Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 02 Tháng Sáu, 2024, 02:32:58 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng Tham mưu Xô-viết trong chiến tranh  (Đọc 127374 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #150 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:20:41 pm »

*
*   *

Sau hội nghị Tê-hê-ran, Bộ tổng tham mưu không nhận được những chỉ thị thật đặc biệt nào cả. Tuy nhiên, mọi nhiệm vụ xuất phát từ Đại bản doanh rõ ràng đều được trù tính sao cho những trách nhiệm đồng minh của chúng ta đối với triển vọng mở mặt trận thứ hai, được thực hiện đầy đủ. Chiếm vị trí chủ yếu trong những công việc này, đương nhiên là việc phá tan bộ máy chiến tranh của Hít-le và sau đó là việc chuẩn bị chiến tranh với Nhật.

Cố nhiên, chúng ta không quên rằng bản chất của khối đồng minh chống Hít-le chứa đựng nhiều mâu thuẫn và mọi chuyện bất ngờ. Vấn đề đặc biệt sinh ra nhiều nghi ngại là thời hạn mở mặt trận thứ hai đã định trong hội nghị Tê-hê-ran. Vì ngay tại đây, ở Tê-hê-ran, các nước Đồng minh đã đề ra rất nhiều ý kiến bảo lưu trong vấn đề này. Cho nên Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã hành động theo phương châm: không thể chỉ trông mong ở Đồng minh, mà cần phải dựa vào sức mình

Trong nhiều vấn đề xác định công tác thực tiễn của Bộ tổng tham mưu thời gian ấy đã nảy sinh vấn đề như sau: liệu có cần điều chỉnh kế hoạch chiến cục mùa đông xây dựng hồi tháng Chín 1943 hay không?
Nếu nói về mục tiêu chính trị của những chiến dịch sắp tới của bộ đội xô-viết, thì mục tiêu đó trước hết nhằm hoàn toàn giải phóng nước ta khỏi ách xâm lược của phát-xít Đức. Hiện nay chỉ 1/3 đất đai bị chiếm trước đây là còn nằm dưới gót sắt của chúng. Và trong năm tới, Quân đội Liên Xô phải sần sàng thực hiện sứ mệnh quốc tế vĩ đại: giúp đỡ nhân dân những nước khác. Vì vậy, phải tiến hành những chiến dịch tiến công với quy mô còn lớn hơn so với năm qua. Nguyên tắc cũ đã được khảo nghiệm, vẫn có hiệu lực là: đánh địch liên tục, không cho chúng kịp thở.

Tuy nhiên, cuộc tiến công quá dài đã có ảnh hưởng tới tình trạng bộ đội chúng ta: bộ đội bị mệt mỏi, cần được bổ sung thêm người và vũ khí. Trong quá trình chiến đấu mùa thu - đông năm 1943, quân thù đã huy động nhiều lực lượng dự bị mạnh và tạm thời uy hiếp được ta ở U-crai-na, kìm hãm cuộc tiến công của ta ở Bê-lô-ru-xi-a, đánh lui những mũi đột kích của ta tại những cửa ngõ vào vùng Pri-ban-tích. Bộ chỉ huy phát-xít Đức cố sức bằng mọi giá ổn định tình hình trên các mặt trận. Như vậy là tình huống căn bản đã thay đổi và các giải pháp cũ không còn thích hợp nữa.

Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu hiểu rất rõ rằng dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng không được để mất quyền chủ động chiến lược, không được để cho địch tiến hành chiến đấu theo hình thái trận địa. Cần phải nghiêm chỉnh điều động lại binh lực, trước hết là ở U-crai-na.

Chủ trương cho các Lực lượng vũ trang Liên Xô đồng thời tiến công trên toàn mặt trận từ Ban-tích đến Biển Đen, nét đặc trưng của kế hoạch mùa thu 1943, thực ra bây giờ không thể đem ra thực hiện được nữa. Thực tiễn chiến tranh buộc phải từ bỏ cuộc tiến công đồng loạt ấy, và thay thế nó bằng những chiến dịch lớn nối tiếp nhau, phù hợp hơn với thời cơ mới, hay như hồi đó ta thường nói và viết, là những đòn đột kích chiến lược.

Trong lúc xác định mục tiêu đột kích, số lượng và tính chất những lực lượng và phương tiện tham gia, thời gian tiến hành đột kích và yêu cầu hiệp đồng với những chiến dịch tương tự khác, Bộ tổng tham mưu đã tính toán trước hết đến cụm quân phát-xít Đức mà ta cần tiêu diệt. Đến đầu năm 1944, rõ ràng địch đã có tập trung lực lượng ở khu vực Lê-nin-grát và bên Hữu ngạn U-crai-na, ở Crưm và Bê-lô-ru-xi-a.

Tiêu diệt được mỗi cụm quân này tức là tạo được những cửa mở trong phòng ngự của chúng và địch chỉ có thể bịt những cửa mở ấy, chủ yếu bằng cách cơ động những lực lượng từ những khu vực khác đến, vì chúng không có đủ lực lượng dự bị chiến lược. Bộ chỉ huy Đức không tổ chức những binh đoàn chiến dịch trong lực lượng dự bị, mà thường sử dụng những quân đoàn và sư đoàn các loại, phần lớn là những quân đoàn và sư đoàn xe tăng.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #151 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:21:38 pm »

Muốn chọc thủng mặt trận quân địch, phá vỡ nó trên một khoảng lớn và không cho chúng có thể khôi phục lại được, chiến lược xô-viết trước hết phải quy định khả năng thành lập những cụm quân mạnh hơn các cụm của Đức. Mỗi cụm quân này phải được tăng cường tính chất đột kích mạnh, bằng cách tiếp tục nâng cao vai trò của xe tăng, pháo binh và không quân. Đòi hỏi phải xây dựng những binh đoàn và cụm dự bị lớn, để trong một thời hạn ngắn và bất ngờ đối với địch, ta có thể có được ưu thế quyết định về lực lượng trên những hướng đã chọn. Để phân tán lực lượng dự bị của địch, tốt hơn hết là tổ chức và tiến hành nhiều chiến dịch nối tiếp nhau liên tục về thời gian và trên các khu vực cách nhau khá xa.

Tất cả những vấn đề trên đều được định rõ trong các kế hoạch chiến cục nửa đầu năm 1944. Ngoài ra, các kế hoạch này còn tính đến cả trách nhiệm ta đã đảm nhận tại hội nghị Tê-hê-ran là “đến tháng Năm sẽ tổ chức tiến công lớn, đánh quân Đức ở một số địa điểm”.

Thời gian mở đầu những chiến dịch trên trước hết do tình hình sẵn sàng hành động của các lực lượng ta quyết định. Cũng đã có nhiều ý đồ khác nữa, có liên quan đến khu vực chiến đầu này hay khu vực chiến đấu khác, ví như cần “giải tỏa” Lê-nin-grát, phá hoại các vị trí chính trị của Đức ở Phần Lan và Ru-ma-ni.

Cũng như trước đây, mũi đột kích chủ yếu hướng vào tả ngạn U-crai-na. Ở đây, ta định tiêu diệt cánh quân của Man-stai-nơ và dùng các phương diện quân U-crai-na 1 và 2 tiến tới Các-pát, chia cắt mặt trận quân địch. Đồng thời, bộ đội của phương diện quân U-crai-na 3 phải tiêu diệt cánh quân Ni-cô-pôn - Cri-vôi Rô-gơ của chúng. Phương diện quân U-crai-na 4 sẽ hoạt động ở Ni-cô-pôn để hiệp đồng với phương diện quân U-crai-na 3 rồi sẽ chuyển sang tiêu diệt tập đoàn quân 17 của Đức ở Crưm.

Theo kế hoạch chiến cục thì phương diện quân Pri-ban-tích 2 sẽ chuyển sang tiến công sớm nhất (ngày 12 tháng Giêng). Sau đó (ngày 14 tháng Giêng), các phương diện quân Lê-nin-grát và Vôn-khốp sẽ hợp nhất hành động với phương diện quân Pri-ban-tích 2. Chiến dịch chung của ba phương diện quân trên hồi đó gọi là “Đòn đột kích thứ nhất”. Mười ngày sau (24 tháng Giêng), sẽ bắt đấu tiến công trên hướng chú yếu ở Hữu ngạn U-crai-na.

Những hành động của bộ đội ta ở đây lấy tên là “đòn đột kích thứ hai”. Trong tháng Ba - tháng Tư, dự định mở “đòn đột kích thứ ba”: dùng lực lượng của phương diện quân U-crai-na 3 giải phóng Ô-đét-xa và sau đó đưa phương diện quân U-crai-na 4 đến tiêu diệt quân địch ở Crưm. Tiếp sau, chúng ta xây dựng kế hoạch tiến công trên eo Ca-rê-li-a và ở Nam Ca-rê-li-a.

Hàng loạt những (đòn đột kích) trên những địa điểm trong những thời gian khác nhau ấy đã tỏ ra là hoàn toàn đúng. Quân địch buộc phải điều động lực lượng của chúng khi thì sang hướng này, lúc thì sang hướng khác, kể cả những phía sườn xa xôi và phải chịu mất từng bộ phận một.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #152 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:22:23 pm »

CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Ở Crưm

Ý định và những phương án chiến dịch. - Đề nghị của A. M. Va-xi-lép-xki. - Quyết định cuối cùng. - Đi cùng C. E. Vô-rô-si-lốp - Đến tập đoàn quân miền Duyên hải. - Căn cứ bàn đạp Kéc-tsơ. - Đàm luận với các chiến sĩ thuỷ quân, biên bản có mười chữ ký và phản ứng của Xta-lin - Những chàng bộ binh Cô-dắc. - Lòng dũng cảm của các đơn vi đổ bộ. - Bất ngờ thay đổi tư lệnh tập đoàn quân. - Mang báo cáo về Đại bản doanh. - Lại  đến Crưm. - Trận chung kết ở Khéc-xô-nét.

Đầu tháng Mười 1943, bộ đội Liên Xô đã ở trên tuyến Xta-rai-a Ru-xa, Pu-xtô-sca, U-xvi-a-tư và đã từ phía Đông tiền gần đến Vi-tép-xcơ, Oóc-sa và Mô-ghi-li-ôp, tiến sát tới Pô-lê-xi-ê và Ki-ép. Ở xa hơn nữa, mặt trận về cơ bản nằm theo dọc sông Đni-ép-rơ mà ở bên hữu ngạn ta đã chiếm được một loạt căn cứ bàn đạp, và dọc theo sông Mô-lô-tsơ-nai-a.

Vấn đề đánh chiếm Crưm được đặt ra một cách hơi riêng biệt trong các kế hoạch của Đại bản doanh chuẩn bị tiêu diệt địch ở phía Bắc Pô-lê-xi-ê, trong khu vực Ki-ép và ở khúc ngoặt lớn của sông Đni-ép-rơ. Ph. I. Tôn-bu-khin (phương diện quân Nam) đã điều bộ đội của mình từ phía Bắc tiến vào những cửa ngõ tới bán đảo, và sắp phải vượt qua Pê-rê-cốp.

Còn phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, dưới quyện chỉ huy của I. E. Pê-tơ-rôp, ngày 9 tháng Mười đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng bán đảo Ta-man. Những chiến hạm của Hạm đội Biển Đen và Chi hạm đội A-dôp kiểm soát vùng biển bao quanh Crưm.

Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu chú ý nghiên cứu những ý định và phương án tác chiến nhằm giải phóng Crưm. Chúng ta đã ôn lại lịch sử và kinh nghiệm đấu tranh của M. V. Phun-de chống Vran-ghen năm 1920. Có nhiều ý kiến được đem ra trao đổi. Một số ý kiến đề nghị lúc này chưa nên chiếm mà chỉ bao vây Crưm, bằng cách cô lập nhiều lực lượng địch ở đây, đồng thời tách phần lớn đơn vị của ta cho đi hoạt động trên những hướng khác. Chúng tôi gọi đùa những đồng chí có quan điểm này là “phái cô lập”.

Nếu ta hành động theo phương pháp này thì địch có thể từ Crưm uy hiếp phía sau những phương diện quân của chúng ta đang tiến công ở bên kia sông Đni-ép-rơ. Chúng còn giữ được căn cứ để hoạt động tích cực trên các đường giao thông ở Bắc Ta-vri-a, ở miền ven Biển Đen, A-dốp và trong vùng công nghiệp dầu hóa Bắc Cáp-ca-dơ.

Ngoài ra, lập trường của “phái cô lập" còn có nhiều điểm yếu khác nữa. Vì vậy, quan điểm của những đồng chí này đã bị loại bỏ về nguyên tắc, còn phương án đánh chiếm Crưm và hoàn toàn tiêu diệt số quân địch đóng tại đây đã được chú ý đi sâu nghiên cứu

Bây giờ, phải quyết định cách đánh chiếm bán đảo. Lúc đầu cả trong vấn đề này cũng đã có nhiều quan điểm không thống nhất với nhau.

Ngày 22 tháng Chín, theo yêu cầu của Đại bản doanh, A. M. Va-xi-lép-xki đã trình bày ý kiến của mình về vấn đề này. Ý định của đồng chí là: bộ đội của phương diện quân Nam, trong lúc vu hồi từ phía Nam Mê-li-tô-pôn, nhanh chóng đánh chiếm Xi-va-sơ, Pê-rê-côp cùng khu vực Đơ-gian-côi và xốc tới Crưm tràn lên vai địch.

Do đó, phải lấy quân của phương điện quân Bắc Cáp-ca-dơ tăng cường cho phương diện quân Nam. Ngoài ra, phải cho quân đổ bộ đường không nhảy xuống khu vực Đơ-gian-côi và sử dụng Chi hạm đội A-dốp làm nhiệm vụ đổ bộ đường biển vào đây, nhằm tiến về phía sau cánh quân địch đang phòng ngự Xi-va-sơ và đột kích trên hướng Bắc tiến lên gặp bộ đội của phương diện quân Nam.

Kế hoạch này có điểm tốt là dự định tập trung nhiều lực lượng trên hướng đột kích đã chọn. Nhưng nó đòi hỏi nhiều đợt điều quân lớn, khó giấu được địch. Thêm nữa, hướng Kéc-tsơ lại thụ động, do đó địch có thể rút phần lớn quân của chúng ra khỏi đây, sang tăng cường cho hướng Đơ-gian-côi.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #153 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:23:28 pm »

Thật vậy, phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ trước khi tiến công vào Crưm, còn phải tiến công vượt qua vịnh và đánh chiếm căn cứ bàn đạp ở bán đảo Kéc-tsơ. Việc đó tạo thành một chiến dịch riêng, khá phức tạp, nhưng rất đáng thực hiện. Phần lớn những người có uy tín trong Bộ tổng tham mưu chủ trương tiến hành một chiến dịch trù bị, nhằm đánh chiếm căn cứ bàn đạp ở khu vực Kéc-tsơ để sau này từ hai hướng đổ cả về Crưm.

Càng về sau, vấn đề giải phóng Crưm càng có ý nghĩa thực tiễn. Đến cuối tháng Mười, bộ đội của phương diện quân Nam đã vượt qua tuyến phòng ngự mạnh của quân địch trên sông Mô-lô-tsơ-nai-a và sang đầu tháng Mười một đã chiếm được eo đất Pê-rê-cốp và những căn cứ bàn đạp tại bờ phía Nam Xi-va-sơ. Tập đoàn quân 17 của Đức bị bao vây trên bán đảo.

Cũng trong khoảng thời gian này, từ ngày 1 đến hết ngày 11 tháng Mười một, theo quyết định của Đại bản doanh, phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ hiệp đồng với các lực lượng của hạm đội, đã tiến hành một chiến dịch đổ bộ và đánh chiếm căn cứ bàn đạp ở phía Đông - Bắc Kéc-tsơ. Căn cứ bàn đạp này không lớn, nhưng nếu tổ chức chiến đấu tốt, nó có thể làm bàn đạp đề tiếp tục phát triển tiến công vào Crưm. 

Chiến dịch này thật phức tạp và khó khăn. Đội đổ bộ trợ công gồm các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh 318, lữ đoàn hải quân 255 và tiểu đoàn thủy quân lục chiến độc lập 386 đã góp phần rất đáng kể vào thắng lợi của các lực lượng chủ yếu. Nó đã đổ bộ xuống khu vực làng En-ti-ghen phía Tây - Nam Kéc-tsơ. Quân đổ bộ đã đánh chiếm một căn cứ bàn đạp nhỏ và suốt 40 ngày, trong những điều kiện hết sức khó khăn, đã đẩy lùi các cuộc phản công của các lực lượng địch có ưu thế hơn ta nhiều lần. Khi nhiệm vụ chủ yếu của đội đổ bộ - trói chặt các lực lượng dự bị của địch và không cho địch tung các lực lượng này ra đối phó với các lực lượng chủ yếu của ta - đã hoàn thành, những người anh hùng của “đất lủa” đã tiến tới gặp quân ta ở khu vực ở Kéc-tsơ.

Sau khi chiếm được căn cứ bàn đạp Kéc-tsơ thì phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ lúc này không còn cần thiết, và từ ngày 20 tháng Mười một, nó đã không còn tồn tại nữa. Trên cơ sở phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ và tập đoàn quân 56 đang hoạt động ở Crưm, ta đã thành lập tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải. Tướng I. E. Pê-tơ-rốp làm tư lệnh ở tập đoàn quân ấy.

Mọi việc, như người ta thường nói, đã đâu vào đấy và Tổng tư lệnh tối cao giao cho chúng tôi nhiệm vụ bắt tay xây dựng kế hoạch hành động từ bán đảo Kéc-tsơ.

Đồng chí nói:

- Phải giải quyết nhiệm vụ đánh chiếm Crưm bằng hành động đột kích phối hợp của bộ đội Tôn-bu-khin và Pê-tơ-rốp cùng với sự tham gia của Hạm đội Biển Đen và Chi hạm đội A-dôp. Chúng ta cử Vô-rô-si-lốp tới chỗ Pê-tơ-rốp. Vô-rô-si-lốp sẽ xem xét và báo cáo nên làm thế nào cho tốt hơn. Stê-men-cô thay mặt Bộ tổng tham mưu sẽ đi cùng với Vô-rô-si-lốp

Xta-lin thường coi trọng việc báo cáo những sự kiện tại chỗ

Trước đây, tôi chưa có dịp được tiếp xúc gần gũi với Vô-rô-si-lốp trừ cuộc đi Tê-hê-ran, mặc dầu cũng như tất cả nhưng quân nhân khác, tôi được nghe nói nhiều về Vô-rô-si-lốp. Vì vậy chuyến đi công tác Crưm lần này đã làm cho tôi có nhiều hứng thú.

Chúng tôi rời Mát-xcơ-va trên toa tàu dành riêng cho C E. Vô-rô-si-lốp. Hai phụ tá đi theo Vô-rô-si-lốp là thiếu tướng L. A. Séc-ba-cốp và đại tá L. M. Ki-ta-ép; tiện thể cũng nói thêm, hai người là bạn cùng học với tôi ở Học viện quân sự. Như thường lệ, một đồng chí mật mã cùng đi với tôi. Một số sĩ quan Bộ tổng tham mưu cũng sẽ sáp nhập với đoàn chúng tôi ở ngoài thực địa.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #154 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:24:24 pm »

Ngay trong buổi đầu tiếp xúc với Vô-rô-si-lốp trên đường đi Crưm, tôi đã có thể tin chắc rằng đồng chí là một người ham đọc sách, ưa thích và am hiểu văn học nghệ thuật. Trong toa xe của đồng chí, có một tủ sách chọn lọc khá lớn và thú vị.

Khi chúng tôi vừa giải quyết xong những vấn đề công tác khẩn thiết nhất và ngồi vào ăn tối, Vô-rô-si-lốp liền quan tâm tìm hiểu xem tôi biết và thích những vở nhạc kịch nào. Tôi mới nói tên những vở nhạc kịch: “Các-men”, “Ri-gô-lét-tô), “Ép-ghê-nhi Ô-nê-ghin”, “Con đầm pích", “Bô-rít Gô-đu-nôp”, “Chi-ô - Chi-ô-xan”, thì Vô-rô-si-lôp đã cười:

- Ồ anh bạn trẻ, thế thì còn ít lắm.

Và đồng chí bắt đầu kể tên những tác phẩm nhạc kịch mà trước đấy tôi thậm chí chưa được nghe nói tới.

- Thế trong số những nhà soạn nhạc, đồng chí yêu thích ai nhất? - Vô-rô-si-lôp tiếp tục tiến công.

Trả lời vấn đề này không phải là dễ. Tôi chưa từng coi mình là người sành sỏi âm nhạc, mặc dầu tôi không hề bàng quan với âm nhạc và thường dự các buổi biểu diễn nhạc kịch và hòa nhạc. Hồi còn là học viện Học viện bộ đội xe tăng ở thiết giáp, tôi cùng với bạn là Gri-gô-ri Ni-cô-lai-ê-vích Ô-ren để dành tiền và mua được chiếc máy hát, rồi trong suốt mùa đông sau đó ra công tìm kiếm đĩa hát. Lúc ấy, đó là một công việc khó. Hầu như chủ nhật nào chúng tôi cũng dậy thật sớm, đi chuyến xe điện đầu tiên vào trung tâm thành phố, để xếp hàng trong một cửa hàng nào đó bán những đĩa hát nhạc kịch có lời ca của Cô-dơ-lốp-xki, Lê-mê-sép, Mi-khai-lốp, Rây-den, hoặc những đĩa hát của những ca sĩ nhạc kịch Ca-tra-lốp, La-da-rê-va, Ghê-dơ-rôi-ét và những nghệ sĩ nổi tiếng khác hồi đó. Chúng tôi rất thích tình ca, dân ca và cả âm nhạc xô-viết.

Dù có lúng túng trước mặt C. E. Vô-rô-si-lôp, tôi cũng kể hết cho đồng chí nghe tất cả những chuyện đó mà không hề giấu giếm chút gì. Đồng chí thông cảm mỉm cười, và chỉ nhận xét rằng âm nhạc bao giờ cũng làm cho cuộc sống thêm đẹp và con người thêm tốt hơn.

Cuộc “sát hạch” về văn chương đã diễn ra có kết quả. Tôi không những đã trả lời được những câu hỏi về văn học cổ điển nước nhà, mà còn tỏ ra có trình độ am hiểu nhất định về những tác phẩm của các nhà văn phương Tây trước đây và hiện nay.

Tối tối, Vô-rô-si-lốp thường đề nghị Ki-ta-ép đọc một chuyện nào đó của Tsê-khốp hoặc Gô-gôn trong khoảng từ nửa tiếng đến một giờ rưỡi. Ki-ta-ép đọc hay, và trên khuôn mặt Vô-rô-si-lôp ánh lên niềm vui sướng lớn.

*
*   *

Mờ sáng, đoàn xe lửa chở chúng tôi đến ga Va-re-nhi-cốp-xcai-a bị phá hoại và đốt cháy trong những trận chiến đấu vừa qua. I. E. Pê-tơ-rôp và ủy viên Hội đồng quân sự V A. Bai-u-cốp ra đón chúng tôi.

- Chở thẳng tới căn cứ bàn đạp, - C. E. Vô-rô-si-lốp ra lệnh, và cả nhóm chúng tôi lên xe.

Xe chạy nhanh, chẳng mấy chốc đã đi ngang qua Tem-ri-uc. Ta-man – “thành phố công viên” theo xác định của Léc-mông-tốp - ở một bên. Chúng tôi đến dải đất Tru-sca mà không hề gặp biến cố gì.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #155 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:25:07 pm »

Chúng tôi được thông báo: 

- Không nên trùng trình ở đây, dải đất này nằm trong tầm súng địch.

Cũng không phải không nguy hiểm khi dùng xuồng bọc sắt vượt qua vịnh sang Crưm. Trước đây, lúc thời bình, tôi đã nhiều lần được ngắm cảnh nông trang viên Cu-ban chở những trái dưa hấu to lạ lùng bằng thuyền qua chính con đường này. Những tay chèo chậm rãi, thậm chí như uể oải đưa đẩy mái chèo. Cọc chèo kẽo kẹt nhịp nhàng. Mặt trời rọi sáng rực rỡ. Vạn vật đều toát lên cảnh thanh bình và phồn vinh hạnh phúc. Tôi như muốn nằm xuống ván thuyền và ngắm nhìn màu xanh trong trẻo, trìu mến của bầu trời, mãi mãi không thôi.

Nhưng bây giờ cảnh vật không phải như vậy nữa rồi. Xuồng chúng tôi rẽ sóng băng lên phía trước, trong cái vịnh lạnh lẽo và lãnh đạm này. Bên phải, bên trái chúng tôi là các loại “phương tiện nổi”, to có, nhỏ có, chở hàng quân sự và thương binh đang tỏa đi các hướng khác nhau. Đó là những con tàu của Chi hạm đội A-dốp bấy giờ đang đảm đương toàn bộ gánh nặng của một công việc quá lớn đối với họ, một công việc thực sự anh hùng, là chở tới bán đảo Kéc-tsơ toàn bộ tập đoàn quân miền Duyên hải rất cần cho hoạt động tác chiến. Quân địch dùng pháo bắn phá vịnh một cách có hệ thống và thường dùng máy bay đánh phá thuyền qua lại vịnh này.

Chúng tôi hoàn toàn coi trọng thái độ thận trọng phòng xa của I. E. Pê-tơ-rốp, khi buộc chúng tôi phải dùng xuồng bọc sắt, và công việc khó khăn, nguy hiểm của các chiến sĩ hải quân Chi hạm đội A-dốp làm nhiệm vụ tháo gỡ thủy lôi của địch trên con đường qua vịnh.

Tư lệnh tập đoàn quân không quân 4, K. A. Véc-si-nhin thì bay trên chiếc Po-2 - ”ông vua của bầu trời”. Đồng chí cho rằng dùng cách này để vượt vịnh tới bán đảo thì chắc chắn hơn, mặc dầu trên không lúc nào cũng có máy bay tiêm kích Đức bay lượn.

Sau này, chính bản thân tôi cũng thấy rõ những ưu thế của cách vượt vịnh ấy. Đã mấy lần tôi vượt vịnh bằng máy bay Po-2. Mảy bay thường bay thấp cách mặt nước độ 5 mét, và máy bay tiêm kích địch đành chịu không làm gì nổi. Rõ ràng, bọn chúng thậm chí cũng không phát hiện thấy chúng tôi nữa. 

Đã đến lúc ngồi trên xuồng cũng thấy được hình dáng ở mờ mờ của ngọn núi Mi-tơ-ri-đát, nơi có các đài quan sát của địch khống chế vịnh Kéc-lsơ. Đồng chí cầm lái vững tay điều khiển con tàu cập bến, và chúng tôi lên bờ. 

Đất đai Crưm!.. Trước đây nó là nguồn sức khỏe và lạc thú, là xứ sở của những vườn cây tỏa hương thơm và những bãi biển óng vàng, là kho bảo tàng nhiều kỷ vật văn hóa có một không hai của nhiều thời đại và nhiều dân tộc. Thực ra tôi hiểu Crưm chủ yếu từ khía cạnh khác.

Trong bản thân tôi, những ký ức tươi sáng gắn chặt với Crưm. Từ Trường pháo binh Mát-xcơ-va mang tên L. B. Cra-xin, tôi được điều về đây. Ở Mát-xcơ-va, việc học tập cũng rất thú vị, một năm vụt trôi qua lúc nào không biết. Tôi học hành tấn tới, thu được nhiều kết quả trong môn cưỡi ngựa. Song một hôm vào đầu tháng Chín 1927, khi điểm danh buổi sáng, đồng chí khẩu đội trưởng nói rằng ở Xê-va-xtô-pôn đang thành lập một trường pháo binh mới: người ta đang chiêu sinh năm thứ nhất, tuyển học viên của tất cả các trường pháo binh trong nước cho ba lớp trên cùng. Khẩu đội của chúng ta mỗi khóa phải cử cho Xê-va-xtô-pôn hai người.

- Nếu đồng chí nào có nguyện vọng thì bước lên hai bước. Nếu không có ai thì tôi sẽ chí định, -đồng chí khẩu đội trưởng kết thúc.

Chẳng phải suy nghĩ lâu, tôi huých anh bạn đồng hương Pi-ốt Va-xi-li-ép và thế là hai chúng tôi cùng bước lên phía trước. Các khóa khác mỗi khóa cũng có một người, còn số thiếu thì được chỉ định ngay tức khắc. Mọi thể thức cử người chỉ có vậy. Chiều tối ngày hôm sau chúng tôi đã có mặt ở sân ga Cuốc-xcơ với chiếc hòm gỗ trong tay.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #156 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:26:25 pm »

Chúng tôi đến Xê-va-xtô-pôn. Lúc này mới biết rõ rằng đây là trường pháo cao xạ đầu tiên ở Liên Xô. Chừng một tháng, chúng tôi chưa phải lên lớp, chỉ có việc trông nom ngựa mà thôi: ngày hai lần lắm rửa kỳ cọ, cho ngựa ăn uống và dựng chuồng ngựa nữa. Lần đầu tiên chúng tôi được nhìn thấy biển, được tắm biển và nằm dài trên bờ. Chúng tôi hài lòng khôn tả vì đã “bước lên hai bước”.

Ngoài chúng tôi là những người từ Mát-xcơ-va về đây ra, còn có các học viên từ Ki-ép, Xu-mư, Lê-nin-grát. Mọi việc đều được thu xếp ổn thỏa và việc học bắt đầu. Xê-va-xtô-pôn là xứ sở của lính hải quân. Đối diện trường chúng tôi là một đơn vị huấn luyện của Hạm đội Biển Đen. Chẳng bao lâu chúng tôi đã làm quen được với rất nhiều "người anh em” mới và nói chung chúng tôi sống hòa thuận .

Cũng như ở Mát-xcơ-va, nhà trường cũng cho phép nghỉ trong thành phố. Thứ bảy thì được nghỉ từ sau giờ học cho đến 24 h 00; chủ nhật thì một bộ phận học viên nghỉ cho đến bữa trưa, một bộ phận thì từ sau bữa ăn trưa trở đi. Nhưng dù nghỉ ở đâu đi nữa thì cũng vẫn phải về để tắm rửa và cho ngựa uống nếu như không nhờ ai làm mọi phần việc thay cho mình hoặc không báo cáo với đồng chí chuẩn úy. Ở Mát-xcơ-va, chủ nhật nào tôi cũng phải tắm cho 3-4 con ngựa.

Ở thủ đô cũng như ở Xê-va-xtô-pôn, các quy tắc đều như nhau, nhưng ở đây có nhiều người là dân Mát-xcơ-va, họ có việc phải đi đâu đó, còn chúng tôi là “dân thành phố khác" thì thay họ tắm cho ngựa. Song ở đây thì hầu như không có học viên là người Xê-va-xtô-pôn cả, vì vậy mọi người đều tự làm lấy cho mình.

Tiện thể nói thêm, lòng yêu thích ngựa và khả năng biết cưỡi ngựa đã giúp ích cho tôi hoặc đặt tôi vào những tình huống bất ngờ. Chẳng hạn, sau đây là một sự việc làm tôi ghi nhớ mãi.

Có lần, vào một ngày mùa xuân 1950, I. V. Xta-lin hỏi bộ trưởng Quốc phòng, nguyên soái Liên Xô A. M. Va-xi-lép-xki, bây giờ đang báo cáo chỗ đồng chí, rằng ai sẽ đi duyệt các đơn vị tại lễ duyệt binh Ngày 1 tháng Năm. Thường thì các nguyên soái Liên Xô lần lượt được cử làm việc đó.

A-lếch-xan-đrơ Mi-khai-lô-vích không trả lời thẳng vào câu hỏi:

- Thưa đồng chí Xta-lin, đồng chí định cử ai ?

- Đồng chí hoặc Bun-ga-nin sẽ làm việc đó. Bu-đi-on-nưi thì vừa mới làm rồi, - I. V. Xta-lin trả lời và tiếp tục: - Tôi cho rằng cần phải để bộ trưởng Quốc phòng làm việc đó. Đồng chí có biết cưỡi ngựa không?

A. M. Va-xi-lép-xki hơi lúng túng.

- Tôi hoạt động ở bộ binh, - Va-xi-lép-xki trả lời, dĩ nhiên cũng đã từng cưỡi ngựa, nhưng từ lâu lắm rồi.

Một người nào đấy có mặt lúc đó đề nghị: liệu đi ô-tô duyệt các đơn vị có được không?

I. V. Xta-lin quay về phía người vừa nói và trả lời dứt khoát: không, không được, ta không nên phá vỡ những truyền thống của ta.

- Chắc đồng chí cũng chẳng hề biết cưỡi ngựa phải không ? -Xta-lin quay sang hỏi N. A. Bun-ga-nin. 

- Chưa từng bao giờ cả, đồng chí Xta-lin ạ, - Bun-ga-nin trả lời.

- Nếu vậy thì ai sẽ đi duyệt các đơn vị? Chẳng lẽ lại triệu các nguyên soái ở các quân khu lên, mà như thế cũng sẽ bất tiện, - I. V. Xta-lin nói tiếp. Rồi đột nhiên đồng chí hỏi tôi: - Thế Tổng tham mưu trưởng đã bao giờ cưỡi ngựa chưa? 

- Thưa đồng chí Xta-lin, cả bây giờ hầu như ngày nào tôi cũng vẫn cưỡi ngựa, - tôi trả lời.

Thực vậy, hầu như sáng nào tôi cũng cưỡi ngựa từ 7-8 giờ sáng, còn chủ nhật thì cưỡi ngựa trong rừng vài giờ đồng hồ. 

- Vậy thi đồng chí sẽ đi duyệt các đơn vị, đồng chí chuẩn bị đi và chớ có ngại.

Có lẽ đây là trường hợp duy nhất trong lịch sử các Lực lượng vũ trang Liên Xô: Tổng tham mưu trưởng đi duyệt các đơn vị trong lễ duyệt binh.

Mặc dù biết cưỡi ngựa, nhưng tôi hiểu rằng cưỡi trên bãi quần ngựa hoặc trong rừng là một việc, còn cưỡi trên quảng trường chính của đất nước trước mặt mọi người lại là một việc hoàn toàn khác.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #157 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:27:13 pm »

Còn 1 tháng nữa là đến ngày 1 tháng Năm. Sau khi được X. M. Bu-đi-on-nưi chọn cho một con ngựa hợp với tạng người, hàng ngày tôi bắt đầu tập cho nó và mình chuẩn bị cho giờ phút trọng đại của lễ duyệt binh. Hầu như ngày nào Bu-đi-on-nưi cũng ra bãi tập ngựa, và sau đó là Sân bay trung tâm, để tập dượt cùng tôi và đồng chí chỉ huy cuộc diễu binh là P. A. Ác-tê-mi-ép, tư lệnh bộ đội Mát-xcơ-va. Bu-đi-ơn-nưi cùng phi ngựa với chúng tôi trong điệu kèn của đội quân nhạc và không hề bỏ qua một sơ suất nhỏ nhất nào của chúng tôi.

Cuộc duyệt binh diễn ra tốt đẹp và thậm chí tôi còn được khen là có tư thế cưỡi ngựa đẹp.

Ở Xê va-xtô-pôn hồi ấy, khi bắt đầu năm học mới 1929 - 30, có 6 người thuộc khóa ra trường - mỗi khẩu đội 2 người được gọi lên gặp hiệu trưởng Vu-cô-tích vả chính ủy nhà trường Hai-phét-xơ. Tại đó cũng có mặt tiểu đoàn trưởng Cri-u-cốp và cả ba đồng chí khẩu đội trưởng. 

- Chắc các đồng chí đều biết có những người trong sản xuất nhận giao ước sẽ làm việc tốt hơn và hoàn thành vượt mức các kế hoạch. Người ta gọi họ là những người tiên tiến, - đồng chí chính ủy bắt đầu.

Tiếp đó là những lời thuyết trình thực sự về đề tài: những người tiên tiến đó là thế nào, họ làm việc ra sao và đem lại lợi ích gì cho đất nước. .

Chúng tôi không hiểu đang nói về việc gì và chỉ im lặng nhìn nhau.

- Nhà trường quyết định ủng hộ phong trào mới đó, tiến kịp những người lao động và cũng sẽ có những người tiên tiến của mình, - Vu-cô-tích nói tiếp. - Chính vì vậy mà chúng tôi đã chọn ra những học viên hiện có mặt ở đây. Chúng tôi cho rằng các đồng chí sẽ xứng đáng với danh hiệu cao quý đó. Các đồng chí phải đảm nhận trách nhiệm học xong chương trình cả năm trong thời hạn nửa năm để đến tháng Năm sẽ thi được tất cả các môn đã quy định. Bằng cách đó, chúng ta sẽ cho ra trường khóa đầu gồm những người tiên tiến.

- Tất cả các đồng chí đều là những người bôn-sê-vích, đồng chí chính ủy bổ sung, - như vậy có nghĩa là các đồng chí sẽ không phụ lòng tin của nhà trường. Các đồng chí sẽ học thành một lớp, chúng tôi sẽ giảm nhẹ các công việc quân ngũ khác cho các đồng chí. Dĩ nhiên là cần phải tăng thêm thời gian học, hy sinh những ngày nghỉ và kỳ nghỉ đông. Tôi nói đến đây là hết. Có đồng chí nào hỏi gì không?

Chúng tôi im lặng. 

- Đồng chí chuẩn úy có ý kiến gì không? - Vu-cô-tích đột ngột hỏi tôi.

Tôi nhổm phắt dậy và không hề do dự, báo cáo luôn: 

- Chuẩn úy xin cảm ơn sự tín nhiệm của cấp trên và sẽ hoàn thành nhiệm vụ được giao.

- Rất tốt. Bắt đầu từ ngày mai các đống chí sẽ được lệnh chính thức và bắt đầu học tập như những người tiên tiến. Bây giờ, mời các đồng chí nghỉ, - Vu-cô-tích kết thúc.

Thế là bắt đấu cuộc sống “tiên tiến”. Chúng tôi rất vất vả không được đặc biệt giảm nhẹ một công việc nào. Sáu người chúng tôi học theo một chương trình riêng, mỗi ngày 10 tiếng và còn phải làm các công việc quân vụ khác vì tất cả đều là trung đội phó, tiểu đội trưởng, còn tôi là chuẩn úy không ai trút bỏ được trách nhiệm đó cho chúng tôi.

Đến ngày 1 tháng Năm thì kết thúc chương trình, thi xong các môn và có lệnh của bộ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng chứng nhận tốt nghiệp và bổ nhiệm, một lệnh mà chúng tôi mong đợi từ lâu. Tạm biệt nhà trường, thế là chúng tôi bước vào cuộc sông tự lập!

Theo tôi nhớ thì khóa những người tiên tiến đó là khóa đầu tiên và cũng là khóa cuối cùng. Lúc ấy chúng ta thử nghiệm và tìm kiếm những hình thức thi đua xã hội chủ nghĩa mới, song không phải tất cả đều có thể chấp nhận được đối với các trường quân sự, và cuộc sống đã gạt bỏ những gì sai lầm.

Trong hoàn cảnh thời bấy giờ, những người tốt nghiệp loại ưu có quyền được chọn nơi công tác và chúng tôi đã có lần bàn với nhau xem ai nên đi đâu. Tôi muốn về gần những nơi thân thuộc và đã chọn Rô-xtôp hoặc Xta-lin-grát. Nhung cả lúc này mọi việc cũng đều không diễn ra như đã định.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #158 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:28:26 pm »

Ít lâu trước khi ra trường, tôi và hai học viên nữa cùng lớp (Ê-go Men-nhi-cốp và Đmi-tơ-ri I-lích-cô-vích) lại được mời lên gặp chính ủy. Cả bí thư chi ủy Ma-dê-pốp cũng có mặt ở đó. Thực chất của vấn đề là: trung đoàn pháo cao xạ 121 đóng ở Xê-va-xtô-pôn , nơi tất cả mọi học viên chúng tôi đã từng đi thực tập ở đó, cần 3 trung đội trưởng. Các đồng chí giải thích cho chúng tôi rằng trung đoàn này dường như là đơn vị được nhà trường chúng tôi đỡ đầu và cần phải đưa các học viên ưu tú nhất của nhà trường tới đó làm trung đội trưởng. Nói tóm lại, các đồng chí đề nghị chúng tôi về trung đoàn đó. Còn 3 học viên tiên tiến kia thì về những nơi mà họ có nguyện vọng.

Sự phục vụ trong trung đoàn bắt đầu từ chỗ đồng chí P. Ph. Tre-xnức, chỉ huy khẩu đội huấn luyện, nơi tôi được phân bổ về đó, dẫn tôi tới chuồng ngựa, giao cho tôi một con ngựa và lập tức cùng với tôi ra bãi tập ngựa để kiểm tra khả năng cưỡi ngựa, vượt chướng ngại, sử dụng kiếm v. v.. Bản thân đồng chí là một người Cô-dắc, một lính kỵ binh thực sự, một nhà thế thao, có lối sống khắc khổ và đòi hỏi những người dưới quyền mình cũng phải theo như vậy.

Sau bãi tập ngựa là khu thể thao, đồng chí khấu đội trưởng xem khả năng chơi thể dục dụng cụ của chúng tôi tới mức nào. Đồng chí hài lòng tất cả, chỉ trừ một điều: tôi không biết đi bằng hai tay. Thế là trước mặt tôi, đồng chí bỏ kiếm ra, đi bằng hai tay dọc theo doanh trại của khẩu đội và nói rằng sau hai tháng nữa chúng tôi sẽ cùng nhau vượt một khoảng cách xa như thế.

Tôi đảm nhận một trung đội trinh sát gồm 25 người. Tất cả họ đều là những con người tốt bụng. thật vậy, tám người trong số họ mới có trình độ hết lớp ba. Đấy là ở khẩu đội huấn luyện, nơi đào tạo các cán bộ chỉ huy cấp dưới. Còn ở các khẩu đội chính quy hồi đó thì có nhiều người không biết chữ.

Vào mùa hè, trung đoàn nhận thêm biên chế; số này hợp thành một tiểu đoàn riêng, lấy cán bộ chỉ huy các cáp từ tất cả các khẩu đội. Tôi cũng rơi vào trong số đó. Sở dĩ tôi hồi tưởng lại việc này là vì số phận đã gắn tôi với một con người tuyệt diệu.

Chỉ huy tiểu đoàn này là Xê-mi-ôn I-lích Ma-kê-ép. Điểm nổi bật ở đồng chí là trình độ hiểu biết chung rất cao và hết sức nhã nhặn, thích sách hơn là chuồng ngựa. Đồng chí có vóc người cao lớn, ăn mặc bao giờ cũng chỉnh tề, đường hoàng, có lẽ đồng chí là một cán bộ chỉ huy uyên bác và thông minh nhất trong trung đoàn chúng tôi.

Điểm giống nhau giữa Ma-kê-ép và P. Ph. Tre-xnức là có tính đòi hỏi cao, sốt sắng với công việc, chăm lo đến mọi người, chân thật và dễ gần. Các đồng chí ấy đã truyền sang chúng tôi tất cả những phẩm chất ưu tú đó, truyền thụ cho chúng tôi nhiều hiểu biết và kinh nghiệm. Từ bấy đến nay đã gần 45 năm, và hàng năm, chúng tôi, những bạn đồng sự cũ thuộc trung đoàn pháo cao xạ 121 hiện còn sông, họp mặt nhau lại và hồi tưởng về những ngày đã qua.

Trung tướng P. Ph. Trê-xnức và trung tướng X. I. Ma-kê-ép đã về nghỉ theo chế độ công huân, các cán bộ chỉ huy trung đội trước đây lúc này cũng đã là những vị tướng: V. M. Cru-tri-nhin, I-a. M. Ta-bun-tren-cô. Thượng tướng G. N. Ô-ren không còn có mặt với chúng tôi nữa. Bước đường phục vụ của chúng tôi tỏa đi mọi hướng nhưng không bao giờ chúng tôi để mất mối liên hệ và luôn luôn giúp đỡ lẫn nhau.

Một năm phục vụ ở trung đoàn đã trôi qua. Một sự kiện quan trọng đã xảy ra: rốt cuộc, tôi được một căn phòng và chấm dứt cảnh lang bạt ở góc buồng nhà người khác. Trước đó khoảng nửa năm, hai chúng tôi cùng ở trong phòng chơi bi-a của câu lạc bộ trung đoàn và chỉ được nằm ngủ trên các bàn bi-a bỏ trống sau khi câu lạc bộ đã đóng cửa. Tất cả các bạn tôi đều đã lập gia đình và bây giờ là đến lượt tôi.

Ở làng, tôi đã có người vợ chưa cưới là Tai-xi-a Đmi-tơ-ri-ép-na An-đrô-xô-va, cô ấy đợi tôi đã hơn 5 năm rồi. Chúng tôi trao đổi thư từ với nhau, mỗi năm gặp nhau một lần song từ lâu chúng tôi đã ước hẹn sẽ cùng chung sống với nhau ngay sau khi tôi có thể đưa cô ấy về chỗ tôi. Bản thân tôi rất muốn về đón cô ấy, nhưng theo kế hoạch thì sau khi xuống các binh trại về tôi mới được đi phép. Thế là đành phải bảo cô ấy tự lên vậy. Chừng 10 ngày sau, tôi nhận được một bức điện: đã lên đường. Cô ấy lên cùng với mẹ tôi. Ngày hôm sau, vào tháng Bảy 1931, chúng tôi đi đăng ký kết hôn và kể từ đó, chúng tôi cùng nhau chia xẻ mọi niềm vui và nỗi đau buồn.

Công tác ở trung đoàn, như người ta thường nói, chẳng phải là dễ dàng. Trong các cuộc hành quân, chúng tôi phải lên tới tận các điểm cao Ác - Mô-nai. Trinh sát thường được quy định là bao giờ cũng phải đi cùng với bộ binh và chúng tôi đã từng phải trải qua rất nhiều thử thách. Từ các điểm cao, chúng tôi triển khai cuộc tấn công huấn luyện tới tận Kéc-tsơ.

Gần 5 năm phục vụ trong quân ngũ ở Xê-va-xtô-pôn đã để lại trong ký ức tôi không hẳn chỉ là mặt biển xanh và những bãi biển vàng óng, mà chủ yếu là cái nóng gắt của miền thảo nguyên và tình trạng không có chỗ trú chân ở vùng đồi núi, nơi chúng tôi đã từng bị thấm ướt không phải chỉ một chiếc áo va-rơi.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #159 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2011, 01:29:17 pm »

*
*   *

Còn giờ đây, cuối năm 1943, tôi lại có mặt tại Crưm. Trước mắt chúng tôi là bờ đá tối tăm, ảm đạm và dốc đứng. Xung quanh không một bóng cây, không một lùm cỏ. Chỉ có vết tích những trận chiến đấu mới đây: những hố bom hốc đạn. Thật không muốn tin rằng ở đây lúc này chỉ có những thứ đó là thuộc về chúng ta, còn toàn bộ Crưm thì vẫn đang nằm trong tay giặc, và để giải phóng Crưm, ta còn phải chịu tốn không ít sinh mệnh nữa.

Căn cứ bàn đạp của tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải không rộng quá 10-12 ki-lô-mét. Sườn phải của mặt trận dựa vào biển A-dốp, sườn trái chạy dài lên phía Đông - Bắc Kéc-tsơ. Địa hình rất lồi lõm, mấp mô. Vách núi dốc đứng ăn ra tận biển. Những điểm cao khống chế nằm trong tay giặc. Từ đó, chúng có thể quan sát rõ tiền duyên phòng ngự của ta, riêng có một vách núi không lớn lắm là có thể che khuất được bờ ăn sâu ra biển của vịnh Kéc-tsơ.

Căn cứ bàn đạp dọc ngang đầy những chiến hào, nhà hầm, hào giao thông, hầm trú ẩn chồng chéo với nhau thành một mạng lưới kỳ khôi. Lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải đóng tại đây, gồm hai quân đoàn (11 và 16) và đội dự bị, tổng cộng là 9 sư đoàn và 2 lữ đoàn bộ binh. Một số đơn vị xe tăng, pháo binh và thậm chí không quân đã được điều đến căn cứ này: sân bay đầu tiên của ta thiết bị ngay sát biển trong khu Ô-pa-xnai-a.

Các đồng chí đã dành cho C. E. Vô-rô-si-lốp, tôi và những người cùng đi với chúng tôi ba căn nhà hầm cấu trúc trên sườn một cao điểm hướng ra ngoài vịnh. Cách chỗ chúng tôi chừng 600 mét là túp nhà gỗ ghép của tư lệnh tập đoàn quân I-van E-phi-mô-vích Pê-tơ-rốp. Dưới nền nhà có một hầm trú ẩn không lớn và không chắc chắn lắm. Cơ quan tham mưu tập đoàn quân miền Duyên hải bố trí trong các hầm trú ẩn bao quanh.

Chúng tôi bắt tay làm việc ngay. C. E. Vô-rô-si-lốp nghe báo cáo của I. E. Pê-tơ-rốp và của tư lệnh Hạm đội Biển Đen L. A. Vla-đi-mi-rơ-xki. Ngày hôm sau, chúng tôi đến hai quân đoàn bộ binh: quân đoàn 11 của thiếu tướng B. N. Ác-sin-xép và quân đoàn 16 của thiếu tướng K. I. Prô-va-lốp.

Vô-rô-si-lốp không chịu ngồi yên lúc nào. Đồng chí không những chỉ nghe báo cáo của các tư lệnh quân đoàn và đích thân tới các đài quan sát của họ, mà còn xuống các chiến hào ngoài tiền duyên, mặc dầu thật ra đồng chí không có gì cần làm ở đó. Nhưng không ai can ngăn được đồng chí cả. 

- Xá gì bom đạn, tôi không sợ địch, - đồng chí bác bỏ mọi lý lẽ của chúng tôi. - Còn như ai cho rằng ở đấy không cần đến chúng ta thì có thể không cùng đi với tôi.

Như vậy thì còn ai dám ở lại đài quan sát hoặc cơ quan tham mưu nữa. Đương nhiên, tất cả chúng tôi đã xuống các sư đoàn và trung đoàn thuộc thê đội một.

Năm ấy, trên bán đảo Kéc-tsơ, mùa đông rét dữ. Trời lạnh giá, xuống tới dưới 10 độ. Gió hoành hành dữ dội, lúc thì từ phía Bắc xuống, lúc thì từ phía Đông lại. Gió thổi xám mặt, làm chảy nước mắt và đuổi từng người xuống hầm. Những vạt mây mù từ ngoài biển lừ lừ kéo vào, trút xuống mặt đất lạnh giá một lớp mưa mau nhỏ hạt, làm buốt đến tận xương thịt. Còn đêm đêm, ở ngoài vịnh lúc nào cũng lơ lửng một bức tường mù âm u, cho mãi đến sáng mới chịu rút ra xa
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM