vanthang341ht
Thành viên
Bài viết: 1065
Nhât ky vanthang 341ht
|
|
« Trả lời #66 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2011, 08:14:03 am » |
|
Tình hình quân sự trên địa bàn tỉnh Công Pông SPư ngày càng đi vào ổn định. Chính quyền từ cấp tỉnh đến cơ sở Phum, Sóc cũng được cũng cố. Nhân dân phấn khởi trở về quê hương của mình bắt tay vào lao động, sản xuất, tu sửa nhà cửa, nương vườn. Nhưng nạn thiếu đói và dịch bệnh trầm trọng chưa thể khắc phục ngày một, ngày hai. Cán bộ, chiến sỹ sư đoàn 341 lại phải vừa chiến đấu vừa tích cực giúp dân, xây dựng chính quyền cơ sở, vừa phải khám và chữa bệnh cho nhân dân. Phải lo cấp gạo cứu đói, vải vóc, quần áo mặc, vừa tổ chức cho nhân dân lao động, sản xuất các loại cây, củ ngắn ngày nhằm giải quyết những khó khăn trước mắt của họ. Gần một tháng lăn lộn với bà con nhân dân CamPuChia tình hình mọi mặt bước vào nề nếp. Các tiểu đội, trung đội dân phòng vừa là nòng cốt chiến đấu bảo vệ, vừa tổ chức quản lý và hướng dẫn mọi hoạt động của mỗi Phum Sóc. Những bài ca bản nhạc, điệu nhảy được vang lên ở các buôn làng. Đặc biệt bài hát Việt Nam – CamPuChia – Xamaki do Xi Ha Núc sáng tác từ những năm trước đây trở thành bài hát phổ biến trong cả bộ đội Việt Nam với bộ đội và nhân dân CamPuChia. Ngày 17 tháng 2 năm 1979 TrungQuốc phát động cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. Chủ nghĩa “ Bành trướng Bá quyền nước lớn Trung Quốc” (theo cách nói của ta) muốn “ Dạy cho Việt Nam một bài học”, để Việt Nam hết bướng bỉnh, không chịu nghe theo” chúng. Quân và dân ta ở hai đầu biên giới vẫn điềm tỉnh, vững vàng, anh dũng chiến đấu, kiên quyết chống lại sự xâm lược của kẻ thù. Đúng như nhà thơ Tố Hữu nói: …” Lụt Bắc, lụt Nam máu đầm biên giới Tay chống tời, tay giữ nước nước căng gân…” Cuộc chiến đấu của các lực lượng quân sự của nhân dân ta và nhân dân KomPuChia ở đây, vẫn bình thản triển khai như thường lệ và có phần khẩn trương,quyết liệt hơn trước. * * * Ngày 06 tháng 3 năm 1979 sư đoàn 341 được Quân đoàn 4 tăng cường trung đoàn Ba Gia sư đoàn 2, Trung đoàn 14 sư 9, 2 đại đội tăng thiết giáp 10 chiếc, tiến hành cuộc hành quân truy quét từ hướng Bắc Tây Bắc thị xã Công Pông SPư, tiêu diệt lực lượng địch ở vòng ngoài.Ngày 11 tháng 3 Quân đoàn rút các đơn vị tăng cường để tập trung cho Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 đánh vào mục tiêu chủ yếu. Sư đoàn 341 sử dụng lực lượng còn lại của mình phát triển thêm 40 km về hướng Công Pông Som bắt liên lạc với các đơn vị chiến đấu của Quân Khu 9 mở rộng và khai thông hành lang Quốc lộ số 4 từ Pnom Pênh đi Cảng XiHaNukvin. Tôi không tham gia vào cuộc hành quân truy quét này mà được giao phụ trách công tác chính trị cùng đồng chí Nguyễn Quang Nuôi trợ lý tác chiến sư đoàn phụ trách quân sự của bộ phận còn lại ở “cứ” sư đoàn. Lực lượng tại khu vực này có: một tiểu đoàn 28 huấn luyện khoảng 300 tân binh mới được đưa từ Việt Nam sang, hơn 30 cán bộ tiểu đội, trung đội. Tiểu đoàn 28 đóng quân cách cứ khoảng 4km về phía Bắc. Một tiểu đoàn Bạn mới thành lập đang tuyển chọn lính từ các Phum Sóc cũng đóng quân ở khu vực gần đấy. Tại Sở Chỉ Huy cơ bản của Sư đoàn còn có cơ quan Tỉnh Ủy, Ủy Ban tỉnh và một số cán bộ giúp việc cơ quan cấp tỉnh khoảng 15 người, một trung đội vệ binh Bạn bảo vệ cơ quan cấp tỉnh, 2 đội công tác của Bạn mỗi đội 25 người trong đó có 20 đồng chí đã được đào tạo học tập vài tháng, còn lại là số mới được tuyển chọn từ trong dân. Lực lượng nòng cốt để bảo vệ khu vực này chủ yếu là tiểu đội vệ binh của ta có 8 đồng chí do đồng chí Vinh trung đội trưởng chỉ huy.Các tiểu đoàn 17 công binh có 5 đồng chí, tiểu đoàn 18 thông tin 7 đồng chí, những anh em này phần lớn đang ốm hoặc bị thương nhẹ được đơn vị phân công ở lại cứ. Nhiệm vụ của chúng tôi ở tại Cứ là duy trì các hoạt động bình thường của lực lượng còn lại tại sở chỉ huy cơ bản, bảo vệ cơ quan lãnh đạo của tỉnh Công Pông Spư. Riêng tôi có nhiệm vụ tham gia Hội đồng xét vử với tư cách là Hội thẩm quân nhân của Tòa án quân sự Quân đoàn 4, xử vụ án P.A.S can tội cưỡng hiếp gái CamPuChia (tôi xin không nói rõ tên và quê quán) * * *
Một thời chiến đấu trong đội hình sư đoàn 341 đã được trưởng thành từ cán bộ Trung đội, đại đội, tiểu đoàn rồi tham mưu phó trung đoàn, P.A.S có những thành tích chiến đấu, gắn liền với những chiến công của đơn vị rất đáng tự hào. Anh là một trong những sỹ quan trẻ đã được rèn luyện, thử thách qua chiến đấu, công tác có triển vọng. Khi ở vị trí tham mưu phó trung đoàn anh là một chỉ huy có năng lực và xông xáo, là người trực tiếp chỉ huy khắc phục 2 xe tăng T54 sa lầy ngày 05/01/1979 của trung đoàn 273 trên đường 24 từ SăngKe đến núi Sa Cách, vào giải phóng Pnom Pênh ngày 07 tháng 01 năm 1979. Tôi đã cùng anh ăn chung nồi cá luộc khi thiếu gạo, đói cơm ngày 11 tháng 1 ở phía Bắc sông Bốn Mặt, đã từng cùng anh và một số cán bộ cơ quan trung đoàn 273 xuống kiểm tra từng ba lô chiến sĩ ở tiểu đoàn 1 khi có tin anh em vi phạm chính sách dân vận. Thái độ của anh mềm dẻo nhưng không khoan nhượng với những sai trái của cán bộ, chiến sỹ cấp dưới. Hoàn thành nhiệm vụ truy quét phía Bắc thủ đô Pnom Pênh bên bờ Bắc sông MêKông thì trung đoàn được lệnh trở về tỉnh Công Pông Spư . P.A.S sử dụng 3 chiến sĩ trinh sát cùng anh đi khảo sát địa hình chuẩn bị vị trí đứng chân của trung đoàn. Khi qua một cánh đồng không rộng, có mấy ngôi nhà ở dọc bờ suối, mùa khô không có nước, không một bóng người. Riêng anh có thấy một cô gái CamPuChia khoảng 20 tuổi mang gùi đang làm gì dưới suối. Nhóm trinh sát vẫn tiếp tục đi khảo sát địa hình nhưng không phát hiện được gì. Đi được khoảng năm trăm mét thì P.A.S bảo các trinh sát ngồi nghỉ, anh quay trở lại chỗ vừa thấy người con gái. Đến nơi cũng là lúc cô gái từ dưới suối đi lên. Không kiềm chế được mình, như một định mệnh, anh rút súng ngắn cầm ở tay, buộc cô gái kéo váy xuống, anh ôm lấy cô gái. Sợ quá cô gái CamPuChia không giám chống cự, buông lỏng mình cho P.A.S hành động. Hành động xong P.A.S trở lại với các chiến sỹ trinh sát trở về trung đoàn như không có chuyện gì xẩy ra. Nơi cô gái CamPuChia vừa bị hiếp, sau đó vài giờ có 2 chiến sỹ bộ đội Bạn đi qua. Cô ấy sợ hãi kể hết với họ những chuyện vừa xẩy ra và cùng họ đến tại Trung đoàn bộ nhận mặt P.A.S. Một ngày sau đó P.A.S bị Viện Kiểm Sát quân sự Quân Đoàn 4 ra lệnh bắt giam. P.A.S đứng dậy nghe xong lệnh bắt, anh giơ hai tay run rẩy tra vào vòng thép trắng số 8. Mặt anh thuổn ra, da tái nhợt, chân khuỵu xuống, người nhũn như lá chuối héo. Hai đồng chí vệ binh quân đoàn cầm tay, xốc nách, kéo lê P.A.S lên xe đóng sầm cửa lại. Người đồng đội mới vừa nãy đây thôi, bổng chốc bị quẳng lên xe như một con vật vô tri. Những người được chứng kiến sự việc này thật ngỡ ngàng, bất ngờ, mông lung khó tả… * * * Một tháng sau, vụ án P.A.S được đưa ra xét xử công khai tại khu vực Nhà Máy Đường, nơi đặt sở chỉ huy cơ bản của sư đoàn 341 tại Mặt trận Đường số 4. Tôi là một trong ba thành viên của Hội đồng xét xử hôm đó. Một chánh án, một thành viên là Viện Kiểm Sát quân sự Quân đoàn 4 và tôi Hội thẩm quân nhân. Không có luật sư bào chữa, đây là tòa án quân sự mở phiên tòa đặc biệt, khẩn cấp tại chiến trường, xử án tại chỗ những quân nhân có hành vi vi phạm kỷ luật đặc biệt nghiêm trọng. Trong một căn phòng không rộng, có chiều 5m x15m với trang trí dã chiến. Trên có Quốc huy Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Dưới đó hai cái bàn kê sát nhau đủ chổ cho một chủ tọa phiên tòa và hai thành viên Hội Đồng xét xử. Bên trái một bàn thư ký, bên phải một bàn của công tố viên. Đối diện với chủ tọa phiên tòa là vành móng ngựa dành cho P.A.S hai tay bị trói quặt sau lưng với dáng điệu tiều tụy, hốc hác, rũ rượi. Toàn thân anh mềm nhũn, không đứng vững nhưng buộc phải gắng hết sức lực còn lại của mình trước một phiên tòa đang tỏ ra đằng đằng sát khí. Hai bên P.A.S là hai chiến sỹ vệ binh đeo hai khẩu súng ngắn với găng tay trắng toát, đứng nghiêm như đang sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống có thể xẩy ra bất kỳ. Vòng ngoài đồng chí Nuôi và tôi đã bàn bạc và thống nhất những phương án quân sự chính trị cho phiên tòa này từ một ngày trước đó. Bên trái phía sau P.A.S là hai mẹ con(một gái trẻ, một mẹ già) ngồi thản nhiên nhìn phiên tòa, nhìn P.A.S với khuôn mặt tỉnh bơ, vô cảm. Hai chiến sỹ bộ đội CamPuChia với tư cách là người làm chứng cũng lạnh lùng tương tự. Một số ít cán bộ chiến sỹ bộ đội ta, vài chục cán bộ, đội viên đội công tác Bạn chủ yếu là nữ cùng đứng xem. Một phiên dịch tiếng CamPuChia người của chúng ta, chỉ làm nhiệm vụ phiên dịch khi hỏi đến người bị hại và người làm chứng. Ngôn ngữ phiên tòa dùng tiếng Việt. Sau vài câu khai mạc, giới thiệu ngắn gọn, vừa đủ, chủ tọa phiên tòa hỏi: P.A.S, có phải họ tên, ngày tháng năm sinh, ngày nhập ngũ, cấp bậc, chức vụ, đơn vị, quê quán…. Không? Dạ, phải! Cô X có phải là người đã bị P.A.S hại, đang ngồi ở đấy không? Dạ, phải! Quay sang phía người bị hại chủ tọa phiên tòa hỏi: Cô X, có phải người đang đứng trong vành móng ngựa đây là người đã hại cô ngày tháng tại … không? Ngúc đầu, nói lí nhí: Tòa hỏi lại: Có đúng không? Dạ, đúng! Chủ tọa mời công tố viên đọc bản cáo trạng. Bản cáo trạng có thời lượng khoảng 10 phút, ngắn gọn, rõ ràng, chi tiết, chỉ dẫn đúng chỗ, đúng điều của Hiến pháp, pháp luật nhà nước, Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và những điều quy định về kỷ luật chiến trường của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Người đọc cố tỏ ra đạo mạo nghiêm trang, uy nghi và chững chạc nhưng tôi nghĩ anh đang cố kìm nén cảm xúc của mình từ trong cảm giác “máu chảy, ruột mềm” ấy. Chỉ từng ấy thời gian đứng nghe bản cáo trạng, P.A.S có hơn 3 lần khuỵu xuống. Hai chiến sỹ vệ binh đứng bên phải xốc nách anh để anh ở tư thế đứng. Đến lượt tôi, một Hội thẩm quân nhân, tôi hỏi những câu đã được chủ tọa phiên tòa hướng dẫn trước đó. Vẫn câu trả lời của P.A.S rằng: Dạ! Phải! Có và đúng ạ! Anh nói một cách yếu ớt, hụt hơi như cảm nhận được rằng mình không còn tia hi vọng nào của sự sống. Một câu hỏi của tôi, một câu trả lời của người đồng đội mới cách đây một tháng thôi còn chung nhau cái đói, chung nhau gian khổ, khó khăn, chung nhau nụ cười… Bây giờ… Chao ôi! Đau lắm, tim tôi như có những cái kim đâm nhói trong lồng ngực, đau buốt cả vùng sau gáy và vùng chẩm. Nhìn đứa con gái CamPuChia đen nhẻm và mẹ già của cô ta ngồi đó đối diện, vẫn bình thản, vô cảm như lúc đầu, tôi càng xót xa. Tôi ước rằng giá như mình biết tiếng CamPuChia thật nhiều, hoặc không cũng chỉ đủ để nói với mẹ con họ rằng: “Mẹ con tôi xin tòa giảm tội cho anh ấy, vì đất nước tôi, vì dân tộc tôi, vì mẹ con tôi mà bộ đội Việt Nam đã hi sinh quá nhiều, đổ máu quá nhiều. Mẹ con tôi cũng như những người mẹ, người vợ, người em gái của các anh bộ đội Việt Nam, đã phải chịu đựng bao nhiêu đau thương xa cách, mòn mỏi chờ mong, bao nhiêu ước mơ, hi vọng rồi thất vọng khi không thấy con mình, chồng mình trở về”. Chỉ một câu thôi “Xin tòa tha thứ cho cái tội, cái án nặng nhất của anh ấy”. Không nói được tiếng CamPuChia vào lúc này tôi thấy như mình đang mang nặng một nỗi đau, nỗi thất vọng. Thật đáng trách cho cái thằng tôi ở thời điểm ấy, chẳng làm được một chút gì để cứu vớt đồng đội của mình.
|