CHIẾN THẮNG ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO, SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỂ CÁCH ĐÁNH TÀI GIỎI
Đại tá, TS LÊ VĂN THÁI
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử tư tưởng quân sự -
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh - bộ phận trọng yêu trong tư tưởng Hồ Chí Minh - là tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Tư tưởng đó của Người gồm nhiều nội dung phong phú, trong đó có nội dung về cách đánh giặc. Theo Người để chiến thắng kẻ thù, các lực lượng vũ trang "phải có cách đánh rất tài giỏi", thực hiện nghệ thuật quân sự cách mạng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cách đánh giặc, quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đều đánh giỏi, thắng lớn, từng bước đẩy đối phương vào thế thua không thể cứu vãn. Mùa Xuân năm 1971, phát huy thế tiến công chiến lược, quân và dân ta cùng với quân và dân Lào anh em đánh bại cuộc hành quân lớn của địch trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chi việnchiến lược Bắc - Nam Đông Dương, tạo đà cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiếp tục phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách đánh giặc được đề cập phong phú trong nhiều tác phẩm; trong các chỉ thị, huấn thị của Người. Ngay trong thời kỳ mới về nước cùng Trung ương Đảng lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang, bên cạnh việc biên dịch hai cuốn sách"Phép dùng binh của Tôn Tử" và "Cách huấn luyện cán bộ quân sự của Khổng Minh", Người còn viết tác phẩm "Cách đánh du kích"
1 (Trong nguyên bản, ngoài bìa sách ghi "Chiến thuật du kích", Việt Minh xuất bản, tháng 5 năm 1944) 13 chương. Trong tác phẩm đó, Người xác định 4 nguyên tắc chính của cách đánh du kích là: 1. Giữ quyền chủ động; 2. Hết sức nhanh chóng; 3. Bao giờ cũng giữ thế công; 4. Phải có kế hoạch thích hợp và chu đáo"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 tr. 474, 508). Khi quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Người chỉ rõ cách đánh của đội quân chủ lực đầu tiên là: "Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung"
1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 tr. 474, 508).
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Người đề ra cách đánh cho lực lượng vũ trang là bám dân, bám đất, đẩy mạnh chiến tranh du kích; kết hợp chặt chẽ du kích chiến với vận động chiến và công kiên chiến; đánh địch cả trước mặt và sau lưng theo cách đánh do ta lựa chọn, không cho địch đánh theo cách sở trường củachúng... Cuối cuộc kháng chiến, Người còn nhấn mạnh đến phương châm hành động: "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt" và nguyên tắc "Đánh chắc thắng".
Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đối tượng tác chiến của lực lượng vũ trang thay đổi. Ta phải đương đầu với nhiều lực lượng, bao gồm quân Mỹ, quân các nước đồng minh Mỹ và quân Sài Gòn, được trang bị vũ khí và các phương tiện chiến tranh hiện đại. Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang thay đổi cách đánh cho phù hợp với đối tượngtác chiến và đặc điểm chiến trường. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam, tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 31 tháng 7 năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề: "Phải nghiên cứu cách đánh, xem có gì thay đổi không"
1 (Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh -Biên niên tiểu sử, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008,tr. 281, 333). Hai tháng sau, tại cuộc họp Bộ Chính trị bàn vô tình hình miền Nam, Người nói: "Vì quân Mỹ đông, lại có hỏa lực mạnh, nên khi ta tiến công tiêu diệt sinh lực địch thì không chỉ tiêu diệt về số lượng, mà phải chú ý đến tiêu diệt những đơn vị chủ chốt, những cơ quan đầu não của chúng"
2 (Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh -Biên niên tiểu sử, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 281, 333). Người căn dặn Bộ đội Phòng không: "Lúc chiến đấu phải hiệp đồng cho tốt, ai đánh tầng thấp, ai đánh tầng giữa, ai đánh tầng cao, phải phân công rõ ràng"
3 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Chủ lịch Hồ Chí Minh vái sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việl Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 119). Với Bộ đội Không quân, Người dạy: "Các chú hãy học tập Quân giải phóng miền Nam: Phát huy lối đánh gần, bám thắt lưng địch mà diệt chúng"
1 (Chủ tịch Hồ Chí Minh với Bộ đội Phòng không - Không quân, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân xuất bản, Hà Nội, 1975, tr. 20).
Sau cuộc họp Bộ Chính trị ngày 28 tháng 12 năm 1967 chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968, Người chỉ thị cụ thể cho các chiến trường: "Kế hoạch phải thật tỉ mỉ. Hợp đồng phải thật ăn khớp. Bí mật phải thật tuyệt đối. Hành động phải thật kiên quyết. Cán bộ phải thật gương mẫu"
2 (Vũ Kỳ, Bác Hồ với Tết Mậu Thăn năm ấy, Báo Văn Nghệ, số Tết Mậu Dần 1998). Tiếp đó, trong thư chúc mừng năm mới gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước năm 1969, Người khái quát tư tưởng chỉ đạo chiến lược về cách đánh bằng câu thơ "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cách đánh, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta đã nỗ lực chiến đấu đánh thắng giặc từng bước, càng đánh càng mạnh, tiến lên giành thắng lợi mới. Tháng 6 năm 1970, trên cơ sở đánh giá đúng bản chất gây chiến, phiêu lưu và những thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", Bộ Chính trị đã nhận định trong mùa khô 1970 - 1971,địch có thể mở những cuộc tiến công đánh vào vùng Trung, Hạ Lào và vùng đông bắc Campuchia nhằm phá hoại cơ sở cách mạng hai nước này, phá hủy cơ sở hậu cần và cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược của ta, cô lập chiến trường miền Nam. Từ nhận định đó, Bộ Chính trị chủtrương: "Động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, làm cho lực lượng ba nước trở thành một khối thống nhất, có một chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai"
1 (Nghị quyết Bộ Chính trị, ngày 19 tháng 6 năm 1970. Lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam). Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân uy Trung ương nhất thiết phải động viên sức người, sức của đánh thắng địch, làm thất bại cố gắng cao nhất của chúng trong quá trình thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh", tạo nên những chuyên biến căn bản có tính chất chiến lược cho phong trào cách mạng ba nước Đông Dương.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm "ta phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước"
2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 314) của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nghị quyết tháng 6 năm 1970 của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu bắt đầu vạch kế hoạch tác chiến, điều động lực lượng và chỉ đạo việc chuẩn bị chiến trường ở khu vực Đường 9 - Nam Lào.
Tháng 10 năm 1970, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập Binh đoàn 70 gồm 3 sư đoàn bộ binh 304, 308, 320 và một số trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng, ở khu vực Đường 9, bộ đội Mặt trận B5, B4 và Đoàn 559 gấp rút tổ chức thế trận, sẵn sàng phối hợp chiến đấu với lực lượng chủ lực cơ động. Tổng cục Hậu cầnthành lập cơ quan chỉ huy tiền phương, cùng các đơn vị thuộc Đoàn 559 xây dựng tuyến hậu cần chiến dịch nam sông Gianh. Đến tháng 1 năm 1971, dự trữ vật chất của các binh trạm Đoàn 559 trên các hướng chiến dịch đã lên tới 6.000 tấn, cùng với dự trữ của Bộ, đủ đảm bảo cho năm đến sáu vạn quân tác chiến trong thời gian bốn đến năm tháng. Chủ độngđối phóvới mọi tình huống, Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm vụ cho Binh đoàn 70 chuẩn bị kế hoạch tác chiến, phối hợp với lực lượng vũ trang Quân khu 4 sẵn sàng tiêu diệt địch, nếu chúng liều lĩnh mở rộng tiến công bằng bộ binh ra phía Nam Quân khu 4.
Đúng như nhận định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, bước vào Đông Xuân 1970-1971, đế quốc Mỹ ráo riết chuẩn bị tiến hành các cuộc tiến công ra chiến trường ba nước Đông Dương. Tháng 11 năm 1970, Tổng thống Mỹ quyết định mở cuộc hành quân đánh ra Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và ngã ba biên giới. Ngày 2 tháng 2 năm 1971, giới cầm quyền Mỹ thông qua kế hoạch ba cuộc hành quân đó với mật danh "Lam Sơn 719", "Toàn Thắng 1-1971" và "Quang Trung 4". Trong ba cuộc hành quân đó thì cuộc hành quân "Lam Sơn 719" đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào là có quy mô và ý đồ lớn nhất; bởi theo tính toán của Mỹ thì nơi đây tập trung nhiều kho tàng dự trữ chiến lược của đối phương, là "cuống họng" của đường Hồ Chí Minh, nếu chiếm được địa bàn chiến lược này thì chẳng những đe dọa miền Bắc, uy hiếp cách mạng Lào, mà còn bịt được tuyến vận tải chiến lược vào chiến trường miền Nam. Mặt khác, thông qua cuộc hành quân "Lam Sơn 719", giới cầm quyền Mỹ muốn kiểm nghiệm khả năng của quân đội Sài Gòn, qua đó kiểm nghiệm kết quả của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" sau hơn hai năm thực hiện. Đểđạtđược mục tiêu mang nhiều tham vọng chủ quan đó, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ và Sài Gồn đã huy động lực lượng lớn, gồm 42.000 quân (33.000 quân Sài Gòn, 5.000 quân Mỹ), có nhiều máy bay, xe tăng, thiết giáp và pháo binh yểm trợ
1 (Lực lượng của địch trên địa bàn chiến dịch lúc cao nhất có 55.000 quân, gồm 15 trung đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn 587 xe tăng, xe bọc thép, 318 pháo, 700 máy bay các loại. Ngoài ra còn có 2 Binh đoàn ngụy Lào). Mục tiêu đầu tiên của địch trong cuộc hành quân này là nhanh chóng chiếm Sê Pôn, chiếm giữ Đường 9 doạn Bản Đông - Sẽ Pôn, lập phòng tuyến ngăn chặn, cắt đôi Đông Dương, lùng sục đánh phá kho tàng, đường sá xung quanh Sê Pôn; tiếp đó chuyển xuống đánh phá kho tàng khu vực Sa Đi - Mường Noòng đến A Túc, A Sầu, A Lưới.
Trước hành động liều lĩnh của địch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào tiêu diệt một bộ phận lớn quân địch, tạo điều kiện đánh bại một bước quan trọng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Do tầm quan trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị cử Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tại mặt trận. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh mặt trận được thành lập do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn,Tổng Tham mưu phó làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Binh đoàn 70, Sư đoàn 2, Sư đoàn 324, 3 tiểu đoàn xe tăng, xe thiết giáp, 4 trung đoàn pháo binh, 4 trung đoàn pháo phòng không, 3 trung đoàn công binh, một số tiểu đoàn đặc công và lực lượng chiến đấu tại chỗ của Mặt trận B5, B4, Đoàn 559 và các đơn vị bộ đội tình nguyện ở Hạ Lào; tổng quân số khoảng 6 vạn quân. Với lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu đó, lại có những cán bộ dày dạn kinh nghiệm chỉ huy tác chiến tập trung, khi địch bắt đầu triển khai đội hình hành quân thì quân ta đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa; do đó, thế trận tốt thuộc về ta. Theo binh pháp Tôn Tử mà Chủ tịch Hồ Chí Minh biên dịch thì: "Được thế tốt... lúc đánh, thì thế như lăn đá trên xuống dốc núi cao mấy nghìn thước"
1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 tr. 523).