Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 14 Tháng Năm, 2024, 08:25:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước  (Đọc 90760 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2016, 08:43:15 am »


Sau khi chuẩn bị đầy đủ lực lượng, ngày 14 tháng 12 năm 1421, Lý Bân cho tham tướng Trần Trí đem 10 vạn quân, vừa quân Minh vừa quân ngụy, tiến lên vùng tây bắc Thanh Hóa, đóng quân ở ải Kình Lộng, phía dưới Ba Lẫm, đại bản doanh của nghĩa quân Lam Sơn, chừng 50 dặm.

Không cho địch nghỉ ngơi, nghĩa quân Lam Sơn quyết định mở trận tiến công mạnh ngay vào doanh trại địch ở Kình Lộng. Nửa đêm, nghĩa quân tiến sát trại địch, đánh trống hò reo, xung phong đánh vào. Bốn trại địch bị tiêu diệt, hơn 1.000 địch bị giết. Nghĩa quân thu được nhiều quân lương, khí giới. Mặc dầu bị thiệt hại, mười vạn quân địch vẫn phá núi mở đường cố sức tiến lên. Nghĩa quân bố trí mai phục ở đèo Ông1 để chờ địch. Địa thế đèo Ông rất hiểm trở, phải trèo lên cao mới vượt qua được. Trưa ngày hôm sau, quân Trần Trí tới đèo Ông. Chúng bám vào nhau như đàn kiến để leo lên. Trong khi đó, phục binh của nghĩa quân từ các đường núi xông ra giáp chiến. Quân địch bị thua lớn. Tướng địch Trần Trí phải lui quân.

Nhưng quân Minh vừa rút khỏi thì một tù trưởng Lão Qua là Bồ Sát (hoặc Mãn Sát)2 đem 3 vạn quân và 100 con voi chiến đã vượt qua biên giới, tiến vào sau lưng nghĩa quân, phao tin sang giúp nghĩa quân đánh giặc Minh, để nghĩa quân không chú ý đề phòng, và tới nửa đêm, họ tập kích doanh trại nghĩa quân. Trước tình hình đó, nghĩa quân Lam Sơn vẫn bình tĩnh đối phó. Nhiều toán nghĩa quân lập tức được lệnh đi vòng ra phía sau lưng quân Lão Qua. Rồi nghĩa quân, từ trong doanh trại đánh ra, từ phía sau lưng địch đánh vào. Ba vạn quân Lão Qua bất ngờ rơi vào thế bị bao vây chặt chẽ, lúng túng bị động, không đối phó nổi. Hơn một vạn địch bị giết tại trận, 14 voi chiến bị nghĩa quân bắt sống. Quân Lão Qua tháo chạy. Nghĩa quân truy kích liên tiếp bốn ngày đêm. Cùng đường, hoảng sợ, Bồ Sát phải cho người tới gặp Lê Lợi cầu hòa. Nghĩa quân nhận lời và quyết định quay trở về. Trong khi đó, tướng tiên phong của nghĩa quân là Lê Thạch vẫn ráo riết truy kích địch và bị chết vì giẫm phải chông.
__________________________________
1. Đèo Ống hoặc Ứng ải thuộc xã Thiết Ống, huyện Quan Hóa, trên hữu ngạn sông Mã.
2. Các sách sử cũ thường phân biệt rõ: Lão Qua, Ai Lao, Vạn Tượng là khác nhau. Lão Qua hay Nam Chưởng, hay Mường Luống tức Luông Pra-băng ngày nay. Vạn Tượng hay Mường Chăn, Viềng Chăn, tức Viên Chăn. Ai Lao là khu vực giữa Luông Pra-băng với biên giới Việt Nam, tức vùng Sầm Nưa chạy dài lên sát biên giới phía tây bắc nước ta. Mỗi khu vực đều có quốc vương hoặc tù trưởng riêng. Nhưng tới việc này hình như có sự lẫn lộn Ai Lao với Lão Qua. Các sách sử của ta đều ghi Ai Lao đem quân sang đánh nghĩa quân Lam Sơn. Trái lại Minh sử chép là Lão Qua. Ở đây, chúng tôi viết theo Minh sử, vì theo diễn biến của các sự việc, Lão Qua đem quân giúp Minh có phần hợp lý hơn. Việc Ai Lao thôi không giao thiệp và giúp quân cho nghĩa quân Lam Sơn với việc Lão Qua đem quân giúp Minh đánh nghĩa quân Lam Sơn có thể là hai việc khác nhau, không hẳn đã là một. Tên của tù trưởng Lão Qua, Lam Sơn thực lục viết là Bồ Sát, Đại Việt sử ký toàn thưViệt sử thông giám cương mục viết là Mãn Sát. Theo lịch sử Lào thì vua nước Lan Xang, tức Lão Qua thời ấy là Lan Kham Đèng, trị vì từ 1415 đến 1427, có cho quân sang giúp quân Minh đánh Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn cuối năm 1421. Tướng chỉ huy đạo quân Lão Qua này là Phommathat, con trai thứ hai Lan Kham Đèng. Nếu sự việc đó là đúng thì các sử cũ của ta viết tên viên tướng chỉ huy Lão Qua là Bồ Sát hay Mãn Sát đều có thể được cả, vì chỉ là phiên âm tiếng ngoại quốc. Tên của Phommathat có 3 âm tiết: Sát là phiên âm thát, Bồ là phiên âm Phom, mãn là phiên âm ma.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2016, 08:44:03 am »


Chiến thắng quân Minh, quân ngụy ở Kình Lộng, đèo Ống và trận tiêu diệt quân Lão Qua đã phá tan cuộc tiến công lớn gồm hàng chục vạn quân của địch.

Sau thất bại này, địch lại phải để một thời gian dài nữa mới có thể tổ chức được một cuộc tiến công khác, vì trong năm 1422, chúng gặp nhiều khó khăn trong nội bộ của chúng ở Việt Nam và ở cả nước chúng. Tháng 3 năm 1422, tống binh Lý Bân chết. Việc này phải đưa tin về triều và chờ lệnh của vua Minh cử người khác thay. Đưa tin từ Đông Quan đến Yên Kinh (tức Bắc Kinh) tới khi có người thay Lý Bân không phải là việc nhanh chóng. Và ngay tại nước Minh tình hình cũng đương rối ren bề bộn. Tại Sơn Đông và Phúc Kiến đương có những cuộc khởi nghĩa lớn do Đường Trại Nhi và Đặng Mậu Thất lãnh đạo mà triều đình nhà Minh phải lo đối phó. Nhất là trong năm 1422, nhà Minh lại có chiến tranh lớn với người Thát Đát. Chính vua Minh phải thân chinh chỉ huy. Riêng việc vận chuyển quân lương, vũ khí ra chiến trường đã phải sử dụng tới gần 18 vạn cỗ xe, 34 vạn con lừa và gần 24 vạn dân phu. Bao nhiêu quân tướng đều thu hút vào cuộc chiến tranh này cả. Cho nên, trong tình hình đó, triều đình nhà Minh không thể quan tâm đến chiến trường Việt Nam, không thể cử những tướng lĩnh cao cấp sang Việt Nam như các lần trước, mà phải cử Trần Trí, một phó tướng đương ở Việt Nam lên thay Lý Bân.

Vì địch gặp những khó khăn như vậy nên trong cả năm 1422, không có trận giao tranh nào đáng kể giữa nghĩa quân và quân Minh. Nghĩa quân vẫn hoạt động ở vùng Lỗi Giang. Đại bản doanh của nghĩa quân đóng ở Ba Lẫm, rồi tiến xuống đóng ở Quan Du.

Sau khi nhận nhiệm vụ tổng binh, Trần Trí quyết định tổ chức một cuộc tiến công mới vào nghĩa quân Lam Sơn, vẫn có sự phối hợp tác chiến của quân Lão Qua. Đầu năm 1423, cuộc tiến công bắt đầu. Lần này, quân Lão Qua tiến sang Mường Kiệt (thuộc Quan Hóa). Quân Minh do Trần Trí và Mã Kỳ chĩ huy, theo dọc sông Mã tiến lên. Hai đạo quân phối hợp với nhau, lập thành hai gọng kìm tiến đánh nghĩa quân. Ngày 5 tháng 2 năm 1423, địch từ hai mặt tiến công Quan Du. Thế địch rất mạnh. Nghĩa quân đã chiến đấu rất anh dũng, nhiều nghĩa quân đã hy sinh oanh liệt nhưng vẫn không đẩy lùi được địch, nghĩa quân quyết định rời khỏi Quan Du, tiến lên phía huyện Khôi (khoảng huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình ngày nay) với ý định tránh cuộc vây hãm lớn của địch và tìm một địa thế hiểm trở thuận lợi cho việc phá vỡ cuộc tiến công của địch.

Nghĩa quân tới huyện Khôi chừng 7 ngày thì quân Minh và quân Lão Qua cũng kéo tới, vây chặt lấy nghĩa quân. Trước tình thế quân địch ào ào kéo tới hòng tiêu diệt quân ta, nghĩa quân quyết tâm chiến đấu một sống một còn với địch. Toàn quân lăn xả vào địch mà đánh. Các tướng Lê Lĩnh, Phạm Vân, Lê Hào, Lý Triện xung phong phá vây, tập trung đánh mạnh vào một phía để giải vây. Trong cuộc giao tranh ác liệt, tham tướng địch là Phùng Quý và hơn 1.000 quân địch bị giết tại trận. Tinh thần chiến đấu dũng mãnh ngoan cường của nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển bại thành thắng, buộc địch phải rút chạy. Quân Minh trở về Đông Quan. Quân Lão Qua cũng chạy về nước.

Chiến thắng huyện Khôi đã nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, dũng cảm hy sinh của nghĩa quân Lam Sơn. Nhưng với chiến thắng huyện Khôi, nghĩa quân cũng bị hy sinh nhiều. Lực lượng vũ trang chiến đấu của nghĩa quân như Nguyễn Trãi đã nói không còn đầy một lữ, tức chưa được 500 người. Nghĩa quân cần phải có thời gian củng cố lực lượng mới có thể tiếp tục chiến đấu với địch. Mà huyện Khôi không phải là nơi an toàn để nghĩa quân đóng lại lâu. Tại đây, lúc nào nghĩa quân cũng có thể bị quân địch ở Đông Quan, Tây Đô và Lão Qua, từ ba mặt đánh khép lại, dồn nghĩa quân vào thế hoàn toàn bất lợi. Miền Lỗi Giang, Cẩm Thủy, cũng như huyện Khôi, không còn có những điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động của nghĩa quân như những ngày trước. Cho nên nghĩa quân Lam Sơn quyết định theo đường núi tạm thời rút về vùng rừng núi Chí Linh xưa để định một kế hoạch hoạt động mới, làm cho phong trào ngày càng lớn mạnh hơn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2016, 08:47:23 am »


*
* *

Từ khi mới phát động, đầu năm 1418, tới trận đánh ở huyện Khôi đầu năm 1423, phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đã tồn tại được 5 năm và dần dần trở thành mối lo lớn nhất của giặc Minh thời đó. Đã có nhiều phong trào khởi nghĩa vũ trang nổ ra trước phong trào khởi nghĩa Lam Sơn hoặc đồng thời với khởi nghĩa Lam Sơn, nhưng hầu hết đều tan vỡ nhanh chóng. Có những phong trào thật sự lớn mạnh hơn phong trào khởi nghĩa Lam Sơn, đông hàng mấy vạn người ngay lúc đầu, như các phong trào do Phạm Ngọc, Lê Ngã lãnh đạo, nhưng cũng chỉ tồn tại được một vài năm rồi bị địch dập tắt ngay. Có những phong trào đã xuất hiện sớm hơn phong trào Lam Sơn và tồn tại song song với phong trào Lam Sơn, như phong trào Nông Văn Lịch ở miền Đông Bắc và phong trào nghĩa quân áo đỏ ở miền Tây Bắc, nhưng những phong trào này đã từ nhiều năm chỉ hoạt động ở miền rừng núi xa xôi và chưa lúc nào trở thành mối đe dọa trực tiếp và đe dọa lớn cho địch. Trái lại phong trào khởi nghĩa Lam Sơn hoạt động ở ngay gần Tây Đô, một căn cứ quân sự chính của địch. Sự tồn tại và những hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn ngày càng có tiếng vang sâu rộng trong nước, ngày càng động viên mạnh mẽ tinh thần đấu tranh cứu nước của nhân dân trong cả nước và ngày càng thu hút nhiều người yêu nước, nhiều hào kiệt, nhiều nhân tài từ các nơi tìm tới tham gia hàng ngũ chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn, nhất là từ những năm 1421 - 1422 trở đi, sau những chiến thắng rực rỡ của nghĩa quân ở Bồ Mộng, Bồ Thi Lang, Quan Du, Kình Lộng, đèo Ống v.v... Quân Minh từ bên nước cũng đã thấy rất rõ phong trào Lam Sơn là mối đe dọa lớn nhất cho nền thống trị của chúng ở Việt Nam, cho nên triều đình nhà Minh đã buộc quân tướng của chúng ở Việt Nam phải bằng mọi cách tiêu diệt cho bằng được phong trào Lam Sơn. Chính vì thế mà từ cuối năm 1421 tới đầu năm 1423, tướng Minh phải ba lần đem đại quân tiến đánh nghĩa quân. Và lần nào địch cũng huy động trên 10 vạn quân. Con số hàng chục vạn địch như các sử cũ của ta đã ghi cũng không phải là phi lý lắm. Vì từ cuối năm 1421 trở đi, hầu hết các phong trào khởi nghĩa đều đã bị dập tắt, còn hai phong trào Nông Văn Lịch và nghĩa quân áo đỏ, lại chỉ hoạt động ở miền núi, chưa lần nào đánh xuống đồng bằng, nên địch có điều kiện tập trung đại bộ phận quân lực của chúng để đàn áp phong trào Lam Sơn. Mà lực lượng của địch khi đó, ngoài số hàng chục vạn quân Minh có mặt thường trực ở Việt Nam, chúng còn có hàng chục vạn ngụy quân1. Cho nên từ năm 1421 trở đi, việc quân Minh huy động những lực lượng lớn để tiến đánh nghĩa quân Lam Sơn không phải là không thể có được. Nhưng dù huy động những lực lượng lớn, cả ba lần quân Minh tiến đánh nghĩa quân là cả ba lần chúng phải thất bại thảm hại. Hao binh tổn tướng rất nhiều. Điều đó chứng tỏ phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đã có một thế mạnh hơn hẳn những phong trào trước nó hoặc đồng thời với nó.

Năm năm chiến đấu kiên cường ở miền tây Thanh Hóa, nghĩa quân Lam Sơn đã có được nhiều chiến thắng vẻ vang, đã làm cho địch tổn thất nặng nề, lực tuy chưa áp đảo được quân thù, nhưng thế đã đè nặng lên tinh thần chiến đấu của địch, làm cho lực lượng chiến đấu của chúng phải suy giảm nghiêm trọng, đẩy chúng vào cái thế đánh cũng dở mà dụ cũng dở, đánh thì không chắc thắng, mà dụ hàng thì không chắc được. Rõ ràng sau 5 năm chiến đấu, nghĩa quân Lam Sơn đã ở cái thế có thể thắng địch hoàn toàn, nếu nghĩa quân nâng cao hơn nữa khả năng chiến đấu của mình và phát triển một cách sáng tạo đường lối chiến tranh và những chiến lược, chiến thuật thích đáng.

Chính trong lúc này xuất hiện vai trò của Nguyễn Trãi, như một lãnh tụ kiệt xuất của phong trào, góp phần cùng nghĩa quân khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, đẩy mạnh sự nghiệp đánh giặc cứu nước của nghĩa quân sang một giai đoạn mới, một giai đoạn tiến công không ngừng, chiến thắng liên tiếp, mau chóng kết thúc chiến tranh, giành lại độc lập thật sự cho dân tộc. Năm năm đầu, khởi nghĩa Lam Sơn đứng chân tại chỗ ở miền tây Thanh Hóa, nhưng năm năm sau, khởi nghĩa Lam Sơn mở rộng phong trào ra cả nước, hoàn thành vẻ vang sứ mạng lịch sử của dân tộc.

Tầm quan trọng của năm năm chiến đấu trong giai đoạn sau của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn và tầm quan trọng của vai trò Nguyễn Trãi trong công cuộc lãnh đạo phong trào cũng chính là ở chỗ đó.
____________________________________
1. Từ năm 1416, quân Minh thi hành ở Việt Nam chính sách cứ 3 đinh hoặc 2 đinh bắt 1 người ra lính. Theo An Nam chí nguyên, số đinh lúc ấy là 50 vạn người. Con số này không chính xác. Số đinh có thể còn nhiều hơn nữa. Nhưng cứ thừa nhận số đinh ít ỏi đó và cho rằng 3 đinh chúng mới bắt được 1 lính thì số ngụy quân cũng là 10 vạn người.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2016, 07:46:56 pm »


PHẦN HAI
NGUYỄN TRÃI VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO LAM SƠN
TỪ KHỞI NGHĨA ĐỊA PHƯƠNG THÀNH CHIẾN TRANH TOÀN QUỐC



CHƯƠNG III
BÌNH NGÔ SÁCH VỚI ĐƯỜNG LỐI
TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH CẢ NƯỚC ĐỂ ĐÁNH THẮNG GIẶC

Nguyễn Trãi đứng trong hàng ngũ chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn từ những ngày ở Lỗi Giang, nhưng tên tuổi, sự nghiệp của ông ghi lại trong lịch sử của dân tộc, chỉ là từ sau khi nghĩa quân Lam Sơn rút về núi Chí Linh lần thứ ba, tức là từ năm 1423 trở đi. Các sử cũ đều ghi: Khi tới Lỗi Giang, Nguyễn Trãi đã làm lễ ra mắt lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn bằng bản Bình Ngô sách của ông, gồm ba kế sách lớn để đánh thắng giặc. Rất tiếc là bản Bình Ngô sách đó không còn lại tới ngày nay, chúng ta không được rõ nội dung cụ thể của nó như thế nào. Nhưng chắc chắn nó là những kế sách rất quan trọng, những đường lối sáng suốt và tài giỏi để đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng mau tới thắng lợi hoàn toàn. Cho nên, tuy mới gặp gỡ, Nguyễn Trãi đã được Lê Lợi và nghĩa quân rất tôn quý và trọng dụng. Chỉ mới gia nhập nghĩa quân từ cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, Nguyễn Trãi đã mau chóng trở thành một lãnh tụ của phong trào, một người bạn chiến đấu thân cận của Lê Lợi. Sự "tri ngộ" giữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi, tuy sử sách chỉ ghi sơ lược, nhưng cũng đủ nói lên "con mắt tinh đời", tài biết người, hiểu người của hai bậc anh hùng dân tộc vĩ đại đó. Chưa gặp Lê Lợi, nhưng với tiếng tăm và uy tín của Lê Lợi, Nguyễn Trãi từ xa đã nhận thấy ở Lê Lợi một người anh hùng lỗi lạc có thể đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc tới thành công, nên Nguyễn Trãi đã bỏ qua nhiều phong trào khởi nghĩa ở các địa phương gần, để lặn lội vào miền núi rừng Thanh Hóa, tìm gặp Lê Lợi và gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Anh hùng tương ngộ: Lê Lợi gặp Nguyễn Trãi, đọc Bình Ngô sách, tuy là lần đầu gặp gỡ, Lê Lợi đã thấy ngay được Nguyễn Trãi là người tài đức hơn người, có đầy đủ khả năng để đưa cuộc chiến tranh cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn. Sự tri ngộ giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi thật là đẹp đẽ, hiếm có trong lịch sử. Đó là sự tri ngộ của những bậc hiền tài, sự tương ngộ của những người anh hùng, sự gặp gỡ của những người có chí lớn, gặp nhau, hiểu nhau, tin cậy nhau, gắn bó với nhau, sống chết bên nhau, một lòng chiến đấu vì đại nghĩa của dân tộc. Chính sự tri ngộ đó đã đem lại cho phong trào Lam Sơn một sức mạnh mới, sức mạnh về lãnh đạo, sức mạnh về đường lối chiến tranh cứu nước, sáng suốt và mầu nhiệm, đánh thắng hoàn toàn quân Minh xâm lược. Khi thuật lại vai trò của Nguyễn Trãi trong phong trào Lam Sơn, từ sau cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, Trần Khắc Kiệm đã viết: "Phàm những việc quân, việc nước quan trọng đều trao cho ông trù tính"1. Chắc chắn là Nguyễn Trãi đã vận dụng Bình Ngô sách của ông để trù tính, giải quyết mọi việc quân, việc nước quan trọng đó. Ông đã thành công trong việc mở rộng phong trào Lam Sơn từ một cuộc khởi nghĩa địa phương, bó hẹp trong vùng rừng núi phủ Thanh Hóa thành chiến tranh cả nước đánh giặc và đưa phong trào, từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba, sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn tiến công liên tục, mãnh liệt, "càng đánh càng được, đi đến đâu đánh tan đến đấy, như phá vật nát, như bẻ cành khô"2 và đánh địch trên cả các mặt quân sự, chính trị, ngoại giao, nhanh chóng kết thúc chiến tranh một cách toàn thắng. Công lao của ông trong sự nghiệp cứu nước và phong trào Lam Sơn thật to lớn. Một nhà bình luận ở thời sau là Đỗ Nghi đã nhận định: "Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả"3. Lê Quý Đôn ở thế kỷ XVIII cũng nhận xét: "Trong các công thần khai quốc, ông có công vào bậc nhất"4.

Công lao của ông to lớn, vì ông đã có nhiều cống hiến quan trọng vào sự hoạt động của phong trào Lam Sơn để hoàn thành tốt đẹp sự nghiệp đánh giặc cứu nước của dân tộc ta thời đó. Ông không làm tướng trực tiếp cầm quân ra trận, nhưng ông đã có những đóng góp vô cùng quý báu về đường lối đấu tranh, về phương thức tiến hành chiến tranh, về phương châm chiến lược, chiến thuật cơ bản cho từng giai đoạn của chiến tranh và trên từng trận tuyến, từng chiến trường cụ thể.
____________________________________
1. Trần Khắc Kiệm, Tựa Ức Trai thi tập, chép trong Ức Trai di tập, q. 5.
2. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, bản dịch, tr. 53.
3. Dương Bá Cung dẫn trong Bình luận chư thuyết, Ức Trai di tập, q. 5. Chưa biết Đỗ Nghi là ai, có thể là một sĩ phu ở cuối thế kỷ XVII hoặc đầu thế kỷ XVIII.
4. Lê Quý Đôn, Toàn Việt thi lục, t. III, q. 7.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2016, 07:53:25 pm »


ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH TỔNG HỢP:
ĐÁNH BẰNG QUÂN SỰ,
ĐÁNH BẰNG SỨC MẠNH CỦA QUẦN CHÚNG NỔI DẬY,
VÀ ĐÁNH MẠNH VÀO LÒNG ĐỊCH,
THU ĐẤT GIÀNH DÂN,
LẬP CHÍNH QUYỀN DÂN TỘC


Công lao đầu tiên của Nguyễn Trãi mà các sử sách đều coi là công lao quan trọng nhất, là những đóng góp của ông vào đường lối đấu tranh của phong trào Lam Sơn. Như trên chúng ta đã thấy, trong năm năm chiến đấu ở miền tây Thanh Hóa, đường lối đấu tranh của phong trào Lam Sơn là đường lối đấu tranh bước đầu, còn hạn chế trên một mặt trận: mặt trận quân sự. Đường lối đấu tranh đó cũng hạn chế sự phát triển của phong trào và không thể tiến tới đánh thắng hẳn giặc. Sau năm năm chiến đấu liên tục, phong trào Lam Sơn so với những ngày đầu khởi nghĩa vẫn chưa phát triển hơn được bao nhiêu về cả các mặt lực lượng vũ trang, trình độ tổ chức, địa bàn hoạt động, v.v... và cho tới đầu năm 1423, phong trào Lam Sơn vẫn mang tính chất một phong trào khởi nghĩa địa phương, hoạt động trên một địa bàn nhỏ hẹp ở miền tây Thanh Hóa. Trong năm năm chiến đấu đã qua, nghĩa quân chưa kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, chưa chú trọng thu đất, giành dân, phá vỡ chính quyền địch và chưa xây dựng được chính quyền mới làm chỗ dựa vững chắc cho phong trào. Không có chính quyền thì không tổ chức được dân cùng đánh giặc. Tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc giành chủ quyền đất nước, mà không xây dựng chính quyền của mình thay chính quyền địch, từng bước giành chủ quyền lãnh thổ ở từng bộ phận, thì chiến tranh giải phóng khó thành công, phong trào không thể phát triển và tồn tại như một phong trào cứu nước của toàn dân. Phong trào cứu nước chỉ có thể phát triển mạnh trên cơ sở ngày càng giành được nhiều dân, nhiều đất, ngày càng có một chính quyền vững mạnh làm chỗ dựa và phải đánh địch bằng nhiều cách, đánh địch trên nhiều mặt.

Khi tới Lỗi Giang, Nguyễn Trãi đề ra một đường lối đấu tranh trên một quy mô lớn, để đẩy mạnh sự phát triển của phong trào sang một giai đoạn mới. Từ khi nghĩa quân về núi Chí Linh lần thứ ba trở đi, tất cả những ý kiến, đường lối, phương châm đánh giặc của Nguyễn Trãi đều được vận dụng triệt để vào sự hoạt động của phong trào. Từ đây, nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu thực hiện một đường lối đấu tranh tổng hợp, toàn diện, kết hợp các mặt: đánh bằng quân sự, đánh bằng sức mạnh của quần chúng nổi dậy, thu đất giành dân, lập chính quyền ta, phá chính quyền địch và đánh vào lòng quân địch. Đánh bằng sức mạnh của quần chúng nổi dậy, thu đất giành dân, lập chính quyền ta phá chính quyền địch cũng là đấu tranh chính trị. Đánh vào lòng địch là dụ hàng tướng sĩ binh lính địch và đấu tranh hòa đàm với bọn chủ tướng địch. Dụ hàng tức binh vận, địch vận. Đấu tranh hòa đàm với bọn chủ tướng địch là đấu tranh ngoại giao. Kết hợp các mặt đấu tranh đó là kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và binh vận, địch vận. Các sử sách đều coi việc đó là rất quan trọng, nó quyết định thắng lợi của phong trào. Tất cả những tài liệu cũ ghi chép việc Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang thì kế theo đó, đều nhấn mạnh tới những cống hiến đầu tiên của ông vào phong trào Lam Sơn, tức đường lối đấu tranh mầu nhiệm của ông và đều khẳng định đường lối đấu tranh đó là những công lao quan trọng nhất của ông. Lê Thánh Tôn, trong phần chú thích bài thơ Minh lương, đã viết:

"... Theo đến phò tá ở Lỗi Giang, bên trong thì giúp việc trù hoạch mưu lược ở nơi màn tướng, bên ngoài thì thảo văn từ chiêu dụ các thành; văn chương của ông làm vẻ vang cho nước, rất được vua yêu quý, tin dùng"1.

Nhà bác học Lê Quý Đôn trong sách Toàn Việt thi lục, cũng viết:

"Khi Thái Tổ dấy nghĩa binh, ông cầm roi ngựa tới Lỗi Giang yết kiến, dâng ba kế sách dẹp giặc Ngô, liền được vua biết tài và trọng đãi, rồi cho làm chức tuyên phụng đại phu, thừa chỉ viện Hàn lâm kiêm thượng thư bộ Lại, coi việc ở viện Nội mật, dự bàn mưu kế, thảo ra thư hịch. Trong các công thần khai quốc, ông có công vào bậc nhất"2.

Trong sách Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn lại viết:

"Khi vào yết kiến ở Lỗi Giang, liền được tri ngộ, viết thư gửi tướng suý nhà Minh, thảo hịch truyền đi các lộ, đứng vào bậc nhất trong một thời3.

Nhà bình luận Đỗ Nghi cũng viết:

"Những chế cáo sắc dụ do ông thảo ra, đã kích thích được chí khí của người trong nước, những bức thư qua lại đã thu phục được nhân tâm quân Minh"4.

Như những nhận định trên đây, "bên trong thì giúp việc trù hoạch mưu lược ở nơi màn tướng", "dự bàn mưu kế" chính là bàn mưu kế đấu tranh quân sự để đánh thắng giặc, "thảo ra thư hịch", "bên ngoài thì thảo văn từ chiêu dụ các thành", "viết thư gửi tướng súy nhà Minh" hoặc "những bức thư qua lại đã thu phục được nhân tâm quân Minh" chính là sự thể hiện một đường lối đấu tranh rất lợi hại, đường lối đánh vào lòng người, vừa là đấu tranh chính trị, vừa là đấu tranh ngoại giao, vừa là binh vận. Những văn từ, thư hịch của Nguyễn Trãi viết ra, rất linh hoạt, phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, khi là đấu tranh chính trị, làm suy yếu tinh thần chiến đấu của địch, khiến địch hoang mang, dao động, khi là đấu tranh ngoại giao buộc địch phải đàm phán thương lượng và nhượng bộ trước những đòi hỏi chính đáng của ta, khi là binh vận, địch vận, ngụy vận, khuyên dụ tướng địch, tướng ngụy dâng thành, đem quân ra hàng.

Những "hịch truyền đi các lộ", những "chế cáo sắc dụ do ông thảo ra, đã kích thích được chí khí của người trong nước" chính là những hình thức tuyên truyền giáo dục chính trị, động viên tinh thần chiến đấu của quân dân cả nước, vận động quần chúng nổi dậy đánh địch. Sự kết hợp các mặt đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và địch vận đã được nghĩa quân Lam Sơn vận dụng và phối hợp chặt chẽ trong quá trình chiến đấu từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba trở đi, luôn luôn lấy đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và địch vận hỗ trợ cho đấu tranh quân sự, cho chiến thắng, và lấy đấu tranh quân sự đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và công tác địch vận thành công.
_____________________________________
1. Lê Thánh Tôn, Quỳnh uyển cửu ca (1494).
2. Lê Quý Đôn, Toàn Việt thi lục, t. III, q. 7.
3. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, bản dịch tiếng Việt của Phạm Trọng Điềm, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1962, tr. 311.
4. Dương Bá Cung, Bình luận chư thuyết, trong Ức Trai di tập, q. 5.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2016, 07:57:51 pm »




ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ

Đấu tranh chính trị của Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn trong giai đoạn chiến tranh sắp tới, nhằm hai mục đích: vận động quần chúng nổi dậy đánh địch và thu đất giành dân, phá vỡ chính quyền địch, lập chính quyền ta. Đó cũng là những hình thức đấu tranh kết hợp với nhau rất chặt chẽ, quyện vào nhau như một, không tách rời; tách rời thì khó thắng lợi, hoặc thắng lợi nhưng không bền vững.

- Vận động quần chúng bốn phương nổi dậy

Nguyễn Trãi đặc biệt chú trọng sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, vận động quần chúng nhân dân nổi dậy cùng nghĩa quân đánh địch. Ông chủ trương "Một khi cờ nghĩa đã phất, bốn phương nổi dậy như ong", “Một khi nghĩa binh đã dấy, bốn phương kéo đến như mây". Những hình ảnh:

Kẻ hào kiệt căm thù tức giận nghiến răng
Bậc phụ lão cảm khích mừng vui rơi lệ


mà Nguyễn Trãi nói đến trong Chí Linh sơn phú, hoặc những hình ảnh nghĩa quân "đi đến đâu, người ta nghe tiếng là quy phụ, cùng hợp sức để vây thành"1, "tranh nhau đến cửa quân, xin liều chết đánh giặc"2, "tranh nhau đem trâu dê, cơm nước đến khao quân và đều hưởng ứng vây sát các thành"3 chính là những hình ảnh nhân dân nổi dậy đánh địch.

Các sách sử thường ghi việc nghĩa quân "đi tuần" nơi này nơi khác. "Đi tuần" là một hình thức võ trang tuyên truyền, một hình thức đánh địch bằng quân sự kết hợp với vận động quần chúng nổi dậy đánh địch. Đem một nghìn quân đi tuần Thanh Hóa, đem mấy nghìn quân đi tuần Đông Đô, nếu không có sự kết hợp của quần chúng nổi dậy với tiến công quân sự thì không thể nào giành được đất, lập được chính quyền, giam chân được hàng chục vạn quân địch trong các thành mà chúng không xông ra đánh cướp lại các châu huyện. Quân ít, nhưng "Quân đi đến đâu, nghĩa thanh vang dậy, dân chúng bốn phương dắt díu nhau mà đến". Đó là hình ảnh của sự kết hợp tiến công quân sự và quần chúng nổi dậy.

Tiến công địch bằng quân sự kết hợp đánh địch bằng sức mạnh của quần chúng nhân dân nổi dậy đã là biện pháp tốt nhất để nghĩa quân Lam Sơn thực hiện phương châm "lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thắng mạnh", chỉ với khoảng chưa đầy một vạn quân lúc ban đầu, chia đi các ngả, đã lần lượt đánh lấy lại gần hết đất đai cả nước, trừ mấy thành giặc còn giữ được. Tiến công địch bằng quân sự kết hợp đánh địch bằng sức mạnh của quần chúng nổi dậy là sự thể hiện sức mạnh của cả dân tộc để cùng đánh giặc. Địch dù quân đông, vũ khí nhiều đến đâu cũng phải thất bại.
____________________________________
1, 2, 3. Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, t. III, tr. 21, 23.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2016, 08:37:12 pm »


- Thu đất, giành dân, phá chính quyền địch, lập chính quyền ta

Làm chiến tranh giải phóng không chỉ đánh địch mà còn đòi hỏi phải tiến hành song song cả hai mặt: vừa đánh giặc, vừa dựng nước, đánh giặc đến đâu dựng nước đến đấy. Muốn dựng nước thì cùng với việc đánh địch phải thu đất, giành dân. Có đất, có dân mới xây dựng được hậu phương ngày càng rộng lớn, làm chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến đánh thắng giặc. Trong giai đoạn chiến đấu sắp tới, nghĩa quân Lam Sơn đặc biệt chú trọng việc thu đất, giành dân, coi đó là một mục tiêu chiến đấu rất quan trọng. Cho nên đi đến đâu, cùng với việc đánh địch, nghĩa quân đều nhanh chóng "chiếm lấy đất, chiêu phủ nhân dân" như Nguyễn Trãi đã nói trong Lam Sơn thực lục. Sau này, đánh Nghệ An, đánh Tân Bình, Thuận Hóa, đánh Thanh Hóa, đánh Đông Đô, cũng đều như thế cả. Kể lại những bước tiến quân của nghĩa quân trong giai đoạn chiến đấu sau, Nguyễn Trãi nhấn mạnh:

      Đất Nghệ An đã thuộc về ta.
                                      (Chí Linh sơn phú)

      Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh đã thuộc về ta
      Tuyển quân tiến thẳng Đông Đô cũng thu hết đất.

                                      (Bình Ngô đại cáo)

Đi tới đâu nghĩa quân cũng nhanh chóng thu lấy đất. Thành Nghệ An vẫn còn địch, nhưng đất Nghệ An đã thuộc về ta. Thành Tây Đô địch vẫn giữ, nhưng đất Tây Kinh tức đất Thanh Hóa đã thuộc về ta. Tại miền Bắc, tức Đông Đô, thành Đông Quan và một số thành khác, địch vẫn giữ, nhưng đất toàn miền Đông Đô ta đã thu lấy hết. "Non sông muôn dặm đã thu lại, chợ búa Đông Đô chẳng đổi thay" (Chí Linh sơn phú).

Coi việc thu đất, giành dân làm mục tiêu chiến đấu hàng đầu, nghĩa quân đã nhanh chóng dồn toàn bộ quân địch vào trong mấy thành lũy trơ trọi để vây hãm, khống chế, buộc chúng phải lần lượt đầu hàng cho bằng hết.

Đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị còn đòi hỏi phải vừa tiêu diệt lực lượng vũ trang của địch, vừa phá vỡ chính quyền địch, thành lập chính quyền của ta, nhanh chóng xây dựng chính quyền độc lập trên toàn quốc. Có chính quyền độc lập trên phạm vi rộng lớn của đất nước là có chỗ dựa vững mạnh để tiến hành đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao với địch. Nhanh chóng thu đất, giành dân, lập chính quyền của mình thì mới nhanh chóng thực hiện được hai nhiệm vụ cơ bản của chiến tranh cứu nước là giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Cảnh tượng mà Nguyễn Trãi miêu tả trong Chí Linh sơn phú: "Giỏ cơm bầu nước, người xin theo chật đường tấp nập", hoặc như Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi chép lại: nhân dân "dắt díu nhau đến như đi chợ"1, nếu chính quyền địch ở các địa phương vẫn còn thì không thể có như thế. Những cảnh dân "đem hết trâu thóc của người Minh cấp cho quân sĩ"2 càng nói rõ chính quyền các địa phương, các châu huyện đã thuộc về ta, về nhân dân Việt Nam, thì mới làm như thế được.
___________________________________
1, 2. Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, t. III, tr. 20, 21, 23.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2016, 08:45:44 pm »


ĐÁNH MẠNH VÀO LÒNG ĐỊCH

"Đánh mạnh vào lòng địch" là một bộ phận của đấu tranh chính trị, mà Nguyễn Trãi đã dùng để chỉ hai hình thức đấu tranh với địch:

1. Dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch, ngụy ở các thành.

2. Đấu tranh hòa đàm với bọn chủ tướng địch, buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước.

Trong suốt quá trình đánh địch sau này cho tới khi toàn thắng, Nguyễn Trãi đã đảm nhiệm gần như toàn bộ công tác "đánh mạnh vào lòng địch". Ông viết gửi cho địch, ngụy hàng trăm bức thư để dụ hàng, để hòa đàm. Ông trực tiếp tới một số thành để khuyên địch ra hàng. Ông năm lần thân chinh vào thành Đông Quan đàm phán với chủ tướng địch. Ông đã làm công việc đánh vào lòng địch thật kiên trì, thật dũng cảm, thật tài giỏi và ông đã thành công rực rỡ.

- Dụ hàng

Công tác dụ hàng của Nguyễn Trãi nhằm hai mục đích:

1. Làm binh vận, dụ địch, ngụy bỏ hàng ngũ, bỏ thành, ra hàng.

2. Vận động địch, ngụy phản chiến nộp thành đem vũ khí ra hàng.

Ông không dụ hàng một cách chung chung, mà ông đề ra những chính sách đối xử rất cụ thể. Đối với địch, ngụy ra hàng, trước hết ông khẳng định họ không bị giết, gia đình vợ con được đối xử tử tế: "Chúng ta đã xét những việc đắc thất của cổ nhân, như Bạch Khởi nước Tần, Hạng Vũ nước Sở, giết kẻ đầu hàng trái lời đã ước, chúng ta quyết không làm như thế..."1 và "Quan quân cùng vợ con tài sản không bị xâm phạm mảy may"2.

Đối với ngụy, ông khuyên: "Quạ đi lại về quê cũ, cáo chết quay đầu về núi. Cầm thú còn thế, huống nữa là người?... Bọn các ngươi nếu biết rửa lòng đổi dạ, bỏ nghịch theo thuận, hoặc ở làm nội ứng hoặc ra để đầu hàng, thì không những rửa mối hổ thẹn ngày trước mà cũng được phần soi xét về sau"3 (được soi xét về sau tức là sẽ được xét công khen thưởng).

Đối với địch, nhất là bọn tướng địch, Nguyễn Trãi nói rõ: "Các ngươi nếu biết kéo quân ra thành, cùng ta hòa hảo thân tình, thì ta coi các ngươi nghĩa như anh em ruột thịt, nào chỉ những bảo toàn tính mệnh vợ con mà thôi đâu"4. Khi có tướng địch đem quân ra hàng, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ nghĩa quân tiếp đón, đối xử rất niềm nở, ân cần: "Nghe tin hiền huynh đã ra cửa thành bái yết Trần chúa chúng tôi, thật là đáng mừng lắm lắm. Từ đây giải binh, khiến nước Nam được thoát cái khổ can qua, thật may làm sao! Có thể bảo người là bậc quân tử hiểu thời cơ đó! Như thế ân tình rất hậu, trăm năm không thể quên được. Nay tôi sai người đem 15 chiếc thuyền đến đón, ngài cùng các quan và quý quyến có thể tùy tiện thu xếp hành trang lên đường"5.

Với thái độ, chính sách và sự tích cực làm công tác binh vận, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong 5 năm chiến đấu sau này, trên các chiến trường đã có hàng vạn tướng sĩ, binh lính địch lũ lượt ra hàng, hàng vạn tướng sĩ, binh lính, quan lại ngụy trở về với dân tộc.

Ngay khi đương giao chiến với địch, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn cũng chú trọng vận động quân địch phản chiến, làm cho:

      Giặc quay giáo đánh lộn cùng nhau.
                                          (Bình Ngô đại cáo)

Hoặc khi chủ tướng địch đương cố gắng tiếp tục chiến tranh hoặc hạ lệnh đẩy mạnh chiến tranh thì Nguyễn Trãi tích cực vận động quân địch ở các nơi làm phản chiến. Ông viết thư và cử người đi chiêu dụ. Có nơi, ông trực tiếp tới khuyên nhủ. Kết quả là đã có những tướng chỉ huy của địch đem toàn bộ quân sĩ, gồm vài ba nghìn người hoặc năm bảy nghìn người, bỏ thành, đem vũ khí ra hàng.

Ngay tại Đông Quan, đại bản doanh của địch, Nguyễn Trãi cũng vận động quân địch trong đó làm phản chiến, chống lệnh hành quân, hoặc đòi chấm dứt chiến tranh. Ông đã nói thẳng điều đó với bọn chủ tướng địch: "Người Nam trong thành nhớ mến chủ cũ, người Ngô ở đây khốn khổ không kham, thì những người chống các ông sẽ kế nhau ra hàng, như Trương Phi Lã Bố, các ông lại bị chính thủ hạ làm hại, đó là lẽ tất nhiên. Nay ở các thành, từ Đô ty trở xuống đều căm giận bọn các ông lừa dối, khuyên ta làm cỏ cả thành. Hoặc có kẻ trèo lũy trốn ra, cáo tố cả việc sắp đặt chiến cụ, sửa đóng xe thang. Những người bị khốn khổ sẽ giết lẫn nhau, hà tất phải quân sĩ của ta nữa"6.

Nguyễn Trãi đã đặt công tác vận động phản chiến lên một tầm quan trọng, mà nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược trong các thời đại trước chưa làm được và ông đã thành công.
__________________________________
1, 2. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, bản dịch, tr. 42, 43, 44.
3, 4. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, bản dịch, tr. 41, 42, 43.
5. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, bản dịch, tr. 24.
6. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, bản dịch, tr. 49.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2016, 08:47:46 pm »


- Đấu tranh hòa đàm

Đấu tranh hòa đàm, binh pháp gọi là "Phạt giao", tức đánh bằng ngoại giao hoặc đấu tranh ngoại giao.

Nhưng đánh bằng ngoại giao của binh pháp xưa không giống đấu tranh hòa đàm của Nguyễn Trãi, không phải là một hình thức đấu tranh kết hợp với đấu tranh quân sự trong chiến tranh chống xâm lược. Đánh bằng ngoại giao của binh pháp xưa là lối đánh của một đạo quân xâm lược: trước khi đem quân xâm lược nước người, hãy cho sứ sang nước người, đe dọa, dụ dỗ, buộc nước người phải đầu hàng. Khi đánh bằng ngoại giao như thế không được, thì sẽ đánh bằng quân sự, đem quân đánh chiếm nước người. Khác thế, đấu tranh hòa đàm của Nguyễn Trãi là một hình thức đấu tranh ngoại giao của chiến tranh chính nghĩa, kết hợp với đấu tranh quân sự, đi liền cùng đấu tranh quân sự nhằm chấm dứt chiến tranh đem lại hòa bình, gây lại giao hảo giữa ta và địch. Hình thức đấu tranh hòa đàm này, trong các thời đại trước, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo cũng đã sử dụng trong chiến tranh chống xâm lược, nhưng chưa được sử dụng mạnh mẽ, linh hoạt như Nguyễn Trãi và chưa được coi là một hình thức đấu tranh cần thiết, kết hợp với đấu tranh quân sự để tạm thời hòa hoãn hoặc chấm dứt chiến tranh một cách lâu dài.

Đấu tranh hòa đàm là hình thức đàm phán thương lượng với địch. Hình thức đàm phán thương lượng này, nghĩa quân sẽ luôn luôn vận dụng trong suốt quá trình chiến đấu sau này1. Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh hòa đàm của nghĩa quân Lam Sơn rất linh hoạt, tài tình. Đàm mà vẫn đánh, đánh mà vẫn đàm, khi thì nghĩa quân chủ động đàm phán, khi thì quân địch yêu cầu đàm phán. Có khi đương đàm phán, địch muốn cắt, ta vẫn kiên trì tiếp tục đàm phán, có khi địch giả đàm phán, ta từ chối không nhận, v.v... cứ liên tiếp vừa đánh vừa đàm như thế cho tới khi chiến tranh kết thúc. Đàm cho tới khi địch không thể đánh được nữa và đánh cho tới khi địch phải đàm phán đầu hàng mới thôi.

Trong suốt quá trình chiến đấu sau này, nghĩa quân Lam Sơn đã triệt để vận dụng đường lối đấu tranh tổng hợp của Nguyễn Trãi, kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và binh vận, vừa đánh địch trên chiến trường, vừa đánh địch bằng ngoại giao, vừa binh vận, lấy đấu tranh ngoại giao và binh vận hỗ trợ cho đấu tranh quân sự, lấy đấu tranh quân sự đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao và binh vận. Sinh lực, phương tiện và tinh thần chiến đấu của địch đều bị đánh.

Do sự vận dụng đường lối đấu tranh tổng hợp các mặt như thế, từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba trở đi, nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi liên tiếp cho tới ngày toàn thắng, không gặp phải những thất bại, những lúc quân tản lương hết, phải rút về ẩn tránh một nơi, như trong thời gian 5 năm đầu chiến đấu ở miền tây Thanh Hóa. Cho nên kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và binh vận là một đường lối đấu tranh rất mầu nhiệm trong chiến tranh giải phóng dân tộc và đã trở thành một truyền thống đấu tranh của dân tộc ta. Đó là một trong những kế sách rất hay mà Nguyễn Trãi đã hiến cho phong trào Lam Sơn để đánh thắng quân Minh xâm lược.
____________________________________
1. Trong thời phong kiến ở các nước phương Đông, viên chủ tướng đem quân đi xâm lược, khi ra khỏi nước, có toàn quyền định đoạt mọi vấn đề chiến sự: đánh như thế nào, đánh hay không đánh, tiến hành chiến tranh lâu dài hay chấm dứt chiến tranh. Cho nên đàm phán thương lượng trực tiếp với bọn chủ tướng địch tại chiến trường có tầm quan trọng như đàm phán với bọn vua tôi địch tại triều đình. Hòa hoãn, đình chiến, tiếp tục chiến tranh hay chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước, bọn chủ tướng địch có quyền quyết định, tự ý thực hiện và thông báo cho triều đình chúng biết. Do đấy việc đàm phán thương lượng với chủ tướng địch mang tính chất ngoại giao, không phải binh vận. Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã nhiều lần tiến hành đàm phán với bọn Trần Trí, Sơn Thọ trong các năm 1423, 1424, 1425 và với Vưong Thông trong suốt cả năm 1427 là đàm phán ngoại giao. Song song với đàm phán ngoại giao, Nguyễn Trãi vẫn tiến hành binh vận, kêu gọi binh lính, tướng lĩnh địch, ngụy ở các thành ra hàng. Mọi việc ăn ở và tính mạng sống còn của bọn hàng binh hàng tướng là tùy thuộc ở sự đãi ngộ của ta. Trong những thư từ của Nguyễn Trãi gửi cho địch còn lại đến ngày nay, thì những văn kiện ngoại giao còn lại nhiều hơn văn kiện binh vận.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2016, 08:51:38 pm »


ĐẤU TRANH HÒA ĐÀM MỞ ĐẦU MỘT GIAI ĐOẠN
ĐÁNH MẠNH VÀO LÒNG ĐỊCH

Về Chí Linh lần này Nguyễn Trãi bắt đầu vận dụng kế sách đấu tranh hòa đàm để mở đầu cho một giai đoạn chiến tranh mới, giai đoạn đánh mạnh vào lòng địch, kết hợp với đánh mạnh bằng quân sự và bằng sức mạnh của quần chúng nổi dậy để đánh bại hẳn quân địch.

Nghĩa quân Lam Sơn về Chí Linh lần này, cũng như hai lần trước là để củng cố lực lượng tiếp tục chiến đấu với địch. Nhưng hai lần trước, nghĩa quân ở vào thế bị động đối phó, phải chờ địch rút khỏi Chí Linh thì trở về Lam Sơn lo củng cố lực lượng. Lực lượng củng cố chưa được bao nhiêu, địch lại đến đánh, nghĩa quân lại phải rời khỏi Lam Sơn để lo đương đầu với chúng. Rồi khi đánh khi lui, khi được khi thua, cuối cùng lại chạy về núi Chí Linh ẩn náu và lo củng cố lực lượng. Lần này về Chí Linh, nghĩa quân quyết tâm khắc phục tình trạng đó. Các lãnh tụ nghĩa quân không chỉ lo củng cố lực lượng mà còn muốn phát triển lực lượng mạnh mẽ hơn nữa, tạo nên những điều kiện thuận lợi để đánh lâu dài và đánh thắng hẳn địch. Muốn làm được như vậy, muốn tập trung mọi cố gắng, mọi công sức vào việc xây dựng lực lượng, thì việc trước tiên là phải tạo được cơ hội rảnh tay đối phó với địch, có thời gian hòa hoãn với địch. Mà muốn hòa hoãn thì phải đàm phán thương lượng với địch. Đây là một việc, trong 5 năm qua, từ khi khởi nghĩa bùng nổ tới bấy giờ, nghĩa quân chưa hề làm. Đàm phán hòa hoãn với địch có thể được không, địch có chịu đàm phán, hòa hoãn không. Đàm phán, hòa hoãn như thế nào để không thương tổn đến danh dự, không nguy hiểm tới sự sống còn của nghĩa quân. Đó là những điều các lãnh tụ nghĩa quân cần tính toán, cân nhắc. Nguyễn Trãi đã được trao trách nhiệm trực tiếp nghiên cứu trù liệu việc đàm phán.

Muốn biết có thể đàm phán, hòa hoãn được với địch hay không, thì trước hết phải thấy được tình thế của địch. Có buộc địch phải đàm phán, hoặc khiến địch sẵn sàng đàm phán, nếu ta chủ động đặt vấn đề. Tình thế của địch thể hiện không chỉ ở trên chiến trường Việt Nam mà cả ở bên nước chúng. Tình thế đó Nguyễn Trãi đã thấy rất rõ. Địch đương gặp nhiều lúng túng, khó khăn ở ngay bên nước chúng về các vấn đề quân sự. Người Minh đương phải lo chống giữ với người Ngõa Thích ở miền biên giới phía tây và đương có chiến tranh lớn với người Thát Đát ở miền biên giới phía bắc. Trong tình hình đó, chính bọn vua tôi nhà Minh tại triều đình là bọn chủ mưu xâm lược Việt Nam, cũng muốn hòa hoãn, dụ hàng nghĩa quân Lam Sơn, hơn là tiếp tục dùng biện pháp quân sự. Vì chúng ở cái thế không thể tăng viện cho quân đội xâm lược của chúng ở Việt Nam. Từ năm 1422, chúng phải dốc lực lượng cả nước ra để đối phó với những cuộc tiến công của quân Thát Đát ở biên giới phía bắc. Tình hình thực tế đó ở bên nước Minh không cho phép triều đình nhà Minh nghĩ đến việc mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, nếu chưa phải rút bớt quân tướng của chúng ở Việt Nam để đưa lên chiến trường phía bắc đã là may lắm rồi. Tình thế quân Minh và triều đình nhà Minh đương bị sa lầy trong chiến tranh ở miền biên giới phía bắc và phía tây. Nguyễn Trãi biết lắm, nên trong mấy bức thư đầu tiên gửi cho tổng binh địch Trần Trí để đàm phán hòa hoãn, Nguyễn Trãi đã nhắc khéo: "...xin hoặc cho đi đánh Bắc để lập công hoặc cho theo dẹp Tây để chuộc tội"1. Nguyễn Trãi không những thấy rõ những khó khăn, lúng túng về quân sự của triều đình nhà Minh mà còn thấy cả những lục đục trong nội bộ của chúng. Cho nên trong những văn từ của ông trao đổi  với địch sau này, ông luôn luôn nhấn mạnh cái "cơ táng loạn"2 của nhà Minh "bên trong có họa tiêu tường bên ngoài có giặc bắc biên, đại thần lấn vị, người dưới chuyên quyền, hạn hán hoàng trùng luôn năm tai họa, bốn phương đạo tặc nổi dậy như ong"3.
________________________________________
1. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, thư số 2 gửi Trần Trí.
2, 3. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, thư số 31; xem thêm các thư số 8, 35, 37, 38.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM