Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:42:14 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3  (Đọc 100322 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #70 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 06:54:33 pm »


Thắng lợi của phong trào đấu tranh tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở ở thôn, xã phát triển. Tính đến giữa năm 1963, so với năm 1962, số cơ sở xây dựng được tăng bình quân 30-40% (riêng Quảng Trị, số thôn có cơ sở là 269/492, chiếm tỉ lệ 45%). Các xã ở Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng có từ 100 đến 300 cơ sở. Còn ở Thừa Thiên, đầu năm 1963, phát triển còn chậm, chỉ có 95/587 số thôn có cơ sở.

Cùng với phong trào đấu tranh, xây dựng cơ sở cách mạng, lực lượng vũ trang cũng có sự thay đổi cả về chất lẫn lượng. Năm 1963, lực lượng vũ trang phân khu Trị Thiên - Huế từ một tiểu đoàn được bổ sung thêm một tiểu đoàn và một số đại đội trực thuộc, tỉnh có trung đội hoặc đại đội, huyện có trung đội. Riêng du kích miền núi Quảng Trị, Thừa Thiên có 2.191 người.

Như vậy, phong trào thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược trong năm 1963 ở Trị Thiên - Huế có bước tiến mới cả về thế và lực. Tuy chưa làm cho tình hình thay đổi lớn, nhưng đã giữ vai trò quan trọng cùng toàn miền tiếp tục giữ vững thế tiến công.

Ở chiến trường Khu VI, ngay từ những tháng đầu năm 1963, địch tập trung lực lượng mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào vùng giáp ranh Bình Thuận, Khánh Hoà, đánh sâu vào khu vực núi cao thuộc các tỉnh Lâm Đồng, Đắc Lắc. Riêng các tỉnh đồng bằng, địch cho lực lượng biệt kích, cảnh sát dã chiến, bộ binh mở các cuộc hành quân quy mô nhỏ hoặc tập kích bất ngờ vào các lõm của ta.

Phương pháp tác chiến của địch là dùng máy bay, pháo binh đánh phá dữ dội trên một khu vực rộng, rồi dùng trực thăng đổ quân xuống phối hợp với xe bọc thép, bộ binh tổ chức thành nhiều hướng, mũi với chiến thuật “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”, càn đi quét lại nhiều lần trên từng khu vực nhỏ, hòng bắt, tiêu diệt cơ sở cơ quan lãnh đạo, cán bộ nằm vùng của ta, gom dân dồn vào các ấp chiến lược.

Trước tình hình đó, học tập kinh nghiệm của Ấp Bắc, lãnh đạo và chỉ huy Khu VI bố trí lực lượng trên các hướng dự kiến địch sẽ tiến công, tổ chức những đơn vị chuyên bắn máy bay, xe bọc thép, kết hợp các hình thức đấu tranh để ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch. Đi đầu trong đợt ra quân “thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược”' lực lượng vũ trang vùng căn cứ Bình Thuận lần lượt bẻ gãy ba cuộc hành quân mang mật danh: Sơn Dương I, Sơn Dương II, Bình Lâm của sư đoàn 3 bộ binh ngụy, gây thiệt hại về người và phương tiện chiến tranh của địch. Phối hợp tác chiến của lực lượng vũ trang, quần chúng cách mạng Bình Thuận được các cơ sở mật làm nội ứng, tổ chức đấu tranh trực diện với địch, phá tan 38 ấp và khu tập trung, đưa những người bị bắt về quê cũ.

Để căng kéo lực lượng địch, tạo điều kiện cho nhân dân trong các vùng căn cứ chống càn, tiểu đoàn 840 chủ lực quân khu dùng một bộ phận lực lượng bất ngờ đánh chiếm cứ điểm Hằng Tổ, phục kích trên đường số 21 (kép) diệt một đoàn xe quân sự 21 chiếc, hỗ trợ đắc lực cho đồng bào Ba Na dùng vũ khí thô sơ tự tạo diệt bọn ác ôn, phá khu dồn dân trở về buôn làng cũ. Phối hợp với hoạt động của quân chủ lực, bộ đội Bình Thuận, sau khi đánh thiệt hại địch ở các cứ điểm Phi Long, Phi Hổ, kết hợp với bộ đội huyện Bắc Bình phục kích đường giao thông, diệt một đoàn xe chở hàng quân sự tại khu vực Bàu Sen (quốc lộ số 1), diệt một đại đội bảo an và bốn trung đội dân vệ đi càn, thu 160 súng bộ binh và một số hàng hoá quân sự. Thừa thắng, ta đánh luôn đồn Bình Lâm làm thiệt hại nặng một đại đội bảo an đồn trú tại đây. Đến giữa năm 1963, bộ đội Bình Thuận phối hợp với bộ đội huyện Tánh Linh đánh bại trận càn của hai đại đội bảo an do tên quận trưởng Tánh Linh cầm đầu ở khu vực Suối Kết, tạo đà cho quần chúng trong ấp nổi dậy giành quyền làm chủ.

Trận đánh “thì đua với Ấp Bắc” có ý nghĩa quan trọng nhất của Khu VI trong thời gian này là đánh bại cuộc hành quân của 2.500 quân chủ lực ngụy có không quân, pháo binh yểm trợ do tướng Tôn Thất Đính chỉ huy ở khu căn cứ Khánh Hòa (vùng lưu vực sông Tô Hạp). Ngày 1-6-1963, cuộc hành quân lớn của quân chủ lực ngụy bắt đầu. Học tập kinh nghiệm chống càn của quân, dân Ấp Bắc và đồng bào Khu V, Tây Nguyên, các cơ sở cách mạng hướng dẫn nhân dân dùng những vũ khí thô sơ, mang cung, bẫy đá, hầm chông... bố trí thành nhiều tuyến bố phòng ngăn chặn, sát thương địch, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội và du kích có thời gian cơ động lực lượng, lợi dụng thế hiểm hóc địa hình miền núi, bám đánh chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch. Với cách đánh hiểm và tài bắn tỉa chính xác của các tay súng, tay cung của du kích người dân tộc vùng cao, hàng trăm binh sĩ ngụy phải đền tội. Nhiều tên chỉ huy các hướng, các mũi bị trúng đạn, tên thuốc độc ngay từ đợt xung phong đầu tiên. Một nỗi kinh hoàng trước thế trận thiên la địa võng của chiến tranh nhân dân địa phương đè nặng lên sĩ quan, lính ngụy trong suốt cuộc hành quân này. Biết có tiếp tục cuộc hành quân cũng chỉ chuốc thêm thương vong. Sau 38 ngày tham chiến, Tôn Thất Đính hạ lệnh lui quân, bỏ dở kế hoạch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #71 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 06:55:13 pm »


Tiếp tục phát huy những thắng lợi đã giành được, ngày 22-6-1963, bằng những trái mìn chống tăng do xưởng công binh Cao Thắng sản xuất, bộ đội Bình Thuận diệt đoàn tàu hoả gồm 12 toa, phá hỏng toàn bộ vũ khí và hàng hoá trên tàu. Ngày 28 tháng 10, bộ đội, du kích lại phục kích một đoàn xe bọc thép chở lính đi càn vào hướng thị xã Phan Thiết, diệt một xe và hàng chục lính, thu 50 súng, sau đó, trụ lại tổ chức cho nhân dân một số thôn ấp vòng ngoài thị xã Phan Thiết nổi dậy diệt ác ôn, phá lỏng thế kìm kẹp. Tính đến hết năm 1963, quân, dân Bình Thuận - lá cờ đầu của “phong trào thi đua Ấp Bắc” của Khu VI đã đánh 570 trận lớn nhỏ, diệt gần 2.000 tên, làm rã ngũ, đào ngũ 550 tên, thu 272 súng các loại, bắn rơi 11 máy bay,... Nhờ đẩy được phong trào đấu tranh vũ trang lên tương đối đều khắp, liên tục, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, binh vận, Bình Thuận cản phá thành công các cuộc hành quân càn quét, gom dân, lập ấp chiến lược, giữ vững các vùng căn cứ và vùng giải phóng.

Như vậy, với sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các hình thức đấu tranh một cách linh hoạt, thích hợp..., quân Khu VI bước đầu giành thắng lợi, đánh bại một số cuộc càn quét, phát động nhân dân phá vỡ được một bộ phận ấp chiến lược. Điều cốt yếu nhất rút ra từ hoạt động thực tiễn của chiến trường Khu VI cũng như ở toàn miền là đấu tranh vũ trang phải đi song song với đấu tranh chính trị và binh vận, để diệt cơ sở hạ tầng của ngụy, mới giải phóng được dân, được đất, mở rộng căn cứ đứng chân, tạo thanh thế ngày càng lớn cho cách mạng. Những thành quả của Khu VI, tuy chỉ là bước đầu, nhưng nó khẳng định ta có đủ khả năng đánh thắng quân ngụy, phá vỡ quốc sách ấp chiến lược của chúng.

Là một quân khu đã làm nên trận Ấp Bắc oai hùng và trở thành tên gọi của phong trào thi đua sôi nổi trên toàn Miền trong năm 1963, Khu VIII không ngừng phát triển lực lượng, nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội và du kích, tổ chức quần chúng, xây dựng các làng xã chiến đấu chu đáo. Với phương hướng hành động là tập trung toàn lực, toàn diện vào đánh địch, nắm vững khâu chính là đẩy mạnh phong trào du kích chiến, kết hợp chặt chẽ giữa chống càn quét và chống gom dân, lập ấp chiến lược kết hợp chặt chẽ lực lượng bên trong và lực lượng bên ngoài, bên trên và bên dưới, địa phương này với địa phương khác, kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, xác định lực lượng quần chúng là cơ bản, lực lượng vũ trang kết hợp là đòn bẩy quan trọng, Khu uỷ Khu VIII phát động hai đợt thi đua giết giặc lập công trên chiến trường đồng bằng miền Trung Nam Bộ. Đi tiên phong cho phong trào thi đua của khu là Mỹ Tho.

Sau thất bại Ấp Bắc, Mỹ- ngụy quyết định lao sâu hơn vào cuộc chiến tranh bằng kế hoạch chiến lược với tên gọi “Kế hoạch tổng tiến công”, thực hiện từ tháng 2-1963. Chúng tập trung lực lượng tăng cường hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, ra sức dồn dân, lập ấp chiến lược. Mặc dù địch đã biến nhiều xã, huyện trong tỉnh Mỹ Tho như xã Thân Hữu Nghĩa ở phía nam huyện Châu Thành thành vùng trắng, đồn, bốt dày đặc, lực lượng kìm kẹp đông, chúng đánh phá, dồn dân hết sức ác liệt, nhưng nhân dân và lực lượng vũ trang vẫn kiên cường bám trụ đánh địch, mở vùng.

Được khí thế của Ấp Bắc tạo đà, phong trào ở Mỹ Tho diễn ra mạnh mẽ ngay từ những ngày đầu của đợt thi đua. Sau khi giành thắng lợi ở Ấp Bắc, quân, dân Mỹ Tho tổ chức ngay đợt ra quân phá ấp chiến lược, chống hành động “xúc dân” ở bảy xã quanh vùng Ấp Bắc đưa ra lộ số 4, lập các khu dồn dân Dưỡng Diềm, Điền Hy và hai xã Trung Hoà, Tân Bình Thành ra khu vực lộ An Khương. Khi binh lính ngụy xông vào các nhà dân xúc lúa, ném đồ đạc, xua kéo nhân dân lên xe cơ giới, xe bọc thép chở vào các khu tập trung, bà con đã kiên quyết đấu tranh giành giật quyết liệt, không cho chúng phá tài sản, gom người vào trại tập trung. Không khuất phục trước hành động của những tên lính ngụy, bác Năm Dành ở Tân Hội - Cai Lậy đã rút cây mác cắm trên vách nhà, trừng mắt quát thẳng vào mặt tên quận trưởng Nguyễn Thúc Hùng: “Cả đời tao sống ở đây chết cũng chôn với mồ mả ông bà ở đây. Tao không đi đâu hết. Trước khi chết, tao giết chết mày trước đã”1. Hành động quyết tử của bác Năm Dành cùng bà con trong xóm ấp, buộc tên Hùng vội cho quân lính dừng tay, lui quân. Để kịp thời hỗ trợ cho phong trào của nhân dân, du kích và bộ đội tổ chức một số trận tiến công giành được thắng lợi rất quan trọng. Tiêu biểu nhất là giữa tháng 4-1963, tiểu đoàn 261 chủ lực quân khu tiến công Cầu Thị Qua (xóm Vuông), diệt một đại đội bộ binh và tám xe bọc thép của quân ngụy. Với những thắng lợi này, quân, dân Mỹ Tho đánh bại kế hoạch hành quân gom dân bảy xã chung quanh Ấp Bắc của quân ngụy vùng IV chiến thuật.

Cũng ở thời điểm này, tiểu đoàn 514 Mỹ Tho phân tán lực lượng xuống các địa phương ở nam lộ số 4 hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược. Đại đội 2 tiến công diệt một đại đội địch đi càn ở Long Hưng, hậu thuẫn cho nhân dân nổi dậy diệt ba tiểu đội dân vệ, phá banh các ấp chiến lược thuộc các xã Kim Sơn, Vĩnh Kim. Đại đội 2 tiến xuống Chợ Gạo phá khu ấp chiến lược Thạnh Trị. Đại đội 1 cũng đẩy mạnh tiến công làm nòng cốt cho nhân dân các xã Long Trung, Long Tiên, huyện Cai Lậy phá rã một mảng lớn ấp chiến lược, đưa các gia đình về quê cũ. Sang tháng 5, đại đội 1 và 2 của tiểu đoàn 514 lại tổ chức bao vây diệt đồn Cẩm Sơn, giải phóng hai xã Cẩm Sơn, Xuân Sơn - Cai Lậy.

Từ thực tế đợt ra quân đầu năm này, Mỹ Tho khẳng định: lực lượng vũ trang muốn hỗ trợ cho quần chúng phá được ấp chiến lược phải thực hiện luồn sâu, trụ lại rồi bung ra tiến công địch, mục tiêu tiến công là chọn những nơi quân địch yếu, sơ hở, rồi phát triển tiến công đánh mở rộng ra từng vùng.
____________________________________
1. Cuộc kháng, chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Bộ chỉ huy quân sự Tiền Giang xuất bản, 1988. tr.211.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #72 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 06:55:39 pm »


Phát huy thắng lợi của đợt ra quân sáu tháng đầu năm, bắt đầu từ tháng 7-1963, tiểu đoàn 261 và 514 cùng lực lượng bộ đội địa phương huyện, du kích các xã phối hợp với lực lượng chính trị, binh vận tiếp tục đẩy mạnh tiến công địch trên địa bàn toàn tỉnh Mỹ Tho. Kế hoạch hoạt động được xác định trên hai hướng: hướng chính là 14 xã thuộc hai huyện Cai Lậy, Châu Thành. Lực lượng tham gia gồm tiểu đoàn 261, đại đội 1 tiểu đoàn 514 và toàn bộ bộ đội huyện, du kích các xã, nhằm tiêu diệt, bức hàng, bức rút các đồn bốt, phá dứt điểm các ấp chiến lược, giải phóng các xã. Hướng phụ là huyện Chợ Gạo, do đại đội 2 tiểu đoàn 514, bộ đội huyện Chợ Gạo, du kích các xã có nhiệm vụ đánh phá khu gom dân Trung Hoà, Tân Bình Thạnh, khu ấp chiến lược Ông Văn ở Đăng Hưng Phước thực hiện căng kéo địch.

Trong đợt hoạt động này, lần đầu tiên một ban chỉ huy thống nhất được thành lập gồm các đồng chí: Châu Kim Sơn - Tham mưu phó Quân khu VIII giữ chức chỉ huy trưởng, Nguyễn Thanh Hà, thường vụ tỉnh uỷ, chính trị viên tỉnh đội Mỹ Tho giữ chức chính trị viên mặt trận, Nguyễn Văn Danh - tỉnh đội trưởng Mỹ Tho, Nguyễn Văn Điều, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 261 phó chỉ huy.

Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, tập kết lực lượng trên hướng chính, đêm 16 tháng 7, ta bắt đầu nổ súng, hình thành thế bao vây các đồn Cái Mít, Chợ Cầu. Sáng 17 quân địch điều động một bộ phận sư đoàn 7 và xe M113 tiến ra lộ Ba Dừa, lộ số 4 và lộ Đông Hoà, nhưng chúng không tiến được vào khu chiến. Bị ta bao vây, uy hiếp mạnh mà sư đoàn 7 vẫn không đến ứng cứu giải toả, sáng 19-7, toàn bộ quân địch ở đồn bốt Cái Mít, Chợ Cầu và một số đồn bốt lân cận đã rút chạy.

Đêm 20 tháng 7, tiểu đoàn 261 tiến công tiêu diệt chi khu Vĩnh Kim. Đại đội 1 tiểu đoàn 514 diệt bốt Bờ Trúc xã Đông Hoà, bốt Cầu Lấp xã Song Thuận. Trước sức tiến công mạnh mẽ của ta, ngày 21, các đồn bốt như Bình Trưng, Phú Phong, Mù U, ngã tư Hưng Long (Tam Bình), Ngã Tắc (Long Trung), ngã ba Long Tiên, Phú Quý... cả thảy 15 đồn bốt trong khu vực, quân địch bỏ chạy hoặc đầu hàng.

Trên hướng Chợ Gạo, đêm 16 tháng 7, đại đội 2 tiểu đoàn 514 tập kích khu gom dân Trung Hoà, diệt một trung đội bảo an, hỗ trợ cho nhân dân phá kìm trở về quê cũ làm ăn. Ngày 17, đại đội 2 và bộ đội huyện Chợ Gạo đẩy lùi cuộc tập kích của một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 7 và hai đại đội bảo an ngụy, diệt 40 tên, bắn rơi một máy bay khu trục tại cầu Ông Hậu xã Mỹ Tịnh An. Đêm 17, đại đội 2 tiểu đoàn 514 cơ động xuống cầu Ông Hàn xã Quảng Long. Phát hiện chỉ có một đại đội của tiểu đoàn 514, chỉ huy sư đoàn 7 ngụy dùng hai trung đoàn bộ binh, 45 xe M113, 12 pháo, 27 tàu, 30 trực thăng đổ quân hình thành thế bao vây quyết “xoá sổ” đại đội 2.

11 giờ 30 phút ngày 20 tháng 7, quân địch chia làm nhiều mũi cùng lúc tiến công vào khu vực tập kết lực lượng của đại đội 2 tại cầu Ông Hàn. Biết quân địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần, đại đội 2 học tập kinh nghiệm của trận Ấp Bắc trước đây, nhanh chóng phối hợp chặt chẽ với bộ đội huyện Chợ Gạo, du kích Quảng Long khẩn trương chuẩn bị công sự, trận địa đánh trả quân địch. Qua năm giờ chiến đấu liên tục, các mũi tiến công của địch bị đẩy lùi. Trận địa vẫn được giữ vững cho đến khi màn đêm buông xuống ta chủ động rút quân. Kết quả, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 200 tên địch, bắn rơi ba máy bay, bắn hỏng và phá huỷ tám xe M113; bộ đội ta hy sinh 13, bị thương 15 đồng chí. Đây là trận chiến đấu không cân sức, gay go quyết liệt, nhưng là trận ta giành được thắng lợi vang dội, gây ảnh hưởng sâu rộng trên địa bàn quân khu.

Sau khi diệt chi khu Vĩnh Kim và 15 đồn bốt trên hướng chính, quân địch không có hoạt động ứng cứu, giải toả đáng kể; đồng thời ở hướng Chợ Gạo, ta lại giành thắng lợi ở trận cầu Ông Hàn xã Quảng Long ngày 22-7-1963 Ban chỉ huy thống nhất quyết định kết thúc đợt hoạt động. Ta giải phóng được hoàn toàn 12 xã thuộc hai huyện Cai Lậy, Châu Thành, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn liên hoàn nối liền bắc lộ số 4 với Đồng Tháp Mười, đặt tên là “vùng 20-7” để ghi nhớ một chiến công đánh dấu bước trưởng thành của các lực lượng vũ trang, chính trị trong quân khu.

Thắng lợi trong đợt hoạt động 20-7 ở Mỹ Tho để lại bài học kinh nghiệm có giá trị về việc sử dụng các lực lượng, đánh địch bằng hai chân ba mũi, về phá ấp chiến lược, mở mảng, mở vùng, giải phóng nông thôn... cho Khu VIII và các địa phương toàn miền học tập.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #73 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 06:56:44 pm »


Trong khi phong trào cách mạng ở Mỹ Tho liên tiếp giành được thắng lợi, thì ở Bến Tre phong trào còn nhiều khó khăn. Từ những tháng đầu năm 1963, địch tập trung lực lượng càn quét với mức độ ác liệt trên hầu khắp các địa bàn toàn tỉnh, dựng thêm 129 ấp chiến lược, thu hẹp phần quan trọng diện tích vùng giải phóng. Lực lượng vũ trang của ta hoạt động yếu, chủ lực phân tán, chiến đấu kém hiệu quả, phong trào đấu tranh chính trị giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Để nhanh chóng khắc phục khó khăn này, tỉnh uỷ triệu tập hội nghị mở rộng vào đầu tháng 4-1963. Hội nghị chỉ rõ: Qua thực tiễn kinh nghiệm Ấp Bắc, nếu địch càn quét, lấn chiếm, ta không tích cực chống càn quét là sai; đấu tranh vũ trang không mạnh thì đấu tranh chính trị và binh vận sẽ gặp rất nhiều khó khăn; phong trào không lên được thì vùng giải phóng sẽ ngày càng bị thu hẹp. Tại hội nghị này, tư tưởng bảo thủ, hữu khuynh tồn tại trong một số cán bộ, đảng viên được đưa ra phân tích, mổ xẻ, phê phán, uốn nắn. Sau những ngày bàn bạc, tranh luận sôi nổi, khẩn trương, các đại biểu thống nhất chủ trương hành động trước mắt là: tập trung huấn luyện, tăng cường vũ khí, trang bị, nâng cao sức chiến đấu cho hai đại đội chủ lực tỉnh, thành lập thêm đại đội thứ ba và đại đội trợ chiến; phát triển các trung đội thông tín, trinh sát, đặc công, công binh thành đại đội. Đồng thời, khẩn trương kiện toàn các cơ quan chỉ huy quân sự các cấp kiên quyết chỉ đạo bộ đội tỉnh, huyện đứng lại cùng du kích và nhân dân chống các cuộc hành quân càn quét của địch, hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy gỡ đồn bốt, phá ấp chiến lược, mở thêm vùng làm chủ. Kết thúc hội nghị, tỉnh uỷ phát động phong trào thi đua hưởng ứng chương trình hành động của Quân uỷ Miền trong năm 1963: “thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược” trong toàn thể lực lượng vũ trang và nhân dân.

Để bảo đảm cho phong trào thi đua thành công, cuối tháng 4 đầu tháng 5-1963, Ban quân sự Bến Tre đưa đại đội 1 và 2 chủ lực về căn cứ Thạnh Phong (huyện Thạnh Phú), nơi có địa hình thuận lợi, có điều kiện bảo đảm vật chất tốt... để thực hiện việc huấn luyện nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật và giác ngộ chính trị... Nội dung đợt huấn luyện này chú trọng việc xây dựng công sự theo cấu trúc hình chữ L có nắp - một dạng công sự thuận lợi cho cả chiến đấu tiến công và phòng ngự. Về bắn súng, đi sâu vào phương pháp bắn máy bay lên thẳng, đánh xe M113. Về chiến thuật, chú trọng cách đánh vận động, phục kích từ cấp tiểu đội đến cấp đại đội. Trong quá trình huấn luyện, kinh nghiệm và mô hình trận Ấp Bắc được áp dụng như một tưởng định mẫu mực.

Sự cố gắng của lãnh đạo và quân, dân Bến Tre mang lại những kết quả đáng phấn khởi. Ngày 5-7-1963, bộ đội tỉnh cùng du kích xã Thạnh Phú Đông tiến công đồn Cái Mít (trên triền sông Hàm Luông). Sau khi hạ đồn, ta chia lực lượng ra phục kích chờ đánh quân viện. Đúng dự kiến của ta, địch cho tiểu đoàn 3 trung đoàn 12, sư đoàn 7 đến ứng cứu. Địch dùng trực thăng đổ một đại đội bộ binh xuống Gò Keo. Phát hiện hành động của địch, ta khẩn trương phân chia đội hình, cơ động, bí mật chiếm các vị trí xung yếu, tổ chức đánh trực thăng khi chúng vừa chạm đất Bị đánh bất ngờ, bộ binh địch không kịp trở tay, mạnh tên nào tên nấy chạy ra cánh đồng để thoát chết. Đại đội địch còn lại, tuy được máy bay trực thăng đổ xuống an toàn, nhưng khi xung phong bị du kích và bộ đội ta bố trí trong các công sự, hầm hào dùng hoả lực phối hợp đánh mạnh, gây tổn thất cả về người và phương tiện. Trận đánh diễn ra ác liệt, lực lượng ta tuy thiếu thốn lương thực, vũ khí nhưng vẫn kiên quyết bám trụ đến cùng. Sau một tuần tham chiến, nhiều sinh lực, vũ khí và trang dụng quân sự địch bị tiêu hao, chúng không xung phong vào được trận địa ta, buộc phải lui quân, chịu mất đồn Cái Mít và cả khu vực điểm cao Gò Keo. Được lực lượng vũ trang hỗ trợ đắc lực, quần chúng trong ấp chiến lược nhất tề nổi dậy diệt ác, trừ gian, phá ách kìm kẹp, giải phóng hoàn toàn xã Thạnh Phú Đông, xây dựng thành xã chiến đấu.

Khuếch trương thắng lợi đã giành được, từ ngày 10 đến ngày 15-7-1963, các cơ sở mật thuộc các xã Thạnh Phú Đông, Hiệp Hưng, Tân Hào, Phước Long tổ chức được 2.000 quần chúng nòng cốt và thân nhân gia đình binh sĩ ngụy kéo về thị trấn Giồng Trôm, đòi chính quyền ngụy bồi thường thiệt hại tài sản, tính mạng của chồng, con bị chết trận, đòi chấm dứt ngay những hành động càn quét, đánh phá, kêu gọi con em quay súng trở về với bà con, xóm làng.

Rút kinh nghiệm trận Gò Keo, ngày 2 tháng 9, hai đại đội chủ lực của tỉnh cùng bộ đội huyện Giồng Trôm tiến đánh đồn Sơn Phú, phục kích đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an 232 đến ứng cứu. Thừa thắng, bộ đội ta lại tập kích diệt đồn Lương Phú, chặn quân tiếp viện bằng đường thuỷ trên sông Tài Phú, bắn chìm hai tàu, diệt đại đội bảo an Giồng Trôm, trong đó có tên đại úy đồn trưởng.

Ngày 9 tháng 9, bộ đội tỉnh hành quân xuống Ba Tri phối hợp cùng lực lượng vũ trang huyện, du kích xã diệt đồn Mỹ Nhơn, sau đó, chuyển sang vận động phục kích diệt toàn bộ đại đội bảo an 907 khét tiếng ác ôn được thành lập từ thời Pháp, bắt 35 tù binh, thu 80 súng các loại. Thắng lợi trong trận vận động phục kích này đánh dấu bước trưởng thành mới của lực lượng vũ trang Bến Tre. Cùng thời gian này, đại đội 3 chủ lực vừa thành lập hiệp đồng với bộ đội Thạnh Phú tập kích đánh tiêu hao nặng đại đội bảo an 854 ở Cầu Ván (xã Giao Thạnh) tạo điều kiện cho nhân dân ở một số ấp chiến lược trong huyện nổi dậy phá ấp giành quyền làm chủ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #74 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 06:57:07 pm »


Đi đôi với tác chiến thắng lợi, lực lượng chủ lực đã có bước phát triển. Ngoài ba đại đội bộ binh đang trực tiếp chiến đấu, tỉnh xây dựng được một đại đội hoả lực mạnh có đủ phân đội ĐK57, ĐK75.... Cũng tại đây một trung đội “vũ trang tóc dài” gồm 43 đồng chí được thành lập. Nhiệm vụ của đội là vũ trang tuyên truyền và phát động phong trào quần chúng ở các vùng sâu, vùng yếu, cải trang để điều tra tình hình trong các hang ổ địch, phục vụ cho các trận đánh quan trọng.... Trung đội hoạt động rất có hiệu quả. Bên cạnh đó, ở các huyện, lực lượng vũ trang từ hai trung đội đã phát triển lên đại đội; riêng các huyện trọng điểm như Giồng Trôm, Mỏ Cày xây dựng được đại đội bộ binh có đủ ba trung đội và các tiểu đội thông tin, trinh sát, còn mỗi xã có từ một đến hai trung đội du kích.

Với lực lượng trên, trong đợt một của phong trào thi đua Ấp Bắc, Bến Tre tổ chức đánh 4.759 trận lớn nhỏ, diệt 2.596 tên, làm bị thương 5.654, bắt làm tù binh 536 tên, 3.956 tên đào rã ngũ; hỗ trợ cho quần chúng phá hoàn toàn 121 ấp, phá lỏng 47 ấp và khu tập trung, chuyển 34 ấp chiến lược thành làng chiến đấu. Đến đây lực lượng vũ trang ba thứ quân của tỉnh thực sự đảm nhiệm xuất sắc vai trò “đòn xeo” trong phong trào thi đua giết giặc, phá ấp chiến lược ở Bến Tre. Ngoài ra, trong năm 1963, toàn tỉnh nuôi và huấn luyện 4.558 đàn ong và tổ chức cho ong tham gia chiến đấu ở 71 xã. Mỗi bờ rào ở ấp, xã chiến đấu đều có “đội quân ong” canh giữ, sẵn sàng đón đánh địch.

Khác với ở Mỹ Tho, Bến Tre, ở Kiến Tường, địch tổ chức cuộc hành quân quy mô lớn kéo dài nhiều tháng với tên gọi “Đức Thắng 23”, đánh vào hướng nam huyện Mộc Hoá (ngày 19-3-1963), và dọc vùng kênh Năm Ngàn (ngày 20-6-1963). Tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh chỉ thị cho các đơn vị chủ lực, địa phương, du kích tổ chức lực lượng ém sẵn, chặn đánh tiêu hao một phần lực lượng, phương tiện chiến tranh của địch, đồng thời, củng cố, phát triển lực lượng của ta. Tuy thành quả giành được qua phong trào thi đua Ấp Bắc chưa được bao nhiêu, nhưng đến giữa năm 1963, cả bộ đội tỉnh, huyện, du kích xã, ấp ở Kiến Tường tăng lên gấp hai lần. Chủ lực tỉnh thành lập được hai đại đội bộ binh, hai đại đội (thiếu) đặc công, công binh, 13 trung đội bộ đội huyện, còn mỗi cơ sở ấp, xã có từ một đến ba tiểu đội du kích.

Học tập kinh nghiệm mở vùng 20-7 của quân, dân Mỹ Tho và sự giúp sức trực tiếp của tiểu đoàn 261 của quân khu và tiểu đoàn 514 Mỹ Tho, phong trào ở Gò Công cũng có những chuyển biến. Đêm 8-9-1963, tiểu đoàn 261 làm nòng cốt cùng lực lượng vũ trang tỉnh Gò Công mở trận tiến công diệt đồn Tân Tây, diệt đại đội biệt kích ác ôn đóng tại chi khu quân sự Gò Công, rồi trụ lại chặn đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 7, một chi đoàn xe bọc thép M113 đi giải toả, diệt hàng chục tên cùng gần một chục xe M113. Cùng trong khoảng thời gian trên, đại đội 2 tiểu đoàn 514 phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ tổ chức bao vây diệt nhiều đồn bốt địch, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, giải phóng hoàn toàn hai xã Kiềng Phước, Tân Thành (Hoà Tân).

Trong khi nhiều vùng giải phóng các tỉnh khác ở Khu VIII được khôi phục, thì ở Long An tình hình lại diễn ra theo chiều ngược lại. Đầu năm 1963, quân chủ lực ngụy ồ ạt đổ về chiếm đóng khắp các địa bàn tỉnh Long An. Trung đoàn 46 thuộc sư đoàn 25 ngụy chiếm đóng Đức Hoà và rải quân chốt trên dường 31; trung đoàn 10 chốt giữ dọc đường 4 (từ Bến Lức đến Thủ Thừa); một chiến đoàn thuỷ quân lục chiến chiếm giữ Cần Đước; một chiến đoàn biệt động quân chiếm đóng Cần Giuộc. Dọc đường số 4, những đoàn trọng điểm hoạt động của ta, địch bố trí nhiều xe tăng, xe bọc thép án ngữ ngày đêm; các trận địa hoả lực hai bên đường được tăng thêm nhiều pháo và đạn bắn phá liên tục. Trên sông Vàm Cỏ, đoạn thuộc huyện Bến Lức, địch bố trí hai hải đoàn tàu chiến số 22 và 28, liên tục ngày đêm tuần tra bắn phá vào các căn cứ của ta và chi viện hoả lực cho bộ binh hành quân càn quét dồn dân lập ấp chiến lược ở dọc hai triền sông.

Vào thời điểm này, lực lượng vũ trang Long An chưa có gì thay đổi. Bộ đội chủ lực miền có một đại đội cơ động, một đại đội đặc công, một phân đội trinh sát, một phân đội hoả lực... ưu thế thuộc về quân địch. Chúng liên tục mở các cuộc hành quân cấp chiến đoàn hỗn hợp (gồm hai, ba tiểu đoàn bộ binh, một, hai chi đoàn xe bọc thép, có không quân, pháo binh chi viện), kéo dài nhiều ngày trên một khu vực hẹp (khoảng hai, ba thôn, ấp) kết hợp với các đoàn cán bộ bình định, dồn dân lập ấp chiến lược. Phương châm hoạt động của địch là càn quét chà đi xát lại nhiều lần trên một khu vực, xong rồi mới chuyển sang khu vực khác. Tiêu biểu nhất trong các cuộc hành quân bình định của địch năm 1963 là cuộc hành quân đánh phá xã Mỹ Hạnh huyện Đức Hoà. Đầu tháng 3-1963, địch dùng một chiến đoàn bộ binh, một chi đoàn xe bọc thép, một đơn vị biệt động quân thực hành bao vây tiến công chiếm giữ khu vực Trầm Lạc, Ấp Mới, sau đó dùng xe tăng, máy ủi phá hệ thống công sự, hầm hào chiến đấu mà bộ đội, du kích và nhân dân xây dựng trước đó. Phần lớn hầm bí mật bị phá huỷ, các cơ sở cách mạng bị phá vỡ, du kích, bộ đội không thể trụ bám được địa bàn.

Đi đôi với việc tàn phá xóm ấp, quân ngụy khẩn trương xây dựng các trục giao thông, ấp chiến lược Mỹ Hạnh. Đây là ấp chiến lược rất kiên cố. Chung quanh ấp là bờ tường đất đắp cao, cắm chông dày đặc, tiếp đến là hệ thống hàng rào dây thép gai ba lớp đơn, bùng nhùng và cũi lợn. Địch dồn được quá nửa dân số xã Mỹ Hạnh (khoảng 1.500 người) vào ấp chiến lược.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #75 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 06:57:42 pm »


Cũng như cách làm ở Mỹ Hạnh, địch dồn dân ở 8/10 xã của huyện Đức Hoà vào ấp chiến lược. Ở Đức Huệ, địch tập trung củng cố khu ấp chiến lược Quéo Ba xã Mỹ Quý Tây. Ở Bến Lức, chúng xây dựng khu ấp trọng điểm ở Voi Lá, Tán Lông... phát triển ra các địa bàn khác. Riêng ở Cần Giuộc, tất cả các xã đều có ấp chiến lược... Đến tháng 9-1963, địch lập được 270 ấp chiến lược... trên 85 xã của tỉnh Long An. Phần lớn vùng giải phóng của ta giành được từ phong trào đồng khẩn bị quân địch lấn chiếm. Đến đây, quân ngụy thực hiện được một phần mục đích là tách lực lượng cách mạng ra khỏi quần chúng, làm cho bộ đội và du kích lâm vào tình trạng khó khăn. Tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh chỉ đạo các địa phương bám trụ, khẩn trương xây dựng lại các cơ sở bí mật, dùng đại đội cơ động của tỉnh và các đơn vị vũ trang huyện mở các trận tiến công vào một số đồn bốt, ấp chiến lược, nhưng không có kết quả. Vì lực lượng vũ trang của tỉnh đột nhập vào ấp chiến lược, giải tán toàn bộ dân vệ, thanh niên chiến đấu, thu vũ khí, vận động nhân dân nổi dậy phá rào, phá bờ tường đất bảo vệ chung quanh, sau đó rút quân, nhưng sáng hôm sau, địch chiếm lại. Tình trạng phá ấp chiến lược kiểu này diễn ra ở nhiều địa phương của Long An. Tỉnh uỷ rút kinh nghiệm, thay đổi phương pháp, đưa cán bộ vào bí mật hoạt động trong ấp, xây dựng lại cơ sở, tổ chức các đội du kích mật, sẵn sàng phối hợp với lực lượng quân sự, chính trị bên ngoài, thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào.

Giữa tháng 9-1963, Khu uỷ Khu VIII mở hội nghị sơ kết đợt một phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược”. Từ thực tiễn hoạt động ở các địa phương, Khu uỷ kết luận: Ấp chiến lược mạnh ở vòng ngoài, sơ hở ở bên trong. Ta có thể đưa lực lượng vũ trang vào những vùng sâu, vùng yếu, bất ngờ tiến công địch, nhanh chóng phát động nhân dân nổi dậy mở mảng, mở vùng trên khu vực rộng lớn. Lực lượng vũ trang phải trụ lại tổ chức đánh địch, hỗ trợ cho nhân dân tác chiến với máy bay trực thăng, xe bọc thép, có vậy mới giữ được dân, được đất, làm hậu thuẫn đắc lực cho phong trào đấu tranh của quần chúng phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ.

Khu uỷ Khu VIII quyết định phát động đợt hai phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược” trọng điểm là tỉnh Long An, Mỹ Tho... Ở các địa phương này trong đợt một, phong trào đấu tranh của nhân dân đã gây cho địch những thiệt hại, phá vỡ, phá lỏng nhiều ấp chiến lược, nhưng cuộc đấu tranh giữa ta và địch ở thế giằng co quyết liệt.

Cuối tháng 9-1963, Tỉnh uỷ Long An triệu tập hội nghị cán bộ để bàn biện pháp thực hiện nhiệm vụ tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, phá ấp chiến lược, thu hẹp cho được phạm vi chiếm đóng của địch, giải phóng nhân dân. Trên địa bàn tỉnh Long An cho đến thời điểm này chưa có địa phương nào tìm ra được phương thức phá ấp chiến lược có hiệu quả để rút kinh nghiệm học tập.

Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, hội nghị chỉ ra những nguyên nhân làm giảm sút các phong trào là: Xây dựng lực lượng chưa theo kịp sự thay đổi về tương quan lực lượng giữa địch và ta trên địa bàn, chưa mạnh dạn thay đổi cách đánh, chưa đánh đúng đối tượng là quân chủ lực địch trong hành quân càn quét và đóng đồn bốt. Về phá ấp chiến lược, nếu chỉ phá được hàng rào và bờ tường ấp thì mới chỉ phá được hình thức chứ chưa phá được nội dung của ấp chiến lược. Hội nghị chỉ rõ: Phương pháp phá ấp chiến lược cụ thể là dùng lực lượng vũ trang đánh tiêu diệt đồn bốt và lực lượng càn quét, rồi trụ lại tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy bung về làng cũ.

Thực hiện phương thức trên, tỉnh uỷ mà trực tiếp là Ban quân sự tỉnh đã tăng cường, củng cố lực lượng vũ trang ba thứ quân; bên cạnh một đại đội cơ động với 500 cán bộ, chiến sĩ được xây dựng từ đầu năm 1963, tỉnh thành lập thêm đại đội chủ lực thứ hai với quân số 300 cán bộ, chiến sĩ. Cùng với bộ binh, tỉnh xây dựng hai đại đội đặc công, một đại đội trinh sát, một đại đội pháo, một đại đội phòng hoá chất độc, một trung đội công binh và một trung đội thông tin1. Ở các huyện đều có đại đội tập trung, mỗi xã có từ một đến hai trung đội du kích. Trên hầu khắp các địa bàn xã, ấp, lực lượng vũ trang phối hợp và làm nòng cốt cùng nhân dân khẩn trương xây dựng công sự trận địa, thường xuyên trinh sát nắm địch, sẵn sàng chiến đấu.

Cuối tháng 9-1963, sau khi củng cố được lực lượng và trang bị thêm vũ khí, bộ đội Đức Hoà cùng nhân dân tiến công đồn Giồng Lớn, diệt một đại đội bảo an. Các cơ sở mật tổ chức cho nhân dân nổi dậy giải toả lực lượng thanh niên chiến đấu, dân vệ của địch, phá banh ấp chiến lược Giồng Lớn.

Trung tuần tháng 10, bộ đội Tân Trụ, Bến Lức tập kích diệt các đồn bốt ở Tân Bửu, Bình Đức, Mỹ Thạnh, trụ lại đánh thiệt hại nặng các cuộc hành quân càn quét dồn dân, lập ấp của quân chủ lực và bảo an. Trong tháng 10, lực lượng vũ trang tỉnh tiến công diệt hàng chục đồn bốt, hỗ trợ có hiệu quả cho nhân dân nổi dậy phá banh, phá rã 20 ấp chiến lược.
____________________________________
1. Theo Long An – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.116.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #76 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 06:58:51 pm »


Để tạo sự chuyển biến lớn thúc đẩy phong trào toàn tỉnh, tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh Long An tập trung hai đại đội đặc công, hai đại đội bộ binh, một trung đội công binh và bộ đội địa phương huyện Đức Hoà do đồng chí Huỳnh Công Thân (Tư Thân), tỉnh đội trưởng trực tiếp chỉ huy, tiến công trung tâm huấn luyện biệt kích Hiệp Hoà (tỉnh Hậu Nghĩa1) - căn cứ án ngữ hành lang biên giới Việt Nam - Campuchia của địch. Nhờ trinh sát, điều tra tình hình chu đáo, xây dựng quyết tâm chiến đấu sát thực, công tác bảo đảm được chuẩn bị kỹ lưỡng, chỉ hơn nửa giờ (từ 1 giờ đến 1 giờ 40 phút) đêm 22-11-1963, ta đã làm chủ được mục tiêu, diệt 78 tên địch, bắt làm tù binh gần 100 tên khác, thu 500 khẩu súng các loại (trong đó có 12 súng cối và đại liên, 18 trung liên, 100 tiểu liên, 400 cácbin, súng trường tự động, gần bốn tấn đạn các loại cùng nhiều trang dụng, thuốc chữa bệnh). Phía ta, hai đồng chí hy sinh, hai bị thương.

Thắng lợi trận Hiệp Hoà tạo đà cho nhân dân sống trong các khu tập trung, ấp chiến lược ở chung quanh căn cứ liên kết nhau lại nổi dậy, đánh đuổi ngụy quyền, ngụy quân ở cơ sở, phá lỏng, phá rã thế kìm kẹp. Chỉ ba ngày sau chiến thắng Hiệp Hoà, phần lớn các đồn bốt, ấp chiến lược ở các vùng Đức Hoà, Khánh Hoà, Sô Đo, Mỹ Hạnh bị phá cơ bản; hệ thống đồn bốt, tháp canh của quân ngụy trên đường số 10 (dài khoảng 40 km) đều bị ta bức rút.

Thắng lợi Hiệp Hoà là bằng chứng khẳng định muốn phá ấp chiến lược, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, thôn, ấp phải giỏi đánh công kiên, tiêu diệt được các đồn bốt, căn cứ kiên cố mới bảo đảm chắc chắn cho quần chúng nổi dậy phá kìm, phá ấp, giành và giữ được quyền làm chủ lâu dài.

Cay cú trước thất bại đêm 22 tháng 11, ngày 23 địch huy động một trung đoàn chủ lực, bốn trực thăng vũ trang, 18 xe bọc thép M113 chia làm hai cánh tiến công tái chiếm căn cứ Hiệp Hoà. Đúng thời điểm quân địch triển khai cuộc hành quân, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, hàng ngàn dân các xã Tân Mỹ, Tân Phú, An Ninh, Hiệp Hoà tập trung kéo ra chặn đường tiến quân, đấu tranh chính trị trực diện với địch. Các bà, các chị có chồng con chết trận than khóc, kêu gào, đòi bọn chỉ huy hành quân phải bồi thường nhân mạng, tài sản... do chúng gây ra. Cán bộ cơ sở và quần chúng cốt cán nhân cơ hội này kêu gọi, vận động binh sĩ ngụy quay súng, phản đối cuộc hành quân. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của đội quân tóc dài, binh sĩ địch vốn đã hoang mang lại càng hoang mang hơn. Chỉ huy quân địch bị dồn vào thế bị động, phải thu quân, bỏ dở kế hoạch hành quân chiếm lại căn cứ biệt kích Hiệp Hoà. Đây là thắng lợi thứ hai ở Hiệp Hoà, do nhân dân, nòng cốt là phụ nữ nắm thời cơ, khuếch trương chiến thắng quân sự của lực lượng vũ trang ngày hôm trước, khéo tổ chức đấu tranh, là kết quả của sự kết hợp giữa tiến công quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận.

Quân và dân Long An đã tạo ra thế mời, lực mới không những trên địa bàn của tỉnh mà còn cho cả Khu VIII và chiến trường miền. Sau trận đánh, bộ đội tỉnh, huyện đều được đổi mới cả về trang bị, trưởng thành về trình độ tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng tác chiến. Riêng bộ đội tỉnh từ hai đại đội bộ binh lúc đầu với tổng số 800 quân, quân khu chuẩn y cho Long An thành lập một tiểu đoàn bộ binh và một phân đội đặc công nước có đủ trang bị, vũ khí chuyên dụng. Du kích ấp, xã cũng dần dần được trang bị đủ súng bộ binh, lựu đạn, được huấn luyện một cách cơ bản.

Khuếch trương chiến thắng Hiệp Hoà, lực lượng vũ trang và du kích các huyện, xã liên tục tiến công địch, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá tan 30 ấp chiến lược, phá lỏng gần 100 ấp khác, phá bỏ 26 đồn bốt, giải phóng 23 xã, giải tán hơn 1.600 thanh niên chiến đấu của địch ở Long An. Riêng huyện Đức Hoà, sau một tuần kết hợp tiến công và nổi dậy đã gỡ và phá gần như toàn bộ đồn bốt, ấp chiến lược trên phạm vi tám xã.

Trận Hiệp Hoà thực sự là mốc mở đầu cho đợt hai cao trào phá ấp chiến lược ở Long An nói riêng, và Khu VIII nói chung. Tổng kết tình hình Long An cuối năm 1963, Bộ tư lệnh vùng III chiến thuật ngụy thú nhận: Tính đến ngày 12-12-1963, trong số 279 ấp chiến lược đã hoàn thành, chỉ có 52 ấp nguyên vẹn, phần còn lại chính quyền địa phương chỉ kiểm soát được một cách lỏng lẻo, hoặc đã bị hoàn toàn phá vỡ. Thanh niên chiến đấu đã có tới 2/3 trả súng hay bỏ ngũ trở về quê. Tình trạng tỉnh Long An bị Việt cộng làm ung thối hơn 80% và lực lượng Cộng hoà mất hẳn thế chủ động, chỉ chạy theo các hoạt động của cách mạng.

Cùng với Long An, Mỹ Tho bước vào đợt hai của cao trào giết giặc, lập công và phá ấp chiến lược vẫn giữ được khí thế sôi động. Trong tháng 10, 11 và 12-1963, Tỉnh uỷ, Ban quân sự Mỹ Tho điều động tiểu đoàn 261 xuống địa bàn trọng điểm thuộc phía nam đường số 4 (Cai Lậy, Châu Thành) tiếp tục tiến công địch, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, đưa tiểu đoàn 514 xuống hoạt động ở Phú Mỹ, Củ Chi. Tại khu vực trọng điểm, tiểu đoàn 261 bao vây tiến công yếu khu Ba Dừa, buộc địch phải đầu hàng. Mất Ba Dừa, căn cứ mạnh, làm các đồn bốt địch đóng ở các xã Long Trung, Long Khánh, Long Tiên, Tam Bình, Cẩm Sơn, Xuân Sơn rút chạy. Phát huy thắng lợi, tiểu đoàn tiến xuống giải phóng Đông Hoà, sang Cai Lậy, giải phóng Hiệp Đức.

Trên hướng Phú Mỹ - Củ Chi, sáng ngày 3 tháng 11, tiểu đoàn 514 diệt đơn vị ác ôn do tên Huề chỉ huy, đánh chiếm chi khu Phú Mỹ, giải phóng các xã Phú Hoà, Tân Hoà Thành, Tân Lý Đông, phá tan ấp chiến lược Củ Chi và đánh bại các đợt phản kích của sư đoàn 7 ngụy tại quẹo lộ Tân Lý Đông, diệt hàng trăm tên địch và năm xe M113. Tiếp đó, đại đội 2 và 3, tiểu đoàn 514 cơ động phối hợp với lực lượng vũ trang, bán vũ trang ba huyện Chợ Gạo, Gò Công, Hoà Đồng diệt, bức hàng, bức rút trên 30 đồn bốt, giải phóng thêm nhiều vùng rộng lớn. Tính từ 20 tháng 7 đến hết tháng 11-1963, Mỹ Tho đã diệt, bức hàng, bức rút 162 đồn bốt (có hai chi khu), giải phóng 52 xã.
____________________________________
1. Tỉnh Hậu Nghĩa được thành lập ngày 15-10-1963, gồm các huyện Củ Chi, Trảng Bàng (Tây Ninh), Đức Hoà, Đức Huệ (Long An).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #77 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 07:14:29 pm »


Nhìn lại cả năm 1963, lực lượng vũ trang Mỹ Tho đã đánh 4.072 trận (riêng du kích đánh 3.559 trận), loại khỏi vòng chiến đấu 11.707 tên địch, bắn rơi hàng chục máy bay, phá huỷ, phá hỏng 13 xe M113, 27 xe quân sự khác, hỗ trợ có hiệu quả cho 2.306.600 lượt người đấu tranh chính trị (trong đó có 380.000 lượt người sống trong các ấp chiến lược, khu dồn dân), phá 105 ấp (dứt điểm 55 ấp), giải tán 1.756 lượt bộ máy chính quyền xã, ấp của địch, giải phóng hơn 60.000 dân. Đánh giá quốc sách ấp chiến lược ở Mỹ Tho, Bộ Tổng tham mưu địch nhận định: “Tại Mỹ Tho một trong các tỉnh trọng điểm của Trung Nam Bộ, chỉ còn 10 trong số 184 ấp đã lập, nhưng không còn đủ tiêu chuẩn nữa”1.

Từ những điển hình Long An, Mỹ Tho, các địa phương còn lại ở Khu VIII cũng bừng lên không khí cách mạng sôi nổi. Nét nổi bật nhất toàn khu trong đợt ra quân này là ngoài việc đẩy mạnh tiến công quân sự kết hợp với chính trị, ta còn có sáng kiến lập ra các đội “binh vận lưu động” hoạt động có hiệu quả. Cứ sau mỗi lần lực lượng vũ trang ta đánh thắng một trận càn quét hoặc hạ được một đồn, bốt, các đội “binh vận lưu động” liền tổ chức vào tận căn cứ đóng quân và gia đình binh sĩ ngụy báo tin thương vong, tin thất bại... tuyên truyền, vận động binh sĩ và gia đình họ đứng về phía cách mạng phản chiến, buông súng trở về với nhân dân. Nhờ kết hợp tốt phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi, trong đợt hai toàn khu tiêu diệt, bức hàng, bức rút được 267 đồn bốt, phá vỡ nhiều khu dồn dân nằm sâu trong lòng địch, thu hẹp quyền kiểm soát của chúng. Qua hai đợt hoạt động trong năm 1963, quân, dân Khu VIII vẫn giữ được truyền thống đấu tranh kiên cường của mình, giành được thắng lợi rất quan trọng, đánh bại một bước cơ bản quốc sách ấp chiến lược ở Khu VIII, đóng góp công sức và kinh nghiệm vào việc đẩy mạnh phong trào thi đua toàn miền, phát triển chiến tranh nhân dân, bẻ gẫy từng bước các thủ đoạn chiến thuật và biện pháp chiến lược của Mỹ trong chiến tranh đặc biệt.

Hưởng ứng phong trào thi đua Ấp Bắc, trên địa bàn Khu IX (miền Tây Nam Bộ), lực lượng vũ trang tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Rạch Giá... vừa đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng, huấn luyện bộ đội cách đánh xe tăng và máy bay trực thăng, vừa tổ chức tiến công địch để rút kinh nghiệm và hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy gỡ đồn, phá ấp giành quyền làm chủ. Tỉnh Trà Vinh trong năm 1963, địch tập trung chủ lực, bảo an, biệt kích tổ chức 3.772 cuộc hành quân càn quét từ cấp đại đội đến cấp trung đoàn, giết và làm bị thương hơn 900 người, đốt phá 890 nóc nhà, dồn khoảng 2 vạn dân vào 515 ấp chiến lược và khu tập trung. Cuộc đấu tranh chống địch càn quét, dồn dân diễn ra rất quyết liệt, song số xã giải phóng vẫn bị địch lấn chiếm. Huyện Cái Nhúm gần như mất hết. Nguyên nhân thiệt hại này là do lúc đầu tỉnh chỉ dùng lực lượng vũ trang từ ngoài đánh vào giải phóng ấp. Khi lực lượng vũ trang rút đi, địch bắt ép dân làm lại. Ta đưa lực lượng đến phá, giành giật với địch năm, bảy lần cũng không xong. Tự rút kinh nghiệm và qua gương các tỉnh bạn, Tỉnh uỷ Trà Vinh khẩn trương xây dựng cơ sở bên trong, tổ chức giác ngộ quần chúng phối hợp với lực lượng vũ trang, đấu tranh tự giải phóng. Nhờ đó, khi bộ đội đánh vào ấp số hai xã Long Mỹ, huyện Cầu Ngang, nhân dân ở đây nổi dậy phá rào, san đồn, làm binh vận kêu gọi binh sĩ địch buông súng trở về với nhân dân. Có cơ sở và nhân dân sở tại phối hợp, lực lượng vũ trang bám trụ hỗ trợ cho các ban tự quản (hình thức đầu tiên của chính quyền nhân dân) xây dựng củng cố, giữ vững xã đã giải phóng.

Từ điển hình Long Mỹ, trong năm 1963 tỉnh Trà Vinh tổ chức được hàng trăm trận đánh vừa và nhỏ, diệt 2.277 tên, làm bị thương 2.670 tên, thu và phá huỷ 1.338 súng, 49 xe quân sự..., phá và bức hàng 198 đồn bốt, doanh trại địch, giải phóng được 16 xã, 114 ấp với hàng chục vạn dân.

Thi đua với Trà Vinh, quân, dân Cà Mau kết hợp ba mũi giáp công, tiến công địch 3.326 trận vừa và nhỏ bằng các loại vũ khí thô sơ, súng trường, lựu đạn, diệt 10.591 tên (trong đó 740 tên bị diệt do hầm chông, 182 tên khác trúng mìn, lựu đạn gài sẵn), bắt làm tù binh 2.283 tên, thu 473 súng các loại, phá banh 29, phá cơ bản 27 ấp chiến lược, năm khu dồn dân, giải phóng hoàn toàn 12 xã với 284.280 người.

Sự kiện nổi bật nhất trong năm của Cà Mau cũng như của quân khu là trận tiến công tiêu diệt hai chi khu Cái Nước, Đầm Dơi, quét sạch hệ thống đồn bốt, ấp chiến lược, mở rộng khu căn cứ kháng chiến Cà Mau, diễn ra tháng 9 -1963.

Là một trong những chi khu trọng yếu của vùng IV chiến thuật, địch đã thiết kế Cái Nước - Đầm Dơi thành những cụm cứ điểm mạnh, có hệ thống công sự, hầm hào kiên cố, liên hoàn do lực lượng của Quân khu IV chiếm giữ.

Chi khu Cái Nước nằm ở phía nam và cách tiểu khu An Xuyên 32 km, trên trục lộ Cà Mau - Năm Căn. Ngay từ năm 1955, chi khu đã được xây dựng khá kiên cố. Chung quanh có tường rào dây thép gai kết hợp với hệ thống bãi mìn và các ổ chiến đấu tạo thành thế phòng thủ liên hoàn, vững chắc. Quân số thường xuyên chốt giữ chi khu khoảng 200 tên, gồm một đại đội bảo an, ba trung đội dân vệ, bộ máy hành chính quận và hội đồng xã Tân Hưng Đông, được trang bị súng bộ binh, hai súng cối, ba đại liên, 10 trung liên. Ngoài hệ thống phòng thủ bên trong, địch còn tổ chức một mạng lưới tình báo, gián điệp hoạt động tích cực theo dõi, phát hiện ta.
____________________________________
1. Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991, tr.138.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #78 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 07:16:01 pm »


Để đánh chắc thắng mục tiêu chi khu Cái Nước, Bộ Tư lệnh quân khu dùng tiểu đoàn 306 quân khu là đơn vị chủ công (Quân số 523 người, biên chế thành ba đại đội bộ binh, một đại đội ĐKZ, một số đơn vị trực thuộc) do đồng chí Trần Tứ Phương (Kiên Cường) làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đoàn Quang Vũ làm chính trị viên. Ngoài ra, tiểu đoàn còn được phối thuộc một đại đội pháo, một trung đội trinh sát đặc công, trung đội địa phương huyện Cái Nước. Chỉ huy trực tiếp trận tiến công là đồng chí Nguyễn Hoài Phô (Ba Mai), Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng quân khu. Về phía Tỉnh uỷ Cà Mau có đồng chí Bí thư và Phó bí thư cùng đồng chí Bí thư Huyện uỷ Cái Nước có mặt tại sở chỉ huy của trận đánh.

Chi khu Đầm Dơi nằm án ngữ trên sông Đầm Dơi, cách chi khu Cái Nước chừng 21 km về hướng đông nam được xây dựng kiên cố từ năm 1955. Chung quanh chi khu là hệ thống tường rào dây thép gai, các ụ bắn, bãi mìn, vật cản.... Trung tâm chi khu có tháp canh cao bảy mét để quan sát bao quát tình hình.

Lực lượng bảo vệ chi khu có 177 tên, gồm một đại đội bảo an, một trung đội dân vệ, cảnh sát và hội đồng hành chính xã Tân Duyệt. Vũ khí trang bị, ngoài số súng bộ binh, còn có hai khẩu cối 81 ly, hai khẩu cối 60 ly, một đại liên.

Tham gia tiến công chi khu Đầm Dơi, ngoài lực lượng chủ công là tiểu đoàn U Minh, còn có các đơn vị phối thuộc gồm: trung đội đặc công Cà Mau, một đại đội trợ chiến có bốn khẩu ĐKZ, một phân đội lăng Xà Bom và đại đội bộ binh huyện Đầm Dơi. Chỉ huy trực tiếp trận tiến công là đồng chí Nguyễn Đệ (Ba Trung), tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn U Minh và đồng chí Vưu Hoài Thanh (Tư Bằng), chính trị viên. Để bảo đảm chiến đấu, Tỉnh uỷ Cà Mau giao nhiệm vụ cho huyện uỷ và ban quân sự huyện lo bảo đảm các mặt cho các đơn vị chiến đấu, tuyên truyền phát động quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy phá ấp chiến lược tại các địa phương khi thời cơ đến. Sau khi hoàn thành việc bố trí lực lượng và công tác chuẩn bị, đêm 9-9-1963, trận đánh chính thức mở màn. Vào hồi 15 giờ 40 phút ngày 9, tiểu đoàn 306 và các đơn vị phối thuộc đã chiếm lĩnh xong trận địa xuất phát xung phong trên hướng Cái Nước.

0 giờ 40 phút ngày 10, trên hướng mục tiêu chi khu Cái Nước, các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công. Sau một giờ chiến đấu, ta diệt xong chi khu, bắt sống tên quận trưởng, làm chủ hai đồn Hàng Gòn, Bà Lộc và diệt các tháp canh..., hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá tan các ấp chiến lược, san bằng chi khu. Ta chỉ làm chủ chi khu đến 15 giờ ngày 10 tháng 9.

Trên hướng chi khu Đầm Dơi, vào 18 giờ 30 phút ngày 9, tiểu đoàn U Minh và các đơn vị bộ đội địa phương dùng 300 xuồng hành quân chiếm lĩnh trận địa. Đến nửa đường, đại đội ĐKZ sa vào bãi mìn, sáu đồng chí hy sinh, năm đồng chí bị thương, hai khẩu ĐKZ bị hỏng. Nghe mìn nổ, địch báo động toàn chi khu và tập trung súng cối bắn cấp tập vào hướng bộ đội ta hành quân. Các đơn vị của ta khắc phục mọi khó khăn tiếp cận được vị trí xuất phát tiến công.

4 giờ 10 phút ngày 10 tháng 9, trên các hướng được phân công, chiến sĩ ta tập trung hoả lực ĐKZ, lựu đạn... diệt các lô cốt, ổ đề kháng, dùng bộc phá mở tung các cửa mở tạo điều kiện cho bộ binh đánh sâu vào bên trong chi khu. Trong 25 phút đầu tiên, ta loại khỏi vòng chiến đấu 50 tên, diệt phần lớn các mục tiêu trong chi khu. Lực lượng của địch co cụm lại chống cự quyết liệt. Chúng tập trung hoả lực phản kích nhiều lần, nhưng không thành công. Cả quận trưởng và quận phó đều bị ta tiêu diệt; bọn sống sót phải lùi xuống ẩn nấp trong công sự, hầm ngầm, chờ lực lượng đến chi viện.

Đến 6 giờ sáng, xét thấy nếu kéo dài thời gian trận đánh sẽ không có lợi, vì rất có thể địch tập trung lực lượng lớn phản kích vào chi khu, đồng chí Nguyễn Đệ quyết định cho các đơn vị lui quân.

Ngay sau đó địch tập trung máy bay ném bom phốt pho xuống phía nam chi khu và ném bom, bắn rốc két dữ dội xuống dọc sông Đầm Dơi. 14 giờ cùng ngày, địch huy động các đơn vị thuỷ quân lục chiến, biệt động quân, không quân... đánh vào đội hình rút lui của ta. Tiểu đoàn U Minh và các đơn vị phối thuộc trụ lại đánh trả quân địch. Kết quả: ta đánh bại hai đợt đổ quân phản kích, diệt và bắt trên 100 tên địch, bắn rơi một máy bay T28 và một số máy bay trực thăng. Về phía ta, 40 đồng chí hy sinh.

Trận tiến công Đầm Dơi - Cái Nước ngày 9 và 10-9-1963, bộ đội chủ lực Quân khu IX và bộ đội địa phương Cà Mau tiêu diệt được hai chi khu, một số đồn bốt, ấp chiến lược, loại khỏi vòng chiến đấu 327 tên, trong đó, diệt tên quận trưởng, tên quận phó Đầm Dơi, bắt sống quận trưởng, quận phó Cái Nước, thu 179 khẩu súng các loại, 23 vô tuyến điện, hai tấn đạn. Phía ta, 60 đồng chí hy sinh, 46 bị thương. Đây là một chiến công lớn của quân dân Cà Mau, của đồng bằng sông Cửu Long trong thời kỳ chiến tranh đặc biệt, phá rã một mảng lớn ấp chiến lược ở tuyến sông Bảy Háp, dọc trục lộ Năm Căn - Cà Mau, giải phóng hàng ngàn gia đình khỏi ách kìm kẹp, mở ra vùng căn cứ liên hoàn hai huyện Đầm Dơi - Cái Nước. Thắng lợi này khẳng định sự trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt của lực lượng vũ trang ba thứ quân và sức mạnh của nhân dân trong phong trào thi đua giết giặc lập công của toàn Khu IX. Đây cũng là trận cường tập tiêu diệt được chi khu địch đầu tiên của Quân khu IX.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #79 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 07:16:27 pm »


Tiếp đà thắng lợi, ngày 23-11-1963, Bộ Tư lệnh Quân khu IX dùng tiểu đoàn 306, tiểu đoàn U Minh (Cà Mau), tiểu đoàn cao xạ cùng các đơn vị địa phương Cái Nước, Ngọc Hiển, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Hoài Phô tiến công cứ điểm Chà Là, một căn cứ quân sự quan trọng của địch nằm trên hướng đông nam cách thị xã Cà Mau chừng 30 km. Lực lượng địch ở đây có khoảng 300 tên gồm một đại đội của trung đoàn 32 sư đoàn 21 và một đại đội bảo an.

Đêm 28-11-1963, các đơn vị tham gia trận đánh nổ súng tiến công diệt các lô cốt, đồn bốt bảo vệ chung quanh căn cứ Chà Là. Bị đánh bất ngờ vào giữa đêm, quân địch hoảng loạn chống đỡ yếu ớt. Sau ba giờ chiến đấu, ta diệt hoàn toàn cứ điểm Chà Là, loại khỏi vòng chiến đấu 270 tên, bắt 80 tên, thu nhiều vũ khí, đồ dùng quân sự. Đồng bào ở hai ấp chiến lược quanh căn cứ được bộ đội hỗ trợ nổi dậy phá ấp, diệt bọn ác ôn, phá đồn bốt, trở về quê cũ.

Ngày hôm sau, địch liên tục dùng bom, pháo đánh phá dữ dội vào khu vực căn cứ và cho 30 máy bay trực thăng đổ quân trên nhiều hướng quyết chiếm lại Chà Là. Cũng như trận Ấp Bắc trước đây, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, du kích tại chỗ phối hợp chiến đấu ăn khớp, kịp thời (ngày 24-11) loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, thu hàng trăm súng bộ binh, hàng trăm chiếc dù, bắn rơi 19 máy bay các loại. Trận Chà Là là một thắng lợi lớn của quân dân miền Tây Nam Bộ cuối năm 1963. Đây là trận ta hạ được số lượng máy bay nhiều nhất từ trước tới lúc này ở đồng bằng sông Cửu Long. Thắng lợi Chà Là và thắng lợi của quân, dân miền Tây Nam Bộ nửa cuối 1963 tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mọi mặt của lực lượng và phong trào đấu tranh trong thời gian sau đó của Quân khu IX.

Thi đua với Cà Mau, Trà Vinh, trong năm 1963, lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Sóc Trăng cũng tổ chức đánh được 1.968 trận quy mô đại đội, trung đội, diệt và bắt làm tù binh 2.510 tên, gọi hàng và làm rã ngũ, đào ngũ 1.086 tên, thu 296 súng các loại, diệt và bức rút, bước hàng 22 đồn, bốt cỡ trung đội và đại đội quân ngụy. Đi đôi với hoạt động vũ trang tiêu hao sinh lực địch, tỉnh uỷ phát động phong trào đấu tranh chính trị, binh vận rộng rãi và đều khắp, phá dứt điểm 13, phá banh 51, phá rã 68 ấp chiến lược và sáu khu dồn dân của địch, đưa 48.547 người về quê cũ.

Ở Rạch Giá, lực lượng vũ trang của ta mới tổ chức đánh được 291 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 1.932 tên địch, thu 241 súng, gỡ được chín đồn, phá hoàn toàn 15, phá rã 35 ấp chiến lược, giải phóng 13.795 dân.

Ngoài các tỉnh có phong trào khá, lập được những chiến công lớn, các địa phương khác trong quân khu tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng phong trào đấu tranh chống địch càn quét, dồn dân, lập ấp cũng phát triển hơn những năm trước. Trong năm 1963, quân khu huy động 15,6 triệu lượt người đấu tranh chính trị phối hợp với đòn tiến công quân sự của lực lượng vũ trang. Kết quả toàn quân khu, đã loại khỏi vòng chiến đấu 9.000 binh sĩ ngụy, phá được 806 ấp chiến lược (trong đó phá dứt điểm 530 ấp) trên tổng số 1.562 ấp, giải phóng 1,9 triệu dân. Thắng lợi to lớn này của Quân khu IX đóng góp cho cách mạng miền Nam nhưng kinh nghiệm quan trọng trong việc đánh bại các chiến thuật mới của địch.

Phong trào thi đua Ấp Bắc, giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược ở miền Đông Nam Bộ (Khu VII) nơi có bộ máy đầu não của chính quyền trung ương ngụy, hoạt động của lực lượng vũ trang ba thứ quân và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng vừa phải khôn khéo để hạn chế tổn thất, vừa phải phối hợp nhịp nhàng giữa thành thị với nông thôn, giữa phong trào nội thành và ngoại thành Sài Gòn với phong trào toàn miền.

Trong nội đô, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phản đối Mỹ, ngụy dồn dân, bắt lính, đuổi nhà... được sự hỗ trợ có hiệu lực của bộ đội đặc công, biệt động... trong các trận đánh vào các mục tiêu quan trọng ở trung tâm chỉ huy, điều hành chiến tranh của địch. Những trận đánh doanh trại lính Mỹ ở số 31 đường Cao Thắng của đội biệt động số 65, tháng 2-1963, trận tập kích sân bay Tân Sơn Nhất ngày 20-3-1963 và cơ quan cố vấn quân sự Mỹ ở đường Trần Hưng Đạo ngày 25-4-1963... cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng, làm cho nội bộ ngụy quân, ngụy quyền ở Sài Gòn mất ổn định.

Ở ngoại thành, phong trào đấu tranh chống địch đuổi nhà, dồn dân cũng diễn ra quyết liệt dưới các hình thức đưa kiến nghị, biểu tình, và dùng gậy gộc, dao búa... ngăn cản quân lính và xe ủi của địch, không cho phá nhà, dồn dân vào các khu tập trung. Có lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân trong các ấp chiến lược nổi dậy phá ấp trở về quê cũ làm ăn. Riêng Củ Chi, sáu tháng đầu năm 1963, quân và dân ta đã phá dứt điểm tám ấp, phá rã năm ấp, phá hỏng 58 ấp chiến lược. Cùng với phong trào phá ấp chiến lược, ta đã xây dựng, phát triển các lõm du kích chung quanh thành phố. Các căn cứ lõm Vườn Thơm (Bình Tân), Bà Vụ, Tam Tân (Tân Bình), Tuy An, Tân Phú Trung (Củ Chi)... được xây dựng, lực lượng du kích công khai và du kích mật phát triển mạnh. Tác chiến giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích gắn bó và đạt hiệu suất chiến đấu ngày càng cao. Hoạt động của lực lượng vũ trang đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trí của các tầng lớp nhân dân.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM