Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Tư, 2024, 10:23:56 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Danh tướng Việt Nam - Tập 3  (Đọc 63620 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 03:43:07 pm »


Chống trả cuộc đàn áp của Hoàng Công Kỳ và Hoàng Ngũ Phúc (từ tháng 2 đến tháng 6 năm Quý Hợi - 1743)

Hoàng Công Kỳ xuất thân là hoạn quan. Sử cũ cho biết viên hoạn quan này vốn người làng Trình Xá, huyện Thần Khê1. Đầu năm 1740, Hoàng Công Kỳ đã được lệnh cầm quân đi đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ở Sơn Nam2. Cuối năm 1742, Hoàng Công Kỳ được thăng chức Thống Tướng Chánh Đạo, chỉ huy cuộc đánh dẹp phong trào nổi dậy của nhân dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Hoàng Công Kỳ đã cố sức hoàn thành phận sự nhưng không sao có thể hoàn thành được.

Trong lúc Hoàng Công Kỳ đang lúng túng và sa lầy thì viên hoạn quan thứ hai của phủ chúa là Hoàng Ngũ Phúc lại dâng sớ lên chúa Trịnh Doanh, trình bày mười hai điều về binh pháp. Hoàng Ngũ Phúc người làng Phụng Công, huyện Yên Dũng, nay huyện này thuộc tỉnh Bắc Giang. Là một trong những tay chân thân tín của Trịnh Doanh, Hoàng Ngũ Phúc được thăng quan tiến chức rất nhanh. Đầu năm 1740, Hoàng Ngũ Phúc được trao chức Tả Thiếu Giám, sau đó không bao lâu lại được sung chức Nội Sai của Hình Phiên. Mười hai điều binh pháp của Hoàng Ngũ Phúc được Trịnh Doanh tán thưởng, vì thế, Trịnh Doanh vừa hạ lệnh thi hành, vừa phong cho Hoàng Ngũ Phúc chức Thống Lĩnh đạo kì binh3, cùng với Hoàng Công Kỳ đi đánh Nguyễn Hữu Cầu. Sử cũ chép rằng:

“Lúc (Hoàng) Ngũ Phúc mới nghe được mệnh lệnh (của chúa) thì rất lấy làm lo sợ, vì từ trước đến đó, (Hoàng Ngũ Phúc) chưa từng ra chiến trận bao giờ. Khi ấy, có một người khách (chỉ người Trung Quốc - NKT) đến khuyên:

- Tướng công nên vay một vạn quan tiền trong kho công của nhà nước để dùng mà mộ tráng sĩ cho mình.

Hoàng Ngũ Phúc nói:

- Nay nếu vay tiền trong kho công của nhà nước thì đến một ngày nào đó cũng phải trả, mà trả thì lấy đâu ra.

Người khách ấy nói tiếp:

- Tục ngữ có câu rằng “Tướng vô tài, sĩ bất lai”, nghĩa là người làm tướng mà không có của cải thì dũng sĩ chẳng bao giờ tìm đến cả. Nếu như tướng công thật lòng nghe kế sách của tôi, thì tráng sĩ đều hết sức vì tướng công và quyết thắng địch. Thắng rồi thì tướng công đã sang lại còn giàu, lo gì khoản nợ một vạn quan tiền? Còn như nếu lỡ bị sa cơ đến chỗ không thể nói được nữa (ý nói là nếu có chết - NKT) thì còn ai nỡ trách cứ món nợ? Mà trách cứ vào đâu được chứ?

Hoàng Ngũ Phúc cho là phải, bèn làm theo lời ấy”4.

Trong lúc Hoàng Ngũ Phúc đang lo bỏ tiền để chiêu mộ quân sĩ thì Hoàng Công Kỳ được lệnh đem quân đến đàn áp Nguyễn Hữu Cầu trước. Lần này, Hoàng Công Kỳ trực tiếp chỉ huy bộ binh. Lực lượng thủy binh tham gia vào cuộc đàn áp có quy mô lớn này được giao cho tướng Trần Cảnh cầm đầu. Ngoài ra, một đạo quân khác của tướng Võ Tá Liễn5 cũng được huy động.

Người trực tiếp cầm quân đi đánh Nguyễn Hữu Cầu là Hoàng Công Kỳ, nhưng, người trực tiếp vạch kế hoạch cho cuộc tấn công đàn áp này lại là chúa Trịnh Doanh. Sử cũ xác nhận rằng: “Trước lúc ra đi, Trịnh Doanh thân hành trao mưu kế và phương pháp”6. Tuy lực lượng thủy bộ đã rất hùng hậu, nhưng, Hoàng Công Kỳ vẫn chưa yên tâm nên cố nài Trịnh Doanh cho thêm một đạo thủy binh nữa:

“Hoàng Công Kỳ dâng tờ khải, nói rằng: giặc (chỉ quân của Nguyễn Hữu Cầu - NKT) bám vào núi và nương vào biển để làm chỗ dựa kiên cố, mà nước biển lên xuống không nhất định, cho nên, muốn phá Đồ Sơn mà ta không tranh chiếm địa lợi trước là không thể được. Muốn tranh chiếm địa lợi thì phải dùng thủy binh. Vậy, xin giữ đạo thủy quân Tứ Trạch lại để phòng bị”7.

Trịnh Doanh chuẩn y lời đề nghị ấy. Bấy giờ, tướng chỉ huy đạo thủy quân Tứ Trạch là Nguyễn Đăng Hiển. Chính viên tướng này đã từng tham gia đàn áp nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Ngay sau khi có thêm đạo thủy binh của Nguyễn Đăng Hiển, Hoàng Công Kỳ hạ lệnh đánh thẳng vào Đồ Sơn. Trước thế mạnh của đối phương như vậy, Nguyễn Hữu Cầu chủ động rút lui, và do đó, Hoàng Công Kỳ không thể nào đánh theo cách đánh của mình. Về phần mình, Nguyễn Đăng Hiển tự cho là đã hoàn tất phận sự, kéo đạo thủy binh của mình về thẳng Thăng Long.

Nguyễn Đăng Hiển đi rồi, Nguyễn Hữu Cầu lập tức cho quân quay lại bao vây Hoàng Công Kỳ ở Thanh Hà. Tình thế rất nguy cấp, Hoàng Công Kỳ buộc phải cho quân cảm tử mở đường máu về xin quân cứu viện. Bấy giờ, Hoàng Ngũ Phúc cũng vừa chiêu mộ xong lực lượng, liền tiến đến giải vây cho Hoàng Công Kỳ. Nhưng, đến khu vực Vĩnh Lại, quân của Hoàng Ngũ Phúc bị Nguyễn Hữu Cầu đánh chẹn lại, không sao vượt qua được.

Đang lúc khốn quẫn, Hoàng Công Kỳ được quan Tán Lý là Vũ Khâm Lân8 bàn mưu tính kế giúp. Sử cũ9 cho biết, đại để, Vũ Khâm Lân đã nói với Hoàng Công Kỳ rằng:

- Quân từ kinh sư (chỉ quân Hoàng Ngũ Phúc - NKT) thì chưa thể tới ngay được mà nếu cứ ngồi đợi, ắt khó kịp, chi bằng, nhân khi giặc (chỉ quân Nguyễn Hữu Cầu - NKT) đang lo đối phó với đạo kì binh (chỉ đạo quân của Hoàng Ngũ Phúc - NKT), ta hãy nhanh tay cướp lấy mặt sau, cùng với đạo kì binh phối hợp trước sau đánh tới, thế nào cũng sẽ phá được.

Hoàng Công Kỳ nghe theo kế ấy, kéo quân ra cửa Ngư Đại10, thấy lực lượng của Nguyễn Hữu Cầu ở đây không nhiều, liền tung quân vừa đánh vừa tìm đường tiến về khu vực sông Tranh11 để hội nhập với quân Hoàng Ngũ Phúc. Trong trận kịch chiến với quân của Hoàng Ngũ Phúc và Hoàng Công Kỳ, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu đã giết được một viên tì tướng của họ Trịnh là Trịnh Bá Khâm12 cùng nhiều binh sĩ của hắn.
____________________________________
1. Tác giả chưa xác định được vị trí cụ thể của làng Trình Xá trên bản đồ hiện nay.
2. Xin tham khảo thêm mục 3-Hoàng Công Chất (?-1769) ở sau.
3. Đạo binh chuyên lo việc bất ngờ đánh úp ở phía sau, khác với chính binh là đạo quân chuyên lo đánh trực diện với đối phương.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 29).
5. Trần Cảnh người làng Điền Trì, huyện Chí Linh (nay là thôn Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương), đỗ Tiến Sĩ năm 1718.
    Võ Tá Liễn người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà (nay là xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Võ Tá ở Hà Hoàng là dòng võ tướng nổi tiếng, với nhiều nhân vật được sử ghi tên như Võ Tá Sắt, Võ Tá Kiên, Võ Tá Lý, Võ Tá Quán, Võ Tá Đoan.. v.v.

6, 7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 32).
8. Vũ Khâm Lân tức Vũ Khâm Thận (1703 -?) người làng Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương), đỗ Tiến Sĩ năm 1727.
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 33).
10. Tên cửa sông thuộc xã Ngư Đại, huyện Thanh Hà (nay thuộc Hải Dương).
11. Tên sông ở huyện Vĩnh Lại xưa, nay thuộc Hải Dương.
12. Hiện chưa rõ lai lịch của Trịnh Bá Khâm.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 03:47:05 pm »


Bất ngờ đánh chiếm Kinh Bắc, khiến cả Thăng Long phải một phen hoảng loạn (5-1744)

Mưu kế của Vũ Khâm Lân kể cũng khá hiểm, chỉ tiếc cho Vũ Khâm Lân là Nguyễn Hữu Cầu còn có mưu kế hiểm hơn. Sau khi giết được Trịnh Bá Khâm, Nguyễn Hữu Cầu vừa bí mật bố trí nghi binh ở khu vực cửa Ngư Đại, vừa lặng lẽ kéo quân về Kinh Bắc1. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu đã chiếm được sông Thọ Xương2. Tại đây, ông gấp rút cho đắp lữy để chống cự, đồng thời, bày chiến thuyền theo thế trận rất sẵn sàng.

Bấy giờ, Kinh Bắc là một trong những trọng trấn, vì thế vào năm 1741, chúa Trịnh Doanh đã cho hai võ quan cao cấp là Nguyễn Huy Nhuận và Trần Đình Cẩm làm Chưởng Đốc, chỉ huy lực lượng quân sự ở trấn này. Đến tháng 5 năm 1744, không rõ vì lí do gì, trấn Kinh Bắc chỉ còn một Chưởng Đốc là Trần Đình Cẩm3 nữa mà thôi. Nghe tin nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu mới kéo tới, Trần Đình Cẩm lập tức giành thế chủ động tấn công. Từ đất Thiết Sơn4, Trần Đình Cẩm tiến đến Trai Thị5 và tại đây, một trận kịch chiến đã xảy ra. Trần Đình Cẩm đại bại, phải lui về Thị Cầu6 còn nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu thì nhân đà thắng lợi đã đánh đuổi rất gấp. Cùng đường, Trần Đình Cẩm phải rút quân vào thành Kinh Bắc, nhưng một lần nữa, Nguyễn Hữu Cầu cho quân quyết đánh đến cùng. Thành Kinh Bắc bị hạ. Quan Đốc Đồng Kinh Bắc là Vũ Phương Đề7 cùng với Trần Đình Cẩm đã phải hoảng hốt vất bỏ cả ấn tín mà tháo chạy. Tất cả dinh trại của quân đội chúa Trịnh ở đây đều bị thiêu trụi.

Tin Kinh Bắc thất thủ chẳng mấy chốc mà bay vào Thăng Long. Đang lúc nửa đêm mà nhân dân trong khắp kinh thành đều nhốn nháo sợ hãi, dắt díu nhau chạy trốn tán loạn. Do đại binh đã điều đi xa, chúa Trịnh Doanh bèn hạ lệnh chia mấy đội vệ binh còn lại, cấp tốc đi trấn giữ ở bốn vị trí hiểm yếu, đó là khu trường bắn (nay là khu Giảng Võ, Hà Nội), xã Vân Canh (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), xã Nhân Mục (nay thuộc Từ Liêm, Hà Nội) và cầu Yên Quyết (tức là khu Cầu Giấy, Hà Nội). Mặt khác, Trịnh Doanh cũng gấp sai người đi triệu Hoàng Ngũ Phúc. Nghe tin Kinh Bắc thất thủ, Hoàng Ngũ Phúc cũng kinh hoàng, liền bỏ Vĩnh Lại, đưa quân về chiếm giữ Võ Giàng (vùng đất tiếp giáp giữa Hà Nội với Bắc Ninh ngày nay).


Chống trả cuộc tấn công đàn áp đại quy mô của quân đội chúa Trịnh vào Kinh Bắc (từ tháng 7 đến tháng 11-1744)

Sự lúng túng và bị động của Hoàng Ngũ Phúc khiến cho Trịnh Doanh rất bực tức. Vừa được tin Hoàng Ngũ Phúc kéo quân về Võ Giàng, Trịnh Doanh đã sai người đến quở trách Hoàng Ngũ Phúc rất thậm tệ. Sử cũ chép:

“Vừa đem quân đến Võ Giàng, (Hoàng) Ngũ Phúc đã bị Trịnh Doanh sai người tới quở trách rằng:

- Các ngươi đi đánh dẹp đã hơn một năm, đã tiến sát đến Đồ Sơn những năm sáu tháng mà sao lại phòng bị sơ hở, khiến cho tên giặc hung hãn kia (chỉ Nguyễn Hữu Cầu - NKT) có thể rời khỏi sào huyệt của chúng? Tại sao giặc bỏ đi được những bảy tám ngày rồi mới đuổi theo, khiến cho đồ đảng của chúng có thể đột ngột xâm phạm (Kinh Bắc), gây náo động cả lòng người? Thử hỏi, như thế có đáng là đã làm được phận sự của tướng trấn giữ ngoài cõi hay không. Ngươi phải cố sức lên mới mong chuộc được lỗi lầm.

(Hoàng) Ngũ Phúc dâng tờ khải, nói rằng:

- (Nguyễn) Hữu Cầu sau khi bị thua, phải trốn tránh đó đây, quân đã ít mà phải phân tán... thiết nghĩ, việc đánh dẹp cũng dễ dàng. Nay nếu tôi có thêm voi chiến trợ uy thì tôi sẽ dùng voi chia cắt lực lượng chúng, khiến chúng trước sau không tiếp ứng cho nhau được, tất sẽ toàn thắng thôi. Vả chăng, chúng bất quá chỉ có ý định liên kết với các đám giặc cỏ khác nên mới tiến lên quấy phá vùng sông Nhị. Nay, tôi đóng giữ Võ Giàng, nếu chúng đem hết quân ra mặt trước thì sợ tôi đánh mặt sau, cho nên, nhiều lắm thì chúng cũng chỉ dám liều chết cố thủ, không làm gì hơn được cả.

Nhận tờ khải của Hoàng Ngũ Phúc, Trịnh Doanh mừng lắm, lòng người bấy giờ mới tạm yên”8.

Một cuộc đàn áp đại quy mô được gấp rút tổ chức. Trịnh Doanh quyết định cử Cổn Quận Công là Trương Khuông đem binh lực lớn tới hỗ trợ cho Hoàng Ngũ Phúc. Mục tiêu hàng đầu của cả Hoàng Ngũ Phúc và Trương Khuông là phải làm sao nhanh chóng chiếm lại cho bằng được thành Kinh Bắc. Về phần mình, Nguyễn Hữu Cầu lại thấy rằng, nếu cố thủ trong thành Kinh Bắc là mắc mưu của đối phương, cũng là tự giam mình vào chỗ chết, vì thế, đã khôn khéo rút ra ngoài, linh hoạt bám giữ vùng đồng bằng phì nhiêu, giàu sức người và sức của.

Sau khi lấy lại được thành Kinh Bắc, Hoàng Ngũ Phúc và Trương Khuông rất hí hửng. Chúng dốc toàn lực, quyết tiêu diệt cho bằng được nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu. Sử cũ cho hay, 64 hiệu quân gồm 12.700 người do mười đại tướng chỉ huy9 đã được điều động vào cuộc truy quét này. Tất cả quân số nói trên được chia làm năm đạo, cùng đánh vào khu vực Yên Dũng. Năm đạo đó cụ thể như sau:

- Đạo thứ nhất đánh thẳng vào phía trước, do Trương Khuông cầm đầu.

- Đạo thứ hai đánh vào phía trái do Nguyễn Trọng Thận chỉ huy.

- Đạo thứ ba đánh vào phía phải do Lê Lệ quản lĩnh.

- Đạo thứ tư đánh vào mặt sau do Võ Tá Liễn thống suất.

- Đạo thứ năm do chính Hoàng Ngũ Phúc điều hành, chặn hết các ngả đường sông dẫn ra biển để đề phòng nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu trốn thoát10.

Cuộc càn quét mang ý nghĩa quyết định này bắt đầu từ tháng 4 năm 1744, nhưng liên tục trong hơn nửa năm trời, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cấu chẳng những không hề bị tiêu diệt mà còn hiên ngang bám trụ được ngay giữa vùng đồng bằng Kinh Bắc. Trong lúc đó, nhân cơ hội xuất chinh, quân sĩ của chúa Trịnh tìm đủ mọi cách để sách nhiễu nhân dân, khiến cho ai ai cũng oán giận. Bấy giờ, chỉ có đạo quân do Lê Lệ quản lĩnh là ít xâm phạm đến tài sản của dân hơn cả11, còn bốn đạo quân khác, hễ tiến tới đâu là của cải nhà dân tan hoang tới đó.

Khi quân sĩ của chúa Trịnh đã mệt mỏi, khi lòng căm giận của nhân dân đã lên cao, Nguyễn Hữu Cầu quyết định chủ động tấn công để phá thế bị bao vây. Trong năm đạo quân nói trên, Nguyễn Hữu Cầu quyết định chọn đạo quân do Trương Khuông cầm đầu làm đối tượng tiêu diệt và xã Ngọc Lâm12 được chọn làm địa điểm của trận đánh quan trọng này. Sử cũ chép rằng:

“Khi ấy, (Trương) Khuông tự mình dẫn quân bản bộ đánh thẳng vào mặt trước. Tướng Trịnh Phương được cử làm tiên phong. (Về phần mình, Nguyễn) Hữu Cầu giữ nơi hiểm trở rồi đặt quân mai phục, bề ngoài thì phô trương quân gầy ốm để vờ làm thế yếu khiến cho Trương Khuông tưởng thật, hăm hở cho quân tiến lên. (Nguyễn) Hữu Cầu giả vờ thua, bỏ hết cả đồn lũy mà chạy, cốt nhử quân Trương Khuông vào chỗ hiểm. Tướng sĩ của (Trương) Khuông sau trước bám chặt lấy nhau, xa trông như những xâu cá, đang tiến thì thình lình thấy quân mai phục nổi dậy. (Nguyễn) Hữu Cầu tự mình chỉ huy sĩ tốt, liều chết đánh rất hăng. Quân của (Trương) Khuông thua to. Nghe tin ấy, quan quân bốn đạo khác không bị đánh cũng hoảng hốt mà tự tan vỡ. Thế giặc (chỉ quân Nguyễn Hữu Cầu - NKT) lại lên cao ngất. Lính ở các hỏa đài (những đài cao trên núi xa, hễ có biến thì nổi khói đen vào ban ngày hoặc nổi lửa vào ban đêm để cấp báo - NKT) ùn khói và đốt lửa cả ngày lẫn đêm để truyền tin. Từ bên này sông Nhị (tức Thăng Long - NKT), Trịnh Doanh hay được, giận dữ gửi thư quở trách Trương Khuông, đồng thời, hạ lệnh triệu hồi Trương Khuông về kinh thành”13.

Như vậy là, chỉ với một trận mai phục, Nguyễn Hữu Cầu đã khiến cho đạo quân lớn, do viên võ quan thuộc hàng cao cấp nhất của triều đình chỉ huy, phải nếm mùi thất bại nhục nhã. Thất bại của Cổn Quận Công Trương Khuông - phó tổng chỉ huy cuộc càn quét đại quy mô này - đã lập tức ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh thần chung của trên một vạn quân ở tất cả các đạo khác. Sự hoảng hốt của quân sĩ cộng với tin cấp báo của các hỏa đài, một lần nữa đã gây nhốn nháo kinh thành Thăng Long.

Để mong cứu vãn tình hình, Trịnh Doanh liền bổ dụng Thượng Tướng Đinh Văn Giai14 làm Thống Suất, quan giữ chức Bồi Tụng là Ngô Đình Oánh15 làm Tán Lí, tổng chỉ huy cả bốn đạo quân, quyết đánh bại Nguyễn Hữu Cầu.

Thượng Tướng Đinh Văn Giai đã quyết định kế sách mới như thế nào? Sử cũ chép:

“Đinh Văn Giai đến nơi, đóng quân một chỗ chứ không dám tiến, nhiều người lấy làm ngờ. Hay tin đó, Nguyễn Hữu Cầu liền tính kế như sau: đêm đến, sai người khiêng một cái kiệu không từ ở ngoài vào, lát sau lại khiêng ra. Xong, Nguyễn Hữu Cầu giả vờ mừng rỡ, nói phao lên với thủ hạ của mình rằng:

- Đinh Văn Giai đã ước hẹn xin hàng, nhưng nếu đến đây công khai xin đầu hàng thì sợ liên lụy đến gia quyến, vì thế mới bí mật đến hẹn trước là ngày sau ra trận sẽ giả vờ để cho bị bắt, cốt che lấp miệng thế gian ở ngoài. Nay mai giao chiến, các ngươi cứ theo hướng chỉ của ta mà cố bắt lấy hắn, được vậy thì việc bình định thiên hạ lo gì mà không xong?

Đồ đảng của (Nguyễn) Hữu Cầu ai cũng tin lời ấy là thật. Kịp khi giao chiến, quân giặc (chỉ quân Nguyễn Hữu Cầu - NKT) cứ tranh nhau nhằm chỗ con voi trên có hiệu cờ của Đinh Văn Giai mà xông tới, hăng hái đến độ tưởng như một người có thể địch nổi cả trăm người. Quân của Đinh Văn Giai chẳng mấy chốc mà tan vỡ”16.

Được tin đại bại của Đinh Văn Giai, Trịnh Doanh nổi giận, xuống lệnh quở trách nghiêm khắc, đồng thời, triệu hồi Đinh Văn Giai về. Cả Đinh Văn Giai và Ngô Đình Oánh đều bị giáng chức. Quyền tổng chỉ huy lực lượng quân sĩ đi đàn áp Nguyễn Hữu Cầu, một lần nữa lại được trao cho Hoàng Ngũ Phúc. Phụ tá cho Hoàng Ngũ phúc còn có một số tướng lĩnh cao cấp khác, như Đàm Xuân Vực Nguyễn Danh Lệ, Phạm Đình Trọng17... v.v.

Một kế hoạch đàn áp tàn bạo mới lại được xây dựng.
_____________________________________
1. Kinh Bắc là vùng trên đại thể tương ứng với hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh ngày nay.
2. Tên sông ở xã Thọ Xương, huyện Bảo Lộc xưa. Hạ lưu của sông này thông với sông Lục Đầu.
3. Cũng tức là Trần Đình Miên. Hiện chưa rõ lai lịch.
4, 5. Nay thuộc huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang.
6. Thị Cầu nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
7. Vũ Phương Đề (1698-?) người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, đỗ Tiến Sĩ năm 1736. Ông làm quan được thăng tới Đông Các Đại Học Sĩ. Vũ Phương Đề là tác giá của Công dư tiệp kí.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 5).
9, 11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 6).
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 6). Lịch triều tạp kỷ. (quyển 4).
12. Ngọc Lâm nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 9). Lịch triều tạp kỷ (quyển 4).
14. Đinh Văn Giai người làng Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng (nay thuộc Hải Dương).
15. Ngô Đình Oánh nguyên tên là Ngô Đình Chất, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1721. Sau khi đỗ ông mới đổi tên là Ngô Đình Oánh. Ông là em của Tiến Sĩ Ngô Đình Thạc (đỗ Tiến Sĩ năm 1700).
16. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 9).
17. Đàm Xuân Vực là hoạn quan, người làng Tương Trúc, huyện Thanh Trì (nay thuộc Hà Nội). Nguyễn Danh Lệ thì chưa rõ lai lịch. Phạm Đình Trọng người làng Khinh Dao huyện Giáp Sơn (nay thuộc Hải Dương), vốn từng là bạn học của Nguyễn Hữu Cầu.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 03:49:31 pm »


Từ Xương Giang rút về Hạc Động. Bình tĩnh đối phó với âm mưu vừa đàn áp vừa mua chuộc của Trịnh Doanh (mùa thu 1745 đến mùa thu năm 1746)

Tháng 8 năm 1745, Trịnh Doanh lại hối thúc các tướng Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đàn áp nghĩa binh của Nguyễn Hữu Cầu. Một trận ác chiến đã diễn ra tại Xương Giang1. Tại đây, lực lượng của Nguyễn Hữu Cầu bị tổn thất khá nặng nề, vì thế, Nguyễn Hữu Cầu lại quyết định lui quân về vùng đồng bằng duyên hải Đông Bắc. Dọc đường rút lui, một vị tướng thân cận và giàu tài năng của ông tên là Thông2 cùng với hơn mười thuộc hạ đã bị Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng bắt giết. Đây là một tổn thất lớn đối với Nguyễn Hữu Cầu, bởi “Thông là người nhanh nhẹn, có cơ mưu, được (Nguyễn) Hữu Cầu coi như là người ruột thịt”3. Tuy nhiên, cuối cùng thì gần như toàn bộ nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu cũng đã an toàn đến được nơi họ cần đến. Nguyễn Hữu Cầu quyết định đặt đại bản doanh mới của mình tại Hạc Động4. Bám vào thế lợi hại của địa hình sông nước vùng duyên hải, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu chẳng những khôn khéo tránh được những đòn tấn công hiểm hóc của Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng, mà còn tổ chức nhiều trận đánh bất ngờ, gây kinh hoàng cho hai viên tướng sừng sỏ này.

Tháng 3 năm 1746, để góp phần phân hóa, chia rẽ nội bộ kẻ thù, cũng là để có cơ hội củng cố lực lượng, Nguyễn Hữu Cầu đã bí mật sai người đến liên lạc với hai viên đại thần của Trịnh Doanh là Đỗ Thế Giai và Nguyễn Phương Đĩnh để nhờ hai viên đại thần này nói lời “cầu hòa” của mình. Và, Trịnh Doanh đã chấp thuận. Nguyễn Hữu Cầu được Trịnh Doanh phong cho chức Ninh Đông Tướng Quân, tước Hương Nghĩa Hầu. Tất cả các tướng của Nguyễn Hữu Cầu cũng đều được Trịnh Doanh phong cho quan chức. Ngay sau đó, Trịnh Doanh hạ lệnh triệu Nguyễn Hữu cầu về kinh thành Thăng Long!

Biết rõ đó là kế “điệu hổ li sơn” của Trịnh Doanh, cho nên, Nguyễn Hữu Cầu quyết không về Thăng Long, lấy cớ là bị Phạm Đình Trọng đánh chặn đường đi. Sử cũ chép:

“Trịnh Doanh sai quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem lệnh chỉ đến phủ dụ và triệu (Nguyễn Hữu Cầu) về, mặt khác, khuyên (Phạm) Đình Trọng hoãn lại, chớ đánh (Nguyễn Hữu Cầu) vội.

Trước đó, (Nguyễn) Hữu Cầu nhiều lần bị (Phạm) Đình Trọng đánh nên tức giận mà đào mả mẹ (Phạm) Đình Trọng, lấy hài cốt vất xuống sông. (Phạm) Đình Trọng khóc lóc tố cáo việc đó với Trịnh Doanh, thề quyết chí giết Nguyễn Hữu Cầu. Trịnh Doanh rất khen ý chí của (Phạm) Đình Trọng. Nay, thấy (Nguyễn) Phi Sảng đem lời phủ dụ đến, (Phạm) Đình Trọng nói:

- Người làm tướng ở ngoài chiến trường, có khi không chịu nhận mệnh lệnh của vua. Tôi đã nói trước Chúa Thượng là thề không đội trời chung với (Nguyễn) Hữu Cầu. Nay, ông nhận mệnh đi chiêu dụ, tôi nhận mệnh đi đánh giết, nếu gặp tình thế có thể đánh được thì tôi cũng chẳng thể vì cớ có ông đến mà ngần ngại.

(Nguyễn) Phi Sảng và những người cùng đi nghe vậy thì thất sắc, liền từ giã đi ngay. Đến dinh cơ của Nguyễn Hữu Cầu, nói rõ lời phủ dụ của chúa Trịnh, lại cũng nhân đó nói luôn cả những lời của Phạm Đình Trọng cho (Nguyễn) Hữu Cầu hay. Chuyện chưa dứt thì (Phạm) Đình Trọng đã đem quân đến đánh úp. (Nguyễn) Hữu Cầu sai người dẫn (Nguyễn) Phi Sảng theo đường tắt trở về rồi đưa quân ra đánh trả (Phạm) Đình Trọng”5.

Cuộc tấn công bất ngờ này có gây cho Nguyễn Hữu Cầu một số thiệt hại, nhưng nhìn chung, lực lượng của ông vẫn được giữ vững. Trong lúc đó, để mong có thế lực áp đảo, Phạm Đình Trọng đã phải liên tiếp mộ thêm quân sĩ. Điều này khiến cho Đỗ Thế Giai (người nhận chuyển đạt lời cầu hòa của Nguyễn Hữu Cầu lên Trịnh Doanh) khó chịu. Đỗ Thế Giai mật tâu với Trịnh Doanh rằng: “Phạm Đình Trọng cầm quân ở ngoài, tự ý đặt cơ ngũ riêng, sợ là sẽ có ý khác”6. May cho Phạm Đình Trọng là Trịnh Doanh không tin lời ấy.


Lại táo bạo đánh vào Bồ Đề7. Kinh thành Thăng Long thêm một phen hoảng loạn (từ 9-1748 đến10-1749)

Đầu tháng 9 năm 1748, Trịnh Doanh lại sai người đến dụ hàng Nguyễn Hữu Cầu. Lần này, người di chiêu dụ là Nguyễn Thế Khải8. Nguyễn Hữu Cầu chẳng những không chịu nhận lời phủ dụ mà còn cho quân băng qua Duyên Hà9, đánh mạnh vào Sơn Nam10. Tướng của chúa Trịnh nắm chức Trấn Thủ ở đây là Võ Tá Sắt đánh trả rất quyết liệt nhưng vẫn không sao dập tắt được. Trịnh Doanh buộc phải điều Phạm Đình Trọng đến Sơn Nam cứu nguy cho Võ Tá Sắt. Phạm Đình Trọng cất quân đi rồi, Trịnh Doanh vẫn thấy chưa yên tâm, vì thế, ra lệnh cho Hoàng Ngũ Phúc phải sẵn sàng phối hợp.

Sử cũ chép rằng:

“Trịnh Doanh dụ bảo (Hoàng) Ngũ Phúc rằng:

- Sơn Nam Hạ là vùng dân cư đông đúc, sản vật phong phú, cũng có thể ví là đất Quan Trung (vùng Thiểm Tây của Trung Quốc ngày nay - NKT) và Hà Nội (vùng phía Bắc sông Hoàng Hà của Trung Quốc ngày nay - NKT) của nước nhà vậy. Nay, bè đảng giặc đầy rẫy ở đấy, thế đang rất nguy cấp. Nếu Sơn Đông (vùng Hưng Yên và Hải Dương ngày nay - NKT) đã tạm ổn thì ngươi nên cùng (Phạm) Đình Trọng hợp sức thúc quân càn quét để giữ cho bằng được vùng đất chẳng khác gì Quan Trung và Hà Nội ấy của nước nhà”11.

Tất nhiên, với ưu thế áp đảo về quân số, Phạm Đình Trọng đã giành được một số thắng lợi nhất định. Điều này khiến cho Trịnh Doanh lại một lần nữa tỏ ra chủ quan. Và, Nguyễn Hữu Cầu đã không bỏ qua cơ hội đó. Ông nói với các tướng của mình rằng:

- “Ta mới thua vài trận nhỏ, tin ấy đưa về tất nhiên sẽ khiến cho việc phòng bị kinh sư trở nên lơ là. Nhân cơ hội này mà đánh úp thì thế nào phần thắng cũng về ta”12.

Nói là làm. Ông hạ lệnh cho quân sĩ nhân đêm tối, tìm đường tiến gấp về Bồ Đề, hẹn đến khoảng canh năm thì sẽ từ bến Bồ Đề, vượt sông đánh thẳng vào Thăng Long. Nhưng, rất tiếc là cuộc chuyển quân này có phần chậm trễ hơn so với kế hoạch đã định. Quân của Nguyễn Hữu Cầu tập kết ở bến Bồ Đề không phải là canh năm13 mà là vào lúc trời đã sáng rõ. Được tin cấp báo, Trịnh Doanh một mặt thì sai người đi triệu Phạm Đình Trọng về cứu nguy, mặt khác thì tự mình làm tướng, cầm quân ra đối địch với Nguyễn Hữu Cầu. Nguyễn Hữu Cầu buộc phải lui quân nhưng kinh thành Thăng Long lại thêm một lần hoảng loạn.

Bấy giờ, do thấy Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng từng có kinh nghiệm nhiều năm trực tiếp cầm quân đi đàn áp, tuy thắng lợi thu được chưa đáng là bao nhưng sự am tường địa hình vùng đồng bằng Đông Bắc thì khó ai sánh kịp, vì thế, Trịnh Doanh quyết định phong Hoàng Ngũ Phúc làm Thống Lãnh và Phạm Đình Trọng làm Hiệp Thống Lãnh, được quyền tùy ý điều động binh mã đi càn quét khắp nơi. Hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn trước.
___________________________________
1. Xương Giang nay thuộc Bắc Giang.
2. Hiện chưa rõ họ.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 16).
4. Hạc Động xưa thuộc huyện Nghiêu Phong, nay là vùng giáp giới giữa Hải Phòng với Quảng Ninh.
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 19 và 20).
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 20).
7. Nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội.
8. Nguyễn Thế Khải người làng Nhân Lý, huyện Thanh Lâm, nay là thôn Nhân Lý, thị trấn Nam Sách, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Tiến Sĩ năm 1736. Lúc này, ông đang giữ chức Hiệu Lý.
9. Nay thuộc tỉnh Thái Bình.
10. Trấn này xưa rất lớn, nhưng khu vực Nguyễn Hữu Cầu đem quân tới đánh lần này ở vào khoảng Nam Định và Hà Nam ngày nay.
11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 27).
12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 28).
13. Canh năm tương ứng với khoảng từ 3 đến 5 giờ sáng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 06:35:34 pm »


Từ Mã Não và Hương Nhi đến Lộng Khê và Quang Dực, anh hùng lỡ vận vẫn hiên ngang

Sau khi rút lui khỏi Bồ Đề, Nguyễn Hữu Cầu về hoạt động tại các huyện Thần Khê và Thanh Quan1. Tại đây, ông liên kết với nghĩa quân của Hoàng Công Chất để vừa tăng cường sức mạnh cho mình, vừa phân tán đội quân đàn áp hung hãn của Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng. Bấy giờ, hễ Nguyễn Hữu Cầu đi tới đâu là tướng sĩ của chúa Trịnh hoảng sợ tới đó. Sử cũ chép rằng:

“Nguyễn Hữu Cầu là người mạnh khỏe, nhanh nhẹn và rất hăng hái, cơ mưu trăm nẻo khó ai lường. Nhiều phen bị vây đến mấy vòng, (Nguyễn Hữu Cầu) chỉ một mình một ngựa vượt được ra ngoài, thế mà chỉ vài hôm sau đã có quân đông đến hàng vạn. Khi ra trận, (Nguyễn Hữu Cầu) cưỡi ngựa, cầm siêu đao, tiến như bay, quân sĩ ai ai cũng phải sợ mà chạy dạt, đến cả các tướng cũng phải tránh uy phong của hắn. Khi ấy chỉ có (Phạm) Đình Trọng là thề quyết chí giết Nguyễn Hữu Cầu cho bằng được. Triều đình do vậy đã đặt hết niềm tin ở (Phạm) Đình Trọng”2.

Nhưng, do việc phối hợp với Hoàng Công Chất chưa thật chặt chẽ, lại cũng do đạo quân trấn áp của Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng quá mạnh, Nguyễn Hữu Cầu bị thua liên tiếp mấy trận liền. Ông cho nghĩa quân rút lui về Nam Xang3 và Bình Lục4.

Tháng 2 năm 1751, Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng tiến quân dọc theo dòng Hoàng Giang5 đánh tới tấp vào khu căn cứ mới của Nguyễn Hữu Cầu ở Nam Xang và Bình Lục. Tại Mã Não6 và Hương Nhi7, Nguyễn Hữu Cầu thua to, phải chạy về Quang Dực8 và Lộng Khê9. Và tại Quang Dực cũng như Lộng Khê, một lần nữa, Nguyễn Hữu Cầu lại bị thua trận. Ông đem tàn quân chạy vào Nghệ An.

Bấy giờ, Nghệ An là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Nguyễn Diên10. Là người cùng chí hướng, lại cũng là chỗ thân tình, Nguyễn Diên đã giúp cho Nguyễn Hữu Cầu một ít lương thực, thực phẩm và quân lính. Ông tạm đóng quân tại Hương Lãm11 để chờ thời.

Cũng trong tháng 2 năm 1751, Phạm Đình Trọng đem đại quân đánh gấp vào Hương Lãm. Ở đây, sau nhiều năm chiến đấu mệt mỏi, thế đã cùng, lực đã kiệt, Nguyễn Hữu Cầu không sao chống đỡ nổi. Ông bí mật cho quân lui ra vùng cửa biển, dùng thuyền men theo duyên hải mà tiến ra Bắc. Nhưng, thật không may cho Nguyễn Hữu Cầu, ông và các nghĩa sĩ kiên trung vừa ra đi chưa được bao lâu thì bão biển nổi lên, thuyền vỡ chìm gần hết. Không còn cách nào khác hơn được nữa, Nguyễn Hữu Cầu và tàn quân đành dắt nhau vào ẩn náu tạm trong dãy Hoàng Mai12. Chưa kịp dựng trại thì đã bị tướng của Phạm Đình Trọng là Phạm Đình Sĩ 13 bất ngờ dẫn quân đánh ập vào. Nguyễn Hữu Cầu thua trận, bị bắt và bị đóng cũi giải về Thăng Long.

Trong những ngày bị giam cầm tại Thăng Long, Nguyễn Hữu Cầu đã có ý định tổ chức vượt ngục nhưng không thành. Anh hùng lỡ vận vẫn hiên ngang! Nơi ngục tối, Nguyễn Hữu Cầu vẫn giữ vững khí phách quật cường của mình. Ông có để lại cho đời bài thơ Chim trong lồng với lời lẽ rất cảm động.

Tháng 3 năm 1751, Nguyễn Hữu Cầu bị Trịnh Doanh xử tử cùng một lần với Nguyễn Danh Phương14. Ông được coi là vị anh hùng nông dân Đàng Ngoài lớn nhất thế kỷ thứ XVIII. Trong ký ức bất diệt của nhân dân, tên tuổi của Nguyễn Hữu Cầu mãi mãi tỏa sáng. Ông được các thế hệ nhân dân yêu nước trìu mến gọi với tên gọi thật thân thương là Quận He.
________________________________
1. Đất hai huyện Thần Khê và Thanh Quan nay đều thuộc tỉnh Thái Bình.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 5).
3. Huyện Nam Xang xưa thuộc phủ Lý Nhân, nay đất đai của huyện này trên đại thể tương ứng với huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam.
4. Huyện Bình Lục nay cũng đại thể tương ứng với huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam.
5. Hoàng Giang là tên của khúc sông Hồng chảy qua huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
6. Mã Não là tên xã thuộc huyện Bình Lục.
7./color] Hương Nhi là tên xã thuộc huyện Bình Lục.
8. Quang Dực là tên xã thuộc huyện Vĩnh Lại của Hải Dương xưa. Nay, tác giả chưa xác định được vị trí cụ thể trên bản đồ mới.
9. Lộng Khê là tên xã thuộc huyện Phụ Dực, nay thuộc về tỉnh Thái Bình.
10. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 1-Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ (thuộc phần II của sách này).
11. Tên xã. Xã này nay thuộc huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
12. Dãy Hoàng Mai ở xã Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An).
13. Lai lịch Phạm Đình Sĩ hiện chưa sưu tầm được.
14. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 4-Nguyễn Danh Phương (thuộc phần II, cũng trong sách này).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 10:08:34 pm »


03. HOÀNG CÔNG CHẤT (? - 1769)
   
Mãnh thiên hang thẳm, núi cùng,
Hãy còn Hoàng Chất lâm tùng dấn thân
1.


Nơi chôn nhau cắt rốn

Hoàng Công Chất còn có tên khác là Hoàng Công Thư và trong thư tịch cổ, đôi khi tên ông còn được chép là Hoàng Văn Chất. Hiện chưa rõ Hoàng Công Chất chào đời vào năm nào. Cũng có tài liệu nói rằng Hoàng Công Chất người làng Vân Hoàng, huyện Phú Xuyên (nay thuộc Hà Tây), lại cũng có tài liệu nói ông người huyện Thư Trì (nay là huyện Vũ Thư của tỉnh Thái Bình), nhưng, phần lớn các tài liệu xưa đều nói Hoàng Công Chất người làng Đại Lan, huyện Đông Yên (nay là xã Đại Quán, huyện châu Giang, tỉnh Hưng Yên).

Xưa Đông Yên là một trong số bốn huyện2 của phủ Khoái Châu. “Đất này đời Hán và đời Đường thuộc Châu Diên, mãi đến đời Trần mới đổi là Đông Kết, sang đời Lê, khoảng niên hiệu Hồng Đức (tức là khoảng từ năm 1470 đến năm 1497 - NKT) thì đổi gọi như hiện nay”3.

Phủ Khoái Châu nói chung và huyện Đông Yên nói riêng là vùng đồng bằng sông nước, dân nơi đây rất giỏi nghề chài lưới và bơi lội. Đây là nơi gặp gỡ kỳ thú giữa Công Chúa Tiên Dung với chàng trai nghèo Chử Đồng Tử4, nơi có những tên đất rất cổ như đầm Dạ Trạch, bãi Tự Nhiên, bãi Mạn Trù... v.v. Đây cũng là đất có truyền thống bất khuất lâu đời mà một trong những biểu tượng tuyệt vời của truyền thống đó chính là Dạ Trạch Vương Triệu Quang phục (? - 571):

“Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên (lúc này là tướng của nhà Lương - NKT), thế chưa phân thắng bại. Thấy quân của Trần Bá Tiên quá đông, (Triệu) Quang Phục liệu thấy chưa thể phá nổi, bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch. Đầm này ở Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu là dặm, cây cỏ mọc um tùm, bụi rậm che kín mọi chỗ. Giữa đầm có một nền đất cao có thể ở được, bốn phía là bùn lầy, người và ngựa đều khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc loại nhỏ, chống sào lướt trên cỏ và nước mới đi được. Nếu không quen rất dễ bị lạc, chẳng thể tìm được lối về. Nếu lỡ rơi xuống nước là lập tức bị rắn độc cắn chết. (Triệu) Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn hai vạn binh sĩ vào đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày thì tuyệt không để lộ khói lửa và dấu người, ban đêm thì dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của Trần Bá Tiên, giết và bắt sống được rất nhiều tên, lại còn lấy được lương thực dùng cho kế cầm cự lâu dài. (Trần) Bá Tiên theo đánh mãi mà không sao đánh được. Người trong nước gọi (Triệu Quang Phục) là Dạ Trạch Vương”5

Khi Hoàng Công Chất lớn lên, mâu thuẫn của xã hội Đàng Ngoài đã trở nên rất gay gắt. Hàng loạt những cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ đã liên tiếp nổ ra6. Một trong những trung tâm sôi động của cuộc chiến đấu quyết liệt đương thời chính là quê hương ông. Hoàng Công Chất đã tham gia một cách rất tự nhiên vào phong trào chung ấy.


Bốn năm chiến đấu quyết liệt đầu tiên (1739-1743)

Năm 1739, khi Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ khởi nghĩa ở Ninh Xá7, Vũ Trác Oánh khởi nghĩa ở Mộ Trạch8 thì Hoàng Công Chất cũng dựng cờ xướng nghĩa ở Đông Yên. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, ảnh hưởng của Hoàng Công Chất đã lan rộng khắp vùng Sơn Nam9. Phát huy khả năng giỏi thủy chiến của các nghĩa sĩ, bám chặt và triệt để tận dụng địa hình lợi hại của vùng đầm lầy sông nước, Hoàng Công Chất đã khôn khéo tổ chức nhiều trận tấn công hiểm hóc gây cho tập đoàn thống trị họ Trịnh nhiều tổn thất rất nặng nề.

Tháng 1 năm 1740, ngay sau khi giành được ngôi chúa một cách khá êm thấm từ tay anh ruột là Trịnh Giang, Trịnh Doanh đã hạ lệnh thẳng tay đàn áp tất cả các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ. Binh lính được cấp tốc tuyển thêm. Những nhân vật thân tín nhanh chóng được đưa tới các vùng trọng yếu:

- Trần Đình Miên (cũng tức là Trần Đình Cẩm) được bổ làm Đốc Lãnh, cùng với quan Bồi Tụng là Nguyễn Bá Lân đem quân đi đánh Sơn Tây10.

- Hoàng Kim Trảo11 được bổ làm Đốc Lãnh, cùng với một số tướng lĩnh khác như Nguyễn Thế Siêu, Trần Danh Quán,... cầm quân đi đàn áp vùng Hải Dương và Hưng Yên12.

- Ngô Đình Thạc13 được bổ làm Tổng Phủ cầm quân lên Lạng Sơn.

- Nguyễn Trọng Uông14 được bổ làm Thống Lãnh, đưa quân đi trấn áp vùng Hải Dương.

- Võ Tá Lý15 được bổ làm Chinh Tây Đại Tướng Quân, đi Sơn Tây phụ giúp cho Trần Đình Miên.

- Ngay sau khi Võ Tá Lý xuất quân, Hoàng Công Kỳ16 là hoạn quan cũng được bổ làm Chinh Tây Đại Tướng Quân, sẵn sàng tiếp ứng cho Trần Đình Miên và Võ Tá Lý bất cứ lúc nào

- V.v.

Đại để một vòng vây quân sự hùng mạnh đã được thiết lập và ngày càng xiết chặt. Các lãnh tụ nghĩa quân đương thời như Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu17, Nguyễn Danh Phương18, Hoàng Công Chất... gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình thế đó họ quyết định liên minh với nhau, nhằm tăng cường sức mạnh cho mình và làm phân tán, làm suy yếu bớt lực lượng của quân đội chúa Trịnh. Năm 1741, khi cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ lãnh đạo đã bị thất bại, Hoàng Công Chất đã liên kết với nghĩa quân do Nguyễn Hữu Cầu cầm đầu. Điều này khiến cho Trịnh Doanh thực sự lo ngại. Hoàng Ngũ Phúc được cử làm tướng chỉ huy toàn bộ lực lượng quân đội chúa Trịnh đi đàn áp ở vùng Đông Bắc, quyết bình định cho được miền đất trọng yếu này. Tháng 3 năm 1743, quan Tham Tụng là Nguyễn Công Thái19 được Trịnh Doanh điều đi làm Trấn Thủ Sơn Nam nhằm tăng cường thêm sức mạnh cho guồng máy chính quyền thống trị ở đây.

Tháng 11 năm 1743, do thấy mức dộ ác chiến ngày một căng thẳng, lại cũng do muốn mở thêm những mặt trận tấn công mới hơn, Hoàng Công Chất đã chủ động dâng thư xin hàng lên chúa Trịnh. Bức thư đó đã khiến cho nội bộ phủ chúa Trịnh bị phân hóa khá gay gắt. Bấy giờ phủ chúa bị chia làm hai phe. Phe thứ nhất chủ trương quyết đánh đến cùng chứ không chịu nhượng bộ. Phe này gồm tuyệt đại đa số các quan cả văn lẫn võ. Phe thứ hai chủ trương chấp nhận để rồi tìm cách dụ dỗ, mua chuộc và dần dần sẽ thủ tiêu. Phe này có Nguyễn Đình Hoàn20, Trần Huy Mật21 và cả chính chúa Trịnh Doanh nữa. Tất nhiên, phe thắng thế là phe của Trịnh Doanh. Trịnh Doanh hạ lệnh cho Hoàng Công chất (và các lãnh tụ nông dân khác) ở yên tại chỗ, được chính thức trao cho quan chức để cai trị dân trong vùng đã chiếm đóng của mình:

“Trịnh Doanh cũng đã chán nản việc dùng binh đánh dẹp lâu năm, bèn nhân đấy, trao cho chúng được quan chức và cho chiếu theo từng vùng chiếm đóng mà cai quản lấy”22.

Hoàng Công Chất có dâng thư xin hàng nhưng trong thực tế, ông chưa bao giờ hàng. Giữa nghĩa quân Hoàng Công Chất với Trịnh Doanh cũng gần như chưa bao giờ có được một khoảng thời gian hòa hoãn đáng kể nào.
____________________________________
1. Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca (áng sử thi bằng chữ Nôm, thế kỷ thứ XIX).
2. Đó là các huyện: Đông Yên, Kim Động, Phù Cừ và Thiên Thi.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Hưng Yên).
4. Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp: Lĩnh Nam Chích quái.
5. Đại Việt sử kí toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 17 a-b).
6. Xin vui lòng tham khảo thêm phần I-Đàng Ngoài ở đầu thế kỷ thứ XVIII (thuộc chương thứ nhất của sách này).
7. Xin vui lòng tham khảo thêm mục lục 1-Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ (thuộc phần II, chương thứ nhất của sách này).
8. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 3-Bốn phương rầm rộ khởi binh (thuộc phần I, chương thứ nhất của sách này).
9. Vùng đại để tương ứng với các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Thái Bình ngày nay.
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 24).
11. Hoàng Kim Trảo người làng Đơn Dương Hạ, huyện Bạch Hạc (nay thuộc Phú Thọ), đỗ Tạo Sĩ (tức Tiến Sĩ võ).
12. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 25).
13. Ngô Đình Thạc người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay là thôn Tả Thanh Oải, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1700. Ông là anh của Ngô Đình Oánh (tức Ngô Đình Chất), đỗ Tiến Sĩ năm 1721.)
14. Nguyễn Trọng Uông người làng Quế Ổ, huyện Quế Dương (nay thuộc Bắc Ninh), đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
15. Võ Tá Lý người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà (nay là xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh).
16. Hoàng Công Kỳ người làng Trình Xá, huyện Thần Khê.
17. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 2-Nguyễn Hữu Cầu (ở phần II của chương thứ nhất trong sách này).
18. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 4-Nguyễn Danh Phương (ở phần II của chương thứ nhất trong sách này).
19. Nguyễn Công Thái (1684-1758) người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì (nay là thôn Kim Lũ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1715.
20. Nguyễn Đình Hoàn người làng Hương Duệ, huyện Kỳ Anh (nay thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là võ quan cao cấp, khác với Nguyễn Đình Hoàn người Thăng Long, đỗ Tiến Sĩ năm 1688.
21. Trần Huy Mật hiện chưa rõ lai lịch, chỉ biết ông là võ quan cao cấp.
22. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 35).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 10:11:44 pm »

Chiếm Khoái Châu (1743), liên tục tấn công khiến cho chúa Trịnh Doanh nổi giận, bãi chức của Nguyễn Đình Hoàn

Cuối năm 1743, ngay sau khi dâng thư xin hàng, do thấy sức ép quân sự của chúa Trịnh vẫn không giảm, Hoàng Công Chất chủ trương phá thế bị bao vây bằng cách bất ngờ cho quân tấn công. Và, Hoàng Công Chất đã hoàn toàn đúng. Các tướng của chúa Trịnh bị thua liên tiếp mấy trận liền, đất Khoái Châu bị nghĩa quân Hoàng Công Chất đánh chiếm, đồng thời, trở thành sào huyệt tin cậy của Hoàng Công Chất. Từ Khoái Châu, một loạt những cuộc tấn công lớn nhỏ đến các vùng chung quanh dồn dập được tổ chức. Điều này khiến cho Trịnh Doanh rất tức tối.

Bấy giờ, các tướng Đinh Văn Giai và Nguyễn Đình Hoàn có thắng được một trận nhỏ ở Đỗ Xá1. Nhưng, thắng lợi đó không đủ để vực dậy tinh thần chung của đông đảo quân sĩ chúa Trịnh, càng không đủ để làm nhụt chí Hoàng Công Chất. Nhân thấy nước sông Hồng bỗng dưng lên cao, Nguyễn Đình Hoàn tâu với Trịnh Doanh, xin phá đê sông Hồng để nhận chìm lực lượng của Hoàng Công Chất. Nhưng, lời tâu ấy không được Trịnh Doanh chấp thuận, “lấy cớ rằng nếu làm như thế sẽ gây hại cho nhân dân ở các huyện lân cận”2.

Để đàn áp nghĩa quân Hoàng Công Chất, các tướng lĩnh của chúa Trịnh mà đặc biệt là Nguyễn Đình Hoàn đã ra sức tình đủ mọi cách để bắt lính và vơ vét tài sản của nhân dân. Khắp nơi náo loạn bởi hành vi này của Nguyễn Đình Hoàn. Nhân dân biểu lộ sự phản kháng bằng nhiều hình thức khác nhau, hoặc đùm bọc chở che, hoặc góp tiền góp của, hoặc trực tiếp cầm vũ khí tham gia vào lực lượng chiến đấu của nghĩa quân Hoàng Công Chất. Biết được điều này, Trịnh Doanh rất tức tối. Sử cũ viết:

“Nguyễn Đình Hoàn tự cho mình có trách nhiệm chuyên lo khống chế mặt Nam (kinh thành) cho nên đã thiên tiện bắt dân phu đi đánh giặc, làm náo động khắp vùng. Nghe tin này, Trịnh Doanh giận lắm, vừa xuống lệnh nghiêm trách, vừa lập tức bãi chức Nguyễn Đình Hoàn”3.

Cùng với việc nghiêm trách và bãi chức của Nguyễn Đình Hoàn, Trịnh Doanh còn ra lệnh triệu Đinh Văn Giai về kinh tâu trình rõ mọi điều. Sau đó không bao lâu, Đinh Văn Giai lại được lệnh trở lại vùng đồng bằng sông Hồng, đốc thúc các đạo quân đi đàn áp Hoàng Công Chất. Không may cho Đinh Văn Giai, mọi cố gắng lúc này hầu như không mang lại hiệu quả đáng nói nào:

“Giặc cỏ (chỉ nghĩa quân Hoàng Công Chất - NKT) tung hoành bạo ngược, càng ngày càng dữ. Dân vùng Hải Dương và Kinh Bắt không ngày nào được yên”4.

Để cứu vãn tình hình, Trịnh Doanh sai hoạn quan Hoàng Công Kỳ đi làm Trấn Thủ của trấn Sơn Nam. Hoàng Công Kỳ còn được kiêm giữ chức Thống Lãnh, chỉ huy cuộc đàn áp ở vùng này. Tuy xuất thân là hoạn quan nhưng Hoàng Công Kỳ rất được Trịnh Doanh tin cậy, ủy thác nhiều trọng trách ở triều đình và nhiều phen giao việc cầm quân. Chính Hoàng Công Kỳ là kẻ đã dàn áp khốc liệt nghĩa quân của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và Nguyễn Hữu Cầu. Cùng với hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc và một loạt tướng lĩnh cao cấp khác như Đinh Văn Giai, Phạm Đình Trọng... Hoàng Công Kỳ là một trong những chỗ dựa quan trọng của Trịnh Doanh. Cũng do từng trải nhiều năm cầm quân đi trấn áp, Hoàng Công Kỳ rất thông thạo địa hình vùng đồng bằng sông Hồng. Tóm lại, đối mặt với một tướng sừng sỏ như Hoàng Công Kỳ là khó khăn không nhỏ của nghĩa quân Hoàng Công Chất.


Bắt giết Hoàng Công Kỳ (1745), đánh cho Đinh Văn Thản phải hoảng sợ mà chết (1761)

Tháng 12 năm 1745, Hoàng Công Kỳ lấy danh nghĩa là quan Trấn Thủ kiêm Thống Lãnh, trực tiếp đi kiểm tra việc xây dựng đồn lũy và kế hoạch bố phòng của các địa phương trong trấn Sơn Nam. Cứ như nhận xét của sử cũ thì Hoàng Công Kỳ tuy là tướng có tài nhưng bản tính rất chủ quan. Hoàng Công Chất cũng biết rất rõ điều đó cho nên đã khôn khéo bố trí một trận mai phục, quyết trừng trị đích đáng viên tướng đầu sỏ này. Và cơ hội tốt đã đến với Hoàng Công Chất vào tháng 12 năm 1745.

Bấy giờ, nhận được tin Hoàng Công Kỳ cưỡi voi đi kiểm tra các địa phương, lính theo hầu chỉ có độ vài chục tên, Hoàng Công Chất lập tức cho quân bất ngờ tấn công. Hoàng Công Kỳ không sao chống đỡ nổi, bị thua và bị bắt, sau đó bị giết. Một trong những tướng cao cấp nhất của Trịnh Doanh bị thiệt mạng! Tin đó nhanh chóng lan đi khắp nơi, khiến cho các lực lượng nổi dậy chống họ Trịnh rất hồ hởi. Thắng lợi này của Hoàng Công Chất có ý nghĩa rất lớn lao. Sau cái chết của Hoàng Công Kỳ, bẵng đi một thời gian khá dài, tướng sĩ của họ Trịnh không dám mạo hiểm đánh vào Khoái Châu nữa. Nghĩa quân Hoàng Công Chất có cơ hội để không ngừng củng cố và phát triển.

Năm 1748, Trịnh Doanh tổ chức một cuộc càn quét có quy mô rất lớn vào Khoái Châu. Các đạo quân thủy bộ do nhiều tướng lĩnh cao cấp của Trịnh Doanh chỉ huy cùng tiến vào khu căn cứ của Hoàng Công Chất. Các trận ác chiến liên tiếp xảy ra. Cuối cùng, do tương quan thế và lực hoàn toàn không cân xứng, để bảo toàn lực lượng, Hoàng Công Chất đã quyết định rút vào Thanh Hóa rồi từ Thanh Hóa, rút lên Hưng Hóa.

Gắn liền với cuộc rút lui này, địa bàn hoạt động và phương thức hoạt động của nghĩa quân Hoàng Công Chất cũng buộc phải thay đổi theo. Từ thói quen tổ chức những trận chiến đấu ở vùng đồng bằng sông nước, đến đây, Hoàng Công Chất phải xây dựng kế hoạch tấn công và phòng thủ sao cho thật phù hợp với điều kiện địa hình của vùng rừng núi Tây Bắc. Và, một khi đã đến với vùng Tây Bắc, vùng cư ngụ của đồng bào các dân tộc ít người, muốn tồn tại, trước hết phải lo thiết lập và củng cố khối đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc anh em. Điều rất bất ngờ là Hoàng Công Chất đã thành công rất nhanh chóng. Tại Hưng Hóa, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã được sự ủng hộ mãnh liệt của nhân dân, đặc biệt là sự hợp tác chiến đấu chống kẻ thù chung của các nghĩa sĩ Tây Bắc do một vị thủ lĩnh tên là Thành (chưa rõ họ) chỉ huy5.

Để đối phó với tình hình này, Trịnh Doanh hạ lệnh cho quan Trấn Thủ ở Hưng Hóa là Đinh Văn Thản6 phải lập tức đem quân đi trấn áp. Sử cũ chép:

“Trấn Thủ Đinh Văn Thản được lệnh đem quân tiến đánh nhưng (Đinh Văn) Thản có ý sợ, đóng quán ở nơi rừng sâu nước độc lâu ngày, nhiều người nhiễm chướng khí, mắc bệnh sốt rét rồi chết. (Đinh Văn) Thản bị triều đình vặn hỏi, quở trách nhiều lần, vì thế, hắn sợ đến phát chết. Triều đình hạ lệnh truy lột hết quan chức, tước vị của hắn, lại còn sai người đánh vào áo quan”7.

Một cuộc đàn áp mới hơn, nguy hiểm hơn được gấp rút tổ chức. Lần này, Trịnh Doanh giao trách nhiệm cho các tướng lĩnh sau đây:

- Lê Đình Châu8 được giao chức Đốc Chiến.

- Nguyễn Quốc Khuê9 được giao chức Tham Mưu.

- Phan Cảnh10 lúc bấy giờ đang là Đốc Đồng ở Tuyên Quang có nhiệm vụ đem quân bản bộ từ Tuyên Quang tới để phối hợp chiến đấu.

Cuộc tấn công đàn áp ác liệt này đã gây cho nghĩa quân Hoàng Công Chất không ít khó khăn. Thủ lĩnh Thành bị bắt và bị giết. Hoàng Công Chất buộc phải cho toàn bộ lực lượng của mình rút lui. Tuy nhiên, tướng sĩ của chúa Trịnh cũng bị tiêu hao không ít. Đốc Đồng Phan Cảnh vì quá mệt mỏi với những cuộc hành quân, đã lâm bệnh và chết ở Hưng Hóa.
___________________________________
1. Đỗ Xá là tên xã thuộc huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 35).
3, 4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 39, tờ 36.
5. Theo ghi chép của Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 8 ) thì thủ lĩnh Thành là người đã phát động và lãnh đạo một cuộc nổi dậy khá lớn ở vùng Hưng Hóa. Nghĩa quân của thủ lĩnh Thành đã có lần đánh sang cả đất Trung Quốc. Quan Tổng Đốc Vân Nam phải hợp lực với Đinh Văn Thản đánh dẹp rất vất vả mà vẫn không sao thắng nổi.
6./color] Đinh Văn Thản người làng Hàm Giang, huyện Cẩm Bình (nay thuộc tỉnh Hải Dương), là dòng dõi của võ quan lừng danh Đinh Văn Tả.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 42, tờ 10).
8. Lê Đình Châu người làng Liên Hồ, huyện Ngọc Sơn (nay thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa).
9. Nguyễn Quốc Khuê người làng Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì (nay thuộc xã Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1748, làm quan được thăng dần lên đến chức Giám Sát Ngự Sử.
10. Phan Cảnh (cũng tức là Phan Kính), người làng Lai Thạch, huyện La Sơn (nay thuộc xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), đỗ Thám Hoa năm 1743, làm quan trải được phong dần đến chức Đốc Đồng.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 10:16:47 pm »


Xây căn cứ Mãnh Thiên và từ Mãnh Thiên, liên tục tấn cỏng đến khắp các vùng lân cận

Thủ lĩnh Thành bị giết hại nhưng lực lượng của Hoàng Công Chất về cơ bản vẫn được bảo toàn. Ông rút về Mãnh Thiên1 và nhanh chóng biến Mãnh Thiên thành một khu căn cứ rất lợi hại. Sự kiện này xảy ra vào khoảng đầu năm 1761. Tại Mãnh Thiên, Hoàng Công Chất cho xây dựng thành lũy rất kiên cố, trong đó, lớn nhất là Tam Vạn Thành (có nghĩa là thành chứa được ba vạn quân). “Hiện nay ở xã Ba Man phía nam Lai Châu, trên thượng lưu sông Đà còn có dấu vết một thành lũy xưa của Hoàng Công Chất gọi là Tam Vạn Thành2.

Từ Mãnh Thiên, Hoàng Công Chất liên tục tổ chức những trận đánh vào các địa phương lân cận. Tháng 10 năm 1767, nhân cơ hội chúa Trịnh Doanh vừa mới qua đời3, chúa Trịnh Sâm mới lên nối nghiệp và đang chú tâm lo củng cố địa vị của mình, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã đánh bảy trận lớn4. Cụ thể như sau:

- Trận thứ nhất: đánh vào Mai Châu (nay thuộc tỉnh Hòa Bình, khu vực nằm sát với Mộc Châu của tỉnh Sơn La).

- Trận thứ hai: đánh vào Mộc Châu (nay thuộc tỉnh Sơn La, khu vực nằm sát với Mai Châu của Hòa Bình).

- Trận thứ ba: đánh vào Quan Gia (nay thuộc Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

- Trận thứ tư: đánh Cổ Lũng (nay thuộc Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa).

- Trận thứ năm: đánh Thiết Úng (nay thuộc Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa).

- Trận thứ sáu: đánh Ái Chử (nay thuộc Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

- Trận thứ bảy: đánh Bất Một (nay thuộc Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa).

Tin cáo cấp liên tiếp đưa về, Bá quan văn võ ai cũng lấy làm lo ngại. Trịnh Sâm vội vã hạ lệnh thành lập một guồng máy chỉ huy cuộc trấn áp gồm các nhân vật chủ chốt như sau:

- Thiếu Phó Phương Nghĩa Hầu Trịnh Phương5 làm tổng chỉ huy, đồng thời, trực tiếp cầm đầu đạo quân đi càn quét ở Hưng Hóa.

- Điển Vũ Hầu Nguyễn Trọng Điển6 chỉ huy đạo quân đi càn quét ở Thanh Hóa.

- Trấn Thủ Thanh Hóa, là Nguyễn Đình Diễn7 có nhiệm vụ đem hết quân bản bộ ra hợp sức chiến đấu với đạo quân của Nguyễn Trọng Điển.

Thực hiện chủ trương lánh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu, Hoàng Công Chất đã nhanh chóng cho rút hầu hết lực lượng của mình khỏi đất Thanh Hóa và Hòa Bình ngày nay. Nhưng, một loạt các cuộc tấn công ồ ạt khác lại nhất loạt được tổ chức. Tháng giêng năm 1768, Hoàng Công Chất đã chiếm được đất của mười châu8. Điều này khiến cho Trịnh Sâm vô cùng tức tối. Một bộ chỉ huy đàn áp mới hơn được thành lập, gồm có:

- Nguyễn Đình Huấn9 làm Chánh Thống Lãnh.

- Phạm Ngô Cầu10 làm Hiệp Thống Lãnh.

- Hoàng Phùng Cơ11 làm Hiệp Thống Lãnh.

- Phan Lê Phiên12 làm Tán Lí.

- Nguyễn Xuân Huyên13 làm Hiệp Tán Lí.

Đến tháng 8 năm 1768, Đoàn Nguyễn Thục14 được điều động tới, giữ chức Giám Quân và tăng cường cho bộ chi huy cuộc đàn áp này. Tam Vạn Thành và căn cứ Mãnh Thiên phải chịu đựng một sức ép ngày càng dữ dội. Đúng vào lúc căng thẳng nhất ấy nghĩa quân Hoàng Công Chất lại phải chịu một tổn thất rất nặng nề: Hoàng Công Chất qua đời vì lâm bệnh nặng tại Mãnh Thiên. Người kế tục sự nghiệp của Hoàng Công Chất là con trai ông: Hoàng Công Toản. Hoàng Công Toản tuy là người có chí lớn, nhưng, xét về kinh nghiệm trận mạc thì chưa thể sánh với Hoàng Công Chất. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thất bại của cuộc khởi nghĩa này.


Tam Vạn Thành bị phá vỡ, Mãnh Thiên nhuộm đỏ máu anh hùng

Nguyễn Đình Huấn là Thống Lãnh, nhưng chính Thống Lãnh Nguyễn Đình Huấn lại luôn tỏ ra dè dặt, thậm chí là có phần lo sợ khi cầm quân đánh vào các địa phương ở Hưng Hóa. Sai quân đi thu lương thực trong dân không được, hạ lệnh bắt thêm lính cũng không xong, Nguyễn Đình Huấn biết là lòng người đều đã hướng về căn cứ Mãnh Thiên, vì thế, cố sức nghĩ kế để rút quân. Các tướng dưới quyền, đặc biệt là Phạm Ngô Cầu, rất ủng hộ Nguyễn Đình Huấn, chỉ có Giám Quân Đoàn Nguyễn Thục là phản đối mà thôi. Sử cũ chép:

“Bọn (Nguyễn) Đình Huấn cho người phi ngựa về kinh đô, đệ tờ khải, đại ý nói rằng: Lương ăn của quân không được đầy đủ, tiến thoái đều khó cả. Vả chăng, quân sĩ có nhiều người mắc bệnh, vậy xin cho thêm thuốc thang để chữa.

Lúc ấy, (Đoàn) Nguyễn Thục cũng làm tờ khải trình lên theo, nói là (Nguyễn) Đình Huấn hiệu lệnh không nghiêm, đã thế lại còn khinh rẻ và lấn át chư tướng, thả lỏng cho binh lính đi cướp bóc, chần chừ không chịu tiến quân. Tóm lại có mười việc sai trái.

Nhận được tờ khải của (Nguyễn) Đình Huấn, đang đêm mà Trịnh Sâm cũng không bằng lòng, liền cho triệu các quan vào phủ để bàn định. (Trịnh Sâm) nghiêm trách Nguyễn Đình Huấn. Kế đó lại nhận được tờ khải của (Đoàn) Nguyễn Thục, Trịnh Sâm nổi giận nói:

- Ta vẫn biết (Nguyễn) Đình Huấn không thể dùng được, nay quả nhiên là đúng như thế.

(Nói rồi), lập tức hạ lệnh triệu (Nguyễn) Đình Huấn về và bổ (Đoàn) Nguyễn Thục kiêm chức Thống Lãnh các đạo, thay (Nguyễn) Đình Huấn. Vũ Huy Đĩnh15 được bổ làm Giám Quân và Nguyễn Trọng Hoành16 được bổ làm Tán Lí”17.

Tháng giêng năm 1769, Đoàn Nguyễn Thục dốc toàn lực ra đánh trận quyết định với Hoàng Công Toản. Trước khi xuất quân, Đoàn Nguyễn Thục tuốt gươm ra nói với quân sĩ rằng: “Kẻ nào không tuân theo mệnh lệnh thì hãy trông vào thanh kiếm này”.

Hoàng Công Toản đã chủ động bố trí nhiều trận mai phục rất lợi hại, nhưng, quân ít chẳng thể chống nổi đối thủ mạnh, nghĩa quân bị thua liên tiếp mấy trận liền. Cuối cùng, Hoàng Công Toản đành phải chạy sang Vân Nam (Trung Quốc). Số phận Hoàng Công Toản về sau ra sao thì không thấy thư tịch cổ ghi chép gì. Các tướng lĩnh và nghĩa sĩ của Hoàng Công Toản cũng mỗi người tản mác một nơi, không chịu đầu hàng, khuất phục.

Cuộc khởi nghĩa do Hoàng Công Chất phát động và chỉ huy, sau ba mươi năm chiến đấu ngoan cường, đến đó là chấm dứt. Hoàng Công Chất là biểu tượng của khí phách hiên ngang, của ý chí chiến đấu dẻo dai phi thường, của tài chỉ huy chiến đấu ở nhiều địa hình rất khác nhau. Hiện nay, ở Điện Biên Phủ vẫn còn đền thờ Hoàng Công Chất do nhân dân địa phương dựng lên.
____________________________________
1. Mãnh Thiên là tên động, động này thuộc châu Ninh Biên, trấn Hưng Hóa. Nay, động Mãnh Thiên thuộc địa phận tỉnh Lai Châu.
2. Hoàng Bình Chính: Hưng Hóa phong thổ lục. Dẫn lại của Phan Huy Lê - Chu Thiên - Vương Hoàng Tuyên - Đinh Xuân Lâm trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập III), Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1960, trang 233.
3. Trịnh Doanh mất vào tháng 1 năm 1767. Chúa kế vị là Trịnh Sâm, ở ngôi chúa từ năm 1767 đến năm 1782.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 43, tờ 14). Tư liệu ở đây là tư liệu tổng hợp, không phải là trích lục từ nguyên tác.
5. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 43, tờ 14) thì Trịnh Phương là người thuộc dòng họ của chúa Trịnh. Ngoài ra, các chi tiết khác về lai lịch cuộc đời Trịnh Phương hiện vẫn chưa rõ.
6. Nguyễn Trọng Điển còn có tên là Nguyễn Trọng Thân. người làng Quế Ổ, huyện Quế Dương (nay thuộc Bắc Ninh), con của Tạo Sĩ Nguyễn Trọng Uông.
7. Nguyễn Đình Diễn người làng Nội Duệ, huyện Tiên Du cũ (nay thuộc Bắc Ninh), xuất thân là hoạn quan.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 48, tờ 16) chú thích rằng: “Mười châu đó gồm có Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu, Ninh Biên Quảng Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Khiêm Châu và Tuy Phụ. Nay bốn châu Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu và Ninh Biên đều thuộc Hưng Hóa. Hai châu Quảng Lăng và Hoàng Nham đều thuộc Vân Nam (Trung Quốc-NKT). Còn bốn châu Hợp Phì, Lễ Tuyền, Khiêm Châu và Tuy Phụ không khảo cứu được”.
9. Nguyễn Đình Huấn người làng Yên Thường, huyện Đông Ngàn (nay thuộc Bắc Ninh), xuất thân là hoạn quan.
10. Phạm Ngô Cầu hiện chưa rõ lai lịch, chỉ biết về sau được phong tới tước Quận Công. Năm 1786, Phạm Ngô Cầu bị Tây Sơn bắt giết.
11. Hoàng Phùng Cơ quê ở Vân Cốc, huyện Bạch Hạc (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ). Lúc này: Hoàng Phùng Cơ đang giữ chức Lưu Thủ Sơn Tây.
12. Phan Lê Phiên (1735-1809) người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1757. Phan Lê Phiên chỉ giữ chức Tán Lí từ tháng giêng đến tháng 6 năm 1768. Từ tháng 7 năm 1768, Đốc Trấn Cao Bằng là Nguyễn Trọng Hoành (người làng Bột Thái, huyện Hoằng Hóa, nay thuộc Thanh Hóa) được cử đến thay Phan Lê Phiên.
13. Nguyễn Xuân Huyên (còn có tên là Nguyễn Diêu), người làng Hoàng Xá, huyện Thư Trì (nay là làng Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), đỗ Tiến Sĩ năm 1752.
14. Đoàn Nguyễn Thục (còn có tên là Đoàn Duy Tĩnh: 1728 - 1783), người làng Hải An, huyện Quỳnh Côi (nay là xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), đỗ Hoàng Giáp năm 1752.
15. Vũ Huy Đĩnh (1730-1789) người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, đỗ Tiến Sĩ năm 1754, làm quan được thăng dần lên đến chức Lễ Bộ Hữu Thị Lang, tước Hồng Trạch Hầu.
16. Nguyễn Trọng Hoành người làng Bột Thái, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc Thanh Hóa).
17. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 43, tờ 21).

« Sửa lần cuối: 16 Tháng Năm, 2009, 10:20:12 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 10:47:14 pm »


04. NGUYỄN DANH PHƯƠNG (? - 1751)

“Danh Phương chiếm Độc Tôn Sơn,
Tuyên-Hưng là đất, Lâm Man là nhà”
1


Trước năm 1740, ở trấn Sơn Tây có một cuộc khởi nghĩa khá lớn do thủ lĩnh Tế cầm đầu. Trong thành phần của lực lượng tham gia cuộc khởi nghĩa này, có một nhà Nho trẻ, đó là Nguyễn Danh Phương.

Nguyễn Danh Phương còn có tên là Nguyễn Danh Ngũ, tuy nhiên, người đương thời thường gọi ông một cách thân mật và trìu mến là Quận Hẻo. Ông người làng Tiên Sơn, huyện Yên Lạc, trấn Sơn Tây (nay quê ông thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Hiện vẫn chưa rõ Nguyễn Danh Phương sinh vào năm nào. Thư tịch cổ cũng như một số tài liệu dân gian cho biết rằng, thuở thiếu thời, ông từng dùi mài kinh sử để thử vận may khoa trường, nhưng rồi chán cảnh nhân tình thế thái ngày một đen bạc, ông đã hăng hái đi theo nghĩa binh của thủ lĩnh Tế. Nhờ có nghĩa khí và văn tài, ông được thủ lĩnh Tế trọng dụng, xếp vào hàng những người thân tín nhất.

Tháng 2 năm Canh Thân (1740), chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Doanh đã phong cho Võ Tá Lý2 làm Chinh Tây Đại Tướng Quân, đồng thời, sai cầm quân đi đánh thủ lĩnh Tế. Trong trận ác chiến ở Yên Lạc3, thủ lĩnh Tế thua trận, Nguyễn Danh Phương liền đem tàn quân chạy về Tam Đảo để tính kế chiến đấu lâu dài. Từ đây, Nguyễn Danh Phương thực sự trở thành thủ lĩnh của một cuộc khởi nghĩa mới.

“Nguyễn Danh Phương vốn là dư đảng của Tế, chiếm núi Tam Đảo, lợi dụng địa thế hiểm trở để xây thành đắp lũy, chiêu mộ dân binh, quyên góp lương thực và rèn đúc khí giới, họp phe đảng ẩn náu trong núi rừng”4.

Theo Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, chốn núi rừng mà Nguyễn Danh Phương cùng nghĩa sĩ của mình ẩn náu chính là ngọn Độc Tôn Sơn trong dãy Tam Đảo5. Từ Độc Tôn Sơn, Nguyễn Danh Phương liên tục tổ chức nhiều cuộc tấn công ra các vùng chung quanh, gây chấn động khắp cả hai trấn Tuyên Quang và Hưng Hóa.

Khi mới dựng cờ khởi nghĩa, do tương quan thế và lực rất chênh lệch, Nguyễn Danh Phương chủ trương kết hợp rất chặt chẽ giữa kiên quyết với mềm mỏng. Kiên quyết là kiên quyết trừng trị đích đáng những kẻ tham quan ô lại, những đơn vị quân đội nhỏ của chúa Trịnh dám hung hăng tiến sâu vào căn cứ của nghĩa quân. Mềm dẻo là mềm dẻo trong sách lược đối phó với âm mưu đàn áp đẫm máu của triều đình. Mục tiêu của Nguyễn Danh Phương là gây tiếng vang bằng những trận đánh hiểm hóc, giành hiệu quả lớn nhất với những tổn thất nhỏ nhất. Bấy giờ, hễ gặp cơ hội thuận tiện là Nguyễn Danh Phương tấn công không khoan nhượng, nhưng, nếu xét thấy điều kiện chưa cho phép thì thường là ông gửi thư giả vờ xin hàng.

“Nhiều lần (Nguyễn) Danh Phương vờ xin hàng để hoãn binh, Trịnh Doanh biết là mưu giả trá nhưng cũng đem ra bàn với bầy tôi. (Trịnh) Doanh cho rằng, việc đánh dẹp cần phải biết có lúc phải hòa hoãn. Nay, trước hết là phải bàn cho rõ, giặc nào cần diệt trước, giặc nào cần dẹp sau”6.

Giặc cần dẹp trước, theo Trịnh Doanh, chính là nghĩa binh của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất… còn như giặc có thể dẹp sau chính là nghĩa binh của Nguyễn Danh Phương. Xuất phát từ nhận định đó, Trịnh Doanh chủ trương tập trung lực lượng đàn áp Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, đồng thời, hạ lệnh cho Trấn Thủ Sơn Tây tạm chấp nhận đề nghị xin hàng của Nguyễn Danh Phương.


Bất ngờ đánh vào Bạch Hạc (1744), phá vòng vây của tướng Văn Đình Ức ở Nghĩa Yên và xây căn cứ mới ở Thanh Lãnh

Tháng 11 năm 1744, lợi dụng lúc chúa Trịnh Doanh đang phải lúng túng huy động lực lượng đối phó với nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất, Nguyễn Danh Phương đã táo bạo cho quân đánh chiếm Việt Trì7 và sau đó là tung hoành khắp cả vùng Bạch Hạc. Trước đó chỉ mấy ngày, Trịnh Doanh vừa nhận được tin Trương Khuông bị Nguyễn Hữu Cầu đánh cho tơi bời ở Ngọc Lâm8, kế tiếp là Đinh Văn Giai bị Nguyễn Hữu Cầu đánh cho đại bại tại Xương Giang9, cho nên, rất lấy làm tức tối. Tướng Văn Đình Ức10 lập tức được lệnh chiêu mộ thêm quân sĩ để đi bình định đất Bạch Hạc. Văn Đình Ức nắm quyền chỉ huy khoảng vài vạn quân, thanh thế rất hùng mạnh. Với quân số áp đảo như vậy Văn Đình Ức hi vọng sẽ nhanh chóng bóp nát lực lượng của Nguyễn Danh Phương. Nhưng, Văn Đình Ức đã lầm. Mới bày binh bố trận ở Nghĩa Yên11, chưa kịp ra tay thì Nguyễn Danh Phương đã khôn khéo dùng kế nghi binh rồi nhanh chóng dẫn hết quân sĩ về chiếm cứ Thanh Lãnh12.

Từ Thanh Lãnh, Nguyễn Danh Phương cho các tướng chia quân đi đánh hầu khắp các huyện thuộc trấn Sơn Tây cũ. Những vị trí quan trọng trong trấn này đều bị nghĩa quân Nguyễn Danh Phương chiếm giữ. Đánh giá về sai lầm của Văn Đình Ức trong trận Nghĩa Yên, sử cũ viết: “Từ đấy (Nguyễn Danh Phương) bố trí đồn lũy, chiếm cứ nơi hiểm yếu để kháng cự với triều đình. Tất cả đều do sai lầm (của Văn Đình Ức) ở trận này cả”13.

Sau Văn Đình Ức, tướng Hoàng Ngũ Phúc cũng được điều đến Trấn Sơn Tây, nhưng tất cả các tướng lĩnh cao cấp này của chúa Trịnh đều bị sa lầy, suốt bốn năm trời (từ 1744 đến 1748) vẫn không đánh được một trận nào đáng kể. Trước diễn biến ngày một phức tạp của tình hình chung như vậy, Trịnh Doanh quyết định đưa tướng Đinh Văn Giai lên thay Hoàng Ngũ Phúc. Đinh Văn Giai được trao chức Trấn Thủ và phải chịu trách nhiệm tổ chức trấn áp cho bằng được lực lượng của Nguyễn Danh Phương. Trước khi ra đi, Đinh Văn Giai được Trịnh Doanh trực tiếp giao nhiệm vụ rất rõ như sau:

“Trấn Sơn Tây là phên giậu của nước nhà, thế mà phía Bắc thì bị (Nguyễn) Danh Phương (chiếm cứ), mặt Nam thì bị (thủ lĩnh) Tương và (Lê Duy) Mật chiếm cứ, giặc mạnh tràn lan, lòng người lo sợ. Vậy, cho phép ngươi được tùy ý làm việc, miễn sao ta đỡ lo nghĩ mặt Tây (kinh thành) là được”14.

Tháng 9 (nhuận) năm 1748, Đinh Văn Giai đến trấn Sơn Tây nhận chức. Nhưng, Đinh Văn Giai là kẻ khôn ngoan, thích sống để giữ quyền cao chức trọng, chẳng dại xông pha trận mạc quá mức để rồi có thể chết bất cứ lúc nào, bởi thế, bất đắc dĩ lắm Đinh Văn Giai mới cho quân ra đánh cho có đánh vậy thôi. Nghĩa quân Nguyễn Danh Phương nhờ đó vẫn ung dung đóng giữ ở hầu khắp các vị trí hiểm yếu của trấn Sơn Tây. Để có thêm cơ hội thuận tiện, nhằm xây dựng và củng cố lực lượng của mình, một lần nữa, Nguyễn Danh Phương lại giả vờ xin hàng. Sử cũ cho biết:

“Nguyễn Danh Phương dùng lễ vật rất hậu rồi mật sai người đến đút lót cho vợ của chúa Trịnh là Trịnh Thị (quê ở làng Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương)15 và hoạn quan là Đàm Xuân Vực16. (Đàm) Xuân Vực giúp (Nguyễn Danh Phương) dâng tờ biểu xin hàng. Trịnh Doanh đã y cho, nhưng khi xuống lệnh triệu vào thì (Nguyễn Danh Phương) không chịu vào nhận mệnh”17.

Cuối năm 1749, Nguyễn Danh Phương bất ngờ cho quân đi đánh ở huyện Tiên Phong18. Thành hình rất nguy cấp. Hiệp Trấn Sơn Tây là Hà Tông Huân19 phải dâng thư chạy gấp về triều đình. Trịnh Doanh phải hạ lệnh cho các tướng Bùi Trọng Huyến20 và Nguyễn Phan21 đưa quân đi cứu viện. Nhưng, rốt cuộc thì hàng vạn quân của chúa Trịnh, do những viên tướng được coi là tài ba nhất chỉ huy, vẫn không sao có thể đè bẹp được lực lượng của Nguyễn Danh Phương.
____________________________________
1. Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca.
2. Võ Tá Lý người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà (nay là 18 Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Lúc này, Võ Tá Lý được phong tới tước Quận Công.
3. Yên Lạc nay thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
4, 6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 38, tờ 28).
5. Đại Nam quốc sử diễn ca.
7. Việt Trì ở đây là tên thôn. Lúc này, thôn Việt Trì thuộc làng Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc. Nay, đất này thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.
8, 9. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 2-Nguyễn Hữu Cầu (ở phần II,chươngthứ nhất).
10. Văn Đình Ức người làng Lạc Phố huyện Hương Sơn (nay là huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ). Ông sinh ra trong một gia đình nối đời là võ quan cao cấp: ông nội là Cổn Quận Công Văn Đình Nhân, chưa là Điều Quận Công Văn Đình Dẫn, bản thân ông cũng được phong là Quảng Quận Công. Con ông là Tạo Sĩ Văn Đình Cung.
11. Nghĩa Yên là tên một làng của huyện Bạch Hạc xưa (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ).
12. Thanh Lãnh là tên một làng thuộc huyện Bình Xuyên cũ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
13. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 11).
14. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 40, tờ 29.
15. Huyện Lôi Dương nay thuộc Thanh Hóa.
16. Đàm Xuân Vực người làng Tương Trúc, huyện Thanh Trì (nay thuộc Hà Nội).
17. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 3).
18. Huyện Tiên Phong nay thuộc Hà Tây.
19. Hà Tông Huân cũng tức là Hà Huân (1697-1766) người làng Kim Vực, huyện Yên Định (nay thuộc huyện Thiệu Yên tỉnh Thanh Hóa), trước đã đỗ Sĩ Vọng, đến năm 1724 lại đỗ Bảng Nhãn. Ông làm quan được thăng dần lên đến chức Thượng Thư, quyền Tham Tụng, hàm Thái Bảo, tước Quận Công.
20. Bùi Trọng Huyến (1713-?) người làng Tiên Mộc, huyện Nông Cống, nay thuộc huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, đỗ Tiến Sĩ năm 1739.
21. Nguyễn Phan người làng Hà Dương, huyện Hoằng Hóa, nay thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, võ quan cao cấp.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2009, 10:50:09 pm »


Đặt đại bản doanh ở Ngọc Bội1, thành lập chính quyền và anh dũng chống trả cuộc đàn áp do đích thân Trịnh Doanh chỉ huy

Từ cuối tháng 9 (nhuận) năm 1748, sau khi từ chối việc về triều, Nguyễn Danh Phương bắt đầu tiến hành xây dựng một hệ thống căn cứ mới. Đại bản doanh của Nguyễn Danh Phương đặt tại núi Ngọc Bội. Ông cho gọi đó là Đại Đồn. Tại Đại Đồn, Nguyễn Danh Phương cho xây thành lũy kiên cố, đồng thời, bước đầu xây dựng chính quyền riêng. Theo sự mô tả của sử cũ thì: “Nguyễn Danh Phương xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, lập cung điện, đặt quan chức, quy định cờ quạt, xe cộ và đồ dùng, tiếm lạm ngang với Thiên Tử”2.

Phía ngoài Đại Đồn, cách Đại Đồn không xa là đồn Hương Canh3. Đồn Hương Canh được gọi là Trung Đồn. Tuy không lớn và không kiên cố bằng Đại Đồn, nhưng, Trung Đồn cũng được xây dựng khá chắc chắn. Và, phía ngoài Trung Đồn, tại khu vực Úc Kỳ4, Nguyễn Danh Phương còn cho xây dựng thêm một hệ thống đồn lũy khác, gọi là Ngoại Đồn. Đại Đồn, Trung Đồn và Ngoại Đồn phối hợp rất chặt chẽ với nhau, sẵn sàng ứng phó một cách linh hoạt với mọi cuộc tấn công từ ngoài vào. Nguyễn Danh Phương cũng cho xây dựng rất nhiều đồn lũy ở các địa phương khác, tính ra, tổng số còn lớn gấp đôi Đại Đồn, Trung Đồn và Ngoại Đồn cộng lại. Theo ghi chép của sử cũ thì:

“Quân đóng ở đâu là làm ruộng, chứa thóc để làm kế lâu dài. (Nguyễn Danh Phương) lại còn tự tiện giữ mối lợi về sản xuất và buôn bán chè, sơn, tre, gỗ... Ở miền thượng du, chưa kể xưởng khai thác mỏ ở Tuyên Quang, do đó mà thóc gạo và của báu chất cao như núi. Hắn (chỉ Nguyễn Danh Phương - NKT) chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu để chống lại quan quân. Triều đình bao phen cất quân đánh nhưng hắn lại đem của đến đút lót, mà các tướng thì hám lợi, cứ dung túng cho giặc (chỉ nghĩa quân Nguyễn Danh Phương - NKT), cốt bảo toàn lấy tấm thân, vì thế, giặc càng ngày càng vững vàng. Trải hơn mười năm trời, (Nguyễn) Danh Phương nghiễm nhiên là vua một nước đối địch với triều đình vậy”5.

Tháng 12 năm 1750, các đạo quân của chúa Trịnh phối hợp đánh mạnh vào lực lượng của Nguyễn Danh Phương ở khu vực Thanh Lãnh. Bấy giờ, khu vực này do hai người em của Nguyễn Danh Phương là Nguyễn Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng trông coi. Bởi quá bất ngờ, cả Nguyên Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng đều bị bắt. Nhưng, quan quân của họ Trịnh chưa kịp vui mừng thì Nguyễn Danh Phương đã kịp thời đem binh sĩ tới. Từ chỗ chủ động đi tấn công và bao vây, các tướng lĩnh của chúa Trịnh buộc phải lâm vào thế bị tấn công, bị bao vây và có nguy cơ bị tiêu diệt hết. Chúng bèn thả Nguyễn Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng để đổi lại là được tháo lui.

Sau trận Thanh Lãnh, Nguyễn Danh Phương mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân ra nhiều vùng lân cận. “Các huyện thuộc những phủ như Tam Đái, Lâm Thao và Đà Dương đều bị (Nguyễn Danh) Phương chiếm cứ”6. Lo sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của nghĩa quân, Trịnh Doanh đã tự mình làm tướng, đem đại binh đi đánh dẹp. Trước khi xuất quân, Hoàng Ngũ Phúc và Đỗ Thế Giai7 cùng phối hợp với nhau, soạn ra 37 điều quân lệnh buộc tất cả tướng sĩ phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Trịnh Doanh cũng thành lập một bộ chỉ huy hành quân, theo đó thì ngoài Trịnh Doanh ra, bộ chỉ huy này còn có:

- Hoàng Ngũ Phúc làm Giám Quân.

- Nguyễn Nghiễm8 làm Tán Lí.

- Đoàn Chú làm Hiệp Đồng.

Tất cả quân sĩ được chia làm bốn đạo, tiến thẳng vào khu căn cứ của Nguyễn Danh Phương. Nhưng, Trịnh Doanh cũng chẳng thể làm được gì hơn các tướng trước đó. Trải một năm chinh chiến gian nan mà chẳng thu được kết quả gì, Trịnh Doanh đành phải kéo quân về.


Mất Úc Kỳ và Hương Canh, Ngọc Bội Đại Đồn tan vỡ, Nguyễn Danh Phương thua trận và bị bắt (1751)

Hao công tốn của mà không diệt được nghĩa quân Nguyễn Danh Phương, Trịnh Doanh tuy buộc phải kéo quân về nhưng lòng vẫn rất lấy làm ấm ức. Sau tết Nguyên đán năm Tân Mùi (1751), một lần nữa, Trịnh Doanh lại cầm đại quân đi đánh Nguyễn Danh Phương. Lần này, để tạo bất ngờ lớn, Trịnh Doanh cho quân băng qua Kinh Bắc (vùng Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay), tiến thẳng đến Thái Nguyên rồi từ Thái Nguyên đánh ập xuống.

Tháng 2 năm 1751, Trịnh Doanh thúc quân, nhân đêm tối, đánh ồ ạt vào Ngoại Đồn Úc Kỳ. Do hoàn toàn bị bất ngờ, Ngoại Đồn Úc Kỳ không sao chống đỡ nổi. Toàn bộ lực lượng nghĩa quân Nguyễn Danh Phương đóng ở đây bị diệt. Trịnh Doanh lập tức hạ lệnh cho các tướng đánh thẳng đến Trung Đồn Hương Canh. Tại đây, lực lượng nghĩa quân của Nguyễn Danh Phương do đã biết Ngoại Đồn Úc Kỳ thất thủ nên chủ động đánh trả rất quyết liệt. Một trận ác chiến thực sự đã diễn ra. Sử cũ viết:

“Giặc (chỉ nghĩa quân Nguyễn Danh Phương - NKT) đem hết quân ra chống cự, tên đạn bay như mưa, quan quân không sao tiến lên được. Bấy giờ, trong hàng tướng lĩnh của chúa Trịnh chỉ có Nguyễn Phan được coi là vô địch. Trịnh Doanh trao thanh gươm cho Nguyễn Phan và nói:

- Nếu không phá được đồn này thì lập tức sẽ bị đem ra xử theo đúng quân pháp.

(Nguyễn) Phan dẫn quân tiến lên, cởi chiến bào, bỏ ngựa đi chân đất. Trước khi xông ra, y ngoảnh lại nói với thủ hạ của mình rằng:

- Quân sĩ đã có tên trong sổ, tất phải biết giữ quân pháp. Các ngươi đều là tôi tớ của ta, nay chính là lúc ta liều mình đền nợ nước, cũng chính là lúc các ngươi có dịp đền ơn ta. Vậy, những ai có cha mẹ già hoặc con thơ, không nỡ dứt tình riêng thì ta cho lui ra, còn thì hãy cùng ta quyết liều mình vì nước, chẳng nên sống uổng một kiếp mày râu.

Mọi người nghe lời (Nguyễn) Phan nói, không ai chịu lùi. (Nguyễn) Phan tự xông lên trước quân sĩ, cố sức đánh, phá tan được (đồn Hương Canh).

(Nguyễn) Danh Phương thu nhặt tàn quân, lui về giữ Đại Đồn Ngọc Bội. Ngọc Bội là sào huyệt của giặc, thế núi cao chót vót rất hiểm trở. Ở đây, giặc đã lấp hết các cửa ngõ và đường tắt từ trước, lại còn bố trí súng ở trên núi cao để cố thủ. Trịnh Doanh lại sai (Nguyễn) Phan tiến đánh. (Nguyễn) Phan sai quân cầm gươm giáo, cho phép ai cũng được tự ý đâm chém, đồng thời hạ lệnh rằng, hễ nghe tiếng súng nổ thì nằm phục xuống, bằng không thì phải trèo lên núi đá mà tiến. (Nguyễn) Phan đem quân tiến trước, ba quân ồ ạt theo sau, quân sĩ tràn lên núi, xa trông cứ như một đàn kiến. Giặc tan vỡ. (Nguyễn) Danh Phương chạy về Độc Tôn Sơn. Quan quân lại đuổi tiếp, (Nguyễn) Danh Phương thua trận, đành phải đốt đồn lũy rồi nhân đêm tối chạy trốn.

Quan quân đuổi theo, bắt được (Nguyễn) Danh Phương tại làng Tĩnh Luyện, huyện Lập Thạch”9.

Sau hơn mười năm chiến đấu ngoan cường và thông minh, đến đây, cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Danh Phương lãnh đạo đã bị đè bẹp. Nguyễn Danh Phương bị bắt và bị giết cùng một ngày với Nguyễn Hữu Cầu.

Nguyễn Danh Phương là một trong những danh tướng xuất thân áo vải lừng danh nhất Đàng Ngoài. Cuộc đời oanh liệt của ông đã khiến cho không biết bao nhiêu tướng lĩnh cao cấp của Đàng Ngoài phải thất điên bát đảo. Ông chưa từng được học ở bất cứ một trường võ bị nào, nhưng, tài năng quân sự của ông thì các võ quan chuyên nghiệp đương thời chưa dễ đã sánh được. Nói khác hơn, ông chính là tướng tài trong số những tướng tài vậy.
_____________________________________
1. Ngọc Bội là tên dãy núi nằm tiếp giáp giữa hai huyện Tam Dương và Bình Xuyên xưa của Sơn Tây, nay cả hai huyện này đều thuộc địa phận tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 3).
3. Hương Canh là tên làng, thuộc huyện Yên Lãng xưa, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Úc Kỳ là tên làng. Làng này xưa thuộc huyện Tư Nông (nay thuộc tỉnh Thái Nguyên).
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 3 và 4).
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 4). Các phủ Tam Đái, Lâm Thao và Đà Dương nay thuộc các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Tây.
7. Đỗ Thế Giai người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), tuy chỉ đỗ có Hương Cống (sau đổi gọi là Cử Nhân), nhưng rất có thế lực trong triều đình.
8. Nguyễn Nghiễm (1708-1775) người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (nay là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh), đỗ Hoàng Giáp năm 1731. Ông là cha của Tiến Sĩ Nguyễn Khản và thi hào Nguyễn Du.
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 41, tờ 7 và 8 ) Làng Tĩnh Luyện thuộc huyện Lập Thạch, trong lời trích ở trên, nay thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2009, 12:09:39 pm »


05. LÊ DUY MẬT (? - 1770)

“Lê Duy Mật là người chí thân của vua Lê,
đau về nỗi nhà Lê không sao ngóc đầu lên được nên đã đem thân
ra xa mãi chốn núi rừng để đánh giặc. Việc Lê Duy Mật làm có thể
gọi là danh chính ngôn thuận, không thể ví như bọn giặc cỏ được.
Dẫu rằng lòng trời chẳng còn muốn giúp nhà Lê, khiến cho việc của
Lê Duy Mật không thể thành công, nhưng, nói về nghĩa lớn vua tôi
thì không bao giờ mai một được”1.



Chuyện bắt đầu từ trong hoàng cung

Tháng 4 năm Kỷ Dậu (1729), chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Cương đã ép vua Lê Dụ Tông2 phải nhường ngôi cho con thứ là Lê Duy Phường3. Lê Dụ Tông sợ bị chúa Trịnh bức bách, cho nên đã lặng lẽ chấp nhận việc này. Lê Duy Phường ở ngôi được ba năm thì bị chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Giang vu cho tội thông dâm với vợ của cha hắn là Trịnh Cương rồi phế làm Hôn Đức công. Tháng 9 năm 1732, Lê Duy Phường bị Trịnh Giang giết khi mới vừa 26 tuổi. Sự kiện này đã tạo ra một làn sóng phản kháng mạnh mẽ trong hoàng tộc cũng như bá quan văn võ.

Lợi dụng sự bất bình này, tháng 12 năm Mậu Ngọ (1738), Lê Duy Mật4, Lê Duy Chúc5 và Lê Duy Quy6 đã cùng với một loạt văn thần và võ tướng khác, như Phạm Công Thế7, Vũ Thước8, Lại Tế Thế9... v.v. đã bí mật họp bàn tính kế đốt kinh thành, lật đổ Trịnh Giang. Nhưng, kế lớn chưa kịp tiến hành đã bị bại lộ và Trịnh Giang đã thẳng tay đàn áp. Lê Duy Quy chạy đi Cẩm Thủy10 và sau đó thì lâm bệnh và mất. Lê Duy Mật và Lê Duy Chúc thì chạy đến Nghi Dương11. Ở Nghi Dương chưa được bao lâu thì Lê Duy Chúc cũng lâm bệnh mà qua đời. Lực lượng hoàng tộc nhà Lê quyết chí chống lại họ Trịnh, lúc ấy chỉ còn lại một mình Lê Duy Mật nữa mà thôi.

Từ đây, một cuộc khởi nghĩa lớn do Lê Duy Mật cầm đầu đã hình thành ở vùng thượng du phía Tây của Thanh Hóa. Khẩu hiệu đầu tiên của Lê Duy Mật là Phù Lê diệt Trịnh. Tuy không tạo được sức hút mạnh mẽ đối với toàn xã hội, nhưng chính khẩu hiệu này lại có tác dụng khá to lớn đối với đội ngũ trí thức Nho học đương thời. Có không ít Nho sĩ đã hăng hái tề tựu dưới ngọn cờ của Lê Duy Mật, một phần cũng bởi lí do quan trọng này.

Trước khi khởi sự, Lê Duy Mật đã cho phổ biến rộng rãi bài hịch của mình. Trong bài hịch đó, Lê Duy Mật vừa ca ngợi công đức của Lê Thái Tổ, ca ngợi cống hiến của các bậc tiên đế nhà Lê, vừa lên án sự chuyên quyền độc đoán của họ Trịnh, đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người hãy đồng lòng vùng lên trừ khử họ Trịnh và trả lại quyền uy ngôi báu cho nhà Lê. Với nhân dân đang bị đọa đày, giềng mối chính thống của nhà Lê chẳng có ý nghĩa gì đáng kể nữa, nhưng, chí lớn và lời hịch khảng khái của Lê Duy Mật lại khiến cho họ rất cảm kích. Giữa họ và Lê Duy Mật, lúc đầu tuy địa vị và nếp nghĩ rất khác nhau, nhưng lại có chung một kẻ thù, đó là ách thống trị tàn bạo của tập đoàn họ Trịnh. Họ tập hợp và chiến đấu anh dũng dưới ngọn cờ của Lê Duy Mật, trước hết và chủ yếu cũng bởi sự trùng hợp tự nhiên này.
____________________________________
1. Lời cẩn án của các sử gia thời Nguyễn trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 37, tờ 25).
2. Tên thật là Lê Duy Đường, ở ngôi từ năm 1705 đến năm 1729, làm Thượng Hoàng từ năm 1729 đến năm 1731, mất vào tháng 1 năm 1731, thọ 51 tuổi.
3. Lê Duy Phường là con thứ của Lê Dụ Tông, cũng là cháu ngoại của chính Trịnh Cương. Lê Duy Phường tức Lê Đế Duy Phường, ở ngôi ba năm (1729-1732).
4. Lê Duy Mật là con thứ của vua Lê Dụ Tông (1705-1729)
5. Lê Duy Chúc là con thứ của vua Lê Hy Tông (1675-1705), tức là vai chú ruột của Lê Duy Mật và Lê Duy Quy.
6. Lê Duy Quy là con thứ của vua Lê Dụ Tông (1705-1729).
7. Phạm Công Thế người làng Hoàng Xá, huyện Đông Quan (nay là xã Phương Đông, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình), đỗ Tiến Sĩ năm 1727.
8. Hiện vẫn chưa rõ lai lịch của Vũ Thước.
9. Lại Tế Thế người làng Quang Lãng, huyện Tống Sơn, (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa).
10. Cẩm Thủy là một trong những huyện của phủ Quảng Hóa (nay thuộc Thanh Hóa).
11. Nghi Dương là một trong những huyện của phủ Kinh Môn (nay thuộc Hải Dương). Lê Duy Mật và Lê Duy Chúc chỉ ở Nghi Dương một thời gian rất ngắn. Sau khi Lê Duy Chúc qua đời, Lê Duy Mật đã đem hết những người tùy tùng chạy vào Thanh Hóa và phát động khởi nghĩa tại vùng đất này.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM