Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Năm, 2024, 04:46:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Danh tướng Việt Nam - Tập 3  (Đọc 63767 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 08:00:34 pm »


Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung và đích thân cầm quân ra Bắc

Tại Phú Xuân, ngày 24 tháng mười một1, Nguyễn Huệ nhập được tin cấp báo của Ngô Văn Sở do Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết chuyển đạt về. Tình thế mới buộc Nguyễn Huệ cần phải có những quyết định mới, sắc bén, kiên quyết và phù hợp. Tiêu diệt quân Mãn Thanh và trừng trị tập đoàn Lê Chiêu Thống là quyết tâm tự nhiên và tất nhiên, vì đó là cách duy nhất để bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước, cũng là cách duy nhất để bảo vệ thành tựu của phong trào Tây Sơn. Nhưng, đánh quân Mãn Thanh, đánh một đội quân xâm lăng hùng hậu đang giương ngọn cờ chính trị giả hiệu là phù Lê diệt Tây Sơn, thì trước hết, Nguyễn Huệ phải tạo ra được một ngọn cờ chính trị khác, vừa đủ sức để tập hợp sức mạnh cũng như trí tuệ của nhân dân, lại vừa đủ sức để loại Lê Chiêu Thống ra khỏi vũ đài chính trị. Xuất phát từ sự phân tích rất chính xác đó, ngay ngày hôm sau, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân2, tại Núi Bân (thuộc Phú Xuân), Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Trong tờ chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ nói rất rõ:

“Trẫm đã hai lần gây dựng cho họ Lê, thế mà Tự Quân nhà Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước bôn tẩu ở ngoài, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê mà chỉ trông mong vào Trẫm”3.

Ai lên ngôi để được hưởng cuộc sống nhung lụa của Đế Vương, còn Nguyễn Huệ thì khác hẳn. Với việc lên ngôi này Nguyễn Huệ đã dũng cảm dám nhận trước lịch sử sứ mệnh cực kì cao cả và vinh quang, đồng thời cũng vô cùng nguy hiểm, đó là lãnh đạo nhân dân quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Cũng với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ là người tuyên bố sự cáo chung của triều Lê và khẳng định mình là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc điều khiển vận mệnh của quốc gia và dân tộc.

Ngay sau khi làm lễ đăng quang, Nguyễn Huệ đã chỉ huy đại quân tiến thẳng ra Bắc. Theo ghi chép của các thư tịch cổ, ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân4, nghĩa là đúng bốn ngày kể từ khi rời khỏi Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã có mặt tại Nghệ An. Đó thực sự là một cuộc hành quân thần tốc rất hiếm thấy trong lịch sử. Đến Nghệ An, Nguyễn Huệ dừng lại mười ngày để tuyển mộ thêm quân lính. Cũng tại Nghệ An, Nguyễn Huệ đã tổ chức một cuộc duyệt binh lớn, nhằm kiểm tra và biểu dương sức mạnh của quân đội trước khi bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt với quân xâm lược Mãn Thanh. Trong cuộc duyệt binh này, Nguyễn Huệ đã dõng dạc tuyên bố:

“Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện đang ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, tất cả đều đã được phân biệt rõ ràng, Bắc Nam hai phương chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã bao phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải khắp đất nước ta, cho nên, người mình không ai chịu nổi, đều muốn đánh đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ... Các ngài không nỡ ngồi yên nhìn chúng làm điều tàn bạo, cho nên đã thuận theo lòng người mà dấy nghĩa binh, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về hẳn bên phương Bắc”.

… “Lợi hại và được thua đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta mà đặt thành quận huyện của chúng, không biết trông gương các đời Tống, Nguyên và Minh thuở xưa, vì thế, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng”5.

Để kích thích thêm tính chủ quan vốn có của Tôn Sĩ Nghị, từ Nghệ An, Nguyễn Huệ “sai người ruổi ngựa chạy gấp ra, đưa thư xin đầu hàng Tôn Sĩ Nghị, lời lẽ trong thư rất nhũn nhặn, khiêm tốn”. 6.

Sau lễ duyệt binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ cho quân tiến gấp ra Thanh Hóa. Đến Thọ Hạc (nay thuộc thị xã Thanh Hóa), Nguyễn Huệ lại long trọng tổ chức lễ thệ sư7. Tại đại lễ thệ sư này Nguyễn Huệ tuyên bố:

“Bớ chư quân! Phàm ai bằng lòng chiến đấu thì hãy vì ta giết sạch quân giặc. Nếu ai không muốn thì hãy xem ta giết vài vạn tên trong một trận, đó không phải là chuyện hiếm lạ đâu”8.

Toàn cảnh núi Bân - nơi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế (cuối năm 1788)

Cũng trong đại lễ thệ sư ở Thọ Hạc, Nguyễn Huệ đã trịnh trọng đọc lời đanh thép của mình trước tướng sĩ và ba quân:

“Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng.
Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bật hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”


Sách xưa mô tả rằng: “(Nguyễn) Huệ vừa dứt lời, chư quân dạ ran như sấm, rung động cả hang núi, trời đất như muốn đổi màu. Thế rồi chiêng trống khua vang, quân sĩ tiến gấp ra Bắc”9.
____________________________________
1. Nhằm ngày 21 tháng 12 năm 1788.
2. Nhằm ngày 22 tháng 12 năm 1788.
3. Quang Trung tức vị chiếu.
4. Nhằm ngày 26-12-1788.
5. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 40).
7. Lễ tế cờ và thề trước lúc xuất quân.
8, 9. Nguyễn Thu: Lê quý kỷ sự.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 08:07:23 pm »


Ngày 20 tháng chạp năm Mâu Thân1, Nguyễn Huệ đến Tam Điệp và Biện Sơn. Tại Tam Điệp và Biện Sơn, Nguyễn Huệ đã có bốn quyết định rất quan trọng.

Một là tuyên bố với các tướng lĩnh và văn thần rằng chủ trương của Bộ chỉ huy Tây Sơn ở Bắc Hà trước đó về việc tạm lui quân về Tam Điệp và Biện Sơn là hoàn toàn đúng đắn. Lời tuyên bố này có ý nghĩa rất lớn, bởi qua đó, Nguyễn Huệ đã củng cố thêm sự nhất trí ngày càng cao trong nội bộ của mình.

Hai là truyền hịch đi khắp các địa phương, kể tội Tôn Sĩ Nghị, lên án quân xâm lược Mãn Thanh, nhằm kích thích lòng yêu nước và chí căm thù giặc của nhân dân.

Ba là tổ chức khao quân, đồng thời tuyên bố rằng: “Nay hãy làm lễ ăn tết Nguyên Đán trước, đợi đến mồng 7 tháng giêng vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng như vậy không”2.

Bốn là chia quân làm năm đạo, đồng thời tấn công vào giặc từ năm mũi khác nhau:

+ Đạo thứ nhất là đạo chủ lực, do Nguyễn Huệ trực tiếp cầm đầu, gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, được trang bị đầy đủ nhất. Cùng tham gia chỉ huy đạo quân này với Nguyễn Huệ còn có Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, Nội Hầu Phan Văn Lân, Hám Hổ Hầu (tức Chiêu Viễn Tướng Quân). Đạo quân này đánh thẳng vào phía nam kinh thành Thăng Long, nơi tập trung lực lượng chủ lực của quân Thanh đông đảo nhất.

+ Đạo quân thứ hai cũng gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, do Đô Đốc Đặng Tiến Đông3 chỉ huy. Đạo này có nhiệm vụ đánh vào khu vực đóng quân của Sầm Nghi Đống ở Đống Đa, sau đó thì tràn vào Thăng Long, đánh vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.

+ Đạo quân thứ ba do Đô Đốc Bảo chỉ huy, gồm kỵ binh và tượng binh. Đội tượng binh trong đạo quân này rất mạnh, khả năng cơ động rất cao. Đạo này có nhiệm vụ đánh vào phía tây nam của đồn Ngọc Hồi4. Với nhiệm vụ này, đạo quân thứ ba chính là lực lượng kết hợp quan trọng nhất đối với đạo chủ lực do Nguyễn Huệ cầm đầu trong trận tấn công vào Ngọc Hồi.

+ Đạo quân thứ tư gồm chủ yếu là lực lượng thủy binh do Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, có nhiệm vụ vượt biển, tiến vào Hải Dương để tiêu diệt thủy binh của giặc tại đây, sau đó, tiến vào Thăng Long, tấn công dinh trại của quân Mãn Thanh dọc hai bên bờ Sông Nhị.

+ Đạo quân thứ năm cũng gồm chủ yếu là lực lượng thủy binh, do Đô Đốc Lộc chỉ huy, vượt biển để tiến ra khu vực sông Lực Đầu. Nếu chiến trận xảy ra ở Thăng Long mà gay go thì đây chính là đạo quân bất ngờ đánh từ phía sau đánh lại. Nếu quân Mãn Thanh ở Thăng Long mà nhanh chóng thất bại thì đây chính là đạo quân có nhiệm vụ đánh chặn đường rút lui của kẻ thù.

Sơ đồ kế hoạch của Nguyễn Huệ trong trận đại phá quân xâm lược Mãn Thanh

Nhìn tổng quát, kế hoạch của Nguyễn Huệ là kế hoạch tấn công vũ bão, dồn đối phương vào thế bị bao vây và bị tiêu diệt không cách gì chống đỡ nổi. Khác với trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm-Xoài Mút diễn ra vào năm 1785, trong trận quyết chiến chiến lược này, lực lượng chủ yếu của Tây Sơn không phải là thủy binh mà là bộ binh và tượng binh.
_____________________________________
1. Nhằm ngày 15-1-1789.
2. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
3. Tác giả chưa có điều kiện để nghiên cứu riêng về nhân vật Đặng Tiến Đông. Tư liệu về vị tướng này: tác giả tham khảo và sử dụng công trình của Giáo sư Phan Huy Lê (xin xem thêm Chương thứ tư: Phụ lục).
4. Nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 08:40:38 pm »


Trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa: Tết Kỷ Dậu (1789)

Đêm ba mươi Tết, đại quân của Nguyễn Huệ bắt đầu vượt Gián Khẩu1 và bất ngờ tấn công vào dinh trại của quân Lê Chiêu Thống ở vòng ngoài. Bấy giờ, quân bản bộ của Lê Chiêu Thống gần như đã bị buộc phải canh giữ từ xa để quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị có thể yên tâm nghỉ ngơi và ăn tết. Vừa giáp chiến, quân của Lê Chiêu Thống đã đại bại và bỏ chạy thục mạng. Nguyễn Huệ ra lệnh cho tướng sĩ của mình truy kích đến cùng, quyết không để một tên nào thoát được.

Từ xa, vừa thoáng thấy quân Tây Sơn, những tên lính do thám của Tôn Sĩ Nghị cũng đã vội vã tháo chạy. Nhưng, tất cả bọn chúng đã không sao thoát khỏi cuộc truy nã thần tốc của quân đội Tây Sơn. Khi Nguyễn Huệ tiến đến tận Phú Xuyên, tức là chỉ còn cách Thăng Long hơn ba chục cây số, Tôn Sĩ Nghị và tướng sĩ dưới quyền vẫn chưa hề hay biết gì. Nguyễn Huệ quyết định phải triệt để lợi dụng yếu tố bất ngờ này để tổ chức những trận đánh đầu tiên vào các đồn lũy quan trọng nhất của quân Mãn Thanh.

Sơ đồ diễn biến trận Ngọc Hồi - Đống Đa

Đêm mồng ba Tết Kỷ Dậu2, Nguyễn Huệ cho quân bí mật bao vây đồn Hà Hồi3. Đây là đồn nằm chắn ngang đường thiên lí từ Phía Nam ra Thăng Long. Phá được đồn Hà Hồi cũng có nghĩa là phá được vị trí tiền tiêu quan trọng nhất. Phá được đồn Hà Hồi cũng đồng thời có nghĩa là phá được cánh cửa bảo vệ mặt nam của Thăng Long. Sau khi đã bí mật bao vây xong đồn Hà Hồi, Nguyễn Huệ cho bắc loa gọi hàng. Tiếng loa vừa dứt, quân sĩ của Nguyễn Huệ liền đồng thanh cất tiếng dạ nhiều lần, chợt nghe cứ tưởng là có đến hàng vạn người đã khép kín vòng vây dày đặc ở bốn bên. Quân Thanh trong đồn Hà Hồi rụng rời hồn vía, lập tức kéo nhau ra xin hàng4. Đồn Hà Hồi bị tiêu diệt vừa rất nhanh, vừa rất gọn. Nguyễn Huệ thu được không biết bao nhiêu là lương thực, thực phẩm, vũ khí và các chiến lợi phẩm khác. Sau thắng lợi của trận Hà Hồi, Nguyễn Huệ đóng quân tại cánh đồng Cung5 và tại đây, một kế hoạch tấn công vào Ngọc Hồi đã nhanh chóng được xây dựng.

Tuy cùng án ngữ đường thiên lí dẫn vào Thăng Long, song, Ngọc Hồi có vị trí quan trọng hơn hẳn Hà Hồi. Đồn Ngọc Hồi6 chỉ cách Thăng Long hơn mười cây số. Tại đây, lực lượng quân Mãn Thanh rất đông, vũ khí rất đầy đủ và lương thực cũng rất dồi dào. Chỉ huy quân Thanh ở Ngọc Hồi là Đề Đốc Hứa Thế Hanh - Phó Tướng của một trong ba đạo quân lớn do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp cầm đầu. Và, điều quan trọng hơn nữa là quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi đã biết đồn Hà Hồi thất thủ, yếu tố bất ngờ tấn công của Tây Sơn đến đây không còn nữa. Cũng khác với Hà Hồi, đồn Ngọc Hồi rất kiên cố. Nhìn tổng thể, đồn Ngọc Hồi gồm có ba lớp khác nhau. Ngoài cùng là bãi chướng ngại vật, gồm cạm bẫy, chông sắt và cả địa lôi7. Đó là chưa kể ao Thọ Am ở phía đông nam cũng có giá trị như một bãi chướng ngại tự nhiên rất lợi hại. Nếu tính từ ngoài vào, sau bãi chướng ngại vật là chiến lũy và trong chiến lũy là dinh trại của quân Thanh. Theo ghi chép của một số thư tịch cổ, chúng ta có thể ước đoán tổng số quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi vào khoảng vài ba vạn tên8. Cùng tham gia chỉ huy quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi, dưới trướng của Đề Đốc Hứa Thế Hanh còn có một loạt các tướng lĩnh cao cấp khác. Đó là:

- Tổng Binh Thượng Duy Thăng.

- Tổng Binh Khánh Thành.

- Tổng Binh Trương Triều Long.

- Tổng Binh Lý Hóa Long.

Bản thân việc tập trung quan số và tướng lĩnh cao cấp này cũng đã đủ để khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của Ngọc Hồi. Đó là chưa nói rằng, ngay sau khi nhận được tin đồn Hà Hồi thất thủ, Tôn Sĩ Nghị còn điều động thêm một loạt quân sĩ, do Tổng Binh Thang Hùng Nghiệp cầm đầu, đến để tăng cường cho Ngọc Hồi. Tóm lại, Ngọc Hồi có giá trị như một cánh cửa sắt che chở cho Tôn Sĩ Nghị, như một quyết chiến điểm chiến lược của quân Mãn Thanh.

Về phần mình, Nguyễn Huệ đã cho đại binh áp sát đồn Ngọc Hồi nhưng chưa đánh ngay. Nếu Nguyễn Huệ bình tĩnh bao nhiêu thì quân Thanh lại luôn ở trong tình trạng căng thẳng bấy nhiêu. Ngay trong đêm mồng ba Tết Kỷ Dậu, quân Thanh đã liên tục bị báo động. Chúng mệt mỏi chờ đợi suốt một phần của đêm mồng ba, nguyên ngày mồng bốn và cả đêm mồng bốn Tết Kỷ Dậu9. Mãi đến sáng mồng năm Tết Kỷ Dậu, cuộc tấn công của Nguyễn Huệ vào đồn Ngọc Hồi mới bắt đầu. Tham gia trận đánh này lực lượng của Tây Sơn gồm có:

- Toàn bộ đạo quân do Nguyễn Huệ trực tiếp cầm đầu.

- Toàn bộ đạo quân do Đô Đốc Bảo chỉ huy.

Truyền thuyết dân gian vùng Thường Tín (Hà Tây) kể rằng, khuya mồng bốn Tết, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho quân sĩ phải ăn thật no, ăn xong thì bỏ hết dụng cụ nấu nướng và lương thực lại, hẹn đến trưa mồng năm Tết Kỷ Dậu10 thì vào ăn trong đồn Ngọc Hồi. Khi xuất trận, toàn quân Tây Sơn giương cờ đỏ, quân sĩ thắt khăn đỏ còn Nguyễn Huệ thì thắt khăn vàng.
______________________________________
1. Nơi hợp lưu của sông Sinh Quyết và Đồng Minh trước khi đổ xuống Ngã Ba Non Nước (Ninh Bình).
2. Nhằm ngày 28-1-1789.
3. Hà Hồi nay thuộc xã Hồng Phong, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
4. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).
5. Cánh đồng Cung cũng thuộc xã Hồng Phong, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
6. Ngọc Hồi nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 41) và Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
8. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14). Lê Trọng Hàm: Minh đô sử (quyển 44).
9. Nhằm ngày 29-1-1789.
10. Nhằm ngày 30-1-1789.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 09:24:25 pm »


Bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị vừa nghe tin Hà Hồi thất thủ, chưa kịp nghĩ cách ứng phó gì đã nghe tin cấp báo của Ngọc Hồi. Sử cũ mô tả rằng, quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị thì thán phục mà nói với nhau: “Tướng (Tây Sơn) như trên trời rơi xuống, quân (Tây Sơn) như dưới đất chui lên”, còn bản thân Tôn Sĩ Nghị thì rút kiếm chém xuống đất và nói: “Thần tốc, thật là thần tốc!”1. Ngay sau đó, Tôn Sĩ Nghị điều ngay một đội kỵ binh thân cận của mình đến và giao nhiệm vụ thông tin thường xuyên giữa Ngọc Hồi với đại bản dinh.

Cuộc tấn công vào Ngọc Hồi của quân đội Tây Sơn được mở đầu bằng cuộc xuất trận của hơn một trăm voi chiến. Nguyễn Huệ là người có đầu óc cải tiến rất táo bạo. Lần đầu tiên, đại bác được bố trí trên lưng voi, và do đó, voi chiến của Tây Sơn tung hoành chẳng khác gì xe tăng hiện đại. Ngoài ra, tượng binh của Tây Sơn còn được trang bị thêm cả hỏa hổ, súng tay và giáo mác, cung nỏ... Đề Đốc Hứa Thế Hanh hạ lệnh cho đơn vị kỵ binh mạnh nhất của giặc ở Ngọc Hồi ra nghênh chiến. Nhưng, vừa thoáng thấy voi chiến, ngựa của đối phương đã “hốt hoảng hí lên rồi chạy lồng trở lại, giẫm đạp lên nhau”2. Giặc chui vào đồn, nã đại bác vào quân Tây Sơn rất dữ dội nhưng vẫn không sao lung lay nổi thế trận của Tây Sơn. Đợt tấn công thứ nhất tạm kết thúc với thất bại bước đầu thuộc về quân Thanh.

Cũng ngay trong buổi sáng mồng năm Tết Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ tổ chức đợt tấn công thứ hai vào Ngọc Hồi. Đợt này cũng được mở đầu bằng cuộc xông trận của voi chiến, nhưng, khác với đợt thứ nhất, ở đợt thứ hai này voi chiến đóng vai trò mở đường cho quân cảm tử tràn lên. Theo mô tả của sử cũ3 thì cứ mỗi tốp có ba mươi người. Mười người thì giắt đoản đao bên hông, cùng nhau khiêng một tấm bảng lớn, phía ngoài có cuốn rơm tẩm bùn để chặn mũi tên của giặc. Hai mươi người còn lại thì núp phía sau tấm ván che nói trên rồi nhất loạt cùng tiến. Số quân cảm tử của Nguyễn Huệ tham gia tấn công Ngọc Hồi đợt thứ hai này gồm chừng 600 người (hai mươi tốp). Đáp lại, quân Thanh liên tục nã đại bác và phun hỏa mù ra, khiến cho “khói lửa mù trời, gần nhau trong gang tấc mà cũng thẳng thấy gì cả”4. Tiến ngay sau voi chiến và quân cảm tử, đại binh của Tây Sơn cũng rầm rộ tràn vào. Những bó rơm lớn được dùng làm tấm đỡ, kẻ trước người sau đều liều chết mà đánh5. Lũy Ngọc Hồi bị phá và Nguyễn Huệ dẫn đại binh đánh thẳng vào dinh trại giặc. Đồn Ngọc Hồi tan tành. Giặc chết chồng chất lên nhau6. Tổng chỉ huy quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi là Hứa Thế Hanh cùng với Tổng Binh Thượng Duy Thăng bị giết tại trận.

Quân sĩ Mãn Thanh sống sót ở đồn Ngọc Hồi chạy thục mạng về Thăng Long. Nhưng, vừa đến Yên Duyên7 thì lập tức bị một đạo quân Tây Sơn đã được Nguyễn Huệ bố trí mai phục sẵn, đánh cho một trận tơi bời, lại bị giết hại không biết bao nhiêu mà kể. Số sống sót lại liều chết tìm đường chạy nhanh về Thăng Long. Nhưng, đến Đầm Mực8 thì gặp quân mai phục do Đô Đốc Bảo bố trí sẵn. Và, một trận đánh đã diễn ra tại đây. Toàn bộ quân giặc chạy đến vùng Đầm Mực đều bị giết hoặc bị bắt sống. Như vậy là chỉ với một buổi sáng, quân Tây Sơn đã đập tan đồn Ngọc Hồi, mở tung cánh cửa sắt che chở mặt nam kinh thành Thăng Long để rồi nhanh chóng tiến thẳng vào sào huyệt của giặc. Đây là trận phối hợp tuyệt vời giữa hai binh chủng chính là bộ binh và tượng binh, đây cũng là trận kết hợp chặt chẽ giữa tấn công trực diện với bí mật bao vây và tiêu diệt. Đè bẹp được lực lượng quân Mãn Thanh ở Ngọc Hồi cũng có nghĩa là Tây Sơn bắt đầu nắm được phần đại thắng ở trong tay.

Sơ đồ vị trí Ngọc Hồi - Đầm Mực

Đồng thời với cuộc tấn công vào Ngọc Hồi, đạo quân Tây Sơn do Đô Đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy9 cũng đánh mạnh vào Đống Đa. Cầm đầu quân Mãn Thanh ở Đống Đa là Sầm Nghi Đống. So với những tướng lĩnh cao cấp dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị thì Sầm Nghi Đống kém cỏi hơn cả. Quân do tướng Sầm Nghi Đống quản lĩnh cũng chủ yếu là quân ô hợp. Nhưng, do đóng giữ ở một vị trí thuận lợi, lại ở ngay cửa dẫn vào Thăng Long10, Sầm Nghi Đống có không ít lợi thế. Tổ chức tấn công vào Đống Đa không đơn giản một chút nào cả. Tương tự như ở Ngọc Hồi, quân Tây Sơn đánh vào Đống Đa do Đô Đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy gồm chủ yếu là bộ binh và tượng binh. Quân số Tây Sơn tuy không đông nhưng rất tinh nhuệ và linh hoạt. Vào khoảng cuối canh tư11 của đêm mồng năm Tết Kỷ Dậu12, cuộc tấn công vào Đống Đa bắt đầu. Chỉ trong chốc lát, hàng ngàn quân Thanh đã bị giết, Sầm Nghi Đống hốt hoảng chui vào đồn để cố thủ mà chờ viện binh. Đúng lúc đó, nhân dân các địa phương ở chung quanh đã lấy rơm rạ bện thành con cúi13, châm lửa vào, cầm lên rồi vựa đi vừa múa. Khi ấy, sương mù còn dày đặc, xa trông, những con cúi đã châm lửa ấy chẳng khác gì rồng lửa, vì thế, gọi là hỏa long trận. Tuyệt vọng vì biết không thể nào chống đỡ nổi, Sầm Nghi Đống đã thắt cổ tự tử. Hàng trăm thuộc hạ trung thành cửa Sầm Nghi Đống cũng tự sát theo chủ14. Đống Đa bị hạ, đường Tây Sơn tiến thẳng vào đại bản dinh của Tôn Sĩ Nghị đã thênh thang.

Bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị liên tiếp nhận được tin bại trận từ khắp nơi truyền về, chưa kịp nghĩ cách ứng phó thì đã thấy bốn bế lấp loáng hỏa long trận và những đơn vị đầu tiên của quân Tây Sơn dũng mãnh xông vào. “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn kỵ binh của mình bỏ trốn trước, qua cầu phao, nhằm thẳng hướng bắc mà chạy thục mạng”15, đó là hình ảnh thảm hại của Tôn Sĩ Nghị sáng mồng năm Tết Kỷ Dậu (1789). Quân Mãn Thanh thấy chủ tướng chạy thì cũng tranh nhau tìm đường chạy theo. “Chúng tranh nhau qua cầu để sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống nước chết không biết bao nhiêu mà kể”16. Sợ quân Tây Sơn cũng sẽ dùng cầu phao mà vượt sông truy đuổi, Tôn Sĩ Nghị đã hạ lệnh chặt đứt cầu phao. Hành động tàn ác đó đã khiến cho hàng vạn quân lính của Tôn Sĩ Nghị bị chết đuối, nước sông Nhị vì thế mà tắc nghẽn, không chảy được”17. Số quân Thanh còn kẹt lại ở bờ Nam thì đi cướp giật thuyền của dân mà sang bờ Bắc, nhưng, quân đông mà thuyền ít, chúng tranh giành nhau, chém giết nhau, khiến thuyền chìm, người chết. Và, đúng lúc chúng đang hoảng sợ đến tột độ thì quân Tây Sơn ập tới. Tất cả đều bị giết hoặc bị bắt làm tù binh. Đó thực sự là một ngày thảm hại. Về sau, ngày thảm hại này được Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái khái quát bằng bốn câu thơ Nôm (phiên âm) như sau:

Vua Lê khi ấy vội vàng,
Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc Kinh.
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù kiều chặt đứt, quân mình thác oan
18.

Khi đã qua được sông Hồng, chúng cứ ngỡ là có thể yên tâm chạy một mạch về Trung Quốc, chẳng dè, chưa kịp hoàn hồn thì đã bị quân Tây Sơn do Đô Đốc Lộc chỉ huy, xông tới đánh cho mấy trận kinh hoàng nữa. Rất tiếc cho Tây Sơn và cũng rất may cho tàn quân của Tôn Sĩ Nghị, ấy là do gặp bão, đạo quân do Đô Đốc Lộc chỉ huy đến có phần chậm hơn so với kế hoạch đã định vì thế, không kịp bố trí để có thể bịt kín mọi ngả tháo chạy của quân Thanh. Theo nhận định của một giáo sĩ phương Tây thì số quân Thanh chạy thoát và về được Trung Quốc chỉ độ ba bốn chục tên mà thôi19.

Đạo thủy binh nhỏ của Mãn Thanh đóng ở Hải Dương cũng bị tiêu diệt gọn. Đáng được coi là may mắn hơn cả có lẽ là đạo quân Mãn Thanh do Ô Đại Kinh cầm đầu. Hắn tiến rất chậm, do đó, khi mới đến Sơn Tây, chưa kịp ổn định nơi đóng quân thì đã nghe tin Tôn Sĩ Nghị đại bại. Từ Sơn Tây, Ô Đại Kinh lập tức cho quân chạy về phương Bắc. Nhưng, đạo quân này cũng bị các đội dân binh ở Tuyên Quang đánh cho tơi bời, khiến đội ngũ bị rối loạn, thất lạc và không liên hệ được với nhau.

Ý chí xâm lăng của nhà Mãn Thanh đối với nước ta trao gởi ở hai mươi chín vạn quân do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu đã bị đè bẹp hoàn toàn. Ngọc Hồi - Đống Đa đi vào lịch sử dân tộc với ý nghĩa là tên gọi hào hùng của võ công chống xâm lăng oanh liệt vào hàng bậc nhất. Sau Ngọc Hồi - Đống Đa, Lê Chiêu Thống buộc phải sống lưu vong đầy tủi nhục trên đất Trung Quốc để rồi mất ở đó vào tháng 10 năm 1793, khi vừa mới 28 tuổi. Cũng sau Ngọc Hồi - Đống Đa, nhà Thanh buộc phải thừa nhận ngôi vị và chính quyền của Quang Trung Nguyễn Huệ.
____________________________________
1, 3, 4, 6, 15, 16, 17. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).
2, 5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 41).
7. Yên Duyên nay thuộc thôn Sở Hạ, xã Ninh Sở, huyện Thưởng Tín, tỉnh Hà Tây.
8. Nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
9. Về nhân vật Đặng Tiến Đông, xin tham khảo thêm Chương thứ tư: phụ lục.
10. Đó là cửa ô Thịnh Quang (cũng tức là cửa ô Thịnh Hào). Nay là Ô Chợ Dừa thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.
11. Khoảng gần ba giờ sáng.
12. Nhằm ngày 30-1-1789.
13. Người xưa thường dùng rơm bện lại thành từng lọn dài ngắn khác nhau để dùng vào việc xin lửa khi nhà chẳng may không còn lửa. Những lọn rơm hoặc rạ như thế, gọi là con cúi.
14. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 41).
18. Đại Nam quốc sử diễn ca (Phù kiều nghĩa là cầu phao).
19. De la Bissachère: État actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des autres royaumes de Cambodge, Lao et Lạc Thổ. Paris. 1812. T. 2 P.170.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 06 Tháng Sáu, 2009, 09:49:50 pm »


10. Quang Trung - vị Hoàng Đế của những cải cách tích cực và táo bạo

Chân dung “Giả Vương” Phạm Công Trị do Hoàng Đế Càn Long sai người vẽ

Khi quân Mãn Thanh và bè lũ Lê Chiêu Thống đã bị quét sạch khỏi bờ cõi, cơ đồ mà Quang Trung Nguyễn Huệ tiếp nhận được chỉ là sự điêu tàn và đổ nát. Với cương vị là Hoàng Đế, Quang Trung đã ban hành một loạt những biện pháp nhằm nhanh chóng giải quyết những khó khăn chồng chất của đất nước đương thời.

Trước hết, Quang Trung tìm cách thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo với nhà Thanh, tránh họa binh đao lâu dài cho nhân dân hai nước. Việc này, Quang Trung đã chuẩn bị ngay từ khi mới đến Tam Điệp và Biện Sơn. Sử cũ chép:

“Lần này ta đích thân cầm quân, kế sách tiến đánh đều đã có sẵn, chẳng qua chỉ độ mười ngày là đánh đuổi được quân Thanh. Nhưng chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bại trận thì ắt lấy làm xấu hổ nên lo đánh báo thù, thế thì việc binh đao sẽ chẳng biết bao giờ dứt, ta thật không nỡ vì như thế là không may cho dân. Vậy, khi ấy chỉ có người khéo nói mới mong dập tắt được binh đao. Ta thấy việc này, ngoài Ngô Thì Nhậm ra, chẳng ai làm được1.

Quả y như rằng, sau chiến thắng, Ngô Thì Nhậm và em rể ông là Phan Huy Ích được Quang Trung giao trách nhiệm chỉ huy những hoạt động nhằm thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo với nhà Mãn Thanh. Chủ trương của Hoàng Đế Quang Trung là phải thật mềm mỏng nhưng cũng phải thật kiên quyết. Mềm mỏng là mềm mỏng trong sách lược, trong từng bước đi cụ thể, còn kiên quyết là kiên quyết trong mục tiêu bảo vệ đến cùng, nền độc lập và chủ quyền mà cả dân tộc ta phải đổi không biết bao nhiêu xương máu mới giành lại được. Và, Quang Trung đã thành công2.

Ấn của Vua Quang Trung

Đối với bọn phản loạn ngoan cố, Quang Trưng thẳng tay trừng trị. Bấy giờ, lực lượng phản loạn đáng kể hơn cả vẫn là lực lượng do Lê Duy Chỉ (em ruột Lê Chiêu Thống) cầm đầu. Năm 1790, Lê Duy Chỉ đã tạo ra được một mối liên minh nguy hiểm, gồm có Lê Duy Chỉ ở Cao Bằng, quân Xiêm và quân Lào ở mặt tây, quân Nguyễn Ánh ở mặt nam. Năm 1791, quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu3 chỉ huy đã tràn sang Lào, đánh tan và truy đuổi quân Xiêm đến biên giới Xiêm La.

Khi ấy, vùng đất do Quang Tnmg quản lí gồm từ Bến Ván (Quảng Nam) trở ra cho đến hết miền Bắc. Trên dải đất đó, lúc đầu Quang Trung đóng đô tại Phú Xuân (Huế ngày nay), nhưng về sau, Quang Trung đã chọn đất định đô mới cho triều đại của mình tại Nghệ An. Đó là Phượng Hoàng Trung Đô. Rất tiếc là Phượng Hoàng Trung Đô đang kiến thiết dở dang thì Quang Trung qua đời.

Phượng Hoàng Trung Đô

Trong khoảng từ năm 1789 đến năm 1792, Quang Trung đã ban hành nhiều chính sách lớn, tạo ra được những ảnh hưởng rất tốt đẹp. Ngay đầu năm 1789, Quang Trung đã ban hành Chiếu khuyến nông với những nội dung rất cụ thể như: kêu gọi nhân dân tích cực sản xuất, không được bỏ ruộng hoang, người đi phiêu tán phải trở về quê cũ... v.v. Quang Trung trọng nông (coi trọng sản xuất nông nghiệp) nhưng không ức thương (ức chế sự phát triển của thương mại). Đó là điểm độc đáo trong chính sách kinh tế của Quang Trung. Và, cũng dưới thời Quang Trung, các ngành kinh tế thủ công nghiệp đều có cơ hội để phát triển.

Trong văn hóa, Quang Trung đặc biệt coi trọng việc học. Đầu năm 1789, với Chiếu lập học, Quang Trung đã thể hiện khá rõ hoài bão lớn của mình về việc mở mang nền giáo dục. Đặc biệt, Quang Trung rất đề cao chữ Nôm, muốn biến chữ Nôm thành chữ viết chính thức của nước nhà. Chính Quang Trung đã quyết định thành lập viện Sùng Chính (cơ quan chuyên trách về giáo dục của triều đình, đồng thời cũng là cơ quan chuyên lo phiên dịch các sách chữ Hán ra chữ Nôm.)

Bút tích của Nguyễn Huệ

Tuy bận rộn với ngổn ngang công việc, nhưng Quang Trung vẫn không quên lưu tâm đến hoạt động của các tôn giáo, đến sự có mặt của các giáo sĩ phương Tây ở nước ta. Nhìn chung, thái độ của Quang Trung là rất chân thành.


*
*   *

Sau khi tình hình trong vùng đất do Quang Trung quản lí đã tương đối ổn định, Quang Tnmg quyết định dốc lực lượng đánh trận cuối cùng với Nguyễn Ánh. Bấy giờ, Nguyễn Lữ đã mất, Nguyễn Nhạc thì cầu an, tự mãn... chỉ có Quang Trung mới có thể đảm nhận được trọng trách này. Đàng sau Nguyễn Ánh lúc này còn có cả thực dân phương Tây, và quan trọng hơn, Nguyễn Ánh đã chiếm lại được Gia Định, biến Gia Định thành một sào huyệt kiên cố và nguy hiểm. Trước khi xuất quân, ngày 10 tháng 7 năm Nhâm Tuất4, Quang Trung đã truyền hịch đến nhân dân cùng quan lại hai phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi. Nhưng, rất tiếc là khi công việc chuẩn bị đang được tiến hành một cách khẩn trương và thuận lợi thì đêm ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tí5, Quang Trung đột ngột qua đời. Năm đó Quang Trung vừa 39 tuổi.

Kiếm và đại đao ở Bảo tàng Tây Sơn (Bình Định)

Một cuộc đời chỉ có 39 tuổi xuân, nhưng Quang Trung đã có hai mươi hai năm tả xung hữu đột, hai mươi hai năm đánh Nam dẹp Bắc, khiến cho thù trong phải bạt vía, giặc ngoài phải kinh hồn; hai mươi hai năm Quang Trung chỉ có tiến chứ chưa hề lùi, dù chỉ là lùi một bước ngắn; hai mươi hai năm Quang Trung chỉ có thắng chứ chưa hề bại, dù chỉ là bại một trận nhỏ. Vị anh hùng kiệt xuất này ra đi, để lại cả một sự nghiệp lớn đang dở dang, để lại niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi cho lớp lớp những thế hệ nhân dân yêu nước.

Nối ngôi Quang Trung là Quang Toản. Khi lên nối ngôi, Quang Toản mới được tròn mười tuổi. Bấy giờ, đất nước đang chồng chất những khó khăn mà Quang Toản thì quá nhỏ tuổi, không đủ năng lực và uy tín để điều khiển triều chính, đã thế, nội bộ triều đình lại mất đoàn kết ngày càng nặng, và chính điều này đã vô tình tạo cơ hội tốt cho Nguyễn Ánh tổ chức phản công. Tháng 10 năm 1802, Quang Toản bị Nguyễn Ánh giết.

Tượng Quang Trung Nguyễn Huệ tại Bảo tàng Tây Sơn (Bình Định)
________________________________________
1. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).
2. Đã có người nhầm lẫn rằng Quang Trung phải sang chầu vua Càn Long. Thực ra, người sang chầu Càn Long chỉ là giả vương (người đóng giả Quang Trung), tên là Phạm Quang Trị. Điều này, chính Mãn Thanh cũng biết, nhưng rồi cũng phải... “ngậm bồ hòn làm ngọt”.
3. Xin tham khảo phần viết về Trần Quang Diệu ở Chương thứ ba trong sách này.
4. Nhằm ngày 27-8-1792.
5. Nhằm ngày 16 tháng 9 năm 1792.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2009, 04:35:28 pm »


V – NGUYỄN LỮ (? - 1787)

Anh em Tây Sơn được dân gian trìu mến gọi bằng
những cái tên rất mộc mạc và thân thương. Nếu
Nguyễn Nhạc được gọi là ông Hai Trầu, là Biện Nhạc,
và nếu Nguyễn Huệ được gọi là Ba Thơm,
thì Nguyễn Lữ lại được gọi là Thầy Tư Lữ...



Nguyễn Lữ sinh năm nào chưa rõ, chỉ biết là theo thế thứ trong phần lớn các tư liệu thu thập được thì ông là em của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, nhỏ hơn Nguyễn Nhạc khoảng chừng hơn một chục tuổi, nhưng chỉ nhỏ hơn Nguyễn Huệ độ một vài tuổi mà thôi. Ngay từ thuở thiếu thời, Nguyễn Lữ đã đi tu, vì thế ông mới được gọi là Thầy Tư Lữ. Đời truyền tụng rằng Nguyễn Lữ tu theo đạo Ma-ni. Ma-ni hay Ba-li có lẽ là một hệ phái của đạo Hồi (tức Islamisme) vốn được người Chăm tin theo từ trước thời Nguyễn Lữ rất lâu. Về sau, Tây Sơn từng có lúc được nữ chúa của người Chăm là Thị Hỏa ủng hộ một cách mạnh mẽ, một phần có lẽ cũng bởi Nguyễn Lữ là người tu hành theo tôn giáo của họ.

Như trên đã nói, trong giai đoạn chuẩn bị1, vai trò quan trọng hàng đầu thuộc về Nguyễn Nhạc. Điều này chỉ đơn giản là vì Nguyễn Nhạc lớn tuổi nhất, do đó, tính đến trước khi khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ thì Nguyễn Nhạc là người giàu uy tín và năng lực nhất. Bấy giờ, nếu Nguyễn Nhạc là người chỉ huy bao quát chung thì Nguyễn Huệ được phân công tập hợp và huấn luyện binh sĩ, còn Nguyễn Lữ thì chịu trách nhiệm huy động và tích lũy quân lương. Đại để, Nguyễn Lữ là tướng hậu cần ngay khi còn ở tuổi vị thành niên.


1. Tướng hậu cần xuất sắc của nghĩa quân Tây Sơn

Ở Tây Sơn có một ngọn núi mang tên Nguyễn Huệ, đó là hòn Ông Bình, lại có đến hai ngọn núi mang tên Nguyễn Nhạc, đó là hòn Ông Nhạc và núi Hoàng Đế, nhưng, Tây Sơn chẳng có ngọn núi nào mang tên Nguyễn Lữ cả. Nguyễn Lữ không để tên mình cho núi sông quê nhà, nhưng, sự nghiệp buổi đầu của ông lại được nhân dân trìu mến dùng làm tên gọi cho một ngọn núi của Tây Sơn: núi Lãnh Lương.

Truyền thuyết dân gian ở Tây Sơn kể rằng, để có lương thực phục vụ cho cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ, các lãnh tụ Tây Sơn đã chủ trương tìm cách tích trữ bằng nhiều nguồn khác nhau. Nguồn thứ nhất là tổ chức sản xuất tại chỗ mà nhân lực chủ yếu là nghĩa sĩ Tây Sơn. Trước khi xuất quân, nghĩa sĩ Tây Sơn tập trung thành từng đơn vị nhỏ khác nhau, đóng rải rác khắp Tây Sơn vừa tập luyện vừa tham gia sản xuất. Nguồn thứ hai là huy động đóng góp của nhân dân nhiều địa phương khác nhau. Việc huy động này gặp rất nhiều khó khăn, bởi vì, nếu không thận trọng sẽ rất dễ bị chúa Nguyễn phát hiện và đàn áp. Nguồn thứ ba là tịch thu kho tàng của chúa Nguyễn. Nguồn này chỉ trở nên đáng kể sau khi khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ mà thôi.

Tạo nguồn thu và tìm cách tích trữ được lương thực đã là khó, bảo vệ lương thực đã tích trữ được lại còn khó hơn. Và, công việc đặc biệt khó khăn này được Bộ chỉ huy Tây Sơn tin cậy giao cho Nguyễn Lữ đảm trách, mặc dù khi bắt tay vào việc chuẩn bị khởi nghĩa, Nguyễn Lữ còn ở tuổi vị thành niên. Cùng hợp tác đắc lực và rất có hiệu quả với Nguyễn Lữ là một người vợ lẽ của Nguyễn Nhạc2. Nhưng, nếu người vợ lẽ của Nguyễn Nhạc gần như chỉ đứng ra tổ chức sản xuất và tích trữ lương thực ở ngay trên chính vùng quê thân thuộc của mình, thì Nguyễn Lữ là người chịu trách nhiệm trông coi nhiều hoạt động hậu cần ở nhiều kho vực khác nhau. Năm 1711, khi Nguyễn Nhạc dựng cờ xướng nghĩa, Nguyễn Lữ đã chuẩn bị khá chu tất cho mọi nhu cầu của quân đội Tây Sơn trong những cuộc chiến đấu quyết liệt đầu tiên. Bấy giờ không phải chỉ có lương thực và thực phẩm mà cả đến vũ khí cùng các loại quân trang, quân dụng Nguyễn Nhạc đều tin cậy ủy thác cho Nguyễn Lữ đảm trách.

Như trên đã nói, ở Tây Sơn có một ngọn núi mang tên là núi Lãnh Lương. Núi này nguyên tên là núi Đồng Phong, nằm sát bên một thung lũng nhỏ mà kín đáo có tên gọi là Hóc Yến. Núi Đồng Phong là kho quân nhu lớn nhất của Tây Sơn. Trước khi tiến xuống vùng đồng bằng, nghĩa quân Tây Sơn đến núi Đồng Phong để nhận lương thực, thực phẩm và tất cả những trang thiết bị cần thiết khác, vì thế, núi Đồng Phong mới có tên là núi Lãnh Lương. Núi Lãnh Lương là một chứng tích sinh động về tài cung cấp hậu cần của Nguyễn Lữ. Những thắng lợi vang dội của nghĩa quân Tây Sơn trong những trận chiến đấu đầu tiên đều gắn liền với công lao cung cấp hậu cần của Nguyễn Lữ. Binh pháp cổ có câu “thực túc binh cường” (ăn đủ, quân mạnh). Theo tinh thần của câu binh pháp cổ này, chúng ta cũng có thể nói rằng, một phần quan trọng của sức mạnh Tây Sơn đã nảy sinh từ sự chăm lo chu tất của Nguyễn Lữ.

Liên tiếp trong những năm từ 1771 đến 1773, nghĩa quân Tây Sơn giành được nhiều thắng lợi lớn, mở rộng phạm vi hoạt động ở nhiều địa phương và đã ngự trì được ở vùng đồng bằng nay thuộc các tỉnh như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên... việc chăm lo hậu cần của Nguyễn Lữ vì thế mà cũng có nhiều biến đổi. Trước hết, lực lượng Tây Sơn ngày một đông, nhu cầu về lương thực, thực phẩm, thuốc men và các trang bị thiết yếu khác ngày một lớn, cho nên, hoạt động hậu cần buộc phải đẩy mạnh cao hơn nhiều lần so với thời kì âm thầm chuẩn bị khởi nghĩa ở đất Tây Sơn. Từ đây, nghĩa quân Tây Sơn thường xuyên bám trụ ở những vùng đồng bằng, vì thế, mục đích cuối cùng tuy không thay đổi nhưng yêu cầu cụ thể của việc chuẩn bị hậu cần phải thay đổi mới có thể phờ hợp, và quan trọng hơn, mới có khả năng đạt hiệu quả cao. Cũng từ đây, địa bàn chiến đấu của nghĩa quân Tây Sơn ngày một mở rộng, việc cung cấp hậu cần cũng phải hết sức cơ động và linh hoạt. Tóm lại, nếu thiếu năng động, Nguyễn Lữ sẽ chẳng bao giờ đáp ứng được những nhu cầu ngày một lớn của nghĩa quân Tây Sơn.

Từ khi chiếm được phủ Quy Nhơn, Bộ chỉ huy Tây Sơn nói chung và Nguyễn Lữ nói riêng có thêm hai trợ thủ rất đắc lực, đó là Nguyễn Thung và Huyền Khê. Cả Nguyễn Thung lẫn Huyền Khê đều có khả năng chăm lo hậu cần và chính họ đã sát cánh với Nguyễn Lữ trong hoạt động cụ thể này. Tuy nhiên, cả hai nhân vật chỉ đi với Tây Sơn một thời gian ngắn mà thôi3. Nói khác hơn, Nguyễn Lữ là người có công đầu tiên và lớn nhất trong việc chăm lo hậu cần cho quân đội Tây Sơn. Khi Tây Sơn làm chủ được cả một vùng đồng bằng rộng lớn như đã nói ở trên, đội ngũ những người chuyên lo hậu cần ngày một đông và kinh nghiệm hoạt động cũng dày dạn hơn, Nguyễn Lữ được chuyển hẳn sang đội ngũ những tướng lĩnh trực tiếp cầm quân ra trận.
_______________________________________
1. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 1 – Giai đoạn thứ nhất: Chuẩn bị (thuộc phần II của Chương thứ hai).
2. Xin vin lòng tham khảo thêm mục 1 thuộc phần III của Chương thứ hai.
3. Theo ghi chép của Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30) thì cả Nguyễn Thung lẫn Huyền Khê về sau đều bị Tây Sơn giết nhưng không nói rõ lí do vì sao.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2009, 04:37:05 pm »


2. Tổng chỉ huy cuộc tấn công của Tây Sơn vào Gia Định lần thứ nhất (năm 1776)

Thư tịch cổ không cho biết rõ Nguyễn Lữ đã chuyển từ tướng chuyên lo hậu cần sang tướng trực tiếp cầm quân ra trận từ tháng năm cụ thể nào, tuy nhiên, cũng qua thư tịch cổ, chúng ta cũng có thể ước đoán rằng, Nguyễn Lữ thôi giữ chức vụ chỉ huy hoạt động hậu cần vào khoảng sau năm 1778. Và, chẳng bao lâu sau khi trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc, Nguyễn Lữ đã lập được công lớn. Ông là tướng Tổng chỉ huy lực lượng Tây Sơn trong cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ nhất (1776).

Trước đó, để phá thế “lưỡng đầu thọ địch”, Bộ chỉ huy Tây Sơn đã khôn khéo thực hiện chủ trương tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh1. Nhờ mặt bắc được tạm yên, Tây Sơn liền tập trung sức mạnh cho những trận đánh ở mặt nam. Năm 1775, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, Tây Sơn đã thắng một trận rất lớn tại Phú Yên2 và đó là trận đại thắng mở đầu cho liên tiếp nhiều trận đại thắng tiếp theo.

Sau trận Phú Yên, tướng của chúa Nguyễn là Tống Phúc Hiệp vì bị thua đau nên đành phải tạm chạy vào Nam để lánh nạn. Bấy giờ, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Thuần cũng chạy vào Gia Định. Tại đây, Nguyễn Phúc Thuần bắt đầu tập hợp lực lượng và chấn chỉnh đội ngũ để chuẩn bị tổ chức phản công. Thanh thế của tập đoàn họ Nguyễn lại nổi lên khá mạnh. Điều không may cho Tây Sơn là tướng Lý Tài đã chạy sang đầu hàng Tống Phúc Hiệp, đồng thời, Tống Phúc Hiệp lại còn thu phục được cả Châu Văn Tiếp3. Trên cơ sở sức mạnh mới này, tập đoàn họ Nguyễn lập tức vạch kế hoạch phản công. Nếu không chủ động đối phó một cách tích cực và có hiệu quả, tình thế nhất định sẽ diễn biến một cách phức tạp và có chiều hướng ngày càng bất lợi cho Tây Sơn. Xuất phát từ nhận định này, Bộ chỉ huy Tây Sơn đã quyết định cử Nguyễn Lữ làm Tổng chỉ huy, đem quân đánh thẳng vào Gia Định.

Tháng 2 năm Bính Thân (1776), Nguyễn Lữ bắt đầu lên đường. Lực lượng của Tây Sơn do Nguyễn Lữ chỉ huy trong trận đánh này bao hàm chủ yếu là thủy binh. Từ Quy Nhơn, quân Tây Sơn men theo duyên hải miền Trung ngày nay rồi vào cửa Cần Giờ mà đánh vào Sài Gòn. Bấy giờ, xét về quân số thì lực lượng của tập đoàn họ Nguyễn có ưu thế áp đảo, nhưng, do hoàn toàn bị thất ngờ, chúng đã không thể nào chống đỡ nổi Tây Sơn. Nguyễn Phúc Thuần bị đánh bật ra khỏi Gia Định, bỏ cả quân sĩ mà chạy thục mạng về Trấn Biên4. Nguyễn Lữ lập tức chia quân làm hai bộ phận đi truy kích. Bộ phận thứ nhất thì truy đuổi Nguyễn Phúc Thuần. Nguyễn Phúc Thuần hoảng hốt chạy đến lẩn trốn vào nhà một giáo sĩ người Tây Ban Nha là Diégo de Jumilla và chui xuống nằm dưới gầm giường mới thoát được5. Bộ phận thứ hai thì tiến thẳng xuống Long Hồ6, quyết đánh tan lực lượng của họ Nguyễn đang đóng giữ tại dây. Một trận đánh khá lớn đã diễn ra ở Long Hồ và kết quả là Tây Sơn đã toàn thắng, tướng chỉ huy lực lượng của họ Nguyễn ở đây là Bùi Hữu Lễ bị quân Tây Sơn bắt sống7.

Thấy những mục tiêu chính yếu đặt ra cho cuộc tấn công đã hoàn thành, Nguyễn Lữ liền rút quân về Quy Nhơn, chỉ để lại một bộ phận nhỏ làm nhiệm vụ giữ đất. Với trận tấn công này, chúa Nguyễn Phúc Thuần tuy chưa bị giết và lực lượng của chúa Nguyễn cũng chưa hoàn toàn bị tiêu diệt, nhưng, thắng lợi của Nguyễn Lữ trong trận tấn công này có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ sự phát triển của phong trào Tây Sơn sau đó. Từ đây, quá trình sụp đổ thảm hại của cơ đồ họ Nguyễn diễn ra ngày một gấp gáp và vô phương cứu vãn. Cũng từ đây, sức cuốn hút mạnh mẽ của Tây Sơn đối với các tầng lớp nhân dân Gia Định bắt đầu.
___________________________________
1, 2. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 2 thuộc phần II của Chương thứ hai trong sách này.
3. Châu Văn Tiếp (1738 - 1784) tức Châu Doãn Ngạnh, vốn người Phù Mỹ (Bình Định sau di cư đến Đồng Xuân (Phú Yên). Lúc đầu, Châu Văn Tiếp sống bằng nghề buôn, sau, cùng với anh là Châu Doãn Chử, Châu Doãn Chấn và Châu Doãn Húc, hùng cứ ở Trà Lang (Phú Yên).
4. Trấn Biên xưa là một vùng rộng lớn, đại để tương ứng với các tỉnh ngày nay như Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương và Bình Phước.
5. Lorenzo Pérez: Les Espagnols dans l’Empire d’Annam Bulletin de la Société des Études Indochinoises. Tom XV. N0 3. 4-1940.
6. Vùng Vĩnh Long ngày nay.
7. Tướng Bùi Hữu Lễ hiện chưa rõ lai lịch.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2009, 04:39:05 pm »


3. Cùng với Nguyễn Huệ, chỉ huy quân Tây Sơn tấn công vào Gia Định lần thứ năm (năm 1783)

Năm 1782, quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ chỉ huy đã tấn công vào Gia Định lần thứ tư1. Và, với cuộc tấn công lần thứ tư đó, một lần nữa, Nguyễn Ánh bị đánh cho tơi bời. Mùa hè năm 1782, sau khi thấy tình hình Gia Định đã tạm ổn, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ lại rút đại quân về Quy Nhơn, giao đất Gia Định cho tướng Đỗ Nhàn Trập2 coi giữ. Thấy Đỗ Nhàn Trập chỉ có ba ngàn quân mà đất Gia Định thì quá rộng lớn, khả năng kiểm soát và khống chế của Tây Sơn không cao, Nguyễn Ánh liền quay lại để tìm cách đánh trả. Bấy giờ, ngoài lực lượng của mình, Nguyễn Ánh còn nhận được sự trợ giúp của một số chiến hạm Pháp và Tây Ban Nha, vì thế, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Đỗ Nhàn Trập không sao chống đỡ nổi. Đất Gia Định mất dần vào tay Nguyễn Ánh, đó là chưa nói rằng, lực lượng thân Nguyễn Ánh ẩn náu tại Bình Thuận cũng nhân cơ hội đó mà ngóc đầu dậy. Tình hình biến đổi theo xu hướng ngày càng bất lợi cho Tây Sơn.

Tháng 2 năm Quý Mão (1783), Bộ chỉ huy Tây Sơn quyết định cử Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem quân tấn công vào Nam để trừng trị Nguyễn Ánh. Đó là cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ năm3. Lần này, lực lượng của Tây Sơn gồm chủ yếu là thủy binh. Cùng với Nguyễn Huệ và các tướng lĩnh cao cấp khác, Nguyễn Lữ đã có công tham gia vạch kế hoạch và trực tiếp chỉ huy mấy trận giáp chiến rất quan trọng sau đây:

- Đập tan phòng tuyến của Nguyễn Ánh thiết lập ở hai bên bờ sông Sài Gòn, giết chết tướng Tôn Thất Mân và bắt sống tướng Dương Công Trừng cùng nhiều tướng lĩnh và quân lính của Nguyễn Ánh.

- Tổ chức truy đuổi Nguyễn Ánh và Châu Văn Tiếp khi cả hai hốt hoảng bỏ chạy. Châu Văn Tiếp buộc phải trốn sang tận Xiêm La còn Nguyễn Ánh thì về ẩn náu tại Ba Giồng (nay thuộc Tiền Giang).

- Tấn công vào sào huyệt ẩn náu của Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh bị đại bại, các tướng thân tín của Nguyễn Ánh như Nguyễn Đình Thuyên, Nguyễn Văn Quý, Trần Đại Huề... đều bị tử trận, tướng Nguyễn Kim Phẩm bị bắt sống4.

- Truy đuổi gấp gáp, khiến cho Nguyễn Ánh phải bôn tẩu khắp nơi. Các tướng thân tín khác của Nguyễn Ánh như Tôn Thất Cốc, Tôn Thất Hoảng, Vinh Ma-ly và Tôn Thất Điển đều bị bắt và bị giết, tướng Lê Phúc Điển phải mặc áo Nguyễn Ánh để đánh lừa Tây Sơn, Nguyễn Ánh mới thoát được5.

Từ đây, cuộc truy đuổi ngoạn mục của quân Tây Sơn đối với Nguyễn Ánh diễn ra liên tục trong mấy tháng trời. Nguyễn Ánh phải chạy hết đảo này đến đảo khác dọc theo vùng duyên hải phía tây nam, hầu như chẳng có được một ngày nào bình yên cả. Đã có lúc Nguyễn Ánh bị đuổi, phải chạy ra ngoài biển khởi, cách đất liền những hai trăm cây số. Cuối cùng, để mong thoát được thế quẫn bách, Nguyễn Ánh đã cam tâm đi cầu ngoại viện, rước quân xâm lược Xiêm La về giày xéo đất nước ta.


4. Lời cuối về Đông Định Vương Nguyễn Lữ

Thuở thiếu thời, Nguyễn Lữ là bậc tu hành, sở nguyện là làm sao để quảng bá cho Ma-ni giáo, làm sao để có thể góp phần giữ đức và sửa đức cho thiên hạ. Nhưng rồi giang sơn bị đắm chìm bởi ách thống trị ngày càng tàn bạo của giai cấp phong kiến, không còn con đường nào khác, Nguyễn Lữ đã cùng với Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, cùng với những người bị áp bức đọa đày quả cảm cầm vũ khí, vùng lên “khuấy nước chọc trời”. Với tấm chiến bào, Nguyễn Lữ đã hiên ngang sửa đức theo cách duy nhất đúng của thời đại ông, đó là trước hết phải diệt trừ quân tham tàn. Tính chất và đặc trưng tuy có khác nhau, nhưng Nguyễn Lữ nói riêng và ba anh em Tây Sơn nói chung đã làm như tổ tiên ta trước đó hơn ba thế kỷ đã làm vậy:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo khử bạo”
6

Cùng tham gia phát động và lãnh đạo phong trào Tây Sơn, đi suốt cuộc trường chinh gian khổ của Tây Sơn, từ một người tu hành, Nguyễn Lữ đã trở thành một trong những danh tướng có tài năng trải rộng trên khá nhiều lĩnh vực khác nhau. Nguyễn Lữ quả là một hiện tượng độc đáo của lịch sử nước nhà vậy.

Năm 1776, Nguyễn Lữ là Thiếu Phó.

Năm 1778, Nguyễn Lữ là Tiết Chế.

Năm 1786, Nguyễn Lữ là Đông Định Vương, cai quản miến đất đại để tương ứng với Nam Bộ ngày nay.

Năm 1787, Nguyễn Lữ qua đời, do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông hưởng thọ bao nhiêu tuổi, tuy nhiên, điều chắc chắn có thể khẳng định là năm đó, Nguyễn Lữ chỉ mới trong độ tuổi từ ngoài ba mươi đến ba mươi lăm mà thôi.

Khi chuẩn bị khởi nghĩa, Nguyễn Lữ là tướng hậu cần xuất sắc. Mọi thắng lợi của nghĩa quân Tây Sơn lúc ấy đều gắn liền với những cố gắng và thành công của Nguyễn Lữ trong việc chăm lo hậu cần.

Khi Tây Sơn phát triển mạnh mẽ, Nguyễn Lữ là một trong những vị tướng cầm quân xuất sắc. Trong năm lần tấn công vào Gia Định, Nguyễn Lữ từng một lần là tổng chỉ huy và một lần là đồng chỉ huy. Cả hai lần đó, Nguyễn Lữ đều lập được công lao lớn.

Tuy nhiên, khi được trao trách nhiệm đứng đầu một vùng đất rộng lớn và có vị trí chiến lược rất quan trọng thì vai trò của Đông Định Vương Nguyễn Lữ mờ nhạt dần. Nguyễn Lữ đã tỏ ra thiếu kiên quyết và sắc sảo trong nhiệm vụ quản lí đất Gia Định. Ông bỏ Gia Định về Quy Nhơn rồi qua đời tại đó. Quả đúng là giành được chính quyền đã khó, giữ được chính quyền còn khó hơn. Với sự nghiệp giành chính quyền, Nguyễn Lữ là một ngôi sao sáng, tuy nhiên, khi phải kiên quyết giữ vững chính quyền, ngôi sao Nguyễn Lữ đã sớm tắt lịm. Tiếc thay.
________________________________________
1. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 4 thuộc phần IV của Chương thứ hai trong sách này.
2. Đỗ Nhàn Trập hiện chưa rõ lai lịch, chỉ biết ông vốn là tướng của quân Đông Sơn (đội quân đối nghịch với Tây Sơn), sau, hàng Tây Sơn và trở thành tướng của Tây Sơn.
3. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 5 thuộc phần IV của Chương thứ hai trong sách này.
4. Nguyễn Đình Thuyên người huyện Tân Long (nay thuộc Đồng Nai). Nguyễn Văn Quý chưa rõ lai lịch. Trần Đại Huề, người Phú Vang (Thừa Thiên-Huế), con của Trần Đại Thể. Nguyễn Kim Phẩm người Nam Định, vượt biển vào với Nguyễn Ánh năm Kỷ Hợi (1779).
5. Tôn Thất Cốc, Tôn Thất Hoảng đều thuộc dòng dõi quý tộc họ Nguyễn. Tôn Thất Điển là em của Nguyễn Ánh. Lê Phúc Điển người Phú Vang (Thừa Thiên-Huế), Vinh Ma-ly là người Xiêm La tình nguyện theo Nguyễn Ánh.
6. Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo.
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Sáu, 2009, 08:27:05 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2009, 04:53:35 pm »


Chương thứ ba
DANH TƯỚNG TÂY SƠN

(Sắp tên theo thứ tự vần chữ cái của tiếng Việt)



I - TIỂU DẪN

Trong lịch sử Việt Nam, có lẽ không mấy ai phải chịu sự thiệt thòi lớn lao như các danh tướng Tây Sơn. Họ có cả một đời xông pha oanh liệt với hàng loạt những võ công kiệt xuất, nhưng, sử sách ghi chép về họ lại quá ít ỏi. Họ đã anh dũng chiến đấu quên mình vì nghĩa cả là cứu nước và cứu dân, nhưng ngay sau đó sự nghiệp phi thường của họ đã bị quá nhiều những cây bút thù nghịch tìm cách xuyên tạc. Chẳng phải là ngẫu nhiên mà tác giả của Tây Sơn lương tướng ngoại truyện là Nguyễn Trọng Trì đã có những lời cảm vịnh vừa hùng tráng lại vừa man mác một nỗi buồn không nguôi:

“Tướng quân chiến mã kim hà tại?
Dã thảo nhàn hoa mãn địa sầu”.

(Chiến mã của tướng quân giờ ở nơi đâu? Cỏ hoa đồng nội đất đầy sầu).

Lời của Nguyễn Trọng Trì, ở một chừng mực nào đó, cũng có thể coi là lời chung của tất cả những ai nặng lòng với thiên cổ, trong đó có tác giả của Danh tướng Việt Nam.

Làm sao để có thể tái hiện được một cách đầy đủ về sự nghiệp của các danh tướng Tây Sơn? Từ trước đến nay đã có không ít người cố hết sức mình và cho dẫu sự cố gắng đó cũng đã đem lại một số thành quả rất đáng khích lệ, nhưng, tất cả vẫn chưa thể làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của xã hội rộng lớn hôm nay. Kẻ hậu sinh này vẫn thường lấy làm bức bối và day dứt bởi sự kém cỏi và bất cập của mình. Thế ra, có dư dả lòng thành cũng chưa chắc đã có thêm được điều gì đáng kể.

Một đêm, sau khi đọc lại những dòng phác thảo vắn tắt về các danh tướng Tây Sơn, tác giả của Danh tướng Việt Nam lặng lẽ lên nằm dài trên chiếc ghế nhỏ đặt ở giữa sân thượng, ngắm mãi bầu trời chi chít những sao là sao. Chao ơi, ai dám bảo rằng những ngôi sao li ti trên bầu trời xa xăm kia là bé nhỏ? Sự vĩ đại nếu ở cách ta quá xa và một khi chính ta cũng chẳng có cách gì để tiến đến gần hơn được, thì trong con mắt bé nhỏ của mình, sự vĩ đại chỉ còn là những chấm sáng li ti đó thôi. So sánh thì khập khiễng và sự khập khiễng thường rất dễ dẫn tới sự hiểu lầm, nhưng quả thật là cuộc đời và sự nghiệp của các bậc vĩ nhân nói chung, của các danh tướng Tây Sơn nói riêng, cũng tương tự như những ngôi sao trên bầu trời bao la ấy. Bao năm cất công chắt lọc những ghi chép tản mạn của sử cũ, lại thêm bao năm cẩn trọng khảo sát đó đây, tác giả của Danh tướng Việt Nam vẫn không sao có thể viết nhiều hơn về các bậc danh tướng Tây Sơn. Cầm sách này lên, có thể bạn sẽ trách cứ rằng, tại sao cũng đều là danh tướng mà số lượng trang viết về mỗi người lại quá chênh lệch nhau. Tác giả xin bày tỏ sự đồng cảm với bạn, bởi vì tâm tư của bạn cũng chính là tâm tư của tác giả đó thôi. Song, sử học không bao giờ chấp nhận sự hư cấu cả. Những gì chưa biết thì hãy kiên nhẫn chờ cho đến khi biết rồi mới được phép trình bày. Xin được trở lại với bầu trời quen thuộc. Trong mắt ta, những ngôi sao sở dĩ trở nên bé nhỏ, ấy cũng bởi tại chúng ta không thể tới gần hơn để chứng kiến sự vĩ đại của nó đó thôi. Trên sân thượng của ngôi nhà bé nhỏ, tác giả cũng chẳng thể gần các ngôi sao hơn bao người đang đứng dưới mặt đường. Những trang viết dưới đây kể cũng như bức ảnh nhỏ về các ngôi sao xa xăm vậy.





II - DANH TƯỚNG TÂY SƠN

01. ĐẶNG XUÂN BẢO (? - 1802)

“Bảo ít đọc sách nhưng rất trung liệt và giàu
mưu lược hơn người. Ông thường dùng đức
để trị nên ai cũng vui theo”1.


Đặng Xuân Bảo sinh năm nào, quê quán ở đâu... hiện chưa ai rõ. Sử cũ chỉ cho biết ông là tướng của Tây Sơn, được Quang Trung Nguyễn Huệ phong tới chức Đại Đô Đốc, vì thế, đời vẫn thường gọi ông là Đô Đốc Bảo. Trong đội ngũ các tướng lĩnh cao cấp của Tây Sơn, Đặng Xuân Bảo là một trong số những người bạn chiến đấu thân thiết nhất của Quang Trung Nguyễn Huệ.

Năm 1788, khi hành quân thần tốc ra tiêu diệt quân xâm lược Mãn Thanh, Quang Trung Nguyễn Huệ có một chỗ dựa rất tin cậy và vững chắc, đó là Đô Đốc Bảo. Tại Tam Điệp và Biện Sơn Quang Trung Nguyễn Huệ chia quân làm năm đạo, quyết chí đại phá quân Mãn Thanh bằng một trận sấm sét ở ngay kinh thành Thăng Long. Và, một trong những đạo quân lớn đó được Nguyễn Huệ giao cho Đô Đốc Bảo chỉ huy.

Quân của Đô Đốc Bảo lấy từ lực lượng Hữu Quân2 gồm chủ yếu là tượng binh và kỵ binh. Trong quân đội Tây Sơn, nếu tượng binh là binh chủng chiến đấu lợi hại nhất thì kỵ binh chính là binh chủng có khả năng vận động linh hoạt nhất. Bấy giờ, voi chiến của Quang Trung Nguyễn Huệ được khéo léo đặt đại bác ở trên lưng, vì thế, tượng binh Tây Sơn khác hẳn với tượng binh của tất cả mọi thời trước đó. Đây là sáng tạo độc đáo của Quang Trung Nguyễn Huệ, cũng là bất ngờ lớn nhất của quân xâm lược Mãn Thanh.

Theo kế hoạch của Quang Trung Nguyễn Huệ, từ Tam Điệp, đạo quân do Đô Đốc Bảo chỉ huy có nhiệm vụ băng qua Sơn Minh3 rồi tiến thẳng ra Đại Áng4. Như vậy, ngoài thủy binh xuất phát ở Biện Sơn, toàn bộ tượng binh, kỵ binh và bộ binh xuất phát từ Tam Điệp được chia làm ba đạo khác nhau, Đô Đốc Bảo ở giữa, Quang Trung Nguyễn Huệ ở mạn phía đông, bên phải, còn Đô Đốc Long (Đặng Tiến Đông?) ở mạn phía tây, bên trái.

Trong trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa, đạo quân do Đô Đốc Bảo chỉ huy đã trực tiếp tham gia và góp phần quan trọng vào cuộc tấn công đồn Ngọc Hồi, đồng thời chặn đánh quân giặc thua trận từ Ngọc Hồi chạy đến vùng Đầm Mực5. Về sự phối hợp tác chiến giữa đạo quân đo Đô Đốc Bảo chỉ huy với đạo quân do đích thân Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ huy, sử cũ mô tả như sau:

“Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một, bên ngoài lấy rơm thấm nước rồi phủ kín lên, tất cả được hai mươi tấm ghép như thế. Xong, Nhà vua liền chọn lấy hạng lính khỏe, lưng giắt dao ngắn, cứ mười người cùng khiêng một tấm ván ghép mà tiến, phía sau là hai mươi người khác binh khí sẵn sàng, tất cả dàn trận hình chữ nhất (一) để xông lên. Vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc. Mờ sáng ngày mồng năm Tết thì áp sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng thể trúng ai cả. Nhân có gió Bắc, giặc liền dùng ống phun khói lửa ra, khiến cho trời đất mù mịt, cách nhau chỉ trong gang tấc vẫn không nhìn thấy gì. Chúng hi vọng sẽ khiến cho quân Nam (tức quân Quang Trung - NKT) rối loạn. Chẳng dè, một lát sau thì trời trở gió Nam, thành thử khói lửa của giặc lại gây hại cho giặc. Vua Quang Trung lập tức sai đội quân khiêng ván xông thẳng lên phía trước. Khi gươm giáo hai bên bắt đầu chạm nhau thì quang ván xuống rồi vung dao chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng ào ạt xông lên mà đánh.

Quân Thanh chống đỡ không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái Thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử6. Quân Tây Sơn thừa thế chém tới, thây giặc chất đầy đồng, máu giặc chảy thành suối. Giặc Thanh đại bại.

Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân đi men theo bờ đê Yên Duyên rồi kéo lên, mở cờ gióng trống làm nghi binh ở mạn phía đông. Lúc ấy, quân Thanh chạy đến, thoáng thấy đã hoảng sợ, bèn tìm đường theo lối tắt qua Vịnh Kiều để trốn. Chợt thấy voi từ Đại Áng tới, chúng càng hết hồn hết vía, bỏ chạy tới Đầm Mực thuộc làng Quỳnh Đô. Tây Sơn liền lùa voi ra giày đạp, khiến giặc bị chết có đến cả vạn người”7.

Như vậy, nếu Quang Trung Nguyễn Huệ là người táo bạo tổ chức cuộc tấn công quyết liệt vào Ngọc Hồi và nhanh chóng đánh bật quân Thanh ra khỏi sào huyệt nguy hiểm này của chúng, thì Đô Đốc Bảo là người tổ chức trận đánh bọc hậu xuất sắc ở Đầm Mực, tiêu diệt một bộ phận sinh lực của giặc, đồng thời, làm tê liệt ý chí chiến đấu của chúng.

Đặt trong diễn biến chung của toàn bộ trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa, thắng lợi ở riêng đồn Ngọc Hồi có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng đó, cống hiến của Đô Đốc Đặng Xuân Bảo là rất lớn lao. Ông đã chứng tỏ khả năng chỉ huy trận mạc rất xuất sắc xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao của Quang Trung Nguyễn Huệ và của đông đảo nghĩa sĩ Tây Sơn đương thời.

Sau trận đại thắng Tết Kỷ Dậu (1789), Đô Đốc Đặng Xuân Bảo được Quang Trung trọng thưởng và tiếp tục giao nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội. Thời Quang Toản, Đặng Xuân Bảo được phong chức Bình Đông Tướng Quân. Ông đi đến đâu là trật tự xã hội ở đó được nhanh chóng thiết lập và củng cố. Đời vẫn khen ông là tướng giàu uy đức.

Đặng Xuân Bảo là một trong những người quyết chí đánh trả Nguyễn Ánh đến cùng. Tuy nhiên, tình thế Tây Sơn từ những năm cuối cùng của thế kỷ thứ XVIII trở đi đã ngày một bi đát. Trong một trận giao tranh quyết liệt với Nguyễn Ánh ở Thanh Hóa vào năm 1802, vì thân cô thế cô, Đô Đốc Đặng Xuân Bảo đã bị bắt. Ông nhịn ăn năm ngày rồi mất. Vì chưa rõ năm sinh nên chưa biết khi mất, Đặng Xuân Bảo thọ bao nhiêu tuổi.
____________________________________
1. Nguyễn Trọng Trì: Tây Sơn lương tướng ngoại truyện.
2. Quang Trung Nguyễn Huệ chia toàn bộ lực lượng của mình thành năm doanh hay năm quân. Năm quân đó là: Tả Quân, Hữu Quân, Tiền Quân, Hậu Quân và Trung Quân.
3. Sơn Minh nay thuộc Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây.
4. Đại Áng nay thuộc Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
5. Đầm Mực nay thuộc Quỳnh Đô, Thanh Trì, Hà Nội.
6. Theo ghi chép của Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 40) thì Sầm Nghi Đống đã thắt cổ tự tử ở Loa Sơn (tức Gò Đống Đa).
7. Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 09 Tháng Sáu, 2009, 06:10:00 pm »


02. TRẦN QUANG DIỆU (? - 1802)

Vô đoan hữu lục anh hùng phổ,
Túy mặc lâm li bất tự cầm
1.
(Nào phải vô cớ mà chép chuyện anh hùng,
Mực say lâm li không thể ngăn lại được đó thôi).



Các tài liệu xưa nay đều nói rằng, Trần Quang Diệu sinh trưởng tại làng Ân Tín, huyện Hoài Ân (nay thuộc tỉnh Bình Định). Tuy nhiên, trong một dịp đi khảo sát tại Đà Nẵng (vào cuối năm 1997), chúng tôi lại tìm thấy một ngôi mộ cổ và một bản phổ ý. Ngôi mộ cổ ấy là mộ của mẹ Trần Quang Diệu (nằm ở ngoại vi thành phố Đà Nẵng) và bản phổ ý ấy là phổ ý của dòng họ Trần Quang Diệu. Cả hai tư liệu này đều nói Trần Quang Diệu là người Quảng Nam. Đó là hai tư liệu quý, nhưng, bản thân hai tư liệu đó vẫn chưa đủ để có thể khẳng định một cái gì khác hẳn trước đây. Trong lúc chờ đợi kết quả phân tích giá trị văn bản của bản phổ ý và chờ đợi thêm kết quả của những đợt khảo sát mới, chúng tôi chỉ xin sơ bộ giới thiệu qua như trên mà thôi.

Trần Quang Diệu sinh năm nào chưa rõ. Một số chuyện kể dân gian nói rằng, trước khi trở thành một trong những vị hổ tướng của Tây Sơn, Trần Quang Diệu từng có mối quan hệ khá thân tình với Nguyễn Nhạc, và như vậy, cũng có thể đoán định là tuổi tác của Nguyễn Nhạc với Trần Quang Diệu, bằng hoặc giả là chênh lệch nhau không bao nhiêu. Khi Nguyễn Nhạc dựng cờ xướng nghĩa ở Tây Sơn, Trần Quang Diệu là một trong số những người nhiệt liệt hưởng ứng sớm nhất. Ông (và vợ là Bùi Thị Xuân) được Bộ chỉ huy Tây Sơn tin cậy trao phó những chức vụ ngày càng lớn.

Năm 1788, Trần Quang Diệu đã sát cánh với Quang Trung Nguyễn Huệ trong cuộc hành quân thần tốc ra Bắc để chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược với quân Mãn Thanh. Và, trong trận Ngọc Hồi-Đống Đa (Tết Kỷ Dậu, 1789), Trần Quang Diệu là một trong những vị tướng đã lập công xuất sắc. Bấy giờ, nếu các Đô Đốc như Đặng Xuân Bảo, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Đặng Tiến Đông (?) được trao quyền chỉ huy những đạo quân riêng, thì các tướng lĩnh cao cấp khác như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu,... lại cùng với Quang Trung Nguyễn Huệ, chỉ huy đạo quân chủ lực, đánh thẳng vào Hà Hồi và Ngọc Hồi. Thắng lợi vang dội ở Hà Hồi và đặc biệt là Ngọc Hồi đã chứng tỏ biệt tài cầm quân của Quang Trung Nguyễn Huệ và các vị tướng lĩnh Tây Sơn, trong đó có Trần Quang Diệu.

Nhờ công lao trong cả quá trình tham gia khởi nghĩa, năm 1790, Trần Quang Diệu được Quang Trung Nguyễn Huệ bổ làm Đốc Trấn Nghệ An. Với chức vụ đó, Trần Quang Diệu đã cùng với Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận, nhanh chóng ổn định xã hội, tạo điều kiện cho nhân dân trấn Nghệ An có thể yên tâm làm ăn sinh sống.

Cũng trong thời gian làm Đốc Trấn Nghệ An, cùng với Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận, Trần Quang Diệu đã có công tổ chức thực hiện việc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô. Thực tế cho thấy, Trần Quang Diệu là một trong những người rất có tài năng trong lĩnh vực đặc biệt này.

Dưới thời Quang Toản, Trần Quang Diệu được phong tới Thiếu Phó, vì thế, dã sử xưa vẫn thường gọi ông là quan Thiếu Phó. Trong cuộc đối đầu quyết liệt với Nguyễn Ánh, Trần Quang Diệu là người lập được rất nhiều công lao. Ông đã nhiều phen đánh cho quân của Nguyễn Ánh phải thất điên bát đảo. Trận đánh lớn nhất của Trần Quang Diệu đối với quân Nguyễn Ánh là trận Quy Nhơn (1801). Bấy giờ, quân Nguyễn Ánh trong thành này do viên tướng khét tiếng là Võ Tánh cầm đầu. Sát cánh với Võ Tánh còn có một văn thần cao cấp là Ngô Tùng Châu. Sau mười bốn tháng trời liên tục vây hãm, cuối cùng, Trần Quang Diệu đã hạ được thành Quy Nhơn (tức thành Bình Định). Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đều phải tự tử.

Sau khi chiếm được thành Quy Nhơn, Trần Quang Diệu đã có một việc làm được người đời khen là tướng nhân đức. Việc làm đó là chôn cất Võ Tánh và Ngô Tùng Châu rất tử tế, đồng thời, tha mạng cho tất cả tướng sĩ của Nguyễn Ánh còn sót lại ở trong thành. Cũng sau chiến thắng Quy Nhơn, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cầm quân đóng tại thành này.

Năm 1802, trong một trận ác chiến với quân Nguyễn Ánh ở Nghệ An, Trần Quang Diệu cùng vợ là Bùi Thị Xuân bị bắt. Sau nhiều lần tìm cách chiêu hàng mà không được, Nguyễn Ánh đã xử tử cả gia đình ông một cách vô cùng dã man. Ông bị lột da còn vợ con ông thì bị voi giày.
________________________________
1. Nguyễn Bá Huân: Lời đề tựa cho Tây Sơn lương tướng ngoại truyện của Nguyễn Trọng Trì.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM