Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:46:23 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bản hùng ca xuân 1975  (Đọc 2813 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« vào lúc: 12 Tháng Mười, 2021, 08:34:34 pm »

- Tên sách: Bản hùng ca xuân 1975
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
- Năm xuất bản: 2015
- Người số hóa: giangtvx, vnmilitaryhistory
 

Tuyển chọn nội dung:
   - BAN TUYÊN GIÁO - TRUNG ƯƠNG HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM
   - HOÀNG LAN ANH


LỜI NÓI ĐẦU


Cuộc thi viết "Bản hùng ca Xuân 1975" do Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam phối hợp tổ chức lần thứ nhất (năm 2004-2005) đã thu hút được đông đảo cựu chiến binh trong cả nước, những nhân chứng lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử.


Hướng tới kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975-2015), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phối hợp với Ban Tuyên giáo - Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam giới thiệu những bài viết được chọn lọc trong cuộc thi thành tập sách "Bản hùng ca Xuân 1975" để thiết thực chào mừng 40 năm ngày toàn thắng. Đây là những kỷ niệm, hồi ức chân thật, sâu sắc và xuyên suốt rất đáng trân trọng của những người trong cuộc thể hiện sinh động trên nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh khác nhau trong những năm tháng hào hùng của dân tộc.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.


NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #1 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2021, 08:36:03 pm »

VƯỜN XƯA BẾN CŨ

NGUYỄN MINH ĐỨC


Cứ men theo con đường nhỏ quạnh hiu, qua quãng đồi lúp xúp sim mua là đến vườn chè xanh tốt. Ở đó có túp lều tranh rách rưới, những cánh cửa làm bằng tôn lỗ chỗ vết đạn được buộc vụng về vào cột nhà bằng những sợi dây thép cong queo. Đồ đạc trong nhà sắp xếp gọn gàng sạch sẽ nhưng nhìn qua cũng có thể nhận biết nơi này đang thiếu bàn tay người đàn ông, ở đó chỉ có một phụ nữ đã ngoại tứ tuần gầy gò bệnh tật, ngày ngày vào ra đơn chiếc. Đó là Trang... Phải chi thuận theo lời thỉnh cầu của tôi thì em đã đỡ cô đơn mà tôi cũng khỏi một đời giày vò tâm can cái nỗi mắc nợ nghĩa tình. Dẫu trong cảnh thanh bình hôm nay, tôi đã có một gia đình hạnh phúc nhưng làm sao có thể quên đi chuỗi ngày nằm gai nếm mật, bao đồng đội ngã xuống, bao người dân không quản cực hình tra tấn của kẻ thù, hết lòng theo Đảng, theo cách mạng mà giờ đây vẫn còn chịu bao vất vả, thiệt thòi...


Để chuẩn bị cho chiến dịch Trị - Thiên năm 1972, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ nắm chắc mọi diễn biến lực lượng của địch ở thị xã Quảng Trị. Tổ có ba người nhưng chỉ một mình tôi được bám trụ lại ở địa bàn vùng ven là xã Hải Sơn, ngày chui xuống hầm bí mật, đêm đội lên mò vào căn cứ địch để trinh sát, vào khu dân cư để nắm tình hình. Bác Diện là một cơ sở mà địa phương giới thiệu cho tôi móc nối. Lần đầu gặp gỡ, bác tỏ ra do dự, tôi hiểu ngay rằng, bác lo rủi thời sa vào tay giặc với cái dáng "con nít" của tôi liệu có thể chịu nổi những đòn tra tấn của kẻ thù mà cung khai ra bác hay không... Ngược lại, tôi đến với bác đầy lòng tin cậy, không chỉ nghe qua lời giới thiệu mà nhìn dáng người bác nhỏ nhắn nhưng nhanh nhẹn, từng trải, tôi đã thấy ấm lòng.


Chỉ có sau mấy ngày, bác đã giúp tôi đào chiếc hầm bí mật ngay trong vườn chè của bác. Căn hầm nằm dưới gốc bụi tre sát bờ sông bên cạnh những bậc tam cấp vào những khúc tre buộc ngang dọc làm nơi tắm rửa của bà con sau những buổi làm vườn. Phải nói bác có con mắt thật tinh đời. Hầm đặt gần bến tắm tạo yếu tố bất ngờ, vả lại ngồi trong hầm tôi cũng được nghe đủ mọi chuyện, qua đó sàng lọc, tổng hợp, cập nhật tình hình rất phong phú. Hàng ngày bác đi làm vườn mang theo cơm trưa và dĩ nhiên có cả tài liệu và phần cơm của tôi. Phải công nhận là khả năng điều tra nắm tình hình của bác thật tuyệt vời. Nào là địch chuẩn bị mở trận càn vùng giáp ranh; nào là liên đoàn biệt động quân số 15 chuẩn bị ra thay chân lữ 147 quân lục chiến ngụy ở căn cứ Mác-na-ma-ra... Bác mua cho tôi quần áo, giày mũ để cải trang thành lính ngụy. Với nước ra ngăm đen, tóc dài giống lính ngụy hơn là "Việt cộng nằm vùng", tôi đã nhiều lần trà trộn vào thị xã trực tiếp vẽ sơ đồ hệ thống đồn bốt của địch. Được sự cộng tác đắc lực của bác Diện, tôi đã đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của trên, càng ngày tôi và bác càng gần gũi và hiểu nhau hơn. Bác đã coi tôi như con cái. Bác nói: "Hoà bình rồi bác gả cái Trang con gái bác cho mày... Bác thế này nhưng con gái út của bác ngó cũng được lắm... bọn trai làng thường gọi nó là "bông hoa vùng ven đấy" - "Bác đã hứa là phải chắc ăn đó nghe!... nếu mà Trang rơi vào tay sĩ quan ngụy là con bắt đền bác đó...". Bác trợn mắt nhìn tôi: "Con nghĩ về gia đình bác vậy đó hả? Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh chứ... Bác đang chuẩn bị cho nó lên rừng đó... con có nhận nó không?"... Và từ đó bác gọi tôi là "con" một cách ngọt ngào. Nói thì vậy nhưng đã mấy tháng trời ở đây tôi chưa bao giờ gặp Trang, tuy trong lòng cũng mơ hồ nỗi xốn xang mỗi khi nhắc tới tên em.


Công việc của chúng tôi đang trôi chảy thì đột nhiên bác không liên lạc với tôi 7 ngày liền và 7 ngày ấy tôi chỉ ăn độc mỗi lương khô. Không hiểu gia đình bác có chuyện gì chăng? Không chờ được nữa, đến ngày thứ 8 tôi hoá trang đội nắp hầm và một mình lần mò vào "khu tập trung".


Đêm vùng hậu địch vắng lặng một cách ghê người. Thỉnh thoảng từ phía đồn địch vụt lên những ngọn pháo sáng hốt hoảng và tiếng chó sủa mỗi khi bọn lính đi tuần. Phải trườn qua ba lớp hàng rào kẽm gai tôi mới vào được bên trong. Những dãy tôn nằm lặng lẽ xếp tựa lưng vào nhau trông như những sạp hàng tạp hoá trong khu chợ xép. "Đúng là một nhà tù cải tiến". Tôi tìm đến nhà bác Diện, cửa bỏ ngỏ, trên bàn thờ leo lét ngọn đèn dầu, ở giữa bình hương còn nghi ngút, đằng sau đặt một khung ảnh viền đen. Tôi bàng hoàng ngồi thụp xuống chân bàn chết lặng hồi lâu rồi sẽ sàng đứng dậy run rẩy thắp nén hương. Đôi mắt bác Diện nhìn tôi âu yếm khoan dung và như nuối tiếc những công việc còn đang dang dở. Tôi cứ dùng dằng bên bàn thờ bác không biết bao lâu cho đến lúc ra đi mà những người trong gia đình vẫn không hay biết gì.


Sáng hôm sau, ngồi trong hầm, tôi đang vắt óc suy nghĩ xử lý tình huống chưa hề dự kiến này thì nghe từ trên nóc hầm có tiếng gõ vào gốc tre cốc... cốc... Đúng là ám hiệu liên lạc. "Anh Minh ơi! Trang đây... Anh đợi nóng ruột lắm phải không? Ba em mất rồi! Ba đột nhiên bị bệnh nặng, vào Huế... Họ trả về... Biết mình không qua khỏi, ba bảo em mượn xe máy chở lên thăm vườn, ngầm ý của ba là được gặp cách mạng, gặp anh lần cuối trước lúc đi xa... Nhưng xe chạy được gần một cây số thì em phải chở ba trở về và tối hôm đó ba mất"... Giọng em thì thầm đứt quãng, có lúc tưởng như em đã chìm xuống dòng sông Mỹ Chánh sâu thăm thẳm. Đêm ở nhà bác Diện cố cắn răng chịu đựng thì giờ đây tôi cứ để cho nước mắt tuôn trào với nỗi đau mất mát, phần tiếc thương người cha, người đồng đội, người bạn chiến đấu, phần cảm phục một cuộc đời với một tấm lòng son sắt thuỷ chung với cách mạng...


Tôi lại tiếp tục lao vào công việc với một nghị lực mới bởi nhiệm vụ nặng nề, bởi nỗi tiếc thương và giờ đây bên tôi đã có Trang sát cánh. Từ khi có Trang cộng tác, công việc có chiều thuận lợi hơn. Được sự hướng dẫn của tôi em đã mở rộng các mối quan hệ, khéo léo khai thác tình hình và tôi đã nắm chắc được mọi diễn biến của lực lượng địch, kể cả một số kế hoạch càn quét vây ráp do Trang đã cảm hoá được một sĩ quan trẻ làm việc trong "Trung tâm hành quân" của ngụy. Ngày ngày lại gô cơm đi làm vườn và ngày ngày tôi gặp em để nhận báo cáo, để hướng dẫn bồi dưỡng nghiệp vụ... Em đã trở thành nỗi nhớ mong khắc khoải trong tôi tự bao giờ, dẫu rằng cho tới lúc đó tôi vẫn chưa được nhìn tận mắt "bông hoa vùng ven" của tôi rực rỡ tươi thắm đến nhường nào bởi chúng tôi chỉ trao đổi với nhau qua lỗ thông hơi căn hầm bí mật. Có lần Trang hỏi tôi:

- Hồi còn sống ba có nói với anh điều gì về em không?

- Bác có nói chuẩn bị cho em "Lên rừng".

- Để làm 50 ngày cho ba xong là em đi luôn nhé?

- Chưa được đâu! Sớm nhất cũng phải xong chiến dịch. Mà phải báo cáo với cấp trên đã chứ!

- Hay anh muốn để em làm vợ sĩ quan ngụy?

- Hả... em nói... cái gì...? - Tôi buột miệng lắp bắp và chắc hẳn ở bên ngoài hầm em đang mỉm cười tinh nghịch.

Những cuộc trò chuyện như thế chỉ diễn ra vài phút mà vẫn gom góp thành nỗi nhớ mong trong mỗi chúng tôi chứ đâu có thời gian mà tỏ tình hò hẹn.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #2 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2021, 08:40:54 pm »

Lại 5 ngày liền tôi ngồi nhai lương khô vì em không đến. Tôi ngóng trông em đến cháy lòng nhưng không thể vi phạm quy định mà mò về "khu tập trung" để tìm gặp Trang, bởi vì tôi đã mường tượng chiến dịch sắp mở, mình không thể để một sơ suất nhỏ nào. Hôm sau, trời mưa tầm tã, nước sông dâng cao, tôi đang ngồi trong hầm lo lắng miên man thì có tiếng cốc, cốc, cốc... "Em đây... Trang đây!". Tôi luống cuống mở nắp hầm... "Xuống đây em! Đừng sợ! Trời mưa to quá"... Tôi buộc phải phá lệ chứ không có cách nào khác. Đậy nắp hầm xong tôi quay lại. "Chật chội thế này mà anh cũng ở được... giỏi thiệt...". Cũng phải hơn 10 phút sau tôi mới trấn tĩnh lại và nhận ra cái quyến rũ thật dịu êm mà khoảng cách thì quá mong manh. Ánh sáng từ lỗ thông hơi chiếu rọi vào làm rạng rỡ thêm nét đẹp ở em thật đằm thắm dịu dàng, khuôn mặt trái xoan hiền hậu kín đáo, đôi mắt đen láy sâu thẳm tự như trong đôi mắt ấy có cả một miền quê yên ả, một vùng trung du với những mùa bông trang đỏ rực, mùa sim chín mọng, những buổi hoàng hôn nhuộm tím cả vườn chè... và nhẹ mỉm cười. "Anh cười gì vậy?". "À... lâu gặp lại em, mừng quá... cứ sợ có chuyện gì"... "Có gì đâu, họ bắt chúng em vào lực lượng "nhân dân tự vệ", bắt huấn luyện quân sự và trang bị súng, bây giờ em đang cất ở nhà, đêm đêm đi tìm bắt Việt cộng"... "Anh có sợ không?". "Có... sợ lắm"...


Em gườm tôi... "dễ ghét"... Em kể cho tôi nghe tình hình trong thị xã và nhận định sắp tới địch sẽ dồn lực lượng tinh nhuệ vào Tây Nguyên chỉ để lại bọn địa phương quân, chúng tổ chức lực lượng "nhân dân tự vệ" ở khắp các làng xã... Tôi đã hướng dẫn em thay đổi phương thức hoạt động cho phù hợp và nếu có thời cơ thì hành động như thế nào... "Mấy ngày vừa rồi anh ăn uống thế nào? Có thèm cơm không? Ở nhà biết rứa thương quá trời!"... Không cầm được lòng, tôi đưa tay vuốt nhẹ mái tóc em và từ từ kéo em vào lòng... chúng tôi hẹn sẽ cưới nhau khi quê hương giải phóng...


Giá mà không có cái tình cờ trong buổi sáng hôm đó thì chắc bây giờ đã khác. Trên đường đi làm em gặp một toán lính, chúng nhìn theo và thách đố nhau tán tỉnh xin cho được gô cơm trên tay em để chúng tỏ là mình "chinh phục được người đẹp". "Gô cơm đây... trưa em nhịn đói cũng được"... Em cứ nghĩ là chúng đùa và sẽ trả lại, nào ngờ bọn lính chai mặt đã tranh giành nhau gô cơm và mang ăn thật... từ trong gô cơm bày ra một mảnh giấy... Mảnh sơ đồ vẽ toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở trong thị xã. Em đã bị bắt... Chỉ một giờ sau địch kéo đến vườn chè để sục sạo xăm tìm. Ngồi dưới hầm tôi nghe rõ tiếng đấm đá huỳnh huỵch, tiếng gầm gừ lồng lộn điên cuồng của bầy lang sói. "Mày mang sơ đồ cho ai? Hầm bí mật ở đâu?"... Không một tiếng rên la, không một lời đáp lại, chúng lột hết quần áo của em... Tôi cắn chặt môi bật cả máu cố kìm nỗi căm hờn, có lẽ giờ đây em không còn có cảm giác đau đớn gì nữa mà đã chuyển nỗi giày vò quằn quại sang tôi. Ước gì tôi được phép đội nắp hầm lên tung lựu đạn và xả súng vào bầy thú hung ác thì hả lòng biết mây... Sau mấy giờ tra tấn xăm tìm không có kết quả gì, chúng rút đi và đưa em vào lao xá. Những ngày sau đó đên với em là những ngày cực hình tàn khốc, Mỹ - ngụy không chừa một thủ đoạn nào đối với một người con gái chân yếu tay mềm, em như cánh hoa bị vùi dập trong cơn giông bão, tàn tạ xác xơ, kẻ địch thấy ở em không còn sự sống nên gọi gia đình đến nhận và mang vào Huế để cứu chữa. Vững tin ở em tôi vẫn tiếp tục bám trụ an toàn cho tới ngày chiến dịch mở màn và kết thúc thắng lợi.


Khi quê hương được hoàn toàn giải phóng, tôi trở lại tìm em thì chỉ nhận được vẻn vẹn có mấy dòng. "Minh ơi! Tha lỗi cho Trang... Hãy quên Trang mà đi tìm người khác... Trang không thể mang lại hạnh phúc cho Minh được...". Ôi! Những nét chữ quen thuộc thân thương, những nét chữ mềm mại này đã từng đến với tôi trên những tò giấy cũ nhàu nát, mang đến cho tôi bao tin tức tình hình quý giá, bao nỗi vui sướng tự hào lẫn với những nhớ mong khắc khoải mà nay những nét chữ ngoằn ngoèo nhoè nước mắt kia đã làm cho tôi khổ đau đến tột cùng. Cái Nhung, em gái út của Trang kể với tôi trong nước mắt: "Chị Trang buồn khổ lắm anh ạ? Chị thường trở về vườn cũ ngồi khóc một mình bên cạnh căn hầm bí mật của anh ngày trước"... Trang ơi! Em đã từng dám hy sinh cả thân mình để bảo vệ cách mạng, bảo vệ tính mạng của anh bởi một niềm tin và tình yêu son sắt mà nay anh nỡ quay lưng đi tìm hạnh phúc mới được sao? Tôi quyết định tìm gặp em bằng được và thật không ngờ em đã trả lời như quát vào tôi: "Xin anh hãy quên em đi? Em không thể mang lại... hạnh phúc cho chúng ta được? Tại sao anh không chịu hiểu điều đó?". Rồi em gục đầu khóc nức nỏ. Bỗng em lau vội nước mắt, ngẩng mặt nhìn thẳng vào tôi: "Nếu anh còn đến đây tìm gặp Trang một lần nữa thì Trang sẽ bỏ quê hương vào Tây Nguyên sinh sống một mình... Anh có muốn không?". Lời cảnh cáo của em chắc chắn sẽ có hiệu lực nếu tôi còn liều lĩnh tìm đến, hơn ai hết tôi hiểu tính nết của Trang.


Tôi vẫn thường lặng lẽ lui tới mảnh vườn xưa, những hàng chè thẳng tắp xanh tốt nõn nà bởi bàn tay người chăm bón. Bến cũ đìu hiu có con đò nhỏ lẻ loi âm thầm nấp dưới rặng tre già, dòng sông xanh thẳm như ánh mắt buồn. Và dưới đáy sông kia mãi in bóng một miền quê yên ả, những mùa bông trang đỏ rực, những mùa sim chín mọng, những chiều trung du hoàng hôn nhuộm tím mênh mang như lòng người còn nặng ân tình.


N.M.Đ
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #3 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2021, 08:41:55 pm »

Ở HƯỚNG THỨ NĂM CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH


VĂN PHÁC


Bước vào đầu xuân 1975, chiến trường B2 (Nam Bộ) bỗng sôi động hẳn lên. Đây là lần đầu tiên quân và dân miền Nam giải phóng hoàn toàn một thị xã là thị xã Phước Long và giải phóng hoàn toàn một tỉnh cũng là tỉnh Phước Long, uy hiếp ngay phía bắc Sài Gòn.


Sau chiến thắng Phước Long, các đơn vị nô nức chuẩn bị cho những trận đánh lớn hơn và thắng lớn hơn. Giữa lúc đó Bộ Tư lệnh Miền nhận được điện mật của Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho B2 vừa mỏ các chiến dịch của chủ lực vừa đánh phá bình định, mở rộng vùng giải phóng, mở thông hành lang vận chuyển trên đất ta về hướng đồng bằng Sông Cửu Long. Bộ Tổng Tư lệnh còn giao một nhiệm vụ quan trọng khác là B2 vừa tác chiến, vừa khẩn trương xây dựng lực lượng ba thứ quân, sẵn sàng đón thời cơ chiến lược khi chiến trường Tây Nguyên thắng lớn.


Được lời như cởi tấm lòng, Bộ Tư lệnh Miền vội huy động các cơ quan và đơn vị triển khai công việc. Phải coi trọng xây dựng cả ba thứ quân, nhưng khối chủ lực được ưu tiên. Quân đoàn 4 được bổ sung đầy đủ quân số và trang bị. Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền cân nhắc hạ quyết tâm lập thêm một quân đoàn nữa ở Nam Bộ để đón thời cơ lớn. Quân đoàn 232 ra đời ngay sau đó và gọi tắt là Đoàn 232 để giữ bí mật. Với lực lượng hai quân đoàn hùng hậu trong tay, tháng 2 năm 1975, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở hai chiến dịch ở hai hướng quan trọng khác nhau. Quân đoàn 4 mở chiến dịch ở khu vực Dầu Tiếng. Dầu Tiếng là một thị trấn sầm uất nằm trên đường quốc lộ 1A, tạo thế uy hiếp Sài Gòn không cho địch rảnh rang dồn lực lượng ra chi viện cho Tây Nguyên. Còn Quân đoàn 232 mới được thành lập do đồng chí Năm Ngà (Nguyễn Minh Châu) Tham mưu trưởng của Miền làm Tư lệnh, đồng chí Tám Trần (Trần Văn Phác) Chủ nhiệm Cục Chính trị Miền làm Chính ủy, mở chiến dịch ở hướng tây tỉnh Tây Ninh theo dọc biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, với nhiệm vụ tiêu diệt và đập tan tuyến phòng thủ biên giới của địch; mở thông đường hành lang chiến lược của ta từ Tây Ninh đến Đồng Tháp Mười, nối liền đường hành lang vận chuyển từ miền Đông Nam Bộ đến đồng bằng Sông Cửu Long.


Trong quá trình chuẩn bị, Quân đoàn 232 chúng tôi tìm mọi cách nghi binh, làm cho bộ tổng tham mưu ngụy bị lừa thật. Các tướng ngụy phán đoán là "Việt cộng" bầy trò đánh biên giới để kéo chủ lực ngụy ra đó rồi bất ngờ quay lại đánh chiếm thị xã Tây Ninh để làm trụ sở ra mắt Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Vì vậy họ vội vàng điều toàn bộ sư đoàn 25 ngụy cùng xe, pháo về cụm tại trảng lớn ở ngoại châu thành Tây Ninh, quyết không để mất thị xã Tây Ninh vào tay "Việt cộng"! Thế là rất có lợi cho Quân đoàn 232 bước vào chiến dịch. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân đoàn hạ quyết tâm phải đánh thắng trận đầu trong chiến dịch lớn đầu tiên này để xây dựng truyền thông cho đơn vị.


Qua nghiên cứu và điều tra kỹ thực địa, chúng tôi chọn đồn "Bến Cầu", đồn rắn nhất trong hệ thống phòng thủ biên giới của địch. Nếu dứt điểm được Bến Cầu sẽ làm các đồn bốt khác hoảng hồn, càng tạo thuận lợi cho các trận sau. Quả nhiên đồn Bến Cầu không trụ nổi, tên chỉ huy bị chết khi quân ta xung phong vào đồn. Những trận tiếp theo là các đồn Mộc Bài, An Thành, Trà Cao, Quéo Ba, nằm dọc trên biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia đều lần lượt chịu chung số phận với đồn Bến Cầu. Vì vậy đến cuối tháng 3 năm 1975, Quân đoàn 232 đã tiến đến bên ngoài thị xã Mộc Hoá, tỉnh Kiến Tường (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Bộ Tư lệnh Miền lệnh khẩn cấp cho quân đoàn chuẩn bị khẩn trương tranh thủ mở cuộc tấn công giải phóng thị xã Mộc Hoá càng sớm càng tốt. Chiếm được thị xã Mộc Hoá là cơ sở để giải phóng Đồng Tháp Mười và mở ra cục diện mới ở đồng bằng Sông Cửu Long trước thời cơ mới. Các đồng chí tỉnh ủy và Mặt trận tỉnh Kiến Tường ngày đêm lăn lộn với quân đoàn, chuẩn bị kết hợp chặt chẽ hai chân, ba mũi trong chiến dịch.


Tới ngày N (4-4-1975), sắp tới giờ hành quân vào chiếm lĩnh trận địa chúng tôi nhận được bức điện tối khẩn của Bộ Tư lệnh Miền gồm 2 điểm: 1/ Lệnh cho Đoàn 232 thôi không đánh Mộc Hoá, mà điều ngay một sư đoàn xuống cắt lộ 4 (con đường đi từ Sài Gòn xuống lục tỉnh) và chuẩn bị gấp đánh chiếm thị xã Tân An (thị xã Long An bây giờ). 2/ Chỉ đạo đặc công đánh sập cầu Bến Lức (nằm trên lộ 4, thuộc Long An) kiên quyết không cho địch từ đồng bằng kéo về ứng cứu Sài Gòn. Ngoài ra bức điện còn thêm: anh Sáu Nam (Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh Miển) và anh Hai Lê (Lê Văn Tưởng, Phó Chính ủy Miền) đang trên đường đến chỗ các anh để truyền đạt nhiệm vụ mới. Cuối bức điện còn một câu: cử ngay đồng chí trong BCH 232 đến làm việc với Tỉnh ủy Long An và cán bộ phụ trách đặc công của Miền để phối hợp hành động.


Sự thay đổi nhiệm vụ quá đột ngột làm chúng tôi ngồi ngẩn ra nhìn nhau. Nhưng là lệnh rồi, phải bàn việc chấp hành ngay lập tức: Đảng ủy Quân đoàn họp trong đêm, phân công đồng chí Năm Ngà và đồng chí Phó Chính ủy Tư Râu báo tin này ớối đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Kiến Tường và chuẩn bị cho Sư đoàn 5 xuống cắt lộ 4, đồng chí Tám Trần và đồng chí Phó Tư lệnh Hai Nghiêm (Trần Văn Nghiêm) lên đường tới Tỉnh ủy Long An.


Tôi và anh Hai Nghiêm bàn nhau tổ chức đi gấp bằng xuồng, ở Đồng Tháp Mười "xuồng đuôi tôm" là phương tiện đi lại tiện nhất. Thế mà chúng tôi cũng mất cả ngày trời vì có những quãng bị cạn phải xắn quần lội bộ dọc theo bờ kênh. Đói bụng ăn mấy miếng lương khô qua bữa. Trời mùa khô nắng gắt nên càng mệt. Mãi sẩm tối mới tới chỗ cơ quan Tỉnh ủy Long An. Ăn qua quýt xong, chủ và khách cùng chui vào họp trong một chiếc màn rộng phủ kín cả gian nhà vì Đồng Tháp Mười vẫn nổi tiếng "muỗi vi vu như sáo thổi, đỉa lềnh bềnh như bánh canh"... Chúng tôi ngồi bàn mãi, tốn rất nhiều nước trà và thuốc lá mà chưa tìm ra cách phá cầu. Mãi khuya mới thống nhất một cách đánh đầy mạo hiểm là chọn vài, ba chiến sĩ đặc công dày dạn, đội đám bèo lục bình giấu thuốc nổ trong đó, trôi theo dòng nước, bám vào chân cầu mà đánh là ăn chắc.


Gần sáng mới họp xong. Các đồng chí đặc công xin về để kịp chuẩn bị. Tôi và anh Hai Nghiêm vừa đặt mình nằm xuống ngủ thiếp đi ngay. Bỗng lại được gọi dậy, có điện của... lệnh ngừng phá cầu Bến Lức và lệnh cho Sư đoàn 5 phối hợp với đặc công và bộ đội tỉnh đánh chiếm thị xã Tân An (Long An bây giờ) và giữ cầu Bến Lức để bộ đội ta sử dụng. Tin này làm chúng tôi tỉnh hẳn người, nhưng mọi việc đã bàn gần hết đêm phải quay ngoắt 360°. Tôi vội điện ngay cho đơn vị đặc công và nhờ Tỉnh ủy Long An cho giao liên chạy bộ, cố đuổi kịp mấy đồng chí đặc công đang trên đường về đơn vị. Sau đó lại ngồi uống trà, hút thuốc vặt và chuyện phiếm để đợi sáng. Tôi nói với anh Hai Nghiêm: "Chiến sự diễn biến quá nhanh, ta phải về gấp kẻo không kịp". Anh trêu tôi: "Ngộ nhỡ khi điện tới, đặc công đã cử người đi phá cầu Bến Lức rồi thì Chính ủy Tám Trần chịu trách nhiệm đấy nhé!". Tôi buột miệng: "Được rồi, đợi giải phóng xong Sài Gòn mời anh đến dạo mát với tôi trên cầu Bến Lức cho bõ những lúc như thế này".


Khi tôi và anh Hai Nghiêm trở về tới chỉ huy sở Quân đoàn 232 thì đồng chí Lê Đức Anh và Lê Văn Tưởng đã ở đó rồi. Các đồng chí phổ biến quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương mở Chiến dịch Hồ Chí Minh và Quân đoàn 232 được giao nhiệm vụ phụ trách hướng tây nam chiến dịch. Các đồng chí Lê Đức Anh và Lê Văn Tưởng ở lại để chỉ đạo chung các lực lượng của ta ở hướng tây nam (232) và hướng nam (Quân khu Cool. Quân đoàn 232 được tăng thêm Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) là đủ 3 sư đoàn bộ binh, thêm 4 trung đoàn độc lập, 1 tiểu đoàn xe tăng và thiết giáp, 1 tiểu đoàn pháo hạng nặng 130 ly. Tin này làm cả Đảng ủy 232 vừa mừng, vừa lo. Sắp vào trận mà được thêm lực lượng thì còn gì vui bằng. Nhưng lo nhất là làm cách gì để đưa toàn bộ lực lượng của quân đoàn, nhất là cả một khối sắt thép khổng lồ xe, pháo vượt qua sông Vàm Cỏ và những vùng sình lầy của Đồng Tháp Mười. Nhưng với sức lực, trí tuệ và quyết tâm của bộ đội thì khó khăn nào cũng vượt qua. Sau đêm 27 tháng 4, toàn bộ đội hình Quân đoàn 232 đã vượt sông an toàn, vào vị trí tập kết yên ổn; để kịp ngày N nổ súng tiến công toàn chiến dịch vào dinh lũy cuối cùng của địch ở Sài Gòn.


Đúng 0 giờ 28 tháng 4, Quân đoàn 232 đánh chiếm thị xã Hậu Nghĩa, diệt chi khu Đức Hoà, mở đường cho đại quân tiến sát vào Sài Gòn. Đêm 29 tháng 4 Sư đoàn 9, Quân đoàn 232 kiểm soát được vành đai phòng ngự đê Đại Hàn. Chớp thời cơ ngay rạng sáng ngày 30 tháng 4, Sư đoàn 9 được lệnh vượt qua ngã tư Bảy Hiền đánh thẳng vào mục tiêu đã định, chia nửa với đơn vị đi đầu của Quân đoàn 3 tiến về hướng bộ tổng tham mưu ngụy. Lúc đó, trong nội đô quân ngụy vẫn còn những ổ ngoan cố chống cự, nhưng không còn lực lượng phản động nào cản nổi năm cánh quân dũng mãnh từ năm hướng của Chiến dịch Hồ Chí Minh tràn ngập vào hang ổ cuối cùng của địch.


Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 232 chiếm lĩnh xong Biệt khu Thủ đô của quân ngụy, vội cho bộ phận sang bắt liên lạc với đơn vị bạn đã thấy lá cờ đỏ sao vàng cắm tít trên nóc cao "Dinh Độc Lập" của ngụy. Lá cờ tươi thắm của Tổ quốc tung bay phấp phới như vẫy chào đồng bào từ các ngả ùn ùn kéo đến đông nghẹt bên ngoài. Mừng đón quân ta đã về giữa Sài Gòn giải phóng.

V.P
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #4 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2021, 08:42:59 pm »

CHUYẾN MỞ ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN NĂM 1961


PHẠM BÁ NHIỄU*
Ban Tư tưởng - Văn hóa Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh,
127 - Trương Định, quận 3, điện thoại: 090.374,4747


Về vùng biển xa xã Hiệp Thạnh huyện Duyên Hải, Trà Vinh chúng tôi gặp Thiếu tá - Anh hùng lực lượng vũ trang Hồ Đức Thắng, quê tại huyện Vũng Liêm tỉnh Vĩnh Long, người hơn 40 năm trước, đã chỉ huy con tàu không số đầu tiên ở vùng biển miền Tây Nam Bộ vượt biển khơi ra miền Bắc nhận vũ khí vào chiến trường miền Nam. Những ngày đó, bác Hai Thắng nhớ rõ như in. Tháng 8, biển Trà Vinh trong xanh, gió nhẹ, sóng biển hiển dịu như người Trà Vinh. Con tàu không số nhổ neo ra khơi vào một ngày lịch sử và anh em đi biển biết có bao giờ quên được; đó là ngày 25 tháng 8 năm 1961.


Ngày đó trời Nam Bộ và Trà Vinh nắng nhẹ, bầu trời trong xanh lồng lộng như vùng biển quê hương yêu quý của ông đầy màu xanh cây trái. Bãi biển Duyên Hải - Trà Vinh sóng gợn nhẹ, gió tràn qua mé biển như lưu luyến tiễn đưa các anh vội ra đi một chuyến đi chưa từng có kể từ khi đế quốc Mỹ vào xâm lược miền Nam. Một chuyến đi mà các anh chưa biết chặng dừng chân cuối ở bãi nào, một chuyến đi đầy thử thách, gian nguy trên biển khi hạm đội 7 của hải quân Mỹ luôn tuần tra và phong tỏa mọi nẻo đường biển từ Nam chí Bắc. Mọi việc của chuyến đi các anh đều bí mật tuyệt đối, không được nói gì với gia đình, kể cả vợ con, người thân để bảo đảm an toàn cho chuyến đi đầu tiên trên tuyến đường mòn trên biển lịch sử này.


Vào những năm 1960-1961, phong trào Đồng Khởi từ Bến Tre nổ ra rầm rộ khắp các tỉnh Nam Bộ. Chiến trường Vinh - Trà nói riêng cũng như chiến trường Nam Bộ tình trạng thiếu vũ khí chiến đấu của bộ đội ta là mối bận tâm lớn cho cán bộ, chiến sĩ. Đầu năm 1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ cử các đơn vị tàu thuyền ra miền Bắc lấy vũ khí phục vụ chiến trường và nhằm trao đổi kinh nghiệm về các tuyến đường vượt biển của bộ đội ta. Từ tình hình đó, tháng 5 năm 1961, Tỉnh ủy tỉnh Trà Vinh, sau khi biết được thông tin từ tỉnh Bến Tre đã cử những người vượt biển ra Bắc, họp bàn và quyết định thành lập đoàn vận tải bằng đường biển đi miền Bắc xin viện trợ của Trung ương về các loại vũ khí về phục vụ cho chiến trường miền Nam đang rất căng thẳng, nhưng ta rất thiếu vũ khí.


Đoàn đi mở đường trên biển đầu tiên ấy có ba chiến sĩ là đảng viên: Hai Pháp, Huyện ủy viên huyện Trà Cú; Tam Khương, đảng viên chi bộ xã Trường Long Hòa tỉnh Trà Vinh và Nguyễn Văn Inh (tức Hồ Đức Thắng) làm thuyền trưởng cùng ba anh đang là quần chúng tích cực: anh Tôi, Hai Lẹ, Ba Mao. Phương tiện vượt biển ra Bắc chỉ có 1 chiếc tàu gỗ trọng tải 15 tấn được mua với giá 84.000 đồng (tiền Sài Gòn lúc đó), 1 chiếc la bàn cũ kỹ còn hơn cả tuổi các anh, một số nước ngọt, lương thực cho sáu anh em đi đường.


Trên đường đi, ngoài ba chiến sĩ là đảng viên trên tàu đã được chi bộ cho biết trước nhiệm vụ nguy hiểm của chuyến tàu không số này, còn anh em thủy thủ quần chúng cũng đều tỏ ra rất quyết tâm, phấn đấu vượt qua mọi gian khó, hiểm nguy khi được biết chuyến đi rất quan trọng này chưa hề có, chưa ai đi, mà họ đang được phân công thực hiện. Để giữ bí mật an toàn cho chuyến đi, sáu người trên tàu đều được tổ chức đảng đơn vị cho thay đổi họ tên, gọi sang những tên mới theo ý chí mà Bác Hồ chỉ ra: Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi. Mỗi người tự bắt thăm để lấy tên của mình. Anh Nguyễn Văn Inh bắt thăm lấy được họ và tên bí mật của mình trên chuyến tàu không số đó và từ đó đến nay ông được mang tên anh Hai - Hồ Đức Thắng.


Sau 9 ngày cuối tháng 8 sang đầu tháng 9 năm 1961 lênh đênh trên Biển Đông, đến ngày thứ 10 tàu gặp một trận bão lớn. Buồm tàu bị sóng to gió lớn của Biển Đông đánh tả tơi, tàu bị hư hỏng nặng không còn định hướng đi được trên biển mênh mông. Ba ngày sau đó tàu tự trôi dạt trên biển và bị trôi vào một thành phố hoàn toàn xa lạ.


Anh em thủy thủ trên tàu cứ lầm tưởng là thành phố Hải Phòng của miền Bắc nước ta, nhưng khi bị kiểm tra của cảnh sát hải cảng mà tàu bị trôi dạt vào, họ mới biết đó là cảng Ma Cao, đất Tô Nhượng của nước Bồ Đào Nha tại bờ biển của nước bạn Trung Quốc.


Cả sáu anh em trên tàu do ngôn ngữ bất đồng còn chưa biết tiếng Hoa, Hồ Đức Thắng làm dấu hiệu cho cảnh sát của cảng Ma Cao biết là tàu từ Sài Gòn đi buôn bán gặp nạn. Được cảnh sát và nhà chức trách địa phương giúp đỡ, tiếp tế nước ngọt, lương thực; nhân dân nước bạn giúp vá lại buồm tàu... rồi Hồ Đức Thắng cùng anh em đoàn tàu không số lại tiếp tục cuộc hành trình trên vùng biển xa lạ, trong vai là người Sài Gòn đi buôn bán, làm ăn. Sau đó tàu cập vào một cửa sông thuộc địa phận Quảng Đông - Trung Quốc. Anh em thủy thủ lên bờ được công an nước bạn Trung Quốc giúp đỡ tận tình, đưa sáu anh em của con tàu không số trở về lãnh sự quán Việt Nam tại tỉnh Quảng Châu (Trung Quốc).


Từ thành phố Quảng Châu - Trung Quốc, lãnh sự quán ta nhiệt tình hết mức và bí mật để cùng đưa sáu chiến sĩ của Trà Vinh - Nam Bộ về Việt Nam, rồi đi thẳng về Thủ đô Hà Nội. Đến Hà Nội đoàn thủy thủ Trà Vinh - Nam Bộ cũng phải tuyệt đối giữ hoàn toàn bí mật. Vì trong tình hình Mỹ - ngụy đang phong tỏa hầu như toàn bộ vùng biển của ta từ Nam chí Bắc, hạm đội 7 của hải quân Mỹ luôn kiểm soát, rình rập sẵn sàng nhả súng, tên lửa trên các vùng biển Việt Nam. Việc chiếc tàu của các anh tránh được cả mạng lưới kiểm soát dày đặc của hải quân Mỹ, ra miền Bắc an toàn là thắng lợi lớn của bộ đội ta. Việc tổ chức chuyên chở vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển là một chủ trương rất táo bạo, sáng suốt song không tránh khỏi hiểm nguy đối với tính mạng cho cả người và hàng hóa trên từng chuyến đi đường biến, nếu kế hoạch bị lộ.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #5 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2021, 08:43:47 pm »

Ba ngày sau khi tàu đến Hà Nội, các đồng chí lãnh đạo trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các Phó Thủ tướng Phạm Hùng, Phan Trọng Tuệ đã đến thăm. Đặc biệt, vinh dự to lớn của chiếc tàu không số đầu tiên của bộ đội Trà Vinh là được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đến thăm trực tiếp và rất ân cần, nghe đoàn báo cáo tình hình chiến trường miền Nam và Trà Vinh, Vĩnh Long... Bác căn dặn đoàn về những nhiệm vụ quan trọng sắp tới. Nhớ lại những phút giây lịch sử này, anh em trong tàu đều rất bồi hồi, xúc động khi Bác Hồ dù bận trăm công ngàn việc trọng đại của đất nước đang chiến tranh, song Người đã đến tận nơi thăm hỏi, chỉ bảo từng chiến sĩ miền Nam.


Ông Hồ Đức Thắng thay mặt sáu anh em trong đoàn báo cáo với Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Trung ương về tình hình chuyên vượt biển từ miền Nam và sự quan tâm, nhiệt thành của những người bạn Trung Hoa, những khó khăn của đoàn trong chuyến đi đầu tiên ra miền Bắc để tiếp nhận vũ khí. Ông cũng báo cáo với Bác Hồ và các vị lãnh đạo Trung ương về tình hình chiến trường Vinh - Trà và quyết tâm của Đảng bộ, quân và dân Vĩnh - Trà nói riêng, miền Nam nói chung trong cuộc đấu tranh một mất một còn chống giặc xâm lược Mỹ. Nghe anh em trong đoàn nói lên những quyết tâm to lớn của nhân dân miền Nam, Bác Hồ chỉ thị cho anh em trong đoàn phải an tâm nghỉ dưỡng sức, tranh thủ học thêm về văn hóa trong những ngày còn ở lại trên miền Bắc để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới.


Đó là những lời căn dặn đầy tình thương yêu của Bác với đoàn thủy thủ Quân giải phóng miền Nam trong một nhiệm vụ đầy nguy hiểm, bí mật tuyệt đối, nhưng vô cùng vinh quang khi đưa được vũ khí từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa về cho anh em cán bộ, chiến sĩ miền Nam đang chiến đấu quyết liệt từng giờ, phút, từng ngày sống chết với quân thù, bảo vệ quê hương, đất nước ở miền Nam. Đầu năm 1962, đoàn vinh dự được lãnh đạo Bộ Tư lệnh Hải quân cấp cho một chiếc tàu sắt trọng tải 55 tấn có trang bị đầy đủ các phương tiện đi biển xa và có vũ khí để chiến đấu bảo vệ nếu tàu gặp địch. Rời vùng biển miền Bắc, chiếc tàu chở chuyến vũ khí đầu tiên đã phải khôn khéo ngụy trang, lọt qua tầm kiểm soát dày đặc của hải quân Mỹ - ngụy cập bến an toàn tại căn cứ tỉnh Cà Mau, nơi cuối cùng của Tổ quốc. Từ chuyến đi thứ hai của năm 1962, đoàn được trang bị tàu có trọng tải 100 tấn để tăng khối lượng vận chuyển đưa vũ khí đang rất hiếm hoi vào chiến trường miền Nam.


Đến năm 1966, đoàn tàu vận tải biển do ông Hồ Đức Thắng làm Chính trị viên đã vận chuyển được 16 chuyến tàu trọng tải 100 tấn mỗi chuyến để chở vũ khí và hậu cần hiếm hoi cho bộ đội vào chiến trường miền Nam. Trong điều kiện địch hoàn toàn phong tỏa đường biển, thành tích của đơn vị tàu 55 (lấy số hiệu từ chiếc tàu 55 tấn được Bộ Tư lệnh Hải quân cấp đầu tiên). Đoàn 1251 (Đoàn 125 trước năm 1964 là Đoàn 759 được Bộ Quốc phòng thành lập tháng 7 năm 1959 để vận tải trên biển nhằm tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam) Bộ Tư lệnh Hải quân đã tổ chức 16 chuyến vận chuyển an toàn, bí mật vũ khí vào Nam. Đây là một chiến công lớn của bộ đội Hải quân ta: "Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển" mà hải quân đế quốc Mỹ với đầy đủ phương thám trinh sát trên Biển Đông, vẫn mù tịt về những "con tàu không số". Với những thành tích quả cảm đó, tại Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1967, đơn vị tàu 55 và Đoàn 125 (Bộ Tư lệnh Hải quân) được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang. Hồ Đức Thắng, người gắn liền với sông nước và vùng Biển Đông ngay từ những ngày đầu thành lập đơn vị và là Chính trị viên của đơn vị, vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định số 125/SV ngày 1 tháng 7 năm 1967 tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Ngày đơn vị và Hồ Đức Thắng được tuyên dương Anh hùng, Bác Hồ đã ra tận nơi, xuống tàu thăm hỏi chúc mừng, những lời chúc mà đến bây giờ sau 35 năm vẫn còn trong tâm trí của những người lính vượt biển trùng khơi để đưa vũ khí miền Bắc về với chiến trường nóng bỏng miền Nam.


Năm 1975 giải phóng miền Nam, Thiếu tá Hồ Đức Thắng được điều động về làm Phó Chính ủy xưởng Hải quân Nhà Bè, thuộc Lữ đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Hải quân. Năm 1980, ông được quân đội cho nghỉ hưu sau 40 năm tham gia chiến đấu, vận chuyển vũ khí, hậu cần cho tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Rời quân ngũ, Anh hùng Hồ Đức Thắng lại về với cuộc sống đời thường, xây dựng cuộc sống gia đình ổn định từ hai bàn tay không của người lính và những quyết tâm sau hàng chục năm lênh đênh trên biển khơi với những con tàu không số và vũ khí vượt biển về Nam. Bốn người con trai của ông cũng tiếp bước cha mình tham gia quân đội và là cán bộ chủ chốt ở ủy ban nhân dân xã đã trưởng thành, giữ gìn truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" của người cha mở đường con tàu không số trên biển.    Đã 43 năm rồi, khi Bác Hồ tận tình xuống tàu, bắt tay và thăm hỏi từng anh em của con tàu không số, những lời dặn dò chỉ bảo ân tình của Bác đến nay sáu anh em bộ đội Trà Vinh mở tuyến đường mòn trên biển mang tên Người, đưa tình đưa nghĩa của Đảng, của Bác đến với nhân dân miền Nam, nơi Bác hàng ngày trước mỗi bữa ăn cơm có bao giờ quên nhắc đến miền Nam trong trái tim Người.


Trà Vinh tháng 8 năm 2004
P.B.N
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #6 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2021, 08:44:51 pm »

MỘT NGƯỜI LÍNH ĐI LÀM CÔNG TÁC NGOẠI GIAO


NGUYỄN NGỌC TRAI


Mùa xuân đại thắng năm 1975 tôi là một người lính hiếm hoi có mặt tại thủ đô nước Pháp, với cương vị là một thành viên của đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, chuyên viên quân sự tại hội nghị hậu Hội nghị Pa-ri.


Đang tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, tôi được lệnh về Hà Nội nhận nhiệm vụ mới. Trong thời gian này máy bay Mỹ vẫn còn ném bom bắn phá ác liệt vùng khu Bốn; nên việc trở về miền Bắc của tôi cũng rất vất vả và đầy nguy hiểm. Sau một thời gian nghỉ ngơi và được phép về thăm gia đình, đồng chí Hằng ở Cục Cán bộ gặp tôi và truyền đạt nhiệm vụ cấp trên giao là biệt phái tôi sang Bộ Ngoại giao để đi làm công tác đàm phán ở Pa-ri. Tôi thật bất ngờ không hiểu nhiệm vụ sắp đến của mình sẽ ra sao, công việc trên giao có hoàn thành được hay không? Tuy nhiên với bản chất anh "Bộ đội Cụ Hồ" "Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, kẻ thù nào cũng đánh thắng", tôi tự nhủ thầm mình sẽ cố gắng hết sức để xứng đáng với sự tin tưởng của cấp trên. Từ trạm khách 66 của Bộ Quốc phòng, đồng chí Hằng cho xe đưa tôi và đồng chí Phong Vân, trung tá Hải quân sang bàn giao cho CP72 tại Chùa Bộc quận Đống Đa. Từ đây chúng tôi không mặc quân phục nữa. CP72 cấp phát cho chúng tôi đầy đủ trang phục như một nhà ngoại giao đi công tác nước ngoài, hôm sau chúng tôi đi chụp ảnh để làm hộ chiếu xuất ngoại.


Ngày 16 tháng 3 năm 1973, chúng tôi đến Pa-ri. Ngày 19 tháng 3 năm 1973 Hội nghị Hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam bắt đầu phiên họp thứ nhất tại lâu đài La Celle Saint Clond (ngoại ô Pa-ri) đoàn đại biểu Chính phủ ta do đồng chí Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu. Đoàn đại biểu chính quyền Sài Gòn do ông Nguyễn Lưu Viên làm trưởng đoàn.


Nhiệm vụ của tôi là đặc trách các nội dung quân sự của đoàn như: Ngừng bắn, lấn chiếm vùng giải phóng của đối phương, trao trả tù binh, sự tiếp tục dính líu quân sự của Mỹ vào miền Nam...

Hàng ngày tôi phải đọc nhiều tờ báo chủ yếu là các tờ Leraonde, L'Humanité Le Figaro, đọc các bản tin Telex từ trong nước gửi sang; nghe các đài phát thanh đặc biệt là Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam nắm được các sự kiện xảy ra hàng ngày trên chiến trường miền Nam Việt Nam để phục vụ cho các nội dung mình đảm nhiệm. Đến bây giờ tôi vẫn thầm cảm ơn đồng chí Đào Lộc Bình, người điểm tin chiến sự hàng ngày trên Đài Tiếng nói Việt Nam, qua đó tôi tóm những tư liệu kịp thời cho việc tố cáo sự vi phạm hiệp định của chính quyền Sài Gòn.


Mỗi tuần họp một lần vào thứ 6, khoảng 14 giờ thì xong. Sau đó tôi cùng đi với anh Lý Văn Sáu đến Trung tâm Hội nghị quốc tế để tiến hành họp báo. Trong cặp tôi luôn mang sẵn một bản đồ miền Nam đánh dấu những vùng quân đội Sài Gòn mới lấn chiếm sau hiệp định và treo lên tường trước buổi họp báo để khi cần thì giới thiệu cho các nhà báo biết.


Hội nghị Hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam không có mấy tiến triển. Sau hơn 40 phiên họp thì Hội nghị hoàn toàn bế tắc vào mùa thu năm 1974.

Cuối năm đó tôi được phép về nước thăm gia đình, trước khi rời Pa-ri tôi gọi điện thoại cho một số bạn bè biết. Tôi gọi cho Anh Vidan - Phóng viên báo L'Humanité, để chào tạm biệt. Đầu dây bên kia tôi nghe anh Vidan nói: hội nghị thì bế tắc, nhà quân sự lại bỏ về nước như vậy chỉ còn đánh nhau thôi. Tôi hơi giật mình tại sao anh Vidan lại biết tôi là nhà quân sự, mặc dầu trong thời gian ở Pháp, tôi chưa hề để lộ thân phận của mình cho bất cứ một ai. Tôi liền nghĩ lại thấy có lẽ do tác phong của mình mỗi khi bắt tay chào hỏi ai, tôi thường rập gót giày theo kiểu nhà binh mà tôi đã nhiễm thành thói quen trong những năm tháng học tại Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn khoá 6. Thôi đành vậy, chẳng quan trọng gì thì mình sẽ rút kinh nghiệm.


Trong lúc tôi ở trong nước, thì ngày 10 tháng 3 năm 1975, trận đánh mở đầu của ta thắng lợi giờn giã ở Buôn Ma Thuột. Sau khi quân đội Sài Gòn liên tiếp thất bại rút chạy khỏi Tây Nguyên, tôi và một số anh em khác trong đó có đồng chí Hà Đăng được lệnh trở lại Pa-ri. Chuyến đi của chúng tôi không ồn ã nhưng cũng làm cho một số chính khách ở Hà Nội, Bắc Kinh, Mát-xcơ-va, Pa-ri đồn đoán nhiều vấn đề. Theo suy nghĩ của tôi phải chăng đây là một quả hoả mù, một đòn nghi binh ngoại giao làm cho đối phương không biết thực hư thế nào. Trong lúc này Pa-ri, Mỹ và phái đoàn Sài Gòn nhờ Pháp làm trung gian yêu cầu chúng ta trở lại bàn đàm phán. Thật là một sự việc nực cười, khi chúng ta trừng trị quân đội Sài Gòn ở căn cứ Tống Lê Chân, phái đoàn Sài Gòn viện lý do đó để cắt đứt hội nghị. Nay họ đang thua thiệt trên chiến trường lại yêu cầu ta trỏ lại bàn đàm phán hòng vớt vát sự thua thiệt của họ về mặt quân sự. Đối với chúng tôi không có một ai nghĩ đến việc trở lại bàn hội nghị. Tuy nhiên công việc của chúng tôi cũng khá bận rộn. Theo dõi tình hình chiến sự trong nước, tiếp trả lời các nhà báo, ra thông cáo báo chí những thời điểm cần thiết...


Theo gợi ý của anh Hà Đăng tôi treo một bản đồ miền Nam khá to ở phòng khách và đánh dấu bước tiến quân của bộ đội ta trên chiến trường bằng cách cắm lá cờ của Mặt trận Dân tộc vào những vị trí đó. Nhìn toàn cảnh chúng tôi thấy vô cùng phấn khởi vì trên bản đồ dày đặc những là cờ nhỏ của Mặt trận Giải phóng chỉ trừ khu vực Sài Gòn.


Riêng bản thân tôi có hai tâm trạng khác nhau vừa vui mừng phấn khởi trước những thắng lợi dồn dập của quân và dân ta vừa tiêng tiếc là mình không được ở trong nước với tư cách là một người lính để được cùng đồng chí đồng đội tham gia những trận đánh có ý nghĩa lịch sử quyết định vận mệnh của đất nước. Tuy vậy nhiệm vụ ở đây cũng rất quan trọng vì đây là mặt trận ngoại giao phối hợp (quân sự, chính trị, ngoại giao) để cùng chung làm nên chiến thắng của đất nước.


Đội ngũ phóng viên thông tấn, báo chí ở Pa-ri rất đông đảo và nhiều vô kể. Họ thuộc các khuynh hướng chính trị, xã hội khác nhau do đó những câu hỏi họ đặt ra cho chúng tôi có khi là thiện chí nhưng cũng có khi là ngược lại. Họ gọi điện liên tục, có người còn trực tiếp đến gặp chúng tôi để hỏi cho rõ hơn; những yêu cầu của họ rất đa dạng. Họ tìm cách thăm dò mục tiêu hoạt động quân sự của chúng ta đến mức độ nào; họ gợi ý xem khả năng Hội nghị Hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam có tiếp tục hay không? Họ còn yêu cầu chúng tôi giới thiệu về địa lý dân số, tập quán, tài nguyên thiên nhiên... của những vùng mới được giải phóng, họ hăng hái săn lùng; khai thác mọi tin tức theo ý đồ riêng của họ. Chúng tôi nhớ một lần vào lúc nửa đêm một nhà báo gọi điện đến hỏi thành phố Sài Gòn được đổi tên Thành phố Hồ Chí Minh từ lúc nào và theo quyết định của ai? Vấn đề này chúng tôi đã chuẩn bị từ trước vì vậy không khó khăn gì trong việc đáp ứng yêu cầu của nhà báo nọ.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #7 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2021, 08:45:36 pm »

Vào khoảng 6 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 (Giờ Pa-ri chênh với Hà Nội 6 tiếng), anh Trung, một Việt kiều ở khu Massy bỏ cả lệ thường gõ cửa, chạy xộc vào phòng chúng tôi reo lên: "Các chị ơi! Dương Văn Minh đã đầu hàng, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng rồi... " và cứ thế anh ôm hôn chúc mừng mọi người chúng tôi không trừ một ai. Việc này chúng tôi đã biết từ trước rồi nhưng khi nghe anh đến báo tin chúng tôi vẫn cứ rạo rực bàng hoàng như mới biết được vậy. Không khí trong đoàn đại biểu Cách mạng Chính phủ lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam hôm đó như một ngày hội. Máy điện thoại reo vang, chuông cửa đổ dồn, người ra vào tấp nập, hoa nhiều vô kể, không còn chỗ để nữa; bà con Việt kiều, các bạn Pháp, Ý, Phi, những người Mỹ trong phong trào chống chiến tranh... đang có mặt tại Pa-ri lần lượt đến chia vui với chúng tôi, có người ở lại chỉ vài phút, có người ở lại với chúng tôi hàng giờ. Người chia tay cuối cùng của ngày hôm đó vào khoảng 23 giờ là chị Ivon - một giáo sư sinh vật người Pháp đang công tác tại Trường Đại học Sorbon.


Sau ngày 1 tháng 5 năm 1975, theo luật pháp quốc tế các tài sản cố định nằm trên đất Pháp của chính quyền Sài Gòn cũ đều thuộc về Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sứ quán Sài Gòn cũ ở Pa-ri cũng nằm trong diện đó chúng ta phải tiếp quản. Chúng tôi thông báo cho Chính phủ Pháp về điều này. Bộ phận tiếp quản sứ quán Sài Gòn gồm tám người trong đó có một số anh em Việt kiều mà tôi là người trung tâm của việc tiếp quản; bởi lẽ tôi là một người lính công binh vì trong lúc này dư luận cho rằng trước khi rút khỏi sứ quán đối phương có thể gài mìn hoặc đặt chất nổ để cản trở việc tiếp quản của chúng ta. Theo đúng hợp đồng, Bộ Ngoại giao Pháp cử một nữ nhân viên trạc tuổi trên dưới 30 đi cùng chúng tôi đến quận 17. Đó là ngôi nhà số 45 đường De Vilier.


Công việc của chúng tôi bắt đầu khi nhận chiếc chìa khoá từ tay cô nhân viên Bộ Ngoại giao, và vai trò của tôi - anh bộ đội công binh cũng bắt đầu từ đây.

Tháng 9 năm 1973, tôi được cử đi cùng với đồng chí Nguyễn Văn Hiếu là thành viên của đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại Đại hội Thanh niên thế giới lần thứ 10 ở Béc-lin. Trong buổi gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cộng hoà dân chủ Đức, khi được biết tôi là một người lính đi thẳng từ chiến trường nóng bỏng khói lửa đến bàn đàm phán thì bỗng nhiên tôi trở thành nhân vật được mọi người hết sức chú ý. Một vài lần khác khi tiếp xúc với các đồng chí lãnh đạo các đảng cộng sản Tây Âu. Mối cảm tình dành cho tôi - Anh Bộ đội Cụ Hồ - Cũng tương tự như vậy. Ở nước ngoài người ta đánh giá rất cao chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Họ khâm phục quân đội chúng ta về các mặt: giác ngộ chính trị cao, tinh thần chiến đấu dũng cảm, giỏi khắc phục khó khăn chịu đựng gian khổ, ý thức tổ chức kỷ luật... Đối với Việt kiều sự đánh giá có khi còn cao hơn thế nữa. Vinh dự phải đi đôi với trách nhiệm, tôi thầm nghĩ như vậy và tự xác định cho mình là phải làm thật tốt công việc hiện nay. Mở khoá xong tôi từ từ đẩy nhẹ cửa, một cảnh tượng hết sức lộn xộn đập vào mắt chúng tôi, giấy tờ sách báo, đồ đạc... ngổn ngang trên bàn dưới đất. Tôi làm đúng các động tác cần thiết kiểm tra các nơi nghi ngờ, rút nhẹ các ngăn kéo, các tủ đựng hồ sơ, tài liệu... Tôi hướng dẫn cho anh em các kiến thức thông thường khi phát hiện bom mìn, chất nổ... và các biện pháp đề phòng khi có sự cố.


Mục tiêu hàng đầu của chúng tôi là nhanh chóng lên tầng hai, hạ lá cờ ngụy xuống, treo lá cờ cách mạng lên để chính thức xác định chủ quyền của chúng ta đối với toà nhà này. Chúng tôi thực hiện công việc đó chỉ vài phút. Trước đây ở Pa-ri đã có hai nơi treo cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Đó là phòng thông tin và trụ sở của đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng đàm phán tại Hội nghị Pa-ri. Nhìn lá cờ sao vàng nửa đỏ nửa xanh tung bay trên đường phố đông đúc của thủ đô nước Pháp lòng chúng tôi biết bao bồi hồi xúc động.


Mỗi động tác của tôi trong quá trình tiếp quản đều được anh em hết sức chú ý theo dõi khi có hiện tượng nào đó nghi ngờ, tôi dừng lại xem xét thì mọi người cũng dừng tay chờ đợi. Riêng tôi thì lại nôn nóng muốn chuyển nhanh sang phòng Tùy viên quân sự sứ quán mà ở đó chắc có nhiều điều hấp dẫn đối với tôi. Những phòng có hồ sơ tài liệu quan trọng họ bố trí một máy hủy tài liệu rất tối tân. Trước khi rút chạy họ nhét tất cả tài liệu vơ vét được cho vào máy và ấn nút; máy nghiền nát giấy tờ ra thành những sợi chỉ rối tung; phòng Tùy viên quân sự cũng có một máy như vậy. Thế nhưng thần hồn nát thần tính, họ không thể làm triệt để được và chúng tôi cũng thu lượm được những hồ sơ tài liệu có ít nhiều giá trị cho công tác nghiên cứu của chúng ta.


Một tuần lao động khẩn trương và căng thẳng, công việc tiếp quản sứ quán cũ của Sài Gòn ở Pa-ri đã hoàn tất.

Kể từ khi diễn ra hội nghị bàn giải quyết vấn đề Việt Nam ở Pa-ri đến nay cũng đã trải qua nhiều năm tháng. Trong thời gian đó chúng tôi đã chứng kiến biết bao sự việc vui có, buồn có, đôi lúc cũng rất xúc động và căng thẳng. Tuy nhiên, những ấn tượng sâu đậm nhất không bao giờ quên vẫn là những gì chúng tôi được chứng kiến và tiến hành ở Pa-ri - Thủ đô nước Pháp, trong những ngày mùa Xuân đại thắng năm 1975, mùa Xuân đã mang lại sự toàn thắng trọn vẹn cho đất nước.


N.N.T
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #8 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2021, 07:55:55 pm »

CÁCH ĐÁNH "NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH"


ĐÀM VĂN NGỤY


Đã 30 năm qua đi, đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ, ngày 25 tháng 2 năm 1975, tại sở chỉ huy chiện dịch Tây Nguyên, mọi người đã có mặt đầy đủ. Vào họp, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng nói: trận này, mở màn chiến dịch "không có lý gì mà Sư đoàn 316 đánh không thắng1 (Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa Xuân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1980, tr.40). Vì vậy, phương án đánh Buôn Ma Thuột của đơn vị chủ công như thế nào, đồng chí Đàm Văn Ngụy, Sư đoàn trưởng 316 trình bày".


Tôi thay mặt Ban chỉ huy sư đoàn trình bày phương án đánh thọc sâu, đánh áp đảo, đập nát trung tâm đầu não của sư đoàn 23 ngụy và dinh tỉnh trưởng Đắc Lắc ngay từ những đòn tiến công đầu tiên. Phương án cụ thể như sau:

Mũi thứ nhất, chúng tôi đưa Trung đoàn 149, do Trung đoàn trưởng Nguyễn Trọng Đạo chỉ huy và Tiểu đoàn phòng không 12,7 vượt đường 14 giữa hai căn cứ Thọ Thành và Đức Lập, xuôi xuống 20km vượt sông Sê Rê Pốc, vòng lên phía nam thị xã. Từ đây, trung đoàn thiếu đánh vào dinh tỉnh trưởng Đắc Lắc và sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy; Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn này và Tiểu đoàn phòng không 12,7 đánh chiếm sân bay Hòa Bình.

Mũi thứ hai, đánh từ hướng tây bắc vào là Trung đoàn 148, do Trung đoàn trưởng Đỗ Văn Trì chỉ huy. Trung đoàn này tiêu diệt xong trung đoàn thiết giáp ngụy, sẽ phát triển đội hình đánh tiếp vào trung đoàn pháo binh.

Mũi thứ ba, là Trung đoàn 95 (phối hợp) đánh từ hướng đông bắc xuống, chiếm ngã 6, chặn các mối đường giao thông vào thị xã. Sau đó cùng Trung đoàn 148 đánh thẳng vào trung tâm chỉ huy địch.

Mũi thứ tư, đánh từ phía tây và tây nam là Trung đoàn 174 do Trung đoàn trưởng Đào Trọng Lịch chỉ huy. Mũi này cũng vượt sông Sê Rê Pốc nhưng ở đoạn dưới đập thủy điện Hơ Rinh. Sau đó bí mật luồn qua khoảng giữa hai cứ điểm Chư Bua và Chư Dia đánh vào khu thông tin sư đoàn 23.

Tôi đề nghị, cho Trung đoàn đặc công 198 luồn sâu, lót sẵn vào thị xã, nổ súng trước để các mũi áp sát mục tiêu. Pháo binh của mặt trận tập trung bắn vào sở chỉ huy sư đoàn địch.


Về công tác chuẩn bị, công binh bắc cầu phà, cho xe tăng, pháo binh vượt sông Sê Rê Pốc. Cách cứ điểm địch 15km thì cắt cây mở đường cưa sát gốc một nửa hoặc hai phần ba để khi xe tăng, pháo binh hành quân có thể hạ cây dễ dàng mà vẫn giữ được bí mật.


Những đơn vị bộ binh phải vượt sông, mỗi người chuẩn bị một cây lồ ô dài 4m, có đường kính độ một gang tay và một cuộn dây rừng. Đến bờ sông Sê Rê Pốc sẽ ghép lại thành mảng đưa bộ đội qua sông.

Trong hội nghị, mọi người thảo luận sôi nổi, các tướng lĩnh tranh luận rất gay gắt, cuối cùng ai nấy đều nhất trí với phương án đó. Đại tướng Văn Tiến Dũng kết luận: cách đánh của Đàm Văn Ngụy vừa trình bày gọi là cách đánh "Nở hoa trong lòng địch". Hồi còn chỉ huy ở Quân khu 3, kiêm Đại đoàn trưởng 320 tôi cũng tổ chức một mũi thật mạnh, thật tinh nhuệ đánh vào trung tâm thị xã Thái Bình, khiến cho quân địch không kịp trở tay.


Thế là phương án tác chiến của Sư đoàn 316 chúng tôi đã được Đại tướng Văn Tiến Dũng, đại diện Bộ Tổng tư lệnh chính thức phê chuẩn, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên trực tiếp chỉ đạo.

Đêm đó, các anh Lê Ngọc Hiền, Phó Tổng tham mưu trưởng; Vũ Xuân Chiêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; Phan Hàm, Cục trưởng Cục tác chiến; Doãn Tuế, Tư lệnh pháo binh; Trần Nhẫn, Tư lệnh phòng không; Hoàng Niệm, Tư lệnh thông tin; Lê Xuân Kiện, Tư lệnh tăng thiết giáp và nhiều cán bộ của Bộ Tổng Tham mưu đã về Đắc Đam tổ chức giúp đỡ cho Sư đoàn 316 chúng tôi làm công tác chuẩn bị chiến đấu.


Sau một thời gian triển khai lực lượng chiếm lĩnh trận địa, đúng 2 giờ 3 phút ngày 10 tháng 3, Trung đoàn đặc công 198 nổ súng tiến công sân bay thị xã, kho Mai Hắc Đế và hậu cứ trung đoàn 53. Địch phản ứng quyết liệt, pháo bắn cấp tập vào những nơi chúng nghi ta tập trung quân. Lợi dụng tiếng pháo nổ, xe tăng, xe thiết giáp tăng tốc độ hành quân.


Khi đó các mũi tiến công của sư đoàn chúng tôi vào cách thị xã Buôn Ma Thuột từ 5 đến 6km, địch bắn pháo sáng rực trời. Các đơn vị bám sát đội hình tăng tốc độ vận động.

2 giờ 10 phút, Bộ Tư lệnh chiến dịch cho các cỡ pháo mặt đất bắn cấp tập vào những mục tiêu đã định trong thị xã như sở chỉ huy sư đoàn 23, dinh tỉnh trưởng Đắc Lắc, trận địa pháo, trung tâm thông tin của địch. Mờ sáng, các mũi tiến công đã áp sát thị xã.    Cánh quân hướng nam đã chạm trán với tiểu đoàn 6 ngụy vừa trong thị xã ra. Bộ đội ta nhanh chóng bao vây, tiêu diệt, bắt sông tiểu đoàn trưởng. Thừa thắng, cánh quân này tiến thẳng vào thị xã, áp sát sở chỉ huy sư đoàn 23. Địch leo lên các khu nhà tầng chống trả quyết liệt.


Trong khi đó ở hướng tây và tây nam, Trung đoàn 174 đánh vào khu thông tin. Địch cũng leo lên các khu nhà cao tầng để chống trả. Các hướng khác quân ta cũng đồng loạt tiến vào khu trung tâm thị xã.

9 giờ ngày 10 tháng 3, đại tá Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng Đắc Lắc bỏ nhiệm sở chạy sang sở chỉ huy sư đoàn 23. Ta chiếm các vị trí có lợi để khống chế địch trong khu vực này.

Ở hướng tây, tây bắc, khi ta đánh vào trung đoàn thiết giáp, bị địch chống trả mạnh. Chúng cho xe tăng ra chặn đường, chặn cửa mở của các mũi tiến công. Hỏa lực địch rất mạnh, bộ đội không sao tiến lên được. Đến 10 giờ, xe tăng ta tiến vào, bộ binh hiệp đồng chặt chẽ với xe tăng đánh thẳng vào khu chỉ huy trung đoàn thiết giáp ngụy và làm chủ trận địa lúc 12 giờ. Bộ đội tiếp tục đánh sang khu pháo binh. Tới 13 giờ toàn bộ khu pháo binh địch cũng bị tiêu diệt.


Cùng lúc, Trung đoàn 95 cũng đã chiếm được ngã 6, địch phản kích quyết liệt. Chúng cho máy bay ném bom, bắn phá và pháo bầy từ nhiều điểm bắn cấp tập vào trận địa ta. Cả ngày 10 tháng 3, trận chiến đấu diễn ra vô cùng gay go quyết liệt. Ta liên tiếp mở các đợt tiến công, nhưng không chiếm được sở chỉ huy sư đoàn 23. Có những đơn vị đã vào sát cổng vẫn không tiến lên được, phải đào hầm nằm lại. Chúng tôi bổ sung thêm lực lượng, vũ khí cho hướng này để đêm 10 tháng 3 đánh tiếp.


Đêm đó, trời tối đen như mực. Đứng ở một mỏm đồi, tôi giơ bàn tay lên trước mặt mình cũng chỉ thấy mờ mờ. Buộc lòng, tôi phải cho bộ đội chốt tại chỗ, củng cố hầm hào, công sự và sẵn sàng chờ lệnh tiến công.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #9 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2021, 07:56:55 pm »

5 giờ sáng 11 tháng 3, từ căn cứ sư đoàn 23, địch cho một tiểu đoàn bộ binh, có xe tăng yểm trợ tiến ra phản kích ta. Chớp thời cơ, bộ đội nổ súng tiến công dồn dập tiêu diệt tiểu đoàn này và những xe tăng yểm trợ. Đến 6 giờ, chúng tôi triển khai đội hình thành nhiều mũi đánh thẳng vào sở chỉ huy sư đoàn 23.


Trung đoàn 174 tổ chức thành 3 mũi. Mũi 1 do Tiểu đoàn 3 được tăng cường 4 xe tăng, phối hợp với Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 24, Sư đoàn 10) cùng tiến công. Khi đến trước sở chỉ huy địch, ta bị một loạt hàng rào dây thép gai dày đặc ngăn lại. Các chiến sĩ phải dùng hết số bộc phá mang theo vẫn chỉ giải quyết được một số hàng rào phía ngoài. Hỏa lực địch trong trận địa phòng ngự tập trung đánh chặn tất cả các mũi đột phá của ta.


Chúng tôi nhanh chóng cho xe tăng lên mở đường, phá những hàng rào còn lại, bộ binh đột nhập căn cứ địch, chiến đấu giành giật từng lô cốt, từng căn hầm, có nơi phải giành đi giật lại tới 5 - 6 lần. Xe tăng và bộ binh ta luôn bám sát, chi viện nhau cùng xông vào sở chỉ huy địch.


Mũi 2 do Đại đội 11, Tiểu đoàn 3 được tách ra từ đầu, đánh chiếm ấp Ba Lê 2, rồi thọc sang khu tham mưu. Tại đây, ta đánh bật 3 đợt phản kích của địch, chiếm khu Hùng Vương, đột phá vào sở chỉ huy.

Mũi 3 do Tiểu đoàn 1, được tăng cường 3 xe tăng từ hướng tây nam đột phá khu đài phát thanh, tiến sang khu tham mưu, chọc vào sở chỉ huy.

Trung đoàn 149 tiến công bằng 2 mũi. Tiểu đoàn 7 đánh từ phía nam lên, chọc thẳng vào khu tham mưu địch, diệt 269 tên, bắt 19, rồi tiến vào trung tâm chỉ huy sư đoàn 23 lúc 10 giờ 50 phút.

Đồng chí Trần Công Kỳ, trung đội trưởng Trung đội 2, Đại đội 1, liền lấy một lá cờ của ta trong phòng truyền thống của địch, giao cho ba đồng chí là Nguyễn Đức Thịnh, Ngô Văn Quyền, Trần Văn Thanh cắm lên nóc sở chỉ huy địch.

Khi đó, Tiểu đoàn 8 từ tiểu khu chọc sang, phối hợp với các đơn vị trên các hướng, đánh chiếm sào huyệt cuối cùng trong trung tâm chỉ huy. Mặc dù quân địch mang hết tàn lực ra đối phó, chúng vẫn không sao tránh khỏi số phận bị tiêu diệt. Đến 11 giờ ngày 11 tháng 3, ta làm chủ trận địa. Đại tá Vũ Thế Quang, sư trưởng sư đoàn 23 cùng với số tàn quân bị các chiến sĩ Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 174 bắt sống.


Mục tiêu chính trong cuộc tiến công thị xã Buôn Ma Thuột đã hoàn thành, sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy bị tiêu diệt. Sau 32 giờ tiến công mãnh liệt, Sư đoàn 316 chúng tôi, đã cùng các đơn vị bạn hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ trận đánh then chốt của chiến dịch. Trận này, vượt thời gian dự kiến của mặt trận đề ra.


Trong 2 ngày đầu, ta đã bắt trên 7.000 tù binh (trước chiến dịch, ta dự kiến có khoảng 3.000) nay số địch bị bắt tăng vọt lên, với số gạo ít ỏi ta không thể đủ nuôi chúng. Tôi xin ý kiến Bộ chỉ huy chiến dịch, anh Thảo nhắc nhở tôi chỉ nên giữ lính kỹ thuật, lính lái xe, còn bao nhiêu tập hợp lại tuyên truyền rõ chính sách khoan dung của mặt trận rồi cho chúng về đoàn tụ với gia đình.


Chiếm Buôn Ma Thuật đã khó, nhưng giữ Buôn Ma Thuột cũng không kém phần ác liệt. Ngày 12 tháng 3, địch huy động tối đa lực lượng không quân của sư đoàn 6 và tất cả số máy bay ở sân bay Thành Sơn (Phan Rang) chi viện cho quân phản kích, hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột.


Theo hồ sơ lưu trữ của bộ tổng tham mưu ngụy Sài Gòn mà ta thu được sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thì Buôn Ma Thuột là một mối quan tâm của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Vì ngày 12 tháng 3 năm 1975, từ Sài Gòn, Thiệu trực tiếp hạ lệnh cho tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh quân đoàn 2, phải cố thủ ở các cứ điểm còn lại như sân bay Hòa Bình, căn cứ trung đoàn 53, trung đoàn 45 cùng các khu huấn luyện Lê Lai, Đạt Lý, Châu Sơn, Chư Nga, Bản Đôn... Thiệu hy vọng tiếp tục sử dụng liên đoàn biệt động quân 21 cùng với số quân còn lại, hình thành các cánh quân phản kích tại chỗ. Đồng thời tập trung các đơn vị của sư đoàn 23 như trung đoàn 45, trung đoàn 44 cơ động xuống Buôn Ma Thuột đánh chiếm lại thị xã.


Nhưng từ ngày 12 đến 17 tháng 3, các đơn vị tiến công Buôn Ma Thuột đã giải quyết nhanh, gọn các mục tiêu còn lại để sớm ổn định tình hình thị xã, đồng thời tổ chức một lực lượng mạnh kịp thời đánh bại các đợt phản kích trên mặt đất và đường không của địch. Niềm hy vọng tái chiếm Buôn Ma Thuột của chúng bị dập tắt hoàn toàn.


Và khi tổng thống Thiệu biết được là Sư đoàn 316 đánh Buôn Ma Thuột, Thiệu tự hỏi: vậy ở Tây Nguyên còn 3 sư đoàn nữa là sư 10, sư 320, sư 968 và nhiều trung đoàn độc lập khác ở đâu? Thiệu sợ quân đoàn 2 và một số đơn vị khác ở Plây Cu, Kon Tum, sẽ bị các sư đoàn của ta tiêu diệt, nên đã vội vã bay ra Nha Trang thị sát và quyết định rút toàn bộ lực lượng ở Tây Nguyên theo đường 7 về giữ đồng bằng.


Thế là đến ngày 24 tháng 3 năm 1975, hầu như toàn bộ lực lượng của quân đoàn 2 ngụy trên đường rút chạy đều bị các đơn vị dự bị chiến dịch tiêu diệt hoặc đánh tan rã. Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng.

Rõ ràng, đánh Buôn Ma Thuột ta đã điểm trúng huyệt hiểm yếu nhất của địch. Chiếm Buôn Ma Thuột ta có điều kiện mở ra các hướng phát triển chia cắt địch về chiến dịch cũng như về chiến lược.

Vì vậy ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: "Trên thực tế, với chiến dịch Tây Nguyên đại thắng, cuộc Tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu"1 (Bộ Quốc phòng - Những sự kiện quân sự, Hà Nội, 1988, tr.312). Sau chiến dịch Huế - Đà Nẵng, ngày 3 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 316 chúng tôi lại được lệnh cơ động vào Tây Ninh, đánh Trảng Bàng, Củ Chi, mở màn hướng tây bắc Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.


Về phần mình, với chiến thắng Buôn Ma Thuột, tôi rất mừng vì phương án đánh thọc sâu, đánh áp đảo, đập nát trung tâm đầu não của sư đoàn 23 ngụy và dinh tỉnh trưởng Đắc Lắc ngay từ những đòn tiến công đầu tiên đã thành công. Vậy là cách đánh "Nở hoa trong lòng địch", trận mở đầu then chốt của chiến dịch Tây Nguyên, đã góp phần làm nên "Bản hùng ca Xuân 1975 đại thắng".

Đ.V.N
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM