vanthang341ht
Thành viên
Bài viết: 1065
Nhât ky vanthang 341ht
|
|
« Trả lời #130 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2011, 05:19:20 pm » |
|
Lật cánh Ngày 25 tháng 3 năm 1979 từ mặt trận Đường số 4 Sư đoàn bắt đầu “Lật cánh” về phía Tây Nam KPC Sư đoàn 341 vừa là lực lượng cơ động của Quân đoàn 4, vừa là lực lượng cơ động của Bộ có nhiệm vụ tiến về hướng Tây Nam KPC kết hợp với các lực lượng của Quân đoàn 4, Quân đoàn 3 đánh chiếm căn cứ cuối cùng của Pốt ở Lếch (Tây Nam Bát Tam Băng – Pua Sát), giải phóng vùng rừng núi rộng lớn phía Tây Nam KPC. Vào thời điểm Sư đoàn 341 được giao nhiệm vụ đánh chiếm và tham gia giải phóng khu vực rộng lớn này. qua tổng hợp một số tình hình địch mà Quân đoàn và các đơn vị cùng tham gia cung cấp thì bọn Pốt còn lực lượng tại đây khá đông. Sư đoàn 104 hoạt động từ Rô Mia đến MuôngSay khống chế tuyến đường sắt từ Công PôngChNăng đi BátTamBong Ba Sư đoàn khác 232, 260, 460 mỗi Sư đoàn còn khoảng 1000 quân khống chế Đường số 5 từ UĐông – Rừng Xanh - Pua Sát, căn cứ của chúng nằm sâu trong thung lủng A Ray của dãy Kra vanh. Sư đoàn 210 và một Trung đoàn của Sư đoàn 502 (KQ) bảo vệ căn cứ Lếch. Xung quanh căn cứ Lếch còn có Tiểu đoàn 264, Tiểu đoàn 135 quân địa phương được hỗ trợ của 4 khẩu pháo 105 ly, 4 khẩu 37ly, sáu xe tăng PT 85, tám xe thiết giáp. Từ Thị xã PuaXát vào Lếch theo đường 56 còn có Sư đoàn 502 (thiếu 1 trung đoàn) được trang bị 2 khẩu 105 ly, 2 pháo 85 ly, 2 pháo 37 ly, hai cối 120 ly, 5 xe tăng, thiết giáp . Phía ta có Sư đoàn 330 và vài tiểu đoàn bộ đội Bạn, chủ yếu đứng chân ở khu vực quanh Thị trấn KraCô và Thị xã Pua Sát (sau này lên đây đi nhận bàn giao giữa Sư đoàn 341 với Sư đoàn 330 tôi được biết có vậy). Sư đoàn 330 thời gian chốt trụ tại đây đã phải đối phó rất căng thẳng với lực lượng này từ tháng 2 năm 1979. Về nhận nhiệm vụ tại Sư đoàn 341 thay đ/c Vũ Cao, Đại tá Hồ Đình Quý bắt tay ngay vào việc triển khai nhiệm vụ chiến đấu của Sư đoàn vào mục tiêu chủ yếu này. Để đưa toàn bộ lực lượng lên Pua Sát sư đoàn triển khai thành hai bước Bước 1: Trung đoàn 270 do Lê Hải Anh chỉ huy được tăng cường thêm Tiểu đoàn 14 Pháo 105 ly, 1 Đại đội xe tăng thiết giáp. Có nhiệm vụ đi đầu giải tỏa đường số 5 từ CôngPôngChNăng đến KraCô Bước2; Trụng đoàn 266 hành quân hướng Bắc Đường số 5, các cơ quan Sư đoàn và các tiểu đoàn trực thuộc hành quân trên trục đường 5. Trung đoàn 273 hành quân bằng đường thủy, xuống tàu Hải Quân từ PnomPênh ngược dòng Tông Lê Sáp , đổ bộ lên cảng Công Pông Chơ Năng rồi tiến về Kra cô. Trước đó một bộ phận chỉ huy nhẹ của Sư đoàn do Tư lệnh trưởng Hồ Đình Quý chỉ huy đáp máy bay trực thăng từ PôChenTông lên thị trấn KraCô trong ngày 18 tháng 3. Tôi được Phòng Chính trị phân công đi cùng Trung đoàn 270. Một cuộc hành quân chiến đấu kết hợp với di chuyển lực lượng của một sư đoàn BB trên suốt chiều dài 200km dọc Quốc lộ số 5. Gần trăm chiếc xe vận tải quân sự với các trang bị binh khí, kỹ thuật rầm rộ như vậy, những tưởng kẻ địch chỉ nhìn thấy đã mất vía bỏ chạy thật xa. Thế nhưng chúng đã tích cực bu bám và gây cho chúng ta không ít những khó khăn. Trung đoàn 270, trung đoàn trưởng Lê Hải Anh có cách tác chiến sử dụng pháo cối và hỏa lực mạnh như cách đánh của Tư lệnh Vũ Cao trước đó. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 14 pháo 105 ly Nguyễn Hữu Đa được giao mang theo hai cơ số đạn. Cối 80, 81 ly, cối 120 ly, pháo 105ly luôn là hỏa lực dọn đường để Trung đoàn 270 hành tiên. Mũi nhọn của Trung đoàn 270 là Tiểu đoàn 5, mũi nhọn của Tiểu đoàn 5 là Đại đội 7 với 4 xe tăng thiết giáp làm mũi đột kích. Đánh hơi thấy ta di chuyển lực lượng mạnh bọn Pốt tăng cường phản kích bám sát ta một cách ráo riết. Chúng sử dụng bản năng vốn có trèo lên những cây thốt nốt cao 15 – 20 mét, phát hiện và chỉ điểm cho bộ binh bu bám, cài mìn, phục kích, ngăn chặn. Tại khu vực Rừng xanh (Tây Nam Kông Pông Chơ Năng khoảng 20 km) có địa hình bằng phẳng hai bên rừng rậm xen kẻ sình lầy, hồ nước, chạy ruốt đến chân núi URan (Phía Nam) và ra đến bờ sông Tông Lê Sáp (phía Bắc). Chạy qua Đường 5 tại đây có ngầm Ăng Cam, khu vực này địch chọn làm chổ cản phá ta nhiều nhất. Khi Đại đội 7 BB và 2 thiết giáp đi qua bọn Pôt chưa nổ sung. Sau đó lực lượng còn lại có hai xe chở BB vượt lên. Xe đang vượt ngầm thì bị trúng hỏa lực địch, xe bốc cháy. Đạn B40, B41, Súng 12,7ly từ phía địch bắn tới tấp. Bộ đội ta nhảy xuống xe tản sang hai bên đường, khẩn trương giải quyết hậu quả. Tiểu đoàn 5 điều 2 thiết giáp vượt lên, 1 chiếc vừa qua khỏi ngầm bị trúng đạn B41 bốc cháy, chiếc thứ 2 nằm tại chổ không lên được. Bộ binh địch xuất hiện hai bên nổ sung tấn công rất mạnh. Trung đoàn trưởng Lê Hải Anh dung pháo 105, cối 80, 81 bắn kiềm chế, đồng thời sử dụng Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6 vòng ra từ hai phía đánh vào. Không chống đỡ nổi, bọn Pốt rút dần lực lượng ra khỏi khu vực ngầm ĂngCam. Chúng tiếp tục cài mìn chống tăng, mìn định hướng chống bộ binh suốt dọc đường số 5 hàng chục km làm giảm tốc độ tấn công của Trung đoàn 270. Lúc này tại Thị trấn Kra cô và Thị xã Pua Sát, Sư đoàn 330 cũng đang gặp khó khăn. Địch liên tục tổ chức các đợt tấn công vào những chốt phía trước các đại đội, tiểu đoàn có lúc đánh vào Thị trấn, Thị xã gây cho chính quyền và nhân dân KPC ở đây rất hoang mang. Trung đoàn 270 vì thế phải tìm cách nâng tốc độ tấn công, phải nhanh chóng vào được Thị trấn KraCô để uy hiếp và kéo giản lực lượng địch. Trung đoàn đã sử dụng mọi hỏa lực sẵn có đi cùng, liên tục tấn công vừa đánh vừa tiến, đến 18 giờ ngày 26 tháng 3 gần 100 xe chở quân và phương tiện chiến đấu đã vào được KraCô và triển khai lực lượng chiến đấu quanh khu vực. Sau đội hình Trung đoàn 270 là một bộ phận tiền phương của Sư đoàn gồm các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, tối đó đã đến được vị trí tập kết. Một lực lượng khá lớn của Sư đoàn 341 và Sư đoàn 330 với hàng chục ngàn dân ở quanh khu vực KraCô vào thời điểm này đang mùa khô thật là một nan giải. Các ao hồ gần như cạn kiệt, nước Biển Hồ đục ngầu. Chỉ cần nhúng tay chân xuống nước Biển Hồ rồi lên bờ đứng chờ khô là các sợi lông tay, lông chân dính bùn như những sợi chỉ bám đầy người, toàn thân trông như da chó ghẻ. Hàng ngày, nước uống, nước đánh răng không có, chúng tôi phải dùng xẻng BB ra các ao hồ cạn gần đó đào xuống khoảng nữa mét, múc từng bát nước cho vào túi ni lông để lắng cặn mới dùng. Một thứ nước phèn vàng, sánh, ngậm vào miệng vừa chát vừa nhám, ráp cứ như có tờ giấy vệ sinh mỏng dính vào mồm, vào lưỡi. Đã thế trời nắng nóng, xe cọ, người và phương tiện chiến tranh cũng nhiều, dân KPC các nơi dồn về đông đúc, đen đúa, bệnh tật, bẩn thỉu. Lính ta mồ hôi đầy người, quần áo dính bụi dày như mo cau, không thể không tắm giặt. Nhưng lấy đâu ra nước mà tắm, chúng tôi đành phải liều tắm chung với dân. Mỗi chiều đến chen nhau với vài ba chục người dân KPC (trong đó có những người dân đang bị bệnh nhiệt thán), quanh một hồ nước có diện tích mặt nước khoảng hai chục mét vuông. Hồ nước chỉ sâu đến đầu gối, nước hồ là một màu xanh rêu phía trên, phía dưới đục ngầu đầy rác rưỡi. Cứ thế mủ, nón, gáo, xô của dân ào xuống, múc lên đứng ngay mép hồ dội tắm. Nước tắm xong chảy xuống hồ lại tiếp tục múc lên dội vào người. Nước bẩn chảy qua mặt, qua da hàng trăm người cả lính ta và dân KPC. Ôi chao! Đến bây giờ nhớ lại cái khổ thiếu nước ở Kra Cô tháng 3 năm 1979 mà thấy rởn gáy.
|