Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2023, 04:11:23 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
 91 
 vào lúc: 20 Tháng Ba, 2023, 09:07:54 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
Là bạn đường của nạn lạm phát, nạn suy thoái sẽ dẫn nền kinh tế nước Mỹ đi đến đâu? Hiện nay, nhiều nhà kinh tế học tư bản đã phải thú nhận ràng: tai họa tương tự như cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm rung chuyển thế giới tư bản trong những năm đầu của những năm 30 là một đe dọa thực tế. Số thu nhập của nhân dân lao động Mỹ ngày càng giảm sút và số thuế đóng cho chính phủ ngày càng tăng cao. Báo chí Mỹ ngày nay ngày càng nói nhiều đến sự nghèo khổ của nhân dân Mỹ. Các nhà kinh tế học Mỹ đã thú nhận: "Giá hàng ở Mỹ đã tăng lên gấp 2 lần trong 25 năm qua và hiện nay ở Mỹ có tới 25 triệu người lâm vào cảnh sinh hoạt dưới cả mức nghèo khổ". Số người thất nghiệp cũng ngày càng tăng. Dưới đây là vài con số chứng dẫn:




Tốc độ phát triển công nghiệp ở Mỹ rất chậm. Riêng về ngành công nghiệp chế tạo thiết bị lại càng chạm hơn. Nếu lấy chỉ số phát triển năm 1967 là 100 thì đến giữa năm 1972 chỉ số này chỉ tăng lên đến 106,2 (theo Tạp chí Survey of Current business, tháng 11-1972).


Theo thống kê tháng 3 năm 1974, sản xuất công nghiệp của Mỹ giảm nhiều nhất là sắt thép và hàng tiêu dùng.

Trong quý I năm 1974, khối lượng hàng bán lẻ giảm 8%. Nhiều công ty kỹ nghệ lớn của Mỹ đã phải đóng cửa vì thiếu hắn nguyên liệu và nhiên liệu. Các công ty sản xuất xe hơi lớn của Mỹ cũng đã phải đóng cửa hàng loạt các công xưởng. Theo tin tức của tuần báo Mỹ "Tin Mỹ và thế giới", công ty "Giê-nê-rôn Mô-to" đã ra lệnh đóng cửa suốt một tuần lễ 16 công xưởng sản xuất xe hơi. Công ty sản xuất xe hơi Crai-xlơ có 6 xưởng lắp ráp thì đóng cửa 5 xưởng, làm cho 6 vạn công nhân mất việc. Tình hình này nói chung làm cho hàng trăm ngàn công nhân sản xuất xe hơi phải lâm vào cảnh thát nghiệp, lôi kéo theo một cuộc sống bi đát cho hàng chục ngàn gia đình Mỹ.


Các hãng hàng không Mỹ cũng thải hàng ngàn phi công và nhân viên. Công ty hàng không lớn nhất của Mỹ, hãng U.A.L đã thải một lúc hơn 1.000 phi công và nữ chiêu đãi viên. Nhiều công ty hàng không khác như các hãng A.A.L, E.A.L và P.A.L cũng cùng lâm vào một cảnh như thế.


Đến lượt các công ty sản xuất máy bay cũng đang đóng cửa các công xưởng của họ, khiến cho hàng vạn công nhân sản xuãt máy bay mất việc làm. Công ty sản xuất máy bay Xe-xna thuộc bang Kan-xát, trong tháng 12 năm 1973 đã phải cho nghỉ việc 3.000 công nhân trong số 11.000 công nhân của công ty này. Nghiệp đoàn công nhân sản xuất máy bay Mỹ ước lượng rằng trên toàn nước Mỹ sẽ có đến khoảng 40.000 đoàn viên của họ lâm vào cảnh thất nghiệp trong thời gian gần đây.


Ngành xây dựng là một ngành cũng khá phát triển ở Mỹ, hiện nay đang lâm vào cảnh trì trệ. Hàng chục ngàn công nhân xây dựng đang không có việc làm vì ngành này đã giảm số công việc xuống đến hơn 20%. Ngành kỹ nghệ dệt đang lo ngại về thiếu hơi thiên nhiên; và như vậy thì việc chế hấp các loại tơ sợi hóa học sẽ gặp khủng hoảng.


Tại miền Nam nước Mỹ, các đoàn tàu đánh cá không nhổ neo được vì thiếu nhiên liệu chạy máy. Dọc theo bờ biển phía đông nước Mỹ, nhiều hãng lọc dầu đã phải cho máy nghỉ hoạt động vì thiếu dầu thô để lọc.


Các nông dân ở miền Tây - Nam nước Mỹ không mua được dầu để chạy máy cày của họ. Họ đã phải gửi một đơn thỉnh cầu có tính chất như một tối hậu thư cho chính phủ Mỹ đòi cung cấp dầu. Họ nêu lên rằng: "Nếu không thì mức sản xuất nông phẩm của Mỹ sẽ suy sụp thêm nữa".


Chính Rôc-phen-lơ, phó tổng thống Mỹ hiện nay đã phải nhìn nhận một phần sự thật: "Chúng ta đang tiến đến một giai đoạn của nhiều sự khan hiếm, thiếu hụt, và chúng ta đành phải chấp nhận sống trong một tình trạng như vậy vì không có một giải pháp nào khác hơn nữa cả!".


Cuộc chiến tranh Việt Nam đã giáng một đòn nặng nế vào nền kinh tế Mỹ. Sự suy yếu về kinh tế là một hậu quả tai hại tác động mạnh mẽ đến địa vị của nước Mỹ trên thế giới nói chung và ngay cả trên thế giới tư bản nói riêng. Đế quốc Mỹ dựa vào sức mạnh quân sự và kinh tế để khống chế các nước khác. Đế quốc Mỹ không hề có ai là bạn bè chân tình cả. Mối quan hệ của Mỹ với các nước khác là quan hệ dựa trên cơ sở kinh tế. Quan hệ của họ với các nước khác là quan hệ giữa khống chế và bị khống chế, quan hệ giữa buôn bán và cạnh tranh. Tất cả mọi quan hệ, mọi lẽ sống của họ đều xuất phát từ đồng tiển. Họ không có sức mạnh về chính trị, vì chính trị của họ là chính trị phi nghĩa.


Sự suy yếu về kinh tế là một điều nghiêm trọng cho nước Mỹ. Vì sức mạnh chủ yếu của nước Mỹ là sức mạnh về kinh tế, sức mạnh cơ bản của một quốc gia. Dĩ nhiên bất cứ nước nào cũng cần có sức mạnh về kinh tế, cơ sở cho các sức mạnh khác. Song, các quốc gia tiến bộ, ngoài sức mạnh về kinh tế còn có sức mạnh về chính trị và tinh thần, dựa trên cơ sở một nền chính trị tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử xã hội. Các quốc gia đó có sự đoàn kết nhất trí trong nhân dân về chính trị và tinh thần, đồng thời lại có sự đoàn kết, nhất trí với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Do đó mà họ có một sức mạnh tổng hợp lớn.


Đế quốc Mỹ chỉ có một sức mạnh về kinh tế, song sức mạnh kinh tế đó lại bị đơn độc chẳng những không được sự hỗ trợ của các nước đồng minh mà còn bị đồng minh chèn ép. Vì vậy sức mạnh của đế quốc Mỹ là một sức mạnh bị hạn chế.


Cuộc chiến tranh Việt Nam đã chứng minh điều đó. Cuộc chiến tranh Trung Đông tháng 10 năm 1973 lại chứng minh thêm khi các nước Ả-rập sử dụng "vũ khí dầu lửa" của họ và buộc đế quốc Mỹ phải tạm thời lùi bước.


Suy yếu về kinh tế là một điều nghiêm trọng cho nước Mỹ vì nó gây ra các mặt suy yếu, rối loạn khác về chính trị, quân sự, xã hội, tâm lý ở ngay trong nước Mỹ và làm suy yếu địa vị các mặt của Mỹ ở trên thế giới. Điều còn nghiêm trọng hơn cho Mỹ là các nước tư bản đàn em của Mỹ thường bị Mỹ khống chế lại mạnh lên và đang đuổi sát Mỹ về kinh tế. Trong khi vết thương kinh tế của Mỹ chưa lành thì các ông bạn cạnh tranh của Mỹ vẫn đang cố vươn lên.


Thế lực kinh tế của Mỹ trước kia đứng ở thế bao vây các thế lực kinh tế thế giới. Ngày nay thế lực kinh tế của Mỹ lại ở vào thế bị thế lực kinh tế thế giới bao vây lại. Ba thế lực kinh tế đang đấu tranh và đánh mạnh vào thế lực kinh tế của Mỹ là: kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế các nước tư bản Tây Âu và Nhật Bản, và kinh tế các nước đang phát triển.


Lực lượng kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế toàn dân. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có sức động viên sự tự giác và tích cực sản xuất của nhân dân. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế có chỉ đạo, có kế hoạch và cân đối. Nền kinh tế đó không có suy thoái.


Liên Xô đã đuổi kịp Mỹ về sản xuất sắt thép và cũng đuổi kịp Mỹ về trình độ khoa học kỹ thuật. Các nước xã hội chủ nghĩa có những nguồn tài nguyên phong phú.

Trong 10 năm, từ 1958 đến 1967, sản lượng công nghiệp của Liên Xô tăng 121% trong khi đó Mỹ chỉ tăng có 69%.

Hiện nay Liên Xô đã đuổi kịp và vượt Mỹ về sản xuất thép: Liên Xô đã sản xuất 136 triệu tấn/năm còn Mỹ là 113 triệu tấn/năm.

Tốc độ tăng hàng năm của nền công nghiệp Liên Xô là 6% đến 8% còn Mỹ chỉ tăng hàng năm từ 5% đến 6%. Trong 4 tháng đầu năm 1974, từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1974, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã tăng 8,7% so với cùng thời kỳ này trong năm 1973.


Sức mạnh kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa cũng đang phát triển sang châu Mỹ la-tinh. Tháng 5 năm 1974, Bộ trưởng thương mại Ác-hen-ti-na đã sang thăm và ký một số hợp đồng kinh tế với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Bá quyền kinh tế của Mỹ đã bị phá một lỗ hổng. Bên cạnh Liên Xô đã đứng ngang hàng với Mỹ về nền công nghiệp và nền khoa học kỹ thuật hiện đại, Trung Quốc cũng đang đuổi sát các nước công nghiệp tiên tiến. Sự tiến bộ nhanh chóng của Trung Quốc đã được chúng minh ở kết quả của sự thành công bước đầu về kỹ thuật tên lửa, hạt nhân vả vệ tinh nhân tạo.

 92 
 vào lúc: 20 Tháng Ba, 2023, 09:04:26 am 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
V
HẬU QUẢ CỦA CUỘC CHIẾN TRANH
XÂM LƯỢC VIỆT NAM ĐỐI VỚI ĐẾ QUỐC MỸ


Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã để lại cho đế quốc Mỹ biết bao hậu quả tai hại. Nó đã trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự suy yếu về mọi mặt của đế quốc Mỹ. Hậu quả của nó không chỉ biểu hiện ở sự suy yếu trước mắt mà còn tiếp tục "ngấm" sâu vào lục phủ ngũ tạng của nước Mỹ.

1. Suy yếu về kinh tế.

Cuộc chiến tranh Việt Nam đã đánh một đòn nặng nề vào nền kinh tế Mỹ. Sự suy yếu về kinh tế đó là một hậu quả tai hại nhất cho nước Mỹ. Riêng cái giá về tiền của mà nước Mỹ đã phải trả cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là bao nhiêu? Cho đến nay, chưa ai tính tổng quát hết được. Theo con số chính thức do giới cầm quyền Mỹ công bố, Mỹ đã mất cho cuộc chiến tranh này 240 tỷ đô la, khoảng 36 vạn binh lính, sĩ quan chết và bị thương, hơn 8.600 máy bay các loại, v.v... Nhiều chính khách Mỹ đưa ra con số 350 tỷ đô la, trong lúc đó có nhà kinh tế học Mỹ đã tính toán là: nếu cộng cả những chi tiêu gián tiếp khác, cuộc chiến tranh Việt Nam đã ngốn mất của nước Mỹ trên 600 tỷ đô la. Nếu so với giá trị khối lượng vàng dự trữ của nước Mỹ chỉ trên 10 tỷ đô la, đây thật là những con số khổng lồ. Nếu so sánh với con số ngân sách quốc phòng Mỹ năm 1956 là 40,7 tỷ đô la, hoặc ngay cà ngân sách quốc phòng Mỹ năm 1974 là 82,6 tỷ đô la (với giá đồng đô la sụt giá hiện nay), thì càng thấy rõ ý nghĩa của số tiền 600 tỷ đô la nói trên.


Trong lịch sử nước Mỹ, xét về mặt tốn kém về tiền của và tổn thất về sinh mạng, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam chỉ đứng sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.

Về mặt hậu quả về kinh tế tài chính mà nói cuộc chiến tranh thế giới thứ hai là một dịp để cho bọn tư bản độc quyền Mỹ tha hồ trục lợi. Bước ra khởi cuộc chiến tranh này, chủ nghĩa đế quốc Mỹ trở thành tên trùm của chủ nghĩa đế quốc thế giới, nước Mỹ trở thành một nước giàu mạnh nhất trong thế giới tư bản, đóng vai trò kẻ cho vay, đỡ đầu cho hàng loạt nước tư bản đàn em và tự cho mình đóng vai trò "sen đầm quốc tế" với thế lực quân sự và kinh tế trong tay. Trong những năm cuối của những năm 40, trong những năm 50 cho đến ngày đế quốc Mỹ dấn thân vào cuộc phiêu lưu quân sự ở Việt Nam, đế quốc Mỹ đang ở trên đỉnh cao của sức mạnh của chúng về quân sự và về kinh tế. Gần mười năm qua, từ 1965 đến 1973, đến khi quân đội Mỹ phải cuốn cờ rút ra khỏi Việt Nam trong tư thế nhục nhã của một đội quân chiến bại, thì cũng là lúc mà những từ ngữ lạm phát, suy thoái của nền kinh tế Mỹ ngày càng đậm nét trên các bản tin tức hàng ngày trong nước Mỹ cũng như trên thế giới.


Với cuộc chiến tranh Việt Nam, một cuộc khủng hoảng tài chính sâu sắc đang làm rung chuyển nước Mỹ, trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra những xáo động về xã hội và chính trị trong xã hội Mỹ. Cuộc khủng hoảng này được thể hiện qua một số nét như: ngân sách liên bang bị thiếu hụt nặng nề và kéo dài, nạn lạm phát giấy bạc liên tục và ngày càng trầm trọng, các món nợ mà chính phủ liên bang nợ của "công chúng" dưới nhiều dạng, trong đó có dạng phát hành công trái mà nhiều giới tư bản tài chính mua để lấy lãi, ngày càng chồng chất. Dưới đây là một vài ví dụ:


Về công trái, cuối năm 1964 số công trái của chính quyền liên bang phát hành trị giá 318,7 tỷ đô la. Tháng 11 năm 1972 trị giá này tăng lên đến 444,7 tỳ, tức là trong gần 8 năm đã tăng 136 tỷ, gấp hơn 3 lần mức tăng trong suốt 19 năm trước đó. Gánh nặng về công trái này đáng lẽ phải giảm bớt, trái lại đã ngày càng tăng thêm theo năm tháng, gây ra tình trạng lãi mẹ đẻ lãi con hết sức nguy hiểm đối với sự cân bằng thu chi của những ngân sách liên bang Mỹ hiện nay và trong tương lai.


Về ngân sách, có năm Mỹ đã phải chi cho cuộc chiến tranh Việt Nam đến 30 tỷ đô la nếu chỉ tính theo các khoản chi mà bộ quốc phòng Mỹ phải gánh chịu và lên đến 50 tỷ đô la, nếu tính cả các khoản chi "bổ sung" mà ngân sách liên bang phải gánh chịu. Các khoản chi lớn đó đã khiến cho ngân sách liên bang Mỹ suốt từ năm 1965 cho đến nay luôn luôn lâm vào tình trạng thiếu hụt. Riêng từ năm 1965 đến 1972, ngân sách liên bang Mỹ đã hụt đến 85 tỷ đô la. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho chính phủ Mỹ phải vay nợ. Mặt khác, các khoản chi lớn về chiến tranh đã ảnh hưởng lớn đến mức độ cân đối cần thiết nhất định của sự phát triển các ngành kinh tế trong nước. Trong khi nhiều ngành công nghiệp sản xuất vũ khí bành trướng quá mức, thì nhiều ngành công nghiệp phục vụ cho đời sống xã hội lại ngày càng suy sụp. Những ảnh hưởng qua lại không thể tránh khỏi giữa các ngành sản xuất khác nhau trong một cơ cấu kinh tế chung đã đẩy nển kinh tế Mỹ vào một tình trạng suy thoái ngày càng nghiêm trọng. Chính vì thế, do mâu thuẫn về quyền lợi suốt từ năm 1965 đến nay, ngày càng có nhiều nhân vật có tên tuổi trong giới chính trị, quân sự, học đường, tôn giáo Mỹ đã lên tiếng phản đối đường lối đẩy mạnh, cuộc chạy đua vũ trang, tiếp tục mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam và Đông Dương.


Nếu trong những năm 50 và đầu 60, đồng đô la được xem là đồng tiền chúa tể của thế giới tư bản thì từ đầu những năm 70, đồng đô la lại là nguồn lo âu hàng giờ, hàng ngày của những ai cầm nó trong tay vì trị giá của nó ngày càng sút theo đà đi xuống liên tục. Đây là một hậu quả của nạn lạm phát, một cơn ác mộng đang bao trùm nước Mỹ ngày nay. Câu nói đầu lưỡi của Giôn-xơn, Ních-Xơn trước kia và của Pho ngày nay đều là: "Sẽ chiến thắng nạn lạm phát", nhưng ngày này qua ngày khác, nạn lạm phát cứ bành trướng lên mãi và đang trở thành bóng đen của một tai họa bao trùm lên Nhà trắng, Lầu năm góc, cũng như tất cả các mái nhà lớn, nhà của mọi người công dân Mỹ. Chỉ tính từ cuối năm 1964 đến tháng 11 năm 1972, số giấy bạc lưu hành ở Mỹ đã tăng thêm 25 tỷ đô la (từ 39,6 tỷ cuối năm 1964 lên 65,1 tỷ cuối tháng 11 năm 1972, gấp 2 lần mức tăng 11,1 tỷ trong thời gian từ 1947 đến năm 1964). Đến năm 1974, con số này đã lên đến 70 tỷ. Tỷ lệ lạm phát hiện đang ở mức hàng năm 12,2%. Đây thật là một cái giá phải trả cho cuộc chiến tranh Việt Nam mà giới cầm quyền Oa-sinh-tơn ỷ vào sự "giàu có" của nước Mỹ, đã không ngờ đến được. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã đập nát cái khẩu hiệu "thừa súng lại thừa bơ" mà giới cầm quyền hiếu chiến Mỹ đã từng có thời kỳ huênh hoang nêu ra. Nạn lạm phát bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân sâu xa về tài chính và kinh tế trong chính chế độ tư bản Mỹ. Những số tiền khổng lồ mà Mỹ đã vung phí trong cuộc chiến tranh Việt Nam - nếu tính cả những chi phí gián tiếp lên đến trên 600 tỷ đô la, là một trong những yếu tố quyết định đưa đến tình trạng lạm phát nghiêm trọng hiện nay trong nước Mỹ. Một trong những hậu quả tất nhiên của nạn lạm phát là giá sinh hoạt tăng. Từ năm 1966 đến năm 1972, giá sinh hoạt ở Mỹ đã tăng lên đến 32% tức là 22% cao hơn mức tăng trong 6 năm trước đó. Năm 1974, giá hàng tiêu dùng tăng 12,2%. Riêng giá lương thực tăng 21%. Một số mặt hàng như đường và dầu tăng 400%. Giá sinh hoạt tăng đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của những người dân Mỹ, nhất là của nhân dân lao động Mỹ. Cũng vì thế, từ năm 1966 cho đến nay, liên tục xảy ra nhiều cuộc đình công rất rộng lớn của hàng triệu công nhân Mỹ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giá hàng và các quyền lợi sống còn hàng ngày khác. Phong trào đấu tranh đòi quyền lợi sống còn đó ngày càng mang theo một nội dung chính trị sâu sắc và tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị của nước Mỹ. Giữa cuộc chiến tranh Việt Nam, nạn lạm phát, nạn suy thoái kinh tế và cuộc khủng hoảng "thể chế" chính trị của nước Mỹ hiện nay, có những quan hệ tác động qua lại chặt chẽ.

 93 
 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 08:40:20 am 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
XÃ TÂN HỘI, HUYỆN CAI LẬY, TỈNH MỸ THO


Xã Tân Hội nằm sát phía bắc đường số 4, là một trong bảy xã trọng điểm bình định, dồn dân của địch trong tỉnh.


Xã đã diệt hơn 1.100 tên địch, bắt 28 tên, làm rã ngũ 1.350 tên; diệt gọn 7 trung đội, đánh thiệt hại nặng 2 đoàn bình định, phá hủy 30 xe quân sự; bắn rơi 2 máy bay lên thẳng, thu 87 súng, bức rút 3 đồn bốt, 2 lần phá banh trại tập trung, giải phóng hàng trăm đồng bào bị địch bắt.


Xã Tân Hội đã được tặng thưởng 5 Huân chương Chiến công giải phóng, 1 cờ luân lưu khá nhất về thành tích chiến đấu của Bộ chỉ huy Miền tặng. Dân quân du kích được tặng danh hiệu Đơn vị Thành đồng Quyết thắng.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, xã Tân Hội được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 94 
 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 08:39:36 am 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
ĐẠI ĐỘI 23 QUÂN Y, TRUNG ĐOÀN 1, SƯ ĐOÀN 1, BỘ CHỈ HUY MIỀN


Từ tháng 7 năm 1967 đến năm 1973, Đại đội 23 phục vụ trung đoàn chiến đấu trên các chiến trường Thừa Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ và đông bắc Cam-pu-chia. Đại đội đã điều trị được 5.700 thương binh, trong đó có 62 trường hợp rất hiểm nghèo.


Đơn vị đã được tặng thưởng 4 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng nhất, 1 hạng nhì, 2 hạng ba), 7 lần là Đơn vị Thành đồng Quyết thắng.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Đại đội 23 quân y được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 95 
 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 08:39:10 am 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
ĐẠI ĐỘI 6 VẬN TẢI BỘ, CỤC HẬU CẦN, MẶT TRẬN TRỊ THIÊN


Đại đội 6 thành lập tháng 9 năm 1966. Từ cuối năm 1969 đến tháng 12 năm 1972, làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, đạn, gạo, thương binh.


Đại đội 6 vận chuyển được 2.418 tấn hàng ra phía trước, hơn 2.000 thương binh về phía sau an toàn, đào 855 hầm để hàng; làm 3 ngầm qua sông, 40km đường ô tô, 20km đường mòn vận chuyển bộ.


Đơn vị đã được tặng thưởng 10 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng nhất, 4 hạng nhì, 5 hạng ba), 4 lần là Đơn vị Quyết thắng.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Đại đội 6 vận tải bộ được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 96 
 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 08:38:49 am 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
ĐẠI ĐỘI 3 VẬN TẢI BỘ, TIỂU ĐOÀN 235, TRUNG ĐOÀN 250,
QUÂN KHU 5


Từ tháng 12 năm 1966 đến năm 1973, Đại đội 3 làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí đường dài từ Quảng Nam đi Quảng Đức, Phú Yên, Gia Lai.


Từ năm 1969 đến năm 1972, đại đội đã vận chuyển được 150 tấn hàng trên đoạn đường 300 km, diệt gần 100 tên địch, thu 5 súng.


Đơn vị đã được tặng thưởng 4 Huân chương Chiến công giải phóng (2 hạng nhất, 2 hạng ba); được tặng cờ "Mười năm vẻ vang"; 3 lần là Đơn vị Thành đồng Quyết thắng.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Đại đội 3 vận tải bộ được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 97 
 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 08:37:58 am 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
TIỂU ĐOÀN 2 VẬN TẢI, CỤC HẬU CẦN, BỘ CHỈ HUY MIỀN


Từ tháng 7 năm 1967 đến năm 1973, Tiểu đoàn 2 làm nhiệm vụ vận chuyển ở vùng Đồng Nai. Đơn vị đã chuyển được trên 6.600 tấn hàng, giao hàng đủ, đúng thời gian, hàng được bảo quản tốt, phục vụ cho các đơn vị chiến đấu; đã chuyển được 1.100 thương binh về phía sau an toàn.


Quá trình làm nhiệm vụ vận chuyển, nhiều lần gặp địch, đơn vị đã chiến đấu diệt 1.900 tên, phá hủy 36 xe quân sự; bắn rơi 5 máy bay, thu 30 súng.


Đơn vị đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng nhì, 1 hạng ba), được tặng danh hiệu Đơn vị Thành đồng Quyết thắng.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Tiểu đoàn 2 vận tải được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 98 
 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 08:37:17 am 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
TRUNG ĐOÀN 230 VẬN TẢI, CỤC HẬU CẦN, QUÂN KHU 5


Trung đoàn 230 thành lập tháng 12 năm 1967. Từ năm 1968 đến năm 1973, đơn vị đã chuyển được 51.000 tấn vũ khí, lương thực. Đặc biệt từ năm 1970 đến năm 1973, năm nào đơn vị cũng đạt vượt mức 50% trở lên.


Quá trình làm nhiệm vụ vận chuyển, lần nào gặp địch đơn vị đều tích cực đánh địch để mở đường, diệt trên 900 tên, bắn rơi 4 máy bay.


Đơn vị đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng ba, 3 Huân chương Chiến công giải phóng (1 hạng nhất, 2 hạng nhì).


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Trung đoàn 230 vận tải dược Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 99 
 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 08:36:57 am 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
ĐẠI ĐỘI 1 SÚNG MÁY CAO XẠ 12,7 LY, TIỂU ĐOÀN 16, SƯ ĐOÀN 3,
QUÂN KHU 5


Từ năm 1966 đến năm 1972, Đại đội 1 tham gia chiến đấu ở Bình Định, Quảng Ngãi, Kon Tum. Đơn vị đã bắn rơi 102 máy bay các loại (có 15 phản lực), diệt 175 tên địch, bắt 56 tên ngụy, thu 20 súng.


Đơn vị đã được tặng thưởng 9 Huân chương Chiến công giải phóng (2 hạng nhất, 2 hạng nhì, 5 hạng ba).


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Đại đội 1 súng máy cao xạ được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 100 
 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 08:36:21 am 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
ĐẠI ĐỘI 17 SÚNG MÁY CAO XẠ 12,7 LY, TRUNG ĐOÀN 2, SƯ ĐOÀN 324,
MẶT TRẬN TRỊ THIÊN


Từ tháng 5 năm 1965 đến năm 1973, Đại đội 17 chiến đấu ở nhiều khu vực thuộc Nghệ An, Quảng Bình, Đường 9 - Nam Lào, Quảng Trị. Đơn vị đã bắn rơi 136 máy bay Mỹ (có 18 phản lực), diệt 160 tên địch.


Đơn vị đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng ba, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Đại đội 17 súng máy cao xạ được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM