trương uốn nắn những sai phạm, thực thực giúp đỡ, bồi dưỡng cho an ninh hoàn thành tốt nhiệm vụ. 1. An ninh đối với cấp ủy Đảng - An ninh các cấp chịu sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp đối với cấp ủy Đảng, có trách nhiệm thường xuyên báo cáo một cách trung thực, toàn dỉện, cụ thể, đầy đủ về tình hình địch, về các mặt công tác, những thành tích, những thiếu sót để cấp ủy cho chủ trương, đối sách. - Nghiên cứu để xuất chủ trương, kế hoạch công tác từng thời gian để cấp ủy duyệt và cho chỉ thị để thi hành. - Thi hành những việc cụ thể, trực tiếp do cấp ủy giao trong việc điều tra, đánh địch, giam giữ, điều tra can phạm. 2. Về quan hệ giữa an ninh các cấp - An ninh cấp trên căn cứ vào nhiệm vụ yêu cầu chính trị của Đảng kịp thời đề ra nhiệm vụ, yêu cầu công tác từng thời gian để an ninh cấp dưới căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương mà có kế hoạch thực hiện. - An ninh cấp trên phải nắm tình hình, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn về công tác, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn để cho an ninh cấp dưới có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ. - An ninh cấp dưới nghiêm chỉnh chấp hành chế độ báo cáo thỉnh thị một cách kịp thời, trung thực cụ thể từng mặt công tác cho an ninh cấp trên, đề nghị những ý kiến giải quyết. Cấp ủy Khu và an ninh Khu cần tổ chức nghiên cửu kỷ chỉ thị này và trên cơ sở quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, yêu cầu nội dung cơ bản của công tác an ninh mà tích cực khẩn trương để ra kế hoạch chỉ đạo thực hiện và thường xuyên báo cáo kết quả về Thường vụ Năm Trường. An ninh Năm Trường căn cứ vào tỉnh thần chỉ thị này có kế hoạch hướng dẫn chung và cụ thể cho từng vùng để an ninh Khu thi hành. Ngày 15 tháng 12 năm 1967 Thường vụ Năm Trường Bảy Hồng (đã ký) |