lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #330 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2013, 08:44:47 pm » |
|
ບົດທີ 8 ປະເທດລາວ ປະເທດລາວຕັ້ງຢູ່ແຫລມອິນດູຈີນ, ທິດເໜືອຕິດກັບປະເທດຈີນ, ທິດໃຕ້ຕິດກັບປະເເທດກຳ ປູເຈຍ, ທິດຕາເວັນອອກຕິດກັບປະເທດຫວຽດ ນາມ, ທິດຕາເວນຕົກຕິດກັບປະເທດໄທແລະມຽນມາ. ຢູ່ທາງພາກເໜືອແລະພາກຕາເວນອອກມີພູຫລາຍ. ພູທີ່ສູງກວ່າໝູ່ແມ່ນພູເບ້ຍ ເຊິ່ງຕັ້ງຢູ່ ແຂວງຊຽງຂວາງ. ສ່ວນຢູ່ທາງຕາເວນຕົກມີແມ່ນ້ຳຂອງ ເຊິ່ງເປັນແມ່ນ້ຳໃຫຍ່ ມີຄວາມສຳຄັນຕໍ່ ການຄົມມະນາຄົມທາງນ້ຳຂອງປະເທດ. ປະເທດລາວປະກອບດ້ວຍ 17 ແຂວງ. ປັດຈຸບັນມີພົນລະເມືອງປະມານ 5.600.000 ຄົນ (ຫ້າລ້ານຫົກແສນຄົນ). ປະຊາຊົນລາວປະກອບ ດ້ວຍຊົນເຜົ່າຕ່າງໆ 49 ເຜົ່າ. ປະເທດລາວ ສ້າງຕັ້ງເປັນ ສາທາລະນະລັດປະຊາທິດປະໄຕປະຊາຊົນລາວ ໃນວັນທີ 2 ທັນວາ ປີ 1975. ຢູ່ໃນປະເທດລາວ ມີສະຖານທີ່ທ່ອງທ່ຽວຫລາຍແຫ່ງ. ນອກຈາກນະຄອນຫລວງວຽງຈັນ ແລ້ວ, ກໍຍັງມີອີກຫລາຍແຂວງທີ່ເຮັດໃຫ້ພວກເຮົາ ຮູ້ປະຫວັດສາດ, ສີລະປະວັດທະນະທຳ, ສັງຄົມ ແລະທຳມະຊາດຂອງລາວ. ຢູ່ຫລວງພະບາງມີຕາດກວາງຊີ, ຖ້ຳຕິ່ງ, ທາດພູສີ ແລະ ວັດເກົ່າແກ່ ຫລາຍແຫ່ງ. ເມືອງຫລວງພະບາງເປັນເມືອງເກົ່າແກ່ຂອງປະເທດລາວ ເຊິ່ງເປັນເມືອງມໍລະດົກ ໂລກ. ສ່ວນຢູ່ຈຳປະສັກມີນ້ຳຕົກຄ ອນພະເພັງແລະວັດພູຈຳປະສັກ ເຊິ່ງປັດຈຸບັນກໍເປັນສະຖານ ທີ່ມໍລະດົກໂລກເຊັ່ນກັນ. ຢູ່ຊຽງຂວາງມີທົ່ງໄຫຫີນ ເຊິ່ງເປັນວັດຖຸບູຮານທີ່ມີຊື່ສຽງ ແລະກຳລັງໄດ້ ຮັບການສະເໜີໃຫ້ເປັນມໍລະດົກໂລກອີກແຫ່ງໜຶ່ງຂອງລາວ. Phiên âmBốt thi 8 Pạ thệt Lao Pạ thệt Lao tặng dù lẻm In-đu-chin, thít nửa tít kặp pạ thệt Chin, thít tạy tít kặp pạ thệt Căm-pu-chia, thít ta vên oọc tít kặp pạ thệt Việt Nam, thít ta vên tốc tít kặp pạ thệt Thay lẹ Miên-ma. Dù thang p’hạc nửa lẹ ta vên oọc mi p’hu lải. P’hu thì sủng quà mù mèn P’hu Bịa xầng tặng dù khoẻng Xiêng Khoảng. Suồn dù thang ta vên tốc mi mè nặm khoỏng xầng pên mè nặm nhày mi khoam sẳm khăn tò kan khôm mạ na khôm thang nặm khoỏng pạ thệt. Pạ thệt Lao pạ kọp đuội 17 khoẻng. Pắt chu băn nị p’hôm lạ mương pạ man 5.600.000 khôn (hạ lạn hốc sẻn khôn). Pạ xa xôn Lao pạ kọp đuội xôn p’hầu tàng tàng 49 p’hầu. Pạ thệt Lao sạng tặng pên sả tha lạ nạ lắt pạ xa thị pạ tay pạ xa xôn Lao nay văn thi 2 thăn va pi 1975. Dù nay pạ thệt Lao mi sạ thản thì thoòng thiều lải hèng. Noọc chạc nạ khon luổng Viêng Chăn lẹo, ko nhăng mi ịc lải khoẻng thì hết hạy p’huộc hau hụ pạ vắt sạt, sỉ lạ pạ vắt thạ nạ thăm, sẳng khôm lẹ thăm mạ xạt khoỏng Lao. Dù Luổng P’hạ Bang mi tạt Kuang xi, Thậm Tình, Thạt P’hu Sỉ lẹ vắt kầu kè lải hèng. Mương Luổng P’hạ Bang pên mương kầu kè khoỏng pạ thệt Lào xầng pên mương mo lạ đốc lôộc. Suồn dù Chăm Pa Sắc, mi nặm tốc Khon P’hạ P’hêng lẹ Vắt P’hu Chăm Pa Sắc xầng pắt chu băn ko pên sạ thản thì mo lạ đốc lôộc xền kăn. Dù Xiêng Khoảng mi Thồng Hay Hỉn xầng pên vắt thủ bu han thì mi xừ siểng lẹ kăm lăng đạy hắp kan sá nở hạy pên mo lạ đốc lôộc ịc hèng nừng khoỏng Lao. ຄຳສັບ khăm sắp từ vựngແຫລມ lẻm bán đảo ທິດ thít phương, hướng ເໜືອ nửa bắc ຕິດກັບ tít kặp tiếp giáp ໃຕ້ tạy nam ຕາເວັນອອກ ta vên oọc mặt trời mọc, phương đông ຕາເວນຕົກ ta vên tốc mặt trời lặn, phương tây ພາກ p’hạc vùng, miền ພູ p’hu núi ແມ່ນ້ຳ mè nặm sông ຄົມມະນາຄົມ khôm mạ na khôm giao thông, sự đi lại ທາງນ້ຳ thang nặm đường thuỷ ປະກອບດ້ວຍ pạ kọp đuội bao gồm ພົນລະເມືອງ p’hôn lạ mương dân cư ປະມານ pạ man khoảng chừng ຊົນເຜົ່າ xôn p’hầu bộ tộc ສ້າງຕັ້ງ sạng tặng thành lập, xây dựng ສາທາລະນະລັດ sả tha lạ nạ lắt cộng hòa ປະຊາທິດປະໄຕ ọâp xa thi pạ tay dân chủ ປະຊາຊົນ pạ xa xôn nhân dân ແຫ່ງ hèng vùng, miền, khu vực, loại ນະຄອນຫລວງ nạ khon luổng thủ đô ປະຫວັດສາດ pạ vắt sạt môn lịch sử ສີລະປະ sỉ lạ pạ nghệ thuật ວັດທະນະທຳ vắt thạ nạ thăm văn hóa ສັງຄົມ sẳng khôm xã hội ຕາດ tạt thác, ghềnh ຖ້ຳ thặm hang, động ທາດ thạt tháp ເມືອງ mương vùng, huyện, thành thị ເກົ່າແກ່ kầu kè cổ xưa ມໍລະດົກໂລກ mo lạ đôốc lôộc di sản thế giới ນ້ຳຕົກ nặm tốc thác nước ເຊັ່ນກັນ xền kắn như nhau ທົ່ງໄຫຫີນ thồng hay hỉn Cánh đồng chum ສະເໜີ sá nở đề nghị Bài dịchBài thứ 8 Nước Lào Nước Lào nằm trên bán đảo Đông Dương, phía bác giáp với Trung Quốc, phía nam giáp với Cămpuchia, phía đông giáp với Việt nam, phía tây giáp với Thái Lan và Myanma. Ở phía bắc và phía đông có nhiều núi, cao nhất là ngọn P’hu Bịa nằm ở tỉnh Xiêng Khoảng, còn ở phía tây có dòng sông Mê Kông là một dòng sông lớn có tầm quan trọng trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ của quốc gia. Nước Lào bao gồm 17 tỉnh. Hiện nay số dân có vào khoảng 5.600.000 người (năm triệu sáu trăm ngàn người). Nhân dân Lào bao gồm 49 bộ tộc khác nhau. Đất nước Lào đã trở thành nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào từ ngày 2-12-1975. Ở trên đất nước Lào có nhiều điểm tham quan du lịch. Ngoài thủ đô Viêng Chăn ra, còn có nhiều tỉnh làm cho chúng ta hiểu biết về lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, xã hội và thắng cảnh thiên nhiên của Lào. Tại tỉnh Luổng P’hạ bang có thác Kuang Xi, động Thậm Tìng, đỉnh núi P’hu Sỉ và rất nhiều chùa cổ. Kinh đô Luổng P’hạ bang là vùng đất cổ xưa của Lào đã được công nhận là di sản thế giới. Ở tỉnh Chăm Pa Sắc có thác Khon P’hạ P’hêng và chùa Vắt P’hu Chăm Pa Sắc hiện nay cũng đã được công nhận là di sản thế giới. Tại tỉnh Xiêng Khoảng có Cánh đồng Chum là khu di tích cổ nổi tiếng và đang đề nghị để được công nhận là một di sản thế giới nữa của Lào.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #331 vào lúc: 24 Tháng Tư, 2013, 08:43:11 pm » |
|
ບົດທີ 9 ຊົນນະບົດ ກັບຕົວເມືອງ ເມື່ອໄດ້ຍິນຄຳວ່າ “ຊົນນະບົດ” ກໍຈະເຮັດໃຫ້ພວກເຮົາຄຶດເຖິງສະພາບທຳມະຊາດອັນສວຍ ສົດງົດງາມຂຶ້ນມາໂລດ. ຄົນທີ່ດຳລົງຊີວິດຢູ່ໃນ ຊົນນະບົດ, ສ່ວນຫຼາຍຈະຫາກິນຕາມທຳມະຊາດ ເຊັ່ນ ເຂົ້າປ່າຫາຜັກ, ລ່າເນື້ອ, ລົງນ້ຳຫາປາ ແລະເຮັດໄຮ່ເຮັດນາຕາມລະດູການ. ເຖິງແມ່ນວ່າການ ດຳລົງຊີວິດຂອງເຂົາເຈົ້າອາດຈະໄກຄວາມຈະເລີນກໍຕາມ, ແຕ່ເຂົາເຈົ້າກໍມີນິໄສເອື້ອເພື້ອເຜື່ອແຜ່, ຢູ່ແບບສະບາຍ, ມີຄວາມດຸໝັ່ນຂະຫຍັນພຽນ ແລະເບິກບານມ່ວນຊື່ນຢູ່ນຳທຳມະຊາດ. ສ່ວນຕວເມືອງ ເຊິ່ງມີສະພາບກົງກັນຂ້າມກັບຊົນນະບົດນັ້ນ, ຈະມີຄວາມຈະເລີນກ້າວໜ້າ, ມີເຕັກນິກອັນທັນສະໄໝ. ສະພາບແວດລ້ອມຂອງ ເຂົາເຈົ້າແຕກຕ່າງກັນຫລາຍ. ຢູ່ໃນຕົວເມືອງມີ ຮ້ານຄ້າ, ຫ້ອງການຕ່າງໆ, ແຕ່ຊ້ຳພັດບໍ່ເຫັນປ່າໄມ້ທຳມະຊາດ. ດັ່ງນັ້ນ, ອາຊີບຂອງຄົນ ໃນເມືອງ ມັກຄ້າຂາຍຫາກຳໄລ, ຫລືເປັນພະກັກງານກິນເງິນເດືອນ: ໄປການຕາມໂມງ, ເລີກການແລ້ວຟ້າວ ເມືອ, ຢູ່ແບບປະຢັດເງິນປະຢັດ ເວລາ. ອາດຈະເຫັນວ່າໝັ່ນຢູ່ນຳເວລາກໍໄດ້. ຄວາມແຕກຕ່າງລະຫວ່າງຊົນນະບົດກັບຕົວເມືອງນັ້ນ ເກີດມີຂຶ້ນແຕ່ຍາມໃດນັ້ນ ບໍ່ມີໃຜ ຕອບໄດ້. ບ່ອນໃດດີກວ່າກໍຄືຊິຕອບຍາກ. ແຕ່ເວົ້າລວມ ແລ້ວ, ບ່ອນໃດກໍເປັນສະຖານທີ່ພັກພາອາ ໄສທີ່ໃຫ້ຄວາມສະຫງົບສຸກ ແລະທັງເປັນສະຖານທີ່ໃຫ້ຄວາມຫວັງໃນຊີວິດຂອງແຕ່ລະຄົນໄດ້ຄືກັນ. ພວກເຮົາຄວນຈະຈື່ໄວ້ວ່າ ເມື່ອໄປຕ່າງແຂວງ ຫລືຕ່າງປະເທດແລ້ວ, ຢ່າຟ້າວເວົ້າວ່າບ່ອນ ໃດຈະເລີນກວ່າ, ເປັນຕາຢູ່ກວ່າ. ສິ່ງສຳຄັນແມ່ນ ພວກເຮົາໃຊ້ເວລາແນວໃດກັບຫຍັງ. ບາງເທື່ອ ເຮົາອາດຈະພົບຄຳຕອບທີ່ວ່າ ຄຸນຄ່າຂອງຊີວິດເຮົາແມ່ນຂຶ້ນກັບຄວາມພະຍາຍາມ ແລະມານະຈິດ ຂອງຕົນ. Phiên âmBốt thi 9 Xôn nạ bốt kắp tua mương Mừa đạy nhin khăm và “xôn nạ bốt” ko chạ hết hạy p’huộc hau khứt thẩng sá p’hạp thăm mạ xạt ăn suổi sột ngột ngam khựn ma lột. Khôn thì đăm lôông xi vít dù nay xôn nạ bốt, suồn lải chạ hả kin tam thăm mạ xạt xền khậu pà hả p’hắc, là nựa, lôông nặm hả pa lẹ hết hày hết na tam lạ đu kan. Thẩng mèn và kan đăm lôông xi vít khoỏng khẩu chậu ạt chạ kay khoam chạ lơn ko tam, tè khẩu chậu ko mi nị sảy ựa p’hựa p’hừa p’hè, dù bẹp sạ bai, mi khoam đu mằn khạ nhẳn p’hiên lẹ bớc ban muồn xừn dù năm thăm mạ xạt.
Suồn tua mương xầng mi sá p’hạp kôông kăn khạm kắp xôn nạ bốt nặn, chạ mi khoam chạ lơn cạo nạ, mi tếc níc ăn thăn sạ mảy. Sạ p’hạp vẹt lọm khoỏng khẩu chậu tẹc tàng kăn lải. Dù nay tua mương mi hạn khạ, hoọng kan tàng tàng, tè xặm p’hắt bò hển pà mạy thăm mạ xạt. Đằng nặn, a xịp khoỏng khôn nay mương mắc khạ khải hả kăm lay, lử pên p’hạ nắc ngan kin ngân đươn: pay kan tam môông, lợc kan lẹo phạo mưa, dù bẹp pạ dắt ngân, pạ dắt vê la. Ạt chạ hển và đu mằn dù năm vê la ko đạy.
Khoam tẹc tàng lạ vàng xôn nạ bốt kắp tua mương nặn kợt mi khựn tè nham đay nặn bò mi p’hảy tọp đạy. Bòn đây đi quà ko khư xị tọp nhạc. Tè vạu luôm lẹo, bòn đây ko pên sạ thản thì p’hắc p’ha a sảy thì hạy khoam sạ ngộp súc lẹ thăng pên sạ thản thì hạy khoam vẳng nay xi vít khoỏng tè lạ khôn đạy khư kăn.
P’huộc hau khuôn chạ chừ vạy và mừa pay tàng khoẻng lử tàng pạ thệt lẹo, dà phạo vạu và bòn đây chạ lơn quà, pên ta dù quà. Sìng sẳm khăn mèn p’huộc hau xạy vê la neo đây kắp nhẳng. Bang thừa hau ạt chạ p’hốp khăm tọp thì và khun khà khoỏng xi vít hau mèn khựn kắp khoam p’ha nha nham lẹ ma nạ chít khoỏng tôn.
ຄຳສັບ khăm sắp từ vựng ໄດ້ຍິນ đạy nhin nghe thấy ຊົນນະບົດ xôn nạ bốt nông thôn ຄຶດເຖິງ khứt thẩng nghĩ đến ສວຍສົດງົດງາມ suổi sột ngột ngam tươi đẹp ໂລດ lột ngay, lập tức ດຳລົງຊີວິດ đăm lôông xi vít cuộc sống ສ່ວນຫຼາຍ suồn lải phần lớn, chủ yếu là… ຫາກິນ hả kin kiếm ăn ຕາມ tam theo ລ່າເນື້ອ là nựa săn bắn thú ລົງ lôông xuống ເຮັດໄຮ່ hết hày làm nương ເຮັດນາ hết na làm ruộng ລະດູການ lạ đu kan mùa ເຖິງແມ່ນວ່າ thẩng mèn và mặc dù ຈະເລີນ chạ lơn nền văn minh ນິໄສ nị sảy thói quen, tập quán ເອື້ອເພື້ອເຜື່ອແຜ່ ựa p’hựa p’hừa p’hè độ lượng, khoan dung ສະບາຍ sạ bai mạnh khỏe, vui lòng ດຸໝັ່ນຂະຫຍັນພຽນ đu mằn khạ nhẳn p’hiên cần cù, siêng năng ເບິກບານມ່ວນຊື່ນ bớc ban, muồn xừn vui tươi, giải trí ກົງກັນຂ້າມ kôông kăn khạm trái ngược, tương phản ເຕັກນິກ tếch ních kỹ thuật ທັນສະໄໝ thăn sạ mảy hiện đại ສະພາບແວດລ້ອມ sạ p’hạp vẹt lọm môi trường ຫ້ອງການ hoọng kan văn phòng ຊ້ຳພັດ xặm p’hắt rồi lại ປ່າໄມ້ pà mạy rừng cây ອາຊີບ a xịp nghề nghiệp ຄ້າຂາຍ khạ khải thương mại, buôn bán ກຳໄລ kăm lay lợi nhuận, lời lãi ກິນເງິນເດືອນ kin ngân đươn ăn lương tháng ຟ້າວ phạo vội vã, khẩn ເມືອ mưa về ປະຢັດ pạ dắt tiết kiệm ຍາມໃດ nham đay bất cứ khi nào ໃຜ P’hảy Ai ຕອບ tọp trả lời ບ່ອນ bòn chỗ, nơi ເວົ້າລວມ vạu luôm nói chung ພັກພາອາໄສ p’hắc p’ha a sảy có thể sống ສະຫງົບສຸກ sạ ngộp súc yên ổn, hạnh phúc ຄວາມຫວັງ khoam vẳng mong muốn, hy vongj ຈື່ໄວ້ chừ vậy nhớ lấy ຕ່າງແຂວງ tàng khoẻng tỉnh khác ເປັນຕາຢູ່ pên ta dù đáng lẽ ຄຳຕອບ khăm tóp câu trả lời ພະຍາຍາມ p’hạ nha nham cố gắng, nỗ lực ມານະຈິດ ma nạ chít chí khí, nghị lực Bài thứ 9 Nông thôn và thành thị
Khi nghe đến từ "Nông thôn" sẽ làm cho chúng ta liên tưởng ngay đến khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Người sinh sống ở vùng nông thôn đa phần kiếm sống dựa vào thiên nhiên như: vào rừng hái rau, săn thú, xuống sông bắt cá và làm nương rẫy theo mùa. Mặc dù đời sống sinh hoạt của họ có thể cách xa với nền văn minh, nhưng họ luôn có đức tính bao dung rộng lượng, sống một cách thoải mái, chăm chỉ cần cù và luôn vui tươi cùng với thiên nhiên. Còn thành thị có hình ảnh trái ngược hoàn toàn với nông thôn, là nơi có sự tiến bộ, có kỹ thuật tiên tiến. Môi trường của họ khác biệt rất nhiều. Trong đô thị có các cửa hàng, trụ sở văn phòng, nhưng lại không hề có rừng cây tự nhiên. Do đó, nghề nghiệp của người ở thành thị thường là buôn bán kiếm lời, hoặc là cán bộ viên chức ăn lương: đi làm đúng giờ, tan sở là vội vã về nhà, sống theo lối tiết kiệm tiền tiết kiệm thời gian. Có thể nói rằng họ luôn bị cuốn theo với thời gian cũng được. Sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị phát sinh từ khi nào cũng không ai có thể trả lời được, nơi nào tốt hơn cũng khó có thể có câu trả lời. Nhưng nói chung, nơi nào cũng là nơi cư trú sinh sống một cách yên ấm và là nơi mang lại hy vọng trong cuộc sống cho mỗi người. Chúng ta nên nhớ rằng, khi đi đến tỉnh khác hoặc đi ra nước ngoài, đừng vội nói rằng nơi nào phát triển hơn, đáng để sống hơn. Điều quan trọng là chúng ta sử dụng thời gian như thế nào? với cái gì? Đôi khi ta có thể bắt gặp câu trả lời: giá trị cuộc sống của chúng ta phụ thuộc vào sự nỗ lực và ý chí của chính bản thân mình.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #332 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2013, 07:59:34 pm » |
|
ບົດທີ 10 ກິລາ ກິລາແມ່ນກິດຈະກຳ ຫຼືການຫຼີ້ນເພື່ອຄວາມມ່ວນຊື່ນ, ທັງເປັນການຜ່ອນຄາຍຄວາມເຄັ່ງຕຶງ ແລະການອອກກຳລັງກາຍດ້ວຍທ່າທາງແບບ ຕ່າງໆ. ການຫຼີ້ນກິລາພາໃຫ້ມີສຸຂະພາບແຂງແຣງ ດັ່ງ ນັ້ນພວກເຣົາຄວນຫຼີ້ນກິລາເປັນປະຈຳ. ກິລາທີ່ປະຊາຊົນລາວເຄີຍຫຼີ້ນມາແຕ່ບູຣານ ມີເຕະກະຕໍ້, ຕີມວຍ, ຟັນດາບ, ດຶງເຊືອກ, ລອຍນ້ຳ, ຊ່ວງມ້າ, ຊ່ວງເຮືອ ເປັນຕົ້ນ. ເຖິງແມ່ນວ່າ ປັດຈຸບັນນີ້ຄົນບໍ່ຄ່ອຍນິຍົມຫຼີ້ນກິລາພື້ນເມືອງ ຫຼາຍກໍຕາມ. ແຕ່ເພິ່ນຍັງນຳມາແຂ່ງຂັນກັນໃນໂອກາດວັນບຸນປະເພນີຕ່າງໆ ເພື່ອອະນຸລັກຣັກສາ ກິລາເຫຼົ່ານີ້ໄວ້ບໍ່ໃຫ້ເສື່ອມຫາຍໄປ. ພ້ອມດຽວກັນນັ້ນ ກິລາພື້ນເມືອງບາງປະເພດກໍຍັງໄດ້ຣັບຄວາມ ນິຍົມຈາກໝູ່ຊາວໝູ່ມຢູ່ ເຊັ່ນເຕະກະຕໍ້ ເຊິ່ງ ສ່ວນຫຼາຍເຂົາເຈົ້າຈະພາກັນເຕະຢູ່ເດີ່ນວັດ ຫຼືເດີ່ນໂຣງ ຣຽນໃນຕອນເລີກການແລ້ວ. ນອກຈາກກິລາພື້ນເມືອງທີ່ກ່າວມາຂ້າງເທິງນີ້ແລ້ວ, ປັດຈຸບັນຄົນລາວໄດ້ມີໂອກາດຫຼີ້ນກິ ລາສາກົນຫຼາຍປະເພດອີກ ເຊັ່ນ ບານເຕະ, ບານສົ່ງ, ບານບ້ວງ, ປີ່ງປ່ອງ, ຕິດອກປີກໄກ່ ແລະ ອື່ນໆ. ກິລາທີ່ປະຊາຊົນລາວທຸກເພດທຸກໄວນິຍົມແມ່ນບານເຕະ. ຢູ່ແຕ່ລະໂຣງຣຽນບໍ່ວ່າປະຖົມກໍຄື ມັດທະຍົມຈະມີທີມບານເຕະປະຈຳໂຣງຣຽນຂອງຕົນ. ເວລາມີການແຂ່ງຂັນກັນຢູ່ສະໜາມກິລາ ແຫ່ງຊາດ, ຄົນທີ່ຫຼີ້ນບໍ່ເປັນກໍມັກເຂົ້າໄປເບິ່ງ ຄືກັນ. ເພິ່ນມັກເວົ້າກັນວ່າ "ກິລາເປັນຢາວິເສດ". ຖ້າຫຼີ້ນກິລາເລື້ອຍໆ, ພວກເຣົາກໍຈະມີສຸຂະພາບ ແຂງແຣງ ແລະໄດ້ເຝິກຝົນຕົນເອງໃຫ້ມີຄວາມ ມານະອົດທົນ, ຣູ້ຈັກການເສຍສະລະ ແລະການ ຣ່ວມມືກັນອີກດ້ວຍ. ດ້ວຍເຫດນັ້ນກິລາຈຶ່ງເປັນສິ່ງສຳຄັນຕໍ່ຊີວິດຂອງຄົນເຣົາທຸກໆຄົນ. Phiên âm:Bốt thi 10 Kị la Kị la mèn kít chạ kăm lử kan lịn p’hừa khoam muồn xừn, thăng pên kan p’hòn khai khoam khềng tưng lẹ kan oọc kăm lăng kai đuội thà thang bẹp tàng tàng. Kan lịn kị la p’ha hạy mi sủ khạ p’hạp khẻng heng đằng nặn p’huộc hau khuôn lịn kị la pên pạ chăm.
Kị la thì pạ xa xôn Lao khơi lịn ma tè bu han mi tệ kạ tọ, ti muôi, phăn đạp, đưng xược, loi nặm, xuồng mạ, xuồng hưa pên tộn. Thẩng mèn và pắt chu băn nị khôn bò khòi nị nhôm lịn kị la p’hựn mương lải ko tam, tè p’hần nhăng năm ma khèng khẳn kăn nay ô kạt văn bun pạ p’hê ni tàng tàng p’hừa ạ nu lắc hắc sả kị la lầu nị vạy bò hạy sườm hải pay. P’họm điêu kăn nặn kị la p’hựm mương bang pạ p’hệt ko nhăng đạy hắp khoam nị nhôm chạc mù xao nùm dù xền tệ kạ tọ xầng suồn lải khẩu chậu chạ p’ha kăn tệ dù đờn vắt lử đờn hôông hiên nay ton lợc kạn lẹo.
Noọc chạc kị la p’hựn mương thì kào ma khạng thâng nị lẹo, pắt chu băn khôn Lao đạy mi ô kạt lịn kị la sả kôn lải pạ p’hệt ịc xền ban tệ, ban sôồng, ban buộng, pìng poòng, ti đoọc pịc kày lẹ ừn ừn. Kị la thì pạ xa xôn Lao thúc p’hệt thúc vay ni nhôm mèn ban tệ. Dù tè lạ hôông hiên bò và pạ thổm ko khư mắt thạ nhôm chạ mi thim ban tệ pạ chăm hôông hiên khoỏng tôn. Vê la mi kan khèng kăn dù sạ nảm kị la hèng xạt, khôn thì lịn bò pên ko mắc khậu pay bầng khư kăn.
P’hần mắc vạu kăn và: “Kị la pên da vị sệt”. Thạ lịn kị la lượi lượi, p’huộc hau ko chạ mi sủ khạ p’hạp khẻng heng lẹ đạy phấc phổn tôn êng hạy mi khoam ma nạ ốt thôn, hụ chắc kan sỉa sạ lạ lẹ kan huồm mư kăn ịc đuội. Đuội hệt nặn kị la chừng pên sìng sẳm khăn tò xi vít khoỏng khôn hau thúc thúc khôn.
ຄຳສັບ khăm sắp từ vựng ກິລາ kị la thể thao ກິດຈະກຳ kít pạ chăm công việc ການຫຼິ້ນ kan lịn sự chơi ມ່ວນຊື່ນ muồn xừn vui chơi ຜ່ອນຄາຍ p’hòn khai giảm bớt, dịu đi ເຄັ່ງຕຶງ khềng tưng căng thẳng ອອກກຳລັງກາຍ oọc kăm lăng kai tập thể dục ທ່າທາງ thà thang tư thế ແບບ bẹp kiểu, mẫu ພາໃຫ້ p’ha hạy dẫn đến ສຸຂະພາບ sủ khạ p’hạp sức khỏe ແຂງແຣງ khẻng heng mạnh khỏe ເປັນປະຈຳ pên pạ chăm đều đặn, thường xuyên ບູຣານ bu han nguyên thuỷ, xa xưa ເຕະກະຕໍ້ tệ kạ tọ đá cầu mây ຕີມວຍ ti muôi đánh võ, đánh quyền ຟັນດາບ phăn đạp đấu kiếm ດຶງເຊືອກ đưng xược kéo dây (kéo co) ລອຍນ້ຳ loi nặm bơi lội ຊ່ວງມ້າ xuồng mạ đua ngựa ຊ່ວງເຣືອ xuồng hưa đua thuyền ເຖິງແມ່ນວ່າ thẩng mèn và mặc dù ປັດຈຸບັນນີ້ pắt chu băn nị hiện nay, bây giờ ບໍ່ຄ່ອຍ bò khòi ít khi, hiếm có ນິຍົມ nị nhôm ưa thích, ưa chuộng ແຂ່ງຂັນ khèng khẳn thi đua, cạnh tranh ໂອກາດ ô kạt nhân dịp ວັນບຸນ văn bun ngày hội ປະເພນີ pạ p’hê ni truyền thống ອະນຸລັກ a nu lắc bảo tồn, bảo vệ ຣັກສາ hắc sả giữ gìn ເລື່ອມຫາຍ lườm hải biến mất ພ້ອມດຽວກັນນັ້ນ p’họm điêu kăn nặn đồng thời ໄດ້ຣັບ đạy hắp nhận được ຄວາມນິຍົມ khoam nị nhôm đánh giá ໝູ່ຊາວໜຸ່ມ mù xao nùm tất cả thanh niên ພາກັນ p’ha kăn cùng nhau ເຕະ tệ đá ເດີ່ນ đờn sân ວັດ vắt chùa ເລີກການ lợc kan xong việc, kết thúc công việc ກ່າວ kào trình bày, phát biểu ຂ້າງເທິງ khạng thâng trên đây, ບານເຕະ ban tệ bóng đá ບານສົ່ງ ban sôồng bóng chuyền ບານບ້ວງ ban buộng bóng rổ ປິ່ງປ່ອງ pìng poòng bóng bàn ຕີດອກປີກໄກ່ ti đoọc píc kày vợt cầu lông ເພດ p’hệt loại ໄວ vay nhanh ນິຍົມ nị nhôm ưa thích ທີມບານເຕະ thim ban tệ đội bóng đá ປະຈຳ pạ chăm thường xuyên, liên tục ຕົນ tôn thân, mình ສະໜາມກິລາ sạ nảm kị la sân vận động ຢາ da thuốc ວິເສດ vị sệt đặc biệt, xuất sắc ເລື້ອຍໆ lượi lượi luôn luôn ເຝິກຝົນ phấc phổn rèn luyện ຕົນເອງ tôn êng chính bản thân, tự mình ມານະ ma nạ ý chí, sự nhẫn nại ອົດທົນ ốt thôn kiên nhẫn, cố gắng ເສຍສະລະ sỉa sạ lạ hy sinh ຣ່ວມມືກັນ huồm mư kăn cùng nhau ດ້ວຍເຫດນັ້ນ đuội p’hệt nặn do đó ສິ່ງ sìng cái, loại, điều khoản ສຳຄັນ sẳm khăn tầm quan trọng ຊີວິດ xi vít cuộc sống ຄົນເຣົາ khôn hau con người Bài dịchBài thứ 10 Thể thao Thể thao là công việc hay sự chơi cho vui, việc tập thể thao với mức độ khác nhau đều làm dịu bớt sự căng thẳng. Chơi thể thao làm cho sức khỏe cường tráng, vì vậy chúng ta nên chơi thể thao thường xuyên. Thể thao mà người dân Lào thường chơi đến từ thời xa xưa có đá cầu mây, đánh võ, đấu kiếm, kéo co, bơi lội, đua ngựa, đua thuyền chẳng hạn. Mặc dù ngày nay, người ta hiếm khi chơi những môn thể thao truyền thống, nhưng vẫn được tổ chức đua tranh trong những dịp lễ hội truyền thống khác nhau để nhằm mục đích bảo tồn giữ gìn không để bị mai một dần đi. Ngoài ra một số môn thể thao truyền thống cũng được ưa thích bởi lớp thanh niên như đá cầu mây mà phần lớn họ thường rủ nhau đá ở sân chùa hay sân trường học mỗi khi xong việc. Ngoài những môn thể thao truyền thống đã đề cập ở trên, bây giờ người dân Lào đã có dịp để chơi những môn thể thao quốc tế nữa như bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bóng bàn, cầu lông v.v... Loại thể thao mà người dân Lào ưa thích nhanh nhất là môn bóng đá. Mỗi một trường học đều có đội bóng đá của riêng mình. Thời gian có trận đấu tại sân vận động quốc gia, người không phải là người chơi cũng thích vào xem. Người ta thường nói rằng “thể thao là liều thuốc đặc biệt”. Nếu chơi thể thao thường xuyên, chúng ta sẽ có một sức khỏe cường tráng và rèn luyện cho bản thân có được sự chịu đựng bền bỉ, biết rõ được sự hy sinh và sự hợp tác hơn nữa. Do đó thể thao là điều quan trọng trong đời sống của mọi người dân.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
laoshan1234
Cựu chiến binh
Bài viết: 1474
|
|
« Trả lời #333 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2013, 10:08:09 pm » |
|
Tự xóa,nhầm
|
|
|
Logged
|
|
|
|
lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #334 vào lúc: 26 Tháng Bảy, 2013, 08:08:25 pm » |
|
ບົດທີ 11 ຄອບຄົວຄົນລາວ ຕາມທຳມະດາແລ້ວ, ຄອບຄົວຄົນລາວເປັນຄອບຄົວໃຫຍ່ ໃດຍສະເພາະແມ່ນຄອບຄົວ ຊາວນາຕາມຊົນນະບົດ. ນອກຈາກພໍ່ແມ່ກັບລູກແລ້ວ ຍັງມີປູ່ຍ່າ ຫຼືພໍ່ເຖົ້າແມ່ເຖົ້າ ແລະບາງເທື່ອກໍມີ ລຸງ, ປ້າ, ອາວ, ອາ ອາໄສຢູ່ນຳ. ຄົນລາວຖືວ່າ ເຮືອນໃດມີຄົນ 3 ຮຸ່ນທີສອງແມ່ລູກ ແລະຮຸ່ນ ທີສາມ ແມ່ຫຼານ. ໃນສັງຄົມຊົນນະບົດຢູ່ລາວສະມາຊິກທຸກຄົນໃນເຮືອນເປັນແຮງງານສຳຄັນຂອງຄອບຄົວ. ທຸກຄົນມີໜ້າທີ່ສະເພາະຂອງຕົນ: ຜູ້ໃຫຍ່ອອກ ໄປເຮັດໄຮ່ເຮັດນາ, ເດັກທີ່ໃຫຍ່ແດ່ແລ້ວກໍຊ່ວຍຜູ້ເປັນພໍ່ໄຖນາ; ສ່ວນຜູ້ເຖົ້ານັ້ນເຝົ້າເຮືອນ ແລະເບິ່ງແຍງລູກຫຼານທີ່ຍັງນ້ອຍ. ລູກຊາຍແລະ ລູກສາວທີ່ແຕ່ງດອງແລ້ວກໍແຍກອອກໄປປຸກເຮືອນຢູ່ຕ່າງຫາກ. ແຕ່ລູກສາວກັບລູກເຂີຍຫຼ້າ ມັກຈະຢູ່ກັບພໍ່ແມ່ ເພື່ອເບິ່ງແຍງພວກເພິ່ນຍາມ ແກ່ເຖົ້າ ແລະເປັນຜູ້ສືບທອດມໍລະດົກຂອງຄອບຄົວ. ຮູບແບບຄອບຄົວຢູ່ໃນເມືອງ ແຕກຕ່າງຈາກຄອບຄົວຢູ່ຊົນນະບົດ. ສະໄໝກ່ອນມີແຕ່ຜູ້ເປັນຜົວເຮັດວຽກຢູ່ນອນເຮືອນ. ສ່ວນຜູ້ເປັນເມຍແມ່ນ ເປັນແມ່ເຮືອນທີ່ເຮັດວຽກເຮືອນການຊານໃນ ຄອບຄົວ. ແຕ່ສະໄໝນີ້ ຜູ້ເປັນເມຍກໍອອກໄປເຮັດວຽກຢູ່ນອກເຮືອນເຊັ່ນດຽວກັນເພື່ອຫາລາຍໄດ້ ມາຈຸນເຈືອເສດຖະກິດຂອງຄອບຄົວ. ການເອົາລູກຂອງຄອບຄົວຢູ່ໃນເມືອງ ສ່ວນຫຼາຍມີລູກພຽງ ແຕ່ 2 ຫຼື 3 ຄົນເທົ່ານັ້ນ. ຍາດພີ່ນ້ອງໃນຄອບຄົວຄົນລາວສະໜິດສະໜົມກັນຫຼາຍ ແລະມັກໄປມາຫາສູ່ກັນເລື້ອຍໆ. ເວລາມີບັນຫາ ຫຼືເຈັບໄຂ້ໄດ້ປ່ວຍ ກໍໃຫ້ການຊ່ວຍ ເຫຼືອເຊິ່ງກັນແລະກັນເປັນຢ່າງດີ. ການໄປຢ້ຽມ ຢາມເພື່ອສະແດງຄວາມເຄົາລົບຕໍ່ພໍ່ແມ່ປູ່ຍ່າພໍ່ເຖົ້າແມ່ເຖົ້າໃນໂອກາດວັນສຳຄັນ ເຊັ່ນວັນຂຶ້ນປີໃໝ່ ຖືວ່າເປັນປະພານີໄດ້ປະຕິບັດສືບທອດກັນມາແຕ່ບູຮານນະການ. Phiên âm Bốt thi 11 Khọp khua khôn Lao Tam thăm mạ đa, khọp khua khôn Lao pên khọp khua nhày đôi sạ p’họ mèn khọp khua xao na dù tam xôn nạ bốt. Noọc chạc p’hò mè kắp lục lẹo nhăng mi pù nhà lử p’hò thậu mè thậu lẹ bang thừa ko mi lung, pạ, ao, a a sảy dù năm. Khôn Lao thử và hươn đây mi khôn 3 hùn dù năm kăn hươn nặn chạ mi khoam ốp ùn lải. Hùn thăm ít mèn p’hò mè, hùn thi soỏng mèn lục lẹ hùn thi sảm mèn lản.
Nay sẳng khôm xôn nạ bốt dù Lao sạ ma xích thúc khôn nay hươn pên heng ngan sẳm khăn khoỏng khọp khua: p’hụ nhày oọc pay hết hày hết na, đếc thì nhày đè lẹo ko xuồi p’hụ pên p’hò thảy na; suồn p’hụ thậu nặn phậu hươn lẹ bầng nheng lục lản thì nhăng nọi. Lục xai lẹ lục sảo thì tèng đoong lẹo ko nhẹc oọc pay pục hươn dù tàng hạc. Tè lục sảo kắp lục khởi lạ mắc chạ dù kắp p’hò mè p’hừa bầng nheng p’huộc p’hần nham kè thậu lẹ pên p’hụ sựp thọt mọ lạ đốc khoỏng khọp khua.
Hụp bẹp khọp khua dù nay mương tẹc tàng chạc khọp khua dù xôn nạ bốt. Sạ mảy kòn mi tè p’hụ pên p’hủa hết việc dù noọc hươn. Suồn p’hụ pên mia mèn pên mè hươn thì hết việc hươn kan xan nay khọp khua. Tè sạ mảy nị p’hụ pên mia ko oọc pay hết việc dù noọc hươn xền điêu kăn mừa hả lai đạy ma chun chưa sệt thạ kít khoỏng khọp khua. Kan au lục khoỏng khọp khua dù nay mương suồn lải mi lục p’hiêng tè 2 lử 3 khôn thầu nặn.
Nhạt p’hì noọng nay khọp khua khôn Lao sạ nít sạ nồm kăn lải lẹ mắc pay ma hả sù kăn lượi lượi. Vê la mi băn hả lử chếp khạy đạy puồi ko hả kan xuồi lửa xầng kăn lẹ kăn pên dàng đi. Kan pay diệm dam p’hừa sạ đeng khoam khâu lốp tò p’hò mè pù nhà p’hò thậu mè thậu nay ô kạt văn sẳm khăn xền văn khựn pi mày thử và pên pạ p’hê ni thì đạy pạ ti bắt sựp thọt kăn ma tè bu han nạ kan. ຄຳສັບ ແລະ ສຳນວນ Khăm sắp lẹ sẳm nuôn Từ ngữ và cụm từຕາມທຳມະດາ tam thăm mạ đa theo bình thường ໃດຍສະເພາະ đôi sạ p’họ đặc biệt là, nhất là ບາງເທື່ອ bang thừa đôi khi, có khi ອາໄສ a sảy nhờ cậy, nhờ vả, sống cùng ຖືວ່າ thử và coi ຮຸ່ນ hùn đời, thế hệ ອົບອຸ່ນ ốp ùn ấm áp ສັງຄົມ sẳng khôm xã hội ສະມາຊິກ sạ ma xích thành viên ແຮງງານ heng ngan lao động ໜ້າທີ່ nạ thì nhiệm vụ, trách nhiệm ເຮັດໄຮ່ເຮັດນາ hết hày hết na làm nương làm ruộng ໄຖນາ thảy na cày ruộng ເບິ່ງແຍງ bầng nheng chăm sóc, quan tâm ແຕ່ງດອງ tèng đoong sự kết hôn, thành lập gia đình ແຍກອອກ nhẹc oọc tách ra, chia ra ປຸກເຮືອນ pục hươn dựng nhà, làm nhà ຕ່າງຫາກ tàng hạc riêng biệt ລູກເຂີຍ lục khởi con rể ຫຼ້າ lạ cuối cùng, út ສືບທອດ sưp thọt nối tiếp ông bà ຮູບແບບ hụp bẹp mô hình ແຕກຕ່າງ tẹc tàng sự khác biệt, khác nhau ສະໄໝກ່ອນ sạ mảy kòn thời trước, lúc trước ນອກເຮືອນ noọc hươn ngoài nhà ວຽກເຮືອນການຊານ việc hươn kan xan việc trong nhà ngoài sân ຈຸນເຈືອ chun chưa giúp đỡ, bao bọc ເສດຖະກິດ sệt thạ nít kinh tế ເອົາລູກ au lục lấy con, (muốn) có con ຍາດຕິພີ່ນ້ອງ nhạt tị p’hì noọng bà con họ hàng ສະໜິດສະໜົມ ịa nít sạ nổm thân mật ໄປມາຫາສູ່ກັນ pay ma hả sù kăn đi lại thăm viếng nhau ເຈັບໄຂ້ໄດ້ປ່ວຍ chếp khạy đạy puồi lúc ốm đau ຊ່ວຍເຫຼືອ xuồi lửa giúp đỡ ຢ້ຽມຢາມ diệm dam thăm viếng ເຊິ່ງກັນແລະກັນ xầng kăn lẹ kăn lẫn nhau, qua lại ສະແດງ sạ đeng nghiêng mình ຄວາມເຄົາລົບ khoam khâu lốp tôn trọng ວັນຂຶ້ນປີໃໝ່ văn khựn pi mày ngày đầu năm mới ປະຕິບັດ pạ ti bắt thực hiện, hành động ປະຈຳ pạ chăm thường xuyên, liên tục ປະພານີ pạ p’ha ni phong tục, tập quán ຊົນນະບົດ xôn na bốt nông thôn ຊ່ວຍ xòi giúp đỡ ບູຮານນະການ bu han nạ kan cổ xưa Bài dịch Gia đình người Lào Thông thường, gia đình người Lào là gia đình lớn nhất là gia đình nông dân ở nông thôn. Ngoài bố mẹ và con ra còn có ông nội, bà nội hay ông ngoại, bà ngoại và đôi khi có cả bác trai, bác gái, chú, cô ở cùng. Người Lào coi nhà nào có 3 thế hệ ở cùng, nhà đó sẽ ấm áp nhiều. Thế hệ thứ nhất gồm bố mẹ, thế hệ thứ hai là con và thế hệ thứ ba là cháu. Trong xã hội nông thôn ở Lào, những người thành viên trong nhà là lao động chủ yếu của gia đình. Mọi người đều có nhiệm vụ riêng của mình: người lớn đi làm nương, làm ruộng, bọn trẻ lớn rồi phải đỡ đần người bố cày ruộng; còn bà già thì trông nhà và chăm sóc lũ trẻ còn bé. Con trai và con gái thành lập gia đình rồi thì tách ra làm nhà ở riêng. Còn con gái và con rể út lại thích ở cùng với bố mẹ để chăm sóc họ lúc tuổi già và là người kế thừa của gia đình. Mô hình gia đình ở thành thị có sự khác biệt với gia đình ở nông thôn. Thời trước chỉ có người chồng đi làm, còn người vợ ở nhà làm những công việc nội trợ trong gia đình. Nhưng thời nay, người vợ cũng phải đi làm ở bên ngoài để kiếm thêm thu nhập cho kinh tế gia đình. Việc sinh con của gia đình ở thành thị phần lớn cũng chỉ có từ 2 đến 3 con thôi. Bà con họ hàng trong gia đình người Lào thân mật với nhau lắm và hay đi thăm hỏi lẫn nhau luôn luôn. Những khi có công việc hay có người đau ốm đều có sự giúp đỡ lẫn nhau nhiệt tình. Việc đi thăm viếng bày tỏ sự kính trọng đối với bố mẹ, ông bà nội, ông bà ngoại trong những dịp quan trọng như ngày đầu năm mới theo phong tục tập quán được thực hiện tiếp nối từ ngàn xưa.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #335 vào lúc: 29 Tháng Bảy, 2013, 09:31:56 pm » |
|
ບົດທີ 12 ອາຫານລາວ ເຂົ້າໜຽວເປັນອາຫານຕົ້ນຕໍຂອງຄົນລາວ, ມີພຽງບາງຊົນເຜົ່າເທົ່ານັ້ນທີ່ກິນເຂົ້າຈ້າວ ເຊັ່ນ ຄົນເຜົ່າມົ້ງ ແລະເຜົ່າຢ້າວເປັນຕົ້ນ. ຄຳສັບທີ່ກ່ຽວ ຂ້ອງກັບເຂົ້າໜຽວມີຢູ່ຫຼາຍຄຳ ເຊັ່ນ "ໝ່າເຂົ້າ" ເຊິ່ງໝາຍເຖິງການເອົາເຂົ້າໜຽວໄປແຊ່ນ້ຳໄວ້ເປັນຫຼາຍຊົ່ວໂມງ, "ໜຶ້ງເຂົ້າ" ໝາຍເຖິງເອົາເຂົ້າທີ່ ໝ່າແລ້ວໄປໃສ່ຫວດຫຼືໄຫເຂົ້າ ແລ້ວຄ້າງໃສ່ໝໍ້ໝຶ້ງເທິງເຕົາໄຟ, "ສ່ວຍເຂົ້າ ຫຼືວີເຂົ້າ" ໝາຍເຖິງ ເອົາເຂົ້າໝຽວທີ່ໜຶ້ງສຸກແລ້ວ ຖອກໃສ່ກະຖາດ ແລ້ວເອົາໄມ້ກະດ້ານຫຼືບ່ວງຊວ້ານໄປມາໃຫ້ໝົດ ອາຍ ຫຼັງຈາກນັ້ນຈຶ່ງເອົາໃສ່ຕິບເຂົ້າ. ຂອງກິນກັບເຂົ້າໜຽວມີທັງປາ, ຊີ້ນງົວ, ຊີ້ນຄວາຍ, ຊີ້ນໝູ, ຊີ້ນໄກ່ , ຊີ້ນເປັດ ແລະຜັກຊະ ນິດຕ່າງໆ. ຂອງກິນພຶ້ນຖານທີ່ສຳຄັນກໍແມ່ນແຈ່ວ ເຊິ່ງມີຫຼາຍປະເພດແຈ່ວ ແຕ່ທີ່ຄົນລາວມັກທີ່ ສຸດກໍແມ່ນແຈ່ວປາແດກ. ໃນການກິນເຂົ້າແຕ່ລະຄາບ ຖ້າຂາດແຈ່ວແລ້ວ ກໍຮູ້ສຶກວ່າ ກິນເຂົ້າໃນ ຄາບນັ້ນບໍ່ແຊບປານໃດ. ແຈ່ວໃຊ້ເປັນແນວຈ້ຳກັບຜັກ ຫຼືຖ້າບໍ່ມີຫຍັງກິນ ກໍກິນເຂົ້າໜຽວ ຈ້ຳແຈ່ວກໍແຊບ ແລະອີ່ມທ້ອງຄືກັນ. ນອກຈາກແຈ່ວແລ້ວ, ຄາບເຂົ້າຕອນທ່ຽງມັກຈະມີຕຳໝາກຫຸ່ງ ເຊິ່ງເປັນຂອງກິນຍອດນິ ຍົມຂອງຄົນລາວ. ວິທີຕຳໝາກຫຸ່ງກໍບໍ່ມີຫຍັງຫຍຸ້ຍາກ, ພຽງແຕ່ເອົາໝາກຫຸ່ງດິບ ຫຼືເຫີ່ມມາປອກ ແລ້ວຟັກແລະຊອຍໃຫ້ເປັນເສັ້ນແລບໆ. ຈາກນັ້ນກໍນຳເອົາໄປຕຳກັບໝາກເຜັດ, ຜັກທຽມ, ໝາກເລັ່ນ ທີ່ຊອຍແລ້ວ; ເອົານ້ຳປາແດກ ແລະແປງນົວໃສ່; ບີບໝາກນາວ, ໃສ່ນ້ຳຕານ. ບາງເທື່ອອາດຈະ ເອົາຖົ່ວດີນຂົ້ວໃສ່ນຳກໍໄດ້ ແລ້ວຕຳແລະຄົນໃຫ້ ເຂົ້າກັນ. ອຸປະກອນໃນການຕຳໝາກຫຸ່ງ ມີຄົກ ແລະສາກ. ສ່ວນອາຫານລາວເຍື່ອງອື່ນໆຍັງມີອີກຫຼາຍ ເຊັ່ນ ແກງໜໍ່ໄມ້, ປົ່ນປາ, ເອາະຫຼາມ, ປີ້ງໄກ່ ແລະອື່ນໆ. ແຕ່ອາຫານທີ່ຂື້ນຊື່ລືຊາ ແລະເປັນທີ່ ນິຍົມກິນກັບໃນງານລ້ຽງຕ່າງໆ ກໍແມ່ນລາບ ແລະເຂົ້າປຸ້ນ. ເວລາກິນເຂົ້າ ຄົນລາວຈະນັ່ງອ້ອມພາເຂົ້າ, ຜູ້ຊາຍຈະນັ່ງຂັດຕະໝາດ ແລະແມ່ຍິງນັ່ງ ພັບແພບຢູ່ກັບພື້ນເຮືອນ, ໃຊ້ມືປັ້ນເຂົ້າ. ແຕ່ລະຄົນມີ ບ່ວງຂອງຕົນເອງເພື່ອຕັກແກງ ແລະຂອງກິນ ອື່ນໆໃນພາເຂົ້າ. Phiên âm Bốt thi 12 A hản Lao Khậu niểu pên a hản tộn to khoỏng khôn Lao, mi p’hiêng bang xôn p’hầu thầu nặn thì kin khậu chạo xền khôn p’hầu Hmông lẹ p’hầu Dạo pên tộn. Khăm sắp thì kiều khoỏng kắp khậu niểu mi dù lải khăm xền “mà khậu” xầng mải thẩng kan au khậu niểu pay xè nặm vạy pên lải xùa môông, “nứng khậu” mải thẩng au khậu thì mà lô pay sày huột lử hảy khậu lẹo khạng sày mọ nứng thâng tau phay, “suồn khậu lử vi khậu” mải thẩng au khậu niểu thì nứng súc lẹo thoọc sày kạ thạt lẹo au mạy kạ đạn lử buồng xoạn pay ma hạy mốt ai lẳng chạc nặn chừng au sày típ khậu.
Khoỏng kin kắp khậu niểu mi thăng pa, xín ngua, xín khoai, xín mủ, xín kày, xín pết lẹ p’hắc xạ nít tàng tàng. Khoỏng kin p’hựn thản thì sẳm khăn ko mèn chèo xầng mi lải pạ p’hệt chèo tè thì khôn Lao mắc thì sút ko mèn chèo pa đẹc. Nay kan kin khậu tè lạ khạp thạ khạt chèo lẹo ko hụ sức và kin khậu nay khạp nặn bò xẹp pan đay. Chèo xạy pên neo chặm kặp p’hắc lử thạ bò mi nhẳng kin ko kin khậu niểu chặm chèo ko xẹp lẹ ìm thoọng khư kăn.
Noọc chạc chèo lẹo, khạp khậu ton thiềng mắc chạ mi tăm mạc hùng xầng pên khoỏng kôn nhọt nị nhôm khoỏng khôn Lao. Vị thi tăm mạc hùng ko bò mi nhẳng nhụng nhạc, p’hiêng tè au mạc hùng đíp lử hờm ma poọc lẹo phắc lẹ xoi hạy pên sện lẹp lẹp. Chạc nặn ko năm au pay tăm kắp mạc p’hết, p’hắc thiêm, mạc lền thì xoi lẹo; au nặm pa đẹc lẹ pẹng nua sày; bịp mạc nao, sày nặm tan. Bang thừa ạt chạ au thùa đin khụa sày năm ko đạy lẹo tăm lẹ khôn hạy khậu kăn. Ụ pạ kon nay kan tăm mạc hùng mi khôốc lẹ sạc.
Suồn a hản Lao nhường ừn ừn nhăng mi ịc lải xền keng nò mạy, pồn pa, ọ lảm, pịng kày lẹ ừn ừn. Tè a hản thì khựn xừ lư xa lẹ pên thì nị nhôm kin kăn nay ngan liện tàng tàng ko mèn lạp lẹ khậu pụn.
Vê la kin khậu, khôn Lao chạ nằng ọm p’ha khậu, p’hụ xai chạ nằng khắt tạ mạt lẹ mè nhing nằng p’hắp p’hẹp dù kắp p’hựn hươn, xạy mư pặn khậu. Tè lạ khôn mi buồng khoỏng tôn êng p’hừa tắc keng lẹ khoỏng kin ừn ừn nay p’ha khậu.
ຕົ້ນຕໍ tộn to chủ yếu ກ່ຽວຂ້ອງ kiều khoọng liên quan ໝ່າ mà ngâm ໝາຍເຖິງ mải thẩng có nghĩa là ແຊ່ນ້ຳ xè nặm ngâm nước ໜຶ້ງເຂົ້າ nứng khậu đồ xôi, đồ cơm ຫວດ/ໄຫເຂົ້າ huột/hảy khậu cái chõ xôi/chum gạo ຄ້າງ kháng dính vào ໝໍ້ໜຶ້ງ mọ nứng nồi hấp ສ່ວຍເຂົ້າ/ວີເຂົ້າ suồi khậu/ vi khậu xới cơm/ tãi cơm ຖອກ thoọc đổ, rót (nước) ກະຖາດ kạ thạt cái mẹt ໄມ້ກະດ້ານ mạy kạ đạn đũa cả ຊວ້ານ xoạn cái xẻng ອາຍ ai hơi nước ຕິບເຂົ້າ típ khậu típ xôi (giỏ đựng cơm) ຂອງກິນ khoỏng kin thức ăn ແຈ່ວ chèo nước chấm của người Lào ປາແດກ pa đẹc mắm cá ຂາດ khạt thiếu, rách ຈ້ຳ chặm chấm ຄາບເຂົ້າ kháp khậu bữa ăn ອີ່ມທ້ອງ ìm thoọng no bụng ຕຳໝາກຫຸ່ງ tăm mạc hùng giã đu đủ ຍອດນິຍົມ nhọt nị nhôm ưa thích nhất ຫຍຸ້ງຍາກ nhụng nhạc khó khăn ດິບ đíp sống, quả xanh ເຫີ່ມ hờm ương, sắp chín ປອກ poọc gọt, bóc vỏ ຟັກ phắc băm, vằm ຊອຍ xoi thái, băm, chặt ເສັ້ນ sện dây, sợi ແລບ lẹp mỏng ໝາກນາວ mạc nao quả chanh ນ້ຳຕານ nặm tan đường ແປ້ງນົວ pẹng nua mì chính, bột ngọt ຖົ່ວດິນ thùa đin lạc ຂົ້ວ khụa chiên, rang, rán ຕຳ tăm giã ຄົນເຂົ້າກັນ khôn khậu kăn trộn vào nhau ອຸປະກອນ ụ pa kon thiết bị, dụng cụ ຄົກ khôốc cối giã ສາກ sạc cái chày ເຍື່ອງ nhường mẫu, mã, kiểu ຂຶ້ນຊື່ລືຊາ khựn xừ lư xa nổi tiếng vang dội ງານລ້ຽງ ngan liệng tiệc tùng, chiêu đãi ອ້ອມ ọm xung quanh ປັ້ນເຂົ້າ pặn khậu nắm cơm, nắm xôi ນັ່ງພັບແພ nằng p’hắp p’he ngồi khép chân về một phía ນັ່ງຂັດຕະໝາດ nằng khắt tạ mạt ngồi xếp bằng ຕັກ tắc múc, xúc ພາເຂົ້າ p’ha khậu mâm cơm Bài dịchBài thứ 12 Món ăn Lào Cơm nếp là món ăn chủ yếu của người Lào, chỉ có một số dân tộc mới ăn cơm tẻ như người Hmông và người Dao chẳng hạn. Thuật ngữ liên quan đến cơm nếp có khá nhiều như “mà khậu” có nghĩa là phải đem ngâm gạo vào nước trong nhiều giờ, “nứng khậu” có nghĩa là đem gạo đã ngâm nước rồi cho vào chõ hôông rồi đặt lên nồi đồ trên bếp lửa, “suồi khậu” hoặc “vi khậu” (xới cơm hoặc tãi cơm) có nghĩa là lấy cơm nếp đã đồ chín rồi đổ ra cái mẹt rồi lấy đũa cả hoặc thìa to làm cho bay hết hơi sau đó cho vào giỏ cơm. Thức ăn với cơm nếp gồm có cá, thịt bò, thịt trâu, thịt lợn, thịt gà, thịt vịt và các loại rau khác nhau. Món ăn cơ bản quan trọng là món chèo (một thức chấm của người Lào), có nhiều loại chèo nhưng món mà người Lào ưa thích nhất là món chèo mắm cá. Trong mỗi bữa ăn, nếu thiếu món chèo, có thể nói rằng ăn cơm bữa ấy không ngon tí nào. Chèo là thứ chấm với rau hoặc nếu không có gì ăn thì ăn cơm nếp chấm chèo cũng ngon và no bụng như nhau. Ngoài món chèo ra, trong bữa ăn trưa hay có món đu đủ giã (tăm mạc hùng) mà là món ăn được ưa thích nhất của người Lào. Cách làm món tăm mạc hùng cũng không có gì khó, chỉ cần lấy quả đu đủ xanh hoặc ương ra gọt vỏ rồi đem thái và băm thành sợi mỏng. Sau đó đem giã với ớt, tỏi, cà chua đã băm nhỏ rồi; lấy nước mắm và bột ngọt cho vào; vắt chanh, cho đường. Đôi khi có thể lấy lạc rang giã và trộn lẫn vào nhau. Dụng cụ trong việc giã đu đủ có cối và chày. Các kiểu món ăn Lào khác còn có nhiều nữa như canh măng, chả cá, gà tần, gà nướng vân vân. Nhưng món ăn nổi tiếng và được ưa thích trong các buổi tiệc tùng, chiêu đãi là món lạp và bún. Khi ăn cơm, người Lào thường ngồi quanh mâm cơm, người đàn ông ngồi xếp bằng và đàn bà ngồi khép đùi về một phía trên nền nhà, dùng tay nắm cơm. Mỗi người có thìa của mình để múc canh và thức ăn trong mâm.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #336 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2013, 08:19:29 pm » |
|
ບົດທີ 13 ມາລະຍາດໃນສັງຄົມລາວ ຢູ່ລາວ ມາລະຍາດໃນການສະແດງຄວາມເຄົາລົບມີຢູ່ສອງວິທີ ຄື ການຍໍມືໄຫວ້ ແລະການ ສຳຜັດມື. ເວລາພົບພໍ້ກັນຕາມປະເພນີລາວແມ່ນ ຍໍມືໄຫວ້ເຊິ່ງກັນແລະກັນ ພ້ອມທັງກ່າວຄຳວ່າ "ສະບາຍດີ". ເວລາຜູ້ໃຫຍ່ນັ່ງຢູ່ກັບພື້ນ ລູກຫຼານຈະຄານເຂົ້າໄປໃກ້ ແລ້ວຈຶ່ງຂາບລົງພື້ນໜຶ່ງເທື່ອ ຫຼືຂາບ ໃສ່ຫົວເຂົ່າເພິ່ນ, ຜູ້ຮັບໄຫວ້ຈະສົ່ງພອນໃຫ້ວ່າ "ຢູ່ດີມີແຮງເດີ! ຫຼື ໃຫຍ່ສູງເດີ!". ເວລາເພິ່ນນັ່ງຕັ່ງ ຫຼືຢືນຢູ່ ໃຫ້ເອົາມືສອງເບື້ອງນົບເຂົ້າກັນແລ້ວຍໍຂື້ນພຽງຕາ ແລ້ວໂຢະໂຕລົງຕ່ຳໄປຕ າມກາລະເທສະ. ກ່ອນຈະລາເມືອກໍປະຕິບັດເຊັ່ນດຽວກັນ. ໃນງານສັງຄົມໃດໜຶ່ງ ເວລາມີຄົນເຕົ້າໂຮມກັນຫຼາຍຮຸ່ນຫຼາຍໄວຫຼາຍຊັ້ນຕຳແໜ່ງ, ເວົ້າໂດຍ ທົ່ວໄປແລ້ວ ຜູ້ນ້ອຍຫຼືຜູ້ອາຍຸອ່ອນ ເຖິງຈະມີ ຊັ້ນຕຳແໜ່ງສຸງ ກໍຕ້ອງຍໍມືໄຫວ້ຜູ້ທີ່ມີອາວຸໂສກ່ອນ ຢ່າງຮຽບຮ້ອຍ ໂດຍກົ້ມຫົວລົງໝ້ອຍໜຶ່ງ. ຜູ້ທີ່ຮັບໄຫວ້ ກໍຕ້ອງຍໍມືຕອບບໍ່ຄວນເມີນເສິຍ. ວິທີໄຫວ້ສຳລັບຜູ້ຊາຍ ໃຫ້ຍໍມືສູງຂື້ນພຽງດັງ ພ້ອມກົ້ມຫົວລົງໜ້ອຍໜຶ່ງ ເພື່ອໄຫວ້ຜູ້ອາວຸ ໂສກວ່າ. ຖ້າແມ່ນທົ່ວໄປບໍ່ຕ້ອງກົ້ມຫົວລົງກໍໄດ້. ສຳລັບແມ່ຍິງ ໃຫ້ຍໍຂຶ້ນພຽງດັງທັງກົ້ມຫົວ ແລະ ໂຢະລົງໜ້ອຍໜຶ່ງ ແລ້ວແຕ່ຖານະຂອງຜູ້ທີ່ກຳລັງໄຫວ້, ຜູ້ຖືກໄຫວ້ຄວນຍໍມືໄຫວ້ຄືນໃຫ້ສຸງພຽງ ເອິກເທົ່ານັ້ນ. ກໍລະນີເປັນກັນເອງ ອາດເດ່ມືສຳຜັດ ຫຼືເດ່ມືຈັບບ່າຈັບຫຼັງກໍໄດ້ (ຕໍ່ກັບຄົນລຶ້ງເຄີຍ ຫຼືລູກຫຼານ). ໃນສັງຄົມລາວ ຜູ້ນ້ອຍຕ້ອງເຄົາລົບນັບຖືຜູັໃຫຍ່. ເວລາຍ່າງຜ່ານໜ້າຜູ້ໃຫຍ່ກໍຕ້ອງກົ້ມໂຕ ລົງຕ່ຳ, ຄົນທີ່ມີມາລະຍາດຕ້ອງຮູ້ຈັກບ່ອນສູງ ບ່ອນຕ່ຳ. ໃນຄວາມຄິດຂອງຄົນລາວ ຫົວເປັນຂອງ ສູງ, ຕີນເປັນຂອງຕ່ຳ. ການຍົກຕີນ ຫຼືການຊີ້ຕີນໄປໃສ່ຜູ້ອື່ນເປັນການເສຍມາລະຍາດ. ການບາຍ ຫົວ ຫຼືຂ້າມຫົວຜູ້ອື່ນກໍຖືວ່າເປັນການເສຍມາລະຍາດ ຕ້ອງກ່າວຄຳຂໍໂທດໃນທັນທີໂລດ. ພໍ່ແມ່ມັກຈະອົບຮົມສັ່ງສອນລູກໃຫ້ລະມັດລະວັງໃນເລື່ອງກິລິຍາມາລະຍາດ ແລະການເວົ້າ ກັບແຂກຄົນ. ດັ່ງນັ້ນຈຶ່ງມີຄຳສຸພາສິດທີ່ວ່າ "ພາສາບອກຊາດ ມາລະຍາດບອກຕະກູນ". Phiên âm Ma lạ nhạt nay sẳng khôm Lao Dù Lào, ma lạ nhạt nay kan sạ đeng khoam khâu lốp mi dù soỏng vị thi khư kan nho mư vạy lẹ kan sẳm p’hắt mư. Vê la p’hốp p’họ kăn tam pạ p’hê ni Lao mèn nho mư vạy xầng kăn lẹ kăn p’họm thăng kào khăm và: “Sạ bai đi”.
Vê la p’hụ nhày nằng dù kắp p’hựn, lục lản chạ khan khậu pay kạy lẹo chừng khạp lôông p’hựn nừng thừa lử khạp sày hủa khầu phần, p’hụ hắp vạy chạ sôồng p’hon hạy và: “Dù đi mi heng đơ!” lử “Nhày sủng đơ!”. Vê la p’hần nằng tằng lử dưn dù hạy au mư soỏng bượng nốp khậu kăn lẹo nho khựn p’hiêng ta lẹo dộ tô lôông tằm pay tam ka lạ thê sạ. Kòn chạ la mưa ko pạ ti bắt xền điêu kăn.
Nay ngan sẳng khôm đay nừng, vê la mi khôn tậu hôm kăn lải hùn lải vay lải xặn tăm nèng, vạu đôi thùa pay lẹo p’hụ nọi lử p’hụ a nhu òn thẩng chạ mi xặn tăm nèng sủng ko toọng nho mư vạy p’hụ thì mi a vụ sổ kòn dàng hiệp họi đôi kộm hủa lôông nọi nừng. P’hụ thì hắp vạy ko toọng nho mư top bò khuôn mơn sởi.
Vị thi vạy sẳm lắp p’hụ xai hạy nho mư sủng khựn p’hiêng đăng p’họm kộm hủa lôông nọi nừng p’hừa vạy p’hụ a vụ sổ kòa. Thạ mèn thùa pay bò toọng kộm hủa lôông ko đạy. Sẳm lắp mè nhing hạy nho khựn p’hiêng đăng thăng kộm hủa lẹ dộ lôông nọi nừng lẹo tè thả nạ khoỏng p’hụ thì kăm lăng vạy, p’hụ thực vạy khuôn nho mư vạy khưn hạy sủng p’hiêng ệc thầu nặn. Ko lạ ni pên kăn êng ạt đề mư sẳm p’hắt lử đề mư chắp bà chắp lẳng ko đạy (tò kắp khôn lựng khơi lử lục lản).
Nay sẳng khôm Lao, p’hụ nọi toọng khâu lốp nắp thử p’hụ nhày. Vê la nhàng p’hàn nạ p’hụ nhày ko toọng kộm tô lôông tằm, khôn thì mi ma lạ nhạt toọng hụ chắc bòn sủng bòn tằm. Nay khoam khít khoỏng khôn Lao hủa pên khoỏng sủng, tin pên khoỏng tằm. Kan nhôốc lử kan xị tin pay sày p’hụ ừn pên kan sỉa ma lạ nhạt. Kan bai hủa lử khạm hủa p’hụ ừn ko thử và pên kan sỉa ma lạ nhạt tọong kào khăm khỏ thột nay thăn thi lột.
P’hò mè mắc chạ ốp hôm sằng sỏn lục hạy lạ mắt lạ văng nay lường nị lị nha ma lạ nhạt lẹ kan vạu kắp khẹc khôn. Đằng nặn chừng mi khăm sủ p’ha sit thì và: “P’ha sả boọc xạt, ma lạ nhạt boọc ta kun”. ມາລະຍາດ ma lạ nhạt nghi thức xã giao ສັງຄົມ sẳng khôm xã hội ວິທີ vị thi phương pháp, cách cư xử ຍໍມືໄຫວ້ nho mư vạy giơ tay chào ສຳຜັດມື sẳm p’hắt mư bắt tay ພົບພໍ້ p’hốp p’họ gặp gỡ ພື້ນ p’hựn sàn, nền nhà ຄານ khan bò ຫົວເຂົ່າ hủa khầu đầu gối ສົ່ງພອນ sôồng p’hon gửi lời chúc mừng ຜູ້ຮັບໄຫວ້ p’hụ hắp vạy người được chào ນົບ nốp bái, lạy, vái ຍໍຂື້ນ nho khựn nâng lên ພຽງ p’hiêng ngang ໂຢະໂຕລົງ dộ tô lôông cúi mình xuống ກາລະເທສະ ka lạ thê sạ tôn kính ລາເມືອ la mưa trở về nhà ປະຕິບັດ pạ ti bắt thực hiện ເຕົ້າໂຮມ tậu hôm tập hợp, xum họp ຜູ້ນ້ອຍ p’hụ nọi cấp dưới ຊັ້ນຕຳແໜ່ງ xặn tăm nèng tầng lớp, địa vị ອາວຸໂສ a vu sổ lão thành, người cao tuổi ຮຽບຮ້ອຍ hiệp họi lịch sự ກົ້ມລົງ kồm lôông cúi xuống ເມີນເສີຍ mơn sởi làm lơ, tỉnh bơ ເອິກ ệc ngực ຍົກ nhôốc nâng lên ກິລິຍາ kị lị nha hành vi, cử chỉ ກໍລະນີ ko lạ ni trường hợp ເດ່ມື đề mư chìa tay ບ່າ bà vai ຍ່າງຜ່ານ nhàng p’hàn nhẹ nhàng đi qua ເສຍມາລະຍາດ sỉa ma lạ nhạt bất lịch sự, mất tác phong ບາຍ bai sờ, mó, rờ ຂ້າມ khạm đi qua, bỏ qua ສັ່ງສອນ sằng sỏn dạy bảo, dạy dỗ ລະມັດລະວັງ lạ mắt lạ văng cẩn thận ຕະກູນ tạ cun dòng họ, đẳng cấp ຊີ້ xị chỉ trỏ ທັນທີໂລດ thăn thi lột ngay ອົບຮົມ ốp hôm rèn luyện, đào tạo ແຂກຄົນ khẹc khôn khách khứa ຄຳສຸພາສິດ khăm sủ p’ha sít châm ngôn ລຶ້ງເຄີຍ lựng khơi quen biết ງານສັງຄົມ ngan sẳng khôm việc xã hội Bài dịch Nghi thức xã giao trong xã hội Lào Ở Lào, nghi thức xã giao để bày tỏ sự tôn trọng có 2 cách như chắp tay chào và bắt tay. Khi gặp nhau, theo phong tục Lào là chắp tay chào lẫn nhau đồng thời cả hai cùng nói “Sạ bai đi”. Khi người lớn ngồi trên sàn nhà, con cháu bò nhích đến gần rồi mới vái xuống đất một lần hoặc vái xuống đầu gối của họ, người nhận sẽ chúc phúc lại rằng: “Mạnh khoẻ nhé!” hoặc “Chóng lớn nhé!”. Khi họ ngồi trên ghế hoặc đứng, hãy lấy hai bàn tay chắp vào nhau giơ lên ngang mắt rồi hơi ngồi nhổm xuống thấp theo sự tôn kính. Trước lúc ra về cũng thực hiện như vậy. Trong buổi lễ khi có tập hợp lẫn lộn nhiều thế hệ, nhiều lứa tuổi, nhiều tầng lớp địa vị, nói chung người cấp dưới hoặc người ít tuổi cho đến tầng lớp cao cũng phải chắp tay chào các bậc cao tuổi, để đầu hơi cúi xuống một chút biểu hiện phép lịch sự. Người được nhận lễ cũng chắp tay đáp trả chứ không làm ngơ. Cách thức chào hỏi dành cho đàn ông là chỉ giơ tay cao đến mũi đồng thời hơi cúi đầu xuống một chút để chào người cao tuổi hơn. Còn bình thường thì không cần cúi đầu cũng được. Đối với phụ nữ cũng giơ tay ngang mũi, cúi đầu và hơi ngồi nhổm xuống một chút Và cũng tuỳ vào địa vị, nơi ở của người đang chào, người được chào nên giơ tay cao ngang ngực chào lại. Trường hợp quen biết có thể chìa tay ra bắt hoặc bá vai, ôm lưng cũng được (với người đã quen biết hoặc con cháu). Trong xã hội Lào, người cấp dưới phải kính trọng người cấp trên. Khi đi qua trước mặt người trên phải cúi người xuống thấp, người có ý thức phải biết rõ vị trí cao thấp. Trong quan niệm của người Lào, đầu là chỗ cao, chân là chỗ thấp. Nếu nhấc chân hoặc khua chân về phía người khác đều là bất lịch sự. Việc sờ đầu hoặc bước qua đầu người khác cũng là không lịch sự và phải có lời xin lỗi ngay lập tức. Bố mẹ thường rèn luyện, nhắc nhở con cái phải cẩn thận trong hành vi nghi thức và việc ăn nói với khách khứa. Vì thế nên tục ngữ mới có câu rằng: “Ngôn ngữ thể hiện dân tộc, nghi thức thể hiện đẳng cấp”.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #337 vào lúc: 21 Tháng Tám, 2013, 08:59:07 pm » |
|
ບົດທີ 14 ຫຼວງພະບາງ ຫຼວງພະບາງ ແມ່ນແຂວງໜຶ່ງທີ່ອຸດົມໄປດ້ວຍພູຜາປ່າດົງ, ແມ່ນ້ຳລຳເຊ, ຖ້ຳ, ຜາ ແລະ ນ້ຳຕົກຕາດ. ເທສະບານຂອງແຂວງໄດ້ແກ່ຕົວເມືອງ ຫຼວງພະບາງ ເຊິ່ງເຄີຍເປັນລາຊະທານີຢູ່ຫຼາຍ ຮ້ອຍປີ. ແຕ່ເດີນຫຼວງພະບາງມີຊື່ວ່າ ເມືອງຂວາ. ພາຍຫຼັງຂຸນລໍ ເຈົ້າຊີວິດລາວຕີເອົາເມືອງນີ້ໄດ້ ຈຶ່ງເອີ້ນວ່າເມືອງຊຽງທອງແລ້ວຕັ້ງຂຶ້ນເປັນລາຊະທານີ ຫຼືເມືອງເອກແຫ່ງອານາຈັກລ້ານຊ້າງ ໃນປີ ຄ.ສ. 757. ມາເຖິງ ຄ.ສ. 1560 ເຈົ້າໄຊຍະເຊດຖາ ໄດ້ຍ້າຍລາຊະທານີລົງມາຢູ່ວຽງຈັນ ເຊິ່ງ ເປັນເມືອງໃຫຍ່ມີບ່ອນທຳມາຫາກິນກວ້າງຂວາງ. ຍ້ອນວ່າພະພຸດທະຮູບສຳຄັນ ອົງໜຶ່ງຄື ພະບາງ ຍັງສະຖິດຢູ່ຊຽງທອງ, ເມືອງນີ້ຈຶ່ງປ່ຽນຊື່ເປັນ "ຫຼວງພະບາງ" ນັບແຕ່ນັ້ນມາ. ຫຼວງພະບາງມີບູຮານສະຖານ ແລະວັດວາອາຮາມເກົ່າແກ່ຫຼາຍຮ້ອຍປີເຊັ່ນ ທາດຈອມສີ, ວັດວິຊຸນ, ວັດຊຽງທອງ, ວັດມະໂນລົມ, ວັດໃໝ່ ແລະອື່ນໆ. ນອກຈາກນັ້ນ, ຫຼວງພະບາງ ຍັງມີ ພະລາຊະວັງເກົ່າ ເຊິ່ງເປັນບ່ອນປະດິດສະຖານພະບາງທີ່ເປັນພະພຸດທະຮູບຄູ່ບ້ານຄູ່ເມືອງ ແລະ ເຮືອນກໍ່ດີນຈີ່ສະໄໝອານາຈັກຫຼວງພະບາງພາຍໃຕ້ອາລັກຂາຂອງຝຣັ່ງໃນທ້າຍສະຕະວັດທີ 19. ເຮືອນຊານແລະຫໍໂຮງບາງແຫ່ງ ມີຮູບຊົງປະສົມປະສານແບບເອີຣົບແລະອາຊີ ເຊິ່ງໄດ້ກາຍເປັນ ສັນຍະລັກຂອງຫຼວງພະບາງ. ປະຊາຊົນຊາວຫຼວງພະບາງມີຄວາມຊຳນານ ໃນການເສບດົນຕີພື້ນ ເມືອງ, ການຟ້ອນແລະຂັບທຸ້ມຫຼວງພະບາງ. ນອກຈາກນັ້ນ ຊາວຫຼວງພະບາງຍັງມີສີມືທາງດ້ານ ຫັດຖະກຳ ເຊັ່ນ ການຕ່ຳຜ້າທໍໄໝ, ການຕີເງິນຕີຄຳ... ຫຼວງພະບາງຍັງມີອາຫານພື້ນເມືອງທີ່ມີຊື່ ສຽງ ເຊັ່ນ ເອາະຫຼາມ, ແຈ່ວບອງ, ໄຄແຜ່ນ ແລະອື່ນໆ. ຍ້ອນມີເອກະລັກຂອງເມືອງບູຮານທີ່ມີອາຍຸຍືນຍາວ ເມືອງຫຼວງພະບາງຈຶ່ງໄດ້ຮັບກຽດປະ ກາດເປັນເມືອງມໍລະດົກໂລກເມື່ອປີ ຄ.ສ. 1995 ໂດຍອົງການສະຫະປະຊາຊາດເພື່ອການສຶກສາ ແລະວັດທະນະທຳ (ອູຍແນສໂກ). ປັດຈຸບັນຫຼວງພະບາງເປັນເມືອງທ່ອງທ່ຽວອັນດັບໜຶ່ງ ຂອງລາວ ແລະເປັນເມືອງໜ້າທ່ຽວທີ່ສຸດແຫ່ງໜຶ່ງຂອງພາກພື້ນອາຊີອາຄະເນ. Phiên âm
Bốt thi 14 Luổng P’hạ bang Luổng P’hạ bang mèn khoẻng nừng thì ụ đôm pay đuội p’hu p’hả pà đôông, mè nặm lăm xê, thặm, p’hả lẹ nặm tôốc tạt. Thê sạ ban khoỏng khoẻng đạy kè tua mương Luổng P’hạ bang xầng khơi pên la xạ tha ni dù lải họi pi. Tè đơm Luổng P’hạ bang mi xừ và Mương Khỏa. P’hai lẳng Khun Lo, chậu xi vít Lao ti au mương nị đạy chừng ợn và Mương Xiêng Thoong lẹo tặng khựn pên la xạ tha ni lử mương ệc hèng a na chắc Lạn Xạng nay pi kh.s. 757. ma thẩng kh.s. 1560 chậu Xay Nhạ Xệt Thả đạy nhại la xạ tha ni lôông ma dù Viêng Chăn xầng pên mương nhày mi bòn thăm ma hả kin koạng khoảng. Nhọn và p’hạ p’hút thạ húp sẳm khăn ông nừng khư p’hạ bang nhăng sạ thít dù Xiêng Thoong, mương nị chừng piền xừ pên “Luổng P’hạ bang” nắp tè nặn ma.
Luổng P’hạ bang mi bu han sạ thản lẹ vắt va a hạm kầu kè lải họi pi xền thạt Chom Sỉ, vắt Vi Xun, vắt Xiêng Thoong, vắt Mạ Nô Lôm, vắt Mày lẹ ừn ừn. Noọc chạc nặn, Luổng P’hạ bang nhăng mi p’hạ la xạ văng kầu xầng pên bòn pạ đít sạ thản p’hạ bang thì pên p’hạ p’hút thạ húp khù bạn khù mương lẹ hươn kò địn chì sạ mảy a na chắc Luổng P’hạ bang p’hai tạy a lắc khả khoỏng FLằng nay thại sạ tạ vắt thi 19. Hươn xan lẹ hỏ hôông bang hèng mi húp xôông pạ sổm pạ sản bẹp Ơ Rốp lẹ A Xi xầng đạy kai pên xẳn nhạ lắc khoỏng Luổng P’hạ bang. Pạ xa xôn xao Luổng P’hạ bang mi khoam xăm nan nay kan sếp đôn ti p’hựn mương, kan phón lẹ khắp thụm Luổng P’hạ bang. Noọc chạc nặn xao Luổng P’hạ bang nhăng mi sỉ mư thang đạn hắt thạ kăm xền kan tăm p’hạ tho mảy, kan ti ngân ti khăm... Luổng P’hạ bang nhăng mi a hản p’hựn mương thì mi xừ siểng xền ọ lảm, chèo boong, khay p’hèn lẹ ừn ừn.
Nhọn mi ê kạ lắc khoỏng mương bu han thì mi a nhu nhưn nhao mương Luổng P’hạ bang chừng đạy hắp kiệt pạ kạt pên mương mo lạ đốc lôộc mừa pi kh.s. 1995 đôi ông kan sạ hạ pạ xa xạt p’hừa kan sức sả lẹ vắt thạ nạ thăm (Uinescô). Pắt chu băn Luổng P’hạ bang pên mương thoòng thiều ăn đắp nừng khoỏng Lao lẹ pên mương nạ thiều thì sút hèng nừng khoỏng p’hạc p’hựn A xi a khạ nê.ຄຳສັບແລະສຳນວນ Khăm sắp lẹ sẳm nuôn Từ và cụm từອຸດົມໄປດ້ວຍ u đôm pay đuội phong phú, giàu có đi với ພູຜາປ່ດົງ p’hu p’hả pà đông núi cao rừng rậm ແມ່ນ້ຳລຳເຊ mè nặm lăm xê sông cái, lạch suối ຖ້ຳ thặm hang động ນ້ຳຕົກຕາດ nặm tốc tạt thác nước ເທສະບານ thê sạ ban thị chính ຕົວເມືອງ tua mương đô thị ລາຊະເທນີ la xạ thê ni kinh đô ແຕ່ເດີມ tè đơm từ xưa ຕັ້ງຂຶ້ນ tặng khựn xây dựng lên ເມືອງເອກ mương ệc thủ phủ ອານາຈັກ a na chắc lãnh thổ, vương quốc ຍ້າຍລົງມາ nhại lôông ma di chuyển xuống ທຳມາຫາກິນ thăm ma hả kin công việc làm ăn ຍ້ອນວ່າ nhọn và bởi vì ພະພຸດທະຮູບ p’hạ p’hút thạ húp tượng Phật ສະຖິດ sạ thít ở, ở tại ນັບແຕ່ນັ້ນມາ nắp tè nặn ma kể từ khi ບູຮານສະຖານ bu han sạ thản địa danh lịch sử, di tích văn hóa cổ ວັດວາອາຮາມ vắt va a ham chùa chiền, tu viện ພະລາຊະວັງ p’hạ la xạ văng cung điện, hoàng cung ປະດິດສະຖານ pạ đít sạ thản nơi đặt để, nơi thờ tự ເຮືອນກໍ່ hươn kò xây dựng nhà ở ດິນຈີ່ đin chì gạch xây nhà ອາລັກຂາ a lắc khả bảo hộ, che chở ທ້າຍ thại cuối ເຮືອນຊານ hươn han nhà cửa ຫໍໂຮງ hỏ hôông lâu đài, tòa nhà ຮູບຊົງ húp xôông hình dáng, hình dạng ປະສົມປະສານ pạ sổm pạ sản kết hợp, phối hợp ແບບເອີຣົບ bẹp Ơ Rốp kiểu cách châu Âu ສັນຍະລັກ sẳn nhạ lắc biểu tượng, tượng trưng ຊຳນານ xăm nan có kinh nghiệm, thông thạo ປະກາດ pạ kạt thông cáo, tuyên bố ການເສບດົນຕີ kan sệp đôn ti chơi nhạc ຟ້ອນ phón múa ຂັບລຳ khắp lăm ca hát ສີມື sỉ mư kỹ năng, khéo tay ທາງດ້ານ thang đạn về mặt ຫັດຖະກຳ hắt thạ kăm lao động thủ công ການຕ່ຳຜ້າທໍໄໝ kan tằm p’há tho mảy việc dệt vải, dệt lụa ການຕີເງິນຕີຄຳ kan ti ngân ti khăm nghề làm vàng bạc ເອາະຫຼາມ ọ lảm món gà tần, chim tần ở Luông P’hạ bang ແຈ່ວບອງ chèo boong nước chấm ໄຄແຜ່ນ khay p’hèn món rêu rán ở Luông ເອກະລັກ ê kạ lắc độc đáo ຍືນຍາວ nhưn nhao lâu dài ໄດ້ຮັບກຽດ đạy hắp kiệt nhận vinh dự ອົງການ ông kan cơ quan ສະຫະປະຊາຊາດ sạ hạ pạ xa xạt Liên hiệp quốc ການສຶກສາ kan sức sả giáo dục ອູຍແນສໂກ ui nes kô UNESCO ອັນດັບໜຶ່ງ ăn đắp nừng loại một ພາກພື້ນ p’hạc p’hựn khu vực ອາຊີອາຄະເນ a xi a khạ nê Đông Nam Á Bài dịch Luổng P’hạ bang Luổng P’ha bang là một tỉnh giàu đẹp với núi cao rừng sâu, sông to suối nhỏ, hang động, vách đá và thác nước. Đơn vị hành chính cấp tỉnh của thành phố Luổng P’ha bang có từ rất lâu mà quen gọi là kinh đô đã có từ hàng trăm năm nay. Từ xưa, Luổng P’hạ bang có tên gọi là Mường Xoa. Sau khi vua Lào Khun Lo đánh chiếm được vùng này thì gọi là Mường Xiêng Thoong rồi xây dựng thành kinh đô hay là thủ phủ của vương quốc Triệu Voi từ năm 757 công nguyên. Đến năm 1560 công nguyên, vua Xay Nhạ Xệt Thả di chuyển xuống Viêng Chăn vì nơi đây là vùng đất trù phú rộng lớn. Bởi vì có một pho tượng Phật lớn ở Xiêng Thoong, nên mường này được đổi tên thành Luổng P’hạ Bang từ đấy. Luổng P’hạ bang có nhiều di tích văn hóa và chùa chiền tu viện cổ hàng trăm năm như tháp Chom Sỉ, chùa Vi Xun, chùa Xiêng Thoong, chùa Mạ Nô Lôm, chùa Mày vân vân. Ngoài ra Luổng P’hạ Bang còn có hoàng cung cũ là nơi đặt pho tượng Phật báu vật của đất nước và nhà xây bằng gạch thời kỳ vương quốc Luổng P’hạ bang dưới sự bảo hộ của Pháp cuối thế kỷ thứ 19. Nhà cửa và biệt thự có hình dáng kiểu cách kết hợp giữa châu Âu và châu Á đã trở thành nét đặc trưng của Luổng P’hạ bang. Người dân Luổng P’hạ bang rất thông thạo trong việc diễn xướng âm nhạc dân gian, múa và hát Khắp Thum Luổng P’hạ bang. Ngoài ra người dân Luổng P’hạ bang còn rất khéo tay về mặt làm hàng thủ công mỹ nghệ như dệt vải dệt lụa, làm đồ vàng bạc... Luổng P’hạ bang còn có những món ăn dân tộc nổi tiếng như gà tần (ọ lảm), nước chấm chèo boong, rêu rán vân vân. Do sự độc đáo của thành phố cổ có tuổi đời lâu dài, Luổng P’hạ bang đã được vinh dự trở thành thành phố di sản từ năm 1995 bởi cơ quan Liên hiệp quốc về giáo dục và văn hóa (UNESCO). Hiện nay Luổng P’hạ bang trở thành thành phố du lịch loại một của Lào và là một trong những điểm tham quan du lịch vào bậc nhất khu vực Đông Nam Á.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #338 vào lúc: 30 Tháng Tám, 2013, 08:52:06 pm » |
|
ບົດທີ 15 ສິ້ນໄໝ ຕາມປົກກະຕິແລ້ວ ແມ່ຍິງລາວຕ້ອງນຸ່ງສິ້ນ. ສິ້ນແມ່ນເຄື່ອງນຸ່ງທີ່ຕິດພັນກັບການດຳລົງ ຊີວິດຂອງແມ່ຍິງລາວມາແຕ່ສະໄໝບູຮານ. ດັ່ງນັ້ນ ເວລາຜູ້ໃຫຍ່ສັ່ງສອນລູກຫຼານທີ່ເປັນແມ່ຍິງກໍ ມັກຈະເວົ້າເປັນຄຳຜະຫຍາວ່າ "ຕີນຜົມໃຫ້ລ່ຳກ້ຽງ ຕີນສິ້ນໃຫ້ລ່ຳພຽງ". ອັນນີ້ກໍສະແດງວ່າສິ້ນ ແມ່ນເຄື່ອງນຸ່ງສະເພາະຂອງແມ່ຍິງລາວ ແລະການນຸ່ງກໍຕ້ອງໃຫ້ງາມຕື່ມອີກ ຈຶ່ງຈະຖືວ່າໃຊ້ໄດ້. ຍິງສາວລາວທຸກຄົນໃນຊົນນະບົດ, ກ່ອນຈະມີ ຄູ່ຄອງ ຕ້ອງຮູ້ຈັກຜະລິດເຄື່ອງນຸ່ງໃຫ້ແກ່ຕົນເອງ, ໂດຍສະເພາະແມ່ນສິ້ນ. ສະນັ້ນ ການຕ່ຳຫູກເພື່ອຜະລິດສິ້ນຈຶ່ງກາຍເປນຫັດຖະກຳຄອບຄົວ ແລະ ມີລັກສະນະສືບທອດມາເຖິງປັດຈຸບັນ. ຂັ້ນຕອນຕ່າງໆໃນການເຮັດໃຫ້ໄດ້ເສັ້ນໃຍ ເພື່ອນຳມາຜະລິດແຜ່ນແພ ເປັນເລື່ອງທີ່ບໍ່ງ່າຍ ປານໃດ ໂດຍສະເພາະແມ່ນໄໝ. ກ່ອນຈະໄດ້ໄໝ ກໍຕ້ອງໄດ້ປູກມອນ ແລະລ້ຽງມ້ອນ. ເພິ່ນປູກຕົ້ນ ມອນ ເພື່ອນຳເອົາໃບມອນໄປເປັນອາຫານໃຫ້ແກ່ມ້ອນ. ຈາກນັ້ນ ກໍເອົາມ້ອນມາລ້ຽງຈົນ ມັນແກ່ ແລະ ທາວໃຍເປັນຝັກຫຼອກ, ແລ້ວກໍເອົາຝັກຫຼອກໄປຕົ້ມ ເພື່ອສາວເອົາເສັ້ນໃຍ ຫຼືໄໝ ເຊິ່ງເພິ່ນ ເອີ້ນວ່າ "ສາວຫຼອກ" ຫຼື"ສາວໄໝ". ເມື່ອໄດ້ໄໝແລ້ວກໍສາມາດນຳເອົາໄໝໄປຜະລິດເປັນແຜ່ນແພ ໄດ້ຕາມ ຄວາມຕ້ອງການ. ສິ້ນໄໝແມ່ນຜະລິດຕະພັນຫັດຖະກຳເຄື່ອງນຸ່ງຊັ້ນຍອດຂອງແມ່ຍິງລາວ: ສິ້ນໄໝ ບໍ່ພຽງແຕ່ ມີຄຸນຄ່າຂອງໄໝເທົ່ານັ້ນ, ມັນຍັງມີຄຸນຄ່າທາງ ສີມືອີກດ້ວຍ. ຍ້ອນແນວນັ້ນ ຫາກຍິງສາວຜູ້ໃດມີ ຄວາມສາມາດ ແລະຊຳນານໃນດ້ານນີ້ ກໍຈະກາຍເປັນຈຸດສົນໃຈຂອງຄົນອື່ນໂດຍສະເພາະ ແມ່ນ ເພດກົງກັນຂ້າມ. ໂດຍທົ່ວໄປແລ້ວ ຢູ່ໃນຊີວິດປະຈຳວັນ ແມ່ນຍິງສາວຈະນຸ່ງສະເພາະສິ້ນຝ້າຍ ຫຼືສິ້ນທຳມະ ດາເທົ່ານັ້ນ. ເມື່ອມີພິທີໃດໜຶ່ງເຊັ່ນ ໄປບຸນ, ໄປດອງ ຫຼືໄປພິທີສຳຄັນອື່ນໆ ເຂົາເຈົ້າກໍຈະແຕ່ງຕົວ ດ້ວຍສິ້ນໄໝ. ຫາກວ່າມີຄົບຂຸດ ເຂົາເຈົ້າກໍຈະແຕ່ງຕົວດ້ວຍເຄື່ອງໄໝທັງຂຸດ ອັນໄດ້ເຮັດໃຫ້ເຂົາ ເຈົ້າມີຄາວມສວຍງາມ ແລະເປັນທີ່ສະດຸດຕາແກ່ຜູ້ທີ່ໄດ້ພົບເຫັນອີກດ້ວຍ. Phiên âm Bốt thi 15 Sịn mảy Tam pốc kạ tị lẹo mè nhing Lào toọng nùng sịn. Sịn mèn khường nùng thì tít p’hăn kắp kan đăm lôông xi vít khoỏng mè nhing Làoầm tè sạ mảy bu han. Đằng nặn, vê la p’hụ nhày sằng sỏn lục lản thì pên mè nhing ko mắc chạ vạu pên khăm p’há nhả và: “Tin p’hổm hạy lằm kiệng, tin sịn hạy lằm p’hiêng”. Ăn nị ko sá đeng và sịn mèn khường nùng sạ p’họ khoỏng mè nhing Lào lẹ kan nùng ko toọng hạy ngam từm ịc chừng chạ thử và xạy đạy. Nhing sảo Lào thúc khôn nay xôn nạ bốt, kòn chạ mi khù khoong toọng hụ chắc p’há lít khường nùng hạy kè tôn êng, đôi sá p’họ mèn sịn. Sạ nặn, kan tằm húc p’hừa p’hạ lít sịn chừng kai pên hắt thạ kăm khốp khua lẹ mi lắc sạ nạ sựp thọt ma thẩng pắt chu băn.
Khặn ton tàng tàng nay kan hết hạy đạy sền nhay p’hừa năm ma p’há lít p’hèn p’he pên lường thì bò ngài pan đây đôi sạ p’họ mèn mảy. Kòn chạ đạy mảy ko toọng đạy pục mon lẹ liệng mọn. P’hần pục tộn mon p’hừa năm au bay mon pay pên a hản hạy kè mọn. Chạc nặn, ko au mọn ma liệng chôn măn kè lẹ thao nhay pên phắc lọc, lẹo ko au phắc lọc pay tộm p’hừa sảo au sện nhay lử mảy xầng p’hần ợn và “sảo lọc” lử “sảo mảy”. Mừa đạy mảy lẹo ko sả mạt năm au mảy pay p’há lít pên p’hèn p’he đạy tam khoam toọng kan.
Sịn mảy mèn p’há lít tạ p’hăn hắt thạ kăm khường nùng xặn nhọt khoỏng mè nhing Lào: sịn mảy bò p’hiêng tè mi khun khà khoỏng mảy thầu nặn, măn nhăng mi khun khà thang sỉ mư ịc đuội. Nhọn neo nặn, hạc nhing sảo p’hụ đây mi khoam sả mạt lẹ xăm nan nay đạn nị ko chạ kai pên chút sổn chay khoỏng khôn ừn đôi sạ p’họ mèn p’hết kôông kăn khạm.
Đay thùa pay lẹo dù nay xi vít pạ chăm văn mè nhing Lao chạ nùng sạ p’họ sịn phại lử sịn thăm mạ đa thầu nặn. Mùa mi p’hị thi đay nừng xền pay bun, pay đoong lử pay p’hị thi sẳm khăn ừn ừn khẩu chậu ko chạ tèng tua đuội sịn mảy. Hạc và mi khốp khút khẩu chậu ko chạ tèng tua đuội khường mảy thăng khút ăn đạy hết hạy khẩu chậu mi khoam suổi ngam lẹ pên thì sạ đút ta kè p’hụ thì đạy p’hốp hển ịc đuội. ຄຳສັບແລະສຳນວນ Khăm sắp lẹ sẳm nuôn từ và cụm từປົກກະຕິ pốc kạ tị bình thường ຕິດພັນ tít p’hăn gắn bó ດຳລົງຊີວິດ đăm lôông xi vít sinh hoạt, sinh sống ຄຳຜະຫຍາ khăm p’há nhả châm ngôn, tục ngữ ສັ່ງສອນ sằng sỏn dạy bảo ຕີນຜົມ tin p’hổm chân tóc ລ່ຳ lằm nhìn, trông (trong thơ ca) ກ້ຽງ kiệng phẳng phiu, mịn màng ຕີນສິ້ນ tin sịn gấu váy ພຽງ p’hiêng đều đặn, bằng bặn ໃຊ້ໄດ້ xạy đạy dùng được, sử dụng ຄູ່ຄອງ khù khoong cặp vợ chồng ຜະລິດ p’há lít sản xuất, làm ra ຕ່ຳຫຸກ tằm húc dệt vải ຂັ້ນຕອນ khặn ton giai đoạn, công đoạn ມອນ mon cây dâu (tằm) ໃບມອນ bay mon lá dâu ເສັ້ນໃຍ sện nhay sợi tơ ແຜ່ນແພ p’hèn p’he tấm vải, vải vóc ມ້ອນ mọn con tằm ຝັກຫຼອກ phắc lỏn kén tằm ທາວໃຍ thao nhay nhả tơ ສາວ sảo lựa chọn, chọn lọc ສາວຫຼອກ sảo loọc gỡ sợi tơ ສາວໄໝ sảo mảy cuốn tơ, quay tơ ຜະລິດຕະພັນ p’há lít tít p’hăn sản phẩm ຊັ້ນຍອດ xặn nhọt hạng nhất ຄຸນຄ່າ khụn khà giá trị ໂດຍທົ່ວໄປ đôi thùa pay nói chung, thông thường ຈຸດສົນໃຈ chút sổn chay điểm chú ý, điểm quan tâm ສະດຸດຕາ sạ đút ta đập vào mắt ເພດກົງກັນຂ້າມ p’hệt kông kăn khạm phong cách tương phản ປະຈຳວັນ pạ chăm văn hàng ngày Bài dịch Bài thứ 15 Váy lụa tơ tằm Bình thường thì phụ nữ Lào phải mặc váy. Váy là thứ đồ mặc gắn bó với sinh hoạt của phụ nữ Lào từ thời xa xưa. Bởi vậy khi người lớn dạy bảo con cháu là con gái thường hay nói câu châm ngôn rằng: “Chân tóc phải nhìn cho mịn màng, gấu váy (chân váy) phải nhìn cho bằng bặn”. Điều này cũng thể hiện váy là thứ đồ mặc đặc trưng của phụ nữ Lào và việc ăn mặc cũng phải cho đẹp nữa, như thế mới là biết cách. Các cô gái Lào ở nông thôn, trước lúc thành đôi lứa còn phải biết làm ra đồ mặc cho bản thân, nhất là váy. Vì vậy việc dệt vải để làm ra tấm váy đã trở thành công việc lao động thủ công gia đình và có tính chất truyền thống đến tận ngày nay. Các công đoạn trong việc làm cho được sợi tơ để sản xuất ra tấm vải là chuyện không dễ dàng tý nào đặc biệt là lụa. Trước khi được lụa, phải trồng dâu và nuôi tằm. Người ta trồng cây dâu để lấy lá dâu làm thức ăn nuôi tằm. Sau đó mang tằm về nuôi cho đến lúc chín và nhả tơ kéo thành kén rồi mang kén đi nấu để chọn lấy sợi tơ như người ta nói “gỡ tơ” hoặc “quay tơ”. Được tơ rồi, tuỳ theo khả năng dùng tơ sản xuất ra vải lụa theo nhu cầu cần thiết. Váy lụa là sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ may mặc hạng nhất của phụ nữ Lào: váy lụa không chỉ đơn thuần có giá trị bởi tơ tằm, nó còn có giá trị bởi sự khéo léo nữa. Vì thế, nếu người con gái nào có khả năng và kinh nghiệm về mặt này cũng sẽ được sự quan tâm chú ý của nhiều người nhất là khi đến tuổi trưởng thành. Nói chung, trong cuộc sồng hàng ngày, người phụ nữ Lào tạm thời mặc váy sợi bông hoặc váy loại thường. Khi có một nghi lễ nào đó như đi hội, đi đám cưới hoặc đi dự lễ quan trọng vân vân, thì họ mặc váy lụa. Nếu có đồng bộ, họ ăn mặc toàn đồ lụa tơ tằm, điều đó làm cho họ tăng thêm vẻ đẹp kiều diễm và thu hút những người gặp nhìn thấy họ.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
lính đường dây
Thành viên
Bài viết: 200
|
|
« Trả lời #339 vào lúc: 06 Tháng Chín, 2013, 09:17:23 am » |
|
ບົດທີ 16 ບຸນທາດຫຼວງ ອີງຕາມຮີດຄອງປະເພນີລາວແລ້ວ, ເດືອນລາວທັງ12 ເດືອນລ້ວນແຕ່ມີບຸນທຸກເດືອນ. ບຸນ ທີ່ສຳຄັນ ແລະໃຫຍ່ກວ່າໝູ່ແມ່ນບຸນທາດຫຼວງ. ເພິ່ນເຊື່ອກັນວ່າ ທາດຫຼວງເປັນບ່ອນບັນຈຸກະດູກ ຂອງພະພຸດທະເຈົ້າ ເຊິ່ງຕັ້ງຢູ່ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ, ສ້າງຂຶ້ນໃນປີ ຄ.ສ. 1566 ໂດຍພະເຈົ້າ ໄຊຍະເຊດຖາທີລາດ ແລະໄດ້ເປັນສຳຍະລັກຂອງຊາດລາວອີກດ້ວຍ. ຕາມທຳມະດາ ການເຮັດບຸນທາດຫຼວງນີ້ ມີການຄົບງັນສາມມື້ສາມຄືນຄື ມື້ຂຶ້ນ 13 - 14 - 15 ຄ່ຳຂອງເດືອນສິບສອງລາວ. ມື້ຂຶ້ນ 13 ຄ່ຳ ຕອນບ່າຍ ມີຂະບວນແຫ່ຜາສາດເຜິ້ງໄປທອດ ຖວາຍທີ່ວັດສີເມືອງ. ມື້ຂຶ້ນ 14 ຄ່ຳ ຕອນບ່າຍ ກໍມີຂະບວນແຫ່ຜາສາດເຜີ້ງຈາກວັດໜອງບອນ ຫາວັດທາດຫຼວງ. ຂະບວນແຫ່ຈະປະກອບດ້ວຍ ການເສບດົນຕີພື້ນເມືອງ. ເມື່ອຮອດທາດຫຼວງ, ຂະບວນແຫ່ກໍຈະວຽນອ້ອມທາດ 3 ຮອບ ຈາກນັ້ນກໍພາກັນໄຫວ້ທາດ. ຕອນກາງຄືນມີການຄົບງັນ ມ່ວນຊື່ນຕາມປະເພນີ. ສ່ວນມື້ຂຶ້ນ 15 ຄ່ຳ ເຊິ່ງເປັນມື້ສຸດທ້າຍນັ້ນ ຕອນເຊົ້າມີການໄຫວ້ພະ, ຮັບສິນ, ຕັກບາດ ແລະຢາດນ້ຳ ເຊິ່ງມີພຸດທະສາສະນິກະຊົນເຂົ້າຮ່ວມ ຕັກບາດເປັນຈຳນວນຫຼວງຫຼາຍ. ທຸກໆຄົນຈະ ແຕ່ງຕົວດ້ວຍເຄື່ອງໄປບຸນ: ແມ່ຍິງນຸ່ງສິ້ນໄໝ ແລະໃສ່ແພບ່ຽງ, ຜູ້ຊາຍຈຳນວນໜຶ່ງ ນຸ່ງຜ້າຫາງ ແລະໃສ່ຜ້າບ່ຽງເຊັ່ນດຽວກັນ. ການຕັກບາດ ບາງປີເພິ່ນກໍຕັ້ງບາດເປັນແຖວ ແລ້ວຍາດໂຍມກໍເອົາ ເຄື່ອງຕັກບາດປ່ອນໃສ່ບາດ. ໃນຕອນບ່າຍ ຂອງວັນດຽວກັນ ຈະມີການຕີຄີລະຫວ່າງຕົວແທນຂອງ ເມືອງຕ່າງໆໃນເຂດນະຄອນຫຼວງ. ໃນຕອນກາງຄືນນັ້ນ ກໍຈະມີການວຽນທຽນອ້ອມ ທາດ ແລະມີ ການຈຸດບັ້ງໄຟດອກເພື່ອບູຊາພະພຸດທະເຈົ້າ ແລະອົງພະທາດ. ການສະຫຼອງບຸນທາດຫຼວງໃນແຕ່ລະຄືນນັ້ນ ມີການຊົມຕະຫຼາດນັດ ເຊິ່ງມີການວາງສະ ແດງສິນຄ້າຂອງພາຍໃນແລະຕ່າງປະເທດ. ໃນພິທີ ສະຫຼອງບຸນແບບນີ້ ຈະມີການຂາຍອາຫານ ການກິນແບບພື້ນເມືອງຫຼາຍຢ່າງ, ອັນທີ່ຮູ້ຈັກກັນດີກໍໄດ້ແກ່ ເຂົ້າຫຼາມ ແລະປີ້ງໄກ່. Phiên âm Bun Thạt Luổng Ing tam hít khoong pạ p’hê ni Lao lẹo, đươn Lao thăng 12 đươn luộn tè mi bun thúc đươn. Bun thì sẳm khăn lẹ nhày quà mù mèn bun Thạt Luổng. Phần xừa kăn và Thạt Luổng pên bòn băn chu kạ đúc khoỏng p’hạ p’hút thạ chậu xầng tặng dù nạ khon luổng Viêng Chăn, sạng khựn nay pi 1566 đôi p’hạ chậu Xay nhạ Xệt thả thi lạt lẹ đạy pên sẳn nhạ lắc khoỏng xạt Lao ịc đuội.
Tam thăm mạ đa kan hết bun Thạt Luổng nị mi kan khốp ngăn sảm mự sảm khưn khư mự khựn 13 – 14 – 15 khằm khoỏng đươn síp soỏng Lao. Mự khựn 13 khằm ton bài mư khá buôn hè p’hả sạt p’hợng pay thọt thoải thì vắt sỉ mương. Mự khựn 14 khằm ton bài ko mi khá buôn hè p’hả sạt p’hợng chạc vắt Noỏng Bon hả vắt Thạt Luổng. Khá buôn hè chạ pạ cọp đuội kan sệp đôn ti p’hựn mương. Mừa họt Thạt Luổng khá buôn hè ko chạ viên ọm thạt 3 họp, chạc nặn ko p’ha kăn vạy thạt. Ton kang khưn mi kan khốp ngăn muồn xừn tam pạ p’hê ni.
Suồn mự khựn 15 khằm xầng pên mự sút thại nặn, ton xậu mi kan vạy p’hạ, hắp sỉn, tắc bạt lẹ dạt nặm xầng mi p’hút thạ sả sạ nị kạ xôn khậu huồm tắc bạt pên chăm nuôn luổng lải. Thúc thúc khôn chạ tèng tua đuội khường pay bun: Mè nhing nùng sịn mảy lẹ sày p’he biềng, p’hụ xai chăm nuôn nừng nùng p’há hảng lẹ sày p’há biềng xền điêu kăn. Kan tắc bạt bang pi p’hần ko tặng bạt pên thẻo lẹo nhạt nhôm ko au khường tắc bạt pòn sày bạt, bang pi p’hạ sổng sả mạ nên ko ụm bạt nhàng pay p’hừa hạy nhạt nhôm sày bạt. Nay ton bài khoỏng văn điêu kăn chạ mi kan ti khi lạ vàng tua then khoỏng mương tàng tàng nay khệt nạ khon luổng. Nay ton kang khưn nặn, ko chạ mi kan viên thiên ọm thạt lẹ mi kan chút bặng phay đoọc p’hừa bu xa p’hạ p’hút thạ chậu lẹ ông p’hạ thạt.
Kan sạ loỏng bun Thạt Luổng nay tè lạ khưn nặn, mi kan xôm tạ lạt nắt xầng mi kan vang sạ đeng sỉn khạ khoỏng p’hai nay lẹ tàng pạ thệt. Nay p’hị thi sạ loỏng bun bẹp nị, chạ mi kan khải a hảnn kan kin bẹp p’hựn mương lải dàng, ăn thì hụ chắc đi ko đạy kè khậu lảm lẹ pịng kày. ຄຳສັບ ແລະ ສຳນວນ Khăm sắp lẹ sẳm nuôn Từ và cụm từອີງຕາມ ing tam dựa theo, căn cứ vào ຮີດຄອງປະເພນີ hít khoong pạ p’hê ni phong tục tập quán ລ້ວນແຕ່ luộn tè đều là ເຊື່ອກັນວ່າ xừa căn và tin rằng ບັນຈຸ băn chu chứa đựng ກະດູກ kạ đục xương cốt ພະພຸດທະເຈົ້າ p’hạ p’hút thạ chậu Đức Phật ສັນຍະລັກ sẳn nhạ lắc biểu tượng ການຄົບງັນ kan khốp ngăn tổ chức kỷ niệm ຂະບວນແຫ່ khạ buôn hè đám rước, đám diễu hành ຜາສາດເຜີ້ງ p’hả sạt p’hợng tháp làm bằng sáp ong ທອດຖວາຍ thọt thoải dâng, tiến ເສບ sệp chơi nhạc ດົນຕີພື້ນເມືອງ đôn ti p’hựn mương âm nhạc cổ truyền ຂຶ້ນ, ຄ່ຳ khựn, khằm tuần trăng, buổi tối ວຽນອ້ອມ viên ọm đi xung quanh ສຸດທ້າຍ sút thại cuối cùng, kết thúc ໄຫວ້ພະ vạy p’hạ lễ Phật ຮັບສິນ hắp sỉn chịu lễ thánh ຕັກບາດ tắc bạt hành khất, khất thực ຢາດນ້ຳ dạt nặm giọt nước, nghi lễ nhỏ nước xuống đất ພຸດທະສາສະນິກະຊົນ p’hút thạ sả sạ ni kạ xôn tín đồ phật giáo/Phật tử ເຂົ້າຮ່ວມ khậu huồm tham gia, gia nhập ເຄື່ອງໄປບຸນ khường pay bun quần áo đi hội ສິ້ນໄໝ sín mảy váy lụa ແພບ່ຽງ, ຜ້າບ່ຽງ p’he biềng, p’há biềng khăn quàng ຜ້າຫາງ p’há hảng vải đóng khố (một hình thức ăn mặc của nam giới trong ngày hội) ເປັນແຖວ pên thẻo thành hàng, thành lối ຍາດໂຍມ nhạt nhôm mọi người ປ່ອນໃສ່ pòn sày bỏ vào ບາດ bạt cái giỏ nhận cơm của sư sãi ສາມະເນນ sả mạ nên sư sãi ອູ້ມ ụm bế ການຕີຄີ kan ti khi một môn thể thao giống như đánh phết của VN ຕົວແທນ tua then đại diện, thay mặt ເຂດ khệt khu vực/vùng ການວຽນທຽນ kan viên thiên rước nến đi vòng xung quanh chùa ຈູດ chụt đốt, thắp, châm, nhóm, nhen ບັ້ງໄຟດອກ bặng phay đoọc pháo hoa ບູຊາ bu xa thờ cúng, sùng bái ການສະຫຼອງ kan sạ loỏng lễ kỷ niệm ຕະຫຼາດນັດ tạ lạt nắt hội chợ ການວາງສະແດງ kan vang sạ đeng cuộc triển lãm ສິນຄ້າ sỉn khạ hàng hoá ພິທີ p’hi thi nghi thức, nghi lễ ເຂົ້າຫຼາມ khậu lảm cơm lam ຄ.ສ (ຄຣິດຕະສັງກາດ) kho sỏ (kh'rít tạ sẳng kạt) năm công nguyên Bài dịch Lễ hội Thạt Luổng Theo phong tục truyền thống của Lào, trong tất cả 12 tháng, tháng nào cũng có lễ hội. Lễ hội quan trọng và lớn hơn cả là lễ hội Thạt Luổng. Người ta tin rằng Thạt Luổng là nơi chứa đựng khúc xương của Đức Phật nằm ở thủ đô Viêng Chăn được xây dựng từ năm 1566 bởi vua Xay nhạ Xệt Thả Thi Lạt và đã trở thành biểu tượng của đất nước Lào. Thông thường, việc tổ chức lễ hội Thạt Luổng này được tiến hành trong ba ngày ba đêm và vào những đêm trăng 13 – 14 – 15 của tháng mười hai Lào. Buổi chiều ngày 13, có đám rước P’hả Sạt P’hơng đi từ chùa Mẹ Sỉ Mương. Buổi chiều ngày 14, đám rước tháp P’hả Sạt P’hơng từ chùa Noỏng Bon đến chùa Thạt Luổng. Đám rước bao gồm cả biểu diễn âm nhạc dân gian. Khi tới Thạt Luổng, đám rước sẽ đi vòng quanh tháp ba vòng rồi vào làm lễ trong tháp. Ban đêm, mọi người tụ tập vui chơi theo phong tục truyền thống. Sang ngày 15 là ngày cuối cùng của hội, buổi sáng có lễ Phật, tiếp đãi các vị sư, các vị sư nhận lễ (lễ Tắc bạt) và nghi lễ vẩy nước có sự tham gia của đông đảo các tín đồ đạo Phật. Mọi người đều ăn mặc quần áo dự lễ hội: phụ nữ mặc váy lụa và quàng khăn chéo, một số đàn ông mặc vải theo kiểu đóng khố (có đuôi) và cũng quàng khăn chéo. Lễ Tắc bạt có năm người ta đặt những giỏ đựng cơm thành hàng rồi để cho mọi người bỏ đồ cúng tiến vào giỏ, có năm các sư sãi mang giỏ đi nhận đồ cúng dường của các tín đồ. Trong buổi chiều cùng ngày, sẽ có cuộc thi đấu Ti Khi (hockey) giữa các quận huyện trong khu vực thủ đô. Vào ban đêm, có lễ rước nến đi vòng quanh tháp và đốt pháo hoa để bày tỏ sự tôn sùng Đức Phật và ngôi tháp. Mỗi đêm tổ chức lễ hội Thạt Luổng như vậy thường kèm theo việc tổ chức hội chợ và triển lãm trưng bày hàng hóa của các nơi trong và ngoài nước. Trong những buổi lễ kỷ niệm hội hè như thế này có bán nhiều món ăn dân tộc mà người ta đã biết như cơm lam và gà nướng.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
|