Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:46:02 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »
 11 
 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2024, 09:19:27 pm 
Tác giả quansuvn - Bài mới nhất gửi bởi quansuvn
BAN AN NINH THỊ XÃ CÀ MAU


Ban an ninh thị xã Cà Mau được thành lập từ năm 1961. Trong kháng chiến chống Mỹ, đơn vị đã đánh 300 trận, diệt trên 300 tên, lảm bị thương hàng trăm tên địch, bắt 17 tên tề điệp ác ôn, giáo dục 80 lính ngụy mang vũ khí về với cách mạng, phá rã 2 đồn, 1 trạm cảnh sát thu nhiều vũ khí và tài liệu quan trọng. Đơn vịđã phối hợp với các ban ngành đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng hầm hào công sự chiến đấu, bảo vệ căn cứ cách mạng an toàn.


Đơn vị đã được tặng thưởng 192 bằng khen cho tập thể và cá nhân.


Ngày 28 tháng 8 năm 1981, Ban an ninh thị xã Cà Mau được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 12 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 09:15:40 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
Hiện thực hóa những toan tính trên, ngày 30 tháng 1 năm 1971, Mỹ và quân đội Sài Gòn bắt đầu mở cuộc hành quân "Lam Sơn 719". Chúng huy động 42.000 quân, trong đó có 33.000 quân chủ lực Sài Gòn (gồm quân dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân...), 9.000 quân Mỹ, cùng một khối lượng lớn binh khí kỹ thuật: 464 xe tăng, xe thiết giáp; 250 khẩu pháo; hàng ngàn máy bay các loại trong đó có hơn 500 trực thăng và trực thăng vũ trang. Thủ đoạn của địch trong cuộc hành quân là thực hiện đánh nhanh tiến nhanh theo chính diện bằng nhiều cánh quân từ hướng Đông theo trục Đường 9 là chủ yếu, phối hợp với quân đội chính phủ phái hữu Lào, tiến công từ phía sau(hướng Tây) vào khu vực mục tiêu. Cơ động lực lượng tiến công bằng máy bay trực thăng chở quân kết hợp với hành quân bộ, trong đó cơ động bằng máy bay là chính. Với sức mạnh quân sự áp đảo như vậy, chúng tin rằng, nhất định kế hoạch của chúng sẽ thành công trước khi quân chủ lực miền Bắc cơ động vào tham chiến (chúng cho rằng đối tượng tác chiến chủ yếu ở đây chỉ là lực lượng bảo vệ hành lang, kho tàng của Đoàn 559, chỉ có khả năng hoạt động phân tán, còn bộ đội chủ lực của ta không thể cơ động đến kịp trước khi chúng đạt được mục đích cuộc hành quân).


Nhưng Mỹ và chính quyền Sài Gòn đâu biết rằng, ngay từ khi cuộc tiến công xâm lược Campuchia giữa năm 1970 của chúng bị đánh bại, ta đã sớm xác định, sớm muộn gì chúng cũng sẽ tiếp tục những hành động phiêu lưu quân sự mới, trong đó hướng tiến công ra hành lang vận chuyển chiến lược của ta ở Trung, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia vào mùa khô 1970-1971 đã được ta dự kiến.


Từ mùa Hè năm 1970, Bộ Tổng Tham mưu đã xúc tiến chuẩn bị kế hoạch tác chiến, chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chủ động ứng phó với âm mưu mới của địch. Tháng 10 năm 1970, Binh đoàn 70, một đơn vị tương đương quân đoàn được thành lập. Mặt trận B5, Quân khu Trị - Thiên, Đoàn 559 được lệnh điều chỉnh đội hình bố trí lực lượng, bày thế trận sẵn sàng phá tan âm mưu của địchđể bảo vệ tuyến vận tải huyết mạch và các cơ sở hậu cần chiến lược Trường Sơn.


Khi địch bắt đầu mở cuộc hành quân đánh ra Đường 9 - Nam Lào, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định tập trung lực lượng mở chiến dịch phản công tiêu diệt quân địch ở khu vực Đường 9 - Nam Lào, nhằm đập tan bước phiên lưu quân sự mới của địch.


Ngày 6 tháng 2 năm 1971, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Nam Lào với mật danh Bộ Tư lệnh 702, do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Tổng Tham mưu phó làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy, kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận; Đại tá Cao Văn Khánh làm Tư lệnh phó; Đại tá Phạm Hồng Sơn làm Tư lệnh phó, Tham mưu trưởng; Đại tá Hoàng Phương làm Phó Chính ủy.


Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân ủy Trung ương nhất thiết phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người, sức của như thế nào, vì đây là trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược. Thắng trận này, ta sẽ tiêu diệt được một bộ phận lớn sinh lực tinh nhuệ của quân ngụy Sài Gòn và phá hủy một mảng phương tiện chiến tranh của chúng, làm thất bại cố gắng cao nhất của địch trong quá trình thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh", tạo nên những chuyển biến căn bản có tính chất chiến lược cho phong trào cách mạng ba nước Đông Dương.


Ngày 9 tháng 2 năm 1971, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị, trong đó nêu rõ nhiệm vụ cho Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch là: Tập trung lực lượng tiêu diệt và làm tan rã thật nhiều lực lượng chủ lực cơ động của "Quân lực Việt Nam cộng hòa", phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quân Mỹ. Bảo vệ bằng được con đường vận tải chiến lược. Phối hợp với các chiến trường, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chỉ thị nhấn mạnh: đây là một trong những trận có ý nghĩa quyết định vềchiến lược nên nhất định phải đánh thắng: "Thắng lợi của chiến dịch không những đảm bảo cho sự chi viện của hậu phương đối với tiền tuyến mà còn tiêu diệt một lực lượng dự bị chiến lược quan trọng của quân ngụy trên chiến trường miền Nam và một bộ phận quan trọng của quân Mỹ, đánh một đòn rất mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ - ngụy"1 (Chỉ thị 009/QUTW do Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp ký ngày 9 tháng 2 năm 1971, hồ sơ 594 - Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng).


Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đặt ra, Quân ủy Trung ương kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên tham gia chiến dịch: "Tập trung cao nhất tinh thần và sức lực dũng mãnh tiến công, liên tục tiến công tiêu diệt thật nhiều lực lượng tinh nhuệ của địch, quyết bảo vệ con đường Hồ Chí Minh. Xốc tới giành thắng lợi cao nhất trong chiến dịch quan trọng này"2 (Chỉ thị 009/QUTW do Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp ký ngày 9 tháng 2 năm 1971, hồ sơ 594 - Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng).


Sau hơn 50 ngày quyết liệt tiến công (31.1 - 23.3.1971), Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào của quân dân ta kết thúc thắng lợi. Cùng với chiến công đánh bại hai cuộc hành quân "Toàn thắng 1-71" và "Quang Trung 4" của địch ở mặt trận Đông Bắc Campuchia và ngã ba biên giới, quân dân ta trên chiến trường miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, trực tiếp là của Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch trên từng địa bàn đã giáng cho quân đội Sài Gòn - xương sống của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" những đòn chí mạng, một bộ phận quan trọng của lực lượng này đã bị tiêu diệt. Âm mưu tiến công - phản kích đánh ra vòng ngoài bằng các cuộc hành quân lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn buộc phải chấm dứt. Mọi toan tính của chúng trong kế hoạch đánh vào hai đầu của tuyến vận tải chiến lược của chúng ta trong năm 1971 hoàn toàn bị đập tan.


Những thắng lợi trên đã mở ra một triển vọng tốt đẹp để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn vào tháng 4 năm 1975.

 13 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 09:14:33 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
ĐỊA BÀN ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO NHỮNG TÍNH TOÁN CỦA TA VÀ ĐỊCH TRONG NĂM 1971

Thượng tá, ThS HOÀNG THỊ THẢO
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử quân sự Dân tộc -
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Sau những thất bại liên tiếp trên chiến trường ba nước Đông Dương, đầu năm 1971, đế quốc Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa bắt đầu thực hiện kế hoạch chiến lược đánh ra vòng ngoài (chiến trường Lào và Campuchia) bằng các cuộc tiến công quy mô lớn. Mỹ sử dụng quân đội Sài Gòn làm nòng cốt, phối hợp chặt chẽ với chính quyền, quân đội phái hữu Lào, quân Lon Non Campuchia, với sự chi viện của không quân Mỹ nhằm triệt phá hành lang vận chuyển và hậu phương chiến lược trực tiếp của ta. Chúng huy động 88/214 tiểu đoàn, 15 thiết đoàn mở 3 cuộc hành quân: "Lam Sơn 719", đánh ra Đường 9 - Nam Lào; "Toàn thắng 1-71", đánh sang hai tỉnh Côngpông Chàm, Kra Chiê (Đông Bắc Campuchia) và "Quang Trung 4", đánh ra vùng ngã ba biên giới. Trong đó, cuộc hành quân "Lam Sơn 719" được xác định là hướng tiến công chủ yếu, có quy mô lớn nhất. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao Mỹ và chính quyền Sài Gòn lại chọn địa bàn Đường 9 - Nam Lào là hướng tiến công chủ yếu trong năm 1971?. Chúng mưu tính những gì khi thực hiện cuộc tiến công này? Chủ trương và kế hoạch của ta trước âm mưu mới của kẻ thù?


Đường 9 - Nam Lào là địa bàn rừng núi thưa dân, thuộc hai tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và tỉnh Xa Van Na Khẹt (Lào). Địa hình vùng đất này rất đa dạng: có đồng bằng ven biển, có đồi núi trung du xen kẽ làng mạc, có núi cao rừng rậm từ Cửa Việt tới Lao Bảo (dài 80km), riêng khu vực Bản Đông, Sê Pôn khá trống trải, núi không cao; có Đường 9 - con đường nối liền hai nước Việt - Lào, được mở từ những năm đầu thế kỷ XX, do công sức của hàng vạn người dân hai nước, chạy từ Đông Hà, tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) đến Bản Đông - Sê Pôn, tỉnh Xa Van Na Khẹt (Lào). Đây là tuyến đường chiến lược nối biển Đông (Việt Nam) với Xa Van Na Khẹt (Lào) và chia Đông Dương thành hai miền Nam - Bắc. Ở hai phía bắc - nam trục Đường 9 kéo dài từ Bản Đông đến Sê Pôn, hầu hết là những dãy núi kế tiếp nhau, cao từ 500 đến 800m, có những chỗ thoải dần xuống trục Đường 9, tạo thành những ngả giao thông chạy song song với dòng sông Sê Pôn sâu rộng, đồng thời các điểm cao này cũng tạo ra những bức bình phong án ngữ bảo vệ trục giao thông chiến lược số 9. Ngoài ra, trên địa bàn này còn có đường 16 chạy qua làng Ho xuống Bản Đông, nối với đường 22 đi Mường Noòng; đường 18 qua Thà Khống xuống Mường Noòng là những đường hành lang vận tải chiến lược ở khu vực này.


Địa bàn Đường 9 - Nam Lào có vị trí trọng yếu đối với cả ta và địch.

Đối với ta, đây là khu vực kề cận với hậu phương miền Bắc, là "cuống họng" của tuyến vận tải quân sự Trường Sơn -Đường Hồ Chí Minh chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho chiến trường miền Nam và Đông Dương. Đây cũng là nơi đặt cơ sở hậu cần chiến lược, tập trung hệ thống kho, trạm cất giữ vật chất đảm bảo cho các chiến trường.


Đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn, việc đánh chiếm toàn tuyến Đường 9 - Nam Lào, triệt phá tận gốc hành lang vận chuyển và phá hủy toàn bộ hệ thống kho, trạm hậu cần chiến lược đảm bảo kháng chiến của ta là một trong những mục tiêu chính yếu của chúng trong mưu đồ mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương. Các giới chức quân sự Mỹ khẳng định rằng: muốn thực hiện mục tiêu "bóp nghẹt" cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam phải bịt từ đầu con đường hành lang chiến lược Trường Sơn cắt đứt huyết mạch chính của việc đảm bảo hậu cần của ta.


Trước năm 1971, Mỹ và quân đội Sài Gòn từng sử dụng nhiều biện pháp để hủy diệt con đường vận chuyển chiến lược của ta; đó là, thường xuyên tung biệt kích, tập trung máy bay đánh phá với quy mô, cường độ hủy diệt... nhưng chẳng những không ngăn chặn được nguồn chi viện nhân tài vật lực ngày mỗi tăng của ta, mà theo thời gian, cứ mỗi ngày lại có thêm những cung trạm mới được mở ra - một "trận đồ bát quái xuyên rừng rậm" được hình thành. Nay trong tính toán mới, chúng muốn tập trung lực lượng quân đội mạnh để trực tiếp "bịt" chặt con đường này, mà khu vực Đường 9 - Nam Lào là điểm then chốt.


Kế hoach mở một cuộc hành quân để cắt đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào đã được một số quan chức cao cấp của Mỹ dày công nghiên cứu từ đầu năm 1970. Trong hồiký của mình, Kítxinhgơ viết: "Tôi cho phép nghiên cứu một cuộc hành quân ưu tiên để cắt đường mòn Hồ Chí Minh, để đánh kẻ thù trên đất Lào"1 (Hồi ký của Kítxinhgơ: Tài liệu đánh máy của Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, ký hiệu VL5241/79, tr. 6). Đây cũng là ý đồ của Bâncơ, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn và của Abram, Tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam.


Tháng 11 năm 1970, đề nghị đánh sang Đường 9 - Nam Lào của Bâncơ và Abram được Tổng thống Mỹ Níchxơn phê chuẩn. Ngày 2 tháng 2 năm 1971, Tổng thống Níchxơn họp cùng Cố vấn Kitxinhgơ, Ngoại trưởng Râugiơ, Bộ trưởng Quốc phòng Ledơ và Tham mưu trưởng Liên quân Morơ thông qua kế hoạch mở ba cuộc hành quân, đánh vào tuyến hành lang vận chuyển chiến lược của ta trên các hướng: Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và ngã ba biên giới. Cuộc tiến công đánh vào khu vực Đường 9 - Nam Lào mang mật danh "Lam Sơn 719", là cuộc hành quân có mục đích, quy mô và ý đồ lớn nhất. Theo Kítxinhgơ: "Mục tiêu của cuộc hành quân không phải là giành lấy bất động sản hay đồ tiếp tế, mà là phá hủy và cắt đứt đến mức tối đa con đường mòn và phá hủy tất cả những kho tàng phát hiện được"2 (Hồi ký của Kítxinhgơ, tài liệu đã dẫn, tr. 227).


Chọn khu vực Đường 9 - Nam Lào mở cuộc tiến công lớn nhất trong mùa khô 1970-1971, phía Mỹ và tay sai tính toán rất kỹ trên mọi phương diện.

Trước hết, Đường 9 - Nam Lào là nơi tập trung nhiều kho tàng dự trữ chiến lược, được ví như "yết hầu và dạ dày" của đối phương; là "cuống họng" của đường Hồ Chí Minh, huyết mạch đặc biệt quan trọng để nuôi sống cuộcchiến tranh cách mạng miền Nam Việt Nam và cách mạng Lào, Campuchia. Trong tính toán của Mỹ, nếu cắt đứt hoặc phá hủy hoàn toàn được tuyến vận tải này, cùng cơ sở hậu cần chiến lược ở khu vực Đường 9 - Nam Lào, sẽ chặn đứng và triệt bỏ được nguồn tiếp tế từ gốc khiến lực lượng vũ trang, trước hết là bộ đội chủ lực ở miền Nam không thểtổ chức được các cuộc đánh lớn trong mùa khô 1971-1972. Tư lẹnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam, tướng Abram hy vọng: Nếu cộng sản không còn đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc con đường này chỉ cần bị gián đoạn trong một mùa khô thôi, khả năng mở các cuộc tiến công lớn của Hà Nội ở miền Nam (và Campuchia) sẽ giảm đi một cách đáng kể nếu không phải là bị loại trừ trong một tương lai vô hạn định. Khi tuyến vận tải và cở sở hậu cần chiến lược bị phá hủy thì sức chiến đấu của lực lượng cách mạng Đông Dương sẽ suy yếu, dần "tàn lụi" và chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" có thêm điều kiện thực hiện thành công.


Thứ hai, đây là nơi quân đội Sài Gòn được thực nghiệm trong một kế hoạch quân sự cao nhất của âm mưu "Việt Nam hóa chiến tranh", rèn luyện quân đội Sài Gòn trở thành lực lượng nòng cốt của chính sách "dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương", thành lực lượng mạnh có khả năng đương đầu với quân chủ lực miền Bắc và thay thế lực lượng quân Mỹ rút dần về nước.


Thứ ba, địa bàn khu vực chiến trường Đường 9 - Nam Lào có nhiều thuận lợi để phát huy sức mạnh vũ khí, kỹ thuật hiện đại và hiệp đồngtác chiến giữa quân đội Sài Gòn với quân Mỹ. Hơn nữa, từ Cửa Việt đến Lao Bảo đã có sẵn một bộ phận lớn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, có hệ thống căn cứ hỏa lực, căn cứ hậu cần, có sân bay và đườnggiao thông thủy bộ, hình thành một thế phòng ngự vững chắc. Chúng sẽ dựa vào hệ thống phòng ngự này đẽ làm hậu phương chiến dịch, xây dựng bàn đạp xuất phát tiến công sang Lào, ra Nam Quân khu 4 và Tây Trị - Thiên, hoặc đối phó với sự phát triển tiến công của ta khi chúng buộc phải rút lui.


Địch cũng trù tính thực thi kế hoạch này còn là nhằm để thử thách quyết tâm và khả năng quân sự của miền Bắc, hỗ trợ cho chiến tranh đặc biệt ở Lào và cuộc chiến tranh xâm lược Campuchia. Chúng cũng dự tính "toàn bộ cuộc tiến công sẽ mất từ 4 đến 5 ngày. Phần còn lại của mùa khô sẽ dùng để cắt con đường mòn và phá hủy khu hậu cần cho là nằm dọc theo con đường mòn và nhất là xung quanh Sê Pôn. Một chiến dịch thắng lợi sẽ tạo cho chúng ta ít nhất là hai năm để xây dựng lại cơ sở hậu cần, có thể còn lâu hơn"1 (Hồi ký của Kítxinhgơ, tài liệu đã dẫn, tr. 242).

 14 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 09:11:36 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
LỜI KÊU GỌI
CỦA TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN LÀO YÊU NƯỚC GỬI NHÂN DÂN CÁC BỘ TỘC LÀO VÀ NHÂN DÂN YÊU CHUỘNG HÒA BÌNH TRẼN THẾ GIỚI TRONG CHIẾN DỊCH PHẢN CÔNG ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO 1971

Trung tá SỈPIION KẸOSAMAY
Cục Khoa học - Lịch sử quân sự, Bộ Quốc phòng Lào


Đầu năm 1971, dưới sự điều khiển của Mỹ và được sự phối hợp từ phía lực lượng phái hữu Viêng Chăn, các lực lượng quân Mỹ, quân ngụy Sài Gòn và lực lượng lính đánh thuê Thái Lan với hàng chục nghìn tên được đưa vào trực tiếp tham gia cuộc hành quân "Lam Sơn 719" ở chiến trường Nam Lào.


Trước khi triển khai và chi viện trực tiếp cho cuộc hành quân quy mô lớn này, lực lượng không quân Mỹ, đã huy động hàng trăm máy bay chiến đấu các loại, trong đó có cả B-52, ném bom đánh phá mạnh vào khu vực các tỉnh Nam Lào. Chúng đã đánh phá toàn bộ các địa bàn quan trọng, giết hại dân thường vô tội rất tàn khốc dã man.


Hành động phiêu lưu của đế quốc Mỹ là nhằm thực hiện Học thuyết Níchxơn, mà thực chất là "dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương" và "dùng người châu Á đánh người châu Á", tìm mọi cách để tạo dựng cho được chính quyền thuộc địa kiểu mới tại các nước Đông Dương. Để thực hiện âm mưu đó, đế quốc Mỹ đã trực tiếp đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược ở Lào, miền Nam Việt Nam và sau đó mở rộng sang Campuchia. Quân Mỹ - ngụy Sài Gòn, kết hợp với quân đội tay sai khu vực Đông Nam Á được tăng cường đưa vào cùng tham chiến ở Lào, tiến hành các bước leo thang chiến tranh mới rất nguy hiểm, đe dọa trực tiếp tới độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh tho của Lào một cách trắng trợn, phá hoại Hiệp định Giơnevơ về Lào, đe dọa hòa bình và sự ổn định trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Hành động khiêu khích đó là sự thách thức nhân dân Lào nói riêng cũng như nhân dân Đông Dương, nhân dân tiến bộ Mỹ và thế giới nói chung.


Cuộc hành quân ra Đường 9 - Nam Lào của quân đội Sài Gòn kết hợp với quân phái hữu Viêng Chăn với sự yểm trợ của quân Mỹ đã phá hoại sự cố gắng không mệt mỏi của Mặt trận Lào yêu nước, và chúng cũng không cần biết đến nhân dân các bộ tộc Lào mong muốn sống trong hòa bình như thế nào? Mỹ, ngụy đưa quân vào tham chiến ở Nam Lào đã gây nên biết bao tội ác dã man, hậu quả lâu dài cho nhân dân Lào. Hành động khiêu khích đó tất sẽ không tránh khỏi thất bại thảm hại. Đất nước Lào không phải nơi mà chúng muốn gì là được, gây chiến tranh ở Hạ Lào càng làm cho nhân dân Lào tăng thêm lòng căm thù, lực lượng vũ trang ta sẵn sàng giáng trả chúng một cách kiên quyết.


Trải qua nhiều năm, nhân dân Lào đã kề vai sát cánh cùng với nhân dân Việt Nam anh dũng chiến đấu chốnglại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đã giành được những thắng lợi vẻ vang. Quân và dân Lào đã bẻ gãy các bước leo thang chiến tranh của Mỹ và tay sai. Mỗi một lần đối phó với Mỹ và tay sai càng cho chúng ta biết rõ hơn ý đồ đen tối của chúng. Cho đến nay (1971) tình hình ở Lào có diễn biến phức tạp, mặc dù chúng ta giành được thắng lợi trong thời gian qua, nhưng chúng ta cũng sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn gây chiến tranh xâm lược kiểu mới của chúng và sẵn đánh thắng địch bằng mọi sự thử thách, chúng ta đều nhận thức rằng, dù khó đến mấy, cuối cùng ta vẫn giành được thắng lợi.


Trên cơ sở đánh giá về tình hình Lào, Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào yêu nước đã ra Lời kêu gọi toàn thể đồng bào trong cả nước: "Hãy hun đúc tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, đoàn kết chặt chẽ, đánh bại mọi âm mưu nham hiểm của đế quốc Mỹ và tay sai. Phát huy tinh thần tự lực tự cường, đưa cuộc chiến tranh nhân dân lên tầm cao mới, đánh địch ở mọi lúc, mọi nơi, với các loại vũ khí sẵn có, vượt mọi khó khăn, vươn lên đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước chúng ta".


Để động viên tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng nhân dân Lào, Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào yêu nước đã kêu gọi: "Hãy tăng cường, củng cố khối đoàn kết trong các lực lượng yêu nước và phối hợp cùng với lực lượng trung lập yêu nước, tăng cường tấn công vào lực lượng quân Mỹ và bò lũ tay sai, giành thắng lợi lớn hơn và nhiều hơn nữa".


Đối với nhân dân trong vùng giải phóng, đặc biệt là nhân dân các tỉnh Trung - Hạ Lào, Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào yôu nước kêu gọi: "Hãy ra sức đấu tranh anh dũng bền bỉ, để bảo vệ lấy thành quả và căn cứ cách mạng đồng thời làm hậu thuẫn ủng hộ giúp đỡ hết lòng và phối hợp cùng với các lực lượng yêu nước, tiêu diệt sạch quân thù".


Đối với đồng bào đang trong vùng địch tạm chiếm hoặc thuộc quyền kiểm soát của Mỹ, ngụy Viêng Chăn, các tầng lớp xã hội khác, các nhân sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên, công nhân, nông dân, toàn thể những người yêu nước, lời kêu gọi nêu rõ: Nguy cơ rất lớn đang tiến dần vào đất nước chúng ta, hãy kiên quyết phản đối chống lại hành động phiêu lưu quân sự mới của Mỹ và tay sai, hãy cùng hợp tác với Mặt trận Lào yêu nước và toàn thể đồng bào ta, kiên quyết làm thất bại âm mưu đen tối của đế quốc Mỹ và tay sai.


Đối với những lực lượng yêu chuộng hòa bình ở khu vực Đông Nam Á và trên phạm vi toàn thế giới, Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào yêu nước cũng đã đưa ra một thông điệp: "Gửi tới những nước đã cùng ký Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào; gửi tới những chính phủ yêu chuộng hòa bình và nhân dân toàn thế giới và gửi tới các tổ chức quốc tế vì hòa bình, tự do, dân chủ, hãy ủng hộ, lên án, phản đối Mỹ, quân ngụy Sài Gòn tiến công xâm lược các tỉnh Lào, buộc Mỹ và tay sai chấm dứt mở rộng chiến tranh ở Lào, buộc chúng nhanh chóng rút toàn bộ lực lượng quân đội Mỹ ra khỏi nước Lào. Đó là nguyện vọng chính đáng trong cuộc đấu tranh của nhân dân Lào chống lại sự can thiệp, xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai".


Thông điệp còn nêu rõ: Gửi tới nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ và những người Mỹ đã có truyền thống đấu tranh vì tự do dân chủ và sự công bằng xã hội hãy phản đối chiến tranh, chống lại chính sách mới của chínhquyền Níchxơn, tìm mọi cách để tạo được dư luận ủng hộ rộng rãi của người Mỹ, chống việc đưa quân vào trực tiếp tham chiến trong các chiến dịch ở Nam Lào; đồng thời, cũng để họ bắt buộc chính phủ Mỹ phải ngừng ngay lập tức cuộc chiến tranh trên đất nước Lào.


"Lào là một đất nước độc lập, dân chủ, có chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của mình, không thể tách rời nhau. Sau khi tiến hành chiến tranh xâm lược Lào trong nhiều năm, đế quốc Mỹ đã gặp sự phản kháng chống lạiquyết liệt của nhân dân các bộ tộc Lào, làm cho chúng rơi vào thế bị động từ thất bại này đến thất bại khác và chúng cũng bị lên án tội ác do hành động dã man của chúng từ nhân dân yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Cho đến nay, Níchxơn... càng đưa quân vào tham chiến ở Hạ Lào, chắc chắn chúng sẽ bị thất bại thảm hại nhiều hơn nữa. Nhân dân ta luôn luôn yêu chuộng hòa bình và công lý, nhưng hòa bình phải kèm theo độc lập và tự do dân chủ, chúng ta sẽ không hối tiếc sự hy sinh thân phận vì sự bảo vệ nền độc lập tự do ấy.


Chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ - tên sen đầm quốc tế, không phải chỉ đấu tranh giành độc lập, tự do, hòa bình cho nhân dân ta, mà còn đấu tranh vì hòa bình cho nhân dân trên toàn thế giới. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đấu tranh chính nghĩa, chúng ta có được sức mạnh chính là sự thống nhất cao về chính trị tinh thần của nhân dân các bộ tộc Lào và tình đoàn kết liên minh chiến đấu của hơn 50 triệu nhân dân Đông Dương. Vì vậy, chúng ta có đủ sức mạnh để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Tình đoàn kết của nhân dân Đông Dương ngày càng bền chặt, vững mạnh kể từ khi chúng ta tổ chức Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước Đông Dương, chúng ta rất tự hào, được sự giúp đỡ tận tâm, tận lực của nhân dân các nước Đông Dương. Chúng ta rất hài lòng với sự ủng hộ giúp dõ tận tình của các nước Xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, chúng ta có sức mạnh tổng hợp, thà hy sinh tất cả, kiên quyết, bền bỉ, đánh thắng địch, chúng ta nguyện sẽ kề vai sát cánh cùng với nhân dân Việt Nam và Campuchia, làm cho đế quốc Mỹ và tay sai bị thất bại hoàn toàn, nhân dân Lào có hòa bình, độc lập, có quyền tự do dân chủ, thống nhất và thịnh vượng. Góp phần vào xây dựng khu vực Đông Dương hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ".


Có thể nói, Lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào yêu nước đã có sức động viên, cổ vũ to lớnđối với quân và dân Lào; đồng thời làm cho nhân dân tiến bộ, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới hiểu rõ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Lào, ủng hộ nhân dân Lào, góp phần tạo nên sức mạnh đánh bại cuộc hành quân "Lam Sơn 719" của đế quốc Mỹ.

 15 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 09:09:02 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
3.Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào và cuộc vận động ngoại giao tranh thủ dư luận thế giới.

Khi đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao phục vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho ngành đối ngoại: "Ngoại giao của ta là cốt tranh thủ nhiều người ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước"2 (Xuân Thủy, "Một số vấn đề về Hiệp định Pari", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-2008, tr. 7). Và từ khi cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đang có bước leo thang mới, Trung ương Đảng đã chủ trương: "Tranh thủ rộng rãi hơn nữa sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đốivới cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta và qua đó góp phần phát triển hành động chung của nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ xâm lược và ủng hộ Việt Nam"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 30, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 202). Trên tinh thần đó, nhằm tranh thủ tối đa dư luận quốc tế, cô lập Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bên cạnh cuộc đấu tranh trực tiếp với Mỹ trên bàn đàm phán, chúng ta còn tiến hành những hoạt động đối ngoại phong phú bên ngoài hội nghị, đặt trọng tâm vào việc tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ, âm mưu của Mỹ - Thiệu kéo dài chiến tranh, cũng như chỉ rõ những thất bại của Mỹ trên chiến trường Đông Dương mà đối phương luôn luôn muốn che giấu.


Khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện cuộc hành quân "Lam Sơn 719", với quyết tâm chiến lược "kiên quyết đập tan bước phiêu lưu quân sự mới của đế quốc Mỹ và tay sai, giành toàn thắng cho Chiến dịch X (Đường 9 - Nam Lào)"1 (Chỉ thị 009/QUTW, do Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp ký ngày 9 tháng 2 năm 1971, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, hồ sơ 594), với sự tin tưởng ở thắng lợi tất yếu, nhìn thấy trước sự thảm bại không tránh khỏi của quân đội Sài Gòn, chỉ vài ngày sau khi Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào bắt đầu, ngày 9 tháng 2 năm 1971, Bộ Chính trị chỉ thị: "Cần gây nên một phong trào mạnh mẽ chống hành động phiêu lưu quân sự của Mỹ và Thiệu - Kỳ đưa quân đi đánh ở Lào, ở Campuchia kết hợp các khẩu hiệu đòi hoà bình dân chủ và dân sinh, đòi Mỹ rút quân"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Sđd, tr. 248). Quán triệt quan điểm đó, chúng ta sẵn sàng cho một cuộc vận động quy mô lớn vạch rõ âm mưu kéo dài chiến tranh của Mỹ, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của dư luận quốc tế, đặc biệt là nhân dân Mỹ - những người đã chán ngấy cuộc chiến tranh bẩn thỉu đang được tiến hành một cách vô vọng ở miền Nam Việt Nam; những người đã quá mệt mỏi trước những mất mát, hy sinh không đáng có của con em họ tại vùng đất xa xôi, hứa hẹn một tương lai mịt mù này. Điều vô cùng thuận lợi là dù bộ máy tuyên truyền của Sài Gòn đưa tin rùm beng về thắng lợi của "Quân lực Việt Nam cộng hòa" trong cuộc hành quân "Lam Sơn 719", nhưng các ký giả mặt trận Anh, Mỹ theo sát các cuộc hành quân của quân đội Sài Gòn đã truyền tải đầy đủ sự thật về thất bại của quân đội Việt Nam cộng hòa - một cuộc "tháo chạy trong hoảng loạn". Vô số những dòng tin như: "Quân lính Nam Việt Nam khiếp sợ, phải đánh lẫn nhau giành chỗ khi máy bay đáp xuống để nhặt bọn bị thương"1 (Tin Mỹ và thế giới, ngày 5 tháng 4 năm 1971); hay: "Số quân tinh nhuệ Sài Gòn quá tuyệt vọng không còn cách nào khác là liều mạng bám vào càng máy bay lên thẳng để rời khỏi trận địa. Nhiều nhân viên phi hành Mỹ phải lấy dây cột chặt người vào ghế để khỏi bị đẩy ra khỏi máy bay. Một số phi công khác phải mang theo dùi cui để hễ tên lính Sài Gòn nào trèo lên máy bay thì quật liền..."2 (Roi tơ, ngày 28 tháng 3 năm 1973); hoặc: "Thiệt hại thật khủng khiếp. Phía Mỹ và Nam Việt Nam ước tính thương vong gần 50% tổng số lực lượng tham gia cuộc hành quân"3 (Thời báo (Mỹ), ngày 5 tháng 4 năm 1971)... đã thực sự bóc trần những thất bại mà chính quyền Mỹ đang cố công che giấu, làm bùng lên một làn sóng phẫn nộ trong lòng nước Mỹ về những hứa hẹn thắng lợi của "Việt Nam hóa chiến tranh" mà Tổng thống Níchxơn vẫn luôn tô vẽ để trấn an người Mỹ. Tác giả Giô-dép A. Am-tơ trong cuốn Lời phán quyết về Việt Nam cũng cung cấp thêm thông tin: "Cuộc xâm chiếm là một thất bại và cuộc rút lui của quân đội Việt Nam cộng hòa là một cuộc tháo chạy... Điều nhục nhã này đã được hàng triệungười Mỹ xem trên màn ảnh truyền hình. Dù với sự yểm trợ ào ạt của không quân và sự chỉ huy của Lầu Năm Góc, đội quân đó đã thất bại thảm hại"1 (Giô-dép A. Am-tơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 323-324). Chính Tổng thống Níchxơn cũng phải thừa nhận rằng, tin tức báo chí, truyền hình về cuộc rút lui đã làm tinh thần ở miền Nam Việt Nam rệu rã, còn ở Mỹ dấy lên những nghi ngờ về khả năng leo thang và những tin tức đó "đã làm giảm lòng tin vào thắng lợi của Việt Nam hóa và triển vọng chấm dứt chiến tranh"2 (Giô-dép A. Am tơ, Lời phán quyết về Việt Nam, Sđd, tr. 325), khiến "lương tâm người Mỹ nổi giận".


Nhân cơ hội này, hai Đoàn Ngoại giao Việt Nam (CPCMLTCHMNVN và VNDCCH) đã họp báo, vạch rõ thực chất của cái gọi là "Việt Nam hóa chiến tranh" và bày tỏ lòng công phẫn trước số phận của binh lính Sài Gòn bị ném vào chỗ chết để Tổng thống Níchxơn thổ nghiệm chiến lược của ông ta. Nhằm vận động dư luận ủng hộ lập trường của chúng ta, các Đoàn Ngoại giao Việt Nam đã đi thăm các nước châu Âu: Anh, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Italia... gặp gỡ các tổ chức, các nghị sĩ và nhân sĩ chống chiến tranh, tiếp xúc với báo giới, trả lời phỏng vấn, nói chuyện với sinh viên, gặp gỡ kiều bào... tuyên truyền về thắng lợi quân sự trên chiến trường của chúng ta, về cuộc hành quân "Lam Sơn 719" đã "chuyển thành một thất bại khổng lồ cho ý đồ của chính quyền Mỹ và cho các kế hoạch họ đã vạch ra cho Việt Nam cộng hòa"3 (Gabriel Kolko, Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Sdd, tr. 430), cũng như về sự phá sản hoàn toàn không gì cứu vãn được của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Những hoạt động này đãlàm bùng nổ một làn sóng chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam rộng khắp, dấy lên phong trào lên án giới cầm quyền Mỹ, thúc đẩy nhân dân Mỹ chống chiến tranh, làm rung động Nhà Trắng.


Như thế, bên cạnh đàm phán Hội nghị Pari đang dần đi đến thực chất dưới sự tác động của diễn biến chiến trường, để tranh thủ dư luận thế giới, tập hợp bạn bè quốc tế, bên ngoài bàn đàm phán, hai Đoàn Ngoại giao Việt Nam phối hợp chặt chẽ hoạt động, tích cực tác động vào nội bộ nước Mỹ, phối hợp với phong trào của nhân dân Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút nhanh, rút hết quân Mỹ khỏi Đông Dương. Và điều đó, ở một mức độ đáng kể, còn tác động vào nội tình miền Nam Việt Nam, góp phần phân hóa và cô lập thêm chính quyền Thiệu - Kỳ - Khiêm.


Thắng lợi của Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào đã "đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của ngụy quân trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", đánh dấu bước thất bại nghiêm trọng của chiến lược này"1 (Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 32). Cuộc hành quân "Lam Sơn 719" chứa đầy những kỳ vọng của chính quyền Mỹ đã đi vào lịch sử những cuộc chiến tranh mà người Mỹ theo đuổi ở bên ngoài biên giới nước Mỹ như một dấu ấn đen tối, một "cuộc dạo chơi xuống địa ngục"2 (Gloria Emerson, To hell and back... The Straits Times, ngày 30 tháng 3 năm 1971). Thất bại này là hậu quả một chuỗi sai lầm mà chính quyền Mỹ mắc phải trong khi can dự và dấn sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, bắt đầu từ chính việc họ quyết định thách thức ý chí độc lập, tự do của dân tộc ta. Trong thế thua của địch, thế thắng của ta, nhận thức rằng, "quân sự là việc chủ chốt trong kháng chiến"1 (Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 204), chúng ta đã nắm vững mối quan hệ giữa quân sự và ngoại giao, nâng ngoại giao thành một mặt trận có ý nghĩa chiến lược phối hợp chặt chẽ với mặt trận quân sự, tạo cục diện đan xen giữa đánh và đàm với một hiệu quả mới, tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang đi dần đến hồi kết thúc. Hiện nay, trên con đường hội nhập, phát triển nhanh và bền vững của đất nước, khi xu thế quốc tế hoá đời sống của các quốc gia dân tộc trên hành tinh đang trở thành xu thế nổi trội; khi thời cơ và thách thức vẫn đan xen, tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải, biển đảo vẫn tồn tại và thậm chí rất gay gắt..., thì việc xây dựng chiến lược ngoại giao đúng đắn song song với việc củng cố nền quốc phòng toàn dân, nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đất nước vẫn đang là một đòi hỏi nóng bỏng. Thực hiện yêu cầu và trách nhiệm đó, các kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước về quan hệ thực lực và ngoại giao không những chưa bao giờ mòn cũ, chưa bao giờ mất đi ý nghĩa, mà còn ngày càng sáng lên giá trị đích thực của nó.

 16 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 09:06:33 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
Thực hiện chủ trương trên, để dồn địch vào thế khó khăn hơn, vừa có thể chủ động tạo và đón thời cơ kéo Mỹ đi vào quỹ đạo đàm phán một cách thực chất6 (Cho đến giữa năm 1971, đàm phán tại Hội nghị Pari đi vào vòng luẩn quấn, bế tắc, không mang lại kết quả nào đáng kể, vì phía Mỹ vẫn muốn đàm phán trên thế mạnh. Mỹ cố tình hạ thấp Hội nghị, hy vọng xoay chuyển cục diện chiến trường để đạt kết quả đàm phán có lợi nhất cho Mỹ), chúng ta mở đợt tấn công ngoại giao mới. Ngày 26 tháng 6 năm 1971, Cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy gặp riêng Kítxinhgơ. Bộ trưởng Xuân Thủy đưa ra Sáng kiến hòa bình 9 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa1 (Trong tiến trình đàm phán, âm mưu của chính quyền Níchxơn là tách vấn đề quân sự và chính trị; chỉ giải quyết vấn đề quân sự nhằm thực hiện rút quân ngừng bắn toàn bộ với cả Mỹ và ngụy để duy trì và củng cố ngụy. Quan điểm của Việt Nam là phải giải quyết toàn bộ và chỉ ngừng bắn sau khi giải quyết cả vấn đề quân sự và chính trị, do đó phải giải quyết hai vấn đề quan trọng là: Mỹ phải định thời hạn rút quân khỏi miền Nam và Mỹ phải chấm dứt việc ủng hộ nhóm cầm quyền hiếu chiến do Thiệu cầm đầu); tuy nhiên, phía Mỹ vẫn làm ngơ trước những đề nghị thiện chí và thấu tình, đạt lý của chúng ta. Trước tình hình đó, ngày 10 tháng 7 năm 1971, Bí thư thứ nhât Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn đã điện cho Bộ trưởng Xuân Thủy và cố vấn Lê Đức Thọ, nhấn mạnh "vấn đề quan trọng hiện nay là làm thế nào ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp với nhau để có thể nắm vững thời cơ và giành được thắng lợi lớn nhất"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Sđd, tr. 408). Cùng ngày, đồng chí Lê Duẩn điện riêng cho Bộ trưởng Ngoại giao CPCMLTCHMNVN và VNDCCH chỉ rõ hai yêu cầu trước mắt trong cuộc đấu tranh ngoại giao giữa ta va địch: 1. Gây một sức ép mạnh trong nước Mỹ, ngay cả trong Thượng và Hạ nghị viện Mỹ để buộc Níchxơn phải đi đến có chủ trương dứt khoát rút quân ra khỏi miền Nam và phải tuyên bố thời hạn rút quân; 2. Ta phải kéo chính quyền bù nhìn Sài Gòn xuống một bước, buộc Mỹ phải đưa ra một chính quyền có thể nói chuyện với ta3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Sđd, tr. 109-410).


Phát huy thắng lợi của Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào và những thắng lợi quân sự trong nửa cuối năm 1971, từ tháng 7 cho đến tháng 12 năm 1971, chúng ta liên tục mở các đợt tấn công ngoại giao quyết liệt hơn, nhằm đưa cuộc đàm phán đi vào thực chất, phản ánh đúng những diễn biến quân sự trên chiến trường có lợi cho chúng ta; đồng thời, kiên quyết làm thất bại âm mưu của Mỹ coi nhẹ, hạ thấp vai trò của đàm phán Pari. Chúng ta liên tục đưa ra những sáng kiến mới, tập trung vào các vấn đề như rút quân, thả tù binh, chấm dứt ủng hộ Thiệu - Kỳ - Khiêm, bồi thường chiến tranh, thực hiện ngừng bắn sau khi ký kết hiệp định, thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình... Có một điểm mới là những vấn đề nêu trên được thu hẹp trong phạm vi miền Nam, nhằm tạo ra những bước đột phá mới trong đàm phán và điều đáng nói là mỗi sáng kiến đưa ra đều kèm theo các giải pháp thực hiện1 (Đáng lưu ý là Sáng kiến 7 điểm, trong đó, sáng kiến thứ nhất gợi ý rõ một thời hạn rút quân là trong năm 1971, gắn việc rút an toàn quân đội Mỹ và thả tù binh hai bên bắt đầu cùng ngày và kết thúc cùng ngày. Sáng kiến thứ hai và ba tập trung yêu cầu lập chính phủ hòa hợp dân tộc rộng rãi ba thành phần. Sáng kiến thứ tư để nghị vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền Nam sẽ do các bên Việt Nam cùng nhau giải quyết trên tinh thần hòa hợp dân tộc. Sáng kiến thứ năm về việc miền Nam Việt Nam và Mỹ sẽ thiết lập quan hệ chính trị, kinh tế - xã hội). Trả lời các sáng kiến của chúng ta, mặc dù các đại biểu phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn chưa hoàn toàn có thái độ thiện chí, song, thái độ đã lộ rõ ý muốn sớm giải quyết vấn đề, tỏ ra có một số điểm mềm dẻo: Không nhắc đến vấn đề quân miền Bắc rút khỏi miền Nam, đồng ý ngừng bắn sau khi có hiệp định, giải quyết vấn đề tù binh đồng thời với việc rút quân Mỹ và hé lộ sẽ có viện trợ không hoàn lại đáng kể sau chiến tranh. Nhìn chung, trong năm bản lề 1971, chúng ta "chủ yếu xoáy vào hai điểm chính: Vấn đề rút quân Mỹ và vấn đề thay thế chế độ Thiệu"1 (Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger lại Pari, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 178). Như vậy, kết hợp chặt chẽ giữa đánh - đàm; nắm vững quan hệ giữa thắng lợi quân sự với thắng lợi trên ban đàm phán, mềm dẻo trong điều chỉnh các điều kiện, yêu cầu đàm phán, sau thắng lợi mang tính chiến lược của Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào năm 1971, các hoạt động ngoại giao của chính phủ Việt Nam đã thúc đẩy cuộc "Hòa đàm thế kỷ" hầu như không tiến triển, sau rất nhiều bế tắc có những diễn biến mới, bước vào giai đoạn đàm phán thực chất.

 17 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 09:05:18 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
2.Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào và cục diện của cuộc "Hòa đàm thế kỷ".

Lên làm Tổng thống Mỹ (đầu năm 1969) trong điều kiện quân viễn chinh Mỹ và quân một số nước đồng minh của Mỹ phải rút dần ra khỏi miền Nam Việt Nam, để tiếp tục theo đuổi và cứu vãn cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Níchxơn thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", lấy quân đội Sài Gòn làm nòng cốt dưới sự hỗ trợ của hỏa lực Mỹ, cố vấn Mỹ và hậu cần Mỹ. Đây đồng thời cũng được coi là "công thức chiến thắng mới" cho chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, trong các cuộc hành quân lớn, quân Mỹ vẫn tham gia trực tiếp, thậm chí đóng một vai trò quan trọng bên cạnh quân đội Sài Gòn. Trên lĩnh vực đối ngoại, chính quyền Mỹ thực hiện chính sách "tiến công hòa bình" với quy mô chưa từng có trong hoạt động ngoại giao của nước Mỹ sau Chiến tranh thế giỏi thứ hai. Mục đích của chính sách ngoại giao này là lôi kéo sự tham gia của các nước Tây Âu, Bắc Âu, châu Phi, châu Á, một số nước XHCN, các nước Không liên kết... làm trung gian trong vấn đề Việt Nam, bịt mắt dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, gây chia rẽ giữa các nước với Việt Nam. Với chiến lược đó, Mỹ liên tục giằng dai trên bàn Hội nghị Pari, gây nên những bế tắc về ngoại giao trong suốt những năm 1968-1970.


Đến đầu năm 1971, do phản ứng dữ dội từ dư luận trong nước và từ chính Quốc hội Mỹ1 (Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật bổ sung Cupơ Sớtsơ, hạn chế hoạt động của quân viễn chinh Mỹ tại chiến trường Đông Dương, cấm đưa lục quân Mỹ hoạt động ngoài biên giới miền Nam Việt Nam), trước khi rút quân Mỹ ra khỏi các cuộc hành quân ngoài biên giới miền Nam Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn quyết định mở ba cuộc hành quân lớn2 (Cuộc hành quân "Lam Sơn 719" đánh ra khu vực Đường số 9 - Nam Lào; cuộc hành quân "Toàn thắng 01/71 NB" với quy mô trên 30 tiểu đoàn từ Tây Ninh và Lộc Ninh đánh lên vùng Kôngpông Chàm và Kra Chiê (Đông Bắc Campuchia); cuộc hành quân hành quân "Quang Trung 4" quy mô khoảng 1 sư đoàn đánh ra vùng ngã ba biên giới thuộc A Tô Pơ, Nam Lào (vùng Tà Xẻng,Pa Kha, Sô Sụ)) ở bên kia biên giới Việt - Lào, Việt -  Campuchia. Cuộc hành quân "Lam Sơn 719" có quy mô lớn nhất và được Tổng thống Níchxơn đặt vào đó khá nhiều tham vọng: Thứ nhất, kiểm chứng khả năng tác chiến độc lập của quân đội Sài Gòn, qua đó kiểm nghiệm kết quả của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" sau hơn hai nămthực hiện; thứ hai, hủy diệt tuyến đường vận tải huyết mạch - đường mòn Hồ Chí Minh với hy vọng nếu "không còn đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc bị gián đoạn chỉ trong một mùa khô, khả năng mở các cuộc tiến công lớn của Hà Nội ở miền Nam (và Campuchia) sẽ giảm đi một cách đáng kể nếu không phải là bị loại trừ trong một tương lai vô hạn định"1 (Henry Kítxinhgơ, Những năm ở Nhà Trắng (1968-1973), Trung tâm Thông tin Khoa học quân sự - Bộ Quốc phòng, Sao lục, 1981, tr. 209); thứ ba, chuyển đến cử tri Mỹ thông điệp về tính khả quan của chiến tranh Việt Nam khi thời hạn bầu cử Tổng thống Mỹ (năm 1972) đang đến gần; thứ tư, làm suy yếu cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương, tạo nên thế mạnh trên chiến trường và thương lượng trên thế mạnh, ép ta nhân nhượng trên bàn đàm phán Hội nghị Pari, "buộc ta phải chấp nhận một giải pháp chính trị có lợi cho Mỹ"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 350). Như vậy, cuộc hành quân "Lam Sơn 719" đầu năm 1971 là toan tính lớn và đầy kỳ vọng của cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn, một nỗ lực cứu vớt sự thảm bại đã lộ rõ của "Việt Nam hóa chiến tranh". Thành, bại của cuộc hành quân "Lam Sơn 719" chắc chắn sẽ kéo theo rất nhiều hệ lụy.


Sớm nhận rõ âm mưu của địch, cuối năm 1970, Bộ Chính trị hạ quyết tâm: "Ta phải đánh cho quân Mỹ bị thua đau hơn nữa, đánh cho ngụy quân, ngụy quyến phải sụp đổ"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn lập, tập 32, Stld, tr. 118). Bộ Chính trị cũng xác định phương hướng tiến công của địch trong mùa khô 1970-1971 là hành lang chiến lược Trung, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, chỉ rõ trong trường hợp dịch đánh ra Đường 9, thì đó là thời cơ để thực hiện chiến dịch phản công, tiêu diệt địch, tạo ra sự thay đổi trong cán cân lựclượng trên chiến trường có lợi cho ta, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pari và bên ngoài hội nghị.


Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào bắt đầu và kết thúc trong vòng hơn 50 ngày đêm1 (Chiến dịchbắt đầu ngày 31 tháng 1 và kết thúc ngày 23 tháng 3 năm 1971). Lúc này, cuộc đấu tranh bên bàn đàm phán Hội nghị Pari đang ở giai đoạn thứ hai2 (Giai đoạn thứ nhất: ngày 15 tháng 3 năm 1968 đến ngày 31 tháng 10 năm 1968; giai đoạn thứ hai: từ đầu năm 1969 đến giữa năm 1972; giai đoạn thứ ba: từ giữa năm 1972 đôn tháng 1 năm 1973) trong thế đàm phán giằng co. Tin tức từ chiến trường liên tục dội đến bàn đàm phán. Đến đầu tháng 3 năm 1971, chúng ta dồn dập đón tin thắng lợi3 (Ta đã bẻ gãy hoàn toàn cánh quân phía Bắc Đường 9của địch, tiêu diệt Lữ đoàn 3 dù, Thiết đoàn 17, đánh thiệt hại nặng Liên đoàn 21 biệt động quân, phá vỡ kế hoạch thiết lập các căn cứ hoả lực vừa bảo vệ sườn Bắc vừa chi viện cho cánh quân chủ yếu tiến công lên Sê Pôn của chúng; 2. Tiêu diệt quân địch ở điểm cao 723 - lực lượng mạnh nhất của Sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn, thắng lợi đã tạo điều kiện thuận lợi cho Sư đoàn 2 và các đơn vị ban trong chiến dịch bẻ gãy hoàn toàn cánh quân phía Nam Đường 9 của địch và ta khống chế được khu vực từ Sê Pôn đến Bản Đông; 3. Tiêu diệt tập đoàn chủ yếu của địch trong cuộc hành quân của chúng ở Bản Đông). Cuộc hành quân đầy tham vọng giờ đây biến thành "cuộc hỗn loạn Lam Sơn 719" và sự tổn thất to lớn của quân đội Sài Gòn4 (Quân đội Sài Gòn bị tổn thất 21.102 lính, trong đó có 19.960 bị giết và bị thương, 556 máy bay bị bắn rơi và phá hủy, hàng ngàn xe cơ giới các loại, hàng trăm khẩu pháo và súng cối hạng nặng cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác bị phá hủy và thu giữ. (Dẫn theo: Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phản côngĐường 9 - Nam Lào năm 1971, Hà Nội, 1987, tr. 61-62)) đã đặt dấu chấm hết cho nỗ lực xây dựng "công thức chiến thắng" của chính quyền Mỹ. Kítxinhgơ đã phải cay đắng thốt lên: "Liệu Nam Việt Nam có thực sự hiểu cái mà chúng tađang cố gắng giành lấy không?"1 (Henry Kítxinhgơ, Những năm ở Nhà Trắng, Sđd, tr. 241-242). Thất bại của cuộc hành quân "Lam Sơn 719" trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng không chỉ của quân đội Sài Gòn, mà còn của cả chính quyền Mỹ - điểm tựa và người bảo hộ cho họ. Thất bại đó đã cho thấy "quân đội Việt Nam cộng hòa là một quân đội mong manh một cách tuyệt vọng"2 (Gabriel Kolko, Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 446). Và thất bại nặng nề của quân đội Sài Gòn dưới sự yểm trợ hùng hậu của hỏa lực Mỹ, phương tiện chiến tranh Mỹ, cố vấn Mỹ "đã làm rung chuyển nước Mỹ, gây ra cho chúng những khó khăn rất lớn về nhiều mặt"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Sdd, tr. 195); tạo ra "khả năng kéo Mỹ xuống nữa để thắng một bước căn bản tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc cách mạng miền Nam"4 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Sđd, tr. 366). Muốn kéo Mỹ xuống, "phải triển khai cuộc đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao; dùng chính trị, ngoại giao kết hợp với quân sự để kéo Mỹ xuống; kéo Mỹ xuống để quân sự đánh to thắng lớn thúc đẩy phong trào chính trị trong nước Mỹ làm áp lực mạnh hơn buộc chính quyền Mỹ phải từ bỏ xâm lược, chấm dứt chiến tranh"5 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 32, Sđd, tr. 366-367).

 18 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 09:03:31 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
CHIẾN THẮNG ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO VÀ CUỘC ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG NĂM 1971

Đại tá, PGS, TS HỒ KHANG
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Trong chiến tranh, quan hệ giữa quân sự và ngoại giao luôn là mối quan hệ chặt chẽ, quy định và chi phối lẫn nhau. Quan hệ giữa giành thắng lợi quyết định trên chiến trường và củng cố, mở rộng thắng lợi đó bằng hoạt động ngoại giao thể hiện đậm nét trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước qua thế đánh - đàm sau thắng lợi của Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào 1971. Thắng lợi này đã thúc đẩy đấu tranh ngoại giao phát triển lên những bước mới, phát huy hiệu quả tối ưu trên các bình diện khác nhau của mặt trận ngoại giao và quân sự.


1. Hình thành thế vừa đánh, vừa đàm.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, gắn kết chặt chẽ hai mặt đấu tranh quân sự - đấu tranh ngoại giao đã trở thành truyền thống, được nâng lên ở tầm nghệ thuật - nghệ thuật của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự kiên cường với đấu tranh ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt; lấy thắng lợi quân sự thúc đẩy đấu tranh ngoại giao, sử dụng đấu tranh ngoại giao để củng cố, mở rộng, nhân lên thắng lợi quân sự. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nghệ thuật kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, tạo thế đánh, đàm thực sự là một nét độc đáo, in đậm dấu ấn vào kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam.


Năm 1965, khi đưa quân trực tiếp xâm lược miền Nam và tiến hànhchiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, đế quốc Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc vận động ngoại giao, gọi là để giải quyết vấn đề Việt Nam, song lại đòi chúng ta thương lượng không điều kiện. Lúc này, Đảng nhấn mạnh hai nhiệm vụ song trùng: 1. Quyết tâm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược; 2. Đập lại mọi luận điệu hoà bình giả hiệu, đòi thương lượng không điều kiện của đế quốc Mỹ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đã tính đến việc đưa Mỹ vào cục diện vừa đánh, vừa đàm và việc chọn đúng thời điểm là cả một vấn đề nghệ thuật. Quá trình đó diễn ra như sau:


Trải qua hai năm (1965-1966) ráo riết tăng cường lực lượng và đẩy mạnh hoạt động quân sự, "nhằm chuyển biến hẳn cục diện trên chiến trường, giành lại thế chủ động"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tập 28, tr. 86), địch đã vấp phải những thất bại to lớn. Trên thế thắng, chúng ta đã "đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất; liên tục tiến công để mở rộng thắng lợi trong mùa mưa; bước đầu đánh bại cuộc "phản công chiến lược" mùa khô thứ hai; đánh bại chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc trên âm mưu cơ bản"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Sđd, tr. 87). Khẳng định về ý nghĩa, giá trị của những thắng lợi mang tính chiến lược đó, Đảng nêu rõ: "Thắng lợi có tầm quan trọng rất lớn về chính trị và quân sự, về chiến lược và chiến thuật. Đó là thắng lợi đối với hiệp đầu của chiến lược chiến tranh cục bộ"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Sđd, tr. 89); những thắng lợi này đã khiến đế quốc Mỹ "bị một đòn phủ đầu choáng váng hết sức bất ngờ"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Sđd, tr. 89), đẩy Mỹ vào thế bị động và cùng với việc trên thế giới, "Mỹ bị cô lập chưa từng thấy, cả những đồng minh gần gũi của Mỹ cũng không ủng hộ chính sách, chiến tranh xâm lược Việt Nam"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Sdd, tr. 116), thì đây chính là những tiền đề cơ bản, vững chắc, để toàn quân, toàn dân ta bước sang năm 1967 một cách vững tin, chuẩn bị cho những phát triển mới của cuộc kháng chiến.


Trong tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) - Hội nghị bàn về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, quyết định đưa chiến tranh cách mạng miền Nam sang một giai đoạn mới - giai đoạn "ra sức đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam"4 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sdd, tập 28, tr. 170). Hội nghị xác định: "Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao"5 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sdd, tập 28, tr. 170) và "đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa"6 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sdd, tập 28, tr. 170). Như vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã chọn đúng thời cơ để mở đòn tiến công ngoại giao, kéo Mỹ vào bàn đàm phán, khi chúng ta đang ở thế thắng. Và bắt đầu từ Hội nghị Trung ương lần thứ 13 Đảng đã đưa ngoại giao lên thành một mặt trận với nguyên tắc "chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường"1 (Đảng Cộng sàn Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Sdd, tr. 170). Cũng từ thời điểm này, hai mặt đánh - đàm (trên nền tảng thắng lợi quân sự thúc đẩy thắng lợi ngoại giao và ngược lại) trong đấu tranh cách mạng ở miền Nam được kết hợp hết sức chặt chẽ cả trong nước lẫn trên trường quốc tế, đan quyện một cách khéo léo, linh hoạt, dựa trên những phân tích, phán đoán, nhận định tình hình một cách kịp thời, khách quan, khoa học, mang lại những hiệu quả to lớn, tạo ra những bước ngoặt mang tính đột phá để chúng ta có thể nhanh chóng kết thúc một cuộc chiến tranh diễn ra trên phạm vi một nước nhỏ, xa xôi, nhưng lại là nơi hội tụ những mâu thuẫn và xung đột mang tính thời đại, giữa tiến bộ và phản tiến bộ, giữa hòa bình và chiến tranh; trở thành tiêu điểm chú ý và thức tỉnh lương tri thời đại, lương tri loài người.

 19 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 08:54:36 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
Ngày 8 tháng 2 năm 1971, quân Sài Gòn được sự yểm trợ của quân Mỹ chia làm 3 cánh vượt qua biên giới Việt - Lào; cánh quân chủ yếu theo Đường 9 qua Lao Bảo tiến đến Bản Đông, hai cánh quân khác đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống một số điểm cao ở bắc và nam Đường 9, nhằm bảo vệ sườn cho cánh quân chủ yếu.


Theo kế hoạch tác chiến, Bộ Tư lệnh mặt trận nhanh chóng điều lực lượng chặn đánh địch. Do đây là một chiến dịch phản công, có nhiều lực lượng tham gia chiến đấu, lại diễn ra trên đất ta và đất Lào, nên việc "Hợp đồng phảithật ăn khớp" trong quá trình tác chiến. Do đó, khi quân địch bắt đầu hành quân, đồng thời với một bộ phận quân ta chặn đánh địch trên Đường 9 thì lực lượng vũ trang Mặt trận B5 liên tục tập kích, pháo kích các căn cứ quân Mỹ, phục kích trên các đường giao thông, đánh chìm nhiều tàu quân sự trên sông Cửa Việt. Cuộc chiến đấu của lực lượng tại chỗ đã gây nhiều thiệt hại cho giặc, góp phần làm chậm bước tiến của chúng. Trên hướngchủ yếu, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, bộ đội ta đã chủ động đón đánh từng cánh quân của địch, kết hợp với lực lượng phòng không được bố trí dày đặc ở những nơi mà trước đó ta dự kiến địch sẽ đổ quân, bắn rơi nhiều máy bay lên thẳng. Từ ngày 12 tháng 2 đến ngày 3 tháng 3 năm 1971, lực lượng chủ lực của ta đã hiệp đồng chiến đấu, tiến công dồn dập, bẻ gãy cánh quân chủ lực của địch phía bắc Đường 9, tiêu diệt các cụm cứ điểm then chốt ở điểm cao 500, 543; đập tan cuộc phản kích của Lữ đoàn số 3 và Trung đoàn thiết giáp số 17, bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ ban tham mưu lữ đoàn địch.


Trước đòn phản công mạnh của quân ta, địch điều lực lượng lớn từ Bản Đông lên phản kích hòng chiếm lại điểm cao 543. Suốt 6 ngày liền, Trung đoàn bộ binh 36 (Sư đoàn 308) và một bộ phận Trung đoàn bộ binh 64 có hai đại đội xe tăng phối hợp và pháo binh mặt trận chi viện hỏa lực, đã đập tan cánh quân phản kích của địch, uy hiếp mạnh căn cứ Bản Đông của chúng. Trong khi đó ở phía tây Trung đoàn 141 bộ binh (Sư đoàn 2) và Trung đoàn 48 bộ binh (Sư đoàn 320), phối hợp với một bộ phậncủa Quân giải phóng Lào đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn quân ngụy Lào1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 380).    


Cũng cần nói thêm là trước đó, thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, Đoàn chuyên gia quân sự 565 và quân tình nguyện ở Hạ Lào đã tổ chức lực lượng, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với bộ đội Lào nắm chắc địch và đẩy mạnh hoạt động sau lưng chúng. Sau khi mở đợt tiến công dãy điểm cao phía đông Bô Lô Ven tiêu diệt nhiều sinh lực địch, ngày 9 tháng 1 năm 1971, ta tiêu diệt căn cứ Huội Sài, cùng bạn chuẩn bị chiến trường.


Đầu tháng 3, mặc dầu lâm vào tình thế bất lợi, Bộ chỉ huy hành quân địch vẫn quyết định tung lực lượng dự bị chiến dịch vào cuộc chiến. Lúc này, địch chuyển cánh quân phía nam thành hướng tiến công chủ yếu và tiếp tục thực hiện kế hoạch đánh lên Sê Pôn. Nhưng nỗ lực mới của địch vấp phải sự chặn đánh quyết liệt của quân ta. Với tinh thần "Hành động phải thật kiên quyết", Bộ Tư lệnh mặt trận ra lệnh cho quân ta trên các hướng chiến dịch đồng loạt phản công địch. Hơn 4 vạn sĩ quan, binh lính quân đội Sài Gòn tham gia cuộc hành quân "Lam Sơn 719" rơi vào tình thế khốn đốn. Ngày 13 tháng 3 năm 1971, toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch của ta được lệnh gấp rút chuyển từ phản công sang tiến công trên toàn tuyến. Quân địch ở Đường 9, Bản Đông không chịu được sức ép ngày càng gia tăng của quân ta nên đã dồn lại, dựa lưng vào nhau để chống trả. Càng chống trả điên cuồng, thì dự trữ đạn dược càng chóng cạn; trong khi đó, nguồn tiếp tế chủ yếu bằng máy bay, nhưng máy bay lên thẳng vũ trang cũng như máy bay vận tải C130 chuyển hàng hóa và vũ khí tiếp viện cho tập đoàn cứ điểm Bản Đông không thể thực hiện được do mạng lưới phòng không nhiều tầng của ta khống chế quyết liệt1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 275). Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân địch phải tháo chạy khỏi Bản Đông. Chớp thời cơ, bộ đội ta nhanh chóng chuyển sang truy kích, diệt và bắt nhiều tên địch, bắn cháy nhiều xe tăng, xe bọc thép, phá hủy nhiều máy bay của chúng. Cùng thời gian này, quân ta cũng giành thắng lợi lớn, diệt nhiều sinh lực địch ở điểm cao 660, 550. Ngày 23 tháng 3 năm 1971, Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi.


Thắng lợi của quân và dân ta trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, đã "mở ra những triển vọng vô cùng tốt đẹp đứa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến toàn thắng2 (Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi cán bộ, chiến sĩ, Đảng viên, đoàn viên trên mặt trận Đường số 9 ngày 31 tháng 3 năm 1971. Hồ sơ 594, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng). Phát biểu tại Hội nghị tổng kết Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào do Quân ủy Trung ương tổ chức (7-1971), đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định lại một lần nữa ý nghĩa chiến thắng Đường 9 - Nam Lào "không phải chỉ là tiêu diệt được một, hai vạn tên địch, mà ý nghĩa chiến lược của nó là ở chỗ ta đã đánh bại quânchủ lực ngụy, mở ra triển vọng hiện thực đánh bại chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ về quân sự"1 (). Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cách đánh tài giỏi, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào. Đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: "Trong những trận sắp tới, chúng ta phải tiếp tục nắm địch, nghiên cứu cách đánh"2 (Lê Duẩn, Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 417, 418) để giành thắng lợi to lớn hơn nữa.

 20 
 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2024, 08:52:41 pm 
Tác giả vnmilitaryhistory - Bài mới nhất gửi bởi vnmilitaryhistory
CHIẾN THẮNG ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO, SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỂ CÁCH ĐÁNH TÀI GIỎI

Đại tá, TS LÊ VĂN THÁI
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử tư tưởng quân sự -
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh - bộ phận trọng yêu trong tư tưởng Hồ Chí Minh - là tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Tư tưởng đó của Người gồm nhiều nội dung phong phú, trong đó có nội dung về cách đánh giặc. Theo Người để chiến thắng kẻ thù, các lực lượng vũ trang "phải có cách đánh rất tài giỏi", thực hiện nghệ thuật quân sự cách mạng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cách đánh giặc, quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đều đánh giỏi, thắng lớn, từng bước đẩy đối phương vào thế thua không thể cứu vãn. Mùa Xuân năm 1971, phát huy thế tiến công chiến lược, quân và dân ta cùng với quân và dân Lào anh em đánh bại cuộc hành quân lớn của địch trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào, giữ vững hành lang chi việnchiến lược Bắc - Nam Đông Dương, tạo đà cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiếp tục phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách đánh giặc được đề cập phong phú trong nhiều tác phẩm; trong các chỉ thị, huấn thị của Người. Ngay trong thời kỳ mới về nước cùng Trung ương Đảng lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang, bên cạnh việc biên dịch hai cuốn sách"Phép dùng binh của Tôn Tử" và "Cách huấn luyện cán bộ quân sự của Khổng Minh", Người còn viết tác phẩm "Cách đánh du kích"1 (Trong nguyên bản, ngoài bìa sách ghi "Chiến thuật du kích", Việt Minh xuất bản, tháng 5 năm 1944) 13 chương. Trong tác phẩm đó, Người xác định 4 nguyên tắc chính của cách đánh du kích là: 1. Giữ quyền chủ động; 2. Hết sức nhanh chóng; 3. Bao giờ cũng giữ thế công; 4. Phải có kế hoạch thích hợp và chu đáo"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 tr. 474, 508). Khi quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Người chỉ rõ cách đánh của đội quân chủ lực đầu tiên là: "Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 tr. 474, 508).


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Người đề ra cách đánh cho lực lượng vũ trang là bám dân, bám đất, đẩy mạnh chiến tranh du kích; kết hợp chặt chẽ du kích chiến với vận động chiến và công kiên chiến; đánh địch cả trước mặt và sau lưng theo cách đánh do ta lựa chọn, không cho địch đánh theo cách sở trường củachúng... Cuối cuộc kháng chiến, Người còn nhấn mạnh đến phương châm hành động: "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt" và nguyên tắc "Đánh chắc thắng".


Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đối tượng tác chiến của lực lượng vũ trang thay đổi. Ta phải đương đầu với nhiều lực lượng, bao gồm quân Mỹ, quân các nước đồng minh Mỹ và quân Sài Gòn, được trang bị vũ khí và các phương tiện chiến tranh hiện đại. Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng vũ trang thay đổi cách đánh cho phù hợp với đối tượngtác chiến và đặc điểm chiến trường. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam, tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 31 tháng 7 năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề: "Phải nghiên cứu cách đánh, xem có gì thay đổi không"1 (Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh -Biên niên tiểu sử, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008,tr. 281, 333). Hai tháng sau, tại cuộc họp Bộ Chính trị bàn vô tình hình miền Nam, Người nói: "Vì quân Mỹ đông, lại có hỏa lực mạnh, nên khi ta tiến công tiêu diệt sinh lực địch thì không chỉ tiêu diệt về số lượng, mà phải chú ý đến tiêu diệt những đơn vị chủ chốt, những cơ quan đầu não của chúng"2 (Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh -Biên niên tiểu sử, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 281, 333). Người căn dặn Bộ đội Phòng không: "Lúc chiến đấu phải hiệp đồng cho tốt, ai đánh tầng thấp, ai đánh tầng giữa, ai đánh tầng cao, phải phân công rõ ràng"3 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Chủ lịch Hồ Chí Minh vái sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việl Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 119). Với Bộ đội Không quân, Người dạy: "Các chú hãy học tập Quân giải phóng miền Nam: Phát huy lối đánh gần, bám thắt lưng địch mà diệt chúng"1 (Chủ tịch Hồ Chí Minh với Bộ đội Phòng không - Không quân, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân xuất bản, Hà Nội, 1975, tr. 20).


Sau cuộc họp Bộ Chính trị ngày 28 tháng 12 năm 1967 chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968, Người chỉ thị cụ thể cho các chiến trường: "Kế hoạch phải thật tỉ mỉ. Hợp đồng phải thật ăn khớp. Bí mật phải thật tuyệt đối. Hành động phải thật kiên quyết. Cán bộ phải thật gương mẫu"2 (Vũ Kỳ, Bác Hồ với Tết Mậu Thăn năm ấy, Báo Văn Nghệ, số Tết Mậu Dần 1998). Tiếp đó, trong thư chúc mừng năm mới gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước năm 1969, Người khái quát tư tưởng chỉ đạo chiến lược về cách đánh bằng câu thơ "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".


Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cách đánh, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta đã nỗ lực chiến đấu đánh thắng giặc từng bước, càng đánh càng mạnh, tiến lên giành thắng lợi mới. Tháng 6 năm 1970, trên cơ sở đánh giá đúng bản chất gây chiến, phiêu lưu và những thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", Bộ Chính trị đã nhận định trong mùa khô 1970 - 1971,địch có thể mở những cuộc tiến công đánh vào vùng Trung, Hạ Lào và vùng đông bắc Campuchia nhằm phá hoại cơ sở cách mạng hai nước này, phá hủy cơ sở hậu cần và cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược của ta, cô lập chiến trường miền Nam. Từ nhận định đó, Bộ Chính trị chủtrương: "Động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, làm cho lực lượng ba nước trở thành một khối thống nhất, có một chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai"1 (Nghị quyết Bộ Chính trị, ngày 19 tháng 6 năm 1970. Lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam). Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân uy Trung ương nhất thiết phải động viên sức người, sức của đánh thắng địch, làm thất bại cố gắng cao nhất của chúng trong quá trình thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh", tạo nên những chuyên biến căn bản có tính chất chiến lược cho phong trào cách mạng ba nước Đông Dương.


Quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm "ta phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 314) của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nghị quyết tháng 6 năm 1970 của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu bắt đầu vạch kế hoạch tác chiến, điều động lực lượng và chỉ đạo việc chuẩn bị chiến trường ở khu vực Đường 9 - Nam Lào.


Tháng 10 năm 1970, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập Binh đoàn 70 gồm 3 sư đoàn bộ binh 304, 308, 320 và một số trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng, ở khu vực Đường 9, bộ đội Mặt trận B5, B4 và Đoàn 559 gấp rút tổ chức thế trận, sẵn sàng phối hợp chiến đấu với lực lượng chủ lực cơ động. Tổng cục Hậu cầnthành lập cơ quan chỉ huy tiền phương, cùng các đơn vị thuộc Đoàn 559 xây dựng tuyến hậu cần chiến dịch nam sông Gianh. Đến tháng 1 năm 1971, dự trữ vật chất của các binh trạm Đoàn 559 trên các hướng chiến dịch đã lên tới 6.000 tấn, cùng với dự trữ của Bộ, đủ đảm bảo cho năm đến sáu vạn quân tác chiến trong thời gian bốn đến năm tháng. Chủ độngđối phóvới mọi tình huống, Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm vụ cho Binh đoàn 70 chuẩn bị kế hoạch tác chiến, phối hợp với lực lượng vũ trang Quân khu 4 sẵn sàng tiêu diệt địch, nếu chúng liều lĩnh mở rộng tiến công bằng bộ binh ra phía Nam Quân khu 4.


Đúng như nhận định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, bước vào Đông Xuân 1970-1971, đế quốc Mỹ ráo riết chuẩn bị tiến hành các cuộc tiến công ra chiến trường ba nước Đông Dương. Tháng 11 năm 1970, Tổng thống Mỹ quyết định mở cuộc hành quân đánh ra Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và ngã ba biên giới. Ngày 2 tháng 2 năm 1971, giới cầm quyền Mỹ thông qua kế hoạch ba cuộc hành quân đó với mật danh "Lam Sơn 719", "Toàn Thắng 1-1971" và "Quang Trung 4". Trong ba cuộc hành quân đó thì cuộc hành quân "Lam Sơn 719" đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào là có quy mô và ý đồ lớn nhất; bởi theo tính toán của Mỹ thì nơi đây tập trung nhiều kho tàng dự trữ chiến lược của đối phương, là "cuống họng" của đường Hồ Chí Minh, nếu chiếm được địa bàn chiến lược này thì chẳng những đe dọa miền Bắc, uy hiếp cách mạng Lào, mà còn bịt được tuyến vận tải chiến lược vào chiến trường miền Nam. Mặt khác, thông qua cuộc hành quân "Lam Sơn 719", giới cầm quyền Mỹ muốn kiểm nghiệm khả năng của quân đội Sài Gòn, qua đó kiểm nghiệm kết quả của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" sau hơn hai năm thực hiện. Đểđạtđược mục tiêu mang nhiều tham vọng chủ quan đó, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ và Sài Gồn đã huy động lực lượng lớn, gồm 42.000 quân (33.000 quân Sài Gòn, 5.000 quân Mỹ), có nhiều máy bay, xe tăng, thiết giáp và pháo binh yểm trợ1 (Lực lượng của địch trên địa bàn chiến dịch lúc cao nhất có 55.000 quân, gồm 15 trung đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn 587 xe tăng, xe bọc thép, 318 pháo, 700 máy bay các loại. Ngoài ra còn có 2 Binh đoàn ngụy Lào). Mục tiêu đầu tiên của địch trong cuộc hành quân này là nhanh chóng chiếm Sê Pôn, chiếm giữ Đường 9 doạn Bản Đông - Sẽ Pôn, lập phòng tuyến ngăn chặn, cắt đôi Đông Dương, lùng sục đánh phá kho tàng, đường sá xung quanh Sê Pôn; tiếp đó chuyển xuống đánh phá kho tàng khu vực Sa Đi - Mường Noòng đến A Túc, A Sầu, A Lưới.


Trước hành động liều lĩnh của địch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào tiêu diệt một bộ phận lớn quân địch, tạo điều kiện đánh bại một bước quan trọng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Do tầm quan trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị cử Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tại mặt trận. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh mặt trận được thành lập do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn,Tổng Tham mưu phó làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Binh đoàn 70, Sư đoàn 2, Sư đoàn 324, 3 tiểu đoàn xe tăng, xe thiết giáp, 4 trung đoàn pháo binh, 4 trung đoàn pháo phòng không, 3 trung đoàn công binh, một số tiểu đoàn đặc công và lực lượng chiến đấu tại chỗ của Mặt trận B5, B4, Đoàn 559 và các đơn vị bộ đội tình nguyện ở Hạ Lào; tổng quân số khoảng 6 vạn quân. Với lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu đó, lại có những cán bộ dày dạn kinh nghiệm chỉ huy tác chiến tập trung, khi địch bắt đầu triển khai đội hình hành quân thì quân ta đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa; do đó, thế trận tốt thuộc về ta. Theo binh pháp Tôn Tử mà Chủ tịch Hồ Chí Minh biên dịch thì: "Được thế tốt... lúc đánh, thì thế như lăn đá trên xuống dốc núi cao mấy nghìn thước"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 tr. 523).

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »
Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM