Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 02 Tháng Sáu, 2024, 02:24:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng Tham mưu Xô-viết trong chiến tranh  (Đọc 127372 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #230 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:19:20 pm »

Chương mười lăm
Tiêu diệt Đạo quân Quan Đông

Thủ tướng Anh ở chỗ Tổng tư lệnh tối cao. - Tập trung bộ đội ở biên giới Viễn Đông. - Đạo quân Quan Đông, lực lượng và bố trí của chúng. - Có thể bất ngờ không? - R. I-a. Ma-li-nốp-xki được triệu tập về Đại bản doanh. - Hội nghị Pỗt-đam và tiếng vang của nó. - Bí mật lọt ra ngoài phạm vi Bộ tổng tham mưu. - Giờ đã điểm. - Những hành động táo bạo của quân đổ bộ đường không. - Nhật đầu hàng.

Từ lúc bắt đầu cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, tình hình ngoài biên giới Viễn Đông đất nước chúng ta càng ngày càng căng thẳng thêm. Mặc dầu giữa Liên Xô và Nhật đã ký kết hiệp ước trung lập, nguy cơ bị Nhật uy hiếp vẫn ngày càng tăng. Những lực lượng lớn quân Nhật tập trung ở Mãn Châu chỉ chờ thời cơ thuận lợi là tiến công Liên Xô, chiếm lấy đất Xi-bi-ri và miền Viễn Đông xô-viết.

Bọn quân phiệt Nhật thường vi phạm biên giới Tổ quốc ta, xâm nhập vùng trời và vùng biển chúng ta. Cuộc tiến công của quân đội phát-xít Đức vào Mát-xcơ-va bị đánh tan đã làm nguội lạnh phần nào mưu đồ của chúng, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ ý định xâm lược. Việc ấy nay được xem là hoàn toàn xác thực, căn cứ vào những tài liệu của vụ án quốc tế xét xử những tên tội phạm chiến tranh đầu sỏ của Nhật.

Bộ tổng tham mưu vẫn chăm chú theo dõi thái độ không thiện chí của kẻ láng giềng ấy. Chúng ta quan tâm đến bọn đánh canh bạc chung với Hít-le ở phía Đông trong trục Béc-lin - Rôm - Tô-ki-ô, không phải chỉ vì chúng gây ra nguy cơ chiến tranh trực tiếp đối với Liên Xô, mà còn vì “vấn đề Nhật Bản” có một ý nghĩa nữa: nó gắn liền với nhiệm vụ rút ngắn thời hạn cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Loài người đang đổ máu yêu cầu như vậy. Không tiêu diệt đế quốc Nhật, chưa thể có hòa bình trên trái đất. Sau cùng, còn cần phải giúp đờ các dân tộc châu Á, trước hết là Trung Quốc, vứt bỏ ách nô dịch của nước ngoài.

Trong khi tập trung chú ý đến những mặt trận đang xảy ra chiến sự, chúng ta không hề quên mặt Viễn Đông. Hơn thế nữa, trong những lúc chiến tranh chống quân phát-xíl Đức xâm lược gặp khó khăn, ta lại càng tăng cường quan tâm đến Viễn Đông.

Bạn đọc cũng biết rằng trong những ngày khó khăn năm 1942, tại Bộ tổng tham mưu chúng ta có một Phó tổng tham mưu trưởng đặc trách mặt Viễn Đông, và trong Cục tác chiến cũng có một bộ phận chuyên trách về Viễn Đông, do một cán bộ có kinh nghiệm là thiếu tướng Ph. I. Sép-tsen-cô phụ trách.

Tháng Sáu 1943, đồng chí tham mưu phó phương diện quân Viễn Đông, thiếu tướng N. A. Lô-mốp, được điều về công tác ở Cục tác chiến, và thiếu tướng Ph. I. Sép-tsen-cô ở Bộ tổng tham mưu được cử ra thay đồng chí. Vậy là, mặt Viễn Đông được bổ sung một đồng chí cấp tướng chẳng những am hiểu chiến trường này, mà còn nắm vững cả những quan điểm của Đại bản doanh và yêu cầu của Bộ tổng tham mưu về Viễn Đông, đồng thời, Bộ tổng tham mưu lại có được N. A. Lô-mốp, một chuyên gia nắm vững ngọn ngành mọi đặc điểm tình hình ở Viễn Đông.

Ngay trước lúc chiến tranh bắt đầu, năm 1938, quân khu Viễn Đông và năm 1941, cả quân khu Da-bai-can nữa, đều được đổi thành những phương diện quân mang hai tên ấy. Bộ phận chỉ huy các phương diện quân này chưa có kinh nghiệm chiến đấu, nên trong thời gian chiến tranh dần dần được thay bằng những tướng lĩnh và sĩ quan đã từng trải qua chiến đấu chống quân Đức Hít-le; chẳng hạn đại tướng M. A. Puốc-ca-ép, nguyên là tư lệnh phương diện quân Ca-li-nin được cử giữ chức tư lệnh phương diện quân Viễn Đông, còn đại tướng I. R. A-pa-na-xen-cô được phái đi thực tế ở phương diện quân Vô-rô-ne-giơ. Và các cán bộ chỉ huy khác ở Viễn Đông cùng đều lần lượt kinh qua thực tế chiến đấu trong các đơn vị đang tác chiến.

Từ giữa năm 1943 về sau, khi trên mặt trận Xô - Đức đã hiện ra bước ngoặt cơ bản có lợi cho ta thì việc tất yếu không tránh được là: sớm muộn gì rồi Nhật cũng phải quy theo vết nước Đức phát-xít. Các nước Đồng minh phương Tây của chúng ta, bằng mọi cách, thúc giục chúng ta tham chiến ở Viễn Đông càng sớm càng tốt. Nhưng chỉ tới khi hội nghị Tê-bê-ran, sau khi đã đi tới thỏa thuận cụ thể với nhau về việc mở mặt trận thứ hai ở châu Âu, thì đoàn đại biểu Liên Xô mới đồng ý về nguyên tắc là Liên Xô sẽ tiến công vũ trang vào nước Nhật đế quốc chủ nghĩa, nhưng với quy ước rõ ràng là Liên Xô sẽ tiến công sau khi đã đánh bại xong nước Đức Hít-le.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #231 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:20:22 pm »

Các nhà cầm quyền Anh và Mỹ, như chưa thỏa mãn với những điều ước ấy, vẫn tiếp tục thúc giục Chính phủ Liên Xô tiến quân. Mới nhìn có thể cho rằng đường lối ấy của các nước Đồng minh là có mục đích tốt: nhằm nhanh chóng lập lại hòa bình trên trái đất. Nhưng, thực ra việc ấy sẽ đem lại những kết quả khác hắn. Liên Xô sẽ phải phân tán những cố gắng chiến tranh của mình, sẽ phải điều động quân đội từ mặt trận chính - mặt trận Đức sang, trong khi ở đấy quân thù vẫn chưa bị đánh bại. Và bất kỳ thế nào, nếu như việc chống quân Đức Hít-le phải kéo dài, thì chiến thắng cuối cùng cùng sẽ bị lùi xa, và trong thực tế, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai cũng sẽ phải kéo dài thời gian ra. Đứng về quan điểm chiến lược, làm như thế thật không hợp lý và chúng ta không làm như thế.

Mùa hè năm 1944, khi mặt trận thứ hai trì hoãn mãi sau cùng mới mở ra, thì các nước Đồng minh liền mưu toan tác động đến cách giải quyết của Liên Xô về vấn đề Nhật. Cuối tháng Sáu, thiếu tướng Đ. Đin, trưởng phái đoàn quân sự Mỹ ở Mát-xcơ-va, thay mặt tham mưu trưởng quân đội Mỹ đến gặp nguyên soái Liên Xô A. M. Va-xi-lép-xki, Tổng tham mưu trưởng của chúng ta, khẩn khoản đề nghị Liên Xô xúc tiến gấp chiến tranh ở Viễn Đông. Nắm vững quan điểm của Chính phủ xô-viết, A. M. Va-xi-lép-xki tuyên bố dứt khoát rằng chưa thể bàn đến việc này trước khi tiêu diệt được hoàn toàn nước Đức phát-xít. I. V. Xta-lin cũng trả lời đề nghị tương tự như vậy của Sớc-sin là: lập trường của Chính phủ xô-viết không thay đổi.

Mãi đến cuối tháng Chín 1944, sau khi báo cáo thường lệ ở Đại bản doanh, chúng tôi được Tổng tư lệnh tối cao giao cho nhiệm vụ chuẩn bị tính toán việc tập trung và bảo đảm quân đội ở Viễn Đông.

- Chắc là sắp cần đến, - Xta-lin kết thúc câu chuyện ngắn ngủi thoáng qua như thế thôi.

Đầu tháng Mười đã tính toán xong, và đến giữa tháng thì Xta-lin đã sử dụng những kết quả tính toán ấy lần đầu tiên trong cuộc hội đàm với Sớc-sin và I-đơn ở Mát-xcơ-va.

Riêng tôi, lần ấy là lần duy nhất trông thấy thủ tướng Anh. Một buổi tối, tôi cùng với tướng A. I. An-tô-nốp đến báo cáo thường kỳ ở Đại bản doanh; vừa đến phòng khách thì được tin Sớc-sin đang ở chỗ Xta-lin và Tổng tư lệnh tối cao có chỉ thị là chúng tôi đến báo cáo thì mời vào ngay.

Sớc-sin với Xta-lin ngồi trên hai chiếc ghế bành đối diện nhau, cả hai đều hút thuốc rất dữ: một người ngậm điếu xì gà thật to, còn một người vẫn cái tẩ không thay đổi. Đồng chí phiên dịch ngồi sau bàn.

Xta-lin giới thiệu chúng tôi và nói rằng ngài Sớc-sin muốn nghe báo cáo tình hình trên các mặt trận. An-tô-nôp báo cáo, nhưng bỏ một phần nội dung đã được Đại bản doanh thông qua. Báo cáo lần lượt các mặt trận từ Bắc xuống Nam và tình huống được trình bày gọn lại. Sớc-sin ra đứng bên bàn, chăm chú nhìn vào những tấm bản đồ trải rộng, chi hỏi có một câu: “Đức có bao nhiêu quân chống lại Ai-xen-hao?”. A. I. An-tô-nốp trả lời ông ta. 

Sau đó chúng tôi được phép ra về, nhưng chúng tôi vẫn ngồi lại ở phòng bên nán đợi, vì biết rằng Sớc-sin sắp rời khỏi đây và chúng tôi sẽ lại báo cáo tiếp, xin chữ ký của Tổng tư lệnh tối cao vào một số văn kiện cần gấp. Chỉ chừng hai mươi phút sau, quả đúng như thế.

Trước khi chúng tôi ra về, Xta-lin gọi Pô-xcri-ô-bư-sép đến và chỉ thị:

- Rượu uýt-xki và xì-gà Sớc-sin tặng tôi, chuyển cho quân đội. - Xong, đồng chí quay sang phía chúng tôi, nói thêm: - Các đồng chí nếm thử xem, chắc không đến nỗi tồi.

Khi chúng tôi ra xe thì hòm uýt-xkt và xì-gà đã để trong thùng xe.

Cuộc hội đàm với Sớc-sin và I-đơn lúc đầu không có các đồng chí quân đội tham gia, nhưng khi nói tới tình hình Viễn Đông, thì có mời A. I. An-tô-nôp và Ph. I. Sép-tsen-cô tham dự. Sép-tsen-cô lúc này là trung tướng, tham mưu trưởng phương diện quân Viễn Đông. Chính phủ Liên Xô xác nhận trách nhiệm của mình phải tuyên chiến với Nhật Bản và có nói rõ thêm là việc đó sẽ tiến hành khoảng ba tháng sau khi nước Đức Hít-le đã đầu hàng.

Thời hạn ấy rất sát với thực tế nếu ta được các nước Đồng minh giúp cho việc tích lũy ở Viễn Đông chừng hai đến ba tháng nhiên liệu, lương thực dự trữ và xây dựng những phương tiện vận tải. Các nước Đồng minh dù chỉ chuyển giúp cho một phần những thứ trên trực tiếp tới các hải cảng ở Thái Bình Dương của ta, cũng sẽ làm đỡ cho ta được phần lớn việc điều động và tổ chức lại bộ đội đồng thời rút bớt thời hạn và khối lượng các thứ phải chuyên chở từ trung tâm đất nước ta. Các nước Đồng minh đồng ý với những điều yêu cầu của ta và bằng lòng đảm nhiệm một phần việc chuyên chở.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #232 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:21:19 pm »

Tôi còn nhớ là sau những cuộc hội đàm tháng Mười 1944, vẫn chưa tiến hành ngay được biện pháp đặc biệt nào trong việc đặt kế hoạch chiến lược cho những chiến dịch đánh Nhật, vì bấy giờ vẫn chưa có dấu hiệu gì tỏ ra rằng sắp kết thúc chiến tranh với quân phát-xít Đức, mặc dầu chúng liên tiếp thất bại nặng.

Tháng Hai 1945, những người lãnh đạo ba cường quốc liên minh lại họp hội nghị nữa. Lần này họp ở Crưm. Cùng với những vấn đề quan trọng khác, hội nghị đã xác định rõ lần cuối cùng thời hạn Liên Xô phải tuyên chiến với Nhật là hai hay ba tháng sau khi kết thúc chiến tranh ở châu Âu. Đoàn đại biểu Liên Xô nêu ra trước hội nghị ba điều kiện:

1. Bảo vệ sự tồn tại của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ.

2. Khôi phục những quyền lợi của Nga đã bị Nhật vi phạm năm 1904: thu hồi Nam Xa-kha-lin; quốc tế hóa Đại Liên và lập lại tô giới Lữ Thuận làm thành hải cảng quân sự của Liên Xô; cùng với Trung Quốc sử dụng các đường sắt Đông Trung Quốc và Nam Mãn Châu.

3. Trả lại quần đảo Cu-rin cho Liên Xô.

Các nước Đồng minh tiếp nhận những điều kiện của ta.

Ngày 5 tháng Tư, Chính phủ xô-viết tuyên bố hiệp ước trung lập ký kết với Nhật hết hiệu lực. Nếu ta cứ tự buộc mình vào hiệp ước ấy, trong khi phía Nhật đã bội ước và vi phạm thì thật là vô lý. Bấy giờ, ai cũng thấy rõ rằng chỉ trong vòng 30 tới 40 ngày nữa là chúng ta kết thúc toàn thắng chiến tranh ở phía Tây.

Và chính phủ Nhật Xu-du-ki không thể không thấy việc đó. Giả chúng biết nghĩ tới tình thế tuyệt vọng của chúng trong việc tiếp tục chiến tranh ở Thái Bình Dương thì thật là may mắn cho đất nước chúng. Việc tuyên bố bài ước của Liên Xô là một đòn mạnh cảnh cáo trước, nhưng chúng vẫn chưa chịu lưu tâm đến. Vẫn như trước, chúng cứ ra sức tuyên truyền chiến tranh điên cuồng với khẩu hiệu: dù thế nào chúng cũng chiến thắng. Thủ tướng Xu-du-ki thay mặt chính phủ tuyên bố: “chúng ta cấp bách tiến quân không ngừng để giành lấy thắng lợi trong chiến tranh”.

Đối với chúng ta, thì không còn việc gì khác ngoài việc đẩy mạnh các mặt công tác chuẩn bị để làm đầy đủ các trách nhiệm đồng minh của mình. Tổng tư lệnh tối cao lệnh cho Bộ tổng tham mưu tăng cường các cơ quan tham mưu và thành phần các cán bộ cao cấp cho các phương diện quân Da- bai-can và Viễn Đông và cho cả tập đoàn miền Duyên hải, điều động những cán bộ đã được rèn luyện trong chiến tranh chống quân Đức Hít-le sang đây, tốt nhất là những đồng chí trước đây đã từng phục vụ ở Viễn Đông. Đồng thời, Tổng tư lệnh tối cao còn chỉ thị đặt kế hoạch điều quân sang Viễn Đông, nhất là điều những tập đoàn quân và binh đoàn đã từng chiến đấu trong những điều kiện tương tự với miền Viễn Đông.

Chúng tôi lại được quy định là không đảo lộn tổ chức những đơn vị đang đóng ở Viễn Đông. Phương diện quân Viễn Đông về cơ bản vẫn giữ biên chế như cũ và do M. A. Puốc-ca-ép làm tư lệnh. Tập đoàn miền Duyên hải chuyển thuộc cơ quan tham mưu của phương diện quân Ca-rê-li-a trước đây, nay được điều sang phía Đông. Nguyên soái Liên Xô K. A. Mê-rét-xcốp được cử làm tư lệnh tập đoàn ấy.

- Anh chàng I-a-rô-xláp (Mê-rét-xcốp sinh trưởng ở thành phố I-a-rô-xláp nằm trên sông Vôn-ga. - ND.) khôn ngoan này sẽ tìm ra cách diệt bọn Nhật. - Tổng tư lệnh tối cao nói, khi cử Mê-rét-cốp làm tư lệnh. - Anh ta đã từng chiến đấu trong rừng và đã nhổ đồn địch không phải là lần đầu tiên.

Đối với hướng chủ yếu, hướng Da-bai-can, thì yêu cầu phải có những cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm đánh vận động. Tôi còn nhớ, A. M. Va-xi-lép-xki, người tham gia tích cực nhất vào việc xây dựng những kế hoạch chiến tranh ở Viễn Đông, đã để cử trước hết là nguyên soái Liên Xô R. I-a. Ma-li-nôp-xki làm tư lệnh phương diện quân Da-bai-can, rồi giới thiệu đại tướng M. V. Da-kha-rốp, một trong những cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm nhất của các cơ quan thuộc phương diện quân, làm tham mưu trưởng phương diện quân Da-bai-can.

Đề nghị ấy hợp ý Tổng tư lệnh tối cao. Ma-li-nốp-xki nổi tiếng từ lâu ở Đại bản doanh là một thống soái có tài, một vị chỉ huy quân sự nghiêm nghị, bình tĩnh và thận trọng, khi yêu cầu thì có căn cứ, khi báo cáo thì chặt chẽ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #233 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:22:06 pm »

*
*   *

Tháng Tư 1945. các đơn vị và cơ quan tham mưu bắt đầu chuyển sang Viễn Đông. Toàn bộ cơ quan tham mưu của phương diện quân Ca-rê-li-a trước đây lên đường đầu tiên tới thành phố Vô-rô-si-lốp.

Nguyên soái K. A. Mê-rét-xcốp, tư lệnh mới của tập đoàn miền Duyên hải đến địa điểm công tác chậm lại một thời gian, để khỏi lộ ý định, vì không riêng gì quân đội mà cả bên ngoài cũng đều biết Mê-rét-xcôp.

Ngày 30 tháng Tư, có chỉ thị chuyển tập đoàn quân 39 của thượng tướng I. I. Li-út-ni-cốp từ In-xtéc-buốc tới Da-bai-can. Khi quân Đức đã đầu hàng, thì cả những tập đoàn quân nổi tiếng khác từ rất xa cũng kéo về, như: tập đoàn quân 5 do thượng tướng N. I. Crư-lốp chỉ huy kéo về tập đoàn miền Duyên hải, tập đoàn quân 53 do thượng tướng I. M. Ma-na-ga-rốp làm tư lệnh và tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 do thượng tướng bộ đội xe tăng A. G. Cráp-tsen-cô làm tư lệnh, đều kéo tới phương diện quân Da-bai-can.

Nhiều đồng chí lãnh đạo của phương diện quân U-crai-na 2 ngày trước, như nguyên soái Liên Xô R. I-a. Ma-li-nôp-xki, đại tướng M. V. Da-kha-rốp, thượng tướng I. A. Pli-ép, trung tướng N. O. Páp-lốp-xki được cử sang đây, đều tới Tsi-ta. Trung tướng A. A. Lu-trin-xki làm tư lệnh tập đoàn quân 36 là tập đoàn quân đã ở Da-bai-can từ trước.

Chỉ huy các tập đoàn quân bố trí ở miền Duyên hải là: thượng tướng A. P. Bê-lô-bô-rô-đốp - tư lệnh tập đoàn quân Cờ đỏ 1, thượng tướng I. M. Tsi-xti-a-cốp - tập đoàn quân 25, và trung tướng N. Đ. Da-khơ-va-ta-ép - tập đoàn quân 35. Còn các đồng chí nguyên tư lệnh các tập đoàn quân ấy thì xuống làm phó tư lệnh. Các đồng chí đó thông thạo chiến trường ở đây, nên tất nhiên là rất có ích.

Cũng trong tháng Tư, ta đã triển khai việc cải tiến những thiết bị vật chất của các binh đoàn xe tăng hoạt động ở Viễn Đông.

Trong thời gian này, Bộ tổng tham mưu được chỉ thị phải hoàn thành việc lập kế hoạch chiến tranh chống Nhật. Lúc đầu chỉ mới khái quát thành nhiệm vụ chung, và mục đích có tính chất nguyên tắc mà Tổng tư lệnh tối cao đặc biệt nhấn mạnh là: tiến hành chiến tranh trong thời gian ngắn nhất.

Đó là nhiệm vụ còn phải mò mẫm rất nhiều.

Chúng tôi chưa biết được chắc là bọn hiếu chiến Nhật thấy tình trạng thất bại không sao tránh khỏi của quân đội Hít le, liệu có từ bỏ âm mưu tiến công vào Liên Xô không. Khả năng chúng tập kích ta vẫn chưa hoàn toàn bị loại trừ. Vì có thể là tình hình khó khăn của nước Đức phát-xít sẽ thúc đẩy nước đồng minh châu Á của nó hoạt động, nhằm phục vụ cho lợi ích chung.

Những lực lượng lớn lục quân Nhật bố trí dọc biên giới quốc gia Liên Xô, những căn cứ không quân và hải quân Nhật đặt ở gần lãnh thổ Liên Xô, cho phép bọn quân phiệt quá khích có thể đột kích vào những mục tiêu và những đơn vị quân đội quan trọng của ta, gây nên những hậu quả rất nặng nề cho ta. Do đó, ta rút ra kết luận là kế hoạch chiến tranh ở Viễn Đông nhất thiết phải có dự kiến đánh bại cuộc đột kích bất ngờ này.

Quá trình diễn biến của những sự kiện sau này mới cho thấy là các Lực lượng vũ trang Liên Xô không cần thiết phải tiến hành phòng ngự. Song, trước đây nhiệm vụ phòng ngự đã giao cho bộ đội, hệ thống phòng ngự đã được xây dựng, và những nguồn tư liệu hiện còn đã phản ánh đặc điểm đó trong những dự kiến chiến dịch - chiến lược hồi ấy của Bộ tổng tham mưu.

Kế hoạch hành động của Nhật trong trường hợp bị ta tấn công chưa thật rõ ràng lằm. Thành phấn chủ yếu của các lực lượng vũ trang Nhật là hải quân và lục quân. Không quân Nhật so với ta thì tương đối yếu. Tình hình các tập đoàn lục quân và hải quân chủ yếu của chúng có thể cho phép chúng phối hợp nhiều mặt với nhau. Tình hình đó cũng đòi hỏi ta phải phân tích để xây dựng kế hoạch hành động của mình cho thật hợp lý.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #234 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:23:03 pm »

Lục quân Nhật bị phân tán. Ở Trung Quốc, chúng bố trí phần lớn thành những cụm quân trên khắp lãnh thổ của đất nước rộng lớn này. Ở Đông Dương, quan sát kỹ cũng thấy hình thái tương tự như vậy. Nhưng bố trí bị phân tán nhiều nhất là những lực lượng quân Nhật ở các đảo trên biển phía nam: địa hình ở đây không những bị các hải dương chia cắt, mà ngay trên đất liền cũng bị vướng nhiều núi non, rừng rậm.

Tập đoàn lục quân lớn cùng những tiềm lực dự bị chủ yếu của chúng còn đóng trên lãnh thổ ở chính quốc Nhật. Những lực lượng chủ yếu của hải quân và không quân cũng đặt căn cứ tại đây. Các nước Đồng minh của ta chưa quyết định tiến công thẳng vào chính quốc Nhật, và cũng chưa có ý định làm việc đó trong thời gian sắp tới.

Đạo quân Quan Đông ở Mãn Châu, do tướng O. I-a-ma-đa chỉ huy, là đạo quân tập trung nhất và mạnh nhất, hoàn toàn sẵn sàng hành động. Nhiều tướng lĩnh và sĩ quan Nhật đã trải qua trường học quân sự thực tế tại đấy.

Chúng tôi đã lọc đi lọc lại vô số phương án, nhằm tìm khâu chủ yếu, nếu thanh toán được khâu chủ yếu ấy thì toàn bộ hệ thống chiến tranh của Nhật sẽ bị sụp đổ. Chúng tôi làm việc không có gì phải vội vàng lắm, vì có đủ thời gian. Ni-cô-lai An-đrây-ê-vích Lô-mốp là cốt cán trong việc xây dựng kế hoạch, tính tình điềm đạm của đồng chí rất thích hợp với việc phân tích sâu tình huống ở Viễn Đông.

Hướng Mãn Châu, nơi đang bố trí Đạo quân Quan Đông của Nhật, là hướng đã thu hút chúng tôi nhiều hơn cả. Nếu đánh tan đạo quân này thì sẽ tiêu diệt được lực lượng xung kích chủ yếu của lục quân Nhật và phá đến tận gốc sức kháng cự của cả nước Nhật. Bộ tổng tham mưu, rồi sau đó cả Đại bản doanh, đã dần đi tới xác nhận ý định ấy và lấy nó làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch chiến tranh.

*
*   *

Đạo quân Quan Đông có gần một triệu người, được trang bị và huấn luyện tốt. Được phục vụ trong đạo quân này là bằng chứng của lòng trung thành đối với chế độ và nền tảng của chủ nghĩa đế quốc Nhật. Binh lính và sĩ quan được giáo dục lòng tin mù quáng đối với Nhật hoàng và lòng căm thù đối với các dân tộc khác, trước hết là đối với nhân dân xô-viết và nhân dân Mông Cổ, Trung Quốc.

Trước lúc bắt đầu chiến tranh, Đạo quân Quan đông có phương diện quân 1 và phương diện quân 3, tập đoàn quân độc lập 4 và tập đoàn quân không quân 2 cùng chi hạm đội sông Tùng Hoa. Khi bắt đầu chiến tranh, thành phần của Đạo quân Quan Đông được bổ sung thêm phương diện quân 17 và tập đoàn quân không quân 5.

Phương diện quân 1, hay là phương diện quân Đông Mãn Châu, gồm hai tập đoàn quân 3 và 5, do tướng Ki-tơ chỉ huy, có 10 sư đoàn bộ binh và một lữ đoàn. Phương diện quân triển khai dọc biên giới miền Duyên hải, những lực lượng chủ yếu bố trí trên hướng Mẫu Đơn Giang chạy dài tới Cáp Nhĩ Tân và Cát Lâm. Cơ quan tham mưu của phương diện quân đặt tại Mẫu Đơn Giang.

Phương diện quân 3 có hai tập đoàn quân 30 và 44, do tướng U-si-rốc chỉ huy, đã sử dụng một phần lực lượng là hai sư đoàn bố trí gần biên giới nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ; còn tập đoàn chủ yếu của chúng gồm sáu sư đoàn bộ binh, ba lữ đoàn bộ binh và một lữ đoàn xe tăng thì đóng ở miền Trung Bộ Mãn Châu, ở khu vực Thẩm Dương. Cơ quan tham mưu phương diện quân cũng bố trí tại đây.

Một tập đoàn quân độc lập 4 của tướng U. Mi-ki-ô, bố trí phân tán trên một không gian rộng ở Bắc Mãn Châu, thành cái hình vuông Hải Lạc Nhĩ - Tề-tề-cáp-nhĩ - Cáp Nhĩ Tân - Xa-kha-li-an. Tập đoàn quân này có ba sư đoàn bộ binh và bốn lữ đoàn.

Phương diện quân 17 gồm hai tập đoàn quân 34 và 58 bố trí ở Triều Tiên, cơ quan tham mưu đóng ở Hán Thành. Chỉ huy phương diện quân này là tướng Côt-du-ki, có chín sư đoàn bộ binh.

Lực lượng dự bị của tư lệnh Đạo quân Quan Đông gồm một sư đoàn bộ binh, một lữ đoàn bộ binh và một lữ đoàn xe tăng. Một lữ đoàn được tổ chức đặc biệt, mang danh hiệu cảm tử quân, gồm các trinh sát viên và lính diệt tăng, có một chức năng riêng. Trong không quân và hải quân cũng tổ chức những đội cảm tử quân.

Tập đoàn quân không quân 2 của tướng Kha-ra-đa, bố trí ở Trung Bộ Mãn Châu, có hơn 1200 máy bay, (tuy những máy bay chiến đấu ít hơn nhiều). Ở Triều Tiên, có tập đoàn quân không quân 5 gồm 600 máy bay chiến đấu.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #235 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:23:46 pm »

Trực thuộc tư lệnh Đạo quân Quan Đông còn có quân của Mãn Châu Quốc, Nội Mông và tỉnh Tuy Viễn, tổng số tới 20 sư đoàn bộ binh và từ 14 đến 15 lữ đoàn kỵ binh. Những binh đoàn trên không được như quân Nhật, huấn luyện ít, trang bị kém, nhưng tổng số quân cũng tới gần ba mươi vạn. Bộ chỉ huy Nhật lại có thể điều động lực lượng dự bị chiến lược đóng tại khu vực Bắc Kinh (gồm hai tập đoàn quân khoảng sáu đến tám sư đoàn) khi cần chi viện cho Đạo quân Quan Đông.

Hình thái chiến lược của Đạo quân Quan Đông có đặc điểm trước hết là ở cách xa chính quốc. Liên lạc với nước Nhật không phải ở đâu cũng thuận tiện, vì giao thông bị trở ngại. Ở Bắc Bộ và Tây Bộ Mãn Châu, mạng lưới đường sắt không được phát triển. Ở Trung Bộ và Đông Bộ thì những tuyến đường sắt chủ yếu lại nằm trong phạm vi hoạt động của máy bay xô-viết.

Đạo quân Quan Đông phải đóng rải thành một cánh cung lớn kéo dài tới 4500 ki-lô-mét, dọc theo biên giới quốc gia Liên Xô và nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Thêm nữa là hậu phương Trung Quốc của chúng lại không được ổn định. Trong cái nhà nước ngụy là Mãn Châu Quốc, do Nhật dựng lên, nhằm che đậy đường lối đế quốc của chúng, thì nhân dân có thái độ thù địch với quân chiếm đóng.

Toàn dân Trung Quốc cũng căm thù bọn quân phiệt Nhật. Tình hình càng rắc rối hơn nữa, vì Tưởng Giới Thạch cũng là đối thủ của Nhật, chưa nói đến Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.

Tướng I-a-ma-đa buộc lòng chỉ trông cậy được vào Triều Tiên là đất quân Nhật đã chiếm đóng từ lâu. Đối với Đạo quân Quan Đông, Triều Tiên là nguồn lương thực chủ yếu và cơ sở tác chiến trong trường hợp tình thế gặp khó khăn. Nhưng ở Triều Tiên, quần chúng nhân dân cũng căm thù bọn chiếm đóng ghê gớm. Thêm nữa, Triều Tiên lại cách khá xa tập đoàn Mãn Châu của Nhật, nếu Liên Xô mở mũi đột kích từ phía miền Duyên hải vào thì có thể dễ dàng chia cắt tập đoàn đó ra. Như vậy bất kỳ ở đâu, hậu phương cũng vẫn là chỗ hiểm yếu của Đạo quân Quan Đông. 

Trong nhiều năm chiếm đóng Trung Quốc, bọn quân phiệt Nhật đã tăng cường tiến hành việc xây dựng công sự dọc biên giới giáp Liên Xô. Dọc tuyến núi non giáp miền Duyên hải của ta có phòng tuyến cấu trúc những cứ điểm trong rừng rậm và trên núi. Dựa vào những công trình bằng bê tông và những chướng ngại vật thiên nhiên, các tướng Nhật cảm thấy tương đối an toàn.

Ở phía Bắc, những đường tiếp cận vào Mãn Châu chẳng những được mạch núi Tiểu Hưng An mà còn cả sông A-mua (Ta cũng thường gọi là Hắc Long Giang theo tiếng Trung Quốc. - ND.) rộng lớn yểm hộ, còn ở phía Tây - Bắc thì có dãy núi In-khu-ri - A-lin và dãy hoành sơn Đại Hưng An che chở.

Dãy núi hiểm trở Đại Hưng An cao trung bình 1000 tới 1100 mét trên mặt biển, chạy dài hàng mấy trăm ki-lô-mét theo hướng kinh tuyến, ăn sâu xuống lãnh thổ Mãn Châu, lúc thì chạy sát chỉ cách biên giới chừng 50 ki-lô-mét ở hướng Ho Luân, lúc thì ra xa 200 tới 250 ki-lô-mét. Còn ở Nội Mông, những ngọn núi Đại Hưng An lại liên kết với miền cao nguyên bán sa mạc, kéo tới tận phía Tây - Nam sa mạc Gô-bi.

Tuy vậy, cũng cần phải nhận xét rằng trong điều kiện không gian rộng lớn của chiến trường ở đây, Nhật không thể có đủ lực lượng để đóng liên tục suốt biên giới, hoặc chiếm giữ tất cả những tuyến phòng thủ thiên nhiên. Dù muốn hay không, chúng cũng bắt buộc phải chọn lấy những hướng tác chiến nào có nhiều khả năng thuận lợi hơn hết.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #236 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:24:23 pm »

Dọc biên giới chung với Liên Xô và một phần biên giới chung với nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, chúng đã cấu trúc nhiều cứ điểm, yểm hộ những đường tiếp cận tới những đường ngang chính vượt qua các mạch núi. Trên nhiều đoạn dọc biên giới Mãn Châu với nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ có những bãi trảng rộng, mọi binh chủng bộ đội hoạt động dễ, thì không cấu trúc những công trình chướng ngại và hoàn toàn không có những đơn vị yểm hộ. Hướng có nhiều núi và sa mạc tới Đa Luân và Da-di-a-côp (Can-gan), bên cực phải phía sườn Mông Cổ thì rất yếu. Tất nhiên, chúng tôi có nghiên cứu kỹ hướng này lúc xây dựng ý định các chiến dịch.

Đồng thời, phải thấy rằng hình thái Đạo quân Quan Đông trên một số địa đoạn ngoài mặt trận sắp tới có nhiều ưu thế không thể chối cãi được. Rõ nhất là những địa đoạn ở Viễn Đông. Như đã nhận xét ở trên, dọc biên giới miền Duyên hải trên những hướng ta sẽ tiến công, chúng đã cấu trúc những khu vực kiên cố, có lực lượng của phương diện quân Đông Mãn Châu chiếm đóng, hợp thành thê đội một phòng ngự của địch.

Phía sau, không cách xa, là lực lượng của phương diện quân 17 mà khi cần, chúng có thể sử dụng tại Đông Bộ Mãn Châu. Chiến dịch tiến công của ta ở đây sẽ không tránh được việc phải tổ chức đột phá liên tục những khu vực kiên cố tiến công vượt qua những dãy núi và rừng rậm, tức là một hình thức tiến công gay go nhất, đòi hỏi phải có ưu thế trội hẳn về lực lượng và một số lớn những khí tài có sức chế áp mạnh.

Tại đồng bằng Mãn Châu, dựa vào những chướng ngại vật thiên nhiên, các khu vực trúc thành và các trận địa phòng ngự quân địch có thể tự do cơ động trên những tuyến tác chiến trong nội địa, điều quân ra những đoạn bị uy hiếp và triển khai trên những tuyến có lợi. Những tuyến tác chiến trong nội địa còn giúp cho quân Nhật có thể giữ được tập đoàn các đơn vị của chúng ổn định khi tình huống buộc phải tháo lui. Mạng đường sắt và đường bộ lớn hoàn toàn bảo đảm cho chúng đủ đường để cơ động rút lui.

Tất cả những mặt tích cực trên của quân Nhật. tất nhiên chúng tôi đều có tính toán thấy hết.

Việc nghiên cứu tỉ mỉ tình hình Đạo quân Quan Đông giúp cho Bộ tổng tham mưu rút ra được những kết luận sơ bộ rất quan trọng. Trước hết, rõ ràng là trong điều kiện ở Mãn Châu, Đạo quân Quan Đông bắt buộc phải tác chiến một cách tương đối biệt lập với những tập đoàn các đơn vị khác của quân Nhật.

Để chuyển chúng từ chỗ tương đối bị cô lập đến hoàn toàn bị cô lập, thì phía chúng ta, song song với việc đột kích của những lực lượng chủ yếu, phải triển khai tiến công cả trên những khu vực mà ta dự kiến là tướng I-a-ma-đa có thể cầu viện quân tiếp ứng. Việc ấy liên quan trước hết đến Triều Tiên, và tới một chừng mực nào đó, có liên quan đến miền Nam đảo Xa-kha-lin. Do đó, việc khống chế trên không của ta có ý nghĩa quan trọng.

Còn về hình thức vận động thì ngay trong giai đoạn nghiên cứu địch lúc này chúng tôi thấy thích hợp nhất là những hành động bên sườn cho phép bộ đội ta tiến vào khu vực Cát Lâm, Thẩm Dương. Như vậy sẽ chia cắt được toàn bộ tập đoàn Nhật ở Mãn Châu, không cho chúng hiệp đồng với tập đoàn các đơn vị đóng ở Triều Tiên và những đội dự bị ở khu vực Bắc Kinh. Sườn phía Mông Cổ của Đạo quân Quan Đông bị yếu, cho phép ta có thể thọc sâu ở đây, vào phía sau tập đoàn của chúng.

Đặc điểm bố trí thành tuyên sâu của Đạo quân Quan Đông, theo quan điểm chúng tôi, chứng minh rằng: nếu diễn biến chiến đấu ở Mãn Châu mà không lợi, thì bộ chỉ huy Nhật sẽ cho rút quân ra khỏi mặt Bắc và mặt Tây khu vực đang tác chiến, kéo về phía biên giới Triều Tiên; và như vậy sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để tiếp tục chiến dịch. Bộ tổng tham mưu đã không nhầm. Đúng là bọn Nhật đã có kế hoạch như thế. Nhưng chúng không tài nào thực hiện nổi, vì những đợt tiến công của quân đội xô-viết quá mãnh liệt.

Cũng cần vạch ra là nếu như các mũi đột kích của các tập đoàn đơn vị chúng ta hành động không đồng loạt với nhau, thì bọn Nhật có thể đánh lui từng bộ phận một, điều quân của chúng từ hướng này sang hướng khác. Và, chúng ta lại một lần nữa rút ra những kết luận thực tiễn.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #237 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:25:06 pm »

*
*   *

Rất nhiều vấn đề đặt ra trước Bộ tổng tham mưu trong khi xây dựng ý định những chiến dịch. Muốn chiến thắng quân Nhật trong thời gian ngắn, thì phải dự kiến tiến công nhanh. Phải đánh tan ngay Đạo quân Quan Đông, không cho chúng rút về sâu Trung Quốc hay sang Triều Tiên.

Tập đoàn bộ đội xô-viết có mặt ở Viễn Đông tháng Tư 1945 chưa thể làm được việc ấy; tập đoàn đó mới chỉ giải quyết được những nhiệm vụ phòng ngự. Căn cứ vào hình thái bố trí bộ đội ta lúc bấy giờ, chúng ta chỉ có thể đột kích trên hướng Mẫu Đơn Giang (từ phía miền Duyên hải) và trên hướng Hải Lạc Nhì - Tề-tề-cáp-nhĩ (từ phía Da-bai-can).

Song, những mũi đột kích như vậy chưa giải quyết được vấn đề bao vây Đạo quân Quan Đông và cũng chưa thể cắt nổi giao thông của chúng. Những mũi đột kích đó có thể đẩy lùi nhưng không tiêu diệt được quân địch, như thế là sẽ mâu thuẫn với thực chất nhiệm vụ Đại bản doanh đã giao cho và không phù hợp với tính chất kiên quyết của chiến dịch sắp tới. Nếu chỉ đơn thuần đẩy lùi địch, thì chúng vẫn có thể tiếp tục điều những đơn vị trong tung thâm, nhất là ở Triều Tiên, đến tăng cường; và như vậy có nghĩa là không thể kết thúc chiến tranh sớm được. Với những lực lượng dự bị chúng có thể điều lên phía trước, thì mật độ lực lượng của chúng nhất định sẽ tăng lên. Đồng thời, sườn bên phải phương diện quân Da-bai-can của chúng ta lại bị quân địch từ phía những khu vực trúc thành trên biên giới nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ uy hiếp.

Muốn tránh khỏi tình trạng diễn biến như vậy, muốn ngăn không cho quân Nhật rút lui có tổ chức, thì yêu cầu đối với ta là không những phải thay đổi cách bố trí lực lượng, mà còn phải chọn hướng đột kích chủ yếu làm sao cho có lợi hơn cả. Lại còn phải bảo đảm cho mình những điều kiện để phát huy thắng lợi, tức là phải giải quyết đúng đắn vấn đề bố trí lực lượng thành tuyến trên các mặt trận, xây dựng các thê đội hai ở những nơi nào cần thiết. Tất nhiên, làm những việc trên không được để tổn hại đến uy lực của mũi đột kích ban đầu mà phải dựa vào việc điều quân bổ sung từ phía Tây sang.

Chúng ta thấy rằng mũi tiến công của một phương diện quân từ lãnh thổ Mông Cổ, đồng thời hợp điểm với mũi đột kích từ phía miền Duyên hải tới, là thuận lợi nhất. Trường hợp ấy diễn ra thì có thể cô lập hoàn toàn được Đạo quân Quan Đông. Ngoài ra, cũng không bỏ những mũi đột kích chính diện từ phía Bắc tới, vượt qua sông A-mua và dọc theo sông Tùng Hoa; những mũi đột kích này có nhiệm vụ góp phần vào việc chia cắt và tiêu diệt quân Nhật.

Mũi đột kích từ miền Duyên hải sang, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng cần phải đột phá cho được những khu vực trúc thành của quân địch. Mũi đột kích ấy sẽ đánh vào Trung Bộ Mãn Châu, phải làm cho phương diện quân 1 của Nhật thất bại chắc chắn và đưa quân ta tiến thẳng tới Trường Xuân, nơi cơ quan tham mưu của Đạo quân Quan Đông đang đóng.

Tất nhiên là khi tổ chức tiến công từ Mông Cổ sang, không được hút lực lượng vào những hướng không có triển vọng, những hướng nhìn chung không có địch. Quân địch không bố trí ở bên sườn cực phải, trên hướng Can-gan - Bắc Kinh, trong các bãi hoang sa mạc. Tiến công ở đây, sẽ không đem lại được cho chúng ta kết quả gì, ngoài việc phải uổng công chống lại khí hậu khắc nghiệt. Do đó, ta phải tuân theo một nguyên tắc mà qua thử thách đã chứng tỏ là đúng: phải đột kích chủ yếu vào nơi nào có thể mau chóng đem lại kết quả lớn nhất, và hướng mũi đột kích vào chỗ chắc chắn sẽ phá vỡ được sức mạnh những lực lượng chủ yếu của địch. Theo quan điểm của chúng tôi, hướng Ho Luân sẽ đáp ứng được triệt để những yêu cầu ấy.

Chúng tôi đã suy nghĩ khá lâu đến việc xây dựng tập đoàn binh lực. Yêu cầu phải có là bao nhiêu và như thế nào? Phải bố trí đội hình ra sao để bảo đảm chắc chắn tiêu diệt được địch và tiến công thật kết quả trên một không gian rộng lớn như vậy, đồng thời lại phải vượt qua núi non, rừng rậm, sa mạc, sông lớn, và những khu vực trúc thành? Khi nghiên cứu kỹ những vấn đề trên, ta thấy rõ ràng ở Mãn Châu, nếu không có tập đoàn quân xe tăng, những binh đoàn xe tăng độc lập và kỵ binh thì sẽ không giải quyết được gì. Lại cần có cả hạm đội trên sông A-mua lẫn sông Tùng Hoa. Cần cả không quân mạnh của tất cả các binh chủng nữa.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #238 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:26:21 pm »

Chúng ta đã đem ra thảo luận vấn đề tập trung tập đoàn quân xe tăng ở đâu và sử dụng nó ra sao. Bộ tổng tham mưu lại nhìn đến mặt trận Da-bai-can; ở đây không có con sông A-mua sâu rộng, không có rừng rậm và những khu vực trúc thành. Tập đoàn quân xe tăng là phương tiện chiến đấu chủ yếu tăng sức mạnh đột phá cho bộ đội phương diện quân, làm cho tốc độ tiến quân sẽ cao và bảo đảm được chiều sâu tiến công. Dĩ nhiên vì ở sâu bên trong, trên đường tiến quân, xe tăng sẽ vướng phải dãy núi Đại Hưng An; chỉ mới nghĩ đến việc cho các chiến sĩ xe tăng đột phá qua dãy núi này là đã thấy rất phức tạp rồi. Nhưng Bộ tổng tham mưu cho rằng,  việc sử dụng một tập đoàn xe tăng lớn bất ngờ như vậy, lại chính là then chốt để giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu của chiến dịch. Chúng tôi kiên trì chủ trương sử dụng tập đoàn quân xe tăng trên hướng chủ yếu thọc qua dãy Đại Hưng An và nhất thiết phải để nó nằm trong thê đội một của đội hình chiến dịch phương diện quân.

Lý do là: quân Nhật sẽ không thể ngờ được rằng mũi đột kích lại chọn ở đây. Theo những tin tức của ta thì những trận địa của chúng ở Hưng An không được chuẩn bị; những cứ điểm dã chiến độc lập lại do những đơn vị tương đối yếu chiếm đóng. Còn đối với dãy núi kia, chúng tôi cho rằng các chiến sĩ xe tăng dầy kinh nghiệm hoàn toàn có thể khắc phục được. Nếu như lại chiếm được những con đường xuyên ngang qua núi ở đấy trước quân địch, thì chúng sẽ không tài nào tìm đâu ra lực lượng đủ sức chống lại tập đoàn quân xe tăng.

Những dự kiến giành lấy quyền chủ động là quan trọng đặc biệt. Tập đoàn quân xe tăng mạnh và nhanh, bất ngờ đột kích có thể đem đến nhiều thắng lợi và sẽ tạo nên một lợi thế cần thiết cho toàn bộ chiến dịch của phương diện quân.

Vấn đề hiệp đồng các phương diện quân, nhất là hiệp đồng về thời gian bắt đầu các chiến dịch của các phương diện quân, cũng không thật đơn giản. Tầm quan trọng của việc hiệp đồng thì ai cũng biết, nhưng ở Mãn Châu, việc phối hợp làm sao cho thật sát giữa những nỗ lực của các phương diện quân với nhau có một ý nghĩa thật đặc biệt, vì điều kiện trên các hướng rất phức tạp và khác hẳn nhau.

Còn vấn đề kéo lực lượng địch ra khỏi dải hoạt động của tập đoàn miền Duyên hải cũng thật là hấp dẫn. Mới nhìn thì thấy rằng phương diện quân Da-bai-can bắt đầu tiến công trước để thu hút địch là hợp lý. Theo tính toán của ta, phải vào khoảng ngày thứ mười của chiến dịch, quân địch mới có thể điều được những đơn vị quân của chúng từ miền Duyên hải tới đây. Vì thế, phía miền Duyên hải sẽ mở mũi đột kích trong khoảng thời gian ấy.

Tuy nhiên, trong phương án ấy vẫn còn ẩn nhiều mối nguy hiểm. Chưa ai có thể cam đoan là bộ chỉ huy Nhật nhất định sẽ để cho hướng miền Duyên hải bị yếu, mà lại không sử dụng những đơn vị khác để đánh lui cuộc tiến công của ta ở Da-bai-can. Trong trường hợp này, quân địch lại có thể chống trả các phương diện quân của Liên Xô, như người ta thường nói là lần lượt theo thứ tự trước sau. Ngoài ra, những hành động của ta trên miền Duyên hải sẽ bị mất tính bất ngờ, vì quân địch đã đón mũi đột kích tại đây, và tất nhiên là chúng sẽ áp dụng những biện pháp phá đợt đột kích của ta.

Luận giải như vậy thì thấy: các phương diện quân tiến công đồng loạt là tốt nhất.

Rốt cuộc, cả phương án trên lẫn phương án dưới đều không bị bác bỏ. Theo chỉ thị của Đại bản doanh, Bộ tổng tham mưu tiếp tục suy nghĩ và nghiên cứu từng phương án một, sâu thêm nữa. Đại bản doanh cho rằng, trước lúc bắt đầu chiến tranh, tình huống tự nhiên sẽ giúp chúng ta tìm ra giải pháp đúng hơn cả đối với tình thế lưỡng nan ấy.

Chúng ta muốn giành cho được tính bất ngờ khi hành động nên gặp rất nhiều khó khăn, vì đã từ lâu bọn Nhật vẫn tin chắc rằng chiến tranh với Liên Xô là việc không thể tránh được Vì vậy giành cho được tính bất ngờ chiến lược lại càng là việc hết sức khó thực hiện. Tuy nhiên, trong lúc cân nhắc suy tính, chúng tôi đã nhiều lần nhớ lại những ngày đầu của cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại: bấy giờ đất nước chúng ta cũng chờ đợi cuộc tiến công như thế và đã chuẩn bị, song quân Đức vẫn đột kích được bất ngờ. Vì vậy, cả trong trường hợp này, lại càng không nên sớm bác bỏ việc tìm phương kế giành tính bất ngờ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #239 vào lúc: 21 Tháng Bảy, 2011, 01:26:53 pm »

Yếu tố bất ngờ lúc bắt đầu chiến tranh ở Viễn Đông này, phụ thuộc trước hết vào việc giữ bí mật về tình hình chuẩn bị của bộ đội xô-viết. Bởi vậy, đã phải đề ra và tuân thủ hết sức chặt chẽ quy chế đặc biệt về việc điều động và tổ chức lại bộ đội. Thời gian bắt đấu tác chiến, tất nhiên chưa hề tuyên bố cho một ai biết.

Khả năng giành bất ngờ còn bao hàm cả việc tổ chức tập trung những phương tiện vật chất theo cách không giống như mọi khi. Chúng tôi cho rằng, quân địch dù có biết được một số tin tức về việc tiếp tế của các nước Đồng minh, nhưng nhất thiết sẽ vẫn ước tính quá cao thời gian chuyển vận của ta trên trục đường sắt duy nhất qua Xi-bi-ri. Dựa vào khả năng chuyển vận tương đối bị hạn chế của ta qua Xi-bi-ri, bọn Nhật xác định là phải đến mùa thu ta mới có thể bắt đầu chiến tranh, và chắc rằng đến lúc ấy chúng mới chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

Chúng tôi còn dựa vào chỗ quân địch đinh ninh rằng bộ đội xô viết sẽ không bắt đầu tiến công khi điều kiện thời tiết không thuận lợi. Vì về thời gian bắt đầu chiến tranh với Nhật, ta đã thỏa thuận với các nước Đồng minh là “hai hay ba tháng sau khi kết thúc chiến tranh với Đức”, mà thời gian ấy lại rơi đúng vào mùa mưa ở Viễn Đông là lúc rất không thuận tiện, theo quan điểm lô-gích hình thức về chiến tranh.

Căn cứ vào các mặt của thứ lô-gích trên, bộ chỉ huy Nhật cho rằng thế nào ta cũng bắt đầu tiến công chậm lại, sau lúc ấy một ít, khi đã sang hẳn mùa khô. Sau này, những dự kiến của Bộ tổng tham mưu đã được xác nhận là không sai. Bộ chỉ huy Nhật phán đoán là đến giữa tháng Chín, ta mới bắt đầu tiến công được.

Địa hình, như đã nói một phần ở trên, cũng được sử dụng để đạt yếu tố bất ngờ. Cũng tất nhiên thôi, quân địch không ngờ nổi những đòn đột kích của ta nói chung, và nhất là mũi đột kích của xe tăng lại thọc xuyên qua mạch núi, rừng rậm và sa mạc khó đi lại. Việc ấy liên quan trước hết tới địa đoạn Mông Cổ, địa đoạn này lại bị mạch núi Đại Hưng An và những thảo nguyên khô cằn tiếp với sa mạc Gô-bi ngăn khỏi Mãn Châu và Nội Mông. Núi non hiềm trở, cây cối rậm rạp, biển cát khó vận động, đã bất chấp tất cả thứ lô-gích hình thức đó, hóa thành đồng minh của quân đội xô-viết!

Cuối cùng, không thể nào không nói đến cuộc tiến công táo bạo, mãnh liệt của Liên Xô. Thoạt nhìn, thì đó là đặc điểm thông thường của bất kỳ một chiến dịch tiến công nào. Nhưng ở đây, cần phải nghĩ kỹ đến quá khứ lịch sử của các lực lượng vũ trang Nhật Bản.

Trong những cuộc chiến tranh trước đây, quân Nhật thường phản bội trắng trợn, bao giờ cũng tiến công trước. Chẳng hạn khi chúng khai chiến với nước Nga năm 1904. Rồi đến ngày 7 tháng Chạp 1941, chúng cũng làm lại y hệt như thế ở Piếc Hác-bơ. Qua những hành động Phòng ngự trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Nhật chỉ gặp toàn những đối phương thường hay tiến hành những cuộc tiến công rất thận trọng, theo khuôn phép, có pháo binh và không quân bắn chuẩn bị và chi viện mạnh.

Như tôi được biết phấn nào, thì trước đó quân Nhật không thể đánh lui được những cuộc tiến công lớn bằng xe tăng. Chúng quen với lối hành động dè dặt, theo khuôn phép của những đối phương mà chúng đã gặp, quen với tốc độ tấn công tương đối không cao. Dĩ nhiên là chúng có coi nhẹ những kinh nghiệm chiến đấu khác. Vì vậy, đi đôi với việc giành yếu tố bất ngờ chiến lược, chúng tôi còn cố gắng sử dụng tất cả những phương pháp có thể để giành lấy bất ngờ chiến dịch và cả chiến thuật nữa, nhất là những đợt tiến công không dùng pháo bắn chuẩn bị và những trận đánh ban đêm. Những sự kiện ấy, trong một chừng mực nào đó, cũng đã góp phần giúp ta giành được thắng lợi.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM