Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 08:13:15 pm



Tiêu đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 08:13:15 pm

Tên sách: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 1997
Số hoá: ptlinh, chuongxedap





CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
Trung tướng, PGS. NGUYỄN ĐÌNH ƯỚC

CHỦ BIÊN
Đại tá NGUYỄN VĂN MINH

TÁC GIẢ
Thượng tá NGÔ VĂN BỈNH
Trung tá PTS HỒ KHANG
Thượng tá TRẦN TIẾN HOẠT
Đại tá ĐỖ XUÂN HUY
Trung tá NGUYỄN HUY THỤC
Trung tá NGUYỄN XUÂN NĂNG




LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Bằng cao trào đồng khởi vĩ đại năm 1960, quân và dân ta ở miền Nam đã đánh bại cuộc chiến tranh đơn phương của Mỹ - ngụy, đẩy chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm - tay sai đế quốc Mỹ - đến nguy cơ sụp đổ. Diễn biến và quá trình làm thất bại cuộc chiến tranh đơn phương đã được trình bày ở tập II: Chuyển chiến lược của bộ sách này.

Không cam chịu thất bại, giới hiếu chiến của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc cân nhắc những tính toán mới ở Việt Nam. Xét tương quan lực lượng và diễn biến của tình hình chính trị quân sự thế giới, Mỹ thực hành chiến lược quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt, áp dụng vào miền Nam Việt Nam kiểu chiến tranh hạn chế, mà hình thức thứ nhất của nó là chiến tranh đặc biệt - tức là dùng quân đội Sài Gòn được Mỹ trang bị, huấn luyện và chỉ huy, do các cố vấn Mỹ trực tiếp điều hành, tiến hành cuộc chiến tranh chống nhân dân ta. Xương sống của chiến lược này là dồn dân lập ấp chiến lược để bình định miền Nam, hoạt động phá hoại miền Bắc, áp đặt lâu dài chế độ thực dân mới trên đất nước ta.

Đứng trước chiến lược quân sự mới rất thâm độc của Mỹ và tay sai, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta xác định quyết tâm tiến hành cuộc kháng chiến đến cùng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Những âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ và tay sai, quá trình đánh bại từng bước chiến lược chiến tranh đặc biệt trên cả hai miền Nam - Bắc của nhân dân ta, những thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và tay sai được trình bày ở tập III này mang tiêu đề: Đánh thắng chiến tranh đặc biệt.

Sự thật lịch sử hùng hồn đó đã minh chứng quan điểm cho rằng cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược là một cuộc nội chiến là sự bịa đặt.

Tầm cỡ của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam rất lớn, mà khả năng lại có hạn, vì vậy, tập sách không tránh khỏi thiếu sót.

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam mong nhận được những ý kiến phê bình.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

   
Hà Nội, tháng 12 năm 1997
   
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:25:12 pm

Chương IX
TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG,
KIÊN QUYẾT ĐÁNH THẮNG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MỸ



I. MỸ TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT HÒNG DUY TRÌ SỰ THỐNG TRỊ
CỦA HỌ Ở MIỀN NAM VÀ CHỐNG PHÁ MIỀN BẮC VIỆT NAM


Vào thời điểm những năm cuối của thập kỷ năm mươi, trên thế giới nổi lên ba điểm nóng: Trung Đông, Cuba, Việt Nam. Song, ở Trung Đông, mặc dù có những cuộc chiến tranh giữa các nước Arập với Ixraen, nhưng các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở đó do giai cấp tư sản dân tộc lãnh đạo. Lợi ích của các nước đế quốc, các công ty tư bản độc quyền ở vùng này không bị đe doạ. Mặt khác, Ixraen đồng minh của Mỹ - đủ mạnh để ngăn chặn phong trào cách mạng ở Trung Đông thay Mỹ, cho nên Hoa Kỳ chưa can thiệp trực tiếp. Ở Cuba, bị thất bại trong vụ đưa quân đánh thuê xâm lược Cuba ở vịnh Con Lợn tháng 4-1961 và cuộc khủng hoảng tên lửa ở vùng Caribê tháng 10-1962, Mỹ buộc phải cam kết không xâm lược Cuba để đổi lấy việc Liên Xô rút tên lửa khỏi nước này. Âm mưu của Mỹ là dùng phong toả, cấm vận kinh tế, kết hợp với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt hòng làm sụp đổ Cuba. Ở Đông Dương, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Pháp, giành độc lập dân tộc và cuộc đấu tranh chống Mỹ xâm lược bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới đang làm suy yếu một hướng chiến lược trọng yếu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Những thắng lợi của Việt Nam góp phần làm thức tỉnh lương tri nhân loại, cổ vũ các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa vùng lên đấu tranh để tự giải phóng. Việt Nam trở thành một ngọn cờ của phong trào giải phóng dân tộc, tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại. Các nhà chiến lược Mỹ nhận định rằng có đè bẹp được cuộc kháng chiến của Việt Nam, Mỹ mới có thể đẩy lùi được phong trào đấu tranh của các dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Vì vậy, Việt Nam trở thành trọng điểm trong chính sách ngăn chặn của Mỹ - nơi diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử giữa hai hệ thống đế quốc chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.

Hòng biến Việt Nam thành một con đê ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở phía Đông Nam châu Á, trong sáu năm kể từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ đã dựng lên ở miền Nam chính quyền Ngô Đình Diệm và viện trợ cho chính quyền ấy khoảng 2 tỷ đôla, trung bình mỗi năm 300 triệu. Số viện trợ của Mỹ đủ nuôi bộ máy ngụy quân, ngụy quyền để đàn áp các cuộc đấu tranh hoà bình yêu nước của nhân dân ta ở miền Nam, chuẩn bị “lấp sông Bến Hải”. Với chiêu bài “độc lập”, “tự do”, cùng với viện trợ tương đối dồi dào, Mỹ che đậy được một phần bộ mặt xâm lược thực dân của chúng, giữ cho chế độ Sài Gòn, trong những năm 1957, 1958, bề ngoài có vẻ ổn định. Mỹ hy vọng sẽ hoàn tất chương trình bình định miền Nam trong một vài năm tiếp theo, rồi chuyển sang thực hiện kế hoạch khai thác, kinh doanh. Điều hoàn toàn bất ngờ đối với Mỹ là tình hình miền Nam tưởng chừng như đang “biển lặng sóng yên”, thì năm 1960, nhân dân ta đồng loạt nổi dậy, đánh sập bộ máy cai trị của địch ở nhiều vùng nông thôn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và một số vùng của các tỉnh Khu V, Tây Nguyên. Cuộc đồng khởi thắng lợi làm tiêu tan hy vọng của Mỹ, làm lộ rõ bộ mặt tay sai bán nước của tập đoàn Ngô Đình Diệm, tạo ra một bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến lược ở miền Nam Việt nam có lợi cho cách mạng. Chủ nghĩa thực dân đứng trước nguy cơ tan rã. Giữa lúc đó thì tình hình ở Lào cũng biến động. Ngày 9-8-1960, đại uý Coongle chỉ huy tiểu đoàn 2 quân nhảy dù làm đảo chính lật đổ chính quyền Phuminôxavẳn thân Mỹ, và yêu cầu Việt Nam giúp đỡ cuộc kháng chiến của Lào. Cuộc nội chiến ở Lào bùng nổ. Theo yêu cầu của bạn, tháng 9-1960, Việt Nam đưa quân tình nguyện giúp lực lượng Pathét Lào tiến công giải phóng thị xã Sầm Nưa; tháng 1-1961, giải phóng Cánh đồng Chum và vùng Noọng Hét (Xiêng Khoảng), thị xã Phong Xa Lỳ, Nậm Bạc, Bản Ban, Tha Viêng, Vang Viêng, Tha Thơm, Mường Hiềm, Pa Thí, Phu Ma. Thủ tướng Chính phủ liên hợp Lào được thành lập sau cuộc chính biến, yêu cầu Liên Xô, Trung Quốc viện trợ. Liên Xô đưa sang một trung đoàn không quân và lập cầu hàng không để tiếp tế cho Lào, Trung Quốc giúp vũ khí bộ binh. Trước tình hình đó, Mỹ định đưa 30.000 quân chiến đấu của các nước trong hiệp ước SEATO vào “bảo vệ” Đông Dương theo kiến nghị của ngoại trưởng đến Raxcơ, nhưng Anh và Pháp không ủng hộ. Tình hình cách mạng Đông Dương, đặc biệt ở Việt Nam phát triển mạnh theo chiều hướng bất lợi đối với Mỹ, ngụy1.

Cùng vào thời điểm này, chiến lược quân sự toàn cầu trả đũa ồ ạt tượng trưng cho sức mạnh của Mỹ cùng với những chính sách và biện pháp để thực hiện chiến lược đó đã không ngăn chặn được sự lớn mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa - nhất là Liên Xô, Trung Quốc và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Tình hình Béclin và Cônggô căng thẳng. Cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Liên Xô đang diễn ra gay gắt. Liên Xô vượt Mỹ về chế tạo vũ khí hạt nhân, tên lửa đạn đạo, tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Điều này đặt Mỹ trước một tình thế khó khăn trước phong trào giải phóng dân tộc đang dâng lên mạnh mẽ ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và sự lớn mạnh của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, chỗ dựa cho phong trào giải phóng dân tộc. Giữa lúc khó khăn, Kennơđi được bầu làm Tổng thống nước Mỹ thay Aixenhao.
__________________________________________
1. Trong Nhìn lại quá khứ..., Mắc Namara kể lại rằng, ông đã nói với Kennơđi: “Trước khi có bất cứ cam kết gì ở Đông Dương, nên cân nhắc, so sánh Lào với các vấn đề thế giới khác”. Cụ thể, Mắc Namara cho biết, lúc bấy giờ, vấn đề Béc-lin đã trở nên căng thẳng đến mức Bộ Quốc phong Mỹ “đang dự tính chuyển 6 sư đoàn (khoảng 90.000 quân chiến đấu) đến châu Âu”. Nếu vậy, “không thể tưởng tượng được rằng Mỹ lại có khả năng làm như vậy và tiến hành mới cuộc chiến ở Đông Nam Á mà không có cuộc tổng động viên”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:27:04 pm

Sau khi xem xét, đánh giá lại toàn bộ tình hình thế giới và trong nước, chính quyền Kennơđi quyết định loại bỏ chiến lược trả đũa ồ ạt vì không thể ngăn chặn nổi những cuộc chiến tranh nổi dậy (chiến tranh giải phóng), tiêu biểu là ở Việt Nam. Kennơđi quyết định thành lập ngay một lực lượng đặc nhiệm gồm các quan chức nội các mới, do Rôsginpatric, Thứ trưởng Quốc phòng lãnh đạo, nghiên cứu, thăm dò các hướng hành động đối phó với tình hình Việt Nam và thế giới. Nhóm này vạch kế hoạch hành động toàn diện gồm các biện pháp quân sự, chính trị, kinh tế, công khai và bí mật, tăng nhanh số lượng nhân viên quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam. So sánh Việt Nam với nhiều nơi khác trên thế giới mà trọng điểm là châu Âu, với khả năng của Mỹ, Kennơđi cắt giảm kế hoạch của nhóm quan chức nội các Mỹ, trước mắt, chỉ cho phép đưa vào Việt Nam khoảng 100 đến 400 quân thuộc lực lượng đặc biệt để huấn luyện quân ngụy, đồng thời, chấp nhận phương hướng chiến lược toàn cầu mới do Mácxoen Taylơ đề xướng: Chiến lược quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt. Thực hiện chiến lược mới này, Mỹ vẫn duy trì lực lượng hạt nhân chiến lược, đồng thời phát triển lực lượng thông thường để tiến hành các cuộc chiến tranh hạn chế. Theo đánh giá của các nhà quân sự Mỹ thì việc phát triển chiến tranh hạn chế là rất có lợi, vì tránh được đụng độ với các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng lại có thể giành thắng lợi ở các nơi khác bằng cách có thể chủ động tạo ra ưu thế trong từng cuộc chiến tranh cụ thể do Mỹ lựa chọn như cuộc chiến tranh Việt Nam.

Căn cứ vào việc sử dụng lực lượng, các nhà vạch chiến lược Mỹ phân chiến tranh hạn chế thành hai hình thức:

Một là, hình thức chiến tranh đặc biệt, trong đó, dùng quân bản xứ làm lực lượng chiến lược chủ yếu, Mỹ giữ vai trò cố vấn, chỉ huy.

Hai là, hình thức chiến tranh cục bộ trong đó quân Mỹ làm lực lượng chiến lược, trực tiếp tiến hành chiến tranh ngoài lãnh thổ nước Mỹ.

Cả hai hình thức chiến tranh hạn chế trên đây là một bộ phận quan trọng hợp thành chiến lược quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt, được các nhà quân sự Lầu Năm Góc đánh giá là “lưỡi kiếm” tiến công sắc bén vào những nơi nguy hiểm nhất đối với “thế giới tự do”.

Cuối năm 1960, ở miền Nam Việt Nam, phong trào cách mạng phát triển mạnh, đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài, đang có nguy cơ sụp đổ. Trước tình hình đó, Mỹ phải lựa chọn một trong hai con đường: rút lui việc ủng hộ chính quyền Diệm, thực thi Hiệp định Giơnevơ năm 1954; hoặc tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam bằng chiến tranh để củng cố chế độ tay sai, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Với bản chất hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc, Mỹ tự cho mình có quyền áp đặt mọi ý muốn đối với các dân tộc trên thế giới và tin tưởng rằng chiến lược Phản ứng linh hoạt sẽ đảm bảo cho Mỹ ứng phó kịp thời và giành phần thắng trong các cuộc chiến tranh hạn chế, lại tránh được sự đối đầu trực tiếp với Liên Xô. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc quyết định chẳng những không rút lui, mà phải giữ vững cam kết với Ngô Đình Diệm, biến miền Nam Việt Nam - nơi “sức mạnh và uy tín của Mỹ đã được đầu tư rất sâu”1 thành tuyến đầu của Mỹ chống Liên Xô, Trung Quốc “bành trướng” xuống Đông Nam Á. Ỷ vào sức mạnh của một siêu cường và niềm tin chiến thắng, Mỹ quyết định tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt chống nhân dân Việt Nam, duy trì chế độ Diệm, coi đó là thí nghiệm đầu tiên của cuộc chiến tranh hạn chế. Chỗ dựa chủ yếu của Mỹ trong cuộc chiến tranh đặc biệt này là ngụy quân, ngụy quyền, trong đó, quân đội Sài Gòn làm lực lượng chiến lược nòng cốt, quân Mỹ giữ vai trò cố vấn, chỉ huy và hỗ trợ.

Ngày 29-4-1961, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ nhóm họp đề ra chính sách, biện pháp và các bước tiến hành chiến tranh đặc biệt ở miền Nam Việt Nam. Ngày 11-5-1961, Kennơđi chính thức phê chuẩn các quyết định của Hội đồng an ninh quốc gia, mang tên Bị vong lục về hành động an ninh quốc gia số 52. Mục tiêu và hành động của Mỹ ở miền Nam được xác định trong Bị vong lục là nhằm: “Để ngăn chặn cộng sản thống trị Nam Việt Nam... để xúc tiến với nhịp độ ngày càng nhanh một loạt những hoạt động hỗ trợ lẫn nhau có tính chất quân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý và không công khai nhằm thực hiện mục tiêu nói trên”2. Những “hoạt động hỗ trợ” đó bao gồm các biện pháp: tăng cường và mở rộng quyền điều hành tác chiến, chỉ huy, yểm trợ của phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG), kể cả việc huấn luyện thêm 20.000 người cho quân đội Sài Gòn và quyền chi viện, cố vấn cho lực lượng dân vệ lúc đó đã có khoảng 40.000 người; triển khai 400 quân thuộc lực lượng đặc biệt Mỹ tới Nha Trang nhằm đẩy mạnh việc huấn luyện, trang bị, kể cả việc huấn luyện và trang bị cho lực lượng dân vệ dự tính lên tới 68.000 người để đối phó với chiến tranh du kích; khẩn trương triển khai kế hoạch bình định, lấy việc lập ấp chiến lược làm trọng tâm; tiến hành các chương trình kinh tế để “gây ảnh hưởng ngắn hạn và góp phần vào sự tồn tại lâu dài về kinh tế Nam Việt Nam”3; phong toả vùng biển, bịt chặt biên giới nhằm chống việc xâm nhập từ miền Bắc vào miền Nam; tiến hành các hoạt động chiến tranh bí mật phá hoại miền Bắc Việt Nam4; ra sức củng cố hệ thống ngụy quyền các cấp; cải thiện quan hệ giữa Chính phủ Sài Gòn với các nước khác, đặc biệt với Chính phủ Campuchia.
__________________________________________
1. G. Côn Cô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb. Quân dội nhân dân, Hà Nội, 1991, t.1, tr.138.
2, 3. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, VNTTX phát hành, Hà Nội, 1971, t.1, tr.121.
4. Bị vong lục của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ (NSAM 52) gọi cuộc chiến tranh chống phá miền Bắc là “Chương trình hành động bí mật”. Thoạt đầu, Kennơđi chấp thuận tiến hành các biện pháp như tuyển lựa, huấn luyện, trang bị, đài thọ và tung người vào miền Bắc để thu thập tin tức tình báo; tổ chức lực lượng biệt kích thâm nhập vùng Đông - Nam Lào và vào sâu trang nội địa miền Bắc để tiến hành các hoạt động phá hoại; tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:27:52 pm

Đồng thời với việc chuẩn y các biện pháp trên đây, để tranh thủ sự đồng tình của các đồng minh châu Á và làm cho chính quyền, quân đội Sài Gòn yên tâm về chính sách chiến tranh của Mỹ, thăm dò khả năng triển khai quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, Kennơđi cử Phó tổng thống Mỹ L. B. Giônxơn sang thăm các nước Philippin, Đài Loan, Thái Lan, Ấn Độ, Pakixtan và miền Nam Việt Nam. Tại Sài Gòn, Giônxơn và Ngô Đình Diệm ra thông cáo chung gồm những thoả thuận chính sau đây:

- Mỹ tăng thêm viện trợ quân sự, kinh tế và cố vấn cho Nam Việt Nam.

- Tăng cường và mở rộng lực lượng vũ trang, bán vũ trang của Sài Gòn gồm quân chủ lực, bảo an và dân vệ.

- Lập nhóm chuyên viên kinh tế, tài chính, quân sự cao cấp của hai bên để xây dựng kế hoạch hành động chung giữa Chính phủ Mỹ và Chính phủ Sài Gòn.

- Mỹ hoan nghênh các nước khác viện trợ và hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm.

- Triển khai mạnh mẽ chương trình lập ấp chiến lược.

Ngoài ra, thông cáo chung Giônxơn - Diệm còn khẳng định: Những biện pháp mà hai bên đã thoả thuận “có thể sẽ được tiếp nối bằng những biện pháp rộng lớn hơn nữa”1 khi tình hình đòi hỏi.

Thực hiện thoả thuận trên đây, ngày 19-6-1961, một “phái đoàn kinh tế đặc biệt” do E.Stalây thuộc viện nghiên cứu Stanphót dẫn đầu được Kennơđi phái sang Nam Việt Nam giúp Diệm xây dựng chương trình bình định. Sau gần một tháng tìm hiểu tình hình tại chỗ, gặp gỡ một số nhân vật phụ trách về bình định trong chính quyền Sài Gòn, hội đàm với Diệm, cuối tháng 7-1961, phái đoàn Stalây trình lên Kennơđi bản báo cáo trong đó yêu cầu Chính phủ Mỹ tăng thêm viện trợ về quân sự và kinh tế để phục vụ cho kế hoạch bình định. Kế hoạch này gồm ba giai đoạn:

Giai đoạn 1: Dự định trong vòng 18 tháng (kể từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962), cơ bản “bình định” xong miền Nam bằng cách triển khai mạnh mẽ việc dồn dân tập trung vào 16.000 ấp chiến lược để triệt phá cơ sở cách mạng ở nông thôn; phát triển quân đội Sài Gòn gồm quân chính quy, bảo an, dân vệ, đồng thời tăng cường lực lượng yểm trợ Mỹ nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam; thiết lập hệ thống cứ điểm chốt chặn ở biên giới và giới tuyến quân sự tạm thời, tăng cường tuần tra, kiểm soát vùng biển để ngăn chặn chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam; đẩy mạnh các hoạt động tình báo, gián điệp, biệt kích, chiến tranh tâm lý... chống phá miền Bắc, hỗ trợ cho nỗ lực “bình định” ở miền Nam.

Giai đoạn 2: Dự kiến trong năm 1963, củng cố những kết quả đạt được trong giai đoạn một bằng cách tập trung vào khôi phục kinh tế, hoàn tất chương trình “bình định”, tiếp tục tăng cường quân ngụy, đẩy mạnh các hoạt động chống phá miền Bắc.

Giai đoạn 3: Dự kiến trong hai năm 1964 và 1965, hoàn tất các mục tiêu của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bằng việc chuyển hẳn trọng tâm sang phát triển kinh tế trong khi vẫn tiếp tục tăng cường quân ngụy nhằm làm cho miền Nam trở thành một quốc gia mạnh về quân sự, phồn vinh về kinh tế của “thế giới tự do”.

Dựa trên kế hoạch này, từ tháng 7-1961, Mỹ - ngụy gấp rút tăng cường lực lượng vũ trang, tổ chức và kiện toàn bộ máy chỉ đạo “bình định” từ trung ương xuống các tỉnh, liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét đánh phá ác liệt cơ sở cách mạng miền Nam, triển khai thí điểm dồn dân, lập “ấp chiến lược” ở các địa phương thuộc Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hoà, Quảng Ngãi... và kế đó, áp dụng rộng rãi ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Thomsơn (Thompson), một chuyên gia của quân đội Anh dày dạn kinh nghiệm chống chiến tranh du kích ở Malaixia cũng được mời sang Nam Việt Nam làm cố vấn “bình định” cho Bộ chỉ huy cố vấn viện trợ Mỹ (MAAG) và cho chính quyền, quân đội Sài Gòn. Diệm còn cử các phái đoàn và gửi nhiều cán bộ sang Malaixia, Philippin để tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm chống du kích, dồn dân, lập các khu tập trung của những nước này nhằm áp dụng vào miền Nam Việt Nam...

Những cố gắng trên đây của Mỹ, Diệm không mang lại kết quả như Mỹ dự tính. Điều làm cho Mỹ, Diệm đặc biệt lo lắng là các cuộc tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị của quân và dân miền Nam gia tăng ở cả các vùng nông thôn, đô thị và rừng núi, làm cho quân đội Sài Gòn mất dần thế chủ động.
__________________________________________
1. Hồi ký Giônxơn, VNTTX phát hành, Hà Nội, 1972, tr. 33.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:28:53 pm

Ngày 18-10-1961, Chính phủ Mỹ cử Taylo và Rôstâu, hai thành viên Hội đồng an ninh quốc gia, dẫn đầu một phái đoàn gồm các chuyên gia về quân sự, dân sự sang miền Nam Việt Nam để nghiên cứu, đánh giá lại tình hình cụ thể và kết luận tại chỗ, đề ra các phương án đối phó. Phái đoàn này đề ra ba phương án hành động của Mỹ như sau:

1. Đưa vào miền Nam Việt Nam ba sư đoàn quân Mỹ để “đánh bại Việt cộng”.

2. Đưa tượng trưng một số quân chiến đấu Mỹ “cốt nhằm mục đích xác lập sự có mặt của Mỹ ở Nam Việt Nam” để nâng đỡ tinh thần quân đội và chính quyền Sài Gòn đang sa sút mạnh và cũng để tạo điều kiện cho việc tăng viện quân Mỹ khi cần.

3. Tăng thêm viện trợ, vũ khí, trang bị chiến tranh và đẩy mạnh công tác huấn luyện cho lực lượng vũ trang Sài Gòn để nâng cao sức chiến đấu của nó.

Ngày 3-11-1961, phái đoàn Taylo gửi về Oasinhtơn bản báo cáo nói trên, trong đó, kiến nghị một loạt các biện pháp cấp bách đề cứu vãn tình hình:

- Cử các cố vấn hành chính sang tham gia vào bộ máy chính quyền Sài Gòn.

- Cùng chính phủ Sài Gòn tiến hành các biện pháp cần thiết để cải thiện mạng lưới tình báo quân sự, chính trị trong chính quyền và quân đội.

- Mở cuộc điều tra rộng lớn ở các tỉnh trên khắp miền Nam để lượng định các nhân tố xã hội, chính trị, kinh tế, tình báo, quân sự, tâm lý... có liên quan tới “công tác chống nổi loạn” để có thêm cơ sở cho việc đề ra các biện pháp hiệu quả hơn.

- Tăng cường viện trợ, vũ khí, trang bị và huấn luyện cho lực lượng bảo an, dân vệ để lực lượng này đủ sức thay thế các đơn vị chính quy làm nhiệm vụ “diện địa” (giữ đất), tạo điều kiện cho các đơn vị chính quy đẩy mạnh các cuộc hành quân cơ động, có tính tiến công.

- Giúp đỡ chính phủ Sài Gòn giám sát và kiểm soát vùng biển và các đường thuỷ nội địa bằng cách cung cấp cố vấn, nhân viên điều hành và phương tiện cần thiết cho nhiệm vụ này.

- Tổ chức lại và tăng biên chế phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ.

- Đưa vào miền Nam Việt Nam một lực lượng quân sự đặc nhiệm gồm 6.000 đến 8.000 quân hoạt động dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của Mỹ để tạo ra sự có mặt về quân sự, hỗ trợ cho các hoạt động quân sự và khi cần, có thể mở các cuộc hành quân mang tính chất tiến công. Ngoài ra, lực lượng đặc nhiệm này còn đóng vai trò “như một bộ phận đi trước của lực lượng Mỹ sẽ được đưa vào nếu như dùng đến các kế hoạch khẩn cấp của Tổng tư lệnh Thái Bình Dương hoặc của khối SEATO”1.

- Tăng thêm viện trợ để hỗ trợ thích đáng chương trình “chống nổi loạn mở rộng”.

Ngoài những biện pháp chung trên đây, phái đoàn Taylo còn kiến nghị một “chương trình tham gia có giới hạn” của Mỹ trong lĩnh vực quân sự; cử sang Nam Việt Nam các cố vấn cấp cao tham gia vào các cơ quan chính phủ và các bộ chủ chốt; thành lập ban thanh tra quân sự hỗn hợp từ trung ương xuống quân khu và các tỉnh; tăng cường một cách cơ bản nhân viên huấn luyện Mỹ ở mọi cấp và trên mọi lĩnh vực quân sự, hành chính, kinh tế, văn hoá, xã hội; triển khai vào Nam Việt Nam các đơn vị công binh, hậu cần, máy bay lên thẳng nằm trong khuôn khổ lực lượng quân sự đặc nhiệm Mỹ đã được đề nghị trước đây; đưa. thêm các đội lực lượng đặc biệt Mỹ để cùng lực lượng đặc biệt Sài Gòn tăng cường cho vùng biên giới; đẩy mạnh các hoạt động tiến công bí mật ra miền Bắc Việt Nam và Lào, kể cả những hoạt động biệt kích bằng không quân, nếu tình hình Nam Việt Nam tiếp tục xấu đi, Mỹ sẽ ném bom miền Bắc để gây áp lực.

Để thực hiện Chương trình tham gia có giới hạn, phái đoàn Taylo cho rằng, cần có sự thay đổi trong quy chế tinh thần và tổ chức của Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự ở Nam Việt Nam. “Phái đoàn này cần phải được chuyển từ một tổ chức cố vấn thành một cái gì gần giống - tuy chưa hoàn toàn - một sở chỉ huy tác chiến tại một nơi có chiến tranh...”2. Hơn thế nữa, để giành thắng lợi, “Mỹ phải trở thành một người tham gia có giới hạn vào cuộc chiến tranh, một mặt phải tránh câu nệ, nghi thức trong việc cố vấn; mặt khác phải tránh tự mình tiến hành chiến tranh”3.
__________________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.1, tr.140.
2, 3. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.1, tr. 99, 141.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:30:02 pm

Trong lúc Taylo-Rôstâu và những nhân vật chóp bu ở Oasinhtơn đang băn khoăn tìm ra phương cách đưa một bộ phận quân Mỹ vào miền Nam tham gia chiến tranh, thì đột nhiên ở miền Nam Việt Nam xảy ra một trận lụt lớn. Taylo xem đây là thời cơ để đưa quân Mỹ vào dưới chiêu bài “giúp đỡ nhân đạo”, sau đó số quân này ở lại hỗ trợ cho quân ngụy. Đây là biện pháp “hiệu nghiệm nhất” để đưa quân Mỹ vào tham chiến, trấn an được Diệm, đối phó được với dư luận thế giới và làm giảm bớt sự dè dặt của Kennơđi.

Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, “Chương trình tham gia có giới nạn” do phái đoàn Taylo-Rôstâu đề xuất là “quan điểm tổng quát của Mỹ về vai trò mới của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam”1. Vai trò mới này tuy bên ngoài Mỹ vẫn cố giấu mặt, trá hình, nhưng thực chất, bằng việc “tham gia có giới hạn”, Mỹ đang cố gắng giành toàn quyền chỉ huy, điều hành cuộc chiến về tay mình. Những kiến nghị của phái đoàn Taylo-Rôstâu chính là sự bổ sung vào những chủ trương do phái đoàn Stalây đưa ra hồi tháng 7-1961 để trở thành một kế hoạch hành động tương đối hoàn chỉnh của Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam, mà ta quen gọi là kế hoạch Stalây-Taylo. Toàn bộ kế hoạch Stalây và những kiến nghị bổ sung của Taylo đã được Hội đồng an mình quốc gia Mỹ và Kennơđi chấp thuận, trừ việc đưa lực lượng đặc nhiệm Mỹ vào miền Nam và dùng không quân ném bom miền Bắc tạm gác lại. Quyết định đó của Kennơđi được chính thức nêu ra hôm 22-11-1961 trong bản bị vong lục Về hành động an ninh quốc gia số 111 nhan đề: Giai đoạn đầu của chương trình Việt Nam.

Để làm yên lòng Diệm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện kế hoạch Stalây-Taylo, Oasinhtơn quyết định rút bỏ yêu cầu đòi Diệm cải tổ chính phủ để đổi lấy sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ mà họ đã nêu ra trước đây. Điều này, càng chứng tỏ “khía cạnh quân sự của cuộc chiến tranh được Mỹ ưu tiên hơn khía cạnh chính trị”2. Như thế, quyền điều hành chiến tranh hoàn toàn trong tay Mỹ, thực chất là cuộc chiến tranh của Mỹ, do Mỹ khởi xướng và chỉ huy, không phải là cuộc nội chiến như một số người cố tình xuyên tạc.

Sau một năm thăm dò thử nghiệm, Mỹ từng bước hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược chiến tranh đặc biệt và triển khai mạnh mẽ các biện pháp nhằm trước hết, cơ bản “bình định” xong miền Nam Việt Nam trong 18 tháng.

Ngày 8-2-1962, phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) được chuyển thành Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV) do đại tướng Pôn Hắckin (Pau Harkins) thay Mácga làm tư lệnh. Dưới quyền chỉ huy và điều hành của MACV, số lượng cố vấn và các đơn vị yểm trợ Mỹ không ngừng tăng lên. Nếu năm 1960, lực lượng yểm trợ và cố vấn Mỹ mới chỉ 1.077 tên, thì năm 1962, con số đó lên tới 10.640 tên gồm hai bộ phận: Cố vấn 2.360 người và 8.280 thuộc lực lượng yểm trợ, đơn vị kỹ thuật. Cố vấn Mỹ không chỉ nắm lực lượng quân đội, lực lượng bảo an và lực lượng dân vệ mà còn len vào tất cả các ngành, các cấp trong bộ máy chính quyền Diệm.

Ngoài số cố vấn và các đơn vị yểm trợ chiến đấu Mỹ trên đây, Mỹ còn đưa vào miền Nam một khối lượng lớn vũ khí thiết bị chiến tranh, tăng thêm viện trợ quân sự và viện trợ kinh tế cho quân đội và chính quyền Sài Gòn. Từ năm 1961 trở đi, số viện trợ quân sự bắt đầu vượt viện trợ kinh tế, chứng tỏ trong việc thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, biện pháp quân sự được Mỹ, Diệm ưu tiên hàng đầu.

Với sự tăng viện của Mỹ về đôla, về vũ khí, thiết bị chiến tranh, đội ngũ cố vấn..., quân ngụy Sài Gòn nhanh chóng phát triển về số lượng, cải tiến về biên chế, tổ chức, hệ thống chỉ đạo, chỉ huy, đổi mới công tác huấn luyện... theo phương hướng nhằm đối phó có hiệu quả với chiến tranh du kích và phong trào nổi dậy của nhân dân. Từ 7 sư đoàn bộ binh năm 1960, quân chính quy ngụy tăng tới 9 sư đoàn bộ binh, một số tiểu đoàn nhảy dù, tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ với tổng quân số 206.000 tên vào năm 1963. Bên cạnh đó, bảo an, dân vệ cũng được tăng nhanh về số lượng, trang bị thêm các loại vũ khí mới, từng bước thay thế các đơn vị chủ lực làm nhiệm vụ “phòng thủ diện địa”. Ngoài ra, dưới sự chỉ đạo, huấn luyện của CIA, chương trình tổ chức “thanh niên chiến đấu” cũng được xúc tiến nhằm tăng thêm lực lượng bảo vệ các dinh điền, ấp chiến lược và bổ sung cho mạng lưới tình báo trải rộng khắp các vùng nông thôn. Từ cuối năm 1962, các đơn vị hoàn chỉnh thuộc “lực lượng đặc biệt” Mỹ được công khai đưa vào, làm nhiệm vụ xây dựng, phát triển “lực lượng đặc biệt”. Đầu năm 1963, với tư cách là một binh chủng trong thành phần lực lượng vũ trang quân đội Sài Gòn, “lực lượng đặc biệt” được chính thức thành lập. Đây là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các đồn trại dân sự chiến đấu được thiết lập ở những vùng tranh chấp, trên các tuyến hành lang, dọc theo đường biên giới Lào và Campuchia. Hệ thống đồn trại này, một mặt hỗ trợ cho công tác bình định, nới rộng vùng kiểm soát; mặt khác, chống xâm nhập và tạo thế bao vây, chia cắt vùng căn cứ, các tuyến hành lang vận chuyển của ta. Ngoài ra, nó còn có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo, phá rối hậu phương tại chỗ của cách mạng.
__________________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.1, tr. 99, 141.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.1, tr. 103.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:31:25 pm

Để tăng cường khả năng chỉ huy và tận dụng được lực lượng quân ngụy trong công tác bình định, ngay từ tháng 4-1961, hệ thống tổ chức chiến trường theo từng quân khu được chuyển thành vùng chiến thuật1. Mỗi vùng chiến thuật do một quân đoàn chủ lực đảm nhiệm với đủ thành phần quân địa phương và các quân binh chủng yểm trợ như pháo binh, công binh, thiết giáp, biệt động, biệt kích, không quân, hải quân, tiếp vận... Dưới vùng chiến thuật là khu chiến thuật. Tiếp đó là các tiểu khu (tỉnh), chi khu (quận hoặc huyện). Do vị trí đặc biệt, Sài Gòn - Gia Định được tổ chức thành “Biệt khu thủ đô”. Lực lượng yểm trợ Mỹ được bố trí xuống từng vùng chiến thuật, nhất là các đơn vị máy bay trực thăng và vận tải đường không. Cố vấn quân sự Mỹ có mặt khắp các vùng chiến thuật, khu chiến thuật, tiểu khu chiến thuật và các trung tâm huấn luyện, các cơ quan điều hành tác chiến, chỉ huy, các trại lực lượng đặc biệt, các chi khu trọng yếu...

Phục vụ cho “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ bỏ tiền thuê hàng chục cơ quan nghiên cứu, trường đại học, tổ hợp công nghiệp... nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, đưa vào sản xuất nhiều loại vũ khí, thiết bị chiến tranh mới; nghiên cứu, thử nghiệm các chiến thuật chống du kích, chống nổi dậy. Mỹ còn thiết lập Cơ quan phát triển khả năng tác chiến nhằm ứng dụng kịp thời những phát minh, sáng chế mới trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự vào cuộc chiến tranh Việt Nam.

Sau một thời gian làm thí điểm ở một số địa phương thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hoà, Quảng Ngãi, từ tháng 4-1962, Mỹ, Diệm triển khai thực hiện rộng rãi trên toàn miền chương trình gom dân, lập “ấp chiến lược”. Chúng xem đó là “quốc sách”, “xương sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” nhằm giành giật nông dân và địa bàn nông thôn với phía cách mạng; triệt phá tận gốc cơ sở của chiến tranh du kích để hoàn tất kế hoạch bình định trong vòng 18 tháng.

Thực hiện kế hoạch đó, một bộ máy chỉ đạo bình định của ngụy quyền có hệ thống cố vấn Mỹ lồng xen được thiết lập từ trung ương xuống các tỉnh. Chúng dự tính gom 10 triệu nông dân vào 16.000 “ấp chiến lược” trong tổng số 17.000 ấp đã dự định. Tiền của, phương tiện, lực lượng, cán bộ chỉ đạo, chỉ huy... được Mỹ - Diệm ưu tiên cho công tác này. Để kế hoạch bình định tiến triển vững chắc, liên tục có hiệu quả, địch chia miền Nam thành ba vùng bình định khác nhau để tập trung nỗ lực vào từng vùng, đặc biệt là những vùng ưu tiên quốc gia2.

Vùng do địch kiểm soát: Chúng dùng sức mạnh của bộ máy ngụy quyền kết hợp với lực lượng quân sự tại chỗ và bộ máy chiến tranh tâm lý vừa cưỡng bức vừa dụ dỗ nhân dân, trước hết là những khu vực chung quanh đô thị, dọc theo các tuyến giao thông huyết mạch, rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn, quê cha, đất tổ vào sống trong các trại tập trung “ấp chiến lược”.

Vùng tranh chấp: Địch chủ yếu sử dụng lực lượng quân sự mở các cuộc càn quét, đánh phá quyết liệt hòng làm cho nhân dân ta nhụt ý chí, nản lòng, buộc phải để chúng dồn, gom vào các “ấp chiến lược”.

Vùng giải phóng: Địch sử dụng các đơn vị chính quy kết hợp với không quân, pháo binh, xe tăng đánh phá ác liệt các khu dân cư, các căn cứ kháng chiến, đường hành lang, kho tàng hòng buộc nhân dân ở các nơi này chạy sang vùng do chúng kiểm soát, vào các “ấp chiến lược” do chúng lập ra.

Mỹ - Diệm liên tục mở khoảng 6.780 cuộc hành quân càn quét, hành quân “bình định” với quy mô lớn, nhỏ và thời gian dài, ngắn khác nhau nhằm tiêu diệt cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang của cách mạng, hỗ trợ cho nỗ lực gom dân, lập “ấp chiến lược”. Trong các cuộc hành quân đó quân Mỹ và quân Sài Gòn dùng máy bay lên thẳng, xe tăng, xe bọc thép là những phương tiện chiến tranh hiện đại để thực hiện các chiến thuật “bủa lưới phóng lao”, “phượng hoàng vồ mồi”, “trên đe dưới búa”... đánh vào những người dân thường không có vũ khí. Đó là những chiến thuật điển hình gây tai họa khủng khiếp đối với nhân dân mà Mỹ áp dụng ở miền Nam nước ta trong chiến tranh đặc biệt. Mỹ còn dùng một khối lượng lớn bom đạn, chất độc khai quang đánh vào vùng giải phóng, vùng căn cứ kháng chiến, các hành lang vận chuyển, khu giới tuyến quân sự tạm thời phía nam sông Bến Hải, san phẳng nhiều làng, phá nát từng khu rừng.

Hỗ trợ cho nỗ lực “bình định”, Mỹ - Diệm đồng thời triển khai các hoạt động phong toả vùng biển, bịt kín biên giới nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc, cô lập cách mạng miền Nam.Cùng với việc thiết lập hơn 70 căn cứ, đồn bốt, trại “lực lượng đặc biệt” Mỹ, ngụy dọc các tuyến hành lang, xung quanh vùng căn cứ của ta, địch tổ chức hệ thống ra đa, tình báo mặt đất, thực hiện các chuyến bay trinh sát đường không... hòng phát hiện quy luật hoạt động của ta trong việc đưa người, vũ khí, phương tiện, vật chất vào miền Nam để chúng tổ chức các cuộc hành quân, đánh phá, ngăn chặn. Ở vùng ven biển, cửa sông, ngoài hệ thống đồn, bốt, trạm tuần tra, kiểm soát, địch sử dụng từ 30 đến 40 % lực lượng hải thuyền, 100 % lực lượng giang thuyền... ngày đêm cảnh giới, khám xét tầu thuyền ra vào, phá hệ thống vận chuyển đường thủy của ta.

Đối với miền Bắc, địch tăng cường cuộc chiến tranh bí mật, tung hơn 100 toán biệt kích, gián điệp ra các tỉnh bằng đường không, đường biển hoạt động móc nối với bọn phản động nội địa, phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Mỹ còn dùng máy bay U2 trinh sát vùng biên giới Việt - Lào, chuẩn bị, nếu có điều kiện, thì leo thang chiến tranh chống phá cách mạng Lào và miền Bắc Việt Nam.

Từ giữa năm 1961, Mỹ công khai thiết lập phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự (MAAG) cho phái thân Mỹ ở Lào, gồm 16.000 nhân viên; phát triển quân ngụy Lào từ 30.000 lên tới 50.000 tên; thúc đẩy quân ngụy Lào mở các cuộc hành quân quy mô tương đối lớn đánh vào vùng giải phóng của Pathét Lào ở khu vực đường số 9, đường số 12, Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Mường Sủi, Nậm Thà; lập phòng tuyến sông Nậm Hu - Mường Khoa; củng cố địa bàn chiến lược của chúng ở khu vực Luông Phabăng - Nậm Thà; đẩy mạnh công việc bình định ở những vùng chúng kiểm soát...

Đối với Campuchia, Mỹ dùng nhiều thủ đoạn, biện pháp gây sức ép buộc nước này phải từ bỏ chính sách tập trung, ngấm ngầm chi tiền của, viện trợ vũ khí cho bọn Khơme thân Mỹ, Lon Non - Xirich Matắc, xúi giục và tổ chức cho chúng chống phá, tiến tới lật đổ chính phủ Xihanúc hòng đưa Campuchia vào ảnh hưởng của Mỹ, cô lập cách mạng Việt Nam.

Toàn bộ nỗ lực chiến tranh trên đây của Mỹ nhằm tiếp tục duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, phá hoại miền Bắc Việt Nam, đặt nhân dân ta vào tình thế phải tiến hành kháng chiến giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
__________________________________________
1. + Vùng chiến thuật I: Từ vĩ tuyến 17 đến hết tỉnh Quảng Ngãi do Quân đoàn 1 ngụy đảm trách.
    + Vùng chiến thuật II: Gồm Tây Nguyên và các tỉnh Nam Trung Bộ do Quân đoàn 2 đảm trách.
    + Vùng chiến thuật III: Gồm các tỉnh Nam Bộ do Quân đoàn 3 ngụy đảm trách.
    + Đầu năm 1963, tách các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long ra khỏi vùng chiến thuật III, thành lập vùng chiến luật IV.
2. Vùng ưu tiên quốc gia: Từ vĩ tuyến 17 vào đến Khánh Hoà, trọng điểm Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà, Phú Yên; miền Đông Nam Bộ: Gia Định, Long An, Bình Dương, Biên Hoà, trọng điểm Bình Dương; Tây Nam Bộ: Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, trọng điểm Vĩnh Bình.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:32:45 pm

II. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, QUYẾT TÂM KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

Bị thất bại trong việc dùng cố vấn và viện trợ kinh tế, quân sự để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới đối với nhân dân miền Nam, Mỹ phát động cuộc chiến tranh xâm lược dưới hình thức “chiến tranh đặc biệt”. Điều này đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nhận định và dự báo trong Nghị quyết 15 tháng giêng năm 1959.

Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt trong bối cảnh ở miền Nam “thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu, các hình thái du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện mở đầu cho cao trào cách mạng ngày càng lớn”1. Trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc đang lên - nhất là ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, khiến cho Mỹ phải phân tán lực lượng đối phó nhiều nói. Phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh về mọi mặt - nhất là Liên Xô, Trung Quốc. Mặc dù nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế có sự bất đồng về chính trị, nhưng vẫn chống Mỹ, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Lương tri loài người đã thức tỉnh trước họa xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Về mặt chiến lược, nhân dân ta đang ở thế chủ động, Mỹ và tay sai đang ở thế bị động. Tất cả những nhân tố trên đây tạo nên những thuận lợi căn bản cho nhân dân ta kháng chiến thắng lợi. Tuy nhiên, qua sáu năm đấu tranh, phong trào cách mạng miền Nam phát triển không đều; vùng đô thị và đồng bằng khu V còn yếu; lực lượng vũ trang ta ít về số lượng, thiếu về trang bị, vũ khí - kỹ thuật và còn lạc hậu so với đối phương; căn cứ địa xây dựng chưa vững chắc, hệ thống giao thông, liên lạc Bắc - Nam và giữa các vùng còn hạn chế, gây nhiều khó khăn, trở ngại cho việc tiếp tế, cơ động, xây dựng lực lượng cách mạng. Mặt trận Dân tộc giải phóng mới ra đời chưa đủ sức tập hợp rộng rãi các lực lượng vào một mặt trận thống nhất đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Do đó, dù có nhiều thuận lợi căn bản, nhưng so sánh lực lượng đôi bên, cách mạng miền Nam vẫn đứng trước thử thách lớn, nghiêm trọng, vì kẻ thù là Mỹ có tiềm lực mạnh, trang bị hiện đại và rất ngoan cố không bao giờ từ bỏ âm mưu xâm lược. Tình hình đó đặt Đảng và nhân dân ta vào con đường là phải chiến đấu để đạt cho bằng được mục tiêu cách mạng đã đề ra: độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng ngày 31-1-1961 bàn về Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam đã quyết định xây dựng miền Bắc ngày càng vững mạnh về mọi mặt để trở thành chỗ dựa và là căn cứ có tác dụng quyết định cho sự nghiệp kháng chiến giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đối với miền Nam, nhiệm vụ công tác trước mắt là: “Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng của ta cả về hai mặt chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận Dân tộc giải phóng, phát động một phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn, tiến lên làm chủ vùng rừng núi, giành lại toàn bộ vùng đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở các đô thị, tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam”2.

Những năm trước đồng khởi, phương châm hoạt động của ta lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, sử dụng vũ trang tuyên truyền có mức độ để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, nay tình hình so sánh lực lượng đã thay đổi, cho nên Bộ Chính trị quyết định thay đổi phương châm đấu tranh: “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời, đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự”3. Do đặc điểm phong trào cách mạng miền Nam phát triển không đều, so sánh lực lượng đôi bên ở mỗi vùng cũng khác nhau, cho nên phải vận dụng phương châm đấu tranh chính trị song song với đấu tranh vũ trang linh hoạt, phù hợp với từng vùng. Bộ Chính trị đề ra phương châm công tác ba vùng:

Vùng rừng núi: Lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu với nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch để mở rộng thêm căn cứ và xây dựng lực lượng ta.

Vùng đồng bằng: Đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự có thể ngang nhau, song cũng tuỳ lúc, tuỳ nơi, tuỳ tình hình cụ thể mà cân nhắc mức độ giữa hai hình thức, mức độ tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch.

Vùng đô thị: Lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, kết hợp cả đấu tranh hợp pháp và bất hợp pháp.

Vấn đề xây dựng lực lượng chính trị và phát động quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, xây dựng căn cứ địa, công tác binh vận; vấn đề thống nhất cơ quan chỉ đạo các cấp, tăng cường công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên.... được Bộ Chính trị chú trọng không chỉ là công tác cần thiết trước mắt, mà là vấn đề chiến lược lâu dài, quyết định thắng lợi.

Trong các vấn đề nói trên, vấn đề xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tiếp tục đẩy mạnh mọi hình thức đấu tranh để đẩy lùi địch từng bước và tiến lên đánh đổ hoàn toàn địch được coi là công tác quan trọng và khẩn cấp bậc nhất.
__________________________________________
1. Nghị quyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 31-1-1961, lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
2, 3. Nghị quyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 31-1-1961, tlđd.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:34:09 pm

Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 31-1-1961 là sự vận dụng và phát triển các Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III một cách sáng tạo trong điều kiện mới, đề ra phương hướng đấu tranh chính trị song song với đấu tranh vũ trang, đánh địch bằng ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược.

Nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà của nhân dân ta hiện nay hết sức nặng nề. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Để bảo đảm thắng lợi cho cách mạng vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác”1.

Ngày 7-2-1961, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư cho đồng chí Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh: “... Vấn đề xây dựng căn cứ địa, xây dựng thực lực của ta, tiêu diệt lực lượng địch có tầm quan trọng đặc biệt làm thay đổi hẳn tương quan lực lượng, bảo đảm cho cách mạng thành công”2... “Ta phải phát động quần chúng đấu tranh chính trị, phát triển lực lượng chính trị, xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực lượng vũ trang, đánh địch cả về chính trị và quân sự, thực hiện nhiệm vụ chiến lược quan trọng là tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền”3.

Ngày 20-4-1961, trong thư Gửi anh Mười Cúc và Xứ uỷ Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn phân tích cụ thể: Trong mấy năm đầu của cách mạng miền Nam, chúng ta chủ trương dựa vào lực lượng chính trị là chính, có sự phối hợp của lực lượng vũ trang để đấu tranh phá thế kìm kẹp của địch, làm tan rã ngụy quyền ở thôn xã. Thực chất đó là cao trào khởi nghĩa của quần chúng, “là giai đoạn quần chúng nổi dậy giành lấy chính quyền thôn xã, trên cơ sở ấy, tập hợp thêm đội ngũ, mở rộng thêm lực lượng chính trị và vũ trang để tiếp tục tiến công địch, giữ vững thành quả đã giành được và đưa sự nghiệp cách mạng vững bước tiến lên”4. Trong giai đoạn này, địch tuy thất bại về chính trị, nhưng lực lượng quân sự của chúng hầu như còn nguyên vẹn và đang được Mỹ tìm mọi cách tăng cường. Chúng nhất định sẽ tìm mọi cách để phản công quyết liệt hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng và giành lại chính quyền ở thôn xã. “Chiến tranh sẽ mở rộng; cuộc chiến đấu sẽ ác liệt phức tạp; đấu tranh chính trị và vũ trang sẽ diễn ra đồng thời, nhưng từ đây đấu tranh vũ tranh chuyển sang đóng vai trò ngày càng quyết định5.

Kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng cho thấy: nếu địch không bị thất bại về quân sự, khi chúng còn sử dụng được công cụ bạo lực để chống lại cách mạng, thì khởi nghĩa không thể thành công. Vì vậy, đi đôi với đấu tranh chính trị và binh vận, đấu tranh quân sự trở thành cuộc đọ sức chủ yếu giữa ta và địch.

“Trong thời kỳ này, đi đôi với xây dựng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị, phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm dân quân du kích ở thôn xã, bộ đội địa phương tỉnh, huyện đến bộ đội chủ lực khu, miền, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh quân sự của ba thứ quân để giúp sức đắc lực cho đấu tranh chính trị”6... “Phải gắn liền đấu tranh với xây dựng lực lượng chính trị, quân sự của ta. Đi sâu củng cố các tổ chức đảng, đoàn, các đội ngũ quần chúng cách mạng, tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao ý chí chiến đấu và lòng tin vào thắng lợi cuối cùng”7.

Với tinh thần nói trên, tháng 1-1961, Tổng quân uỷ ra chỉ thị thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam8. Chỉ thị nêu rõ: “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo... Quân giải phóng miền Nam Việt Nam kế tục truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam anh hùng, kế tục truyền thống vẻ vang phục vụ nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam”9. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ xây dựng ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Phương châm xây dựng là: “Khẩn trương nhưng phải phù hợp với tình hình và khả năng thực tế và có đủ điều kiện để đối phó với những tình huống đột biến, lấy việc xây dựng các đơn vị tập trung làm chủ yếu, đồng thời, hết sức coi trọng việc xây dựng bộ đội địa phương và dân quân, du kích”10.
__________________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 10, tr. 201.
2 - 4. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.34, 36, 41.
5 - 7. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Sđd, tr.42, 43, 49.
8. Ngày 15-2-1961, lễ ra mắt Quân giải phóng miền Nam mới được chính thức tổ chức tại chiến khu D.
9, 10. Chỉ thị về việc thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:35:13 pm

Cũng trong tháng 1-1961, căn cứ vào Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng và yêu cầu của việc chỉ đạo cách mạng miền Nam trong điều kiện giao thông, liên lạc giữa hai miền có nhiều khó khăn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam1 để phụ trách chỉ đạo công tác của Đảng ở miền Nam.

Về tổ chức và nhiệm vụ của Trung ương Cục miền Nam, Trung ương xác định: “Trung ương Cục miền Nam là một bộ phận của Ban Chấp hành Trung ương, gồm một số uỷ viên Trung ương được Ban Chấp hành Trung ương cử ra và uỷ nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác Đảng ở miền Nam. Trung ương Cục miền Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Bộ Chính trị thay mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo.

Trung ương cục miền Nam có nhiệm vụ:

- Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và những chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị về cách mạng miền Nam mà đề ra chủ trương, chính sách, phương châm kế hoạch công tác và chỉ đạo thực hiện cụ thể ở miền Nam.

- Chấp hành cương lĩnh và những quy định cụ thể về Điều lệ Đảng ở miền Nam, căn cứ vào Điều lệ Đảng và những quy định cụ thể của Trung ương đối với Đảng bộ miền Nam mà tổ chức ra Đảng bộ các cấp và lãnh đạo các đảng bộ đó hoạt động.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh - nguyên Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Các đồng chí Trần Lương (Trần Nam Trung), Phan Văn Đáng (Hai Văn), Nguyên Văn Xô, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, Phạm Thái Bường, Trần Văn Quang uỷ viên2.

Cùng với thành lập Trung ương Cục miền Nam, trong cuộc họp thông qua kế hoạch quân sự lần thứ hai (1961-1965) ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị đã quyết định đổi Tổng quân uỷ thành Quân uỷ Trung ương và giao cho nhiệm vụ chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam. 14 đồng chí được chỉ định vào Quân uỷ Trung ương gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Chu Văn Tấn, Song Hào, Hoàng Văn Thái, Lê Quang Đạo, Trần Văn Trà, Trần Quý Hai, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Bí thư Quân uỷ. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị - Tổng tham mưu trưởng và đồng chí Trung tướng Song Hào, Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm Phó bí thư. Thường trực Quân uỷ Trung ương, ngoài bí thư và các phó bí thư, còn có Trung tướng Hoàng Văn Thái - Uỷ viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thiếu tướng Trần Quý Hai -Uỷ viên Trung ương Đảng - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần3.

Sau khi kiện toàn lại tổ chức, Quân uỷ Trung ương họp nhiều lần để bàn bạc, quyết định những chủ trương công tác lớn, đặc biệt là công tác chi viện và tổ chức lực lượng ở miền Nam. Quân uỷ đã phân công cụ thể từng đồng chí phụ trách các mặt công tác:

Đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách về biên chế, tổ chức, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc để đưa vào miền Nam chiến đấu.

Đồng chí Trung tướng Trần Văn Trà - Phó Tổng tham mưu trưởng và đồng chí Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh - Phó trưởng ban Thống nhất Trung ương phụ trách về xây dựng lực lượng, tổ chức chiến đấu ở miền Nam.

Đồng chí Song Hào phụ trách việc lựa chọn, đào tạo, điều động cán bộ vào Bộ tư lệnh Miền, các quân khu ở miền Nam.

Đồng chí Trần Quý Hai phụ trách chi viện vật chất, trang bì vũ khí, xây dựng các đường tiếp tế, các căn cứ hậu cần chiến lược ở miền Nam.

Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu được Quân uỷ Trung ương giao nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất, chuẩn bị những phương án chi viện, tổ chức chiến đấu ở miền Nam. Trong Cục tác chiến, có một bộ phận chuyên lo về vấn đề này gọi là tổ B4. Đại tá cục trưởng Đỗ Đức Kiên và trung tá tổ trưởng tổ B Nguyễn Văn Minh là những cán bộ chịu trách nhiệm chính về nội dung kế hoạch trình Quân uỷ và sau đó hiệp đồng với các cơ quan chỉ đạo đơn vị thực hiện.
__________________________________________
1. Tháng 9-1954, Bộ Chính trị quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam, thành lập Xứ ủy ở Nam Bộ và Liên khu ủy Khu V.
2. Đồng chí Trần Văn Quang được chỉ đinh làm Uỷ viên Trung ương Cục miền Nam trước khi đồng chí đi B.
3. Theo Nghị quyết Trung ương ngày 23-1-1961. Hồ sơ số 287, phông Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Tru trữ Bộ Quốc phòng.
4. B: Mật danh chỉ miền Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:41:56 pm

Ngày 3-3-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 09/SL bổ nhiệm Trung tướng Song Hào làm chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trong phiên họp ngày 23-3-1961, Thường trực Quân uỷ quyết định phương hướng chi viện cho miền Nam.

Về người: Chọn các cán bộ và nhân viên công tác các ngành cần thiết, có kinh nghiệm vào xây dựng lực lượng tại chỗ cho miền Nam. Các đơn vị quân đội được tổ chức theo khung cán bộ hoặc đơn vị đầy đủ đưa vào làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam và trực tiếp chiến đấu.

Về vật chất: chủ yếu trước hết là vũ khí, khí tài quân sự rồi đến thuốc men và các phương tiện khác.

Về đường chi viện: đường bộ, đường không, đường thuỷ, trong đó đường bộ là cơ bản thường xuyên, đường thuỷ, đường không dùng vào các chuyến, các thời điểm đột xuất.

Đường bộ tổ chức theo ba hướng: đường trong nước, đường dọc theo biên giới Việt - Lào và đường đi sâu vào nội địa đất bạn Lào. Đường không, lấy thả dù làm chính, trước mắt nhờ bạn Lào cho sử dụng sân bay Sêpôn để chuyên chở hàng chi viện tập kết rồi chuyển tiếp vào Nam bằng đường bộ. Đường thuỷ từ hậu phương lớn dùng tàu thuyền đưa hàng đến các bến bãi dọc theo bờ biển; các tỉnh miền Nam đưa thuyền ra Bắc lấy hàng ở các bến bãi quy định, nếu đi dọc đường gặp thuyền từ Bắc vào thì nhận chuyển hàng giữa đường1.

Riêng vũ khí cho miền Nam, Quân uỷ chủ trương tận dụng sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và số vũ khí chiến lợi phẩm của Mỹ, Pháp ta đang có trong tay để trang bị cho miền Nam. Song quá trình chi viện, phải tuyệt đối bí mật, không để ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Liên Xô, Trung Quốc với Mỹ và bảo vệ công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giữ bí mật việc xây dựng lực lượng ở miền Nam, không để lộ sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Vũ khí và hàng chi viện cho miền Nam do Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ trong thời kỳ này được xoá hết nhãn hiệu. Trong khi hậu phương lớn tìm mọi cách để tiếp tế, trang bị vũ khí kỹ thuật cho miền Nam, Quân uỷ cũng kêu gọi: “quân và dân miền Nam hãy nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh lấy súng giặc giết giặc”; “có súng gì đánh giặc bằng súng ấy”2.

Song song với các chủ trương chi viện về người và vật chất cho miền Nam, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ tổ chức lực lượng tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc chuyển vào, đồng thời giao nhiệm vụ cho Cục Hải quân nghiên cứu đường vận chuyển chiến lược trên biển để phục vụ cho hoạt động chi viện chiến trường.

Thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị và các chỉ thị của Quân ủy Trung ương, từ tháng 5-1961, các đoàn cán bộ quân sự đầu tiên tăng cường cho miền Nam đã lên đường. Đoàn lớn thứ nhất xuất phát từ Xuân Mai (Hoà Bình) ngày 5-5-1961 theo đường Tây Trường Sơn hành quân vào chiến trường cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Đoàn có 500 người, hầu hết là cán bộ trung cao cấp do thiếu tướng Trần Văn Quang dẫn đầu. Đoàn lên đường vào lúc Liên Xô phóng thành công con tàu vũ trụ mang tên “Phương Đông” đưa con người đầu tiên vào vũ trụ. Để chào mừng sự kiện lịch sử này, đoàn mang tên “Đoàn Phương Đông”. Sau gần ba tháng hành quân vất vả, ngày 28-7-1961, đoàn đến vị trí tập kết ở đồi 300 (Bình Long).

Giữa lúc đoàn thứ nhất còn đang len lỏi trong các cánh rừng rậm rạp trên đường Trường Sơn, thì ngày 1-6-1961, đoàn cán bộ quân sự thứ hai đã xuất phát. Đoàn gồm 400 người do đồng chí Nguyễn Hoàng Lâm (tức Nguyễn Văn Bứa) và Lê Quốc Sản dẫn đầu. Đầu tháng 9-1961, đoàn đến vị trí tập kết.

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy thống nhất trong tình hình các chiến trường ở miền Nam bị chia cắt phức tạp Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định điều chỉnh lại địa giới các khu và thành lập các Bộ tư lệnh quân khu.

Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang miền Nam được thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam. Đồng chí Trần Văn Quang được giao phụ trách về quân sự, đồng chí Trần Lương phụ trách chính trị.

Cùng thời gian này, toàn Nam Bộ được chia thành bốn quân khu: Quân khu miền Đông Nam Bộ (T1), miền Trung Nam Bộ (T2), miền Tây Nam Bộ (T3) và Quân khu Sài Gòn - Gia Định (T4). Các đồng chí Nguyện Hữu Xuyến, Lê Quốc Sản, Cao Hoài Phô, Trần Hải Phụng được bổ nhiệm làm Tư lệnh các quân khu này.
__________________________________________
1, 2. Tóm lược theo hồ sơ 259, phông Quân uỷ Trung ương, Lưu trữ Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:42:48 pm

Ngày 27-7-1961, Bộ Tư lệnh Quân khu V, Quân khu VI được thành lập. Miền Trung (Liên khu V), chia thành hai khu: Khu V gồm các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai. Đồng chí Võ Chí Công, Ủy viên Trung ương Đảng, làm Bí thư Khu ủy; đồng chí Nguyễn Đôn, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, làm Tư lệnh kiêm chính uỷ, đồng chí Võ Thư, tham mưu trưởng, Đặng Hoà chủ nhiệm chính trị và đồng chí Nguyễn Tuấn Tài (Trần Kiên), chủ nhiệm hậu cần. Khu VI gồm các tỉnh: Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng. Đồng chí Trần Lê - Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng làm Bí thư Khu uỷ; đồng chí Y Blok quyền Tư lệnh Quân khu, đồng chí Nguyễn Mơ (Tư Khiêm) chính uỷ, đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên (Sáu Phúc), tham mưu trưởng, đồng chí Trần Phòng (Bảy Kiên), chủ nhiệm hậu cần1.

Về mặt lãnh đạo và chỉ huy: Khu V trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Khu VI chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục.

Là một quân khu tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa - hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, được sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương, Khu uỷ khu V đã nghiên cứu, quán triệt bàn biện pháp thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị (1-1961) và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương sao cho sát đúng với điều kiện cụ thể của chiến trường. Qua nghiên cứu, đối chiếu với tình hình trong toàn khu, Khu uỷ khu V quyết định: “Đẩy mạnh tiến công địch cả về chính trị và quân sự, nhằm tiếp tục củng cố và mở rộng căn cứ địa miền núi, xây dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc, kiên quyết phá thế kìm kẹp ở đồng bằng, phát động và tổ chức quần chúng, đưa phong trào đồng bằng tiến lên”2.

Để giúp Khu uỷ chỉ đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang, sau khi Bộ Tư lệnh quân khu được thành lập (7-1961), Khu uỷ đề nghị Trung ương cho thành lập Đảng uỷ quân khu. Căn cứ vào nghị quyết của Khu uỷ và tình hình chung trong khu, Quân khu uỷ xác định những vấn đề quân sự cần tập trung giải quyết để trong một thời gian ngắn nhất, với sự cố gắng cao nhất, khắc phục sự chưa đồng đều giữa vũ trang và chính trị trong toàn khu, làm cho hai mặt này cùng phát triển, có thể phối hợp với nhau trong những thời cơ quyết định, khắc phục sự mất cân đối trong sự phát triển giữa lực lượng vũ trang tập trung và du kích, giữa tác chiến tập trung và tác chiến phân tán.

Về tổ chức lực lượng, Quân khu uỷ quyết định nhanh chóng biên chế các đơn vị mới từ miền Bắc vào, sáp nhập các đơn vị đã có của khu vào các đơn vị mới, rút một số chiến sĩ trong các đơn vị tập trung của các tỉnh để bổ sung cho chủ lực.

Trong lúc khu V còn trăn trở về tổ chức và xây dựng lực lượng, thì tháng 9-1961, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương thông qua đề án xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam trong những năm 1961-1963 do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị.

Theo đề án này, bên cạnh việc phát triển lực lượng tại chỗ, ta sẽ đưa từ ba đến bốn vạn chiến sĩ được huấn luyện chính quy ở miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Tất cả cán bộ, chiến sĩ quê ở miền Nam, hoặc đã từng chiến đấu, công tác ở miền Nam, dù ở bất kỳ cương vị công tác nào trên miền Bắc, được đăng ký, bồi dưỡng về chính trị, quân sự, được rèn luyện về thể lực để sẵn sàng làm nhiệm vụ ở chiến trường. Các xí nghiệp quốc phòng khẩn trương sửa chữa súng trường, tiểu liên, súng cối và sản xuất đạn, lựu đạn... cung cấp kịp yêu cầu trước mắt của lực lượng vũ trang miền Nam. Đoàn vận tải 559 tăng quân số lên khoảng từ 2000 đến 3000 người, sử dụng nhiều loại phương tiện bảo đảm cho bộ đội hành quân và đẩy mạnh vận chuyển vào chiến trường.

Với những chủ trương đúng đắn và nỗ lực cao của Đảng và nhân dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân ở miền Nam nhanh chóng được xây dựng, trưởng thành về mọi mặt.

Đến cuối năm 1961, bộ đội chủ lực thuộc các quân khu đã xây dựng được 11 tiểu đoàn, gồm 6 tiểu đoàn ở khu V, 5 tiểu đoàn ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Mỗi tiểu đoàn khoảng 500 người, biên chế từ hai đến ba đại đội bộ binh, một đại đội đặc công, một đại đội (hoặc trung đội) trợ chiến và các phân đội đảm bảo, trang bị chủ yếu là vũ khí từ miền Bắc đưa vào và vũ khí thu được của địch.

Bộ đội địa phương tỉnh, huyện có khoảng 24.500 cán bộ chiến sĩ. Mỗi huyện tổ chức được một trung đội hoặc một đại đội, tỉnh có từ một đến hai đại đội bộ binh hoặc đặc công, trang bị chủ yếu vũ khí thu được của địch. Ở khu V, một số đơn vị đã được trang bị vũ khí từ nguồn tiếp tế ở miền Bắc vào.

Du kích, tự vệ có khoảng 100.000 người, trong đó 70.000 ở Nam Bộ, 30.000 ở khu V. Nhiều xã giải phóng tổ chức được trung đội du kích tập trung, trang bị các loại vũ khí tự tạo và một số súng thu được của địch.
__________________________________________
1. Ngày thành lập các quân khu và Bộ tư lệnh theo sách: “50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Biên niên sự kiện”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.169, 173.
2. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.178.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:43:10 pm

Tháng 7-1961, Trung ương Cục quyết định thành lập trung đoàn chủ lực Miền mang mật danh Q761. Trung đoàn gồm hai tiểu đoàn bộ binh, một số phân đội trợ chiến và ba cơ quan: tham mưu, chính trị, hậu cần. Trung đoàn trưởng là đồng chí Tăng Kim Thiên (tức Hoàng Đình Chương); Chính uỷ là đồng chí Lê Văn Nhỏ (Hai Lâm). Ngày 9-2-1961, tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 làm lễ ra mắt tại chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Mãi đến ngày 9-2-1962, hai tiểu đoàn 1 và 2 cùng các đơn vị trực thuộc được bổ sung đủ quân số, Q761 (c56) mới chính thức làm lễ ra mắt tại Trảng Dài (Tây Ninh) và mang tên trung đoàn 1 bộ binh.

Sự ra đời của Trung đoàn 1 (Q761) đánh dấu bước phát triển mới của lực lượng chủ lực Quân giải phóng trong năm đầu đối phó với chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ.

Cùng với sự hình thành, phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ quân, các trường quân chính Quân khu V (11-4), Trường quân chính sơ cấp Miền (27-8), Trường quân chính Quân khu IX (cuối năm 1961)... được thành lập để đào tạo huấn luyện cán bộ tại chiến trường. Các căn cứ hậu cần ở các chiến trường cũng được xây dựng để bảo đảm vật chất, trang bị kỹ thuật cho các đơn vị. Trong năm 1961, ta xây dựng được 16 căn cứ hậu cần: Căn cứ A (gọi là U50) ở chiến khu Đ, căn cứ B (U60) ở chiến khu Dương Minh Châu trực thuộc Miền. Quân khu miền Đông Nam Bộ có hai căn cứ ở bắc sông Đồng Nai và chiến khu D. Miền Trung Nam Bộ có năm căn cứ ở Đồng Tháp Mười, vùng 4 Kiến Tường, nam bắc lộ 4 tỉnh Mỹ Tho, vùng Long An và Chợ Gạo (thuộc Tiền Giang). Miền Tây Nam Bộ có ba căn cứ ở U Minh, Đầm Dơi, Năm Căn. Sài Gòn - Gia Định có hai căn cứ ở An Nhơn Tây và Hố Bò. Quân khu V lập hai kho hậu cần ở A Sầu, A Túc để tiếp nhận hàng chi viện từ miền Bắc vào.

Các vùng giải phóng trong cuộc đồng khởi, nhân dân thành lập các Uỷ ban mặt trận làm chức năng của chính quyền cách mạng, đã tổ chức ra các đoàn thể quần chúng và chia gần năm vạn héc ta ruộng đất cho nông dân, cùng với việc mở rộng và chăm lo đời sống tinh thần, văn hoá, giáo dục, y tế v.v... cho nhân dân. Cách mạng đã đem lại cho nhân dân các vùng giải phóng những quyền lợi thiết thực, tuy còn ít, nhưng nó đã tạo nên không khí phấn khởi, tin tưởng trong nhân dân.

Tất cả những kết quả trên đây đánh dấu sự chuyển biến nhảy vọt về chất của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta sau một năm đồng khởi, tạo cho ta một thế mới, lực mới để bước vào cuộc kháng chiến.

Trên cơ sở tạo lập được các vốn quý ban đầu rất cơ bản đó, giữa năm 1961, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh ra chỉ thị đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở miền Nam lên một bước mới song song với đấu tranh chính trị. Trong chỉ thị này, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh nhận định, quân ngụy lực lượng chiến lược nòng cốt của chiến tranh đặc biệt được xây dựng công phu, trang bị mạnh, nhưng tinh thần sa sút, ý chí chiến đấu giảm; song được Mỹ ra sức giúp đỡ về mọi mặt, quân ngụy và chính quyền Diệm vẫn đứng vững, Mỹ lại tăng cường viện trợ vũ khí, kỹ thuật hiện đại, đưa dần lực lượng thuộc các binh chủng kỹ thuật Mỹ vào hỗ trợ cho quân ngụy và làm nhiệm vụ huấn luyện, chuẩn bị cho chiến trường đánh lớn.

Lực lượng vũ trang của ta ở miền Nam, tuy đã có một bước phát triển, nhưng chưa tương xứng với lực lượng chính trị của quần chúng. Về trang bị vũ khí, kỹ thuật, còn nhiều hạn chế. Song ta có mục tiêu, lý tưởng chiến đấu rõ ràng, lại có kinh nghiệm của 9 năm đánh Pháp, những năm hoạt động bí mật, đặc biệt có khí thế của phong trào đồng khởi cổ vũ mạnh mẽ.

Căn cứ vào so sánh lực lượng, thế và lực của ta trên chiến trường, Quân uỷ Trung ương đã đề ra nhiệm vụ đấu tranh vũ trang là:

1. Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang, phục vụ và kết hợp với đấu tranh chính trị đẩy cách mạng tiến lên.

2. Phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã quân đội và chính quyền địch, bồi dưỡng lực lượng ta.

3. Xây dựng, củng cố và mở rộng căn cứ địa làm bàn đạp cho lực lượng vũ trang.

Ba nhiệm vụ này liên quan chặt chẽ với nhau, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, trong đó nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch được xác định là quan trọng nhất.

Quân uỷ Trung ương nhắc nhở các đơn vị đấu tranh vũ trang phải tiến hành từng bước, tránh manh động dẫn đến khởi nghĩa non. Phương châm tác chiến hiện nay của ta là du kích chiến, dần dần sẽ kết hợp một cách thích hợp du kích chiến với vận động chiến. Tư tưởng chỉ đạo là: Mọi hoạt động quân sự phải phục tùng chính trị, không đánh những trận không có lợi về mặt chính trị, đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh, tránh chủ quan, khinh địch. Mọi cấp, mọi người phải quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, lấy tiến công làm chủ yếu, đồng thời, phải biết phòng ngự tích cực, chú trọng giữ và chiếm những vùng chiến lược quan trọng khi có điều kiện. Kết hợp tác chiến với dân vận, địch vận, chủ động trong hành động và giữ bí mật lực lượng, không để bị địch bất ngờ tiến công.

Chỉ thị về đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở miền Nam cũng như các chỉ thị khác của Quân uỷ Trung ương, của Trung ương Cục và Khu uỷ Khu V đã cụ thể hoá từng mặt các nội dung mà nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1-1961 đã đề ra.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2010, 09:46:35 pm

Tháng 10-1961, Trung ương Cục triệu tập hội nghị mở rộng bàn việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Đây là Hội nghị đầu tiên của Trung ương Cục kể từ khi thành lập lại. Dự hội nghị có đầy đủ các đồng chí trong Trung ương Cục, các bí thư khu uỷ, tỉnh uỷ. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương Cục, chủ trì hội nghị.

Hội nghị xác định: “Con đường phát triển có lợi nhất của cách mạng miền Nam là dùng đấu tranh chính trị và vũ trang song song kết hợp, coi đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều là cơ bản để tạo điều kiện và tranh thủ thời cơ tiến tới Tổng khởi nghĩa”. Muốn vậy, phải dựa vào lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Tác dụng của lực lượng chính trị bao giờ cũng rất quan trọng, càng phát huy được tác dụng của lực lượng chính trị thì lực lượng vũ trang càng phát triển và cuộc đấu tranh cách mạng bớt đổ máu, quân thù càng dễ tan rã và bị đánh đổ một cách mau lẹ. Nhưng, dưới chế độ độc tài phát xít của Mỹ - Diệm, kẻ thù đang dùng lực lượng quân sự để đàn áp cách mạng, nếu chỉ có lực lượng chính trị, thì không thể duy trì và phát triển được phong trào cách mạng. Cho nên, lực lượng vũ trang càng mạnh, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực càng nhiều, thì càng thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng chống sự đàn áp của địch, càng nhanh làm thay đổi tình hình so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cách mạng, ta có điều kiện tiến lên giành thắng lợi lớn hơn.

Từ phân tích cụ thể nói trên, Trung ương Cục đề ra nhiệm vụ đấu tranh vũ trang trong giai đoạn này là:

1. Kết hợp với đấu tranh chính trị rộng lớn của quần chúng, thúc đẩy và hỗ trợ cuộc đấu tranh chính trị ngày càng mạnh, chống lại sự áp bức, bóc lột hằng ngày, làm tan rã bộ máy kìm kẹp của địch ở ấp, xã, quận, v.v… làm cho phong trào chính trị và ưu thế chính trị của quần chúng ngày càng củng cố và phát triển không ngừng.

2. Tiêu diệt sinh lực địch, kết hợp với đấu tranh chính trị của quần chúng và công tác binh vận, làm tan rã từng phần quân đội và chính quyền ngụy, phá hoại âm mưu bắt lính, dồn dân, cướp của và mọi âm mưu khác của địch.

3. Tích cực xây dựng, phát triển và tích luỹ lực lượng vũ trang của ta cả về số lượng và chất lượng, làm cho lực lượng đó không những theo kịp sự phát triển của phong trào chính trị, bảo vệ được những thành quả của đấu tranh chính trị, mà còn đủ khả năng tiêu diệt sinh lực địch ngày càng nhiều, làm cho công cụ chủ yếu của địch là quân đội của chúng ngày càng yếu, thay đổi tình hình so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cách mạng và ta có đủ lực lượng vũ trang bảo đảm cho thắng lợi cuối cùng của cuộc khởi nghĩa.

4. Xây dựng, củng cố và mở rộng căn cứ địa ở rừng núi và những vùng ở nông thôn có điều kiện, kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, làm suy yếu và tan rã chính quyền địch ở nông thôn, củng cố và mở rộng các hình thức chính quyền cách mạng.

Thực hiện được những nhiệm vụ nói trên sẽ làm cho địch ngày càng suy yếu, ta ngày càng lớn mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

Ở những vùng rừng núi và một số vùng nông thôn rộng lớn xa địch, có điều kiện chính trị và địa hình thuận lợi thì dùng mọi hình thức đấu tranh vũ trang để tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng và giữ vững căn cứ địa.

Ở các vùng đồng bằng, nói chung, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang cần song song phát triển. Đấu tranh vũ trang có tác dụng thúc đẩy cho phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị của quần chúng để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, làm suy yếu bộ máy kìm kẹp của địch, củng cố và mở rộng thắng lợi của quần chúng.

Ở đô thị, vùng phụ cận đô thị và căn cứ chiến lược quan trọng của địch, thì đấu tranh chính trị là chủ yếu. Ở những vùng này, tuỳ tình hình và yêu cầu cụ thể của phong trào chính trị, có thể dùng lực lượng vũ trang để trừ gian, phát động quần chúng, nhưng nhiệm vụ chủ yếu của quân sự là chuẩn bị chiến trường và tổ chức lực lượng vũ trang bí mật (lực lượng ngầm).

Về tác chiến, Trung ương Cục chủ trương: Vừa chú trọng đánh địch ở rừng núi, ở vùng giáp ranh căn cứ, đồng thời, phải hết sức chú trọng và khôn khéo đưa lực lượng vũ trang vào sâu trong vùng địch sơ hở ở đồng bằng để tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, phân tán lực lượng địch trên một quy mô lớn, phá thế kìm kẹp địch ngày một nhiều.


*
*   *


Sau sáu năm bền bỉ đấu tranh, nhân dân ta ở miền Nam đã làm cuộc đồng khởi thắng lợi, đập tan cơ sở hạ tầng của chế độ thực dân kiểu mới ở nhiều vùng nông thôn, đẩy Mỹ, ngụy vào thế bị động chiến lược. Để cứu nguy cho chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, Mỹ núp dưới chiêu bài thực hiện những cam kết giữa Chính phủ Hoa Kỳ với tập đoàn tay sai Diệm - Nhu để phát động cuộc chiến tranh đặc biệt chống lại nhân dân ta. Mỹ cử nhiều phái đoàn cao cấp sang miền Nam nghiên cứu, vạch kế hoạch dùng quân ngụy do Mỹ huấn luyện, trang bị, chỉ huy mở những cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng và dồn dân vào ấp chiến lược. Đồng thời với việc đẩy mạnh càn quét, ném bom, bắn phá, Mỹ thúc ép Diệm “mở rộng dân chủ” để họ có điều kiện nắm chắc nội bộ bọn tay sai và dễ dàng điều khiển chúng theo ý muốn. Mỹ còn gợi ý Diệm là thoả thuận để Mỹ đưa quân vào tham chiến. Ngô Đình Diệm muốn nhận viện trợ của Mỹ, nhưng chưa chấp nhận sự có mặt của quân Mỹ ở miền Nam. Diệm cho rằng tình hình chưa đến mức nguy ngập cần sự có mặt của quân đội Mỹ. Thực chất là Diệm sợ sự dính líu của quân Mỹ ở miền Nam, hắn sẽ mất quyền kiểm soát và vị trí của hắn sẽ lung lay. Mặt khác, Ngô Đình Diệm còn tính toán nếu quân Mỹ đưa quân vào miền Nam thì có thể quân Trung Quốc cũng vào miền Bắc Việt Nam giúp Hà Nội. Mặc dù vậy, Oa sinh tơn vẫn tin Ngô Đình Diệm là con người theo Mỹ đến cùng. Xét trên các mặt Mỹ chưa tìm được tên tay sai nào tin cậy hơn Diệm, nên vẫn ủng hộ Diệm, có chăng là yêu cầu loại bỏ vợ chồng Ngô Đình Nhu để xoa dịu dư luận lên án chế độ gia đình trị họ Ngô.

Mỹ vừa ủng hộ Diệm, vừa tìm chọn tay sai mới, vừa dùng các mánh khoé xảo quyệt đưa dần quân Mỹ vào dưới dạng những đơn vị binh chủng kỹ thuật không quân, hải quân, thông tin hoàn chỉnh cấp đại đội, tiểu đoàn, đứng chân ở các vị trí chiến lược. Mặt khác, chúng đưa nhân viên chuyên môn, kỹ thuật, vật tư vào với danh nghĩa giúp chính quyền Diệm xây dựng cơ sở hạ tầng, sân bay, bến cảng, đường giao thông, thông tin liên lạc..., nhưng thực chất là chuẩn bị cho quân Mỹ vào sau này.


*
*   *


Trước tình thế Mỹ gây ra cuộc chiến tranh “dùng người Việt đánh người Việt”, Đảng ta chủ trương và hạ quyết tâm tiếp tục cuộc kháng chiến chống xâm lược. Phong trào cách mạng miền Nam tuy phải trải qua những bước tuần tự từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, tiến đến tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhưng Đảng ta, nhân dân ta sẵn sàng chuẩn bị cho những bước nhảy vọt đột biến. Do đó, ta phấn đấu tích luỹ lực lượng, làm chuyển biến từng bước các mặt đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, binh vận, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, giành thắng lợi từng bước. Trong bước chuyển giai đoạn từ đồng khởi phát triển thành chiến tranh cách mạng, nhân dân, lực lượng vũ trang ta ở miền Nam sẽ vượt qua mọi khó khăn để biến những chủ trương và đường lối kháng chiến của Đảng thành hiện thực linh động trên chiến trường, đẩy mạnh đấu tranh quân sự lên song song đấu tranh chính trị, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, làm thất bại từng bước dẫn đến thất bại hoàn toàn âm mưu và hành động chiến tranh của Mỹ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 09:48:50 pm

Chương X
XÂY DỰNG MIỀN BẮC VỮNG MẠNH - HẬU PHƯƠNG CHIẾN LƯỢC
CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ


I. MIỀN BẮC ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG KINH TẾ - XÃ HỘI THEO KẾ HOẠCH NĂM NĂM LẦN THỨ NHẤT


Giữa lúc cuộc đồng khởi ở miền Nam giành được thắng lợi to lớn và công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, khôi phục kinh tế trên miền Bắc đạt kết quả tốt đẹp, làm cho xã hội miền Bắc biến đổi sâu sắc trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng - an ninh, bộ mặt nông thôn bừng lên khí thế mới, thì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam được triệu tập. Đại hội khai mạc ngày 5-9-1960 có 525 đại biểu chính thức và 56 dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước về dự đại hội. Trong diễn văn khai mạc đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích đại hội Đảng lần này là: “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”1.

Đại hội kiểm điểm công tác của Đảng từ Đại hội lần thứ II (2-1951) đến năm 1960, tổng kết những bài học kinh nghiệm lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và cải tạo xã hội chủ nghĩa, vạch ra đường lối cách mạng cả nước và cho mỗi miền. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và nhân dân ta đã thu được những thắng lợi to lớn, song cũng mắc phải một số sai lầm, khuyết điểm. Đại hội nghiêm khắc tự kiểm điểm, không che dấu khuyết điểm, trái lại, thẳng thắn tự phê bình và tích cực sửa chữa. Xuất phát từ sự phân tích sâu sắc bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế, đặc điểm của Việt Nam từ sau năm 1954, đại hội đề ra nhiệm vụ cho cách mạng cả nước là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”2.

Đại hội chỉ rõ cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ:

- Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

- Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.

Hai nhiệm vụ chiến lược này có quan hệ mật thiết và tác động, thúc đẩy lẫn nhau, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam. Trong hai nhiệm vụ Đảng ta xác định “xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”3. Miền Bắc càng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, thì càng có cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam. Ngược lại “Đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam”4. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam càng dâng cao, từng bước làm thất bại mọi âm mưu mở rộng chiến tranh của Mỹ, ngụy, thì miền Bắc càng có điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và tăng cường chi viện cho miền Nam.

Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đại hội đề ra: “Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời, tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em... để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà”5.
_____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.198.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện đại hội Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1960, t.1, tr.175.
3 - 5. Văn kiện Đại hội, sđd, t.1, tr.33, 84, 175.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 09:50:40 pm

Để đạt được mục tiêu trên đây trong thời kỳ quá độ đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đảng đề ra năm nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch kinh tế, văn hoá, xã hội năm năm lần thứ nhất (1960-1965):

“1- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để biến nước ta thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.

2- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh, tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

3- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh thăm dò tài nguyên thiên nhiên và điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn hoá.

4- Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.

5- Đi đôi với việc phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”1.

Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, đại hội đề ra: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”2.

Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam thời kỳ mới và những mục tiêu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất do đại hội đề ra soi sáng con đường cách mạng của nhân dân ta, chẳng những nó đánh dấu sự trưởng thành mới của Đảng, trên bước đường lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn biểu thị quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết thực hiện cho kỳ được các mục tiêu của cách mạng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III thành công là nguồn sáng mới, làm nức lòng hàng triệu trái tim yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội không chỉ ở miền Bắc mà cả miền Nam đang ngày đêm đấu tranh chống Mỹ và tay sai. Bởi vì, mục tiêu đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước vừa là ước mơ, hoài bão của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của bao kiếp người đã từng sống lầm than, khổ cực dưới chế độ thực dân cũ và mới, chế độ phong kiến quan liêu, vừa phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài người. Sự nghiệp cách mạng ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà đặt ra cho Đảng ta, nhân dân ta những nhiệm vụ hết sức nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Để bảo đảm thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác”3.

Để cụ thể hoá đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra, Trung ương Đảng và Nhà nước đã xác định những phương hướng và chỉ tiêu cơ bản phát triển kinh tế quốc dân trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất và các mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp; giữa nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa với tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh; giữa nhiệm vụ phát triển văn hoá, giáo dục với đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ khoa học, kỹ thuật; giữa phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân với tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc miền Bắc và tăng cường chi viện cho miền Nam.
_____________________________________
1. Văn kiện đại hội, sđd, t.1, tr.187-188.
2. Văn kiện đại hội, sđd, t.1, tr. 46.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.10, tr.201.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 09:51:30 pm

Miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội có những thuận lợi cơ bản là nửa nước được hoàn toàn giải phóng, có hoà bình, nhân dân cần cù, sáng tạo, lực lượng lao động dồi dào, lại có các nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ về kinh nghiệm, vật chất... tuy nhiên, cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại. Trình độ nhận thức của cán bộ, nhân dân còn thấp, chưa có kinh nghiệm tổ chức thực hiện xây dựng một xã hội mới từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu do đế quốc và phong kiến cai trị, nhân dân bị bóc lột và bị kìm hãm về mọi mặt. Những lề thói canh tác cũ, những phong tục, tập quán lạc hậu, làm ăn manh mún, nền sản xuất tiểu nông, diện tích ruộng đất bình quân đầu người dưới 3 sào Bắc Bộ... là những khó khăn, trở ngại không dễ vượt qua.

Công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nhưng sản xuất mới được khôi phục, máy móc cũ kỹ, hư hỏng; thủ công nghiệp nghèo nàn, phân tán, lực lượng kỹ thuật hầu như không có gì. Trình độ văn hoá của nhân dân thấp, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề rất hiếm. Sau chín năm kháng chiến chống Pháp, nền kinh tế miền Bắc bị tàn phá nặng nề, nhiều vùng vẫn chưa khai hoang, phục hoá. Mặc dù nhân dân ra sức canh tác, nhưng năng suất lao động vẫn rất thấp, đời sống của nhân dân còn thiếu thốn nhiều mặt. Trong khi đó bọn thổ phỉ, biệt kích, gián điệp ra sức hoạt động phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dân. Còn ở miền Nam, Mỹ và bè lũ tay sai đang tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt, chúng quyết tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mưu toan chia cắt lâu dài Tổ quốc ta.

Tháng 1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc chỉnh huấn chính trị mùa xuân nhằm “Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong xã hội chủ nghĩa”. Qua cuộc chỉnh huấn chính trị mùa xuân, Đảng đã giáo dục cho cán bộ và nhân dân tình thương yêu sâu sắc đối với đồng bào, đồng chí, có ý chí vươn lên trong lao động sản xuất, luôn luôn “thấm nhuần chủ nghĩa anh hùng cách mạng chẳng những trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc mà cả trong công cuộc lao động sáng tạo xây dựng xã hội mới. Con người ấy cũng là con người thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa quốc tế vô sản, biết kết hợp đúng đắn lợi ích chân chính của dân tộc với lợi ích chung của phong trào công nhân quốc tế, chống mọi khuynh hướng dân tộc hẹp hòi và sô vanh nước lớn”1

 Phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, vai trò của tập thể đối với mỗi cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa... Cho nên, lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn”2. Học tập nghị quyết của Đảng và lời dạy của Hồ Chủ tịch, những tư tưởng, quan điểm xây dựng ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tất cả đề phục vụ sản xuất - thực hiện cần kiệm xây dựng đất nước, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội được cán bộ và nhân dân quán triệt. Những tư tưởng, tác phong xấu như cá nhân chủ nghĩa, tham ô, lãng phí, mệnh lệnh, quan liêu bị lên án và từng bước khắc phục.

Tinh thần của cuộc chỉnh huấn chính trị mùa xuân và sau đó là Nghị quyết về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước3 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã được các tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế - xã hội từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo ra sức thực hiện.

Trên mặt trận công nghiệp, xuất phát từ nhận thức ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm giải quyết một phần những tư liệu sản xuất chủ yếu để cung cấp cho công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, xây dựng cơ bản và giao thông, vận tải, Nhà nước đã đầu tư nhiều vốn liếng, công sức để phát triển ngành này. Nhà nước tăng từ 544 triệu đồng trong kế hoạch ba năm 1958-1960 lên 740 triệu đồng trong hai năm 1961-1962. Gần 140 công trình trên hạn ngạch để sản xuất tư liệu sản xuất (nhóm A) được xây dựng và mở rộng như khu liên hợp gang thép Thái Nguyên, Nhà máy điện Uông Bí, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Vinh, Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà máy phân lân Văn Điển, Nhà máy xupe phốt phát Lâm Thao, Nhà máy phân đạm Bắc Giang, Nhà máy hoá chất Việt Trì, Nhà máy chế tạo công cụ, Nhà máy cơ khí Duyên Hải, Nhà máy xi măng Hải Phòng, v.v… Đồng thời các mỏ than Hòn Gai, Mạo Khê, mỏ Apatít Lào Cai, mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ Cờrômmít Cổ Định... được khôi phục, xây dựng và mở rộng thêm.
_____________________________________
1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội... Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.91.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.9, tr.291.
3. Phong trào thi đua yêu nước được Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động tháng 7-1958.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 09:52:08 pm

Nhiệm vụ quan trọng nhất của công nghiệp nặng thời kỳ này là “trang bị cho lao động cả nước, trước hết là lao động nông nghiệp và công nghiệp nhẹ có đủ các loại công cụ với trình độ kỹ thuật khác nhau, từ thô sơ đến hiện đại tuỳ theo từng ngành và từng loại công việc, để gấp rút đưa năng suất lao động xã hội lên ít nhất gấp đôi, gấp ba năng suất lao động hiện nay”1.

Do vậy, ngành cơ khí trong thời gian này đã đi sâu nghiên cứu chế tạo các loại công cụ cày, bừa, cấy gặt (nông nghiệp), các loại máy xúc, sàng liên hợp, khoan tiện, cắt xén... (công nghiệp) phát triển khá mạnh. Nhiều loại máy móc của công nghiệp nặng chế tạo đã được ứng dụng, đem lại hiệu quả kinh tế khá cao, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước.

Công nghiệp nặng được đầu tư xây dựng lớn đã kích thích công nghiệp nhẹ, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển theo. Cùng với việc khôi phục, mở rộng các nhà máy diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long, gỗ Cầu Đuống, cá hộp Hải Phòng, Nhà máy dệt Nam Định, Nhà nước khởi công xây dựng: Nhà máy đường Vạn Điểm, Nhà máy giấy Việt Trì, Nhà máy dệt 8-3, Nhà máy bóng đèn phích nước, Nhà máy nhựa Tiền Phong, Nhà máy mỳ chính... Một số mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân như quần áo, diêm, xà phòng, xoong, chậu, đồ nhựa... đã đáp ứng được một phần nhu cầu của nhân dân.

Trong phong trào thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội do Đảng phát động, 12,5 vạn công nhân, viên chức trên miền Bắc đã thực hiện cuộc vận động “hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm”. Nhà máy cơ khí Hà Nội phát động phong trào “Đuổi và vượt năng suất cao” phấn đấu trở thành con chim đầu đàn ngành công nghiệp Thủ đô. Ngành vận tải quốc doanh đường thuỷ thi đua “Kéo và vượt trọng lượng”. Khu gang thép Thái Nguyên xây dựng mẫu hình “Đội kỵ binh vượt chỉ tiêu năng suất, chất lượng”, v.v… Trong rừng hoa thi đua nở rộ muôn màu sắc trên mặt trận công nghiệp, nổi bật nhất là phong trào thi đua lao động sản xuất của Nhà máy cơ khí Duyên Hải, Hải Phòng.

Từ cuối năm 1960 trở về trước, Nhà máy cơ khí Duyên Hải với số lượng máy móc cũ kỹ và chỉ tiêu sản xuất từ trên đưa xuống, công nhân chỉ làm việc cầm chừng, cốt sao hoàn thành được kế hoạch trong năm, còn năng suất, chất lượng, hiệu quả, thì ít ai nghĩ đến. Tháng 10-1960, sau khi học tập quán triệt đường lối phát triển công nghiệp do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra, đảng uỷ nhà máy đã phát động phong trào “hiến kế” cải tiến kỹ thuật. Qua hai tháng vận động, toàn nhà máy có 70 sáng kiến rút ngắn công đoạn chế tạo bừa, xúc, sàng liên hợp, v.v… làm cho không khí thi đua trong nhà máy sôi động hẳn lên.

Bước sang năm 1961, chỉ tiêu kế hoạch nhà máy được Nhà nước giao cho khá nặng nề, giá trị sản lượng 1,9 triệu đồng trong năm 1960, tăng lên 4 triệu đồng, quả là một con số không nhỏ. Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn đó, lãnh đạo nhà máy đã mở hội thi đua “Thao diễn kỹ thuật mùa xuân” kêu gọi đảng viên, đoàn viên, công đoàn... phát huy quyền làm chủ, sáng tạo trong lao động, cải tiến rút ngắn các công đoạn thao tác, hợp lý hoá sản xuất, đưa năng suất chất lượng lên cao.

Sau hai đợt mở hội thao diễn kỹ thuật, Nhà máy cơ khí Duyên Hải không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Đa số công nhân đã phát huy được nhiều sáng kiến, có những sáng kiến có giá trị về mặt kinh tế. Nhờ đó, trong năm 1961, nhà máy hoàn thành toàn diện, vượt mức kế hoạch Nhà nước giao cho trước thời hạn 3 tháng 20 ngày. So với năm 1960, trong năm 1961 giá trị tổng sản lượng của nhà máy tăng lên 331%, năng suất lao động tăng 263%, sản phẩm chủ yếu tăng 547%, thương phẩm tăng 288%. Cùng với việc chỉ đạo công nhân phấn đấu hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu kinh tế cấp trên giao, đảng uỷ nhà máy chú trọng công tác phát triển đảng, đoàn. Tính đến giữa tháng 11-1961, nhà máy đã kết nạp được 33 đảng viên, 41 đoàn viên, 133 đoàn viên công đoàn, đào tạo được 100 thợ có tay nghề cao. Nhà máy đã trở thành lá cờ đầu của phong trào thi đua trên mặt trận công nghiệp.

Sáng kiến mở “Hội thao diễn kỹ thuật mùa xuân” của Nhà máy cơ khí Duyên Hải đã được công nhân khắp nơi hưởng ứng, học tập. Hơn 500 xí nghiệp, công trường ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Phú Thọ, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Lào Cai, Cao Bằng, Nghệ An... phát động phong trào “học tập Duyên Hải, thi đua với Duyên Hải”, cán bộ, công nhân có hàng nghìn sáng kiến, có sáng kiến làm tăng năng suất lên hàng chục lần, vượt nhiều lần chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật. Phong trào thi đua với Duyên Hải làm chuyển biến mạnh mẽ tư tưởng của công nhân, viên chức, nâng cao thêm tinh thần tập thể, tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa. Thành tích của phong trào đã khẳng định vai trò tiên phong của giai cấp công nhân nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
_____________________________________
1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội - Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.98.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 09:52:46 pm

Cuộc vận động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất trên mặt trận công nghiệp không chỉ ở trong các nhà máy, hầm mỏ, xí nghiệp của nhà nước, mà còn lan toả tới các hợp tác xã thủ công nghiệp. Khác với các cơ sở kinh tế công nghiệp quốc doanh do nhà nước đầu tư thiết bị sản xuất, bao tiêu phân phối sản phẩm do nhà máy làm ra, các hợp tác xã thủ công nghiệp địa phương thường chỉ là những tố hợp nhỏ, máy móc cũ kỹ (nhiều nơi không có), tự sản tự tiêu là chính. Đứng trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc làm ăn lớn không còn chỗ cho những suy nghĩ vụn vặt, chắp vá. Đa số các hợp tác xã thủ công phải hợp lực với nhau nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất sao cho vừa có lãi, vừa tích luỹ để tái sản xuất mở rộng.

Thấm nhuần mục đích, ý nghĩa của phong trào thi đua, hầu hết các hợp tác xã thủ công nghiệp tự nguyện họp tác với nhau mở rộng sản xuất. Trong số hàng trăm hợp tác xã hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước năm 1961, hợp tác xã Thành Công (Thanh Hoá) đã trở thành ngọn cờ đầu của ngành họp tác xạ thủ công nghiệp.

Hợp tác xã Thành Công được thành lập đầu năm 1959 với số vốn 2.100 đồng, một gian nhà nhỏ, 16 xã viên, hầu hết là thợ sửa xe đạp và buôn bán nhỏ. Với số vốn quá ít ỏi để duy trì phát triển đi lên, ban quản trị hợp tác xã đề ra phương hướng “lấy ngắn nuôi dài”, “lấy bộ phận sản xuất làm xung kích, bộ phận sửa chữa làm đội hỗ trợ”. Ngày xã viên làm ở các tổ đội, tối về tranh thủ gánh đất lấp ao chuẩn bị nền móng nhà xưởng. Đảng viên, cán bộ làm trước, đoàn thanh niên, hội phụ nữ làm theo. Sau hơn một năm lao động vất vả, hợp tác xã đã xây dựng xong hầu hết các khu nhà xưởng. Số xã viên tự nguyện vào hợp tác xã cũng theo đó tăng lên, cuối năm 1959 là 120 người, cuối năm 1960 lên 201 người. Song song với việc ra sức xây dựng cơ ngơi nhà xưởng, hợp tác xã còn phát động xã viên thu nhặt hàng chục tấn phế liệu kim loại; mua và chế tạo được 24 máy tiện, 2 máy dập, 3 máy đánh bóng, 6 động cơ điện cỡ nhỏ, 10 lò rèn chạy điện, 2 máy bơm xăng dầu... Đông - Xuân 1960 -1961, hợp tác xã làm được 600 bộ phụ tùng máy cấy, hàng trăm xe bò, xe cải tiến, đạt chất lượng tốt, được khách hàng khen ngợi. Trải qua ba năm (tính đến cuối năm 1961) xây dựng, sản xuất, nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật... hợp tác xã đi từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, làm ra nhiều sản phẩm đạt chất lượng, vốn tích luỹ ngày càng tăng, cuối năm 1959 là 1.084 đồng, cuối năm 1960 là 15.582 đồng, tổng số vốn đạt tới 88.837 đồng. Hợp tác xã xây dựng được 212 gian nhà xưởng với diện tích 7.300 m2, đào tạo được 100 thợ máy có tay nghề cao. Trong năm 1961, hợp tác xã đã hoàn thành kế hoạch nhà nước trước thời hạn 120 ngày, đưa giá trị sản lượng lên gấp ba lần năm 1960. Cùng với việc ra sức sản xuất tăng trưởng kinh tế, nâng cao không ngừng đời sống của xã viên, các tổ chức đoàn thể: thanh niên, phụ nữ, dân quân, tự vệ cũng được củng cố, phát triển làm cho cuộc sống ở đây ngày một đổi mới.

Những kinh nghiệm phong phú của hợp tác xã Thành Công trong năm 1961 đã được hơn 700 hợp tác xã thủ công nghiệp học tập, vận dụng. Ở các tỉnh Nam Định, Hải Phòng, Phú Thọ, Hải Dương, Nghệ An, hàng chục hợp tác xã thủ công nghiệp đã phát huy hàng trăm sáng kiến tận dụng hàng nghìn tấn vật liệu cũ, kém phẩm chất làm ra hàng trăm mặt hàng mới.

Rút kinh nghiệm về việc chỉ đạo nhiệm vụ công nghiệp trong năm 1961, giữa tháng 6-1962, Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở Hội nghị lần thứ bảy (khoá III) bàn về nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp.

Hội nghị đánh giá: Công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành kinh tế cơ bản, có tác động thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Nền công nghiệp miền Bắc nước ta từ năm 1954 đến nay đang trong quá trình biến đổi cách mạng, đã có những thay đổi sâu sắc về quan hệ sản xuất, về cơ cấu và sức sản xuất. Tỷ trọng công nghiệp (kể cả thủ công nghiệp) trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp, nông nghiệp đến năm 1961 đã lên 43% (năm 1955 là 16,9%). Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân bắt đầu được phát huy. Một số ngành công nghiệp nặng chủ yếu đã hình thành, công nghiệp nhẹ đang lớn lên nhanh chóng. Trình độ quản lý công nghiệp đã được nâng lên một bước. Nhiều xí nghiệp đã chủ động sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất bảo đảm chất lượng và hạ giá thành sản phẩm trong thời kỳ này. Giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt. Liên minh giữa công nhân và nông dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng chặt chẽ... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở chưa nhận thức sâu sắc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ, chưa thấy hết yêu cầu và nội dung công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng công nghiệp hoá nước nhà năm đầu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy đã đề ra nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới là: “Phấn đấu thực hiện một sự chuyển biến căn bản trong nền kinh tế quốc dân, tiến hành trang bị cơ khí và nửa cơ khí một cách phổ biến, xoá bỏ tình trạng thủ công, lạc hậu và không cân đối nghiêm trọng hiện nay trong nền kinh tế, bảo đảm cho công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác phát triển cân đối, nhịp nhàng, mạnh mẽ, nhằm giải quyết một cách căn bản những nhu cầu thông thường của nhân dân về ăn mặc, học tập, bảo vệ sức khoẻ, đồng thời chuẩn bị mọi mặt về vật chất, kỹ thuật, cán bộ, công nhân, v.v… để tiếp tục phát triển kinh tế toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc”1.
_____________________________________
1. Văn kiện Lịch sử Đảng, sđd, tr. 11-241.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 09:59:24 pm

Phương hướng chung về xây dựng và phát triển công nghiệp vẫn là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Vì công nghiệp nặng là nền tảng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, là cơ sở để tạo ra tư liệu sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Nhưng trong điều kiện nước ta, cơ sở vật chất, kỹ thuật kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, mâu thuẫn giữa tích luỹ và tiêu dùng diễn ra gay gắt. Do đó, Đảng chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng theo khả năng, yêu cầu, vừa bảo đảm cho các ngành kinh tế quốc dân khác cùng phát triển là hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta.

Hội nghị quyết định những chính sách và biện pháp bảo đảm tích luỹ và sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất, phấn đấu tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm, tích cực đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ kinh tế, công nhân lành nghề...

Kết luận Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế...

Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên, công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh, và nhanh chóng đi đến mục đích”1.

Thực hiện nghị quyết của Đảng về ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, Nhà nước đã dành một số vốn khá lớn để đầu tư xây dựng và phát triển công nghiệp nặng. Tỷ trọng vốn đầu tư vào công nghiệp nặng so với tổng số vốn đầu tư cho toàn ngành công nghiệp tăng nhanh rõ rệt. Trong ba năm 1961-1963, tỷ trọng đó chiếm tới 78,6%. Riêng số vốn đầu tư cho công nghiệp nặng năm 1963 gấp 11 lần năm 1955, và gấp 4,5 lần năm 1957. Các ngành công nghiệp nặng chủ yếu như điện lực, cơ khí hoá chất, khai thác nhiên liêu, khai thác gỗ, vật liệu xây dựng, khai khoáng, luyện kim dần dần hình thành.

Sau ba năm đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế, nền công nghiệp của ta bao gồm cả công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được nhiều mặt hàng thiết yếu như máy tiện, máy khoan, động cơ điêden, máy bơm cải tiến, số lượng, chất lượng ngày càng bảo đảm, đáp ứng được một phần nhu cầu sản xuất nông nghiệp và sản xuất quốc phòng. Giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị kinh tế quốc dân từ 41% năm 1960 lên 48% năm 1963. Tỷ trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất 35% tăng lên 42%. Công nghiệp quốc doanh từ 90% lên 95%, thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp cho đất nước một khối lượng sản phẩm quan trọng, trong đó có nhiều sản phẩm trước đây phải nhập của nước ngoài. Đi đôi với việc phát triển công nghiệp quốc doanh trung ương, Nhà nước quan tâm tới việc xây dựng công nghiệp địa phương. Cuối năm 1963, trong tổng số 1100 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh có 215 xí nghiệp trung ương và 885 xí nghiệp địa phương. Thủ công nghiệp có 2.129 hợp tác xã (tăng 1,5 lần so với năm 1960) phân bố rộng khắp miền. Việc công nghiệp địa phương hình thành và ngày càng phát triển, mở ra khả năng sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và lực lượng lao động tại chỗ, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Công nghiệp được chú trọng đầu tư xây dựng tương đối toàn diện đã tạo điều kiện thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Đầu năm 1961, một loạt công cụ cày, bừa, máy suốt lúa, xe kéo tay, cày cải tiến 51, cào cỏ Nghệ An, quạt hòm, xe quệt đã được các hợp tác xã nông nghiệp đưa vào sử dụng. Tập quán không sử dụng phân, trồng chay ở một số tỉnh miền núi Việt Bắc, Tây Bắc được thay đổi. Đồng bào các dân tộc đã tận dụng nguồn phân chuồng, phân xanh, phân bắc bón ruộng, đưa năng suất lên cao hơn hẳn các năm trước, xoá dần tập quán du canh du cư, canh tác lạc hậu. Đa số hệ thống thuỷ lợi nội đồng đã được cải tạo hoặc làm mới. Các trạm bơm tưới tiêu hợp tác xã (cấp thấp) hoặc hợp tác xã liên thôn (cấp cao) tiếp tục được hoàn thiện. Một số tỉnh ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Bắc thuộc hệ thống thuỷ nông Bắc - Hưng - Hải, hệ thống thuỷ nông đập Bái Thượng (Thanh Hoá), hệ thống thuỷ nông Nậm Rốm - Điện Biên đã chủ động được tưới tiêu, hạn chế một phần cảnh “chiêm khê, mùa thối”. Để tiếp tục xây dựng hợp tác xã cấp thấp và vận động xây dựng hợp tác xã cấp cao, các cấp đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã tổ chức học tập quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng trong nông nghiệp, nông thôn. Nội dung của cuộc vận động gồm ba mặt: cải tạo quan hệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật, giáo dục tư tưởng và ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.

Nhà nước đã cử nhiều cán bộ có năng lực và kinh nghiệm về nông nghiệp, nông thôn xuống giúp chính quyền địa phương vận động quần chúng xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng cuộc sống mới.

Giai cấp nông dân trước đây một lòng tin tưởng theo Đảng làm cách mạng dân tộc, dân chủ. Ngày nay, trước cuộc vận động hoàn thiện hợp tác xã cấp thấp, xây dựng hợp tác xã cấp cao của Đảng, Nhà nước, họ cũng không ngần ngại, tự nguyện chung lòng xây dựng nông thôn mới.
_____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.10, tr. 544 - 545.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:00:03 pm

Được sự giúp đỡ của Đảng và Nhà nước, nông dân tập thể ở các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Hà Tây, Nghệ An đã dấy lên phong trào thi đua làm ruộng cao sản 7 tấn, 10 tấn trên một hécta/năm. Ba huyện Đông Quan, Quỳnh Côi, Tiền Hải và 86 xã trong toàn tỉnh Thái bình đạt năng suất chỉ tiêu cấp trên giao. Trong đó, các hợp tác xã Cầu Lông - Hưng Nhân, Minh Thành - Duyên Hà lần đầu tiên đạt bình quân 35 tạ trên hécta trong một vụ.

Giữa lúc phong trào thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp phát triển mạnh mẽ rộng khắp miền Bắc, tháng 7-1961, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ V (khoá III) bàn về phương hướng và nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất nhận định: Mặc dù thời gian qua trong điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu, hợp tác xã mới được tổ chức xây dựng, nhịp độ phát triển kinh tế hằng năm tăng trên dưới 5,6% đã làm thay đổi bộ mặt đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động, góp phần xây dựng củng cố quốc phòng. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng cơ cấu nông nghiệp, chưa chú trọng phát triển toàn diện cây lương thực, nhiều lúc chỉ coi trọng cây lúa, xem nhẹ cây hoa màu và cây công nghiệp.

Từ những xem xét cụ thể, toàn diện điểm mạnh, điểm yếu trong thời gian qua, Hội nghị Trung ương xác định nhiệm vụ và phương hướng chung phát triển nông nghiệp trong thời gian 1961-1965 là:

“Tích cực củng cố phát triển hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh làm cơ sở vững chắc để phát triển nông nghiệp.

Kết hợp việc hoàn thiện quan hệ sản xuất mới với việc phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp; kết hợp chặt chẽ việc phát triển hợp tác hoá với thuỷ lợi hoá và cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, tiến tới một bước cơ giới hoá, nhằm hướng mở rộng diện tích bằng tăng năng suất, theo phương châm toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc, giải quyết tốt vấn đề lương thực là trọng tâm, đồng thời, hết sức coi trọng cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, mở mang thêm nghề rừng, nghề cá, nghề phụ; sử dụng tốt sức lao động tập thể là chính, đồng thời tận dụng sức lao động gia đình của xã viên. Phát huy thuận lợi của điều kiện nhiệt đới, kết hợp chặt chẽ việc phát triển nông nghiệp ở miền xuôi và miền núi, cải thiện đời sống nông dân, phấn đấu sau năm năm đưa mức sống của xã viên lên ngang với mức sống của trung nông lớp trên hiện nay, thay đổi bộ mặt nông thôn, làm cho nông nghiệp trở thành cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp.

Củng cố liên minh công nông, tăng cường đoàn kết nông thôn, phát huy khí thế cách mạng của nông dân để đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, đưa nông thôn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”1.

Trong kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn, Trung ương coi trọng việc áp dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, mở mang thêm nghề rừng và các ngành nghề phụ khác, sử dụng tốt sức lao động tập thể trong các hợp tác xã, tận dụng sức lao động trong các gia đình xã viên.

Đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn mới của Đảng, Nhà nước đã được giai cấp nông dân tập thể, các nông trường, trạm trại sản xuất quốc doanh và quân đội sôi nổi học tập thực hiện. Tính đến tháng 10-1961, trên 9.000 hợp tác xã (trong tổng số 41.400 hợp tác xã cấp thấp) đã lên cấp cao quy mô liên thôn. Trong những vụ đầu, năm đầu hầu hết số hợp tác xã bậc cao ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đã phát huy được sức mạnh vật chất, tinh thần, tập trung cải tạo các hệ thống thuỷ lợi nội đồng, mở mang bờ vùng bờ thửa, chủ động được tưới tiêu, củng cố đê điều phòng chống lũ lụt. Hơn một nửa số hợp tác xã bậc cao trong năm 1962 đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu sản lượng, mức thu nhập của các hộ xã viên đủ ăn và tương đối ổn định. Hơn 40 nông trường quốc doanh và quân đội phân bố trên những địa bàn trọng yếu biên giới ven biển như các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Vĩnh Linh bước đầu kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng, góp phần xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh.

Để tiếp tục lãnh đạo phong trào hợp tác hoá, ra sức chăm lo xây dựng, củng cố các hợp tác xã nông nghiệp, cuối năm 1961, Trung ương Đảng và Chính phủ phát động cuộc vận động “Xây dựng hợp tác xã tốt” với nội dung: Đoàn kết tốt; đẩy mạnh sản xuất; tăng thu nhập cho xã viên; tích luỹ để xây dựng hợp tác xã; làm tốt nghĩa vụ đối với nhà nước. Những nội dung, ỷ nghĩa của cuộc vận động đã được các tỉnh, thành trên toàn miền Bắc hưởng ứng học tập, thực hiện. Hàng ngàn hợp tác xã đã hăng hái đăng ký trở thành hợp tác xã tốt, quyết tâm xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp. Các hợp tác xã Thái Bạ (Sơn Tây), Yên Trường (Thanh Hoá), Thống Nhất (Hà Đông), Đức Cảnh (Thái Bình), Tổng Vân Trân ( Hải Phòng)... đã trở thành những điển hình của cuộc vận động xây dựng hợp tác xã tốt ở các tỉnh. Đặc biệt hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình) đã trở thành ngọn cờ đầu trong phong trào xây dựng hợp tác xã tốt trên miền Bắc.
_____________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V về vấn đề phát triển nông nghiệp trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:00:56 pm

Hợp tác xã Đại Phong lúc đầu chỉ có vài chục gia đình đồng bào miền Nam vượt tuyến ra Quảng Bình. Khi đến họ chỉ có hai bàn tay trắng. Đảng và Chính phủ giúp cho một ít vốn, bà con ra sức vỡ hoang suốt ngày đêm, nhưng bình quân đầu người, thu nhập vẫn thấp, đói ăn thường diễn ra. Dần dần Đại Phong hợp nhất với hợp tác xã nghèo Đông - Tây - Bắc thành 135 hộ. Do biết tổ chức làm ăn, có tinh thần tương thân tương ái và đoàn kết, cần kiệm xây dựng hợp tác, đời sống nhân dân được cải thiện, chỉ còn năm hộ thiếu ăn được bà con xã viên giúp đỡ. Cuối năm 1960, Đại Phong đã tiến lên hợp tác xã bậc cao với quy mô liên thôn. Nắm vững phương châm lấy sản xuất nông nghiệp là chính, hợp tác xã Đại Phong tích cực cải tiến kỹ thuật, công cụ, xem kỹ thuật là khâu then chốt quyết định để tăng năng suất lao động.

Hợp tác xã phát động 28 đội sản xuất, với 800 hộ xã viên bỏ ra hàng ngàn ngày công nạo vét 6 km đường sông chính và hàng chục km đường mương phụ, sửa chữa và đóng mới hơn 100 thuyền vận chuyển, 60 xe bò, xe cút kít, hàng trăm cày bừa cải tiến các loại. Đặc biệt, đoàn thanh niên, lực lượng xung kích của hợp tác xã, còn tranh thủ nhặt sắt, gỗ đóng được 11 xe bò thuyền1, 6 toa xe goòng, bắc một số đoạn đường ray từ bến bãi về kho và các sân phơi. Bằng khai hoang, phục hoá, hợp tác xã liên tục tăng diện tích gieo trồng (2 sào 10 thước lên 7 sào 9 thước/người); liên tục tăng ngày công lao động (100 ngày công/năm lên 240 ngày công/năm). Ngoài ra, hợp tác xã còn kinh doanh 19 ngành nghề khác nhau, khuyến khích các hộ xã viên phát triển nghề phụ. Sau hơn hai năm (tính đến tháng 1-1962) thi đua lao động sản xuất xây dựng “hợp tác xã tốt” Đại Phong đã tiến những bước dài, khai hoang phục hoá được gần 300 mẫu, đào đắp được 4 vạn mét khối thuỷ lợi và hàng chục công trình phúc lợi công cộng khác. Đời sống của các hộ xã viên không ngừng được cải thiện (từ thu nhập 200kg lương thực người/năm lên 800 kg lương thực người/năm). Các khoản vay nợ của nhà nước, hợp tác xã không những trả đủ, đúng thời hạn mà còn tích luỹ được hàng chục nghìn đồng.

Thành quả phát triển của hợp tác xã Đại Phong chứng minh con đường làm ăn tập thể hơn hẳn con đường làm ăn cá thể, nhân dân đã thực hiện đúng ba nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Có kết quả đó là nhờ “Họ tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng. Họ không sợ khó sợ khổ, họ khéo tổ chức, họ đoàn kết chặt chẽ, họ quyết tâm phấn đấu để tiến lên”2. Nhưng cũng trong thời kỳ đó một số địa phương đã không làm đúng, đủ ba nguyên tắc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng, làm cho phong trào xây dựng hợp tác xã không những không mạnh lên mà còn có nguy cơ tan rã. Điểm nổi bật nhất của hợp tác xã Đại Phong là biết vận dụng sáng tạo nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa (làm theo năng lực, hưởng theo lao động), tránh được chủ nghĩa bình quân, đồng thời, chú trọng đoàn kết tương trợ và các chính sách xã hội khác.

Sau khi hợp tác xã tiên tiến Đại Phong ra đời, hàng ngàn hợp tác xã nông nghiệp, nông trường, trạm, trại của 24 tỉnh, thành đã phát động phong trào thi đua với Đại Phong. Năm mục tiêu cơ bản của cuộc thi đua với Đại Phong là: cải tiến kỹ thuật, năng suất lao động, tăng vụ và vỡ hoang, phát triển nhiều ngành, nghề, cải tiến công tác quản lý, tăng cường công tác chính trị, tư tưởng. Các khẩu hiệu: Phá xiềng ba sào, tích cực cải tiến kỹ thuật, thực hiện trên 200 ngày công trong năm, quyết tâm tiến kịp và vượt hợp tác xã Đại Phong... đã trở thành hành động ở khắp nơi.

Phong trào học tập và thi đua với Đại Phong ngày càng được nhân lên rộng khắp, tính đến tháng 10-1961, toàn miền Bắc đã lựa chọn được 45 hợp tác xã “Đại Phong”. Một số huyện ở các tỉnh Phú Thọ, Hưng Yên, Thái Nguyên, Nam Định lựa chọn được từ hai đến ba “hợp tác xã Đại Phong” của địa phương mình. Đầu năm 1962, “Gió Đại Phong” của Quảng Bình đã thổi một luồng sinh khí mới tới hầu khắp các huyện, xã.

Phong trào thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội hướng về miền Nam ruột thịt không chỉ phát triển sôi động trên các mặt trận công nghiệp, nông nghiệp - hai ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, mà còn dấy lên mạnh mẽ trong ngành giáo dục.

Giữa năm 1958, để thực hiện tốt các “chế độ quy định tham gia lao động sản xuất hàng năm từ một đến hai tháng của giáo viên và học sinh ở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”3 do Ban Bí thư Trung ương Đảng đề ra, Bộ Giáo dục đã ra chỉ thị cho toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh các cấp từ phổ thông trung học trở lên thi đua nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, học đi đôi với hành, ứng dụng các tri thức văn hoá đã học tập vào lao động, sản xuất, xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp. Chủ trương của Ban Bí thư Trung ương Đảng và chỉ thị của Bộ Giáo dục, không chỉ nhằm giáo dục, rèn luyện cho giáo viên và học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nhà trường tách rời thực tế, tách rời lao động, tách rời quần chúng công nông, mà còn xây dựng cho học sinh, sinh viên thế hệ mới thành những người lao động giỏi có văn hoá, khoa học, có đầy đủ đức, trí, thể, mỹ và lập trường giai cấp vững vàng, biết yêu quý thành quả lao động, yêu quý quê hương đất nước.
_____________________________________
1. Xe bò thuyền là hai loại thuyền có lắp bánh xe đi được cả dưới nước và trên bộ.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.10, tr. 248.
3. Tháng 10-1958, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị quy định chế độ tham gia lao động sản xuất hàng năm cho các giáo viên, cán bộ và học sinh các trường đại học và trung học chuyên nghiệp.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:01:39 pm

Thực hiện chủ trương giáo dục đúng đắn của Đảng, gần 100 trường phổ thông cấp II, cấp III, đại học và trung học chuyên nghiệp của gần 20 tỉnh, thành đã tổ chức nhiều cuộc học tập cho giáo viên và học sinh quán triệt nhiệm vụ và bàn biện pháp thực hiện phương châm “lý luận gắn liền với thực tiễn”, “giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”. Các nhà trường đã tổ chức giao ước thi đua “dạy tốt, học tốt” phấn đấu trở thành trường tiên tiến, kiểu mẫu của ngành giáo dục. Sau ba năm (1959-1961) thực hiện, ngành giáo dục đã chọn 10 trường điển hình toàn diện. Trong số đó, nổi trội nhất là Trường phổ thông cấp II Bắc Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Trường phổ thông cấp II Bắc Lý xã Trung Lý từ giữa năm 1958 trở về trước cũng như nhiều trường khác ở các vùng nông thôn miền Bắc, chủ yếu dựa vào đình chùa làm lớp học, vừa chật hẹp, vừa không phù hợp với việc giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh. Hiểu rõ khó khăn của thầy trò Bắc Lý, đảng uỷ và uỷ ban nhân dân xã Trung Lý đã phát động nhân dân toàn xã đóng góp công của xây dựng trường lớp cho con em mình, hiến những mảnh vườn, thửa ruộng thuận tiện để thầy trò sử dụng trong học tập, thực nghiệm. Đáp ứng lại sự quan tâm của lãnh đạo và nhân dân địa phương, thầy trò trường Bắc Lý một mặt vừa ra sức dạy tốt, học tốt, học kết hợp với lao động sản xuất, mặt khác, tranh thủ thời gian trưa, tối dạy văn hoá cho bà con xã viên.

Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, trường Bắc Lý luôn luôn giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu lao động, yêu chủ nghĩa xã hội, nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh xây dựng trường sở. Được sự giúp đỡ đắc lực của nhân dân địa phương, thầy trò trường Bắc Lý đã xây dựng được một mẫu vườn trường, sáu ao thả cá, hàng chục hố phân xanh, một xưởng trường với ba môn dạy nghề rèn, mộc, nguội, một thư viện với 1000 đầu sách... Đó là cơ sở đầu tiên để Bắc Lý phát triển đi lên. Thầy, trò nhà trường thường xuyên nghiên cứu cải tiến phương pháp dạy và học. Kết quả, khoá học 1959 -1960, 100% học sinh được lên lớp; tỷ lệ khá giỏi đạt tới 85%. Đặc biệt, trong kỳ thi hết cấp II năm học 1961, trường Bắc Lý đạt tỷ lệ điểm cao nhất.

Với thành tích nói trên, trường phổ thông cấp II Bắc Lý đã trở thành ngọn cờ đầu của ngành giáo dục.

Trong Hội nghị ngành giáo dục toàn miền Bắc do Bộ Giáo dục triệu tập tại thị xã Phủ Lý (Hà Nam) tháng 10-1961, đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nói: “Thành công của Bắc Lý chính là ở chỗ trên thực tế nó xác nhận rằng: Đường lối, phương châm giáo dục của Đảng là đúng và hoàn toàn có thể thực hiện được và bằng công tác thực tiễn nó chỉ cho ta thấy thế nào là một nhà trường xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nước ta”1.

Hưởng ứng phong trào thi đua “hai tốt” của Bộ Giáo dục, hàng trăm trường lớp từ mẫu giáo đến đại học trong khắp các tỉnh, thành hăng hái phấn đấu “học tập Bắc Lý, tiến kịp và vượt Bắc Lý”. Phong trào bắt đầu được nhân lên ở các tỉnh đồng bằng châu thổ sông Hồng. Trường phổ thông cấp II Ân Thi (Hưng Yên) trồng cấy thí điểm hai mẫu lúa, gieo trồng hai trăm loại cây ở vườn trường. Trường phổ thông cấp II Bích Sơn (Hà Bắc) làm 10 tấn phân xanh, trồng 3.400 gốc sắn, 400 cây ăn quả. Trường Đại học sư phạm Hà Nội phát động phong trào “Tiến mạnh theo Bắc Lý”…

Trống Bắc Lý ngân vang khắp vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, xa hơn nữa tới tận các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lai Châu... (Việt Bắc, Tây Bắc) và các vùng Khu IV. Những khẩu hiệu “Không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có chủ nghĩa xã hội” xuất hiện ở các trường sở, thư viện, thôi thúc hàng vạn học sinh, sinh viên vượt mọi khó khăn ra sức miệt mài học tập, nghiên cứu. Năm học 1962-1963, số học sinh tốt nghiệp cao hơn năm học 1961-1962 là 6,5%. Hằng năm khoảng 5000 sinh viên đại học và 13.000 học sinh trung học chuyên nghiệp ra trường. Việc tuyển sinh vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp vẫn đạt và vượt mức kế hoạch nhà nước đề ra. Trong quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và đội ngũ cán bộ quản lý các ngành, nghề trong xã hội, Đảng, Nhà nước đề ra chính sách tăng cường thành phần cốt cán công - nông - binh, ưu tiên cho người dân tộc thiểu số và người miền Nam tập kết, giáo dục, bồi dưỡng toàn diện, không ngừng nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức xã hội chủ nghĩa, đảm đương tốt mọi nhiệm vụ được giao. Nhờ đó, trong những năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược, Đảng và Nhà nước ta đã đào tạo được đội ngũ trí thức có đức có tài, góp phần cùng toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cung cấp cho lực lượng vũ trang những chiến sĩ có tri thức văn hoá, khoa học.

Cùng với các phong trào thi đua của các ngành kinh tế - xã hội, Bộ Quốc phòng đã phát động phong trào thi đua “Ba nhất” (giỏi nhất, đều nhất, nhiều nhất) trong các lực lượng vũ trang nhân dân. Tại buổi phát động phong trào thi đua, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam nhấn mạnh: “Thi đua “Ba nhất” là tiếng kèn thúc giục cán bộ và chiến sĩ chúng ta vì lợi ích của công cuộc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tiến lên chiếm lĩnh những đỉnh cao mới của khoa học, kỹ thuật”2.
_____________________________________
1. Báo Nhân Dân ngày 19-10-1961.
2. Phong trào Ba nhất, Báo Quân đội nhân dân ngày 11-5-1961.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:02:52 pm

Phong trào thi đua “Ba nhất” được đại đội 2 pháo binh (đoàn Vinh Quang) dẫn đầu thực hiện đạt nhiều thành tích xuất sắc và nhanh chóng lan toả thành một cao trào thi đua trong các lực lượng vù trang nhân dân. Đại đội bộ binh Lê Hồng Phong (Quân khu IV) ba năm liền giữ vững ngọn cờ “đại đội khá nhất” lá cờ đầu phong trào “Ba nhất” của Quân khu IV năm 1961. Đại đội 2 (Quân khu Tả ngạn) lập thành tích cao nhất trong đại hội kiểm tra kỹ thuật chuyên ngành toàn quân về khoa mục làm cầu quân sự. Đại đội 2 (Bộ Tư lệnh Thông tin) nêu cao khẩu hiệu “Vượt núi, băng sông giữ vững mạch máu giao thông an toàn, thông suốt”, ngày đêm bám trụ mạng lưới thông tin, không để xảy ra sự cố kỹ thuật, trở thành lá cờ đầu của binh chủng trong hai năm liền. Đại đội 16 ĐKZ (Quân khu Tả ngạn) ba năm liên tục giữ cờ “Đại đội khá nhất”, ba năm kiểm tra khoa mục kỹ thuật và bắn đạn thật đạt nhất quân khu...

Ngày 12-6-1961, tiếp sau phong trào thi đua “Ba nhất”, Quân uỷ Trung ương tiếp tục mở cuộc vận động “Xây dựng quân đội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy hiện đại” trong toàn quân. Nội dung cuộc vận động bao gồm các mặt: rèn luyện ý chí chiến đấu, nâng cao lập trường giai cấp, cải tiến kỹ thuật; chấp hành điều lệnh, điều lệ, rèn luyện tác phong, lao động sản xuất và tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí; phòng gian, giữ bí mật. Những nội dung đó nhằm động viên mọi nhân tố tích cực, mọi lực lượng thực hiện tốt nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng về nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, tạo nên khí thế cách mạng mới trong xây dựng và trong chiến đấu. Đó cũng là nội dung phấn đấu để đưa phong trào “Ba nhất” tiến lên một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc hơn nữa.

Phong trào thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của các cấp các ngành kinh tế - xã hội trên miền Bắc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành những vần thơ mộc mạc khẳng định niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng của các tầng lớp nhân dân ta tại Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua cuối năm 1961.

“Công nhân phất cao ngọn cờ duyên hải,
Nông dân phất cao ngọn cờ đại phong,
Quân đội anh hùng phất cao ngọn cờ “ba nhất”
Công- nông- binh đại thi đua, đại đoàn kết,
Chủ nghĩa xã hội nhất định đại thành công
Bắc - Nam nhất định sẽ thống nhất non song một nhà”
1.

Để đẩy nhanh nhịp độ phát triển công, nông nghiệp, cải thiện sinh hoạt đi lại của nhân dân và củng cố quốc phòng, Đảng, Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng một số ngành kinh tế khác.

Ngành xây dựng cơ bản, trong hai năm 1962-1963, Nhà nước tiếp tục giành 86,9% vốn đầu tư vào khu vực sản xuất, trong đó công nghiệp chiếm 43,5%, nông nghiệp 22,6%, thuỷ lợi 10%. Dự án thi công 143 công trình trên hạn ngạch có hơn một nửa là công trình sản xuất và công trình dân dụng. Ngành công nghiệp khẩn trương thi công hoàn thiện 10 hạng mục công trình: hệ thống lò cao số 1 khu gang thép Thái Nguyên, hai nhà máy điện Cao Ngạn, Uông Bí, mở rộng Nhà máy xi măng Hải Phông, phân xưởng sợi Nhà máy dệt 8-3, Nhà máy hoa quả để đưa vào sản xuất. Ngành công nghiệp nhanh chóng xây dựng hoàn thiện bảy công trình thuỷ lợi: âu thuyền sông Vân, trạm bơn La Khê, hồ chứa nước Khuôn Thần, Đại Lải... Một số tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình đã giành từ 40% đến 50% vốn xây dựng cơ bản của địa phương vào thuỷ lợi. Tỷ trọng vốn đầu tư vào giao thông vận tải cũng tăng từ 11,9% năm 1962 lên 15,5% năm 1963. Công trình dân dụng phấn đấu xây dựng thêm khoảng 25 vạn mét vuông nhà ở và hơn một vạn mét vuông trường học.

Về giao thông vận tải, cơ cấu mạng đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển được khôi phục và xây dựng tương đối hoàn chỉnh phục vụ được yêu cầu phát triển và giao lưu kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng, chi viện cho miền Nam. Ta đã khẩn trương sửa chữa và khôi phục đoạn đường sắt phía nam Hà Nội - đoạn cầu Hàm Rồng đến Vinh, cầu Giác đến Nghĩa Đàn. Đoạn đường sắt ở Thái Nguyên, Bắc Giang, Uông Bí, Na Dương, Kỳ Lừa cũng được sửa chữa, nâng cấp. Ta cải tạo đường sắt Hải Phòng, Lào Cai, Hà Nội nối với biên giới Việt - Trung, tăng thêm các đầu máy và toa xe chở apatít, xăng dầu và hành khách.

Song song với đường sắt, ta mở thêm đường ô tô đến một số huyện vùng xa, vùng sâu và một số đường cấp phối ở nông thôn; phát triển rộng rãi các phương tiện vận chuyển như xe công nông, xe cải tiến để giải phóng đôi vai của người lao động ở các hợp tác xã, công trường. Ngành đường sông đã nạo vét một số luồng lạch chính nối với Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Bắc Giang. Lực lượng thuyền nan, thuyền gỗ vận tải phát triển cùng với phương tiện xe cơ giới, cải tiến phương tiện bốc dỡ giải phóng hàng nhanh ở các bến bãi trọng điểm. Nhờ đó, việc tiếp nhận hàng của các nước anh em giúp đỡ cũng như việc vận chuyển hàng hoá trong nước đến các vùng được nhanh gọn và vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao.
_____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.10, tr. 375.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:03:16 pm

Với chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm, trong ba năm (1961-1963) mạng lưới đường giao thông quốc gia dành cho xe cơ giới, mạng lưới đường nông thôn đồng bằng, miền núi (bán cơ giới) từ Tây Bắc đến Đông Bắc, từ Khu III đến Khu IV được mở mang, tu bổ. Hầu hết các đầu mối giao thông các nhánh đường vận chuyển quan trọng phục vụ cho quốc kế dân sinh và phục vụ quốc phòng, an ninh đã được nối liền tương đối hoàn chỉnh, tạo thuận lợi cho việc cơ động lực lượng và chi viện miền Nam.

Dựa trên cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển, ngành vận tải và ngành bưu điện đã phục vụ kịp thời nhu cầu giao lưu và phát triển kinh tế, văn hoá, góp phần cải thiện cuộc sống vật chất và tinh thần nhân dân, đáp ứng cơ bản yêu cầu chỉ đạo của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam.

Trong ba năm (1961-1963), sở dĩ công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải... đạt được bước tiến quan trọng như trên là do sự hỗ trợ tích cực có hiệu quả của các ngành thương nghiệp, ngân hàng, ngoại thương.

Xuất phát từ phương hướng mở rộng giao lưu hàng hoá, phục vụ tốt công cuộc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thục đẩy sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phát triển, góp phần cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, củng cố quan hệ sản xuất mới và hoàn thiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, ngành thương nghiệp quốc doanh trong hai năm 1961-1962 đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường, đạt 95,2% tổng mức lưu chuyển bán buôn (so với 93% năm 1960) và 60% tổng mức lưu chuyển bán lẻ (so với 51% năm 1960). Trong năm 1963 và những năm tiếp theo của kế hoạch năm năm lần thứ nhất, nhà nước chỉ đạo chặt chẽ hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa từ Trung ương đến địa phương, tổ chức thu mua, phân phối hàng hoá công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... đến tận cơ sở sản xuất và người tiêu dùng, các mặt hàng công nghiệp thiết yếu như than đá, xăng dầu, xi măng, sắt thép, phân bón, hoá chất, ngành thương nghiệp có kế hoạch hiệp đồng, tổ chức thu mua, cung cấp đủ theo chỉ tiêu của nhà nước cho các ngành xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, bưu điện, điện năng, nông nghiệp... Các mặt hàng nông sản thực phẩm như trâu, bò, lợn, gà, cá rau, gai, cói, chè... ngành thương nghiệp chủ động hiệp đồng thu mua đạt 100% chỉ tiêu của nhà nước giao cho; tổ chức cung cấp thẳng tới các khu công nghiệp, các thành phố, các nhà ăn tập thể, mở mang thêm mạng lưới cửa hàng mua bán ba cấp (trung ương, tỉnh, huyện) vươn tới làm chủ trong kinh doanh phân phối, góp phần ổn định giá cả thị trường. Trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất, số cửa hàng bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh tăng 134% (so với năm 1960), trong đó cửa hàng lương thực tăng 93,3%, thực phẩm tăng 9,5%, cửa hàng sách báo tăng 6,3%, cửa hàng ăn uống công cộng tăng 84,4%, hệ thống cửa hàng hợp tác xã mua bán tăng 33%... Hoạt động của thương nghiệp thời kỳ này bảo đảm ổn định thị trường nội địa, cung ứng hàng hoá thiết yếu theo định lượng, góp phần bình ổn đời sống nhân dân. Những bước tiến vững chắc của ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa được phát huy, có tác dụng tốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngành ngân hàng, tài chính, ngoại thương do nhà nước độc quyền quản lý hoạt động tích cực, thiết thực phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng hậu phương miền Bắc. Ngân hàng, tài chính dựa trên tổng ngân sách nhà nước đã duyệt, chủ động đầu tư cho kế hoạch quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - văn hoá, nhất là các ngành công nghiệp thiết yếu và nông nghiệp; đồng thời điều tiết cân đối giữa thu và chi nhằm bình ổn giá cả. Ngoại thương tranh thủ nguồn vốn viện trợ từ bên ngoài, đặc biệt là của các nước xã hội chủ nghĩa để xây dựng đất nước.

Kinh tế - xã hội phát triển là cơ sở để Đảng, Nhà nước nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân lao động. Trong năm 1963, nhà nước đưa quỹ bảo hiểm xã hội lên cao hơn năm trước 10,5%, giải quyết cho 28.000 người có việc làm thường xuyên, 73.000 lượt người có việc làm từng vụ. Công tác y tế, phòng bệnh cũng có bước phát triển. Ta xây dựng thêm 22 bệnh viện (tăng 6,4% so với năm 1962). Các bệnh xá huyện, xã được tăng cường hơn 700 bác sĩ, y sĩ, thành lập thêm các đội tiêm phòng dịch, phấn đấu giảm tỷ lệ tử vong xuống thấp nhất vì các bệnh sốt rét, tả, lỵ... bảo đảm sức khoẻ cho nhân dân.

Trong những ngày tháng này, các tầng lớp nhân dân miền Bắc từ công nhân, nông dân, quân đội, trí thức đến các đoàn thể xã hội khác, luôn luôn hướng về miền Nam với tinh thần tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả vì thống nhất Tổ quốc, đã lao động quên mình trên đồng ruộng, nhà máy, xí nghiệp, nông trường, công trường, bãi tập, sản xuất ra nhiều của cải vật chất và thuần thục chiến, kỹ thuật để ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, cán bộ đảng viên các cấp, giữ những trọng trách trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương đa số đã tỏ rõ bản lĩnh và năng lực của mình, hoàn thành mọi nhiệm vụ. Nhưng còn một số cán bộ, đảng viên do trình độ năng lực hạn chế, lại không thường xuyên tự tu dưỡng rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, xa rời quần chúng v.v... gây cản trở tới hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch và nhịp độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:04:01 pm

Nắm bắt những khuyết điểm, nhược điểm trong công tác quản lý kinh tế, tài chính của các cấp, các ngành, ngày 26-4-1962, Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu trong ngành công nghiệp”1. Yêu cầu của cuộc vận động trong bốn năm (1962-1965) là thực hiện một cuộc chuyển biến cách mạng trên các mặt tư tưởng và tổ chức, đưa công tác quản lý lên một trình độ mới, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao đời sống nhân dân.

Thực hiện cuộc vận động “ba xây ba chống”, đầu tháng 6-1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng mở cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ “bốn tốt” nhằm xây dựng nội bộ đảng thật trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Nội dung cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “bốn tốt” gồm: Lãnh đạo tốt sản xuất, lãnh đạo tốt việc chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước, quan tâm đến đời sống của quần chúng và làm tốt công tác vận động quần chúng, làm tốt công tác củng cố phát triển đảng.

Cuộc vận động được triển khai trong toàn Đảng. Nhiều đảng uỷ, chi uỷ, chi bộ được kiện toàn, tác phong công tác ở cơ sở có nhiều chuyển biến tốt. Tính tích cực, vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ đảng được nâng cao. Đó là động lực quan trọng thúc đẩy tiến trình xây dựng kinh tế củng cố quốc phòng và kháng chiến chống Mỹ xâm lược.

Tháng 7-1963, tại Hà Nội, Đại hội những người xuất sắc trong phong trào xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch năm năm lần thứ nhất đã được tổ chức. Hơn 600 đại biểu đại diện cho hàng triệu đoàn viên thanh niên xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch trên khắp các tỉnh, thành miền Bắc đã về dự. Đại hội đã sơ kết bước một phong trào thi đua trong hai năm và đề ra phương hướng cho thời kỳ tiếp theo. Với tinh thần “Đâu Đảng cần, thanh niên có; việc gì khó thanh niên làm”, hàng vạn nam nữ đoàn viên thanh niên ở các ngành kinh tế - xã hội đã hăng hái đăng ký thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, xây dựng, nêu cao tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với việc ra sức phát triển kinh tế - xã hội, trong thời gian này, Đảng, Nhà nước ta cũng đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tiếp tục nâng cao địa vị quốc tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân toàn thế giới đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta.

Trong năm 1961, nước ta đặt quan hệ ngoại giao với các nước cộng hoà Ghinê, Mali, vương quốc Marốc, đặc biệt là với Cuba, lá cờ đầu của chủ nghĩa xã hội ở Tây bán cầu. Trung tuần tháng 8-1961, đoàn đại biểu Chính phủ ta do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan. Từ năm 1963 đến đầu năm 1965, nước ta đặt đại sứ ở Angiêri, Iêmen, Cônggô, Gana, Inđônêxia và cộng hoà Arập thống nhất. Đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ xâm lược, ngày 3-8-1962, Uỷ ban đoàn kết Á - Phi của Liên Xô ký tuyên bố chung với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên án tội ác xâm lược của Mỹ, bày tỏ sự đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân ta. Các nước thế giới thứ ba ở châu Á như Lào, Campuchia, Miến Điện, Thái Lan, Malaixia, Ấn Độ; ở châu Phi, Mỹ Latinh như Angiêri, Ănggôla, Nicaragoa, Vênêduyêla... đều đồng tình ủng hộ nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Lúc này trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa - nhất là Liên Xô, Trung Quốc đã xuất hiện những bất đồng, Liên Xô theo đường lối đối ngoại cùng tồn tại hoà bình giữa các chế độ xã hội chính trị khác nhau, giữ cách mạng trong thế phòng ngự. Mâu thuẫn Liên Xô, Trung Quốc phát sinh và ngày càng gay gắt. Chiến lược đấu tranh chống đế quốc Mỹ của các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa khác với chiến lược của Đảng ta. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tự xác định nhiệm vụ cho mình là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống đế quốc Mỹ, kiên trì chống những mặt tiêu cực trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố sự đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Ngày 10-2-1963, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra tuyên bố đề nghị các đảng anh em đình chỉ công kích lẫn nhau trên báo chí và đài phát thanh, họp nhau đề khắc phục bất đồng.
_____________________________________
1. Còn gọi là cuộc vận động “ba xây ba chống”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:04:41 pm

Để tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình, góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng và các nước anh em, đầu tháng 12-1963 Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp phân tích đặc điểm tình hình thế giới và nhiệm vụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nêu rõ lập trường, quan điểm của Đảng ta trên một số vấn đề có tính nguyên tắc về chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hội nghị nhận định: Cách mạng thế giới đang ở thế tiến công và tiến công liên tục vào chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Phương thức đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới lúc này là phải đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đi đôi với cuộc đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, Đảng ta ra sức đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc, chống khuynh hướng chia rẽ và những hành động biệt phái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ phong trào cộng sản quốc tế, bảo vệ Liên Xô, Trung Quốc, bảo vệ cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa chân chính và với sách lược mềm dẻo, Đảng ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác và sự ủng hộ nhiệt tình của các đảng cộng sản, công nhân quốc tế, thực hiện được trên thực tế mặt trận thế giới chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh sự đúng đắn về đường lối đối nội, đối ngoại và thái độ đấu tranh có lý, có tình, đoàn kết, chân thành, trong sáng của Đảng và nhân dân ta.

Trong điều kiện tình hình quốc tế và trong nước vô cùng phức tạp, tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên nhất trí với đường lối, quan điểm của Đảng, đoàn kết chung quanh Ban Chấp hành Trung ương đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên trì phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng, một lòng, một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhưng cũng có một số ít cán bộ, đảng viên dao động, tỏ ra hoài nghi, thiếu tin tưởng vào đường lối của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương mà đứng đầu là Bộ Chính trị đã lãnh đạo và chỉ đạo cho toàn đảng phê phán những quan điểm và hành động sai trái nói trên, đồng thời giáo dục cho cán bộ, đảng viên thường xuyên trau dồi phẩm chất cách mạng, bồi dưỡng ý chí chiến đấu, kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, cùng bè lũ tay sai, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.

Sự thống nhất, đoàn kết trong đảng, sự đồng tình giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bè bạn quốc tế là nhân tố cực kỳ quan trọng để nhân dân ta giành được thắng lợi trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giải phóng miền Nam.

Như vậy, sau ba năm (1961-1963) thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, miền Bắc có những biến đổi căn bản: Xoá bỏ được quan hệ sản xuất phong kiến và phương thức bóc lột của bọn đế quốc, địa chủ đã kìm hãm nền kinh tế nước nhà hàng thế kỷ. Ta đã thiết lập và củng cố vững chắc trên miền Bắc một quan hệ sản xuất mới tiên tiến - quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sức sản xuất phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động ngày càng được cải thiện. Thắng lợi này đã tạo ra sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Nhờ tính ưu việt của chế độ mới, giải phóng giai cấp nông dân, công nhân và những người lao động khác khỏi bị bóc lột, phát triển giáo dục văn hoá y tế, đào tạo một thế hệ thanh niên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, có giác ngộ chính trị, thể lực tốt, củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn dân, Đảng, Nhà nước ta đã động viên tới mức cao nhất sức người, sức của cho cuộc kháng chiến và cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”1. Đó là cơ sở vững chắc, là nền tảng để nhân dân ta hoàn thành thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ thắng lợi miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thỏi tiến hành cuộc kháng chiến, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất Tổ quốc.
_____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.11, tr.224.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:47:09 pm

II. CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG, CHI VIỆN CHIẾN TRƯỜNG

Miền Bắc - hậu phương lớn của cả nước được xây dựng toàn diện, củng cố vững chắc, kinh tế - xã hội (1960-1965) phát triển đã tạo ra điều kiện thuận lợi để Đảng và Nhà nước ta củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến ở miền Nam.

Ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về nhiệm vụ quân sự trong năm năm (1961-1965) và phương hướng nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị nhận định:

Với những điều kiện thuận lợi về chính trị - kinh tế, xã hội ở trong nước và trên thế giới, ta còn nhiều khả năng giữ được hoà bình ở miền Bắc. Đó là điều kiện rất thuận lợi để quân và dân ta xây dựng hậu phương, củng cố quốc phòng, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam. Vì vậy, trong thời gian này “Việc bảo vệ hoà bình, bảo đảm công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc là nhiệm vụ chủ yếu nhất”1.

Đối với cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, trong vòng năm năm tới quân và dân ta trên tuyến đầu Tổ quốc trực tiếp chống sự xâm lược và nô dịch của đế quốc Mỹ phải chuẩn bị đầy đủ về tinh thần và lực lượng, bảo đảm khi có thời cơ sẽ tiến lên giành thắng lợi to lớn, làm xoay chuyển tình thế có lợi cho cách mạng. Bộ Chính trị cho rằng, trong quá trình đấu tranh phải lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị hành động khôn khéo để tránh một cuộc can thiệp vũ trang lớn của đế quốc Mỹ”2, cố gắng kiềm chế âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của địch. Bộ Chính trị nhất trí thông qua nhiệm vụ quân sự năm năm lần thứ hai (1961-1965) do Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chuẩn bị:

- Xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng trên miền Bắc. Chú trọng tăng cường sức mạnh của lục quân, xây dựng bộ đội phòng không và phát triển cơ sở của không quân, hải quân. Hoàn thành việc chính quy hoá và đấy tới một bước hiện đại hoá, đảm bảo cho quân đội ta có đầy đủ và với một tỉ lệ tương xứng các thành phần binh chủng, vững chắc về chính trị, có sức chiến đấu mạnh, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào.

- Xây dựng ở miền Nam một lực lượng vũ trang tập trung đủ mạnh, được đảm bảo tốt về trang bị kỹ thuật, cung cấp vật chất và chỉ đạo tác chiến. Bộ đội địa phương huyện tổ chức đến trung đội, đại đội. Bộ đội tập trung tỉnh tổ chức đến đại đội, tiểu đoàn. Xây dựng 10 đến 15 trung đoàn mạnh về xung lực, hoả lực và một số đơn vị pháo hỗn hợp có khả năng phá công sự, diệt xe tăng, bắn máy bay của địch đến một mức độ nhất định.

- Giúp đỡ các lực lượng vũ trang cách mạng Lào về đào tạo cán bộ, củng cố xây dựng vùng giải phóng và phát triển lực lượng vũ trang của bạn. Khi bạn có yêu cầu, tổ chức bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp chiến đấu với bộ đội bạn.

- Kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với các lực lượng vũ trang. Trên miền Bắc, chấn chỉnh thêm một bước các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy ở Bộ Quốc phòng và các quân khu, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội chính quy, hiện đại và yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam và chiến trường Lào, đồng thời tích cực chuẩn bị để trong trường hợp chiến tranh mở rộng sẽ trên cơ sở bộ tư lệnh quân khu tổ chức các bộ tư lệnh dã chiến chỉ huy các binh đoàn chủ lực và bộ tư lệnh quân sự địa phương. Thành lập các cơ quan và đơn vị làm nhiệm vụ quốc tế ở chiến trường Lào...

- Tích cực xây dựng dân quân, tự vệ và lực lượng hậu bị, duy trì lực lượng vũ trang nhân dân trong thời bình cũng như trong thời chiến.

Quân đội thường trực duy trì số quân thích hợp gồm các thành phần của một quân đội hiện đại, có biên chế và trang bị đáp ứng được nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường nước ta và trên bán đảo Đông Dương.

Căn cứ nhiệm vụ nói trên, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đã giao cho Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu bổ sung kế hoạch chiến lược bảo vệ miền Bắc, đề phòng chiến tranh. kế hoạch này được soạn thảo từ kế hoạch quân sự năm năm lần thứ nhất (1955-1960) với hai biểu biên chế khác nhau: thời bình 15 vạn quân, thời chiến 65 vạn quân. Năm 1962, Nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ký kết trang bị cho quân đội ta. Nhưng trong thời gian này miền Bắc có hoà bình, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định số quân thường trực là 17 vạn (tương ứng 1% dân số miền Bắc). Khi Mỹ mở rộng chiến tranh, trực tiếp uy hiếp miền Bắc thì số quân thường trực sẽ tăng lên 26 vạn.
_____________________________________
1, 2. Nghị quyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25-2-1961, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:48:29 pm

Lực lượng dân quân, tự vệ - đội hậu bị hùng hậu của Quân đội nhân dân Việt Nam, việc xây dựng và phát triển lực lượng ở nông thôn đồng bằng và miền núi, mỗi xã có từ 100 đến 300 dân quân, du kích. Ở thành phố, thị xã (bao gồm các khu công nghiệp, công sở nhà nước) tự vệ được xây dựng theo các đơn vị hành chính với số lượng thích hợp vừa bảo đảm sản xuất, vừa trực chiến bảo vệ công xưởng và địa bàn được phân công.

Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đã phát triển thành một cuộc chiến tranh cách mạng, Bộ Chính trị quyết định giao cho Quân uỷ Trung ương, cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng trong quân đội, nhiệm vụ chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam. Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai (1961-1965) của Quân uỷ Trung ương là một bước cụ thể hoá nhiệm vụ quân sự do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra.

Quán triệt nhiệm vụ quân sự của Bộ Chính trị, trong những tháng đầu năm 1961, các tổ chức đảng, tổ chức giáo dục cho toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, các ngành, các giới thấy rõ việc củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân là nhiệm vụ chung của mọi người. Trong đường lối, chính sách của mình, Đảng, Nhà nước luôn luôn kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, xã hội với yêu cầu xây dựng và củng cố quốc phòng, an ninh.

Những năm đầu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân miền Bắc đã góp công sức, tiền của cùng bộ đội xây dựng hệ thống phòng thủ quốc gia, cải tạo và mở mang nhiều tuyến giao thông chiến lược, tiếp tục phục hồi và mở rộng hệ thống sân bay, cầu cảng... Hầu hết hệ thống nhà máy, công trường, nông trường và hệ thống đương giao thông, bưu điện được bố trí đảm bảo cho phát triển kinh tế thời bình và đáp ứng nhu cầu quân sự khi xảy ra chiến tranh.

Căn cứ vào kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai của Quân uỷ Trung ương, tháng 3-1961, Bộ Quốc phòng giao cho Bộ Tổng tham mưu soạn thảo kế hoạch xây dựng, huấn luyện quân đội trong những năm 1961-1963, chấn chỉnh thêm một bước tổ chức biên chế, cải tiến trang bị của toàn quân nhằm nâng cao không ngừng sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Xuất phát từ nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu ngày càng cao, trên cơ sở tổng số quân thường trực đã được ấn định, Bộ Tổng tham mưu đi sâu chỉ đạo xây dựng kế hoạch cơ bản lâu dài bảo vệ miền Bắc với phương châm tác chiến chiến lược là: Phòng thủ tích cực, đánh lâu dài, bố trí và sử dụng lực lượng trên miền Bắc trên bốn hướng lớn Việt Bắc, Tây Bắc, Quân khu III, Quân khu IV. Triển khai từng bước kế hoạch phòng thủ, xây dựng công trình chiến đấu trọng yếu ở giới tuyến, sâu trong nội địa và dọc bờ biển, xác định vị trí để xây dựng hệ thống chỉ huy thông tin, chỉ huy kỹ thuật, bố trí hậu phương, căn cứ hậu cần, phối hợp với các ngành của Chính phủ khôi phục và mở rộng hệ thống giao thông chiến lược, chiến dịch; đồng thời chỉ đạo thực hiện hai loại biên chế đối với các đơn vị trong toàn quân. Biên chế thời bình gồm các đơn vị không đủ số quân theo quy định và các đơn vị khung gồm cán bộ và nhân viên kỹ thuật. Biên chế thời chiến đủ số quân và trang bị cho các đơn vị bộ binh sư đoàn 308 trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh; sư đoàn 325, sư đoàn 341, trung đoàn 244 (Quân khu IV); lữ đoàn 316, 335 và trung đoàn 148 (Quân khu Tây Bắc); bộ đội phòng không, không quân, hải quân làm nhiệm vụ thường trực chiến đấu và huấn luyện. Số cán bộ ngoài biên chế được dự trữ ở các cơ quan, nhà trường trong quân đội. Bộ phận cán bộ, chiến sĩ phục viên về địa phương và chuyển sang các ngành kinh tế, văn hoá được đăng ký vào ngạch dự bị và tăng cường cho lực lượng dân quân, tự vệ, khi có nhu cầu sẽ gọi trở lại quân đội.

Quân chủng lục quân1 được tăng cường biên chế thống nhất và bổ sung trang bị kỹ thuật tương đối hiện đại. Để khắc phục một số mặt hạn chế trước đây về tổ chức, trang bị, đặc biệt là về mặt phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự, Quân chủng lục quân đã chú trọng công tác nghiên cứu khoa học quân sự, huấn luyện cách đánh nhằm vào đối tượng tác chiến mới, trên những địa hình phức tạp, trong những điều kiện thời tiết khác nhau.

Binh chủng bộ binh tổ chức thành sáu sư đoàn, sáu lữ đoàn, ba trung đoàn độc lập trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh2 và các tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực trực thuộc quân khu; các đại đội, tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh, huyện. Mỗi sư đoàn biên chế 9.590 người, tổ chức thành bốn trung đoàn (ba trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh) và một số tiểu đoàn binh chủng và phục vụ trực thuộc sư đoàn. Đầu kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai, các sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật nhờ sự chi viện kỹ thuật quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa chủ yếu là Liên Xô, Trung Quốc, vũ khí, trang bị được tăng cường cả về số lượng, chất lượng3. Hầu hết các loại súng tự động và bán tự động như AK47, CKC đã được trang bị thay thế cho các loại súng trường MAS, mút cơ tông, cạcbin. Các sư đoàn, trung đoàn bộ binh huấn luyện cách đánh vận động tiến công trên mọi địa hình, phục kích, tập kích địch hành quân càn quét, đổ bộ đường không hoặc đóng quân trong các căn cứ có công sự vững chắc.
_____________________________________
1. Quân chủng lục quân gồm các binh chủng: bộ binh, pháo binh, công binh, đặc công, thông tin, thiết giáp, hoá học, vận tải.
2. Sáu sư đoàn: 308, 304, 312, 320, 325, 341, sáu lữ đoàn là: 316, 305, 330, 324, 350, 335, ba trung đoàn độc lập là: 50, 246, 148.
3. Vũ khí trang bị của một sư đoàn: 5.000 súng trường, AK, RPD, 174 khẩu pháo, cối, 40 pháo cao xạ 37 ly và 20 ly, 190 ôtô, 250 máy thông tin, 300 km dây điện thoại.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:49:22 pm

Binh chủng pháo binh tổ chức thành 70 tiểu đoàn và hơn 100 đại đội, trang bị trên 1.000 khẩu pháo xe kéo, 1700 cối và ĐKZ. Bốn lữ đoàn pháo binh (364, 368, 374, 378) trực thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh được tăng cường trang bị pháo tầm xa (122, 152) có khả năng chi viện hoả lực trên các hướng chiến dịch. Để nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật trong chiến đấu, bộ đội pháo binh xây dựng, huấn luyện cách đánh hiệp đồng binh chủng và cách đánh độc lập, bắn ngắm trực tiếp và bắn gián tiếp, bắn bằng phương pháp bao bọc hay đánh dấu điểm chạm,v.v... nhằm tiêu diệt, chế áp quân địch, hỗ trợ cho bộ binh tiến công đánh chiếm mục tiêu.

Binh chủng công binh tổ chức thành bảy trung đoàn trực thuộc Cục Công binh, một số tiểu đoàn trực thuộc quân khu, sư đoàn bộ binh, được tăng cường trang bị nhiều máy móc và phương tiện kỹ thuật tương đối hiện đại (máy ủi, ca nô, cầu, phà và các loại xe chuyên dùng), tổ chức huấn luyện mở đường, thông tuyến kịp thời, bảo đảm cho các sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng khác cơ động trên từng hướng chiến dịch.

Bộ đội đặc công gồm ba tiểu đoàn chuyên trách làm nhiệm vụ huấn luyện bộ đội đặc công cho chiến trường miền Nam, tăng cường huấn luyện cách đánh cứ điểm, chi khu kho tàng, sân bay, cầu, cảng và các cơ quan đầu não của địch trong thị xã, thành phố.

Binh chủng Thông tin thành lập các trung đoàn và các trung tâm thông tin trực thuộc Cục Thông tin liên lạc, học tập cách thu phát các mã hiệu thông tin (vô tuyến), cách rải dây (hữu tuyến), nhanh, bảo đảm an toàn các chỉ thị, mệnh lệnh đã thu, phát, đồng thời chống phá các thủ đoạn gây nhiễu của địch.

Bộ đội vận tải tổ chức, sắp xếp lại thành ba trung đoàn (225, 235, 245) dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phòng Giao thông quân sự Bộ Tổng tham mưu. Các đơn vị vận tải trực thuộc Bộ, quân khu, binh chủng, sư đoàn bộ binh, được tăng cường xe vận tải cơ giới, tàu thuỷ, xà lan, học tập, huấn luyện sử dụng thành thạo các phương tiện vận chuyển và vận chuyển trong mọi điều kiện, trên mọi địa hình theo yêu cầu của phương thức tác chiến mới.

Quân chủng Phòng không - Không quân bao gồm Binh chủng Pháo cao xạ, Binh chủng ra đa, Binh chủng Không quân và một số cán bộ khung của trung đoàn tên lửa mới hình thành. Tuy mới được hợp nhất từ Binh chủng Phòng không và Cục Không quân dân dụng (10-1963), quân chủng còn thiếu thốn nhiều mặt (nhất là sĩ quan điều khiển và các phương tiện chuyên dùng), nhưng Bộ Tư lệnh quân chủng động viên cán bộ, chiến sĩ ra sức học tập, nhanh chóng nắm bắt và sử dụng thành thạo trang thiết bị của mình, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

Binh chủng cao xạ huấn luyện cách thiết kế và bố trí trận địa hoả lực trên các loại địa hình, cách nhận dạng các loại máy bay địch, hợp đồng thao tác bắn, bắt mục tiêu nhanh, kịp thời. Binh chủng ra đa học tập cách phát hiện mục tiêu từ xa, từ nhiều hướng, học tập cách xử lý chống nhiễu và khi thời tiết xấu.

Binh chủng Không quân tổ chức thành ba trung đoàn (một trung đoàn tiêm kích, một trung đoàn vận tải, một trung đoàn huấn luyện), tranh thủ thời gian huấn luyện, vươn lên làm chủ vũ khí, khí tài hiện đại, tìm hiểu thủ đoạn của đối tượng tác chiến mới, sẵn sàng chiến đấu.

Bộ đội Hải quân được hợp nhất từ các đoàn Đ140 (tàu phóng lôi), đại đội 200 (tàu săn ngầm) và hai đoàn 130, 135 (tầu tuần tiễu)... với gần 100 tàu mặt nước các loại, có khả năng quản lý và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ mục tiêu từ vùng biển Đông Bắc tới Quân khu IV. Cùng với sự phát triển của các binh chủng, các quân cảng Bãi Cháy, Cửa Hội, Sông Gianh và một số đài, trạm kỹ thuật, trận địa pháo bờ biển, khu trú đậu, cầu tàu... lần lượt được xây dựng, bảo đảm chiến đấu của bộ đội hải quân. Tháng 1-1964, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân. Hải quân trở thành một quân chủng của quân đội ta và là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.

Các quân khu được điều chỉnh lại cho phù hợp với nhiệm vụ phòng thủ và chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương. Đầu năm 1964, Quân khu Tả ngạn và Quân khu Hữu ngạn hợp nhất thành Quân khu III1. Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng chỉ đạo Quân khu III triển khai tiếp kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai (1961-1965), nhanh chóng xây dựng Quân khu vững mạnh về mọi mặt, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng lực lượng và thế trận, xây dựng nền quốc phòng toàn dân đáp ứng mọi yêu cầu của tình hình mới.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nói trên, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu III đã cùng với các tỉnh uỷ, thành uỷ, chính quyền, đoàn thể địa phương, một mặt thường xuyên tiến hành vận động tuyên truyền, giáo dục sâu rộng nhiệm vụ cách mạng trước mắt và lâu dài cho các tầng lớp nhân dân trong quân khu; mặt khác, phát động toàn dân, toàn quân trong quân khu tích cực xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đẩy mạnh nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đánh thắng mọi hình thức chiến tranh xâm lược của địch.
_____________________________________
1. Gồm các tỉnh: Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Bắc, Hòa Bình, Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:50:00 pm

Lực lượng chủ lực của quân khu bao gồm sư đoàn 320, 304; lữ đoàn 330, 350..., trung đoàn 42, 50, 157... và một số đơn vị binh chủng kỹ thuật, bố trí trên địa bàn các tỉnh từ Hà Bắc, Hải Phòng, Hà Nội..: đến Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, huấn luyện bảo đảm khả năng phối hợp với chiến tranh nhân dân địa phương tác chiến ở các hướng phòng thủ của quân khu trên địa hình đồng bằng, ven biển và sẵn sàng cơ động chi viện cho các chiến trường làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.

Lực lượng dân quân, tự vệ được biên chế thành các đại đội trung đội ở hầu khắp các xã, huyện, xí nghiệp, công trường… tổ chức học tập, huấn luyện theo hướng vừa sản xuất vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ trị an địa phương.

Tháng 4-1964, Quân khu uỷ Quân khu III triển khai những nhiệm vụ quan trọng của Quân uỷ Trung ương giao:

- Hoàn thành kế hoạch phòng thủ và chuẩn bị chiến đấu của toàn quân khu. Thực hiện tốt và gọn việc điều chỉnh bố trí lực lượng theo đội hình tổ chức quân khu.

- Tiếp tục huấn luyện, xây dựng bộ đội tiến lên chính quy hiện đại phù hợp với khả năng và thực tiễn của ta, phù hợp với nhiệm vụ phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu của quân khu nhằm tăng cường sức chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của bộ đội.

- Cùng với cấp uỷ địa phương củng cố, nâng cao chất lượng chính trị, trình độ quân sự cho dân quân, tự vệ nhằm nâng cao khả năng tác chiến, bảo vệ trị an, đối phó có hiệu quả với hoạt động phá hoại của địch, đồng thời là lực lượng nòng cốt xung kích trong mọi công tác ở địa phương.

- Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng.

Căn cứ nhiệm vụ nói trên, Quân khu uỷ tập trung chỉ đạo ba nhiệm vụ cơ bản: Nhiệm vụ tác chiến, nhiệm vụ xây dựng lực lượng thường trực và hậu bị, nhiệm vụ chỉ đạo quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng.

Giữa năm 1963, hệ thống phòng thủ của quân khu bao gồm: hệ thống đường hầm, công sự, công trình quốc phòng trên địa bàn quân khu theo phương án tác chiến cơ bản chống chiến tranh xâm lược từ nhiều phía được xây dựng, hoàn thiện.

Quán triệt các nhiệm vụ chính trị - quân sự - kinh tế, của Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu, gần sáu vạn quân chủ lực và hơn một triệu dân quân, tự vệ trong quân khu đã kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Lực lượng vũ trang và bán vũ trang thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch “Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi xóm làng, xí nghiệp, khu phố, cơ quan là một pháo đài”, ngày đêm ra sức xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ở các vùng xung yếu ven biển, hải đảo và các trục đường giao thông quan trọng, thực hành huấn luyện và diễn tập, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, với tinh thần cảnh giác cao, dân quân, tự vệ các huyện miền núi Bắc Giang, quân và dân các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng đã phối hợp chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ các toán biệt kích thâm nhập bằng đường bộ, đường không, đường biển vào địa bàn quân khu. Đặc biệt, quân và dân tỉnh Ninh Bình do chuẩn bị tốt công tác phòng chống gián điệp, biệt kích, sẵn sàng chiến đấu cao, đêm ngày 1 rạng ngày 2-7-1961 đã nổ súng kịp thời, chính xác bắn rơi chiếc máy bay C47 của Mỹ, ngụy tại bãi biển Cồn Thoi (Kim Sơn), diệt và bắt 10 tên, thu toàn bộ vũ khí khí tài hoạt động. Việc tiêu diệt và bắt sống toàn bộ toán gián điệp, biệt kích ngụy do Mỹ huấn luyện, trang bị thả ra miền Bắc, chứng tỏ tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao của quân, dân tỉnh Ninh Bình, là kết quả bước đầu của việc xây dựng kế hoạch chiến lược bảo vệ miền Bắc theo tinh thần nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 2-1961.

Trên địa bàn Quân khu IV1, xuất phát từ đặc điểm tình hình nằm trên tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ngay từ những năm đầu của kế hoạch quân sự năm năm lần thứ nhất (1955-1960), Quân khu IV đã ra sức xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh để làm thất bại các hành động khiêu khích phá hoại của địch, đồng thời tích cực xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đáp ứng được với nhiệm vụ chiến đấu mới.

Bước vào năm 1961, khi kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương được triển khai, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu IV, một mặt, vừa lãnh đạo lực lượng vũ trang ba thứ quân luyện tập nâng cao sức mạnh chiến đấu; mặt khác, lãnh đạo quân và dân trong quân khu triển khai và củng cố hệ thống phòng thủ, lập nhiều phương án tác chiến phòng ngừa địch tiến công từ nhiều hướng đất liền, trên biển, trên không vào quân khu.

Với phương châm kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng các làng xã chiến đấu ở các vùng trọng điểm (ven biển, ven giới tuyến, trục đường quốc lộ quan trọng) với việc bố trí lực lượng ba thứ quân thành thế liên hoàn, dễ cơ động, sao cho khi xảy ra tác chiến, các đơn vị có thể đối phó kịp thời làm thất bại mọi hành động xâm lược của địch.
_____________________________________
1. Gồm các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và khu vực Vĩnh Linh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:50:35 pm

Tháng 7-1962, Đại hội đại biểu đảng bộ quân khu lần thứ hai vạch ra phương hướng nhiệm vụ cơ bản của các lực lượng vũ trang quân khu với tư tưởng chỉ đạo “đánh thắng trận đầu, bắn trúng, bắn rơi khi địch xâm phạm không phận, hải phận quân khu”.

Dưới sự chỉ đạo của quân khu, đầu năm 1963, lực lượng vũ trang nhân dân các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình mở cuộc vận động “xây dựng lực lượng hậu bị” nhằm củng cố và tăng cường chất lượng đội ngũ dân quân, tự vệ và bộ đội địa phương, thực hiện tốt công tác đăng ký huấn luyện quân dự bị. Đặc biệt, trên địa bàn Vĩnh Linh, nơi tiếp giáp với địch ở miền Nam, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh quân khu cùng đảng uỷ, chính quyền địa phương thống nhất chủ trương chỉ đạo các lực lượng vũ trang tăng cường cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, bình tĩnh không để địch khiêu khích, đồng thời hoàn thiện các phương án tác chiến, giữ thế chủ động. Cuối năm 1963, quân khu đã hoàn thành việc xây dựng ba tuyến phòng thủ cơ bản: tuyến phòng thủ giới tuyến, tuyến phòng thủ bờ biển và tuyến phòng thủ biên giới Việt - Lào.

Sau ba năm triển khai kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai, quân khu đã xây dựng được lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm: Lực lượng chủ lực quân khu có sư đoàn 325, 341, lữ đoàn 324... các đoàn 924, 925, 927, 22, 271... với hơn năm vạn quân được trang bị vũ khí cá nhân và hoả lực tương đối hiện đại. Các đơn vị được huấn luyện chiến thuật tiến công và phòng ngự, phản công cấp tiểu đoàn, trung đoàn trên các địa hình và trong công sự vững chắc, sát với thực tế chiến đấu ở chiến trường B, C. Lực lượng dân quân, tự vệ gần 60 vạn người, 825 xã đã xây dựng được trung đội và đại đội dân quân. Đội ngũ dân quân, tự vệ đông đảo này vừa là lực lượng xung kích trong lao động sản xuất, vừa là lực lượng quan trọng bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên các địa phương. Từ năm 1961 đến năm 1963, lực lượng dân quân, tự vệ Quân khu IV đã truy quét 95 toán gián điệp, biệt kích xâm phạm vùng biển, biên giới địa bàn quân khu. Nhiều gương điển hình trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu xuất hiện ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Các địa phương Kỳ Lợi (Hà Tĩnh), Cửa Hội (Nghệ An), đã được quân khu tặng danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”. Nổi bật nhất là dân quân xã Mai Thuỷ (Lệ Thuỷ, Quảng Bình) được Hội đồng Chính phủ tuyên dương “Đơn vị tiên tiến” năm 1962.

Quân khu Việt Bắc1, căn cứ địa của cách mạng, “thủ đô” của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau năm 1954, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, quân và dân trong quân khu đã tập trung sức lực, trí tuệ khôi phục nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Do đặc điểm vùng cao, đa số là đồng bào các dân tộc thiểu số, trình độ văn hoá, dân trí thấp, đến năm 1960, khu tự trị Việt Bắc vẫn chưa theo kịp các quân khu đồng bằng về xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá và cung cố quốc phòng an ninh, v.v…

Năm 1961, để thực hiện kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai (1961-1965) của Quân ủy Trung ương, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu đã đề ra chủ trương “xây dựng kinh tế đi đôi với củng cố quốc phòng; xây dựng quân đội củng cố quốc phòng kết hợp chặt chẽ với xây dựng kinh tế”, trong đó, đặc biệt chú trọng xây dựng bộ đội chủ lực quân khu, nâng cao sức mạnh chiến đấu tại chỗ và cơ động; đồng thời, ra sức phát triển lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc hậu phương, thực hiện chi viện sức người, sức của cho miền Nam, làm nghĩa vụ quốc tế ở Lào.

Lực lượng chủ lực của quân khu trong những năm 1961-1964 được Bộ Quốc phòng quy định 6.000 quân. Trung đoàn bộ binh 246 được biên chế khoảng 2.000 người, trang bị vũ khí, khí tài tương đối đầy đủ. Hai lữ đoàn 305, 368 (là khung huấn luyện) được biên chế khoảng 1.000 người. Số quân còn lại ở các trung đội, đại đội của 10 tỉnh, trường quân chính, quân khu Bộ...

Lực lượng dân quân, tự vệ tăng cường theo mức quy định hằng năm, lúc đông nhất (1964) khoảng 30 vạn, chiếm 9% dân số trong khu. Đội ngũ này được biên chế thành trung đội, đại đội, trong số đó có 6.000 người thuộc diện dự bị loại một, luôn sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ chiến đấu.

Lực lượng vũ trang ba thứ quân được huấn luyện sát với thực tế chiến đấu, sát với địa hình, đối tượng tác chiến. Bộ đội chủ lực huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh chủng, tác chiến độc lập, tác chiến trong điều kiện có chuẩn bị hoặc không được chuẩn bị, nhằm đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam và Lào. Dân quân, tự vệ huấn luyện thuần thục 5 môn kỹ thuật, hiệp đồng chíến đấu trên các địa bàn (liên xã, huyện), huấn luyện khoa mục bắn máy bay tầm thấp... do kết hợp tốt nhiệm vụ sản xuất với sẵn sàng chiến đấu, những năm 1961-1964, quân và dân trong quân khu đã giành được thắng lợi to lớn trong việc tiễu phỉ, trừ gian trong nội địa và tiêu diệt các toán biệt kích do Mỹ, ngụy thả xuống địa bàn Việt Bắc. Năm 1961, quân và dân tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Lào Cai... gọi hàng và bắt 5 toán thổ phỉ gồm 115 tên. Sau khi đập tan cuộc bạo loạn cướp chính quyền của bọn phỉ ở huyện Đồng Văn cuối năm 1959, quý một năm 1962, quân và dân Hà Giang lại cùng với quân và dân các tỉnh Cao Bằng, Lào Cai mở đợt truy quét toàn bộ hang ổ bọn phỉ ở Tây Côn Lĩnh, diệt và bắt 41 tên, thu nhiều tang vật. Các đợt truy quét thổ phỉ thắng lợi tạo đà cho quân và dân trong quân khu tiêu diệt các toán gián điệp do Mỹ - ngụy tung ra. Trong 3 tháng (4,5,7-1963), Mỹ - ngụy thả ba toán gián điệp xuống Khe Cót, Văn Bàn (Yên Bái), Bảo Thắng (Lào Cai), bị quân và dân hai tỉnh diệt năm tên, bắt mười hai tên. Năm 1964, quân và dân Phủ Thông (Bắc Cạn), Trấn Yên (Yên Bái), Lạng Sơn, Lào Cai diệt và bắt gọn 12 toán gián điệp gồm 48 tên, thu nhiều vũ khí, trang bị... Kết quả này tạo điều kiện cho cuộc vận động “cải cách dân chủ”, phát triển sản xuất thắng lợi ở các tỉnh trong quân khu.
_____________________________________
1. Gồm tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Yên, Phú Thọ có 72 huyện, 1.575 xã, 2,5 triệu dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:51:11 pm

Quân khu Tây Bắc1 được biên chế hai lữ đoàn 335, 316, một trung đoàn bộ binh 148, bốn tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật (pháo binh, công binh, thông tin, cao xạ) và một số đại đội tiểu đoàn trực thuộc tỉnh đội, huyện đội với tổng số quân khoảng 5000 người.

Xuất phát từ đặc điểm của một quân khu vùng cao, đất rộng, người thưa, núi non hiểm trở, có đường biên giới với Lào dài hàng trăm cây số, phái phản động cực hữu Lào tay sai Mỹ móc nối với bọn thổ phỉ nội địa thường xuyên quấy phá làm cho tình hình kinh tế - xã hội và an ninh ở quân khu vốn đã khó khăn càng khó khăn hơn. Để thực hiện kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai (1961-1965) của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, tháng 6-1961, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc đã cùng với tỉnh uỷ, uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, Lai Châu họp bàn về nhiệm vụ kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, bảo vệ vững chắc địa bàn quân khu và làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào.

Bộ đội chủ lực được huấn luyện thành thạo các hình thức tác chiến tiến công, tập kích, phục kích, đánh địch đổ bộ đường không cấp tiểu đoàn, trung đoàn; trong đó chú trọng huấn luyện chiến thuật phân đội nhỏ trên địa hình núi cao rừng rậm, thời tiết khác nhau với đối tượng tác chiến là Mỹ- ngụy (miền Nam và Lào) và bọn phản động Thái Lan, diễn tập đánh địch ở một số vùng trọng điểm biên giới (Việt - Lào), ở một số huyện địch có khả năng đổ bộ đường không... nhằm nâng cao trình độ tác chiến mọi mặt.

Cuối năm 1964, dân quân, tự vệ toàn quân khu có khoảng 219.867 người, chiếm tỉ lệ 8,2% dân số. Hơn 10.000 người trong số đó được tuyển làm dự bị loại một, số còn lại là dự bị loại hai. Mỗi năm có khoảng 650 chiến sĩ xuất ngũ theo chế độ nghĩa vụ quân sự chuyển sang ngạch dự bị một. Lực lượng dân quân, du kích, tự vệ ở các huyện được biên chế thành trung đội, đại đội; riêng huyện Phù Yên xây dựng được tiểu đoàn. Nội dung huấn luyện cho dân quân, tự vệ biết sử dụng thành thạo các loại vũ khí cá nhân (CKC, tiểu liên, trung liên), hợp luyện chiến đấu trung đội, đại đội giữ gìn trật tự, trị an, diệt thổ phỉ, biệt kích, trấn áp bọn phản cách mạng, sẵn sàng tham gia bộ đội thường trực.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu: Sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt quân địch xâm nhập vào quân khu bằng đường bộ hoặc đường không, dập tắt các cuộc bạo loạn nội địa, chuẩn bị lực lượng, khi có lệnh xuất kích ra tuyến ngoài được nhanh chóng, tiếp tục chuẩn bị mọi mặt cho phòng thủ lâu dài, Quân khu Tây Bắc dự kiến phương án tác chiến đánh biệt kích đổ bộ đường không hoặc đường rừng qua biên giới để móc nối phối hợp với bọn phản động nội địa phá hoại hậu phương ta. Các phương án tác chiến và kế hoạch được phổ biến xuống tận làng xã. Một số tỉnh như Lai Châu, Sơn La thành lập “Ban phòng thủ trị an”, “Ban chống biệt kích”.

Do làm tốt nhiệm vụ phòng thủ và nhiệm vụ xây dựng lực lượng ba thứ quân, trong ba năm (1961-1963) quân và dân trong quân khu lùng bắt được 12 vụ xâm phạm trái phép biên giới, 10 toán thổ phỉ 40 tên, năm toán biệt kích 20 tên, 240 tên phản động nằm vùng, bảo vệ an ninh địa bàn quân khu, tạo điều kiện cho nhân dân các dân tộc phát triển kinh tế - văn hoá.

Song song với việc cải tiến tổ chức, biên chế, trang bị, Đảng và Nhà nước coi công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho lực lượng vũ trang, đặc biệt là trong quân đội thường trực nhằm nâng cao nhận thức, mục tiêu, lý tưởng cách mạng và thường xuyên trau dồi đạo đức cộng sản cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân.

Bước vào những năm đầu của kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng tăng cường chỉ đạo chặt chẽ việc biên soạn tài liệu công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, xây dựng hệ thống chương trình học tập về chủ nghĩa Mác - Lênin (triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học), lịch sử Đảng để giảng dạy trong các nhà trường, học viện đào tạo sĩ quan và giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị. Các tài liệu Công tác bí thư đảng uỷ, Công tác chính trị đại đội được in thành sách cấp phát tới tiểu đoàn, đại đội để cán bộ chính trị các cấp nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ công tác đảng, công tác chính trị, hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ của mình.

Được giáo dục thường xuyên và tương đối có hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, trình độ giác ngộ chính trị, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội được nâng lên một bước rõ rệt. Cán bộ cao cấp, trung cấp đều chủ động đi sâu nghiên cứu nghệ thuật quân sự Việt Nam, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn để soạn thảo nội dung, phương pháp huấn luyện bộ đội sát thực với đối tượng tác chiến mới. Cán bộ đại đội, tiểu đoàn, căn cứ nội dung chương trình huấn luyện của trung đoàn, sư đoàn, xây dựng kế hoạch huấn luyện bộ đội theo nền nếp chính quy. Cán bộ trung đội, tiểu đội thông qua học tập tại chức và tại trường, duy trì huấn luyện tốt chiến sĩ trong đơn vị tinh thông kỹ thuật, chiến thuật, rèn luyện bản lĩnh chiến đấu, chịu đựng dẻo dai, bền bỉ. Chất lượng đội ngũ cán bộ là khâu quyết định việc xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội, vì vậy, cơ quan cán bộ và Bộ Quốc phòng căn cứ vào tiêu chuẩn chính trị trong sạch, lập trường giai cấp vững vàng, có năng lực tổ chức, chỉ huy đơn vị hoàn thành mọi nhiệm vụ để đề bạt, sắp xếp cán bộ, bảo đảm chất lượng. Đây là thành công quan trọng của kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai, một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định sức mạnh chiến đấu của quân đội ta.
_____________________________________
1. Gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:51:53 pm

Đến năm 1964, số cán bộ quân đội ở miền Bắc có 41.420 người (trong tổng số 52.041 trên cả nước) chiếm 18% quân số ở hậu phương lớn. Đội ngũ cán bộ có cơ cấu đáp ứng nhiệm vụ xây dựng quân đội chính quy, hiện đại gồm nhiều binh chủng hợp thành1. Trong ngạch dự bị, số cán bộ đăng ký lên đến 123.000 người. Đội ngũ cán bộ chỉ huy dân quân, tự vệ lên đến 320.000, trong đó có 54.000 đã được tập huấn ở các trường quân sự.

Công tác xây dựng đảng trong quân đội cũng được kiện toàn, củng cố. Các đại đội đều có chi bộ đảng, 60% chi bộ có đủ đảng viên để bầu cấp uỷ; 30% số tiểu đội bộ binh và khẩu đội pháo binh có đảng viên. Trong quá trình xây dựng, huấn luyện, hàng vạn đoàn viên ưu tú, hàng nghìn cán bộ, nhân viên kỹ thuật trở thành đảng viên.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội xây dựng trong 10 năm (1954-1964) đặc biệt là trong kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai (1961-1965) không chỉ đảm bảo lãnh đạo chỉ huy một quân đội gồm nhiều quân, binh chủng sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà còn có ý nghĩa chủ động chuẩn bị trước một bước đội ngũ cán bộ quân sự - chính trị có đủ đức đủ tài sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, lâu dài và rất ác liệt của địch.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng huấn luyện bộ đội, đặc biệt là huấn luyện cán bộ, Bộ Quốc phòng chủ trương tổng kết kinh nghiệm chiến đấu của quân đội ta, vận dụng kinh nghiệm chiến đấu của quân đội các nước anh em, khẩn trương nghiên cứu, biên soạn các tài liệu huấn luyện chiến thuật, chiến dịch để sử dụng thống nhất trong toàn quân. Công tác huấn luyện được đấy mạnh làm cho mọi đơn vị và cơ quan thuộc các quân chủng, binh chủng có thể hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trong mọi tình huống.

Qua hai năm (1961-1963) Bộ Quốc phòng đã biên soạn được nhiều công trình tổng kết kinh nghiệm đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong đó có một số công trình có giá trị thiết thực như: Tổng kết một số chiến dịch quan trọng của bộ đội chủ lực, tổng kết chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, tổng kết công tác đảng, công tác chính trị, tổng kết công tác hậu cần của từng chiến dịch, chiến trường... Tổng kết những kết quả bước đầu trong việc nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, Bộ Quốc phòng chỉ đạo biên soạn bổ sung, nâng cao các giáo trình huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, huấn luyện sát với thực tế chiến đấu. Huấn luyện đánh quân địch phòng ngự trong công sự vững chắc hoặc đóng quân bên ngoài, huấn luyện chiến thuật đánh thọc sâu đánh địch co cụm, kết hợp đột phá tiến công vào những hướng địch sơ hở với bao vây vu hồi, tạo thế bao vây chia cắt tiêu diệt từng bộ phận quân địch. Trong phòng ngự, từ chỗ dựa vào các tuyến chiến hào liên hoàn, bộ đội chuyển sang huấn luyện chiến đấu phòng ngự theo hướng, chốt chặn giữ vững trận địa trên những hướng quân địch tiến công, kết hợp phản kích đánh địch đột nhập trận địa, đánh quân địch đổ bộ đường không, đường thuỷ...

Thực tiễn cuộc chiến đấu đang diễn ra ở miền Nam thôi thúc cán bộ, chiến sĩ học tập, huấn luyện sát thực tế chiến trường và yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu. Các đơn vị phòng không, công binh, hoá học, vận tải, quân y... trong khi làm nhiệm vụ đã kết hợp với huấn luyện tác chiến hiệp đồng quy mô nhỏ và vừa. Đồng thời, thông qua thực tế chiến trường, các đơn vị (nhất là bộ binh) huấn luyện cán bộ, chiến sĩ biết sử dụng nhiều loại vũ khí, trang bị để có thể kiêm nhiệm, thay thế nhau trong chiến đấu.

Để đánh giá kết quả xây dựng, huấn luyện quân sự trong từng giai đoạn (1961-1963), (1963-1964), các sư đoàn chủ lực trực thuộc Bộ Quốc phòng và các lữ đoàn chủ lực các quân khu đã tổ chức nhiều cuộc diễn tập chiến đấu hiệp đồng binh chủng trong tiến công và phòng ngự trên các địa hình rừng núi, đồng bằng có nhiều sông suối, đầm lầy và trên những trục đường giao thông có nhiều cầu, phà để bộ đội biết xử lý những tình huống phức tạp. Cuộc diễn tập của sư đoàn bộ binh 308 có pháo binh, thiết giáp, công binh, thông tin, vận tải phối hợp ở khu vực Thanh Oai (Hà Tây) năm 1961, ở khu vực Cẩm Giàng (Hải Hưng) năm 1962, đánh dấu bước phát triển mới về khả năng cơ động, trình độ chiến đấu của lực lượng chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Bộ đội chủ lực các quân khu cũng tổ chức nhiều cuộc diễn tập chiến đấu tiến công và phòng ngự trên địa hình rừng núi, địa hình đồng bằng, đánh địch đổ bộ đường không, đường biển ở những địa bàn dự kiến khi có chiến tranh xảy ra. Thông qua diễn tập, Bộ Tổng tham mưu, bộ tư lệnh các quân khu, quân, binh chủng kịp thời rút kinh nghiệm bố sung về tổ chức chỉ huy, tổ chức hậu cần, biên chế, trang bị, vận dụng các hình thức tác chiến và mối quan hệ hiệp đồng chíến đấu giữa các binh chủng, giữa lực lượng chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương.
_____________________________________
1. 1954: 90% cán bộ là bộ binh.
    1964: 50% cán bộ là bộ bình, 50% là cán bộ binh chủng kỹ thuật.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:52:21 pm

Như vậy, trong thời kỳ xây dựng kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai (1961-1965), các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã có những bước phát triển mới cả về số lượng lẫn chất lượng, đáp ứng được yêu cầu bảo vệ miền Bắc, sẵn sàng chiến đấu chi viện cho miền Nam. Riêng Quân đội nhân dân, trong vòng năm năm (1961-1965) xây dựng đã hình thành cơ cấu tổ chức của một quân đội hiện đại gồm ba quân chủng Lục quân, Phòng không - Không quân, Hải quân. So với kế hoạch quân sự năm năm lần thứ nhất (1955-1960), thời kỳ đặt nền móng cho quân đội ta xây dựng chính quy, tương đối hiện đại, thì rõ ràng thành tựu thời kỳ xây dựng kế hoạch quân sự năm năm lần thứ hai, sức mạnh chiến đấu của bộ đội ta được nâng lên một bước rõ rệt về mọi phương diện (từ con người đến vũ khí, trang bị, từ lý luận chính trị, quân sự đến nghệ thuật tác chiến, v.v…). Đặc biệt, bộ đội chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh và của các quân khu không những được tăng cường một bước về trang bị vũ khí, kỹ thuật tương đối hiện đại, mà về tổ chức biên chế từng đơn vị cũng được bảo đảm cho nhiệm vụ xây dựng, sẵn sàng chiến đấu, khi cần có thể nhanh chóng mở rộng lực lượng theo yêu cầu của chiến tranh. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội trưởng thành nhanh chóng về số lượng, chất lượng nhờ sự tăng trưởng toàn diện về văn hóa - xã hội - kinh tế mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã đem lại. Đối với lực lượng dân quân, tự vệ qua bốn năm (1961-1964) xây dựng và phát triển, 1,5 triệu công dân nam từ 18 đến 45 tuổi đã đăng ký quân dự bị, trên 10 vạn bộ đội xuất ngũ làm nòng cốt. Mỗi xã xây dựng được hàng trăm dân quân, du kích. Các tỉnh, thành và quân khu tổ chức động viên lực lượng quân dự bị tập dượt sẵn sàng chiến đấu trên các vùng trọng điểm chống biệt kích đường biển, đường không, bắn máy bay, v.v… Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, Đảng, nhân dân và quân đội ta đã vượt qua nhiều khó khăn của một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, xây dựng được một số quân, binh chủng kỹ thuật, cải tiến một bước quan trọng trình độ trang bị của các lực lượng vũ trang.

So với chỉ tiêu kế hoạch, đặc biệt là trước nhiệm vụ chiến đấu ngày càng khẩn trương ở các chiến trường, quân đội ta còn thiếu pháo cơ giới, vũ khí phòng không tầm cao, xe tăng, thiết giáp, khí tài công binh, thông tin, xe vận tải. Mặc dù vậy, thành tích đã đạt được về phát triển lực lượng, tổ chức biên chế, trang bị, huân luyện là một bước tiến mới trên con đường xây dựng chính quy, hiện đại, có ý nghĩa quyết định nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta, của các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Lúc này, tình thế chiến lược và yêu cầu phát triển cuộc kháng chiến ở miền Nam đặt ra cho hậu phương miền Bắc những nhiệm vụ rất to lớn và nặng nề. Làm thế nào để chi viện kịp thời, đầy đủ cho chiến trường trong khi đường vận tải biển chưa khai thông, đường Trường Sơn gùi thồ mới mở đến phía bắc A Túc (Tây Thừa Thiên)? Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng quyết định tăng thêm lực lượng cho Đoàn 559 khẩn trương soi đường gùi thồ vào Nam, đồng thời, điều hai tiểu đoàn bộ binh 929, 44, tiểu đoàn cao xạ 14, tiểu đoàn 15 công binh thuộc Quân khu IV phối hợp với lực lượng Pathét Lào mở chiến dịch 128 nhổ bật các vị trí địch ở biên giới Việt - Lào theo lộ 12 đến Nađu, Nhommarát. Hạ tuần tháng 4-1961, ta và bạn mở tiếp chiến dịch Trung Lào đánh dọc đường số 9, giải phóng Cha Ky, Bản Đông, Sêpôn, Mường Phin, giúp bạn mở rộng vùng căn cứ kháng chiến Trung - Hạ Lào, qua đó, đề nghị với bạn giúp ta chuyển con đường vận tải chiến lược sang phía Tây Trường Sơn. Được Trung ương bạn đồng ý và giúp đỡ, cuối tháng 4-1961, Bộ Tư lệnh Quân khu IV điều hai tiểu đoàn công binh 15 và 25 thuộc sư đoàn 325, tiểu đoàn 3 công binh, trung đoàn 101 và tiểu đoàn 929 tỉnh đội Hà Tĩnh mở đường ô tô 129 nối đường 12 với đường số 9. Do nhận thức rõ yêu cầu cấp bách của chiến trường, cán bộ, chiến sĩ công binh đã khắc phục mọi khó khăn về vật chất và thời tiết, lao động quên mình, chỉ trong hai tháng, đã mở xong đường ô tô từ ngã ba Khe Ve (đường số 15 và số 12) đến Banaphào, đường số 9, Ha Lạp. Trung đoàn 98 công binh của bộ được điều vào nam đường số 9, khôi phục con đường từ Bản Đông đến Mường Noòng, sau đó, mở tiếp đến sông Bạc. Trong khi các đơn vị công binh mở đường, Tổng cục Hậu cần cũng khẩn trương tổ chức các khu tập kết tạm dừng để vượt trọng điểm trên đương số 15 tại ngã ba dốc Bò Lăn, Trại Lạt, Tân Kỳ, Linh Cảm, Truông Bát, Địa Lợi, Thanh Lạng, Ka Táng, Hang Rục, Khe Gát, Troóc... Cuối tháng 6-1961, Tổng cục Hậu cần điều đoàn xe 225 và 245 chở hàng từ các tổng kho ở Hà Nội đến tổng kho R đặt tại Hoá Thanh, Hoá Tiến ở ngã ba Khe Ve, tạo thành chân hàng tại đây cho Đoàn 559 vượt Trường Sơn, vận chuyển tiếp vào Mường Phin, Sê Pôn. Cuối năm 1963, Bộ Tổng tham mưu tăng cường hai trung đoàn công binh 83 và 98 cùng với lực lượng 559 mở tiếp đường vận chuyển cơ giới đến sông Bạc. Những năm tiếp theo, tiếp tục mở các đường ô tô trục ngang từ đông Trường Sơn sang tây Trường Sơn là đường số 10, số 18, số 16, số 42 để tạo thành hệ thống đường vượt khẩu chống địch ngăn chặn. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 325 cũng được lệnh hành quân gấp sang nước bạn sửa chữa, khôi phục sân bay Tà Khống theo thoả thuận giữa ta và Pathét Lào. Song song với việc mở đường ô tô, ta xoi đường gùi thồ xuyên qua các cánh rừng rậm và dốc núi cheo leo vào đến Tây Nguyên để nối thông với mạng vận tải từ miền Đông Nam Bộ, từ khu VI mở ra. Đường hẹp, ngoằn ngoèo, dốc đứng chỉ đủ cho người đi bộ và gùi thồ hàng. Trong khi các đoàn xe vận tải chở hàng vào các tổng kho Khe Ve, Banaphào... thì trung đoàn không quân vận tải 919 do phi công Liên Xô lái cũng gấp rút vận chuyển hàng trăm tấn hàng sang sân bay Tà Khống. Từ các chân hàng ở đường số 9 và sân bay Tà Khống, các chiến sĩ trung đoàn 70 (Đoàn 559) dùng xe đạp thồ, ngựa, gùi vận chuyển đến A Túc để lực lượng vận tải các chiến trường (chủ yếu là Quân khu V) vận chuyển tiếp vào Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Các cung trạm giao liên dọc đường Trường Sơn được tổ chức, đảm bảo đưa đón được các đơn vị cấp đại đội tiểu đoàn hành quân vào chiến trường. Qua tuyến vận tải chiến lược 559 đến giữa năm 1963, gần 4 vạn cán bộ, chiến sĩ (phần đông là cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết) trong đó có 2000 cán bộ cao cấp, trung cấp, nhân viên kỹ thuật hành quân vào đến tiền tuyến lớn (chiếm 50% lực lượng vũ trang tập trung, 80% số cán bộ, nhân viên kỹ thuật trong các cơ quan chỉ đạo, chỉ huy ở miền Nam lúc bấy giờ). Khối lượng vật chất, kỹ thuật vận chuyển theo con đường Trường Sơn mang tên Bác đến chiến trường khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ trong năm 1964 tăng gấp bốn lần năm 1963. Đó là những lực lượng rất quan trọng góp phần tăng nhanh số lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:52:48 pm

Đường Trường Sơn được mở cả đường ô tô và gùi thồ bao gồm các trục dọc và ngang tạo thành hệ thống đường chiến lược không thể chia cắt là một kỳ công của hậu phương lớn, là biểu tượng của ý chí và niềm tin của toàn đảng, toàn dân tộc quyết tâm chiến thắng giặc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam.

Việt-Lào là hai nước anh em có chung một kẻ thù và cùng sát cánh bên nhau vì cách mạng của mỗi nước, do vậy Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh Việt Nam đã họp bàn với ban lãnh đạo Pathét Lào đáp ứng yêu cầu của bạn đã chỉ thị cho Quân khu IV, Quân khu Tây Bắc đưa một số quân tình nguyện sang phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang Pathét Lào. Tiếp theo chiến thắng Trung Lào tháng giêng năm 1961, liên quân Lào - Việt mở chiến dịch phản công ở Thượng Lào, giải phóng Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng rồi tiến thẳng đến SalaPhucun trên quốc lộ số 13, uy hiếp thủ đô Viêng Chăn. Bị giáng đòn đau, thất bại nặng nề, chính quyền phái hữu Lào lúng túng, Mỹ đang gỡ thế bí ở miền Nam Việt Nam, chúng chủ trương tạm thời hoà hoãn ở Lào, chấp nhận mở hội nghị quốc tế về Lào có ba phái tham gia tại Gionevơ tháng 5-1961.

Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng làm cho thế và lực cách mạng Lào phát triển, lực lượng vũ trang mạnh thêm, uy tín của Neo Lào Hắcxạt ngày càng tăng mạnh trong nhân dân Lào, vùng giải phóng được mở rộng, tương đối hoàn chỉnh. Đây cũng là sự hỗ trợ tích cực, mạnh mẽ đối với cách mạng Việt Nam.

Mùa xuân năm 1962, cách mạng Lào phát triển mạnh. Từ tháng Một đến tháng Ba năm 1962, bộ đội Pathét Lào giải phóng hầu hết phía bắc tỉnh Luông Pha Băng. Đầu tháng 4-1962, theo yêu cầu của bạn tiếp tục mở rộng vùng giải phóng Trung và Thượng Lào, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam điều động bảy tiểu đoàn bộ binh và một số đơn vị binh chủng sang phối họp chiến đấu với lực lượng vũ trang Pathét Lào. Cuối tháng Tư, liên quân Lào - Việt tiến công diệt một số vị trí địch ở vòng ngoài, tạo thế tiến công địch ở Nậm Thà. Sau một tháng tiến công liên tục, ngày 8-5, liên quân Lào- Việt loại khỏi vòng chiến đấu 16.000 tên địch, giải phóng Mường Sinh, Nậm Thà, mở rộng vùng giải phóng Bắc Lào thêm 800 km2 với 76.000 dân.

Bị đánh đau, Mỹ vội vã phản ứng bằng cách tăng cường sự có mặt của lực lượng tàu biển Mỹ tới vùng biển Đông, cho một số đơn vị lính thuỷ đánh bộ lên đất Thái Lan để ngăn đe. Nhưng, trước áp lực dư luận quốc tế và sức mạnh cách mạng Lào, Mỹ buộc phải lùi một bước chấp nhận giải pháp lập chính phủ liên hợp ba phái và tiếp tục đến Giơnevơ ngồi vào bàn hội nghị. Ngày 12-6-1962, ba phái ở Lào thoả thuận ký kết lập chính phủ liên hợp. Ngày 2-7-1962; Hội nghị quốc tế về Lào có 14 nước tham gia họp tại Giơnevơ. Ngày 23-7-1962, hội nghị kết thúc với tuyên bố Mỹ phải rút hết 666 cố vấn ra khỏi Lào, cam kết “tôn trọng nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Lào”.

Với chiến thắng Nậm Thà, trên thực tế, Mỹ đã thua trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở Lào. Từ Nậm Thà có thể thấy khả năng của Mỹ là có hạn, dù chúng rất ngoan cố, chứng minh nhận định đúng đắn của Đảng ta là chiến tranh đặc biệt của Mỹ tiến hành ở miền Nam Việt Nam nhất định sẽ thất bại.

Cuối năm 1963, sau khi chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tình hình cách mạng ở miền Nam phát triển mạnh mẽ. Quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ - ngụy tiếp tục phá sản, lực lượng cách mạng tiến bộ rất nhanh. Ta đã kiểm soát một số vùng đông dân trong một số tỉnh chủ chốt.

Để ngăn chặn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, Mỹ ngoan cố tăng cường và mở rộng cuộc “chiến tranh đặc biệt” ở Việt Nam, hòng khắc phục tình hình đang suy sụp của ngụy quyền, ngụy quân. Âm mưu của Mỹ là bình định cho được nông thôn, chiếm dân, lấn đất, tiêu diệt các tổ chức cách mạng, kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam. Đối với miền Bắc, chúng dự định sẽ dùng không quân đánh phá, gây sức ép buộc quân và dân ta phải ngìrng chi viện cho cách mạng miền Nam và Lào.

Trước âm mưu và hành động chiến tranh mới của Mỹ và tay sai, tháng 3-1964, Bộ Quốc phòng quyết định thực hiện biên chế thời chiến cho các đơn vị trong toàn quân, đưa số quân thường trực trong năm 1964 lên 300.000 người. Quân chủng Phòng không - Không quân và một số đơn vị Hải quân chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến, chuẩn bị trận địa và hợp đồng các phương án chiến đấu giữa các lực lượng vũ trang trên những địa bàn trọng yếu (các khu vực quân sự, chính trị, kinh tế, giao thông ở một số thành phố, thị xã), vừa trực chiến vừa huấn luyện nâng cao kỹ năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, quyết tâm đánh thắng địch ngay từ trận đầu.

Trên các quân khu và các tỉnh, thành, các lực lượng vũ trang địa phương (bao gồm bộ đội địa phương và dân quân tự vệ) bắt đầu đào hệ thống hầm hào chiến đấu, hầm hào phòng tránh máy bay địch ở các cơ quan, nhà máy, trường học, bệnh viện. Các cơ quan dân, chính đảng. khẩn trương làm công tác giáo dục phòng không nhân dân, tổ chức báo động chiến đấu, tập cứu thương, cứu hỏa, vây bắt giặc lái, sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu.

Qua ba năm đầu (1960-1963) thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, xây dựng Quân đội nhân dân, miền Bắc nước ta đã tiến những bước đáng kể. Các ngành kinh tế quốc dân phát triển tương đối đồng đều. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được củng cố. Đời sống của nhân dân ổn định. Công cuộc củng cố quốc phòng toàn dân và xây dựng Quân đội nhân dân đạt được những thành tích to lớn. Hầu hết các tỉnh, thành thuộc các quân khu đã xây dựng xong hệ thống phòng thủ chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Các binh chủng kỹ thuật của Quân đội nhân dân phát triển và được luyện tập. Hệ thống chính quyền và các đoàn thể từ Trung ương đến địa phương được củng cố. Nhân dân giác ngộ chính trị cao, đoàn kết chặt chẽ chung quanh Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hăng hái phấn đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Mặc dù cuộc sống chưa thật no đủ, lại phải đương đầu với chiến tranh, nhưng đồng bào, chiến sĩ ta quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó là nền tảng tinh thần vững chắc để tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:54:43 pm

Chương XI
BẺ GẪY KẾ HOẠCH BÌNH ĐỊNH MIỀN NAM TRONG VÒNG 18 THÁNG CỦA MỸ
CHIẾN THẮNG ẤP BẮC


I - ĐẤU TRANH GIẰNG CO QUYẾT LIỆT CHỐNG ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN MỚI CỦA ĐỊCH

Trong lúc cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống kế hoạch càn quét, gom dân của quân ngụy đang diễn ra quyết liệt thì đế quốc Mỹ ráo riết tăng thêm viện trợ quân sự kinh tế - chủ yếu là phương tiện chiến tranh cho ngụy quân, ngụy quyền; trực tiếp huấn luyện quân đội tay sai sử dụng các chiến thuật và vũ khí hiện đại của Mỹ hòng tiêu diệt các lực lượng cách mạng, làm cho cường độ cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt. Được sự huấn luyện, chỉ huy của các cố vấn Mỹ, quân chủ lực ngụy sử dụng chiến thuật “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận” để cơ động nhanh, bất ngờ đổ quân bao vây tiêu diệt các đơn vị du kích tập trung, lùng bắt cán bộ cách mạng. Chúng còn đặt hàng vạn máy thu, phát thông tin tự động ở những nơi xa xôi, hẻo lánh để phát hiện lực lượng của ta rồi nhanh chóng điều động lực lượng không quân, bộ binh đến bắn phá, bao vây, chụp bắt. Quân chủ lực và quân địa phương ngụy tổ chức càn quét những vùng do ta làm chủ, vùng giáp ranh, phối họp với lực lượng bình định dồn dân vào các ấp chiến lược. Quân, dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, tiến hành đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, binh vận trên khắp ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị.

Tại đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng vũ trang tỉnh Sóc Trăng cùng du kích các xã Phong Thạnh, Gia Hoà, Hoà Tú, Vĩnh Hưng đánh bại cuộc hành quân càn quét của sư đoàn 21 ngụy, diệt nhiều trung đội địch. Phối hợp với cuộc chiến đấu của các lực lượng vũ trang, ngày 2-2-1961 trên hai vạn người quanh thành phố Cần Thơ tổ chức đấu tranh chính trị. Địch cho lực lượng đàn áp, bắn chết 13 người, bắt đi 400 người. Lập tức, quần chúng tràn vào thành phố, bao vây dinh tỉnh trưởng ngụy, bắt bồi thường nhân mạng, thả những người bị bắt. Cảnh sát ngụy dùng hơi cay, với rồng đàn áp. Đồng bào ta quyết không lùi bước, tiếp tục đấu tranh hai ngày liền, làm tê liệt thành phố và gây náo động vùng phụ cận, buộc địch phải đáp ứng những yêu sách của nhân dân.

Tại Bến Tre, ngày 20-1-1961, đại đội 261 cùng với bộ dội địa phương huyện Mỏ Cày đánh bại cuộc càn quét của thuỷ quân lục chiến vào xã Đa Phước, diệt hai trung đội, thu 30 súng. Du kích xã Hữu Định (Châu Thành) dựa vào xã ấp chiến đấu, trong một ngày liên tiếp đánh trả 17 đợt xung phong của một tiểu đoàn địch, bẻ gãy cuộc càn quét của chúng. Phối hợp với Mỏ Cày, Châu Thành, ngày 31-1-1961, trên 10.000 quần chúng từ khắp các xã trong huyện Giồng Trôm trương cờ kéo đến thị trấn đòi địch chấm dứt ném bom, bắn phá, tàn sát nhân dân, họ hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo Ngô Đình Diệm”. Ngày 13-2, hàng ngàn nhân dân trong tỉnh, từ nông thôn đến thị xã, thị trấn, được huy động “đi chợ tết” đế biểu dương lực lượng, nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh chống Mỹ, Diệm.

Tại miền Đông Nam Bộ, quân nguỵ mở hàng loạt cuộc hành quân lớn, nhỏ càn quét, hỗ trợ cho các đoàn bình định dồn dân, chiếm đất, lập bộ máy tề xã, tề ấp. Cuộc đấu tranh để giữ vững quyền làm chủ thôn, xã diễn ra hết sức quyết liệt. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh ngày 1-1-1961 của 10.000 phụ nữ các xã kéo lên quận lỵ Trảng Bàng (Tây Ninh), trong đó có cả gia đình binh sĩ ngụy. Địch dùng mọi thủ đoạn ngăn cản, đàn áp. Không chịu khuất phục, chị em dùng gậy, đá, cây mía, đánh trả, giành lại những người bị bắt. Lực lượng phía sau đến tiếp viện, phá bỏ các vật chướng ngại, hô to các khẩu hiệu: “Đả đảo khủng bố”, “Không được bắn vào ấp”. Trước khí thế đấu tranh sôi sục của quần chúng, tên quận trưởng phải chấp nhận các yêu sách của dân, bồi thường cho những người chúng đánh bị thương.

Ngày 16-3-1961, tiểu đoàn 800 của khu mở cuộc tiến công vào chi khu quân sự Hiếu Liêm. Sau 30 phút chiến đấu ta tiêu diệt hoàn toàn chi khu, thu một pháo 105 ly, 80 súng các loại, một kho đạn. Thừa thắng, sáng 17-3, đơn vị hành quân dọc bờ sông Đồng Nai, tiến công bốt Lạc An, uy hiếp một số bốt khác, đồng thời phát động nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kiềm.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:56:20 pm

Đầu năm 1961, hàng vạn người bị dồn vào các khu dinh điền, khu trù mật Long Khốt, Mộc Hoá, Thành Phước, kênh 12, Vàm Xáng, Cà Ná, Gò ông Lê... đã vùng dậy đấu tranh phá vỡ từng mảng lớn các khu dồn dân, trở về làng cũ.

Tại Trung Trung Bộ, cuối năm 1960, địch bắt đầu xây dựng hệ thống phòng ngự cứ điểm, cụm cứ điểm liên hoàn ở các vùng đô thị, dọc đường giao thông chiến lược và đóng thêm 132 chốt điểm ở vùng giáp ranh từ Quang Trị đến Quảng Nam. Ở Tây Nguyên, địch rút một số đồn, bốt lẻ, cô lập đóng thêm cứ điểm trên các đường 14, 19, 21, 18 hợp cùng với các trại lực lượng đặc biệt, các đồn biên phòng Đắc Pét, Đắc Xút, Đắc Siêng, Cơ Leng, Lây Me, Đức Cơ, E Xúp, Đức Lập dọc biên giới phía Tây thành một hệ thống phòng thủ ở Cao Nguyên Trung phần. Dựa vào hệ thống phòng ngự kiên cố, địch tổ chức hành quân, càn quét kết hợp với hoạt động biệt kích, dùng máy bay đánh phá vùng căn cứ cách mạng, gom dân vào các khu dinh điền, ấp chiến lược, ngăn chặn các cửa khẩu không cho đồng bào ta mua bán muối, vải, dao rựa lên vùng cao. Cuộc sống của nhân dân vùng căn cứ, vùng giáp ranh hết sức căng thẳng.

Tháng 2-1961, Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu V chủ trương động viên mọi lực lượng kiên quyết tiến công địch, làm chủ rừng núi, củng cố và xây dựng căn cứ địa, giành lại đồng bằng. Thực hiện chủ trương này, tháng 2-1961, quân, dân Thừa Thiên chặn đánh địch hành quân càn quét ở Nam Đông, Đá Mộc, Hoà Mỹ, đường số 4 và chống càn quét ở sông Bồ, Ô Lâu. Ở Quảng Trị, quân du kích bao vây, khống chế, diệt và gọi địch hàng ở một số đồn lẻ, buộc chúng phải co cụm lại.
Tháng 3-1961, lực lượng vũ trang Liên tỉnh 41 tiến công địch ở quận lỵ Lạc Thiện (Đắc Lắc), diệt một số đơn vị bảo an, giải phóng phần lớn huyện Lắc và Buôn Hồ.

Quân và dân các khu căn cứ Bác Ái (Ninh Thuận), Kim Sơn (Bình Định), Trà Bồng (Quảng Ngãi) đánh bại các cuộc càn quét dồn dân của địch. Lực lượng vũ trang các tỉnh đồng bằng tiến công tiêu diệt một loạt cứ điểm của địch ở Mỹ Tường, Vĩnh Hy (Ninh Thuận), Bình Nhơn (Bình Thuận), Bình Phương, Bình Trung (Quảng Ngãi). Tháng 5-1961, lực lượng vũ trang Liên tỉnh 3 phối hợp với tỉnh Bình Thuận tiến công các quận lỵ Di Linh và Đờ Răng, tạo điều kiện phát triển phong trào lên bắc Lâm Đồng, Tuyên Đức.

Đêm 18-6-1961, lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên tiêu diệt quận lỵ Củng Sơn, giải thoát luật sư Nguyễn Hữu Thọ bị địch giam giữ ở đây. Trước đó mấy ngày, địch đưa ông về quản chế tại thị xã Tuy Hoà. Không giải thoát được luật sư nhưng trận đánh đã có tiếng vang lớn2.

Chỉ tính trong bốn tháng đầu năm 1961, quân và dân Khu V diệt, làm bị thương và bắt 2.100 địch, cơ sở cách mạng phát triển khá, riêng vùng nam Đắc Lắc, Quảng Đức, Lâm Đồng phát triển cơ sở mới ở 557 thôn.

Miền tây Quảng Trị, nhân dân các dân tộc ở sáu tổng nổi dậy tước vũ khí bọn dân vệ, giải phóng miền núi bắc đường số 9.

Phối hợp với đấu tranh quân sự, nhân dân trong các vùng còn bị địch kìm kẹp, ở các thành phố, thị xã, thị trấn cũng vùng lên đấu tranh với địch.

Ngay sau khi các tổ chức chính trị của nhân dân như Hội thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân giải phóng, Hội lao động giải phóng…3 ra đời và tham gia Mặt trận dân tộc giải phóng công khai tổ chức nhiều cuộc mít tinh và biểu tình chống Mỹ - Diệm.
_____________________________________
1. Từ tháng 4-1955 đến tháng 10-1961, Khu V lập bốn liên tỉnh:
    - Liên tỉnh 1: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam.
    - Liên tỉnh 2: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
    - Liên tỉnh 3: Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Viên và Đồng Nai Thượng.
    - Liên tỉnh 4: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc
    Mỗi liên tỉnh có Liên tỉnh uỷ do một đồng chí khu uỷ viên phụ trách.
2. Theo Sơ thảo lịch sử đảng bộ tỉnh Phú Khánh, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Phú Khánh xuất bản, 1986, trang 52: Trong báo cáo gửi cho tên Bộ trưởng Nội vụ ngụy ngày 27-6-1961, tỉnh trưởng Phú Yên Lê Ngọ Triển phải thú nhận: “Đêm 18 rạng ngày 19-6-1961, vào khoảng 2 giờ sáng, khoảng 2 đại đội “việt cộng” vũ trang đầy đủ, kéo theo một số đồng bào Thượng, tiến công đồn bảo an và quận lỵ hành chính Sơn Hoà. Sau hơn một giờ cầm cự, vị trí này thất thủ, ta bị thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như vũ khí đạn dược...”.
3. - Ngày 9-1-1961, thành lập Hội Thanh niên giải phóng và Hội liên hiệp học sinh, sinh viên giải phóng miền Nam Việt Nam.
    - Ngày 8-3-1961: thành lập Hội phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam
    - Ngày 24-3-1961: Hội nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam.
    - Ngày 27-4-1961: Hội lao động giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đổi là Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam).
    - Ngày 1-1-1962: Đoàn thanh niên Nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:57:23 pm

Ngày 17-1-1961, hàng ngàn giáo chức, học sinh các trường lớn ở Sài Gòn đấu tranh đòi giảm học phí trường tư, đòi cải thiện đời sống giáo chức. Những người biểu tình nêu ra khẩu hiệu “chống bắt lính, miễn quân dịch cho học sinh, sinh viên”, “giảm lệ phí cho các kỳ thi”, “tăng học bổng cho học sinh nghèo”, học sinh “chuyên ngữ ở đại học” v.v… Ngày 1-5-1961, Hội lao động giải phóng phát động được 16.000 công nhân lao động họp mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động giương cao khẩu hiệu “Chào mừng Hội lao động giải phóng miền Nam”. Nhân ngày Quốc tế lao động, nhân dân Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc tổ chức đấu tranh chống địch càn quét, gom dân. Tiếp theo, hơn 40.000 đồng bào Tân An, Chợ Lớn họp mít tinh hô vang các khẩu hiệu: “Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam”, “Đánh đổ tên bán nước Ngô Đình Diệm”, “Chấm dứt càn quét, khủng bố, bắt phu, bắt lính”.

Tháng 4-1961, nhân dân Khu V đấu tranh chống “bầu cử tổng thống” gian lận của Diệm. Ở Gia Lai, đồng bào 600 thôn vùng địch kiểm soát tẩy chay “bầu cử”, đốt thẻ cử tri. Giữa tháng 5-1961, gần 200 đại biểu đại diện cho 22 dân tộc Tây Nguyên và nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ họp đại hội hoan nghênh tuyên ngôn, chương trình của Mặt trận, kêu gọi đồng bào các dân tộc kiên quyết đấu tranh chống Mỹ, Diệm.

Tại Sài Gòn, Hội liên hiệp sinh viên, học sinh giải phóng thành lập đội vũ trang, hoạt động hỗ trợ cho đồng bào thành thị phá thế kìm kẹp của địch và tạo điều kiện cho phong trào cách mạng trong sinh viên, học sinh phát triển. Đội do anh Lê Hồng Tư phụ trách. Ngày 6-4-1961, đội diệt tên Uyliam Tômát chuyên viên cao cấp không quân Mỹ tại đường Ngô Thì Nhậm. Hôm sau (7-4), đội dùng lựu đạn ném vào trụ sở cơ quan VSOM của Mỹ tại đường Trần Hưng Đạo, diệt bảy tên cố vấn Mỹ. Sau vụ tập kích nhằm giết tên đại sứ Mỹ Nâutinh không thành, Lê Hồng Tư bị bắt. Chúng tra tấn rất dã man nhưng không khai thác được gì ở anh. Tháng 8-1961, do một vài sơ hở, địch đã phát hiện và đánh vào căn cứ Ban cán sự thành đoàn ở xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hoà. Đồng chí Trần Quang Cơ, Bí thư Ban cán sự anh dũng hy sinh; Lê Quang Vịnh và một số anh em bị địch bắt.

Để tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh ngày càng phát triển của đồng bào miền Nam, công tác mở đường vận tải trên bộ và trên biển để vận chuyển người và hàng vào chiến trường cũng được khẩn trương triển khai tích cực.

Sau chuyến tàu vận tải biển chở vũ khí vào Nam của tiểu đoàn 603 đầu năm 1960 không thành, Quân uỷ Trung ương quyết định tạm dừng vận tải biển để chuẩn bị thêm. Lúc này, yêu cầu của cuộc chiến đấu ở miền Nam cấp thiết, Bộ Chính trị và Quân uỷ quyết định thành lập lại Đoàn vận tải biển - Đoàn 759 do Đoàn Hồng Phước làm đoàn trưởng, Võ Huy Phúc làm chính uỷ. Đoàn 759 được giao nhiệm vụ trước mắt mua sắm phương tiện, vận chuyển tiếp tế cho miền Nam bằng đường biển. Bộ Chính trị chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ đưa thuyền ra Bắc nhận vũ khí. Nhận được chỉ thị tháng 2-1961 của Bộ Chính trị, các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa liền tổ chức sáu thuyền vỏ gỗ gắn máy do các đồng chí Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Văn Tiến, Lê Công Cẩn, Nguyễn Thanh Trầm, Bông Văn Dĩa, Nguyễn Văn Phe và các đồng chí Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi cùng một số thuỷ thủ có kinh nghiệm vượt sóng gió biển khơi lần lượt ra Bắc1. Các đồng chí đi trên thuyền đóng vài ngư dân có giấy tờ tuỳ thân hợp lệ. Lương thực và nước ngọt được chuẩn bị đầy đủ, song các đồng chí vẫn trải qua những ngày đấu trí, đấu lực căng thẳng để vượt qua sóng gió biển khơi và sự kiểm soát gắt gao của tàu địch để đi đến đích. Kết quả, bốn chiếc ra đến miền Bắc an toàn, ba chiếc phải quay lại do thuyền hỏng và sự o ép của địch. Còn hai chiếc đi lạc đường một thuyền đến Ma Cao, thuộc địa của Bồ Đào Nha, một thuyền lạc vào đảo Hải Nam, Trung Quốc. Khi bị bắt giữ, các thuyền viên đều khai là người Việt Nam đi đánh cá bị bão dạt vào đây. Qua khám xét không phát hiện được gì, họ đã trả thuyền của ta trở về miền Bắc.

Sau khi nghe báo cáo tình hình cụ thể của các đồng chí phụ trách các thuyền ở Nam Bộ mới ra, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh xét thấy chưa đủ điều kiện để tổ chức cho tầu chở hàng vào Nam. Công việc quan trọng bậc nhất lúc này là tìm cho được bến để tàu vào và nắm chắc được quy luật hoạt động trên biển của địch. Vì vậy, Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh quyết định cử một thuyền đã từ Nam ra Bắc cùng một số thuỷ thủ có kinh nghiệm trở lại Nam Bộ báo cáo chủ trương của Trung ương với Trung ương Cục và trinh sát lại tình hình để khi tàu chở vũ khí vào, ra có chỗ trú đậu, bốc dỡ hàng nhanh chóng, bí mật, an toàn. Đội thuyền Cà Mau do Bông Văn Dĩa làm thuyền trưởng, Hai Tranh, thuyền phó, cùng các đồng chí Năm Kỳ, Tư Phước, Sáu Dũng, Bảy Của được lựa chọn trở về Nam Bộ thực hiện nhiệm vụ.
_____________________________________
1. Ngày 11-6-1961, chiếc thuyền đầu tiên của tỉnh Bến Tre ra Bắc do đồng chí Nguyễn Văn Hải làm đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Tiến làm chính trị viên.
    - Thuyền thứ hai của tỉnh Bến Tre, đồng chí Lê Công Cẩn chỉ huy.
    - Hai thuyền của tỉnh Cà Mau do đồng chí Nguyễn Thanh Trầm và Bông Văn Dĩa chỉ huy.
    - Thuyền của tỉnh Trà Vinh gồm sáu đồng chí: Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi (tên do Tỉnh uỷ Trà Vinh đặt).
    - Thuyền của tỉnh Bà Rịa do đồng chí Nguyễn Văn Phe làm thuyền trưởng.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:58:56 pm

Khi nhận được chủ trương của Trung ương do đồng chí Bông Văn Dĩa truyền đạt, Trung ương Cục hoàn toàn nhất trí và chỉ thị cho các khu khẩn trưởng tổ chức thực hiện. Trung ương Cục tổ chức tại Khu IX, một Ban hàng hải của Nam Bộ do đồng chí Ba Bổn làm trưởng ban, đồng chí Dương Quang Đông, phó ban, trực tiếp tìm bến bãi và phương tiện vận chuyển.

Khu uỷ Khu IX phân công một khu uỷ viên cùng với số anh em ở miền Bắc mới vào đi khảo sát các đảo và các sông, rạch ven biển. Việc lựa chọn bến bãi có nhiều giải pháp được đặt ra nghiên cứu, trong đó có cả giải pháp tình thế, nếu ở trong đất liền không chọn được, thì có thể chọn ở các đảo ngoài biển để làm bến trung chuyển, dùng thuyền nhỏ chuyên chở hàng vào. Sau một thời gian đi nghiên cứu các đảo Hòn Ông, Hòn Bà, Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Thổ Chu đến quần đảo Nam Du và các sông, rạch trên đất liền, đoàn khảo sát thấy việc tìm kiếm các bến có nhiều khó khăn không thực hiện được, nhưng một số cửa sông ở Cà Mau có thể cải tạo làm bến trú đậu, cất giấu vũ khí. Vùng này có địa thế hiểm trở, hệ thống sông rạch chằng chịt, có nhiều cửa sông đổ ra biển như Bồ Đề, Rạch Gốc, Rạch Tàu, Ông Trọng, Bảy Háp được bao phủ cả một màu xanh của cây rừng ngập mặn. Nhân dân ở đây giàu lòng yêu nước, cơ sở cách mạng vững, đã từng đùm bọc, che chở cho nhiều cơ quan của tỉnh, của khu làm việc, cho bộ đội ta náu mình đánh giặc.

Nếu ở Cà Mau, miền Tây Nam Bộ có được cái thế “địa lợi nhân hoà” thì ở miền Đông Nam Bộ việc lựa chọn bến bãi lại khó khăn hơn nhiều. Một đoàn cán bộ do đồng chí Dương Quang Đông phụ trách đi từ Bình Châu, Hàm Tân, Cù Mi, La Gi, Kẻ Gà tới Bình Tuy để khảo sát thực địa. Đi ròng rã ba tháng trời, vượt qua bao đồn bốt của địch, nhiều lúc gạo không có ăn, chỉ ăn chuối xanh, bột cây thiên tuế và củ rừng. Cuối cùng, đoàn đã tìm được bến Lộc An ở Bà Rịa.

Tổ chức bến bãi ở đây nếu được sẽ có nhiều thuận lợi là hàng sẽ đến các đơn vị nhanh hơn, tạo cho miền Đông, Khu VI và chủ lực của Miền đỡ tốn công vận chuyển từ Khu IX, Khu VIII lên và tạo được yếu tố bất ngờ đối với địch, song cũng rất mạo hiểm, vì nó gần các căn cứ hải quân Vũng Tàu, sân bay Biên Hoà và Sài Gòn. Đây là những căn cứ lớn, địch canh phòng nghiêm ngặt, lại có nhiều phương tiện, máy móc hiện đại để phát hiện.

Công việc khảo sát, xác định bến bãi đã khó, nhưng tổ chức nạo vét, nắn dòng chảy chỗ cửa sông bị cạn, cong queo này cho tàu, thuyền vào được cũng không kém phần gian khổ. Để làm được công việc “dòi non, lấp biển” đó, việc đầu tiên phải sử dụng một tiểu đội do vợ chồng đồng chí Mười Vinh, cán bộ dân vận địa phương phụ trách, sau tăng cường thêm một trung đội tiến hành nạo vét. Dưới ánh sáng đèn pha quét liên tục từ các đồn địch, với công cụ thủ công, anh em ta cứ ngày ngủ, đêm vừa đào vừa canh chừng địch, ròng rã hai tháng trời mới đào sâu và nắn lại được dòng sông bảo đảm cho tàu ra vào thuận tiện.

Có bến bãi rồi, lại phải có thuyền, có máy để đi biển an toàn. Muốn vậy phải có tiền, mà nếu có thì mua ở đâu? Khó khăn này đã được chị Mười Vinh trực tiếp giúp đỡ. Chẳng những chị đã xuất cho mượn hai cây vàng và 5.000 đồng1, chị còn vào ấp chiến lược Phước Hải, để nhờ cơ sở ta mua thuyền, mua gạo, mua lưới, chuẩn bị cho chuyến đi. Đồng bào còn giúp chạy thử đi đánh cá cho hợp pháp để địch quen mắt, không nghi ngờ.

Đến cuối tháng 1-1962, nhân dân Phước Hải đưa thuyền ra đến Hồ Cóc (vùng giải phóng) bàn giao cho ta. Bà con còn xin được giấy thông hành của chính quyền ngụy cấp cho sáu thuyền viên để đi qua được các trạm xét hỏi trên biển của địch.

Sau khi xác định được bến bãi, xây dựng kho tàng, mua sắm tàu thuyền, Thường vụ Khu uỷ Khu IX quyết định cử hai thuyền do đồng chí Tư Mâu phụ trách đi ra Bắc báo cáo với Trung ương, xin cho tàu chở hàng quân sự vào các bến đã chuẩn bị.

Ngày 24-7-1962, thuyền do đồng chí Tư Mâu phụ trách rời cửa Bồ Đề (Cà Mau) đi miền Bắc. Đoàn thủy thủ gồm Mười Thương (thuyền phó), Ba Xuân, Sáu Dũng, Ba Mạnh, Sáu Mập. Hai ngày sau (26-7-1962), thuyền do đồng chí Bông Văn Dĩa phụ trách, xuất phát từ Vàm Lũng (Cà Mau), gồm các đồng chí Tư Đanh (thuyền phó), Sa Vinh, Sáu Thông, Năm Kỷ, Bảy Của. Ngày 30-7-1962, thuyền của đồng chí Tư Mâu đến ngang Cửa Việt thì bị tàu Đống Đa 07 của hải quân địch bắt đưa về Đà Nẵng. Sau hơn 8 tháng giam giữ, chúng không khai thác được điều gì, mọi công việc của ta vẫn giữ được bí mật.
_____________________________________
1. Anh Mười Vinh đã hy sinh trong mặt trận bom B52 của địch. Sau ngày giải phóng miền Nam, chị Mươi về sống với các con ở Phước Hải. Nhà nước ta đã hoàn lại số vàng và tiền cho chị Mười.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 10:59:43 pm

Ngày 1-8-1962, thuyền của đồng chí Dĩa ra đến miền Bắc, chuyến đi thứ hai ra Bắc của đồng chí Bông Văn Dĩa thành công. Toàn bộ công việc của chuyến đi về Nam đã được các đồng chí trong đội thuyền báo cáo tỉ mỉ với các đồng chí lãnh đạo của Trung ương.

Cùng với các công việc nói trên, Trung ương Cục và các cấp uỷ đảng địa phương rất chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang. Số lớn chiến sĩ mới tòng quân từ các vùng giải phóng, cán bộ chỉ huy, cán bộ kỹ thuật hầu hết là bộ đội tập kết đã qua huấn luyện chính quy ở miền Bắc trở về. Nhiều đảng viên có kinh nghiệm được Đảng cử vào làm nòng cốt xây dựng các đơn vị. Cuối năm 1961, số đảng viên trong các đơn vị bộ đội tập trung chiếm 50% số lượng đảng viên của toàn Đảng bộ miền Nam. Hệ thống công tác đảng, công tác chính trị được tổ chức chặt chẽ từ trên xuống dưới. Mỗi đại đội đều có chi bộ đảng và chính trị viên. Công tác huấn luyện bộ đội, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tại chỗ cũng được coi trọng. Hệ thống các trường huấn luyện của các quân khu, các tỉnh hình thành. Các lớp huấn luyện ngắn ngày về quân y, trinh sát, đặc công... được tổ chức để phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ trước mắt. Công tác bảo đảm hậu cần cho lực lượng vũ trang do cơ quan hậu cần của Miền, các quân khu và từng đơn vị đảm nhiệm.

Các căn cứ địa đã xây dựng trong thời kỳ đấu tranh giữ gìn lực lượng (1954-1960), tiếp tục được giữ vững trong năm đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Từ chiến khu Dương Minh Châu, chiến khu D (Đông Nam Bộ), U Minh (Tây Nam Bộ), Củ Chi (Gia Định), Bến Cát (Bình Dương), Hát Dịch (Bà Rịa), đến miền núi Tây Nguyên, miền tây Thừa Thiên, Quảng Trị và miền tây các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận được củng cố và phát triển là địa bàn đứng chân vững chắc của lực lượng cách mạng và là hành lang thông suốt giữa các vùng. Nó còn góp phần tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, là bàn đạp lợi hại để phát triển tiến công về nông thôn và đô thị.

Trong vùng giải phóng, gần sáu triệu người đã giành quyền làm chủ thôn xã, làm chủ cuộc sống. Nhân dân lập các uỷ ban mặt trận làm chức năng chính quyền cách mạng. Các tổ chức quần chúng được phát triển mạnh từ tỉnh xuống xã, ấp. Việc giảm tô, bảo đảm nguyên canh, chia lại công điền trong các vùng giải phóng được thực hiện. Phong trào thi đua sản xuất, đánh giặc lên mạnh. Mọi người hăng hái sản xuất, tích trữ lương thực, xây dựng làng xã chiến đấu, dân quân, du kích được huấn luyện theo phương án đã được vạch sẵn1. Các hoạt động văn hoá giáo dục, y tế được chú trọng. Các trường học, phòng thông tin, nhà bảo sinh được dựng lên ở nhiều nơi. Cách mạng đã đem lại cho nhân dân các vùng giải phóng những quyền lợi thiết thực, mặc dù còn ít nhưng nó đã tạo nên không khí phấn khởi tin tưởng. Thanh thế của vùng giải phóng thu hút, cổ vũ mạnh mẽ đối với đồng bào trong vùng địch kiểm soát. Đó là kết quả của quá trình phấn đấu gian khổ của nhân dân miền Nam sau một năm đồng khởi nhằm tạo ra thế mới, lực mới cho cách mạng.

Từ giữa năm 1961, Mỹ - Diệm bắt đầu triển khai thực hiện kế hoạch bình định miền Nam bằng nhiều thủ đoạn, biện pháp khốc liệt và đẫm máu. Trước mắt, chúng cấp tốc mở các cuộc hành quân lớn, nhỏ từ cấp đại đội đến sư đoàn, kết hợp chặt chẽ giữa quân chủ lực với bảo an, dân vệ, cảnh sát, thám báo càn quét hỗ trợ cho lực lượng “bình định” dồn dân vào ấp chiến lược. Ở Nam Bộ, địch mở thí điểm chiến dịch “Xây dựng nông thôn”, trọng điểm ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Long An và Bình Tuy. Mở đầu là cuộc hành quân Lam Sơn của sư đoàn 7 ngụy đánh vào Tây Ninh và Long An có 50 xe tăng, thiết giáp, nhiều giang thuyền và hàng trăm lượt máy bay yểm trợ nhằm gom dân, thu hẹp căn cứ của Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền.

Tại Long An, lực lượng vũ trang và nhân dân đã đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch, diệt, bức rút hàng chục đồn, bốt, giữ vững quyền làm chủ ấp, xã. Du kích xã Đức Tân, huyện Tân Trụ trụ bám địa bàn, đánh lui tám đợt tiến công của một tiểu đoàn chủ lực ngụy, diệt hàng trăm tên. Tại đây đã xuất hiện phong trào bao vây, bắn tỉa, tiêu diệt địch. Tiêu biểu cho phong trào này là xã đội trưởng Huỳnh Văn Đảnh, với 75 viên đạn đã bắn hạ 78 tên địch2. Đồng chí chỉ huy du kích bắn tỉa nhiều ngày, khiến binh linh trong bốt sợ hãi không dám tự do đi ra ngoài. Phối hợp với đấu tranh vũ trang, ngày 18-8-1961, ba vạn quần chúng ở Cần Giuộc, Bến Lức, Cần Đước kéo tới quận lỵ đấu tranh đòi địch không được càn quét, bắn pháo, bắt bớ trái phép. Địch xả súng bắn chết ba người, lập tức hai vạn quần chúng ở các nơi trong tỉnh đến tiếp sức. Địch buộc phải chấp nhận yêu sách trừng trị bọn giết người và để cho đồng bào ta làm lễ cầu siêu cho những người bị địch giết hại.

Tại Tây Ninh, hàng chục ngàn người ở các huyện Trảng Bàng, Châu Thành, Bến Cầu và Toà Thánh đã tổ chức các cuộc đấu tranh trực diện chống địch bắn pháo vào làng, chống địch càn quét gom dân, đòi bồi thường thiệt hại.
_____________________________________
1. Vùng căn cứ liên hoàn từ miền tây Quảng Trị đến bắc đường 21 (Đắc Lắc) có 450.000 dân, trong năm tháng đầu năm 1961 đồng bào các dân tộc đã đóng góp 3.200 tấn gạo nuôi quân.
2. Đồng chí Huỳnh Văn Đảnh được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:00:27 pm

Ở tỉnh Thủ Dầu Một từ tháng 7 đến tháng 10-1961, bộ đội địa phương và du kích đã đánh địch phá rừng Thuận An Hoà, tiêu diệt địch ở Tua Cầu, Trại Cưa, chặn đánh xe quân sự ở Thạch An. Đại đội 304 của tỉnh cùng du kích xã Tân An (Bến Cát), kết hợp nội công ngoại kích diệt hai trung đội địch ở đồn Bến Thế. Tiểu đội du kích xã Phú An (Bến Cát) đánh lui một trung đội địch và tám xe ủi đất chuẩn bị gom dân, lập ấp chiến lược. Trong trận này, chiến sĩ du kích Nguyễn Văn Được lập chiến công bằng 10 viên đạn, diệt chín tên địch.

Chiến thắng nổi bật nhất của quân và dân miền Đông Nam Bộ trong thời gian này là trận đánh Phước Thành. Phước Thành là một địa bàn xung yếu nằm trên trục lộ giao thông chiến lược số 14, cách Sài Gòn gần 50 km, là cửa ngõ quan trọng của chiến khu D - căn cứ địa cách mạng của miền Đông và cả chiến trường Nam Bộ.

Do vị tri trọng yếu của Phước Thành, cho nên năm 1959 tổng thống ngụy đã ký sắc lệnh thành lập tỉnh Phước Thành, cắt từ địa phận của các tỉnh Bình Dương, Phước Long, Long Khánh gộp lại. Để bảo vệ và phòng thủ Phước Thành, lực lượng quân ngụy được tăng cường lên đến 2.000 tên. Bộ máy chính quyền, các mạng lưới tình báo, gián điệp, tề, vệ ác ôn ở đây đều được lựa chọn loại tin cẩn. Hệ thống đồn, bốt được xây dựng khá dầy đặc bên cạnh hệ thống khu dinh điền, khu trù mật mà tuyệt đại là đồng bào công giáo di cư. Hằng ngày, chúng đều tổ chức các cuộc hành quân càn quét để tìm diệt lực lượng cách mạng. Địch còn xây dựng ở đây trại giam Phước Vĩnh để giam cầm, tra tấn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào yêu nước của ta. Diệm đã nhận định Phước Thành ra đời như một ngọn giáo cắm phập vào chiến khu D.

Không thể để cho Phước Thành trở thành căn cứ khống chế và bàn đạp xuất phát hành quân của quân ngụy đánh phá vùng chiến khu D và ngăn chặn hành lang tiếp tế của ta từ phía Bắc vào, đầu tháng 9-1961, Khu uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu miền Đông quyết định tấn công tiêu diệt tiểu khu quân sự Phước Thành.

Ban chỉ huy trận đánh do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Việt Hồng chính uỷ. Lực lượng tham gia gồm tiểu đoàn 500, đại đội 260 đặc công - trinh sát, phân đội ĐKZ 57 ly (5 khẩu) làm nhiệm vụ chủ công đánh vào tỉnh lỵ. Các đơn vị bộ đội địa phương của tỉnh Phước Thành, huyện Phú Giáo, huyện Tân Biên, đội biệt động của thị xã Phước Vĩnh phụ trách hướng tiến công phía bắc và làm đội dự bị. Du kích các xã phụ cận được giao nhiệm vụ chặn viện, diệt ác phá kìm, phát động quần chúng nổi dậy, bí mật chuyển lương thực phục vụ bộ đội.

Đánh vào một tiểu khu quân sự, một cơ quan đầu não cấp tỉnh của địch được bố phòng chặt chẽ, có quân số hơn ta gấp năm lần (ta 400 quân, địch 2.000 quân), vũ khí, trang bị tương đối hiện đại, lãnh đạo, chỉ huy của ta đã phân tích cân nhắc thận trọng. Sau khi trinh sát, nắm chắc cách bố trí lực lượng của địch, Ban chỉ huy hạ quyết tâm, chọn cách đánh: “Bí mật tiềm nhập kết hợp với vận động tiến công”, thực hiện trong đánh ra ngoài đánh vào. Đây là trận tiến công quy mô đầu tiên của Quân giải phóng vào một tỉnh lỵ của địch.

Đêm 17-9, các đơn vị hành quân vào vị trí sẵn sàng chờ lệnh. Đúng 23 giờ, trái bộc phá 12kg do chiến sĩ ta bí mật đặt ngay chân cầu thang nhà tên tỉnh trưởng, nổ vang trời. Hiệu lệnh trận đánh bắt đầu. Các mũi tiến công xung phong đánh chiếm các mục tiêu. Bị đánh bất ngờ, quân địch hoàn toàn bị động không đối phó kịp. Cùng thời gian này, các lực lượng phối thuộc, phối hợp với du kích chặt cây đắp ụ làm vật cản xe cơ giới địch, không cho chúng đến cứu viện cho Phước Thành. Nhân dân vùng chung quanh nổi trống, mõ phát loa kêu gọi binh lính ở các đồn, bốt ra hàng.

Kết quả trận đánh, ta tiêu diệt và làm tan rã một tiểu đoàn biệt động quân, một tiểu đoàn bảo an, một chi đội thiết giáp, một đại đội cảnh sát dã chiến và một tổng đoàn dân vệ. 300 tên bị diệt tại chỗ, 400 tên đầu hàng. Tên Nguyễn Minh Mẫn, tỉnh trưởng, là tên ác ôn khét tiếng bị bắn chết tại chỗ; tên phó tỉnh trưởng, và một số viên chức hành chính tỉnh bị bắt. Ta phá huỷ hai đại bác 105 ly, 16 xe quân sự, thu hơn 600 súng các loại và nhiều đồ dùng quân sự, giải thoát được hơn 300 tù chính trị. Ta làm chủ thị xã Phước Vĩnh ba ngày đêm. Phát huy thắng lợi trận đánh, quân du kích tiếp tục bao vây hàng chục đồn, bốt và làm công tác binh vận, giải toả các lộ 13, 14, 8. Vơi số vũ khí lấy được và số anh em tù chính trị được giải phóng sau trận Phước Thành, ta lập nên tiểu đoàn 800 chủ lực của miền Đông.

Chiến thắng Phước Thành trước hết thể hiện tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của bộ đội ta đánh vào một tỉnh lỵ của địch. Đó còn là sự phối hợp hiệp đồng chíến đấu chặt chẽ giữa lực lượng chủ lực và địa phương, giữa quân sự, chính trị và binh vận. Chiến thắng Phước Thành làm cho ngụy quân, ngụy quyền ở địa phương hoang mang. Chúng phải chịu thất bại một bước quan trọng trong âm mưu đánh phá căn cứ địa cách mạng của ta. Sau đó, địch phải giải thể tỉnh Phước Thành.

Bộ quốc phòng Mỹ phải xác nhận ý nghĩa to lớn của trận đánh này của ta: “Trận tiến công lớn nhất đã có tác động làm cho Sài Gòn nhốn nháo là trận họ đánh chiếm Phước Thành, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn có 55 dặm. Việt cộng chiếm giữ thị xã này gần suốt cả ngày và công khai chặt đầu viên tỉnh trưởng và rút lui trước khi quân đội Việt Nam tới”1.
_____________________________________
1. Tài liệu mật của Bộ quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, t.I, Việt Nam Thông tấn xã phát hành tháng 8-1971, tr.93.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:01:29 pm

Sau Phước Thành, ở Tây Ninh ta phá 19 đồn, uy hiếp địch sát thị xã Gò Dầu, Trảng Bàng, Bến Cầu.

Ở Bến Tre (tháng 9-1961) địch mở chiến dịch “bình định chiêu an” lấy Mỏ Cày làm trọng điểm, hòng đánh phá vùng giải phóng và căn cứ bàn đạp của ta. Đại đội 261 của tỉnh và lực lượng vũ trang huyện liên tiếp phục kích, tập kích đánh địch. Nổi bật là trận tập kích vào đại đội bảo an tại An Định, diệt hai trung đội địch. Lực lượng vũ trang huyện Thạnh Phú diệt đại đội bảo an ở Giá Thẻ, thu 72 súng.

Quân và dân Cà Mau, Bạc Liêu đẩy mạnh tiến công địch bằng ba mũi giáp công, bằng chiến thuật vừa bao vây, bắn tỉa, vừa nghi binh hù doạ, vận động, tuyên truyền bỏ ngũ. Kết quả nhiều binh sĩ trong đồn địch hạ súng xin đầu hàng, nhiều đồn bốt không bị đánh mà tan, kéo theo sự sụp đổ của ngụy quyền tại chỗ, tạo điều kiện cho ta phát triển thêm lực lượng và mở rộng căn cứ.

Ở Khu V, Bộ Tư lệnh quân khu quyết định mở đợt hoạt động trên phạm vi toàn quân khu. Ngày 30-8-1961, bộ đội khu kết hợp với địa phương đánh chiếm quận lỵ Đắk Hà (Kon Tum), diệt gọn quân địch trong cứ điểm. Ngày 2-9-1961, hai tiểu đoàn của sư đoàn 22 ngụy từ Đắk Tô kéo xuống chiếm lại Đắk Hà. Lực lượng đánh viện của ta đã biết vận dụng lợi thế về địa hình, tạo ra thế chia cắt đánh địch từ nhiều hướng. Sau một ngày chiến đấu liên tục ta diệt gần hết tiểu đoàn đi đầu, đánh tan tiểu đoàn thứ hai, bắt hơn 100 tù binh, thu gần một tấn súng đạn. Chiến thắng Đắk Hà tạo điều kiện cho nhân dân 28 làng dọc đường số 5 từ thị xã Kon Tum đi Ba Tơ (Quảng Ngãi) nổi dậy phá kìm kẹp. Cũng thời gian này, bộ đội khu phối hợp với bộ đội tỉnh diệt cứ điềm Làng Rô (tây Quảng Nam), diệt và bức rút nhiều đồn ở Vĩnh Thạnh (tây Bình Định), Ba Tơ, Sơn Hà (miền tây Quảng Ngãi). Ở Gia Lai, ta diệt đồn Cửu An, Kan Nắk, tập kích địch ở thị trấn An Khê và nhiều đồn khác, bắt sống 300 tên địch. Nhân dân ở 100 làng vùng đất bằng, trong đó có nhiều khu dinh điền sát vùng ven thị Plâyku nổi dậy xoá bỏ ngụy quyền, lập chính quyền tự quản. Tại các huyện M'drắk, Cheo Reo, Buôn Hồ (Đắk Lắk) được lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân nổi dậy giành chính quyền, làm chủ nhiều làng buôn.

Trong khi đó, các tỉnh đồng bằng và ven biển bị địch kìm kẹp nặng cho nên phong trào đấu tranh của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn. Nhân kỷ niệm bảy năm ký hiệp định Giơnevơ (20-7-1961), toàn khu phát động đợt đấu tranh tố cáo tội ác của Mỹ, Diệm. Các đội vũ trang tuyên truyền luồn vào vùng địch diệt những tên có nợ máu với nhân dân. Các đơn vị chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương đánh địch, hỗ trợ cho phong trào nổi dậy giành quyền làm chủ của nhân dân ở đồng bằng. Tiểu đoàn 60, 70 cùng với lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam giải phóng hai xã Phước Ngọc, Phước Lãnh (Tiên Phước) và hai xã Kỳ Yên, Kỳ Thạch (Tam Kỳ). Tiểu đoàn 90 và 50 cùng lực lượng vũ trang hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định tiến công địch, giải phóng hoàn toàn chín thôn nối liền nhau của hai xã Ân Hảo, Ân Hoà (Bình Định), các xã Bình Khương, Bình Phiêu, Hành Tín (Quảng Ngai) và hàng chục thôn khác dọc vùng giáp ranh các huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Đức Phổ (Quảng Ngãi ), An Lão, Vân Canh (Bình Định).

Lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên tiêu diệt địch, giải phóng các xã An Xuân, An Lĩnh. Ngày 30-10-1961, chấp hành chỉ thị của cấp trên, tổ trinh sát của tỉnh đội Phú Yên, có sự giúp đỡ của cơ sở, mưu trí giải thoát được luật sư Nguyễn Hữu Thọ tại thị xã Tuy Hoà. Địch huy động mọi lực lượng ráo riết truy lùng, nhưng ta đã bảo vệ và đưa luật sư đến khu căn cứ an toàn1.
_____________________________________
1. Theo sánh: Chung một bóng cờ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, trang 437: chính quyền địch đã ra lệnh buộc luật sư trở lại Củng Sơn, quản thúc chặt chẽ hơn. Ta đã bí mật liên lạc được với luật sư và hẹn điểm gặp gỡ là mả bà Dũ Ký, cách thị xã Tuy Hoà khoảng 5 km. Nhận được mật hiệu và địa điểm, luật sư viết thư cho tỉnh trưởng xin ở lại thị xã Tuy Hoà một tháng để chữa bệnh, rồi quyết định đi tìm địa điểm trên.
    Luật sư đã làm quen được với bà hàng xén có con tập kết ra Bắc. Đây lại đúng là một địa danh hẹn hò bí mật của cách mạng để rước người từ thị xã ra căn cứ. Được sự chỉ dẫn, luật sư đã tìm đến điểm hẹn, anh em liên lạc đưa quần áo cải trang và dẫn đi luôn. Một trung đội vũ trang chốt rải rác trên đường đi và cứ cuốn chiếu theo hành trình của luật sư. Khoảng 12 giờ trưa 31-10-1961, anh em đưa luật sư về đến căn cứ của Tỉnh uỷ Phú Yên.
    Nghỉ ngơi hồi phục sức khoẻ một thời gian ngắn, luật sư được hướng dẫn về căn cứ Trung ương Cục. Đường đi từ Phú Yên vào Tây Ninh bấy giờ mới chỉ là đường mòn, đất đá lởm chởm, phải qua nhiều sông, suối, núi, đèo. Anh em bảo vệ đã đưa luật sư về đến căn cứ an toàn, để cùng với các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục khẩn trương chuẩn bị cho Đại hội lần thứ nhất của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam vào đầu năm 1962.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:02:49 pm

Tại Khu VI, lực lượng vũ trang các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận tiêu diệt các cứ điểm ở Gia Bát, Láng Cốc, La Bá. Nhân dân miền tây Khánh Hoà và vùng căn cứ miền núi Bình Thuận, Ninh Thuận mở rộng quyền làm chủ với 36.000 dân. Lực lượng dân quân, du kích vùng căn cứ Bác Ái, Di Linh, Khánh Sơn phát triển mạnh. Ngày 10-8-1961, một tổ của tiểu đoàn 120 chủ lực quân khu cùng anh hùng Pi Năng Tắc (người đã sáng tạo ra hệ thống bố phòng liên hoàn bằng vũ khí thô sơ) khéo léo nhử địch vào trận địa “bẫy đá” bày sẵn tại đèo Gia Trúc bên bờ sông Tương rồi bất ngờ nổ súng kết hợp với sập “bẫy đá”. Những tảng đá từ trên núi đổ xuống làm chết, bị thương hơn 80 tên lính ở dưới. Địch phải sử dụng máy bay chiến đấu yểm trợ cho hai trực thăng chở xác chết trong ngày. Tháng 9-1961, tiểu đoàn 120 lại diệt đồn Cửu Lợi thuộc quận Cam Lâm (Ninh Thuận). Sau đó (tháng 10-1961) tiểu đoàn 120 phối hợp với bộ đội tỉnh Khánh Hoà đánh địch ở Cấm Sơn. Trận đánh kéo dài ba giờ, ta diệt một đại đội bảo an, một chi đội xe bọc thép, thu toàn bộ vũ khí. Trận Cấm Sơn làm tan rã lực lượng địch ở nhiều ấp, xã trên vùng rộng từ Đại Điền của Diên Khánh vào đến Suối Dầu. Cuối năm 1961, theo sự chỉ đạo của khu, tiểu đoàn 120 chuyển một nửa lực lượng sang hoạt động ở phía bắc Ninh Thuận để hỗ trợ cho phong trào ở đây. Tiểu đoàn diệt đồn Mỹ Tường, chặn đánh thiệt hại một đại đội bảo an tăng cường của tiểu khu Phan Rang. Tiểu đoàn 120 tổ chức bảo vệ hành trăm đồng bào dân tộc ở căn cứ Bác Ái đã hơn một năm sống bất hợp pháp với địch đi xuống cánh đồng muối ở Phương Cựu lấy muối về ăn.

Phối họp với đấu tranh quân sự, ngày 20-7-1961, nhân kỷ niệm ngày ký Hiệp nghị Giơnevơ, ở Sài Gòn truyền đơn, biểu ngữ, cờ Mặt trận xuất hiện nhiều nơi trong thành phố. Những khẩu hiệu đòi: “Thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ”, “Thực hiện hoà bình, trung lập ở miền Nam” được tung ra ở nhiều nơi. Những cuộc bãi công đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ liên tiếp nổ ra ở các hãng nước ngọt BIG, xưởng đóng tàu CARIC, nhà đèn Chợ Quán, ôtô buýt, xe lửa, cầu đường, hãng rượu Bình Tây... Nối bật nhất là cuộc đình công chiếm xưởng từ ngày 6 đến ngày 22-9-1961 của 400 công nhân thuộc bốn cơ sở của hãng dầu Mỹ Stanvác ở Sài Gòn. Hãng dầu này còn gọi là hãng Con ngựa bay, một hãng dầu lớn có chi nhánh ở hầu khắp Đông Nam Á, độc quyền cung cấp xăng dầu cho các sân bay quân sự, các đơn vị cơ giới của Mỹ, ngụy. Cuộc đấu tranh của công nhân đã làm tê liệt hàng trăm trạm bơm dầu, làm ngừng trệ việc cung cấp xăng dầu cho máy bay phản lực Mỹ một thời gian. Bọn chủ hãng bị thiệt hại từ ba đến năm triệu đồng mỗi ngày. Trong khi công nhân hãng Stanvác đang bãi công thì hàng vạn công nhân ở đồn điền cao su Biên Hoà, Thủ Dầu Một và trên 100 nghiệp đoàn ở Sài Gòn - Chợ Lớn cùng hàng ngàn bà con nông dân ở ngoại thành lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh. Trước tình hình rất nghiêm trọng đó, chính quyền ngụy buộc bọn chủ hãng phải bãi bỏ lệnh sa thải, chấp nhận tăng lương từ 6-12% cho công nhân, đồng thời hứa sẽ cải thiện chế độ làm việc trong hãng.

Vào những tháng cuối năm 1961, mũi đấu tranh binh vận cũng được đẩy mạnh. Các tổ chức làm công tác binh vận từ tỉnh xuống xã, ấp bước đầu nắm được danh sách binh lính ngụy ở từng địa phương và có kế hoạch vận động cụ thể. Ta giáo dục và tổ chức cho các gia đình đi gọi con em bỏ hàng ngũ địch trở về với cách mạng. Ngày 15-10-1961, trên một vạn người nhà binh sĩ ngụy kéo đến trại huấn luyện Quang Trung (Gia Định) đấu tranh đòi Mỹ, ngụy thả chồng con, anh em họ trở về với gia đình. Ngày 30-10-1961, hơn hai vạn chị em phụ nữ, trong đó có 300 gia đình binh sĩ ngụy kéo vào thị xã Bến Tre biểu tình chống địch khủng bố, chống bắt lính.

Để gom dân lập “ấp chiến lược”, ngày 29-12-1961, địch huy động hàng ngàn quân gồm chủ lực, bảo an, dân vệ mở cuộc càn quét dài ngày, bắn phá dã man đồng bào ta ở huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá. Văn phòng huyện ủy, bộ đội huyện, dân quân, du kích cầm cự được ba ngày phải rút vào cố thủ trong hang Hòn. Hang Hòn nằm ở lưng chừng Hòn Đất. Tại đây đã nổ ra cuộc chiến không cân sức giữa ta và địch. Địch tập trung lực lượng đông, được trang bị vũ khí tối tân và cố vấn Mỹ chỉ huy, bao vây xung quanh Hòn Đất nhằm nhổ tận gốc lực lượng cách mạng ở đây. Ta dựa vào hang, sử dụng súng trường, lựu đạn giành giật nhau với địch từng gộp đá, bụi cây, đánh bật các đợt xung phong của địch. Có ngày lực lượng ta phải đẩy lùi 32 trận tiến công của địch và phải đấu trí từng giây, từng phút với những thủ đoạn tâm lý chiến của kẻ thù. Phối hợp với lực lượng trong hang, nhân dân các vùng lân cận liên tiếp tổ chức các cuộc đấu tranh chính trị và binh vận. Trong suốt mười ngày chiến đấu quyết liệt và gian khổ, mặc cho kẻ địch dùng thủ đoạn nham hiểm, thả thuốc độc xuống suối và đốt lửa hun khói vào hang, nhưng do biết kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, quân và dân ta vẫn giữ vững trận địa. Để hỗ trợ cho Hòn Đất, tỉnh Rạch Giá chỉ đạo cho các huyện Hà Tiên, Giồng Riềng, Gò Quao tiến công các chi khu và đồn bốt nhằm căng kéo phân tán lực lượng địch. Tiểu đoàn U Minh nhận lệnh từ An Biên hành quân lên Hòn Đất giải vây cho lực lượng Châu Thành. Do có sự chỉ đạo chặt chẽ của tỉnh và sự phối hợp tốt giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận, địch buộc phải rút khỏi Hòn Đất đem theo hàng trăm xác chết và bị thương.

Trong những ngày chiến đấu ác liệt này, nữ đồng chí Phan Thị Ràng (tức Tư Phùng)1, cán bộ thanh vận huyện đã tích cực lo cho đồng đội ở hang Hòn từng chén cơm, bát nước để bám trụ chiến đấu. Lực lượng của ta trong hang không có nước uống phải dùng nước tiểu, mọi người gần như kiệt sức. Chị Ràng dũng cảm vượt ra ngoài len lỏi qua vùng lính địch bao vây, tìm nước mang vào hang. Chị bị giặc bắt. Bọn ác ôn treo chị lên một cây xoài, dùng nứa, lưỡi lê cắt xẻo từng miếng thịt làm cho thân thể chị sưng vù, thâm tím. Dù bị địch dùng cực hình tra tấn và dùng chiến tranh tâm lý ép buộc, mua chuộc, chị vẫn giữ tròn khí tiết, một lòng, một dạ trung thành với cách mạng đến hơi thở cuối cùng. Ngày 9-1-1962, chị Ràng đã hy sinh anh dũng giữa tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống, chị để lại trong lòng nhân dân sự cảm phục, tiếc thương vô hạn tấm gương một người con trung kiên, bất khuất.

Sau một năm tiến hành chiến tranh cách mạng, quân và dân miền Nam đã khắc phục mọi khó khăn, vượt qua những thử thách ác liệt đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị trên cả ba vùng chiến lược, từng bước đưa phong trào cách mạng tiến lên. Trong năm 1961, bằng tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, quân, dân ta đánh đòn phủ đầu vào kế hoạch Stalây - Taylo, làm cho Mỹ-Diệm phải bị động về chiến lược.

Trên mặt trận quân sự, ta đã mở 15.525 trận tiến công, phản công lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 28.966 tên địch, bắt 3.529 tên khác, thu 6.000 súng các loại. Song song với đòn tiến công quân sự, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân cũng phát triển mạnh. Ta đã huy động 33,8 triệu lượt người xuống đường đấu tranh trực diện với địch và làm công tác binh vận, tác động, lôi kéo được 14.500 binh sĩ ngụy đào, rã ngũ. Vùng giải phóng được mở rộng, với hơn một vạn thôn, xã. Nhờ đó, trong năm 1961, ta đã xây dựng được căn cứ hậu cần tại chỗ, nhân dân cung cấp lương thực, thực phẩm bảo đảm một phần nhu cầu cho lực lượng vũ trang và các ngành. Nhiều thanh niên ở các vùng giải phóng hăng hái gia nhập lực lượng vũ trang cách mạng. Riêng các tỉnh đồng bằng Khu V và Khu VI, nhân dân ở 230 xã nổi dậy phá thế kìm kẹp của địch, sáu vạn dân trong 48 xã giành được quyền làm chủ, 1.300 thanh niên gia nhập Quân giải phóng, xây dựng 154 đội vũ trang.

Thắng lợi của quân và dân miền Nam trong năm 1961 tạo ra những tiền đề rất quan trọng để đưa cuộc chiến tranh cách mạng tiến lên. Tuy nhiên, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, năm đầu ta chưa có kinh nghiệm về tổ chức lực lượng, về phương pháp đấu tranh hai chân ba mũi trên cả ba vùng chiến lược, cho nên gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, vùng đồng bằng còn bị địch kìm kẹp, lực lượng lãnh đạo và nòng cốt ở thôn, xã yếu, phong trào đô thị chưa mạnh, lực lượng vũ trang, tuy có phát triển, nhưng còn ít về số lượng, yếu về trang bị vũ khí, kinh nghiệm chiến đấu. Vì vậy, trước những biện pháp và thủ đoạn chiến lược mới của địch, phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở nhiều nơi còn bị động và bị tốn thất.

Không chịu lùi bước trước mọi khó khăn, thử thách, quân và dân ta vừa kiên trì chiến đấu vừa rút kinh nghiệm vận dụng phương châm, phương pháp đấu tranh, phát triển lực lượng vũ trang và chính trị để tạo ra thế mới, lực mới, tiến lên làm thất bại hoàn toàn kế hoạch Stalây – Taylo, giai đoạn đầu của chiến lược chiến tranh đặc biệt.
_____________________________________
1. Chị Ràng đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang năm 1994.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:03:43 pm

II- CHƯƠNG TRÌNH BÌNH ĐỊNH 18 THÁNG CỦA ĐỊCH BỊ PHÁ SẢN

Không phải chờ đến lúc Tổng thống Kennơđi và Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ chuẩn y kế hoạch của Taylo (16-11-1961) về việc mở rộng phái đoàn cố vấn, dùng quân Mỹ hỗ trợ cho quân ngụy trong các cuộc hành quân được Giônxơn (Phó tổng thống Mỹ) coi đó là “một quyết định cơ bản về Việt Nam, là chính thức lao vào cuộc chiến tranh đặc biệt”, mà ngay từ tháng 6-1961, Mỹ - Diệm đã triển khai thực hiện chương trình bình định 18 tháng, bằng các biện pháp:

- Tăng cường lực lượng quân ngụy về số lượng, trang bị và tính cơ động, mở nhiều cuộc hành quân có máy bay lên thẳng, xe thiết giáp hỗ trợ bao vây, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng.

- Khẩn trương bình định, lấy việc lập ấp chiến lược làm trọng điểm để dập tắt phong trào cách mạng của quần chúng.

- Ra sức ngăn chặn biên giới, kiểm soát ven biển, cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc vào nhằm cô lập cách mạng miền Nam.

Ngày 17-9, phái đoàn cố vấn của Anh về các vấn đề hành chính và chính sách do Tômxơn, chuyên gia về chống du kích của Anh ở Malaixia, được Diệm mời sang làm cố vấn bình định. Diệm còn cử nhiều đoàn đi nghiên cứu, học tập kinh nghiệm chống du kích, dồn dân, lập ấp chiến lược ở Malaixia, Philippin.

Kế hoạch Xtalây-Taylo coi việc xây dựng hệ thống ấp chiến lược là xương sống của chiến tranh đặc biệt. Từ tháng 7-1961, chúng làm thí điểm rút kinh nghiệm ở Vĩnh Long (Nam Bộ), Quảng Ngãi (Trung Bộ), đến tháng 4-1962, nâng lên thành quốc sách - một quốc sách mà Diệm nói đi nói lại là “không được nghĩ đến thất bại” - đem thực hiện trên toàn miền Nam, trước hết tập trung vào các vùng ưu tiên quốc gia. Phương châm của chúng là: càn quét để dồn dân, lập ấp chiến lược và dùng ấp chiến lược làm bàn đạp để càn quét. Cả hai việc bổ sung cho nhau, có càn quét diệt được lực lượng cách mạng, mới dồn được dân lập ấp chiến lược thành công và có lập ấp chiến lược thành công mới tách dân chúng khỏi lực lượng cách mạng để tiêu diệt. Chúng hy vọng khi xây dựng xong ấp chiến lược trên toàn miền Nam thì cộng sản sẽ suy tàn, vì đã trục xuất được du kích ra khỏi nhân dân. Mỹ-Diệm gọi năm 1962 là năm phản công, năm lập ấp chiến lược.

Việc lập ấp chiến lược được triển khai với những mức độ và cách làm khác nhau tuỳ theo từng vùng, nhưng mục tiêu chung phải đạt: Mỗi ấp chiến lược là một trại giam trá hình. Bao bọc chung quanh ấp là ba hàng rào bằng tre và hệ thống dây thép gai. Giữa hai hàng rào là giao thông hào rộng hai mét, sâu 1 mét 50 có cắm chông và gài mìn. Muốn vào trong ấp phải vượt qua ba hàng rào và hai hào sâu. Sự liên lạc giữa bên ngoài với trong ấp là cực kỳ khó khăn. Bốn góc ấp chiến lược có bốt gác, tối đến các cổng ra vào đều đóng kín. Các ấp chiến lược xung yếu có đồn lính bảo an đóng bên cạnh. Ở mỗi ấp có ban trị sự đứng đầu là những tên ấp trưởng, ấp phó khét tiếng gian ác kìm kẹp dân bằng bộ máy quân sự hoá. Tại trụ sở ấp có bản đồ phân loại các gia đình, chúng chia nhân dân trong ấp ra làm ba loại để giám sát, khống chế: Loại một là gia đình cách mạng hay có cảm tình với cách mạng ở thành lô riêng để theo dõi và bắt bớ, đàn áp nếu có hiện tượng liên hệ với cách mạng. Loại hai là gia đình lừng chừng, chúng mua chuộc lôi kéo, dụ dỗ, ly gián lẫn nhau kết hợp với đe dọa. Đối với dân loại ba là những hộ thuộc gia đình binh sĩ ngụy ác ôn, loại có công với chính quyền ngụy, chúng có chính sách ưu đãi và sử dụng họ để theo dõi khống chế nhân dân trong ấp. Mỗi ấp có một nhà thờ Thiên chúa giáo. Mọi sinh hoạt của người dân trong ấp chiến lược từ việc học tập cải huấn, đấu tố đến việc cưới xin, ma chay, cầu hôn, tế lễ... đều diễn ra ở nhà thờ và phải xin phép chính quyền. Ai không đến nhà thờ bị ghi sổ đen và gọi lên cảnh sát và bị thủ tiêu lúc nào không biết. Đây là thủ đoạn hết sức thâm độc nhằm đánh vào lòng người bằng xây dựng niềm tin tôn giáo.

Để dồn được dân chúng vào trong các ấp chiến lược, biện pháp của địch là tăng cường càn quét đánh phá, đốt nhà, cướp của, truy tróc giết hại những người yêu nước, làm cho nhân dân phải sống cảnh màn trời chiếu đất, mất kế sinh nhai.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:04:10 pm

Ngày 18-2-1962, địch huy động chín tiểu đoàn chủ lực mở chiến dịch đánh vào vùng U Minh Hạ (Cà Mau) để dồn 60.000 dân vào ấp chiến lược. Chúng dùng bom đạn phá nát những cánh rừng, làng mạc, ruộng đồng, cướp đi hàng trăm giạ lúa, hàng chục trâu bò, bắn giết dân thường. Trước tình hình nước sôi lửa bỏng đó, Trung ương Cục lãnh đạo các khu, tỉnh động viên, tổ chức cho nhân dân, lực lượng vũ trang kiên quyết chống lại. Bằng những chủ trương, biện pháp cụ thể ngay từ đầu địch càn, quân và dân U Minh kết hợp vũ trang với chính trị đấu tranh chống địch. Hằng ngày tỉnh và huyện huy động từ 300 đến 500 dân kéo đến các trụ sở, đồn bốt của địch, tố cáo tội ác của giặc đòi chấm dứt càn quét. Phối hợp với đấu tranh chính trị, lực lượng vũ trang giải phóng tiến công địch ở Đầm Dơi, Cái Nước và nhiều vị trí khác, diệt 572 tên, làm bị thương 558 tên.

Bị thất bại trong cuộc càn quét vùng U Minh Hạ, ngày 23-2 địch mở tiếp chiến dịch “Mặt trời mọc” gồm 8.000 quân, 50 máy bay lên thẳng và nhiều máy bay khác. Đây là chiến dịch quy mô sư đoàn chủ lực ngụy đánh phá cơ sở cách mạng, truy lùng lực lượng vũ trang ta và gom dân lập ấp chiến lược ở Bến Cát và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ. Trong gần ba tháng, chúng mở hàng trăm cuộc càn quét, đốt trên 3.000 nóc nhà, 32.000 giạ lúa, phá 15.000  mẫu vườn, giết chết 48 đồng bào, làm bị thương 175, bắt giam 1.337 người. Tội ác dã man của địch “trời không dung, đất không tha”. Quân và dân ta không lùi bước, kiên quyết đấu tranh chống lại chúng. Từ tháng 3 đến tháng 6-1962, riêng quân, dân tỉnh Bình Dương tổ chức 38 cuộc mít tinh, biểu tình, 1.072 cuộc đấu tranh trực diện với chính quyền ngụy, đòi chấm dứt chiến dịch, đòi giải tán ấp chiến lược, để phối hợp với các lực lượng vũ trang tiến công địch trên các hướng. Suốt trong thời gian địch càn quét, bộ đội và dân quân, du kích tích cực bám sát địch, tổ chức đánh 253 trận, diệt 300 tên lính ngụy, bảy xe quân sự.

Ngày 9-4, hơn 10.000 đồng bào Gò Công biểu tình, kéo vào thị trấn đấu tranh. Ngụy quyền địa phương đưa 400 quân và cảnh sát ra khủng bố. Chúng bắt một số người trói phơi nắng và ra điều kiện mỗi người phải nộp 100 đồng mới được tha về. Đồng bào không chịu, đã chống lại quyết liệt. Sáng 10-4, 4.000 người từ nông thôn kéo vào tiếp sức hô vang khẩu hiệu “Đả đảo bọn giết người”, “Nợ máu phải trả bằng máu” v.v... Địch tăng cường khủng bố, nhưng vẫn không dập tắt được ngọn lửa đấu tranh. Ngày 14-11, hàng ngàn người khác lại kéo vào hợp sức. Hưởng ứng cuộc đấu tranh của đồng bào nông thôn, nhiều cửa tiệm, cửa hàng đóng cửa ngừng bán hàng, xe cộ ngừng hoạt động. Trước tinh thần đoàn kết, đấu tranh của nhân dân, địch phải tạm lùi bước, xoa dịu, mua chuộc và chấp nhận một số yêu sách của đồng bào.

Sau cuộc đấu tranh của nhân dân Gò Công, ngày 12-4, gần 30.000 đồng bào Mỹ Tho nổi dậy phá tan một số ấp chiến lược, trở về làng cũ làm ăn. Hàng vạn nhân dân ở các huyện Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Bình Đại (Bến Tre) liên tục tổ chức các cuộc đấu tranh chống địch càn quét gom dân, cào nhà, tố giác những tội ác cướp của, giết người, bắt phụ nữ cắt tóc ngắn, ngâm nước, phơi nắng của bọn ác ôn.

Trong khi cuộc đấu tranh của quân và dân Nam Bộ đang diễn ra quyết liệt, thì ở Khu V, Khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu chủ trương mở đợt hoạt động đầu năm 1962, phát động nhân dân nổi dậy bằng ba mũi giáp công để phá kìm kẹp, phá ấp chiến lược, giải phóng nông thôn. Các lực lượng vũ trang giải phóng mở hàng loạt trận tiến công tiêu diệt quận lỵ Trà Mi (Quảng Nam), Trà Bồng (Quảng Ngãi), các cứ điểm Định Quang, Hương Nhơn (Bình Định), An Lĩnh, Núi Miếu, Hòn Ngang (Phú Yên).

Ngày 27-2-1962, tiểu đoàn 90 cùng lực lượng vũ trang địa phương Quảng Nam tiến công quận lỵ Trà Mi. Là một thị trấn nằm ở phía tây nam tỉnh Quảng Nam, Trà Mi có vị trí quan trọng là tiền đồn án ngữ từ miền núi xuống đồng bằng. Lực lượng địch gồm bốn trung đội dân vệ đóng giữ bên trong và một đại đội bảo an cơ động bên ngoài.

Bằng cách đánh mưu trí, bí mật tiếp cận, bất ngờ nổ súng, nhanh chóng thọc sâu, sau bốn giờ chiến đấu, ta làm chủ hoàn toàn trận địa. Địch bỏ xác tại trận 54 tên, bị bắt sống 120 tên, một trung đội mang súng ra hàng, ta thu toàn bộ súng đạn, lương thực, quân trang, quân dụng, thu bốn xe GMC và dùng số xe này chở chiến lợi phẩm về căn cứ. Chiến thắng Trà Mi đánh dấu sự trưởng thành về trình độ đánh địch trong công sự vững chắc của lực lượng vũ trang ta. Thắng lợi này tạo thời cơ cho bộ đội địa phương và các đội vũ trang công tác huyện Tiên Phước phát động quần chúng nổi dậy giải phóng hai xã Phước Đông, Dương Yên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:04:42 pm

Ngày 20-4-1962, địch phát hiện một tiểu đội trinh sát đặc công gồm bảy chiến sĩ do đồng chí Lê Tấn Hiền và Võ Như Hưng chỉ huy cùng ba cán bộ của huyện Điện Bàn đang công tác tại thôn 4, xã Điện Ngọc; chúng tập trung một đại đội biệt kích ác ôn và gần một trung đội bảo an dân vệ vây đánh 10 chiến sĩ. Chiến đấu với lực lượng địch đông gấp 50 lần, các chiến sĩ ta dũng cảm, mưu trí, cơ động luồn lách đánh địch giữa ban ngày trong vòng vây của địch. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt, một số đồng chí bị thương, trời lại sắp tối, toàn đội quyết định rút ra chiếm giếng cạn ở giữa đồng tổ chức chiến đấu. Địch mở nhiều đợt xung phong đều bị đánh bật ra. Địch ném lựu đạn vào, các chiến sĩ bình tĩnh nhặt ném trả tiêu diệt chúng. Lợi dụng đêm tối, các chiến sĩ nghi binh kéo địch về một hướng rồi rút khỏi vòng vây, đưa cả thương binh về hậu cứ. Kết quả hơn 100 tên địch bị diệt; ta hy sinh bốn, bị thương một. Tấm gương chiến đấu của các dũng sĩ Điện Ngọc là một biểu hiện rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là một trong những điển hình của phong trào chiến tranh du kích đang phát triển ở Nam Trung Bộ.

Ngày 8-5-1962, địch mở chiến dịch Hải Yến, đánh phá suốt tám tháng liền vùng nông thôn tỉnh Phú Yên để hỗ trợ cho bọn bình định dồn dân, xây dựng 270 ấp chiến lược. Lực lượng địch tập trung trong chiến dịch này gồm trung đoàn 47 sư đoàn 23, cùng với lực lượng biệt kích, phối hợp với tám đại đội bảo an, có trọng pháo, phi cơ yểm hộ. Trong tám tháng đó, quân và dân Phú Yên đánh địch 150 trận, tiêu diệt 1.600 tên, phá năm đoàn xe quân sự chở quân đến ứng cứu, bắn rơi hai máy bay, làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch bình định của địch. Cùng với Phú Yên, quân, dân Bình Định chặn đánh cuộc hành quân Đồng Tiến của quân ngụy, tiêu hao từng bộ phận sinh lực địch.

Để hỗ trợ cho việc mở dân ở đồng bằng, lực lượng vũ trang các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận liên tiếp đánh địch ở các cứ điểm Tứ Tâm, Hữu Đức (Ninh Thuận), Đồng Kho (Bình Thuận), đồng thời phục kích diệt bốn đoàn tàu quân sự địch trên đoạn đường Ma Lâm - Long Thành, Ma Lâm - Mường Mán, Ma Lâm - Suối Vận.

Đẩy mạnh đấu tranh quân sự chống địch càn quét, các lực lượng vũ trang ta thúc đẩy phong trào nổi dậy của quần chúng phá tan bộ máy kìm kẹp của địch, phá vỡ từng mảng ấp chiến lược ở một số vùng nông thôn đồng bằng và miền núi. Đến cuối tháng 5-1962, tỉnh Phú Yên giành được quyền làm chủ ở 25 xã với 55.000 dân; tỉnh Bình Định có 157 thôn trong bốn huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê được giải phóng; tỉnh Quảng Ngãi có trên 15 vạn dân trong bốn huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành giành được quyền làm chủ; sáu xã miền tây huyện Điện Bàn và hàng chục xã ở các huyện Hoà Vang, Tiên Phước, Tam Kỳ (Quảng Nam) được giải phóng, v.v…

Ở Nam Bộ, bên cạnh những trận chống địch càn quét, dồn dân, các đội đặc công, biệt động luồn sâu đánh vào kho tàng, cơ quan đầu não của địch ở trong các thành phố, thị xã. Nổi bật là ngày 25-6-1962, các chiến sĩ biệt động mưu trí, táo bạo đánh kho xăng Tân Sơn Nhất, đốt cháy hàng triệu lít, làm chấn động Sài Gòn.

Tuy nhiên, trước sự phản kích điên cuồng, trước những thủ đoạn chiến thuật mới của địch như trực thăng vận, thiết xa vận, bộ đội chủ lực của ta chưa đối phó có hiệu quả, lực lượng vũ trang địa phương yếu, thiếu kinh nghiệm chống địch càn quét, tiến công quân sự và đấu tranh chính trị chưa kết hợp chặt chẽ. Vì vậy, trong sáu tháng đầu năm 1962, địch đã gây cho nhân dân ta những tốn thất nặng nề. Ở miền Tây Nam Bộ từ 2.543 ấp giải phóng, chỉ còn 1.520 ấp. Ở Trung Nam Bộ từ 73 xã giải phóng tụt xuống còn 63 xã. Ở Khu V đến tháng 8-1962, địch lập được 836 ấp chiến lược và khu dồn dân, lấn chiếm lại phần lớn vùng nhân dân đã làm chủ những tháng đầu năm.

Trước tình hình đó, tháng 6-1962, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang ở miền Nam nắm vững nhiệm vụ trung tâm trước mắt là đẩy mạnh hoạt động quân sự, kết hợp đấu tranh chính trị, bảo toàn và phát triển lực lượng, phá tan âm mưu lập ấp chiến lược của địch. Trung ương Cục miền Nam đã cử các uỷ viên xuống các tỉnh trực tiếp chỉ đạo cụ thể. Nhiều tỉnh tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm chống càn, phá ấp chiến lược, đối phó với các thủ đoạn của địch. Phong trào thi đua luyện tay súng bắn máy bay, diệt xe cơ giới được phát động sôi nổi trong lực lượng vũ trang. Sau khi rút kinh nghiệm, lực lượng vũ trang ở đồng bằng sông Cửu Long triển khai kế hoạch huấn luyện cho các đơn vị về chiến thuật phòng ngự chống càn quét, về kỹ thuật bắn máy bay, đánh xe M.113 bằng mìn, lựu đạn, thủ pháo, đồng thời, vận động nhân dân đào hầm tránh máy bay, đại bác, đào công sự chiến đấu sẵn cho bộ đội. Ở Trung Nam Bộ còn tổ chức lập ban chỉ huy thống nhất gồm cấp uỷ, chỉ huy quân sự địa phương, chỉ huy đơn vị chủ lực ở từng khu vực, từng mảng để chỉ đạo chống càn quét, phá ấp chiến lược bằng ba mũi giáp công. Những nội dung trên đã được khái quát thành phương thức đánh địch:

Chính trị, binh vận, vũ trang.
Phối hợp nhịp nhàng ba mũi giáp công.
Bao vây, bức rút, bức hàng.
Đứng lại chống càn, giải phóng nông thôn.

Nhờ những chủ trương và biện pháp nói trên được thực hiện tích cực, cho nên những nơi phong trào yếu kém dần dần được khôi phục. Tình trạng nhân dân ở vùng giải phóng chạy vào vùng địch kiểm soát, tránh càn quét, bắn phá của địch đã giảm. Lực lượng vũ trang trụ lại chiến đấu, không có hiện tượng tránh né như trước. Cán bộ đi công tác dựa được vào xã, ấp chiến đấu cũng bớt lo sợ trực thăng đổ chụp bắt sống.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:06:08 pm

Trong những tháng cuối năm 1962, quân và dân Nam Bộ liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch. Ngày 15-8-1962, Mỹ-Diệm mở chiến dịch Bình Tây nhằm tiêu diệt du kích, líp lại phần đất đã mất và tiến hành rộng khắp việc dồn dân vào các ấp chiến lược. Địch huy động lực lượng vào chiến dịch này tám tiểu đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn pháo, 130 xuồng chiến đấu, 40 trực thăng.... Tướng Mỹ Háckin và nhiều tên tướng ngụy chỉ huy chiến dịch.

Chiến dịch Bình Tây chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ 15 - 18-8-1962, đánh vào các vùng Cái Nước, sông Ông Đốc, U Minh Hạ. Giai đoạn thứ hai từ 21 - 30-8-1962, đánh vào quận Giá Rai, vùng duyên hải Sóc Trăng và quận Long Mỹ. Tại đây, quân và dân ta lợi dụng tình hình chia cắt của kênh rạch và những hầm bí mật dưới các rặng cây trâm bầu, rừng đước để bám trụ chiến đấu. Thực hiện phương châm “Địch tiến, ta tránh; địch lui, ta đánh”.

Ngày 8-12-1962, địch lại huy động ba máy bay trực thăng vũ trang HU-1A và 50 trực thăng H47 đổ quân càn quét vùng Cái Bát, Rạch Chèo, Tân Thành. Lực lượng vũ trang ta chặn đánh quyết liệt. Nổi bật là tấm gương chiến đấu dũng cảm của trung đội du kích xã Tân Hưng Tây (Cà Mau) do đồng chí Nguyễn Việt Khải chỉ huy. Riêng anh đã lập chiến công xuất sắc, bắn rơi bốn chiếc trực thăng H47 (hai chiếc rơi tại chỗ, hai rơi dọc đường). Việc dùng súng trường bắn rơi máy bay trực thăng của du kích xã Tân Hưng Tây đã cổ vũ phong trào thi đua săn, diệt máy bay địch ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Ngày 10-10-1962, địch mở chiến dịch Sao Mai, chủ yếu càn quét vào các vùng từ Long An đến Tây Ninh, cả lưu vực sông Vàm Cỏ Đông, vòng cung phía tây nam và tây bắc Sài Gòn. Địch tung vào chiến dịch này 6.000 quân thuộc các sư đoàn chủ lực 5, 7, 21, một đội chó béc giê, gần 100 chiếc M.113, nhiều máy bay các loại. Ngay từ đầu, lực lượng vũ trang của Miền cùng với bộ đội địa phương và du kích các địa phương đã chặn đánh quyết liệt, bắn rơi một máy bay trực thăng ở Đức Hoà; ở những nơi đồng trống, nhân dân đều cắm những cọc tre vót nhọn, cao từ bốn đến năm thước chống đổ bộ đường không. Nhiều đoạn đường bị nhân dân đào phá, các đoàn xe chở lính và tiếp tế bị tắc nghẽn. 6.000 quân địch bị dồn ứ lại trong một vùng hẹp, nhiều đồng lầy, nước ngập, lại bị tập kích liên tiếp, nên ngày 18-10-1962 quân địch phải chấm dứt cuộc hành quân.

Ngày 20-11-1962, địch mở tiếp chiến dịch Thu Đông, càn quét vào chiến khu D, nơi các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy của Miền đang ở và làm việc. Trong chiến dịch này có nhiều cố vấn và 200 lính Mỹ tham gia lái máy bay chiến đấu vận chuyển tiếp tế.

Để hỗ trợ cho càn quét, trong năm 1962, Bộ Quốc phòng ngụy công khai tuyên bố chương trình phát quang ở miền Nam, tập trung vào các khu vực Biên Hoà - Bà Rịa - Tây Ninh (Đông Nam Bộ), U Minh (Tây Nam Bộ), Tây Nguyên. Lính Mỹ lái máy bay lên thẳng H21 rải chất độc hoá học huỷ diệt từng khu rừng và nhiều ruộng lúa, hoa màu1.

Quân, dân chiến khu D và những vùng chung quanh kiên cường bám trụ, vượt qua ác liệt, chiến đấu đánh bại các mũi tiến công của địch, diệt nhiều tên, bảo vệ an toàn căn cứ.

Ở Khu V việc mở rộng vùng giải phóng và đưa lực lượng vũ trang trụ lại ở đồng bằng là một yêu cầu bức thiết. Khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu chủ trương mở tiếp đợt hoạt động mùa mưa năm 1962 nhằm tiến công phá vỡ hệ thống kìm kẹp của địch ở nông thôn đồng bằng.

Chiến thắng nổi bật trong tháng 8-1962 của Khu V là trận đánh máy bay trực thăng đổ quân của địch tại Nà Niêu. Nà Niêu là một thung lung nhỏ nằm cạnh sông Tang thuộc huyện Trà Bồng, miền tây tỉnh Quảng Ngãi. Lòng thung lũng là ruộng lúa nước trải dài xen kẽ với các đồi trọc, rẫy sắn của đồng bào địa phương.
_____________________________________
1. Theo tài liệu Tác hại với môi trường và sức khỏe con người của chất diệt cỏ dùng trong chiến tranh Việt Nam của giáo sư Lê Cao Đài (Uỷ ban 10-80) đăng trên báo Quân đội nhân dân thứ bảy số 154, ngày 12-6-1993 công bố: “Từ 1961 tới 1971, quân đội Mỹ đã rải xuống miền Nam Việt Nam, một phần Lào và Campuchia một lượng lớn các hoá chất độc, trong đó có các chất diệt cỏ và làm rụng lá cây mà ta thường gai là chất khai quang”.
    Theo số liệu của quân đội Mỹ, họ đã sử dụng hơn 72 triệu lít các chất diệt cỏ mang các ký hiệu: chất da cam, chất trắng và chất xanh. Trong các chất diệt cỏ, chất da cam chiếm tỷ trọng lớn nhất (61% tổng khối lượng).... Nó chứa một tạp chất cực kỳ độc hại và vững bền. Đó là chất 2,3,7,8 - TCDD, gọi tắt là DIOXIN.
    … Theo số liệu của Mỹ, từng lượng Diôxin rải xuống miền Nam khoảng 170kg.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:06:48 pm

Từ sau cuộc khởi nghĩa Trà Bồng (1959), Nà Niêu trở thành căn cứ quan trọng, nơi đứng chân của bộ đội và cơ quan dân chính, đảng ở Quảng Ngãi. Từ Nà Niêu, lực lượng ta có thể cơ động thuận lợi xuống vùng đồng bằng nam Quảng Nam, bắc Quảng Ngãi và Công Tum. Đây còn là cơ sở sản xuất tự túc để cung cấp một phần lương thực, thực phẩm cho lực lượng cách mạng.

Sau thời gian hoạt động phân tán, tiểu đoàn 90 của quân khu được lệnh tập trung về Nà Niêu để củng cố. Tối 29-8, đại bộ phận lực lượng của tiểu đoàn hành quân xuống đồng bằng vận chuyển gạo. Lực lượng ở lại còn ba trung đội số quân chưa đầy một trăm người. Phát hiện sự di chuyển của ta, bảy giờ sáng (30-8) địch đã cho máy bay đến oanh tạc dữ dội vào khu vực đóng quân. Đến chín giờ, 30 máy bay trực thăng của địch chở liên đoàn biệt động nhảy dù 77 lần lượt đổ bộ xuống bãi sắn trước mặt tiểu đoàn bộ và các đồi trống gần đó. Từ bị động, ta đã nhanh chóng chuyển thành chủ động theo kế hoạch tác chiến đã được luyện tập từ trước. Khi máy bay địch đến ném bom, bộ đội cùng dân quân, du kích nhanh chóng triển khai chiếm lĩnh các vị trí chiến đấu. Khi tốp trực thăng lên thẳng đầu tiên hạ cánh đổ quân, thì súng đại liên, trung liên và súng trường của ta bắn mạnh vào đội hình địch. Bị đánh phủ đầu, quân địch không tiến lên được, chúng lại tiếp tục đổ quân xuống các quả đồi ở hai bên đánh tạt sườn vào trận địa ta. Do nắm được địa hình, địa vật và cách đánh mưu trí, các phân đội nhỏ của ta vừa tổ chức bắn máy bay địch đến bắn phá yểm hộ, vừa đánh mạnh vào đội hình quân địch ở dưới đất, bao vây, chia cắt không cho chúng co cụm lại với nhau. Tiểu đội phó Nguyễn Thành Long lập chiến công đầu, bằng một loạt đạn trung liên ngắn bắn rơi tại chỗ một máy bay lên thẳng đang chở đầy quân. Sau hơn sáu giờ chiến đấu quyết liệt, trước sức đánh trả mạnh mẽ của ta, địch phải huy động máy bay đến thả thang dây cho lính leo lên tháo chạy. Cuộc hành quân bằng trực thăng vận của địch vào Nà Niêu kết thúc. Kết quả, ta bắn rơi 12 máy bay lên thẳng, có bốn chiếc rơi tại chỗ.

Với thắng lợi có ý nghĩa chiến thuật này, ngày 6-9-1962, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã điện1 chỉ thị cho Khu V và Nam Bộ rút kinh nghiệm phổ biến cho lực lượng vũ trang các địa phương vận dụng, phá cho được chiến thuật cơ động bằng trực thăng và thiết giáp của địch.

Sang tháng 9, Quân khu V sử dụng bốn tiểu đoàn chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa phương mở đợt tác chiến “vượt sông Tiên” tiến công phá vỡ hệ thống kìm kẹp của địch ở khu vực giáp ranh bốn huyện Tiên Phước, Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ (Quảng Nam ) hỗ trợ cho nhân dân phá banh 27 ấp chiến lược, làm chủ bảy xã, 13 thôn. Nhiều xã vùng căn cứ ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, tây Bình Định, tây Phú Yên nhân dân và lực lượng bán vũ trang bẻ gẫy hầu hết các cuộc đổ quân, càn quét bằng trực thăng của địch.

Tại Khu VI, cuộc chiến đấu cũng diễn ra giằng co, quyết liệt. Thực hiện chủ trương của khu đưa bộ đội chủ lực đánh vào một chi khu quân sự của địch có công sự phòng ngự vững chắc để rút kinh nghiệm, đồng thời tạo thế cho phong trào phá ấp chiến lược, ngày 4-8, lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận đã nổ súng tiến công chi khu quận lỵ Hàm Tân. Sau 15 phút chiến đấu, ta đã làm chủ chi khu, diệt và làm bị thương 136 tên, bắt sống chín tên, gọi hàng năm tên, thu toàn bộ vũ khí, trang bị và các máy thông tin. Tiếp theo, ta phục kích diệt gọn một đại đội bảo an kéo đến tiếp viện, diệt gần 100 tên.

Ngày 4-10, sư đoàn 23 ngụy mở chiến dịch An Lạc đánh phá quyết liệt các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức, Đắc Lắc nhằm phá tuyến hành lang chiến lược chạy qua nam Tây Nguyên. Địch dựa vào ưu thế cơ động nhanh, đột kích bất ngờ của máy bay trực thăng chiếm các điểm cao làm bàn đạp rồi từ đó hình thành nhiều mũi, nhiều hướng xuyên rừng phục kích, lùng sục. Cuộc chiến đấu giành giật giữa ta và địch kéo dài gần hai tháng. Ta cố bám trụ giữ đất, bảo vệ dân; địch quyết đánh bật ta ra khỏi địa bàn để gom dân, xây dựng ấp chiến lược, cắt hành lang vận chuyển.

Để bảo vệ nơi đứng chân, đồng thời tiêu diệt bộ phận sinh lực của địch, Quân khu VI quyết định điều tiểu đoàn 840 từ Khánh Hoà lên cùng tiểu đoàn 186 của khu làm lực lượng chủ yếu tiêu diệt cứ điểm Đầm Ròn.

Đầm Ròn là nơi địch đặt sở chỉ huy Bộ Tư lệnh hành quân, sở chỉ huy trung đoàn 45 và khoảng 700 quân. Ở giữa là sở chỉ huy, chung quanh có sáu chốt tiền tiêu, mỗi chốt bố trí một trung đội hoặc một đại đội canh gác ngày đêm. Mỗi chốt đều có công sự dã chiến, hàng rào dây thép gai và mìn nổ chậm bảo vệ. Đêm 5-12 (8-11 âm lịch), lợi dụng trời tối không có trăng, lực lượng của ta gồm bốn đại đội bộ binh, một đại đội đặc công và một bộ phận hoả lực táo bạo, bất ngờ tiến công địch bằng chiến thuật mật tập. Sau 55 phút chiến đấu, ta làm chủ khu trung tâm, đánh thiệt hại nặng sở chỉ huy hành quân, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên, trong đó có tên trung đoàn trưởng trung đoàn 45. Ta phá hỏng nhiều vũ khí, điện đài và các trang bị của địch.
_____________________________________
1. Điện số 68/6 ngày 6-9-1962 của Bộ Quốc phòng gửi Quân khu V, Nam Bộ lưu trữ tại kho lưu trữ Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:07:18 pm

Phát huy chiến thắng, ngày 11-12, đại đội 2, tiểu đoàn 186 đa số là tân binh mới được bổ sung, do đại đội trưởng Năm Lao chỉ huy dũng cảm quần đánh với hai đại đội địch tại khu rẫy Đắk - Trepun (cách cơ quan khu uỷ 1,5 km đường chim bay) từ 8 giờ đến 16 giờ, diệt 40 tên, địch phải rút về phía tả ngạn sông Krông Nô, căn cứ được bảo vệ an toàn. Lực lượng vũ trang tỉnh Lâm Đồng còn phục kích trên đường 20 (đoạn cuối đèo Bảo Lộc) diệt 19 tên, phá huỷ hai xe quân sự, thu 21 súng, phá vỡ kế hoạch của địch đưa lực lượng cơ động xuống hỗ trợ cho bọn bình định kìm kẹp dân ở khu tập trung Phước Lạc. Lực lượng các trạm giao liên trên đường hành lang chiến lược phối họp cùng với du kích trên từng đoạn đường, phát huy tác dụng của vũ khí thô sơ, ngăn chặn, đánh địch, bảo đảm sự đi lại, vận chuyển được liên tục, an toàn.

Chiến thắng của lực lượng vũ trang Quân khu VI gây được niềm phấn khởi, tin tưởng trong đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong chiến đấu nổi lên tấm gương khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, bền bỉ, liên tục tiến công địch của tiểu đoàn 186. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn từng ngày, từng giờ vừa đánh địch, vừa phải vật lộn với đói khát bệnh tật. Nhiều chiến sĩ sống trong rừng bị sốt rét da vàng, bụng ỏng, có chiến sĩ đi không nổi phải chống gậy nhưng tinh thần, ý chí quyết thắng không chuyển lay. Giữa những ngày chiến đấu đầy thử thách cuối năm 1962, tiểu đoàn được đồng bào các dân tộc giúp đỡ lương thực, cứu chữa thương bệnh binh. Lương thực cạn, đồng bào lại mách bảo cho bộ đội loại “lá bép”, lá non để nấu canh, lá già có thể ăn thay cơm vì có bột. Nhờ có loại lá này mà toàn đơn vị đã trụ được hàng tháng đánh địch. Từ đó, tiểu đoàn 186 có tên “tiểu đoàn lá bép”.

Phối hợp với các cuộc chiến đẩu chống địch càn quét ở nông thôn, tại các thành thị, đặc biệt ở Sài Gòn - Gia Định, lực lượng biệt động tích cực hoạt động. Những trận đánh nhỏ, lẻ, bí mật của các nữ chiêu đãi viên, công nhân lái xe tắc xi, người đạp xe xích lô trừng trị cố vấn Mỹ ở trong quán nước, rạp hát, ngoài đường phố hoặc đang đi trên xe... bằng các loại lựu đạn, búa đinh, vỏ chai, dao cạo liên tục diễn ra, làm cho Sài Gòn, nơi đầu não của địch, luôn luôn bị xáo động, mất an ninh. Chỉ tính riêng chín tháng đầu năm 1962 đã có 86 vụ cố vấn Mỹ bị diệt.

Ngày 26-10-1962, Mỹ - Diệm tổ chức cuộc triển lãm “thành tích của Quân lực Việt Nam cộng hoà” ở trước cửa Toà đô chính Sài Gòn nhằm phô trương các loại vũ khí hiện đại và chào mừng ngày “Quốc khánh nền đệ nhất cộng hoà”. Để hạ uy thế của địch, các chiến sĩ biệt động đội 155 đã dùng lựu đạn đánh vào chỗ để chiếc máy bay lên thẳng, giết chết tên thiếu tá Phan Bội Ngọc đang đứng thuyết minh, buộc địch phải huỷ bỏ cuộc triển lãm ngay hôm đó.

Tháng 12-1962, các chiến sĩ biệt động lại liên tiếp mở các trận diệt Mỹ ở nội thành. Nổi bật là các trận dùng lựu đạn diệt tám cố vấn Mỹ ở bến Bạch Đằng, diệt sáu tên ở gần Viện Ung thư và ngã tư Bảy Hiền, diệt 10 cố vấn Mỹ ở biệt thự góc đường Trương Tấn Bửu - Ngô Đình Khôi.

Những trận đánh của các chiến sĩ biệt động nhìn chung còn lẻ tẻ, số lượng địch bị tiêu diệt chưa nhiều, nhưng xảy ra ngay tại trung tâm đầu não - hậu phương được coi là an toàn nhất của địch, làm cho chúng luôn bất ngờ, lo lắng và căng thẳng. Hoạt động quân sự trong nội đô có tác dụng hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.

Năm 1962, mặc dù địch tăng cường kìm kẹp nhưng không làm giảm được số lượng các cuộc đấu tranh và số lượt người tham gia của công nhân, những người lao động, sinh viên, học sinh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ.

Theo thống kê của Bộ Lao động chính quyền Diệm, riêng ở Sài Gòn - Gia Định, những cuộc đấu tranh từng năm như sau: năm 1960: 227 cuộc, 1961: 278 cuộc, 1962 có 324 cuộc, năm 1963 có 123.834 người tham gia, hơn năm 1961: 37 cuộc và 20.802 người.

Tại Sài Gòn, ngày 17-2-1961, 800 công nhân hãng dệt Vimytex, một công ty tư bản hỗn hợp của phe cánh Diệm và công ty tư bản Mỹ Giônxơn đấu tranh đòi sửa lại chế độ làm việc đúng với luật lao dộng. Bọn chủ không chịu giải quyết lại đuổi 59 công nhân, sau đó, đuổi thêm 100 người nữa và đưa cảnh sát vũ trang đến đàn áp. Không chịu lùi bước, toàn thể công nhân bãi công kéo đến cơ quan chính quyền phản đối, bọn chủ phải nhượng bộ huỷ bỏ lệnh sa thải và hứa giải quyết các yêu cầu của công nhân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:09:29 pm

Trong dịp kỷ niệm ngày 1-5-1962, hàng vạn công nhân thuộc hàng trăm nghiệp đoàn mở đại hội, thông qua quyết nghị đòi tăng lương, chống sa thải, 5000 công nhân tắc xi, xích lô kéo xuống đường hô to khẩu hiệu “đả đảo Mỹ”, “đả đảo Ngô Đình Diệm”.

Nổi bật nhất là phong trào đấu tranh kéo dài trong nhiều tháng của sinh viên và học sinh chống vụ án Mỹ - Diệm xử các anh Lê Hồng Tư, Lê Quang Vịnh cùng 10 thanh niên yêu nước khác. Bằng luật phát xít, ngày 23-5-1962, toà án quân sự đặc biệt Sài Gòn tuyên bố kết án các anh: bốn án tử hình, bốn án chung thân và bốn án tù từ năm đến 10 năm. Bốn người bị kết án tử hình là các anh Lê Hồng Tư, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Thành, Huỳnh Văn Chính bị chúng phát vãng ở Côn Đảo, chờ ngày hành quyết. Tại phiên toà, giáo sư Lê Quang Vịnh, người thanh niên 27 tuổi, nói thẳng vào mặt bọn cướp nước và bán nước: “Tôi tiếc là không giết được kẻ cầm đầu bọn xâm lược”, tất cả các anh đồng thanh hô to:

“Đả đảo pháp luật phát xít. Tinh thần bất khuất của sinh viên, học sinh muôn năm!”.

Vụ án tàn bạo nhằm sát hại những thanh niên yêu nước gây chấn động dư luận. Năm ngàn sinh viên, học sinh và bốn ngàn phụ huynh ở Chợ Lớn, Tân An họp mít tinh biểu tình dài năm, sáu ki-lô-mét phản đối vụ án này. Làn sóng phản đối mạnh mẽ liên tiếp dấy lên khắp trong nước và thế giới đòi xoá bản án đối với các chiến sĩ yêu nước. Sau này, trước sức ép của dư luận, bọn chúng phải giảm án các anh từ tử hình xuống khổ sai chung thân. Suốt 13 năm bị giam hãm trong nhà tù của Mỹ - Diệm, các anh vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, đấu tranh chống lại bọn xâm lược và tay sai.

Các cuộc đấu tranh anh dũng chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm trong năm 1962 của đồng bào ta gắn chặt với chương trình hành động thiết thực, phù hợp với nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện chủ trương của Đảng về việc củng cố và mở rộng mặt trận, từ ngày 16-2 đến 3-3-1962, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã họp Đại hội lần thứ nhất, bầu ra Uỷ ban Trung ương chính thức của Mặt trận. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch và đồng chí Võ Chí Công, với danh nghĩa đại diện Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam được bầu làm Phó chủ tịch Mặt trận. Đại hội ra một bản tuyên bố quan trọng, trong đó khẳng định nhiệm vụ chung của Mặt trận là: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến tranh, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới”.

Trên khắp các địa phương ở miền Nam, đồng bào ta đã tổ chức hàng ngàn cuộc mít tinh, biểu tình hoan nghênh kết quả Đại hội. Nhiều người thuộc nhiều tầng lớp trong nhân dân gửi kiến nghị đến Mặt trận, tỏ lòng tin tưởng, nguyện chấp hành đầy đủ các chủ trương, chính sách của Mặt trận. Ngày 24-5, Mặt trận ra lời kêu gọi đồng bào miền Nam, binh sĩ trong quân đội ngụy hãy vùng lên đấu tranh chống Mỹ và tay sai. Ngày 20-7, Uỷ ban Trung ương Mặt trận đề ra bốn chủ trương cứu nước khẩn cấp nhằm cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ cùng bọn tay sai đầu sỏ ở miền Nam và tập hợp rộng rãi nhất các lực lượng chống Mỹ - Diệm1.

Để tăng cường tình đoàn kết và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã cử đoàn đại biểu do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu đi thăm một số nước anh em và tham dự một số hội nghị quốc tế. Tháng 6, đoàn thăm Tiệp Khắc; tháng 7, thăm Liên Xô và dự lễ kỷ niệm 26-7 ở Cuba; tháng 8, thăm Hunggari; tháng 9, thăm Inđônêxia; tháng 10, thăm Trung Quốc, và dự lễ quốc khánh nước Angiêri; tháng 11, thăm Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên.

Những thắng lợi chính trị ở trong và ngoài nước làm cho uy tín của Mặt trận ngày càng tăng, tập hợp được sức mạnh đoàn kết của toàn dân, khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, cô lập bọn hiếu chiến ngoan cố. Chính cuộc dội bom và bắn đại liên 20 ly vào Dinh Độc lập của hai máy bay thuộc không quân ngụy do Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử thực hiện ngày 27-2-19622, chứng tỏ mâu thuẫn giữa các phe phái ở miền Nam với chế độ độc tài gia đình trị của Diệm ngày càng phát triển. Chế độ càng mất ổn định.
_____________________________________
1. Bốn chủ trương:
    1. Đế quốc Mỹ phải đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
    2. Giải toả toàn bộ ấp chiến lược,
    3. Thành lập ở miền Nam một chính phủ liên hiệp dân tộc,
    4. Thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, trung lập.
2. Vào hồi 8 giền 15 phút ngày 27-2-1962, hai chiếc máy bay AD6 cất cánh từ sân bay Biên Hoà bay về Dinh Độc Lập, lượn xung quanh Dinh ba vòng. Vòng 1: lấy hướng, vòng 2: ném 8 quả bom (mỗi chiếc ném bốn quả, mỗi quả bom nặng 250 cân Anh). Vòng 3: bắn đại liên 20 ly vào trước Dinh.
    Kết quả: Bom rơi trúng nóc Dinh phía trên, bên trái, Ngô Đình Diệm ở tầng dưới nên thoát chết. Buồng bên phải, nơi vợ chồng Nhu ở bị sập; lúc đó họ đi vắng.
Sau khi oanh kích xong, một chiếc do Phạm Phú Quốc lái bay về hướng đông bị cao xạ của hải quân ngụy bắn cháy, Quốc nhảy dù ra bị bắt giam. Một chiếc do Nguyễn Văn Cử lái, chạy sang cư trú tại Campuchia. Sau đảo chính Diệm (11-1963), hai người này lại trở về phục vụ cho không quân ngụy.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2010, 11:10:18 pm

Song song với đấu tranh quân sự, chính trị, cuộc đấu tranh chống gom dân, lập ấp và phá ấp chiến lược bằng các biện pháp kết hợp quân sự, chính trị, binh vận, kết hợp lực lượng bên trong và bên ngoài của nhân dân ta diễn ra liên tục trong năm 1962.

Để gom được dân vào ấp chiến lược, địch dùng mọi thủ đoạn: ném bom, bắn pháo, rải chất độc hoá học khai quang, cho xe cào ủi mồ mả, ruộng vườn, nhà cửa để buộc nhân dân phải rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn vào ở trong ấp chiến lược.

Không cam chịu sống trong cảnh giam hãm “cá chậu, chim lồng”, đồng bào ta kiên quyết bám đất, giữ làng, đấu tranh chống địch. Ta tổ chức những cuộc đấu tranh nhỏ, lẻ trực diện tại chỗ, kết hợp với những đợt đấu tranh quy mô lớn, có hàng trăm, hàng ngàn người tham gia, kéo đến gặp bọn cầm quyền địch đòi chúng không được bắn pháo bừa bãi vào thôn xóm, phải bồi thường thiệt hại cho những gia đình bị nạn. Khi giặc cho xe đến cào ủi, có cụ già cầm giáo mác sẵn sàng chém lại nếu chúng xông vào; nhiều mẹ, nhiều chị, bất chấp bom, đạn xông lên ngăn cản xe bọc thép, không cho chúng gây tội ác.

Tại ấp Bầu Mây (Trảng Bàng, Tây Ninh), cứ mỗi lần bảo an, dân vệ kéo đến cào nhà, gom dân, các mẹ, các chị trong ấp lại kéo ra đấu tranh ngăn chặn. Nhiều cụ già ôm chặt lấy cột không cho địch trèo lên tốc mái. Giặc châm lửa đốt nhà, một bà mẹ chạy đến chặn tay chúng: “Các chú khỏi đốt, tự tay tôi đốt cũng được, nhưng đi vô ấp chiến lược thì không”. Không gom được dân Bầu Mây, địch dùng lính cộng hoà đóng ở Trảng Bàng thay nhau vào cưỡng ép. Đồng bào lại kiên trì thuyết phục: “Ở đây đâu có Quân giải phóng, không phải chỗ các chú thi thố tài năng, chẳng lẽ đi đánh đàn bà, con gái”, “Nước có mất thì nhà mới tan, sao các chú nói nước mình đã là quốc gia độc lập, mà lại bắt dân dỡ nhà, bỏ đất”, “Ở đây làm không đủ ăn, vô ấp chiến lược, thì lấy gì mà ăn”…

Trước lý lẽ khôn khéo, có lý có tình của đồng bào, năm lần quân chủ lực địch vào Bầu Mây đều phải dừng tay không dám đàn áp. Khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không lùi” xuất hiện trong cuộc đấu tranh này.

Nhân dân xã Vĩnh Lộc (Bình Tâm) đấu tranh giằng co với địch suốt năm 1962; nhà cửa bị chúng phá chỉ còn lại những cái chòi, những túp lều tạm bợ, nhưng địch vẫn không sao dồn được dân.

Xã Hồng Sơn thuộc căn cứ khu Lê Hồng Phong (Khu VI), chỉ trong sáu tháng, lính cộng hoà kết hợp với bảo an, dân vệ càn quét 18 lần. Mặc dù nhà cửa bị đốt cháy, xóm làng xơ xác, nhân dân vẫn bám trụ, quyết không vào nơi tập trung.

Tại Lâm Đồng, khi địch dồn dân vào các ấp chiến lược ở khu vực đường số 20, đồng bào ở bốn thôn Lú Nhù, Triêng Làng, Tố Nơ và Bà Giai kéo nhau vào sâu trong rừng lập căn cứ, nhất định không theo giặc vào ấp chiến lược. Nhiều tháng đồng bào phải ăn bột xà bu1, nhường bắp cho du kích ăn để đánh giặc.

Đấu tranh chống địch gom dân, lập ấp diễn ra phức tạp, ác liệt. Đấu tranh phá ấp chiến lược trở về làng cũ lại càng khó khăn dai dẳng, quyết liệt hơn. Bị bắt buộc vào sống trong ấp chiến lược, mọi quyền tự do của con người bị tước đoạt, tính mạng bị đe dọa hằng ngày, hằng giờ, đồng bào sáng tạo phương pháp đấu tranh phá ấp bằng mọi hình thức từ thấp đến cao. Hình thức phố biến là đòi cung cấp lương thực, thực phẩm đảm bảo đời sống, đòi tự do đi lại làm ăn, khéo léo vận động binh lính đừng gây tội ác, mang súng về chống giặc giữ làng. Hình thức cao là nổi dậy phá rào, phá bờ thành, lấp hố chông, đắp ụ đất phục kích diệt ác ôn.

Tại xã Thới Hoà (Bến Cát, Thủ Dầu Một), khi bị cưỡng bức vào ấp chiến lược, bà con cất nhà lộn xộn, không chịu cất từng lô theo quy định của địch. Chúng bắt dân đi họp đề lập tề, bà con nói chuyện riêng, trẻ con la khóc làm mất trật tự, không ai nhận làm việc cho chúng.

Ở ấp chiến lược Đông Hoà Hiệp (Cái Bè, Mỹ Tho), quần chúng nổi lên đánh trống mõ, phá 1.000 mét rào, kêu gọi binh sĩ ủng hộ, bọn lính làm ngơ bỏ về thị trấn. Sáng hôm sau gần 100 người đưa đơn lên kiến nghị với quận trưởng xin về làng cũ làm ăn, tên quận trưởng lúc đầu làm ngơ, quần chúng lại kéo đến đông hơn, buộc hắn phải chấp nhận đơn và hứa giải quyết.

Đồng bào hai xã Tân Hiệp và Tân Hoà (Châu Thành, Biên Hoà) bị địch dồn vào ấp chiến lược Hoà Nhật. Đêm 15-7-1962, du kích hoạt động từ bên ngoài, bắn vào lô cốt ở cổng ấp. 200 gia đình phá rào vượt ra khỏi ấp lúc trời chưa sáng. Đêm sau (16-7), lực lượng ta lại bắn vào đồn, cứ sau một loạt súng, đồng bào trong ấp lại hò reo, gọi loa kêu gọi binh lính địch “án binh bất động” hoặc ra hàng. Sáng 17-7, lại có thêm 107 gia đình phá rào, kéo ra ngoài. Kết quả, nhân dân đã san bằng ấp chiến lược Hoà Nhật.

Nhân dân bảy thôn Đất Sét, Khánh Xuân, Phú Cốc, Xuân Lâm, Cửu Sơn, Phước Lương, Lê Thạnh (Diên Khánh, Khánh Hoà), bị địch dồn xuống các ấp ở vùng trong, ba lần đồng bào nổi lên đấu tranh phá bỏ ấp trở về càng cũ.
_____________________________________
1. Xà bu là loại cây to mọc ở trong rừng, lõi cây giă thành bột có thể làm bánh, nấu cháo, hấp xôi. Số bột của một cây đủ nuôi một gia đình 3 - 4 người trong một tháng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:05:13 pm

Tại Khu V, ở những ấp địch đã dồn được dân, đồng bào tìm cách kéo dài việc rào làng, lập ấp. Khi phải rào thì cắm lỏng cây, buộc lỏng dây để du kích dễ ra vào. Địch bắt dân một số nơi vào núi chặt cây về rào ấp, dân đem dao chặt cây nộp cho cán bộ, rồi về báo: “Việt cộng thu hết dao”. Cứ giằng co như vậy, có nơi tới nửa năm trời, địch vẫn không rào xong ấp.

Phong trào đấu tranh phá ấp chiến lược của quần chúng ngày càng lên cao thì địch cũng cố gắng tập trung mọi sức mạnh và không chịu chùn tay trước bất cứ tội ác nào. Chúng dùng mọi thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt uy hiếp, mua chuộc, bắt dân phải chịu mọi sự kiểm soát ở trong ấp. Ở mỗi ấp, địch tăng cường lực lượng bảo vệ chặt chẽ hơn. Trong ấp có lực lượng tề điệp, dân vệ canh gác, theo dõi, lực lượng bảo an đóng đồn cạnh ấp để uy hiếp, các đơn vị lính cộng hoà luân phiên đến đóng quân hỗ trợ lẫn nhau, vừa làm cho cán bộ, bộ đội ta không liên hệ, móc nối được với nhân dân trong ấp, vừa gây cho ta khó khăn trong tác chiến.

Về phía ta cũng chưa tìm ra phương thức chỉ đạo phá ấp chiến lược có hiệu quả. Chi bộ xã Tân Lý Tây (Châu Thành, Mỹ Tho) lãnh đạo nhân dân ban đêm ra phá rào, phá bờ tường bao, sáng hôm sau địch lại bắt dân làm lại chắc chắn hơn, tổ chức canh phòng cẩn mật, kiểm tra quần chúng chặt chẽ hơn, làm cho hoạt động của ta gặp khó khăn hơn nhiều.

Lúc đầu cán bộ ta có phần chủ quan, coi thường việc phá ấp chiến lược, dần dần thấy khó khăn, có bộ phận nẩy sinh tâm lý hoài nghi, bi quan. Không ít cấn bộ ở cơ sở lúng túng trong việc đối phó với những thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù.

Trước tình hình nói trên, tháng 8-1962, Trung ương Cục họp phân tích tình hình và ra nghị quyết chỉ đạo phương thức phá ấp chiến lược. Nghị quyết chỉ rõ: phá ấp chiến lược phải là phong trào quần chúng tại chỗ nổi dậy, vì thế phải xây dựng đảng trong dân, bám trong ấp chiến lược; lực lượng chính trị quần chúng, lực lượng du kích, tự vệ mật tại chỗ kết hợp với lực lượng vũ trang và quần chúng bên ngoài, nhưng chủ yếu là lực lượng tại chỗ; phải phá bộ máy kìm kẹp kết hợp với phá hàng rào, bờ thành; kết hợp phá với đấu tranh chống làm lại; phá từ thấp đến cao, từ phá lỏng, phá banh đến phá dứt điểm là tiêu diệt đồn bốt, giải phóng hoàn toàn thôn xã.

Thường vụ Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định họp hội nghị chuyên đề bàn về chống phá ấp chiến lược, quyết định phải “mang nắp hầm bí mật vào trong ấp chiến lược” để thực hiện phương châm “bám đất, bám dân”, kết hợp ba mũi giáp công, ngoài đánh vào, trong đánh ra và nổi dậy. Khu uỷ chỉ đạo các địa phương xây dựng kế hoạch phát triển lực lượng tại chỗ và lực lượng mật bên trong ấp. Nhiều cán bộ, đảng viên kiên trì ẩn nấp nhiều ngày ở các bờ bụi ngoài đồng mới tìm được cơ hội móc nối với những gia đình cơ sở cũ bị địch lùa vào trong ấp để hướng dẫn cách đào hầm bí mật. Khi có hầm, ta đưa người vào ở, tiếp tục gây cơ sở mới, tổ chức lực lượng tự vệ mật trong ấp rồi tùy theo so sánh lực lượng cụ thể phối họp giữa lực lượng trong và ngoài, tổ chức các hình thức phá ấp cho phù hợp.

Nhờ sự chỉ đạo thống nhất, phối hợp chặt chẽ, nhiều ấp ở huyện Thủ Đức, khi có lực lượng cách mạng vào ấp, hàng trăm đồng bào ở trong áp nổi mõ khua thùng, bí mật chỉ bắt tề điệp, ác ôn, cắt rào, nhổ cọc sắt, xé bỏ giấy kê khai gia đình, rồi lại tạo cớ kéo lên quận báo cáo: Việt cộng về cưỡng bức, các ông không giữ được an toàn cho ấp, chúng tôi phải trở về làng cũ. Bằng cách làm này, ở ấp chiến lược Mũi Châu (Củ Chi) du kích bên ngoài phối hợp với tự vệ mật bên trong đánh tan đội dân vệ và một bộ phận bảo an, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp trở về làng cũ.

Theo sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Bến Tre, những đảng viên bị lộ không bám được trong ấp chiến lược thì rút ra bên ngoài thành lập chi bộ “bất hợp pháp”. Những đang viên bí mật, sống công khai, hợp pháp chưa bị lộ ở lại trong ấp thành lập chi bộ hoặc tổ đảng có nhiệm vụ phát động quần chúng, xây dựng cơ sở, cung cấp tin tức cho bên ngoài, và khi có thời cơ phối hợp trong, ngoài cùng phá ấp. Xã Phú Lễ (Ba Tri) xây dựng được ba tiểu đội du kích mật, trang bị 27 súng, sống hợp pháp trong ấp và sáu tiểu đội tự vệ nằm trong tổ chức “thanh niên bảo vệ hương thôn” của địch. Du kích và tự vệ mật diệt ác ôn bằng mìn tự tạo và lựu đạn gài ở trong ấp. Nhiều xã có sáng kiến nuôi ong bò vẽ, luyện cho ong đánh giặc. Trên các rặng cây, bờ rào ở các xã ấp chiến đấu đều có “đội quân ong” canh giữ, sẵn sàng xông ra đốt địch. Năm 1962, nhân dân tỉnh Bến Tre phá lỏng, phá rã 100 ấp chiến lược. Có nhiều ấp bị ta phá đi phá lại đến 30, 40 lần.

Phá ấp chiến lược đi đôi với xây dựng làng, xã chiến đấu là nét nổi bật của chiến tranh nhân dân. Nhân dân xã Đông Phước (Cần Thơ), sau khi phá xong ấp chiến lược, chặt tre vót sáu triệu cây chông, đặt 29.460 hầm chông công khai, 13.000 hầm chông bí mật chung quanh xã, tổ chức phòng chống địch. Xã Tân Xuân (Hóc Môn), Tân Hòa, Tân Sơn (Tân Bình) là những xã có lực lượng cơ sở mạnh đã biến ấp chiến lược thành xã chiến đấu ở ngay ngoại ô Sài Gòn và sát ngay các trục lộ giao thông của địch. Nhân dân xã Ninh Phước (Khánh Hoà), sau khi nổi dậy xoá bỏ ách kìm kẹp, vận dụng có hiệu quả ba mũi giáp công đánh lui mọi cuộc lùng sục. Địch dùng biện pháp bao vây kinh tế, liên tiếp bắn pháo vào làng, 700 dân của làng kéo lên quận trực tiếp đấu tranh buộc địch phải nhượng bộ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:08:08 pm

Nhân dân ba xã An Điền, An Tây, Phú An (vùng nam Bến Cát) đào hàng chục kilômét địa đạo kết hợp với ổ, ụ chiến đấu. Khi quân địch đến càn quét, từ dưới địa đạo, du kích triển khai lên các ổ, ụ chiến đấu, dùng các loại súng được trang bị đánh địch từ xa. Khi chúng vào gần thì dùng thủ pháo, lựu đạn tiêu diệt, rồi chuyển sang các ổ ụ khác đánh vào cạnh sườn địch. Đây là lối đánh “thoắt ấn, thoắt hiện” làm cho địch vừa bực tức vừa hoảng sợ, mà không tìm được du kích.

Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã sáng tạo ra nhiều loại chông như chông thụt, chông đòn, chông bay... Chông được bố trí kết hợp với các loại bẫy thò, bẫy tuyến. Bẫy thò tự động, một lần phóng ra từ 15 đến 20 mũi thò trên một đoạn đường uốn cong từ 80 đến 100 mét, có thể sát thương một lúc nhiều địch.

Quân và dân Bác Ái (Ninh Thuận) dùng các loại vũ khí thô sơ chống thú dữ1 và vũ khí thu được của địch để bố trí các tuyến phòng thủ bảo vệ làng xã chiến đấu2.

Nét nổi bật các làng xã chiến đấu là không chỉ bố phòng giữ làng, giữ đất, mà là tiến công. Việc củng cố tổ chức, xây dựng chính trị, tư tưởng cho cán bộ và nhân dân làm cho họ giác ngộ về lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu được cấp uỷ đảng đặc biệt chú trọng. Sức mạnh của làng xã chiến đấu chính là sức mạnh của chính trị, tư tưởng, cho nên dù ác liệt, khó khăn, nhân dân vẫn bám trụ chiến đấu.

Sự phát triển của các làng xã chiến đấu cùng với sự trưởng thành của phong trào du kích góp phần tích cực vào việc chống phá kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược của địch.

Nhằm tổng kết kinh nghiệm phát động phong trào chiến tranh du kích, chống địch càn quét, phá ấp chiến lược, xây dựng làng, xã chiến đấu, tháng 11-1962, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy quân sự Miền tổ chức Hội nghị quân du kích toàn Nam Bộ lần thứ nhất tại căn cứ Dương Minh Châu. Bác Ái ( Ninh Thuận), Thới Hoà, Bến Tường (Bình Dương), Phước Vĩnh An, Tân Xuân ( Gia Định), Tân Phú Trung (Mỹ Tho), Tân Thạnh, Khánh Thạnh Tân (Bến Tre), Hậu Mỹ (Long An), An Bình (Cần Thơ), Vĩnh Châu, Gia Hoà (Sóc Trăng) là những huyện, xã có phong trào du kích chiến tranh phát triển khá, được báo cáo kinh nghiệm tại hội nghị. Chị Út Tịch (Trà Vinh), Tạ Thị Kiều (Bến Tre)3 và nhiều chiến sĩ xuất sắc trong phong trào chiến tranh du kích của Nam Bộ đã được hội nghị biểu dương.

Qua các báo cáo kinh nghiệm của các địa phương hội nghị rút ra kết luận: Địch kìm kẹp, ta phá kìm kẹp, địch lại kìm kẹp, ta lại phá. Địch lập ấp chiến lược, ta lại phá ấp chiến lược, địch lại lập ấp, ta lại phá. Trong cuộc đấu tranh giằng co quyết liệt đó, mỗi ngày ta lại tiến thêm một bước, đẩy lùi địch một bước, ta lớn mạnh lên một bước, địch suy yếu đi một bước, tiến tới ta mạnh hẳn hơn địch và giành thắng lợi hoàn toàn. Muốn đánh bại địch, ta phải kết hợp chặt chẽ ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận. Riêng lực lượng chủ lực phải trụ lại chống càn, không tránh né, đánh cả máy bay trực thăng, xe tăng, thiết giáp. Lực lượng vũ trang có chủ động tiến công địch, thọc sâu, trụ lại mới hỗ trợ được cho nhân dân phá ấp chiến lược có hiệu quả.

Những kết luận của hội nghị nói lên tính chất quyết liệt giữa ta và địch trên mặt trận đấu tranh giành dân. Nhưng hội nghị chưa tổng kết được tư tưởng và cách đánh của chiến tranh du kích kết hợp với phong trào phá ấp chiến lược đang trong thời kỳ phát triển ở trình độ cao. Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền tiếp tục tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, tìm ra phương thức đấu tranh có hiệu quả hơn.
_____________________________________
1. Các loại hầm chông, bãi chông, manh cung phóng ngang, phóng dọc, thò, tên bắn tự động, bẫy đá, bẫy đua, bẫy heo rừng, bẫy cọp... đều được nghiên cứu, cải tiến để sử dụng.
2. Bố trí ba tuyến:
    Tuyến 1 (tuyến trước): bố trí cố định các loại vũ khí thô sơ, đầu đạn và trái nổ kết hợp với các ổ phục kích. Tuyến này dày khoảng 200 – 400 mét, dài 2 - 5 km nối liền các địa phương với nhau.
    Tuyến 2 (tuyến giữa): cũng giống tuyến 1, có kết hợp rào ấp bằng cây, buộc địch phải trèo, chui qua và bị phục kích. Tuyến này cách tuyến 1 khoảng 1 - 2 km.
    Tuyến 3 (tuyến trong): gần dân, sử dụng các loại vũ khí thô sơ tổng hợp: bàn chông, đạp lôi, các loại bẫy gài, khi báo động, các ổ phục kích từng khu vực kết hợp với sung, ná tên thuốc độc.
3. - Chị Nguyễn Thị Út, còn có tên là Út Tịch, quê xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Chị vào bộ đội từ năm 17 tuổi, được giao nhiệm vụ làm liên lạc và trinh sát. Chị lập gia đinh với anh Hai Tịch là đội trưởng vũ trang. Chỉ thường nói: “Đánh giặc, còn cái lai quần cũng đánh”.
    - Chị Tạ Thị Kiều, quê An Thạnh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Nữ chiến sĩ du kích đã lập chiến công: dùng mưu lấy súng diệt địch.
    Năm 1965, tại Đại hội thi đua của miền Nam, chị Út Tịch và Tạ Thị Kiều được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:08:54 pm

Cuối năm 1962, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, ta đã phá được 182 ấp chiến lược, chuyển 52 ấp thành ấp chiến đấu; phá lỏng, phá rã từng phần bộ máy kìm kẹp của địch ở 760 xã trong tổng số 902 xã với hơn 2 triệu dân. Ở Khu V, số dân vùng giải phóng là 652.000 (đồng bằng 400.000, miền núi 252.000) tăng hơn năm 1961 gần 20 vạn người.

Trên toàn miền Nam, đến cuối năm 1962 ta đã phá 2.665 ấp chiến lược, có 484 ấp phá hoàn toàn, 115 ấp xây dựng thành làng chiến đấu. Ta phá thế kìm kẹp ở 8.982 thôn, giải phóng hoàn toàn 4.441 thôn trong tổng số 17.162 thôn, giải thoát 6,5 triệu dân.

Vừa chiến đấu vừa xây dựng, trên cơ sở phong trào đấu tranh phát triển, thế làm chủ của ta được củng cố, lại có sự chi viện ngày càng tăng của Trung ương, lực lượng vũ trang ba thứ quân mở rộng hoạt động được trên cả ba vùng chiến lược, đồng đều giữa chiến trường Khu V và Nam Bộ. Năm 1962, toàn miền xây dựng được năm trung đoàn chủ lực, có 15.000 thanh niên nhập ngũ, đưa quân số của lực lượng vũ trang giải phóng tăng lên 1,25 lần so với năm 1961. Riêng khối chủ lực cơ động giữa ta và địch đã có sự thay đổi, năm 1961 tỷ lệ là 1/10, sang năm 1962 chỉ còn 1/7. Bộ đội địa phương mỗi tỉnh ở Nam Bộ có từ một đến hai đại đội, ở Khu V có từ ba đến bốn đại đội, riêng hai tỉnh Cà Mau, Bình Thuận có một tiểu đoàn chủ lực. Ở mỗi huyện có từ một đến hai trung đội, riêng tỉnh Kon Tum mỗi huyện có hai đại đội. Lực lượng du kích tăng lên đến 4,5 vạn; lực lượng dân quân phát triển với số lượng khoảng 12 vạn người1.

Về công tác bảo đảm đời sống cho lực lượng vũ trang vẫn còn nhiều khó khăn do điều kiện vật chất, tài chính ở chiến trường eo hẹp. Những vùng bị địch bao vây kinh tế càn quét dai dẳng càng gặp khó khăn hơn, có đơn vị nhiều tháng ròng thiếu gạo, nguồn sống chủ yếu dựa vào săn bắt thú, hái lượm cây, củ, rau rừng...

Để bảo đảm sức chiến đấu, các đơn vị đều coi trọng việc xây dựng căn cứ và sản xuất tự túc lương thực. Năm 1962 ở Khu V bộ đội chủ lực sản xuất tự túc được 50% nhu cầu lương thực, các đơn vị của Quân khu VI tự túc được số lương thực dùng trong ba tháng, căn cứ V 50 thuộc cục Hậu cần B2 tổ chức canh tác trên 1000 hécta thu 4.000 tấn thóc.

Ngoài sản xuất lương thực, thực phẩm, từ quân khu đến các tỉnh, huyện đều có cơ sở sửa chữa vũ khí, sản xuất các loại mìn, lựu đạn, thủ pháo; đồng thời, còn rèn xẻng, cuốc dao, rìu... phục vụ cho chiến đấu và bán, đổi cho dân tăng thêm nguồn thu.

Cũng trong năm 1962, cơ quan hậu cần và tài vụ ở các quân khu bước đầu xây dựng được một số tiêu chuẩn bảo đảm ăn ở và sinh hoạt phí. Bộ đội chủ lực ở chiến trường B2, mỗi người một tháng được cấp 30 lít (22 kg) gạo và 60 đồng tiền thức ăn (tiền ngụy Sài Gòn). Lúc đầu mọi người đều hưởng chung một tiêu chuẩn, sau đó, dần dần mới phân chia tiêu chuẩn của từng đối tượng cán bộ, chiến sĩ thương binh, bệnh binh. Tiêu chuẩn sinh hoạt phí hàng tháng cấp theo các đối tượng: chiến sĩ 40 đồng, cán bộ trung cấp 80 đồng, cao cấp 100 đồng. Ở Khu V, bộ đội chủ lực mỗi người một ngày được cấp 700 gam gạo và hai đồng thức ăn; thương, bệnh binh được tăng thêm tiền ăn từ ba đến bảy đồng. Tiêu chuẩn của bộ đội địa phương thấp hơn chủ lực một ít.

Bên cạnh việc sản xuất tự túc và cấp phát của cấp trên, các lực lượng vũ trang còn được sự giúp đỡ, đóng góp của nhân dân ở các địa phương. Tỉnh Bến Tre quyên góp, ủng hộ bộ đội mỗi năm một tăng, năm 1961: 18 triệu, 1962: 25 triệu, 1963: 30 triệu đồng. Đồng bào các dân tộc miền núi không những tổ chức tốt việc bố phòng đánh địch, đi dân công phục vụ chiến trường, mà còn ra sức sản xuất, đóng góp lương thực cho kháng chiến. Đồng bào tự nguyện góp công làm những “rẫy sắn cách mạng” dọc các đường hành lang, trong các khu căn cứ sâu. Đây là nguồn lương thực dự trữ cho các đoàn vận tải, các lực lượng di chuyển trên đường. Năm 1962, nhân dân vùng căn cứ Khu V, Khu VI sản xuất lương thực đạt bình quân 350 kg đầu người, đóng góp 8.000 tấn gạo, mua dự trữ 2.000 tấn muối cho bộ đội.

Đi đôi với các nguồn cung cấp nói trên, nhiều địa phương tổ chức cho một số cán bộ kinh, tài của cơ quan đảng, chính quyền và cán bộ hậu cần quân đội móc nối với các nhà buôn, sĩ quan, nhân viên nguỵ quyền gây cơ sở, thu mua lương thực, hàng hoá từ vùng địch ra, phục vụ bộ đội.

Đó là kết quả của việc xây dựng căn cứ, xây dựng hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam - một trong những chủ trương sáng tạo của Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hậu phương trực tiếp, căn cứ tại chỗ kết hợp chặt chẽ với hậu phương chiến lược miền Bắc, tạo nên sức mạnh cho cuộc cách mạng ở miền Nam, mà không một âm mưu, hành động nào của địch có thể chia cắt, ngăn chặn được sự phát triển của cách mạng.
_____________________________________
1. Theo Báo cáo của Quân uỷ Miền ngày 8-12-1962, lưu tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:09:26 pm

Trong thời gian này, cùng với việc khẩn trương mở đường vận tải chiến lược đông - tây Trường Sơn, trên đường vận tải biển, sau khi xác định được bến bãi và tổ chức thành công các chuyến đi thăm dò, nắm tình hình, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương thấy đã có đủ điều kiện, quyết định cho tàu chở vũ khí theo đường biển vào Nam Bộ.

Chuyến vận tải vũ khí đầu tiên được thực hiện bằng chiếc tàu vỏ gỗ mang mật danh “Phương Đông một” có trọng tải 30 tấn. Tàu do đồng chí Lê Văn Một và Bông Văn Dĩa chỉ huy cùng các thuỷ thủ: Huỳnh Văn Sao, Nguyễn Văn Bé, Võ Tấn Thành, Nguyễn Văn Luống, Nguyễn Xuân Lai, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Văn Khương, Ngô Văn Tấn, Nguyễn Văn Nhum và Sáu Rô. Ngày 11-10-1962, tàu rời bến Đồ Sơn, Hải Phòng. Sau gần một tuần lễ vật lộn với sóng gió biển Đông và mưu trí vượt qua sự kiểm soát của địch, tàu đã vào đến đích an toàn. Ngày 16-10-1962, bến Vàm Lũng (Cà Mau) được chứng kiến một sự kiện quan trọng, đón nhận chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên, cùng đoàn thủy thủ từ miền Bắc vào chi viện cho chiến trường miền Nam. Tuyến vận tải “đường mòn Hồ Chí Minh” trên biển Đông đã được khai thông là kết quả quyết tâm của lãnh đạo, tinh thần dũng cảm, tài sáng tạo, mưu trí của cán bộ, chiến sĩ vận tải biển và đồng bào ở các địa phương có bến bãi.

Tập thể con tàu “Phương Đông một” đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương Quân công hạng hai. Đồng chí Bông Văn Dĩa - người đã hai lần ra Bắc vào Nam, được thưởng huân chương Quân công hạng ba và được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (17-9-1967).

Tiếp theo tàu Phương Đông một là các tàu Phương Đông hai, ba, bốn lần lượt lên đường. Trong vòng hai tháng, các tàu này đã vận chuyển được 111 tấn vũ khí cập các bến thuộc tỉnh Cà Mau an toàn. Khối lượng chưa nhiều nhưng là vốn quý góp phần tạo lực mới, thế mới cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long vượt qua những tháng năm khó khăn, tiến lên giành thắng lợi mới.

Tháng 9-1963, theo quyết định của cấp trên, một con tàu vỏ gỗ đi mở đường mới vào bến Lộc An ở Bà Rịa, chi viện vũ khí cho chiến trường miền Đông Nam Bộ, xuất phát. Ban chỉ huy tàu do Lê Văn Một, người đã cùng Bông Văn Dĩa đi chuyến mở đường vào Cà Mau làm thuyền trưởng, Đặng Văn Thanh làm chính trị viên, Huỳnh Văn Sao, máy trưởng. Các thuỷ thủ gồm: Ba Nhợ, Thắng Rô, Thương Nam, Thiện, Sơn, Ngọc, Hoa, Năm. Tất cả có 12 người.

Tàu nhổ neo rời cảng Bính Đông, Hải Phòng đêm 23-9-1963. Để nghi binh tránh mọi sự theo dõi của địch, ra tới phao “số 0”, tàu chạy ngược về phía bắc, nghỉ ở cảng Giáp Khẩu hai ngày rồi mới quay trở vào miền Nam. Tới gần vĩ tuyến 17 thì gặp sóng to, gió lớn. Thuỷ thủ phải bỏ màn vào nồi nấu cháo, cho nước đỡ sánh ra ngoài. Và cũng phải nấu từ năm đến sáu tiếng đồng hồ mới có cháo ăn. Khi chạy gần vào bến cũng là lúc nước bắt đầu rút, tàu bị mắc cạn. Cách đó không xa, địch ở trong đồn Phước Hải thường đi lùng sục. Con tàu rơi vào tình thế gay go. Thuyền trưởng Lê Văn Một đánh lái cho tàu xoay mũi về phía bờ để sáng ra bọn địch ở trên đồn nhìn xuống thấy thuyền bé đi. Ban chỉ huy tàu bàn bạc, chuẩn bị phương án dùng bộc phá huỷ tàu nếu bị lộ. Rất may, ngày hôm sau cả địch ở trên đồn và máy bay trinh sát cũng không phát hiện được. Chờ đến gần tối, nước bắt đầu lên, tàu nổi dần, vượt khỏi bãi cạn đi lẫn vào các tàu thuyền đánh cá của dân vào bến an toàn.

Chuyến đi mở đường, mở bến mới thành công. Chính số vũ khí của con tàu đem đến đã kịp thời trang bị cho lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đánh thắng trận Bình Giã cuối năm 1964.

Để có thể vận chuyển vũ khí được nhanh và nhiều theo yêu cầu phát triển của chiến trường, tháng 8-1963, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định giao nhiệm vụ vận chuyển bằng đường biển cho hải quân phụ trách. Tháng 10-1963, Bộ Tổng tham mưu triệu tập cuộc họp để thực hiện chủ trương này. Thành phần cuộc họp có mặt các đồng chí đại diện Bộ Tổng tham mưu, Cục Hải quân và Đoàn 759. Cuộc họp bàn kỹ việc chuyển giao nhiệm vụ, các mối quan hệ công tác giữa trên và dưới, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ vận chuyển sau này.

Ngày 29-1-1964, Bộ quyết định thay phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125 (tương đương cấp trung đoàn). Bộ tư lệnh Hải quân thành lập tháng 1-1964 phối hợp cùng các cơ quan, binh chủng bạn tập trung lực lượng, phương tiện, trang bị kỹ thuật và điều động bổ sung cho Đoàn 125 nhiều thuyền trưởng, thuỷ thủ ưu tú đã được đào tạo cơ bản, có sức khoẻ, có khả năng chịu đựng sóng gió tốt.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:10:26 pm

Vừa xây dựng vừa vận chuyển, Đoàn 125 ngày càng vững.mạnh và đạt nhiều thành tích. Chỉ tính từ tháng 1-1964 đến tháng 2-1965, Đoàn 125 huy động 20 chiếc tàu cả vỏ sắt và vỏ gỗ, tổ chức 88 chuyến đi tiếp tế cho chiến trường, kể cả những chuyến đưa các cán bộ cao cấp, trung cấp của Đảng và Quân đội1 vào miền Nam. Số vũ khí, trang bị mà đơn vị vận chuyển trong thời gian này gần bốn nghìn tấn. Để đưa được một khẩu súng, một viên đạn đến chiến trường, các đội tàu đã phải vượt qua muôn vàn gian khổ. Trang bị của ta còn rất thiếu thốn. Mỗi con tàu chỉ có một máy nổ, không có máy dự bị, vào bờ thì đo độ nước bằng sào tre, không có máy đo độ sâu bằng siêu âm. Nhưng với lòng dũng cảm và trí thông minh, các đội tàu của ta đã chiến thắng địch trên biển cả. Đó là các đội tàu 41, 42, 54, 55, 56... liên tục vận chuyển được nhiều chuyến thành công; là những cán bộ chỉ huy Nguyễn Phan Vinh, Hồ Đắc Thạnh, Nguyễn Văn Cứng, Lê Văn Thêm, Đinh Đạt, Phạm Vạn, Lê Quốc Thanh, Nguyễn Hữu Phước, Nguyễn Ngọc Ân, Đặng Văn Thanh, Trần Ngọc Ẩn, Hồ Đức Thắng, Trần Hoàng Chiến, Lê Hồng Phước, Tăng Văn Huyền, Ngô Văn Đức... đã nêu những tấm gương mẫu mực về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trình độ hàng hải vững vàng, điều khiển con tàu vượt qua đá ngầm, sóng gió và sự ngăn chặn, phong toả của kẻ thù đưa hàng đến bến.

Cuối năm 1964, Bộ giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu tuyến vận tải vào vùng biển khu V. Vận chuyển bằng đường biển vào các bến Khu V tuy cung đường được rút ngắn, nhưng có nhiều khó khăn vì địa hình ven biển trống trải, các cửa sông tàu có thể vào giao hàng thì địch đã đóng đồn bốt dày đặc. Việc tìm đặt bến bãi và tổ chức lực lượng để tiếp nhận hàng được nghiên cứu tỉ mỉ. Nhiều cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ xây dựng bến bãi. Chỉ tính riêng đoàn công tác do đồng chí Huỳnh Kim chỉ huy có 11 người thì năm người hy sinh.

Sau một thời gian chuẩn bị, các bến Vũng Rô (Phú Yên), Lộ Giao (Bình Định), Đạm Thuỷ (Mộ Đức, Quảng Ngãi), Bình Đào (Quảng Nam) được xác định. Hải quân thông qua phương án vận chuyển của Đoàn 125. Bộ Tư lệnh quân chủng đã chỉ thị: Các tàu vào biển Khu V phải thật khôn khéo đánh lừa địch trên đường hành trình, táo bạo, bí mật thọc sâu vào bến. Nhanh chóng bốc dỡ hàng xong là rút ra ngay. Gặp trường hợp đặc biệt mới được ở lại ban ngày, nhưng phải chuẩn bị đầy đủ kế hoạch và phương án chiến đấu2.

Sau khi kiểm tra lần cuối việc chuẩn bị bến bãi và hành trình, tàu 401 được lệnh lên đường vào Khu V. Đội tàu gồm 12 cán bộ, chiến sĩ do Phạm Vạn làm thuyền trưởng, Đặng Văn Thanh, chính trị viên, Trần Phấn và Phạm Khanh, thuyền phó. Sau hai tuần ra khơi gặp gió mùa cấp bảy, tàu 401 buộc phải quay trở lại. Mãi đến ngày 26-10-1964, tàu lại xuất phát, tiến dần về vùng biển Bình Định. Đêm 31-10-1964 tàu vào đến bến Lộ Giao,bị cơn sóng lớn đẩy tàu nằm trên bãi cạn. Rất may, đội tàu gặp người của bến. Việc chuyển hàng được tiến hành khẩn trương, công việc gần xong thì trời đã sáng. Anh em quyết định cứ cho tiếp tục chuyển hàng. Mặc dù đồn địch đóng cách đó không xa, nhưng chúng không ngờ là ta có thể đưa vũ khí vào được nơi này cho nên không chú ý. Vũ khí được chuyển lên cất giàu an toàn. Chiếc tàu vỏ gỗ bị hỏng nặng, ta bí mật phá huỷ để che mắt địch.

Sau Lộ Giao các bến khác ở Trung Bộ và cực Nam Trung Bộ cũng được đón tàu, nhận hàng từ hậu phương lớn do các chiến. sĩ đoàn 125 chuyển vào (chỉ tính trong tháng 1-1965, các đội tàu của Đoàn 125 đã đưa được tám chuyến vũ khí vào các địa phương miền Nam). Các tàu 51, 210, 132, 154 đưa được bốn chuyến vào Cà Mau; các tàu 68, 187 đưa hai chuyến vào Bến Tre; Bà Rịa và Phú Yên, mỗi địa phương nhận được một chuyến do các tàu 56, 41 chuyển vào.

Ngày 1-2-1965, tàu 143 có trọng tải 100 tấn do thuyền trưởng Lê Văn Thêm, chính trị viên Phạm Văn Bảng chỉ huy nhận lệnh vào Nam. Sau 14 ngày vượt sóng gió, đêm 15-2-1965 tàu cập bến Vũng Rô (Phú Yên). Phần lớn số hàng được chuyển vào hang núi, thì trời vừa sáng, không còn đủ thời gian đưa tàu vượt qua tuyến kiểm soát của địch để ra khơi. Tàu phải đậu lại trong vịnh và được ngụy trang kỹ. Công tác vận chuyển đang thuận lợi, thì trưa hôm đó, máy bay trinh sát địch phát hiện chiếc tàu của ta. Lập tức máy bay chiến đấu của chúng kéo đến ném bom, bắn phá. Anh em nhận định tàu đã bị lộ. Đại bộ phận thuỷ thủ được lệnh phân tán lên bờ bố trí đánh địch. Riêng thuyền trưởng và một số chiến sĩ ở lại chiến đấu bảo vệ tàu. Cuộc oanh tạc của máy bay địch diễn ra liên tục, hầu hết số anh em ở lại đều bị thương vong. Số thuỷ thủ còn lại trên tàu đã cho nổ bộc phá gài sẵn phá huỷ tàu. Do bộc phá nổ không hết, chiếc tàu chìm lật nghiêng tại chỗ. Đêm đó, ta tổ chức cứu vớt thương binh và phân tán cất giấu vũ khí.
_____________________________________
1. Các đồng chí Nguyễn Thế Bôn, Trần Văn Phác, Bùi Phùng, Ung Răng... đã vào Nam bằng tàu của đoàn 125 - Hải Quân.
2. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr.161.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:11:39 pm

Ngày 17-2, một chiếc tàu đổ bộ của địch tiến vào nơi tàu chìm, bị các chiến sĩ ta trên bờ đánh trả, tàu địch phải chạy ra biển. Hai ngày sau, chúng huy động thêm hai tàu tuần tiễu, hai tiểu đoàn bộ binh, một đại đội lực lượng đặc biệt đánh vào Vũng Rô. Cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra đến chiều tối. Do lực lượng quá chênh lệch, ta rút khỏi vùng chiến sự để bảo toàn lực lượng. Sau khi phát hiện tàu 143 của ta ở Vũng Rô, ngày 14-3-1965 Mỹ, ngụy vạch kế hoạch chiến dịch phong toả mang tên Mátkét Taimơ nhằm rào chặt con đường trên biển. Trước tình hình địch phong toả gắt gao trên biển, theo chỉ thị của Bộ, Hải quân không thể tiếp tục vận chuyển theo phương thức cũ mà phải tổ chức nắm lại tình hình địch, tìm phương thức vận chuyển đi bằng hàng hải thiên văn - một phương thức vận chuyển mới, bảo đảm được bí mật, an toàn hơn.

Nhìn tổng quát, việc thực hiện kế hoạch Stalây - Taylo trên các mục tiêu chiến lược đề ra trong năm 1962, địch đều không thực hiện được. Riêng mục tiêu tăng cường quân ngụy mạnh được chúng rất cố gắng triển khai, sắp xếp tổ chức, biên chế, trang bị kỹ thuật, khả năng cơ động, năng lực tiến công của quân đội ngụy có được tăng lên hơn trước, nhưng lực lượng chủ lực vẫn phải bố trí có trọng điểm, nhiều nơi sơ hở, lực lượng dự bị và tổng trù bị chiến lược bị căng kéo khắp nơi, cho nên vừa thiếu lại vừa yếu. Tinh thần lính ngụy sa sút, đào rã ngũ nhiều. Mục tiêu đánh bại chiến tranh du kích, tiêu diệt chủ lực ta chẳng những chúng không làm được, trái lại, lực lượng vũ trang ta không ngừng lớn mạnh. Chính Oétmolen thú nhận: lực lượng vũ trang ta đã phát triển từ 5.500 năm 1960 lên 25.000 năm 1961, 33.000 năm 19621. Đối với mục tiêu bình định, địch dự định dồn 10 triệu nông dân vào 16.000 ấp chiến lược, thì đến giữa năm 1962, phải rút xuống còn 7.000 ấp. Đến cuối năm 1962 chỉ lập được 3.900 ấp, đạt tỉ lệ 31,7%. Đây là một trong những thất bại nặng nhất của Mỹ-ngụy đánh dấu sự sụp đổ về căn bản chương trình bình định trong vòng 18 tháng - thất bại bước đầu rất quan trọng của chiến lược chiến tranh đặc biệt. Tài liệu nghiên cứu của Lầu Năm Góc khẳng định rằng: về cơ bản, ấp chiến lược “đã thất bại thảm hại” giống như các chương trình trước kia của người Pháp và người Việt Nam, “vì nó bị chống đối kịch liệt” của người nông dân là người đứng lên chống lại việc cưỡng bức họ rời bỏ ruộng vườn và quê cha đất tổ2.

Đánh giá tình hình miền Nam trong năm 1962, Hội nghị Bộ Chính trị, họp từ ngày 6 đến 10-12-1962, nhận định: Việc Mỹ đưa một bộ phận quân chủ lực của chúng ở Thái Bình Dương vào miền Nam, thiết lập bộ chỉ huy quân sự của Mỹ ở Sài Gòn và tăng cường viện trợ cho Diệm cũng như việc Diệm tuyên bố chiến tranh và tổng động viên lực lượng để hòng đánh bại cách mạng là một sự chuyển hướng về chiến lược của chúng đã tạo nên một cục diện chiến tranh thật sự với quy mô khá lớn ở miền Nam. Nhưng dù có nhiều âm mưu và thủ đoạn mới, địch vẫn không thực hiện được kế hoạch Stalây-Taylo nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam trong 18 tháng mà còn bị thiệt hại nhiều hơn năm ngoái. Về phía ta, đã vượt qua những thử thách mới, từng lúc, từng nơi, tuy có bị động, nhưng vẫn bảo tồn và phát triển được lực lượng, giành những thắng lợi mới. Lực lượng của Đảng và quần chúng, nhất là lực lượng vũ trang, phát triển mau chóng. Ta đã giành được những thắng lợi lớn về đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tiêu diệt và làm tan rã nhiều lực lượng quân sự của địch, phá được nhiều ấp chiến lược.

Kết thúc năm 1962, nhờ có chi viện ngày càng tăng của hậu phương lớn, các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam loại khỏi vòng chiến đấu 35.000 tên địch (có 400 tên Mỹ), làm rã ngũ 32.000 tên khác, lật đổ 18 đoàn tàu hoả, phá sập 312 cầu cống, bắn hỏng 12 tàu xuồng, đốt cháy các kho xăng Nha Trang, Tân Sơn Nhất.

Tuy vậy, lực lượng ta còn gặp nhiều khó khăn, quân số bổ sung còn thiếu so với yêu cầu, trang bị còn thô sơ, chưa có những trận đánh tiêu diệt có ý nghĩa làm chuyển biến cục diện rõ rệt, chưa phá được biện pháp chiến thuật cơ động bằng trực thăng và thiết giáp của địch. Trong khi đó, Mỹ lại tăng cường viện trợ tài chính, cố vấn quân sự và lực lượng đặc biệt cho chính quyền Sài Gòn, địch vẫn tiếp tục phản công quyết liệt, càn quét liên miên gây cho ta nhiều tổn thất. Chỉ tính chín tháng đầu năm 1962, lực lượng vũ trang ta đã có 1.187 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, 1.318 bị thương, 112 người bị bắt, bị mất 488 súng các loại. Năm 1962, địch giết hại 5.720 đồng bào ta, làm bị thương 1.680 người, bắt đi 7.284 người3.

Căn cứ vào tình hình thực tiễn đấu tranh giữa ta và địch, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ sắp tới của cách mạng miền Nam là: “Động viên chính trị toàn dân tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện và trường kỳ, hết sức mở rộng lực lượng quân sự và chính trị, phát động du kích chiến tranh rộng khắp, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bẻ gãy kế hoạch lập ấp chiến lược của địch, trước mắt làm thất bại kế hoạch tiến công của địch trong năm 1963, giữ vững và phát triển lực lượng của ta, mở rộng vùng căn cứ và vùng giải phóng, luôn luôn súc tích lực lượng, sẵn sàng nắm vững thời cơ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để đẩy mạnh cuộc cách mạng tiến lên, giành nhiều thắng lợi hơn trong tình hình gay go, phức tạp mới, cũng như trong tình hình có những chuyển biến mới của phong trào”.

Bộ Chính trị vạch ra phương hướng một số mặt công tác sắp tới như: phát triển chiến tranh du kích, phá ấp chiến lược, xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh công tác binh vận, tiến hành công tác mặt trận, công tác đô thị, xây dựng đảng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Bộ Chính trị nhấn mạnh: Toàn Đảng phải biết lãnh đạo, biết làm công tác quân sự. Tất cả các cơ quan phải tổ chức gọn nhẹ vả phải quân sự hoá. Tất cả công tác trong vùng căn cứ và vùng du kích phải chủ yếu phục vụ và xoay quanh yêu cầu phát triển du kích chiến tranh.

Những nhiệm vụ do Bộ Chính trị đề ra trên đây là phương hướng cơ bản cho việc chỉ đạo cách mạng miền Nam đưa cuộc kháng chiến tiến lên trong năm 1963.
_____________________________________
1. Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Viện Lịch sử quân sự xuất bản, Hà Nội, 1991, tr 79.
2. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, t. 1, tlđd, tr.105.
3. Theo báo cáo tổng kết năm 1962 của Ban Thống nhất Trung ương, lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:13:04 pm

III. ẤP BẮC, TRẬN MỞ ĐẦU ĐÁNH BẠI CHIẾN THUẬT TRỰC THĂNG VẬN, THIẾT XA VẬN CỦA MỸ - NGỤY

Từ sau Hội nghị tổng kết kinh nghiệm phong trào du kích chiến tranh và phá ấp chiến lược lần thứ nhất (tháng 11-1962), lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương trên toàn miền Nam khẩn trương chuẩn bị về tinh thần vật chất và phương pháp chống địch càn quét, quyết tâm đánh bại các biện pháp chiến thuật dùng máy bay trực thăng và xe bọc thép của địch.

Chiến trường Quân khu VIII (miền Trung Nam Bộ) - địa bàn đã từng có phong trào đồng khởi mạnh mẽ và tiêu biểu vài năm trước, nay cũng là nơi phong trào du kích đang phát triển mạnh. Tại đây, với chiến thuật mới và phương tiện chiến tranh hiện đại, lúc đầu địch đã làm cho ta lúng túng, gây cho ta những thiệt hại đáng kể. Điển hình là tháng 2-1962, địch sử dụng máy bay trực thăng, xe M113 đánh trạm giao liên Hương Điền (huyện 8 ) Kiến Tường, một tiểu đội của ta hy sinh. Ngày 21-5, chúng lại đánh vào Tân Hoà - Vùng 4 - Kiến Tường - nơi đại đội 3 và 4 của tiểu đoàn 261 đang huấn luyện, phá huỷ và cướp đi của ta bốn khẩu súng 12,8 ly và một súng cối. Ngày 19-8-1962, địch lại bất ngờ chụp úp trường huấn luyện tân binh của Khu VIII ở vùng Tân Hoà Đông - Châu Thành - Mỹ Tho, bắt đi 105 người.

Cái giá phải trả cho những tổn thất ban đầu là khó tránh khỏi. Nhưng, qua thực tế chiến đấu, đã giúp cho quân và dân miền Nam, nhất là quân và dân Khu VIII, nhận dạng rõ hơn chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, nhanh chóng tổng kết thành kinh nghiệm để phá cho được các biện pháp chiến thuật, phương tiện chiến tranh mới của địch.

Theo sự chỉ đạo của Quân khu uỷ và Bộ tư lệnh Quân khu VIII các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần cử nhiều cán bộ có kinh nghiệm xuống các đơn vị và địa phương phổ biến, huấn luyện về chiến thuật chống địch càn quét, cách bố trí trận địa phòng ngự và kỹ thuật bắn máy chiến đấu các loại, cách bắn xe bọc thép bằng hoả lực sẵn có trong tay.

Đối với máy bay trực thăng, địch dùng để cơ động nhanh lực lượng, tiến hành các hoạt động tác chiến càn quét, chụp úp lực lượng đối phương, giải vây, ứng cứu cho lực lượng của chúng. Máy bay của địch có nhiều loại, tuỳ theo tính năng và tác dụng của từng loại mà có cấu tạo khác nhau như máy bay trực thăng chở quân đổ bộ, máy bay vũ trang có trang bị đại liên, hoả tiễn, máy bay ném bom, máy bay trinh sát.

Để bắn rơi được các loại máy bay nói trên, bộ đội và du kích được huấn luyện theo kỹ thuật của thợ săn vịt trời gọi là bắn đón. Muốn cho viên đạn trúng mục tiêu đang bay thì phải ngắm bắn phía trước. Cách tính chiều dài để bắn đón là dựa theo góc tới và tốc độ máy bay. Góc tới càng lớn, tốc độ càng cao, độ bắn đón càng lớn. Đối với máy bay trực thăng chở quân đổ bộ, thì độ bắn đón nhỏ, nhưng đối với loại máy bay vũ trang và ném bom, thì độ bắn đón phải lớn hơn. Thời điểm tốt nhất để bắn máy bay chở quân đổ bộ là lúc nó sà xuống thấp chuẩn bị đổ quân. Thông thường, độ bắn đón đối với máy bay đang hạ cánh là hai phần ba của chiều dài thân máy bay. Còn khi máy bay trực thăng đang đậu để cho quân đổ bộ thì không cần phải bắn đón, mà phải tập trung hỏa lực bắn thẳng vào máy bay.

Để nắm vững được lý thuyết và tạo thành thói quen khi bắn, các đơn vị chủ lực và dân quân, du kích còn thực tập các bài bắn bằng đạn giả, bằng cách dùng những tấm bia vẽ hình từng loại máy bay kéo chạy trên sợi dây tượng trưng cho máy bay đang bay. Người bắn máy bay vừa tập di chuyển vừa bắn đón đầu.

Đối với xe bọc thép M113, do tính cơ động cao và hoả lực mạnh, lúc đầu chúng gây cho ta nhiều bất ngờ. M113 được trang bị súng đại liên 30, 50 và trung liên AR và MI gửi sang Việt Nam cùng với những sĩ quan Mỹ am hiểu lý thuyết “hoả lực cấp cao”. Xạ thủ đại liên 50 không có lá chắn bảo vệ vì họ nghĩ rằng chỉ cần vài viên đạn có thể đè bẹp đối phương. Tài xế lái M113 muốn được che chắn đầy đủ phải đóng nắp trước và nhìn qua tiềm vọng kính. Do vậy, tầm nhìn bị hạn chế, hiệp đồng với các xe khó khăn và tốc độ chạy chậm hơn. Mặt khác, tác chiến ở đồng bằng sông Cửu Long, chướng ngại vật duy nhất ngăn cản thiết giáp M113 là những con kênh, con rạch có bờ dốc. Đối với loại xe này, việc lội nước không có gì trở ngại, nhưng xích xe lại rất khó bám vào bùn nhão ở bờ bên kia để kéo khối sắt 10 tấn lên khỏi mặt nước.

Những điểm nói trên của thiết xa vận sẽ hoàn toàn bị khuất phục bởi lối đánh gần, tập trung hỏa lực của quân và dân ta, giống như cách đánh máy bay trực thăng của địch. Chỉ cần mỗi tiểu đội hoặc trung đội của ta tổ chức phục kích bí mật, chờ địch đến gần, chọn chiếc đi đầu, tập trung tất cả các loại vũ khí sẵn có để tiêu diệt. Khi một xe bị trúng đạn bốc cháy, sẽ làm cho tài xế và xạ thủ của các xe khác mất tinh thần, đội hình sẽ rối loạn, tạo điều kiện cho quân ta tiêu diệt tiếp các xe M113 khác.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:18:06 pm

Biết được chỗ mạnh, chỗ yếu của xe M113, công tác huấn luyện cho bộ đội và du kích nhằm vào điểm yếu của xe thiết giáp để đánh, được tiến hành công phu, tỉ mỉ. Bên cạnh về kỹ thuật, chiến thuật, bộ đội, du kích được học tập, trau dồi ý chí quyết tâm cao. Đây chính là những yếu tố cơ bản giúp cho quân và dân Ấp Bắc giành thắng lợi giòn giã đánh bại chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của địch.

Ấp Bắc là một ấp nhỏ, có 600 dân thuộc xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang), cách thị xã Mỹ Tho khoảng 16 km, cách lộ số 4 (bây giờ là quốc lộ số 1) khoảng 5 km.

Ấp Bắc và xã Tân Phú Trung là địa bàn lịch sử có truyền thống cách mạng. Nhân dân ở đây sớm đi theo Đảng tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chống Pháp (tháng 11-1940). Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, mảnh đất này luôn luôn là căn cứ địa, là một trong những lá cờ đầu của phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do. Trong kháng chiến chống Mỹ, Ấp Bắc là vùng giải phóng của ta, là địa bàn đứng chân của lực lượng vũ trang để xây dựng củng cố, bổ sung trang bị kỹ thuật... sau mỗi đợt hoạt động.

Chung quanh Ấp Bắc có những cánh đồng bằng phẳng, có hệ thống đường đất rộng, kênh rạch ngang dọc (với chiều rộng 7 m, sâu 2 m, nước chảy êm) nối liền các xóm ngõ, việc đi lại thuỷ, bộ đều thuận tiện.

Dựa vào các vườn cây trái ven làng, những rặng cây trâm bầu xanh tốt quanh năm dọc các bờ kênh và hai bên lộ đất - đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long, tạo thế che khuất tốt, nhân dân xây dựng một hệ thống hầm hào, công sự, trận địa khá vững chắc được ngụy trang kín đáo bảo đảm cho lực lượng ta có thể cơ động bí mật, yểm trợ và phối hợp chiến đấu.

Ấp Bắc nối liền với ấp Tân Thới tạo thành thế vòng cung, với chiều dài độ 4km, rộng chừng 400m, phía trước là cánh đồng rộng 550m, rất tiện cho việc đổ quân và xe cơ giới cơ động. Phía trong ấp là nhà dân xen các vườn cây trái và những gò đống nhô ra, tạo điều kiện cho bộ đội, du kích bố trí các cụm hoả lực khống chế, ngăn chặn các mũi tiến công của quân địch1.

Sau khi đánh thắng các trận càn của địch ở Vĩnh Kim (ngày 23-9-1962), Mỹ Hạnh Trung (ngày 5-10-1962), tiểu đoàn 514 của Mỹ Tho, tiểu đoàn 261 của Quân khu VIII đang tập trung tại khu vực Ấp Bắc để huấn luyện cách đánh máy bay trực thăng, xe bọc thép, cách tổ chức, bố trí lực lượng, xây dựng hệ thống công sự trận địa trong làng, xã chiến đấu, đồng thời với ý định phối hợp với bộ đội địa phương và nhân dân huyện Châu Thành nghiên cứu tổ chức phá ấp chiến lược Giồng Dứa, xã Long Định, chuẩn bị kế hoạch đánh địch phản ứng và có thể nhử địch càn vào cầu Kinh Năng để tiêu diệt. Lúc này địch dồn lực lượng, phương tiện mở cuộc càn quét vào vùng giải phóng thuộc 2 huyện Cai Lậy, Châu Thành. Nhận được tin này, Khu uỷ Khu VIII, Tỉnh uỷ Mỹ Tho điều động đại đội 1 tiểu đoàn 261 (do đại đội trưởng Bảy Đen2 chỉ huy), đại đội 1 tiểu đoàn 514 (do đại đội trưởng Mười Điệp chỉ huy), một khẩu đội pháo cối 60 ly, trung đội bộ đội huyện Châu Thành, do đồng chí Hai Hoàng3 chỉ huy chung, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng cuộc càn quét của địch vào Ấp Bắc.

Trên cơ sở một ấp chiến đấu có hệ thống công sự, trận địa đã được xây dựng từ trước, bộ đội và du kích đã củng cố và cải tạo hoàn thiện cho phù hợp với ý định bố trí lực lượng và cách đánh của mình4. Đồng thời, các phương án đánh máy bay, xe bọc thép, bộ binh địch, cũng được ban chỉ huy trận đánh dự kiến, đưa ra những biện pháp đối phó. Người già, phụ nữ, trẻ em trong thôn ấp đều được chuẩn bị nơi trú ẩn an toàn ở các khu vực kế cận khi trận đánh nổ ra.
_____________________________________
1. Neil Sheehan: Sự lừa dối hào nhoáng, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr.272 đã mô tả vị trí thuận lợi của địa hình nói trên: “víệc ngồi trong công sự trên đập để bắn qua cánh đồng chẳng khác nào ngồi trên hàng thứ tư của khán đài để bắn súng vào sân bóng”.
2. Đồng chí Bảy Đen tên thật là Đặng Minh Nhuận - cán bộ miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954. Năm 1962, đồng chí được điều động trở lại chiến trường Khu VIII tiếp tục chiến đấu. Với chức vụ đại đội trưởng đại đội 1, tiểu đoàn 261 chủ lực Khu VIII, đồng chí đã chỉ huy đơn vị lập nhiều chiến công suất xắc, đặc biệt là trận Ấp Bắc ngày 2-1-1963. Chính đồng chí là người đề xuất ra phương châm hành dộng táo bạo: “Cắm cọc, chồng lưới, trụ lại bẻ lao” để đánh thắng chiến thuật “Bủa lưới phóng 1ao” của địch trong chiến tranh đặc biệt. Cuối tháng 8-1963, đồng chí anh dũng hy sinh trong khi chỉ huy đơn vị đánh đồn Thanh Nhựt - Cầu Ngang.
3. Đồng chí Hai Hoàng tên thật là Nguyễn Văn Điều, một cán bộ chỉ huy tiểu đoàn mưu trí, dũng cảm, đã từng chỉ huy đơn vị đánh thắng nhiều trận trong những năm tháng đánh Mỹ - ngụy ở miền Nam. Trong cuộc Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân 1968, đồng chí anh dũng hy sinh khi chỉ huy mặt mũi xung phong tiêu diệt mục tiêu trong nội đô Sài Gòn. Ghi nhận công lao to lớn của đồng chí, Nhà nước đã truy tặng đồng chí danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
4. Mô tả việc xây dựng công sự bí mật của ta tại Ấp Bắc, Neil Sheehan trong cuốn Sự lừa dối hào nhoáng viết: “Học được kỹ thuật trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, các sĩ quan đã kiểm soát, hướng dẫn nông dân và chiến sĩ đào hố cá nhân mà không đụng đến tán lá chung quanh. Phần đất thừa được mang đi phân tán. Ở những nơi tán lá không đủ che, họ chặt những cành tươi cắm quanh hố cá nhân, ngay cả trực thăng và máy bay quan sát L19 bay thấp cũng không phát hiện được họ”.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:18:54 pm

22 giờ ngày 1-1-1963, khi mọi công tác chuẩn bị đã cơ bản được hoàn tất cũng là lúc ban chỉ huy trận chống càn nắm được tin địch sẽ tiến công vào Ấp Bắc vào ngày 2-1, nhưng chưa biết chúng sẽ đánh những hướng nào, giờ nào, lực lượng bao nhiêu.

Về phía địch, qua mạng lưới trinh sát, điệp báo, chúng phát hiện được lực lượng ta đang bố trí tại Ấp Bắc, Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ tại Sài Gòn đứng đầu là tướng P.Háckin cùng Bộ Tư lệnh hành quân quân lực Việt Nam cộng hoà cấp tốc vạch kế hoạch tác chiến, điều động lực lượng và phương tiện chiến tranh, tổ chức cuộc hành quân càn quét quy mô lớn mang mật danh “Đức Thắng 1/13” hòng “tiêu diệt và bắt gọn Việt Cộng” trong khu vực này.

Để tạo ưu thế tuyệt đối về sức mạnh, địch huy động vào cuộc hành quân ba tiểu đoàn thuộc sư đoàn 7 bộ binh, một tiểu đoàn thuộc lữ đoàn dù Sài Gòn, hai đại đội biệt động quân, ba đại đội bảo an, ba đại đội dân vệ biệt kích, 13 xe thiết giáp M113, 13 tàu chiến trên sông, sáu máy bay khu trục B26, 15 máy bay trực thăng (10 CH21, 5HU1A), bốn máy bay trinh sát L19, bảy máy bay vận tải C47; các trận địa pháo binh của sư đoàn 7 bố trí trên lộ số 4, Long Định, Phước Mỹ Tây là hoả lực chi viện trực tiếp khi cuộc hành quân bắt đầu. Toàn bộ lực lượng hỗn hợp trên đặt dưới sự chỉ huy của đại tá Bùi Đình Đàm1 - Tư lệnh sư đoàn 7, thiếu tá Lâm Quang Thơ - trưởng tiểu khu Định Tường, trung tá J.Pôn Van - cố vấn trưởng vùng 4 chiến thuật cùng 51 cố vấn Mỹ. Trong quá trình hành quân, các tướng Lê Văn Ty - Tổng tham mưu trưởng quân đội ngụy, Huỳnh Văn Cao - Tư lệnh vùng 4 chiến thuật, Trần Thiện Khiêm - Tư lệnh quân nhảy dù... cũng đến chỉ huy cuộc hành quân.

Với lực lượng và phương tiện chiến tranh được huy động lớn như vậy cho cuộc tiến công vào Ấp Bắc, P.Háckin lạc quan khẳng định trước các sĩ quan thuộc quyền là: quân đội quốc gia hoàn toàn có thể bao vây được du kích và đè bẹp được họ. Nhiều hãng truyền thanh, truyền hình, phóng viên báo chí, phim ảnh... trong và ngoài nước đều được mời tới Sở chỉ huy cuộc hành quân tại Thuộc Nhiêu (thị trấn Tân Hiệp) phía tây Ấp Bắc để chuẩn bị họp báo, loan tin khuếch trương thắng lợi cho trận đánh.

Hửng sáng ngày 2-1-1963, nhiều chiếc máy bay trinh sát L19 của địch đã quần lượn trên bầu trời Ấp Bắc hướng dẫn đường tiến quân cho bộ binh và cơ giới càn quét vào ấp.

Từ hướng lộ số 4, hai đại đội bảo an từ Điền Hy bắt đầu xung phong vào xóm Hội Đồng Vàng, xã Tân Phú, mở màn cho cuộc hành quân.

Tiểu đoàn trưởng Hai Hoàng quán triệt mệnh lệnh chiến đấu cho các đại đội: Trận chiến đấu hôm nay rất ác liệt và sẽ đánh suốt ngày, không được để cho anh em thoát ly công sự. Thoát ly trận địa, thoát ly công sự là thất bại..., dù trong tình huống nào cũng phải giữ vững trận địa và đánh thắng; các đồng chí cán bộ từ tiểu đội, trung đội đến đại đội phải chỉ huy đơn vị mình chấp hành nghiêm mệnh lệnh, kiên trì giữ bí mật chờ địch vào đúng tầm hoả lực mới nổ súng.

Khi đại đội đi đầu của địch đã lọt vào khu vực trận địa bố trí sẵn của ta ở đầu xóm Hội Đồng Vàng, bộ đội và du kích phối hợp hoả lực đánh trả quyết liệt. Sau ít phút giao chiến, tên sĩ quan chỉ huy đại đội và hàng chục lính bảo an địch bị tiêu diệt, một số khác bị thương sa xuống hố chông, cạm bẫy, mìn vướng nổ của du kích. Bị đánh đòn bất ngờ, khiến cho bộ phận còn lại của địch hoảng loạn; chúng vội vã co cụm ẩn nấp sau những bờ đất, chĩa súng bắn loạn xạ, một số tên tháo chạy tán loạn ra cánh đồng.

Cũng thời gian nói trên, một mũi tiến công khác của địch từ Cầu Sao bí mật cơ động đến tiếp cận khu vực miếu Thầy Lơ, thực hiện đánh xuyên sườn trận địa phòng ngự của ta. Hành động của chúng đã bị lực lượng ém sẵn của ta phát hiện, chặn đánh kịp thời, buộc chúng phải rút về co cụm trên một vị trí cách cầu Ông Bởi 800m. Nhưng, sau đó, bị chỉ huy thúc ép, chúng buộc phải tiến quân. Khi đội hình xung phong của địch cách chiến hào tiền duyên ta độ 40m, trung đội địa phương Châu Thành nổ súng, bộ phận đi đầu bị tiêu diệt, bộ phận còn lại bị đánh bật ra cánh đồng trống. Nhân thời cơ này, đại đội trưởng Bảy Đen ra lệnh cho trung đội bí mật vận động đánh ngang sườn và phía sau, rồi xung phong tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch. Trước thế bất lợi, để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn, bọn địch sống sót mạnh ai nấy chạy về miếu Thầy Lơ cố thủ.

Trong tình huống bất ngờ, nguy cấp đó, sở chỉ huy hành quân của địch đã ra lệnh cho pháo binh bắn yểm trợ lực lượng còn lại rút khỏi khu chiến. Nhưng pháo địch lại bắn trúng vào đội hình của bộ binh gây thêm cho chúng những tổn thất nữa.
_____________________________________
1. Bùi Đình Đàm là tín đồ Thiên chúa giáo miền Bắc di cư vào miền Nam năm 1954.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:20:05 pm

Cùng chung số phận với hai mũi tiến quân trên bộ, mũi đường thuỷ theo kênh Nguyễn Tấn Thành gồm 13 tàu chiến chở hai đại đội biệt động quân, đánh vu hồi vào sau đội hình phòng ngự của ta ở trong ấp, cũng bị trung đội du kích và hai đội công binh săn tàu chặn đánh quyết liệt. Bằng những trái thuỷ lôi tự chế tạo và hệ thống hoả lực bố trí sẵn trong các công sự, hố bắn dọc theo hai bên bờ kênh, ta đánh chìm một tàu và đánh hỏng một số chiếc khác Bị đánh đòn bất ngờ khi còn đang trên đường tiến quân, đồng thời, nghe tin hai mũi tiến công trên bộ cũng gặp nguy khốn, đoàn tàu chững lại, sau đó, tìm đường tháo lui. Đây cũng là thời điểm kết thúc đợt xung phong đầu tiên của quân ngụy vào Ấp Bắc.

Sau đợt tiến công bằng đường bộ và đường thuỷ vào Ấp Bắc không thành, chỉ huy hành quân của địch quyết định sử dụng chiến thuật trực thăng vận. Địch dùng năm máy bay trực thăng vũ trang loại HU1A làm nhiệm vụ yểm trợ cho 10 chiếc trực thăng chở quân loại CH21 đổ hai tiểu đoàn bộ binh xuống sau ấp rồi hình thành hai gọng kìm bao vây lực lượng chốt giữ của ta bên trong ấp. Rút kinh nghiệm những lần xung phong trước, chúng dùng một bộ phận nhỏ nhảy xuống trước để thăm dò phản ứng, phát hiện thế bố trí của bộ đội, du kích ta.

Phán đoán được ý đồ của địch, ta nhanh chóng triển khai kế hoạch nghi binh lừa địch, quyết giữ tuyệt đối bí mật không nổ súng. Sau một hồi thăm dò không thấy đối phương phản ứng gì, chỉ huy quân địch cho các máy bay chở quân liên tục đỗ xuống các vị trí đã được tính toán sẵn. Khi những chiếc trực thăng chở quân vừa hạ độ cao, lấy thăng bằng từ từ hạ xuống bãi đáp, bất ngờ quân ta nổ súng. Lưới lửa hoả lực các loại của du kích và bộ đội chụp đúng xuống đội hình địch. Một chiếc CH21 bị bắn rơi tại xóm Bàn Rô, một chiếc khác bị trọng thương cố lao về căn cứ, song vừa ra khỏi vùng trời Ấp Bắc, đã rơi xuống cánh đồng Cà Dăm.

Bộ đội và du kích nhằm bắn vào đàn máy bay trực thăng của địch. Bọn lính còn đang trên máy bay cũng như đã xuống mặt đất đều đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Để cứu nguy cho lực lượng này, năm trực thăng vũ trang HU1A cùng pháo binh trên các trận địa Long Định, Queo Nhị Bình điên cuồng trút đạn vào khu vực trận địa của đại đội 1 tiểu đoàn 261. Chính lúc này, một HU1A đã bị bắn hạ khi nó đang lao xuống bắn rốc két, một HU1A bị bắn rơi tại chỗ khi nó đang hạ thấp, quăng thang máy cứu mấy tên phi công bị thương đang la hét giữa cánh đồng. Tiếp ngay sau đó, một chiếc CH21 khác tuy đã đỗ xuống được bãi đáp, nhưng do trúng nhiều đạn, đặc biệt là bộ phận điều khiển bị hỏng nặng phải vội vàng đẩy hết bộ binh ra khỏi khoang máy rồi cất cánh chuồn khỏi vòng nguy hiểm, nhưng vừa bay được khoảng 1/4 dặm đã rơi xuống khu vực bãi đỗ của đại đội xe bọc thép M113 do Lý Tòng Bá chỉ huy đang chuẩn bị xung phong.

Sau này Neil Sheehan ghi lại hồi tưởng của trung tá J.Pôn Van - cố vấn trưởng trong cuộc hành quân khi ngồi trên máy bay L19 chỉ huy cuộc đổ bộ và cảm nhận trước được hậu quả của biện pháp chiến thuật trực thăng vận ở trận Ấp Bắc như sau: “Khi quan sát 10 chiếc CH21 chở đại đội bộ binh đang hạ cánh xuống vùng đất bùn xám lúc 7 giờ 30 phút sáng và toán quân đổ bộ không gặp trở ngại nào thì Van hiểu ngay rằng hy vọng và ước muốn của ông ta đã không thành”1 - Van biết quân ngụy đã mắc phải kế nghì binh của ta. Kết quả là “đến giữa trưa, quân du kích Việt cộng đã lập được một kỷ lục mới trong chiến tranh. Họ hạ được năm chiếc trực thăng và họ cũng đánh lừa được Van lần thứ hai”2.

Bị thất bại nặng nề trong việc áp dụng chiến thuật trực thăng vận, mất nhiều máy bay và sinh lực mà mục đích đặt ra chưa thực hiện được, lính địch qua hai đợt tiến công thất bại, tâm lý rất hoang mang, sức chiến đấu giảm sút nghiêm trọng, biết có thúc ép nữa cũng không mang lại kết quả, Bùi Đình Đàm ra lệnh rút hết quân về thị xã Mỹ Tho củng cố và bổ sung lực lượng, phương tiện vũ khí, đạn dược, chuẩn bị cho đợt tiến công mới.

Bùi Đình Đàm và nhóm cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân quyết định đưa sư đoàn 7 bộ binh vào tham chiến. Vào lúc 12 giờ 15 phút, sau khi tập kết đủ ba tiểu đoàn bộ binh thuộc các trung đoàn 11 và 12 của sư đoàn 7 ở khu vực Miếu Hội, quân địch hình thành hai gọng kìm, cùng lúc tiến quân vào ấp Tân Thới, đúng nơi bố trí của đại đội 1 tiểu đoàn 514 tỉnh Mỹ Tho.

Mặc dù được hoả lực của pháo binh và trực thăng vũ trang yểm trợ với mức độ tối đa, nhưng do bị ám ảnh bởi những thiệt hại trong hai đợt tiến quân trước, tinh thần binh sĩ ngụy càng hoang mang, chúng vừa tiến quân vừa phải thăm dò phản ứng của ta, tiến rất chậm chạp. Hơn một tiếng đồng hồ chúng mới vượt qua được quãng đường hơn một km tiếp cận đến ấp Tân Thới. Đợi cho quân địch lọt gọn vào khu vực trận địa mai phục sẵn, bộ đội và du kích bất ngờ nổ súng đánh đòn áp đảo, làm cho chúng không kịp trở tay. Bị đánh cả chính diện, bên sườn và phía sau, đội hình quân địch nhanh chóng tan vỡ. Trong đợt chiến đấu này, ta đã diệt, làm bị thương khoảng một trung đội địch, số còn lại mạnh tên nào tên nấy chạy cố thoát thân ra khỏi trận địa. Đợt tiến công lần thứ ba của quân ngụy vào Ấp Bắc đã bị đại đội 1, tiểu đoàn 514 và du kích tại chỗ đánh bại.
_____________________________________
1, 2. Neil Sheehan: Sự lừa dối hào nhoáng, sđd, tr.266-267, 303.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:21:49 pm

Để kịp thời phối hợp chiến đấu với quân và dân Ấp Bắc, Thường vụ Tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh Mỹ Tho điều động đại đội 2, tiểu đoàn 514 tiến công trường bắn Tân Hiệp, kìm chân quân địch trên lộ số 4, dùng trung đội trinh sát khống chế sân bay Thân Cửu Nghĩa, sử dụng đại đội 211 chốt giữ ngã ba chùa Phật Đá, sẵn sàng chi viện cho Ấp Bắc... thực hiện ý định căng kéo quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội và du kích Ấp Bắc đánh bại cuộc càn “Đức Thắng 1/13” của quân ngụy.

Bị thất bại liên tiếp sau ba đợt xung phong, chỉ huy quân địch quyết định dùng không quân dội bom napan, xăng đặc, bắn đạn cháy, rốc két... hòng thiêu trụi các mục tiêu trong Ấp Bắc. Đồng thời, các trận địa pháo binh của sư đoàn 7 được máy bay trinh sát chỉ điểm bắn cấp tập vào các trận địa dọc hai bên những lộ đất dẫn vào ấp, dọn đường cho xe cơ giới và bộ binh chuẩn bị xung phong. Cả vùng chiến sự bỗng chốc chìm trong khói lửa và khí độc. Chính Bauơdơ - phi công điều khiền trực thăng ở Ấp Bắc kể lại: “Hơi nóng của napan thật khủng khiếp, chỉ vài phút sau cánh đồng đã ngột ngạt hơi nóng. Anh cảm thấy khó thở và ngạc nhiên không hiểu vì sao Việt cộng có thể chịu đựng được hơi nóng ngạt thở của loại xăng độc này. Anh khom người để xem du kích có bỏ chạy không..., cố tìm trong hàng cây dấu hiệu của sự chuyển động, nhưng chẳng thấy gì. Quân du kích vẫn không rút lui”1. “Họ được huấn luyện tốt, sau những loạt dội bom napan, bắn đạn rốc két, liên thanh, nã đại bác xong, họ lại tiếp tục chiến đấu như thường”2.

Khi hoả lực dọn đường và chuẩn bị vừa dứt, quân địch tổ chức đợt xung phong lần thứ tư, với lực lượng chủ công là 13 xe thiết giáp M113 và một tiểu đoàn bộ binh tăng viện. Ỷ vào thế mạnh của những chiếc thiết xa vận, quân địch tổ chức đột kích chính diện vào Ấp Bắc - nơi bố trí đội hình đại đội 1, tiểu đoàn 261. Với tinh thần “Kiên quyết bám trụ, bám trụ đến cùng”, 75 cán bộ, chiến sĩ và hai khẩu đại liên (M30) bố trí ở hai góc nhô ra phía bên phải và bên trái lộ đất dẫn vào ấp đã kiên trì chờ địch tới gần.

Khi tốp đi đầu gồm ba xe M113 đã vào đúng tầm, các loại hoả lực của ta gồm súng trường, đại liên, súng cối, súng phóng lựu và mìn chôn sẵn... được lệnh đồng loạt phát hoả tiến công. Một xe M113 của địch bị diệt, một số chiếc khác bị đánh hỏng. Giữa lúc trận chiến đấu đang ác liệt hai khẩu đại liên của trung đội 2 bị hóc, không bắn được hoả lực của ta giảm hẳn. Lợi dụng tình thế này, xe thiết giáp và bộ binh địch đột phá vào trận địa ta. Trận địa của tiểu đội 3 bị bốn xe M113 và một toán bộ binh đột nhập. Trước tình huống gay cấn này, tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Đừng ra lệnh cho toàn tiểu đội tập trung hoả lực bắn yểm trợ cho anh cùng tiểu đội phó Hùng và chiến sĩ Công bật khỏi công sự, nhanh chóng vận động áp sát đội hình địch, dùng thủ pháo tiêu diệt một xe M113 và cả ba đồng chí đã anh dũng hy sinh3. Mũi tiến công của quân ngụy bị đẩy lùi. Bị mất liên tiếp hai xe, nhiều xe khác bị đánh hỏng nặng, số bị thương vong tăng nhanh, số còn lại hoang mang đến cực độ. Lính bộ binh bất chấp lệnh của chỉ huy tự ý tìm chỗ che khuất ẩn nấp, lái xe tự động cho xe lui ra ngoài tầm hoả lực của ta... Sau đó, địch còn đốc thúc quân lính thực hành đột phá một số lần nữa nhưng vẫn không mang lại kết quả. Biết có cố gắng nữa cũng vô ích, viên chỉ huy hành quân của địch ra lệnh cho quân lính dãn đội hình, hình thành thế bao vây chung quanh ấp, xốc lại lực lượng, phương tiện, củng cố lại tinh thần cho binh sĩ chờ lệnh mới.

Lúng túng trước thảm bại liên tiếp, tướng P.Hackin - Tư lệnh lực lượng viện trợ Mỹ tại miền Nam Việt Nam cùng Bộ Tư lệnh hành quân quân lực Việt Nam cộng hoà quyết định cấp tốc tăng cường cho cuộc hành quân tại Ấp Bắc một đại đội pháo cối 106,7 ly và tiểu đoàn 8 thuộc lữ đoàn dù Sài Gòn. Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn Lê Văn Ty và Tư lệnh quân dù là Trần Thiện Khiêm trực tiếp xuống chỉ huy đợt tiến công cuối cùng trong ngày vào Ấp Bắc.
_____________________________________
1. Neil Sheehan: Sự lừa dối hào nhoáng, sđd, tr.288.
2. Báo Mỹ - Tin hàng tuần số ra ngày 14-9-1963, dẫn theo Ấp Bắc nhìn từ hai phía, Nxb Văn nghệ thành phd Hồ Chí Minh, 1992, tr. 134.
3. Sau khi kết thúc thắng lợi trận Ấp Bắc, Bộ Tư lệnh Quân khu VIII đã tặng danh hiệu “Tiểu đội gang thép” chô tiểu đội 3, đại đội 1, tiểu đoàn 261. Liệt sĩ tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Đừng được Nhà nước tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Phần mộ của ba liệt sĩ “Tiểu đội gang thép” được nhân dân huyện Cai Lậy xây dựng thành khu mộ đài tưởng niệm chiến sĩ gang thép trận Ấp Bắc. Công trình được khánh thành ngày 3-1-1990.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:22:40 pm

Khoảng 5 giờ chiều ngày 2-1, đợt tiến công mới của địch được thực hiện1. Địch dùng bảy máy bay vận tải C472 chở tiểu đoàn dù số 8 thả xuống ấp Tân Thới. Mặc dù đã tính toán toạ độ đổ quân và bố trí lực lượng thiết giáp và bộ binh yểm trợ, nhưng khi thực hành, phần lớn quân nhảy dù đều rơi vào khu vực trận địa mai phục của đại đội 1, tiểu đoàn 514. Khi những tên lính dù còn đang lơ lửng trên không hoặc bị mắc trên cành cây, mái nhà... đã bị những tay súng bắn tỉa dày dạn kinh nghiệm của bộ đội, du kích tiêu diệt, làm bị thương. Số sống sót co cụm cố chống đỡ, chờ quân đến ứng cứu. Riêng những tên may mắn nhảy xuống cánh đồng thoát khỏi tầm hoả lực của ta, vội vã lẩn nấp vào các bờ ruộng, ụ đất, bụi cây chờ cho trời tối rút lui.

Cũng thời gian này, ở hướng đại đội 1, tiểu đoàn 216, những chiếc M113 còn lại tiếp tục tập trung hoả lực vừa bắn, vừa xung phong chiếm lĩnh được một đoạn hào chừng 30 mét của trận địa ta. Cuộc chiến đấu giành giật từng đoạn hào giao thông, từng tấc đất giữa đại đội 1 và xe thiết giáp địch diễn ra quyết liệt. Đúng lúc tình thế căng thẳng nhất, chiến sĩ Sơn đã dùng súng phóng lựu với quả đạn cuối cùng bắn trúng một xe M113 đang án ngữ đoạn chiến hào tiền duyên, diệt toàn bộ lính địch trên xe. Cả tốp xe địch buộc phải dừng lại rồi lần lượt quay đầu lùi ra khỏi khu vực trận địa, tránh bị tiêu diệt.

Thấy hai phần ba số quân dù đổ xuống khu vực ấp Tân Thới bị thương vong nặng, lực lượng thiết giáp và bộ binh xung phong vào Ấp Bắc cũng bị tổn thất lớn, sức chiến đấu của toàn bộ quân lính còn lại quá rệu rã, viên chỉ huy cuộc hành quân của địch cho đổ bộ phần lính nhảy dù còn lại xuống khu vực Miếu Hội và lệnh cho quân lính trên các hướng rút ra vòng ngoài đóng chốt nghỉ qua đêm, ngày hôm sau tiến công tiếp. Đây cũng là thời điểm kết thúc một ngày chiến đấu thảm bại của quân ngụy trên địa bàn Ấp Bắc.

Qua một ngày chiến đấu đầy căng thẳng, ác liệt, nhiệm vụ chính trị được giao đã hoàn thành thắng lợi, Ban chỉ huy trận đánh quyết định rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Ấp Bắc để bảo toàn lực lượng và vũ khí, trang bị cho những trận chiến đấu tiếp sau.

Hai giờ trước khi rút quân, tiểu đoàn trưởng Hai Hoàng đã cho tổ trinh sát của du kích địa phương đi điều tra tình hình địch, thăm dò đường rút lui ở hướng đông, chuẩn bị ghe thuyền chờ sẵn ở những địa điểm thuận lợi để chở thương binh, tử sĩ về căn cứ. Đồng thời, các lực lượng được lệnh rút về các địa điểm tập trung, chỉ để lại một bộ phận làm nhiệm vụ bảo vệ, đề phòng quân địch bất ngờ tiến công vào đội hình lui quân của ta.

Khi mọi công việc chuẩn bị đã bí mật hoàn tất, vào 10 giờ đêm ngày 2-1-1963, các đơn vị lần lượt rút khỏi Ấp Bắc. Đại đội 1, tiểu đoàn 261 đi trước, trung đội hoả lực và thương binh, tử sĩ được chở bằng thuyền và khiêng cáng đi giữa, đại đội 1, tiểu đoàn 514 đi tiếp sau. Là những người sinh ra, lớn lên và hoạt động cách mạng tại địa phương, rất am hiểu, thông thạo địa hình, lại được tổ chức hết sức chặt chẽ, bảo đảm chu đáo, cho nên chỉ trong một đêm, bộ đội, du kích bí mật rút khỏi vòng vây phục kích của địch, trở về căn cứ Đồng Tháp Mười an toàn. Cuộc lui quân của ta là một thành công lớn, thể hiện nghệ thuật chỉ huy và di chuyển xuất sắc, trong đó nổi bật vai trò chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Hai Hoàng. Chính quân địch cũng phải thú nhận là “Họ (quân, dân Ấp Bắc) không chỉ thành công trong một trận đánh, mà họ đã thực hiện được một thắng lợi theo cách của tổ tiên họ, một chiến thắng lạ lùng”3.

Sáng hôm sau (ngày 3 tháng 1) tướng Huỳnh Văn Cao và đại tá Bùi Đình Đàm dùng bộ binh, xe thiết giáp pháo binh chia làm nhiều mũi cùng lúc tiến vào Ấp Bắc. Nhưng chúng không gặp cuộc kháng cự nào của đối phương, mà chỉ thấy nhiều xác binh sĩ ngụy cùng các phương tiện chiến tranh nằm rải rác trên khắp khu vực Ấp Bắc.
_____________________________________
1. Trước lúc đợt tiến quân thứ năm được bắt đầu, tại sở chỉ huy cuộc hành quân càn quét vào Ấp Bắc tại Tân Hiệp, tướng Huỳnh Văn Cao, Trần Thiện Khiêm và trung tá cố vấn J.Pôn Van xẩy ra cuộc tranh cãi gay gắt. Pôn Van muốn “Phải bọc kín quân du kích lại mà tiêu diệt, nghĩa là phải đổ tiểu đoàn nhảy dù xuống sườn đông hai ấp”, nhưng Cao phản đối, cho làm như vậy là thiếu thận trọng mà “phải đổ quân xuống phía tây, sau mấy chiếc M113 và quân bảo an để tự liên kết với nhau”. Cuối cùng, Cao đã dùng quyền Tư lệnh vùng 4 chiến thuật để thực hiện ý định của mình - đổ quân xuống phía tây. Do vậy, thời gian của đợt tiến công cuối cùng chậm so với kế hoạch một giờ.
2. Theo Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.115: địch dùng 16 chiếc đacôta để đổ tiểu đoàn 8 nhảy dù xuống ấp Tân Thới.
3. Neil Sheehan: Sự lừa dối hào nhoáng, sđd, tr.329.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2010, 10:29:13 pm

Thắng lợi trong trận Ấp Bắc, quân và dân ta không chỉ thành công trong một trận chống càn mà còn là thành công trong việc mở đầu đánh bại một loạt các biện pháp chiến thuật mới của Mỹ - ngụy trong chiến lược chiến tranh đặc biệt. Kết quả, quân, dân Ấp Bắc diệt và làm bị thương 450 tên địch (có 11 cố vấn và nhân viên kỹ thuật Mỹ), bắn rơi năm máy bay trực thăng, bắn bị thương nhiều chiếc khác, phá hủy ba xe bọc thép M113, đánh chìm một tàu chiến trên sông1. Gây cho quân địch những tổn thất nặng nề như vậy, mà ta chỉ sử dụng một số lượng đạn rất tiết kiệm. Từ những viên đạn đầu tiên bắn vào quân bảo an cho tới những viên đạn cuối cùng đánh vào quân nhảy dù, bộ đội và du kích Ấp Bắc chỉ sử dụng khoảng 5000 viên đạn các loại. “350 du kích đã đứng thẳng trên mặt đất của họ để chế nhạo cái quân đội đông hơn họ bốn lần với thiết giáp, pháo binh, được yểm trợ bằng trực thăng, máy bay ném bom. Vũ khí nặng nhất của họ là một khẩu súng cối nhỏ xíu loại 60 ly, nhưng thực ra cũng chẳng giúp ích gì cho họ được bao nhiêu. Họ bị chết 18 người, 39 người bị thương. Một sự tổn thất được xem nhẹ nhàng khi người Mỹ và Việt Nam cộng hòa bắt họ phải chịu hàng ngàn viên đạn súng trường và súng máy, 600 trái đạn pháo binh, napan và bom cùng với số đạn của 13 máy bay chiến đấu và năm chiếc trực thăng vũ trang. Riêng những chiếc trực thăng vũ trang (HUEY) đã đổ xuống những hàng cây ở Ấp Bắc 8.400 viên đạn súng máy và 100 trái hoả tiễn”2.

Thắng lợi Ấp Bắc khẳng định: Chất lượng của lực lượng vũ trang nói chung, bộ đội tập trung miền Nam nói riêng được xây dựng ngày càng tốt hơn, thể hiện sự giác ngộ về chính trị, có tinh thần dũng cảm, có quyết tâm và trình độ kỹ thuật chiến thuật ngày hoàn thiện, nó còn chứng tỏ đội ngũ cán bộ cơ sở từ tiểu đội trở lên của ta rất vững vàng, mưu trí, dũng cảm, linh hoạt. Đặc biệt là cán bộ cấp đại đội tiểu đoàn luôn luôn đi sát thực tế, nắm chắc địch, vận dụng một cách sáng tạo nghệ thuật tác chiến, xử lý các tình huống linh hoạt, mưu trí. Với chiến công này, tiểu đoàn 261 được mang tên tiểu đoàn Hirôn và tiểu đoàn 514 mang tên tiểu đoàn Ấp Bắc.

Thắng lợi to lớn ở Ấp Bắc là kết quả của sự chỉ đạo nhạy bén, đúng đắn, kịp thời của Trung ương Cục, Quân uỷ Miền mà trực tiếp là của Quân khu VIII, Tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh Mỹ Tho trong việc tổ chức chống địch càn quét đầu năm 1963. Thành công ở đây thể hiện ở việc chuẩn bị cho bộ đội, du kích và nhân dân đầy đủ cả về tư tưởng, kỹ thuật, chiến thuật, phối hợp hiệp đồng chiến đấu, hạ quyết tâm chính xác, sử dụng lực lượng hợp lý, đúng với khả năng của từng đơn vị, nhờ đó trong suốt một ngày chiến đấu liên tục không vấp phải tình huống bất ngờ nào nằm ngoài dự kiến.

Phối hợp với Ấp Bắc, ngày 2 và 3 tháng 1, 31 đội du kích và hơn 20.000 quần chúng ở hai bên lộ số 4 và các thị trấn Tân Hiệp, Cai Lậy, Cái Bè đã nổi dậy bao vây các đồn bốt, tiến công diệt và làm bị thương hơn 150 tên địch, bắn rơi hai máy bay trực thăng, bắn cháy và phá hỏng 16 xe quân sự các loại. Song song với tiến công quân sự Tỉnh uỷ Mỹ Tho phát động phong trào đấu tranh chính trị và binh vận rộng khắp ở các địa phương. Tiêu biểu nhất là trưa ngày 2 tháng 1 khi quân địch tập trung lực lượng tiến công lần thứ ba vào Ấp Bắc, hơn 700 đồng bào thuộc các xã Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Mỹ Phước Tây đã kéo lên khu trù mật Phước Mỹ, bao vây các trận địa pháo, đấu tranh không cho chúng bắn vào xóm làng. Trước sức đấu tranh quyết liệt của nhân dân, địch buộc phải nhượng bộ, làm cho kế hoạch chi viện pháo binh của địch nhiều lúc bị gián đoạn, tên trung đoàn trưởng chỉ huy pháo binh ở đây bị cách chức. Cùng thời gian nói trên, hơn 200 gia đình có chồng, con, anh em là binh sĩ ngụy tham gia cuộc hành quân càn quét vào Ấp Bắc, được cơ sở mật của ta làm binh vận, đã họp nhau lại kéo lên bệnh viện thị xã đòi thăm người bị thương, đòi bồi thường tính mạng cho những người chết trận, đòi địch chấm dứt ngay cuộc hành quân... gây náo loạn tinh thần và làm đảo lộn mọi hoạt động của địch.

Sự kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với đấu tranh chính trị đã tạo nên sức mạnh cho quân, dân Mỹ Tho chiến thắng oanh liệt, chẳng những đánh bại chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận của Mỹ, mà còn bức hàng, bức rút được 45 đồn bốt, phá banh 69 ấp chiến lược ở Phú Mỹ, Tân Hiệp, Thanh Phú, Nhị Bình, Dương Điền, Vĩnh Kim, Đông Hoà, Hoà Mỹ, Tam Bình, giải phóng hoàn toàn 55 xóm ấp khỏi ách kìm kẹp của ngụy quyền.

Chiến thắng Ấp Bắc đã gây một tiếng vang lớn trong phong trào đấu tranh cách mạng của Khu VIII nói riêng và toàn miền Nam nói chung. Nó là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự phát triển cả về số lượng cũng như về chất lượng của cuộc kháng chiến; là kết quả của sự vận dụng tốt ba mũi giáp công, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận. Đây cũng là lần đầu tiên quân và dân ta đánh bại những hình thức chiến thuật mới nhất của địch, chiến thuật bủa lưới phóng lao, trực thăng vận3, thiết xa vận trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt, mở ra khả năng mới cho cách mạng miền Nam tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ.

Đối với Mỹ - ngụy, từ sau trận Ấp Bắc, chúng không còn tin tưởng vào chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận như trước nữa. Số lần hành quân dùng máy bay trực thăng giảm xuống: Nếu bốn tháng cuối năm 1962 là 70 lần thì bốn tháng đầu 1963 chỉ có 26 lần. Thất bại của biện pháp chiến thuật này là một trong những nhân tố quan trọng báo hiệu sự phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt.

Từ thất bại Ấp Bắc, Mỹ - Diệm càng bất đồng với nhau hơn, công khai nói xấu, đổ vấy thất bại cho nhau. Tổng thống Kennơđy phải ra lệnh điều tra thực trạng. Ngày 9-1, đô đốc Phen đến Sài Gòn để nắm tình hình, trấn an Diệm. Tiếp đó, ngày 18 tháng 1, tham mưu trưởng liên quân Mỹ Uylơ cùng năm tướng, một đô đốc và nhiều sĩ quan cao cấp khác của quân đội Mỹ sang Sài Gòn điều tra tình hình, tìm biện pháp giải quyết cuộc khủng hoảng ở Sài Gòn. Những việc làm trên đây chứng tỏ rằng Mỹ rất lúng túng, “trước khí thế quật cường của nhân dân, thì chiến thuật mới và vũ khí mới nhất của Mỹ cũng phải thua”4.

Đánh giá về thắng lợi ở Ấp Bắc, đồng chí Lê Duẩn, Bí Thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nói: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được”5.

Thực tiễn Ấp Bắc cho phép chúng ta khẳng định đây là một trong những điển hình nổi bật về công tác xây dựng làng xã chiến đấu và thực hiện tốt phương châm kết hợp chặt chẽ hai chân ba mũi trong phong trào đấu tranh chống địch càn quét, bình định, lập ấp chiến lược. Từ cách thức xây dựng công sự, trận địa tới các biện pháp tác chiến được vận dụng trong trận đánh cho chúng ta những kinh nghiệm hay không chỉ trực tiếp cho nhân dân Khu VIII mà toàn thể lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam học tập. Chiến thắng Ấp Bắc đã trở thành nơi phát khởi thúc đẩy phong trào thi đua giết giặc lập công, đẩy mạnh tác chiến đánh quân chủ lực ngụy đồng thời phá ấp chiến lược trên các địa phương toàn miền Nam.
  _____________________________________
1. Trong cuốn The Việt Nam War, t1.VLSQS, bản tiếng Anh: Thiệt hại của Mỹ và quân đội Sài Gòn tại Ấp Bắc ngày 2-1 là: quân Sài Gòn chết 65, bị thương 100, cố vấn Mỹ chết ba, bị thương sáu, năm trực thăng bị bắn rơi, ba xe bọc thép bị phá huỷ
2. Sđd, tr.238.
3. Trong cuốn Từ điển chiến tranh Việt Nam - bản tiếng Anh - Chính Mỹ thú nhận: “Đây là hoạt động không vận tiến công đầu tiên trong chiến tranh Việt Nam bị thất bại”.
4. Trích bài viết của Hồ Chủ tịch đăng trên báo Nhân dân ngày 1-2-1963, với bút danh TL.
5. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.69.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:51:06 pm

Chương XII
KẾT HỢP BA MŨI GIÁP CÔNG, ĐÁNH THẮNG VỀ CƠ BẢN
KẾ HOẠCH GOM DÂN, LẬP ẤP CHIẾN LUỢC CỦA ĐỊCH


I. TIẾN CÔNG PHÁ RÃ HỆ THỐNG ẤP CHIẾN LUỢC, GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN

Sau thất bại của chương trình bình định miền Nam trong 18 tháng (kế hoạch Stalây-Taylo), Mỹ-ngụy buộc phải điều chỉnh kế hoạch chiến lược, tập trung lực lượng liên tục mở các cuộc hành quân càn quét nhằm dồn dân, khôi phục hệ thống ấp chiến lược đã bị ta phá. Chính phủ Mỹ quyết định tăng thêm ngân sách viện trợ tài chính năm 1963-1964 cho chính quyền Sài Gòn lên 675 triệu đôla (trong đó, 450 triệu giành cho vũ khí và phương tiện chiến tranh), đồng thời, tăng thêm số lượng cố vấn, nhân viên kỹ thuật, nhất là những chuyên gia về bình định, từ 10.960 người năm 1962 lên 22.300 người năm 1963, trong đó, cố vấn chiến trường là 3000 người.

Được sự viện trợ mọi mặt của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ra sức đôn quân, bắt lính làm cho quân đội ngụy thay đổi nhanh chóng cả về số lượng và trang bị vũ khí, kỹ thuật. Quân chủ lực từ 16,7 vạn năm 1961 lên 20,6 vạn năm 1963. Địa phương quân (bảo an, dân vệ, cảnh sát) từ 12,4 vạn năm 1961 lên 20 vạn năm 1963.

Lực lượng bảo an được trang bị xe tăng, xe thiết giáp, giang thuyền... để làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh lãnh thổ. Cố vấn Mỹ được đưa xuống tận cấp đại đội, tiểu đoàn quân đội Sài Gòn, trực tiếp chỉ huy, huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, tổ chức hành quân chiến đấu. Về hoả lực, phương tiện chiến tranh, số máy bay chiến đấu từ 462 chiếc năm 1962 lên 627 chiếc năm 1963 (riêng số máy bay ném bom tăng lên bốn lần so với năm 1961); số đơn vị xe tăng và xe thiết giáp từ bốn tiểu đoàn lên sáu tiểu đoàn; pháo binh từ 34 tiểu đoàn lên 38 tiểu đoàn (biên chế tiểu đoàn pháo trước là 12 khẩu, sang năm 1963 lên 18 khẩu).

Cùng với quá trình tăng cường và phát triển lực lượng, trang bị vũ khí, kỹ thuật, quân đội Sài Gòn được các cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy liên tục mở các cuộc hành quân với nhiều quy mô khác nhau, sử dụng các chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận, quyết tâm tiêu diệt cho được lực lượng vũ trang Quân giải phóng, dồn toàn bộ nhân dân vào các áp chiến lược và khu tập trung. Những hoạt động khẩn trương của địch cuối năm 1962, dầu 1963 đặt phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam trước những khó khăn, thử thách mới.

Nhiệm vụ chủ yếu của các lực lượng cách mạng là phải tiêu diệt quân chủ lực và phá cho được quốc sách ấp chiến lược của địch.

Ngày 6-12-1962, trong nghị quyết về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng một lần nữa nhấn mạnh: Hết sức mở rộng lực lượng quân sự và chính trị, phát động du kính chiến tranh rộng khắp, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh bại kế hoạch dồn dân lập ấp chiến lược của địch. Trước mắt, làm thất bại kế hoạch tiến công của chúng trong năm 1963, giữ vững và phát triển lực lượng ta, mở rộng căn cứ, vùng giải phóng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sáng tạo và tranh thủ thời cơ thuận lợi đẩy mạnh cuộc cách mạng tiến lên giành nhiều thắng lợi lớn hơn trong tình hình gay go, phức tạp, cũng như trong tình hình có những chuyển biến mới của phong trào.

Để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất lực lượng vũ trang miền Nam, tháng 10-1963, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Quân uỷ và Bộ chỉ huy quân sự Miền, đồng thời cử đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương Cục làm Bí thư Quân uỷ; điều động Trung tướng Trần Văn Trà, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Tổng tham mưu trưởng vào Nam làm Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Miền. Năm 1964, Bộ chỉ huy Miền được bổ sung: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó tư lệnh; thiếu tướng Trần Độ, Phó chính uỷ. Tiếp sau, đồng chí Nguyễn Thị Định, một trong những cán bộ lãnh đạo phong trào đồng khởi ở Bến Tre được bổ nhiệm Phó tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam.

Để có thực lực bảo đảm cho phong trào giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược thắng lợi, khắp các địa phương khẩn trương vũ trang quần chúng, phát triển bộ đội địa phương, dân quân, du kích. Đến cuối năm 1963, số lượng bộ đội địa phương tỉnh và huyện tăng gấp hai lần so với năm 1962 (64.000/30.500), du kích, tự vệ lên tới 10 vạn. Hầu hết đảng viên, đoàn viên thanh niên ưu tú các địa phương cả đồng bằng lẫn miền núi đều tham gia lực lượng vũ trang cách mạng.

Bộ đội và du kích được huấn luyện sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị, được phổ biến kinh nghiệm trận Ấp Bắc về cách bố trí, xây dựng công sự trận địa, phương pháp đánh xe tăng, xe bọc thép, máy bay lên thẳng. Mọi người dân, không phân biệt nam, nữ, già, trẻ cũng được bộ đội và du kích hướng dẫn sử dụng các loại vũ khí và cách đánh máy bay... Nhờ đó, những tháng đầu của năm 1963, phong trào cách mạng có những bước phát triển mới, nhiều điển hình về phá ấp chiến lược xuất hiện trên hầu khắp các địa phương.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:51:33 pm

Bước vào năm 1963, địch vừa ra sức lập xong hệ thống ấp chiến lược trong vùng chúng kiềm soát, vừa tập trung lực lượng mở liên tiếp nhiều cuộc hành quân đánh sâu vào các khu căn cứ, buộc ta phải đối phó để chúng có cơ hội tiến hành dồn dân lập ấp. Số lượng, quy mô các cuộc hành quân của địch tăng gấp hai lần so với năm 1962, (riêng sáu tháng đầu năm 1963, địch tổ chức 109 cuộc hành quân càn quét với lực lượng từ ba đến 10 tiểu đoàn).

Những ngày đầu 1963, Khu uỷ và Quân uỷ khu V đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị ở các đảng bộ địa phương và các đơn vị vũ trang, nhằm đấu tranh với những biểu hiện tư tưởng ngại tác chiến với xe bọc thép và máy bay trực thăng vũ trang; rút kinh nghiệm thực hành phương châm đấu tranh kết hợp hai chân ba mũi trong chống càn quét phá ấp chiến lược. Theo chủ trương của Khu uỷ, bộ đội chủ lực khu, bộ đội địa phương tỉnh sẽ được huy động trong từng đợt hoạt động phối hợp với du kích và lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng phá ấp chiến lược. Để trực tiếp lãnh đạo phong trào, một số đồng chí thường vụ Khu uỷ và Quân khu uỷ được phái xuống chỉ đạo ở các huyện trọng điểm của các tỉnh.

Trên địa bàn Tây Nguyên, tiểu đoàn 200 pháo binh, sau một thời gian tạm phân tán lực lượng xây dựng cơ sở, mở đường cơ động được lệnh tập trung, bổ sung quân số, phương tiện, vũ khí, tổ chức huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, chuẩn bị bước vào đợt hoạt động thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công. Tháng 5-1963, tiểu đoàn sử dụng súng cối 81 ly bất ngờ tập kích đồn Đắk Pét, chi viện cho lực lượng địa phương Kon Tum phá ấp chiến lược Đắk Trung, Đắk Rú... nằm trên đường số 14, tạo thế uy hiếp hệ thống đồn bất, căn cứ địch ở Đắc Tô, Đắk Pét. Trung đoàn 42 ngụy mở cuộc hành quân đánh vào vùng căn cứ bắc Kon Tum, để giải toả sức ép của ta, yểm trợ cho bọn bảo an, dân vệ củng cố lại các ấp đã có và dồn dân lập các ấp mới. Phát hiện sớm kế hoạch hành quân của địch, quân khu tăng cường tiểu đoàn 407 đặc công lên Kon Tum để cùng với tiểu đoàn 200 đánh địch. Cuộc càn quét của trung đoàn 42 ngụy bị đánh bại, ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự.

Tháng 6-1963, tiểu đoàn 200 và tiểu đoàn 407 bí mật cơ động vào Gia Lai, mở trận tiến công trại huấn luyện biệt kích Plây Mơrông (cách thị xã Plâycu khoảng 95km về hướng tây bắc). Do chuẩn bị các mặt chu đáo, có kế hoạch hiệp đồng chặt chẽ giữa pháo binh và đặc công, bảo đảm tốt yếu tố bí mật, bất ngờ, ta đã diệt và làm bị thương 250 tên địch, bắt 140 tên, làm tan rã hoàn toàn một tiểu đoàn biệt kích ngụy. Plây Mơrông là trận đầu tiên bộ đội ta tiến công địch trong công sự vững chắc, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Trận đánh gây tác động mạnh về tâm lý và chính trị đối với bọn ngụy quân, ngụy quyền ở các quận, huyện.

Sau trận Plây Mơrông thắng lợi, tiểu đoàn 200 và 407 lại hành quân lật cánh ra bắc Kon Tum. Đêm 11-11-1963, sau đòn tập kích hoả lực cấp tập của tiểu đoàn 200, các chiến sĩ đặc công tiểu đoàn 407 nổ súng tiến công căn cứ Đắk Pét. Bị đánh đòn bất ngờ vào ban đêm, quân địch không kịp trở tay. Toàn bộ địch đóng trong căn cứ bị loại khỏi vòng chiến đấu. Song song với tập trung lực lượng diệt đồn, tổ chức chặn đánh quân địch giải toả, bộ đội ta hỗ trợ cho các đội vũ trang tuyên truyền đột nhập vào các ấp chiến lược ở dọc trục đường số 14 và chung quanh thị xã Kon Tum, trừ khử những tên ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân, cảnh cáo, giải tán bọn bảo an, dân vệ, đồng thời xây dựng các tổ tự vệ mật, tuyên truyền, vận động nhân dân. Nhân đà thắng lợi, các cấp uỷ đảng ở Tây Nguyên đã nắm thời cơ phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm, trở về buôn làng làm ăn sinh sống. Nhân dân các huyện 40, 67, 80, 29 nổi dậy phá banh hệ thống ấp chiến lược chung quanh các huyện lỵ và ngoại ô thị xã Kon Tum. Ở Gia Lai, đồng bào huyện 6, vùng An Khê và dọc triền sông Ea Dun nổi dậy, nổi trống mõ diệt ác ôn, bắt tề điệp, phá các khu tập trung, bung về làng cũ.

Cùng trong tháng 11-1963, Tỉnh uỷ Đắc Lắc chỉ đạo cán bộ cơ sở ở các huyện huy động hàng nghìn dân phá đường, đắp ụ chướng ngại trên các trục đường giao thông, gây trở ngại cho hoạt động của địch.

Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, năm 1963, quân và dân Tây Nguyên phá banh 40% ấp chiến lược và khu dồn dân. Vùng giải phóng bắc Kon Tum, tây Gia Lai, nam Đắc Lắc được củng cố, mở rộng. Từ thực tế kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận, nhất là công tác vận động, tổ chức quần chúng chặt chẽ tạo nên khí thế mới ở các vùng căn cứ, khơi dậy và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở các vùng ven đô. Lực lượng vũ trang ba thứ quân phát triển đều ở các huyện.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:52:06 pm

Năm 1963, địa bàn Khu V vẫn là một trong những trọng điểm địch tập trung lực lượng đánh phá quyết liệt, nhất là các tỉnh đồng bằng.

Theo chủ trương của Quân khu uỷ, các lực lượng phải bám trụ địa bàn, kết hợp ba mũi giáp công trong chống càn quét, phá ấp chiến lược. Tỉnh uỷ Quảng Ngãi tập trung lực lượng mở chiến dịch 40, trọng điểm hoạt động là vùng đông bắc huyện Đức Phổ, nam huyện Mộ Đức, nhằm phá thế kìm kẹp của địch ở các xã ven biển và dọc quốc lộ số 1.

Được quân khu và tỉnh tăng cường một tiểu đoàn, quân, dân Đức Phổ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của huyện uỷ, đã mở các trận tiến công địch ở Phổ An, Phổ Quang. Do được chuẩn bị khá chu đáo, đêm 23-4-1963, quân, dân Đức Phổ tiêu diệt, làm tan rã phần lớn lực lượng ngụy quân, ngụy quyền ở hai xã Phổ An, Phổ Quang, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

Cùng thời gian nói trên, bộ đội chủ lực quân khu diệt bốt Nho Lâm (.xã Phổ Hoà), quần chúng xã Phổ Thuận được du kích hỗ trợ nổi dậy bao vây giải tán một trung đội dân vệ, thu 11 súng bộ binh. Phát huy thắng lợi, sáng 24 tháng 4, 500 dân các xã chung quanh huyện lỵ biểu tình thị uy hỗ trợ cho phong trào ở các trọng điểm của huyện.

Thấy phong trào cách mạng lên mạnh, địch tập trung lực lượng, phương tiện, chiếm lại các khu vực đã mất, trọng điểm là Phổ Quang, Phổ An. Do lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, bộ đội và du kích còn thiếu kinh nghiệm tổ chức, bố trí lực lượng chiến đấu, phần lớn bộ đội huyện, toàn bộ đội công tác xã Phổ An đã bị hy sinh, 200 đồng bào bị bắt, phong trào hai xã tạm thời lắng xuống.

Tháng 5-1963, quân ngụy lại liên tiếp hành quân càn quét triệt phá nhiều thôn, xóm thuộc các xã Phổ Ninh, Phổ Cường, Phổ Hiệp, Phổ Thạnh, nghiêm trọng nhất là thôn Tân An xã Phổ Nhơn bị địch đốt trụi 300 nóc nhà. Trước sự đàn áp khốc liệt của địch, tâm lý ngại ác liệt xuất hiện trong nhân dân và lực lượng vũ trang. Huyện uỷ Đức Phổ ra nghị quyết lãnh đạo củng cố tư tưởng, củng cố lực lượng vũ trang và chính trị, cứu trợ cho nhân dân ở những nơi bị địch khủng bố. Phong trào từng bước được phục hồi. Sau cuộc đảo chính chống Diệm-Nhu, phong trào tiến công diệt địch, phá ấp chiến lược ở Đức Phổ lại nổi lên mạnh mẽ, đều khắp từ Phổ Thạnh, Phổ Vinh, Phổ Khánh, Phổ Cường, Phổ Hiệp, Phổ Thuận đến Phổ An và thu được những thắng lợi rất quan trọng. Đánh giá phong trào của Đức Phổ báo cáo tổng kết của Tỉnh uỷ Quảng Ngãi tại Đại hội lần thứ ba của Đảng bộ nhận xét: “Thắng lợi của phong trào Đức Phổ trong thời kỳ này có một ý nghĩa quan trọng, nó củng cố tư tưởng cán bộ..., là một nguồn cổ vũ cho toàn tỉnh”1.

Cùng trong thời gian quân, dân Đức Phổ tiến công giải phóng xã Phổ An, Phổ Quang, tiểu đoàn 95, trung đoàn 2, Quân khu V cùng một đơn vị đặc công tiến đánh cứ điểm Long Lếch (tây Gia Vụt), diệt một đại đội bộ binh và một trung đội pháo binh ngụy. Những thắng lợi này tạo đà cho nhân dân và lực lượng vũ trang toàn Khu V mở đợt hoạt động cao điểm trong nửa cuối năm 1963, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, diệt thêm nhiều đồn bốt, căn cứ của địch ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.

Được bộ đội chủ lực giúp sức, du kích và tự vệ các địa phương trừng trị nhiều tên đầu sỏ ác ôn có nhiều nợ máu, phục kích diệt nhiều toán bình định. Chi bộ đảng và cơ sở mật tổ chức và vận động quần chúng kết hợp nhiều phương pháp phá ấp chiến lược, trại tập trung. Khi bị địch cưỡng bức đi làm hàng rào bảo vệ ấp, nhân dân chỉ cắm cây mà không buộc dây hoặc buộc sơ qua, hàng rào chỉ mười, mười lăm ngày đã hỏng; du kích, bộ đội ra vào hoạt động dễ dàng. Đối với những nơi địch dùng vũ lực thúc ép, bắt dân lên rừng chặt cây, đẵn tre nứa mang về rào ấp, dân đã mang rựa, rìu, cưa… giao cho bộ đội, du kích rồi về báo là bị Việt cộng tịch thu... Những ấp chiến lược địch tổ chức kìm kẹp dân quá chặt chẽ, cơ sở ta bí mật thủ tiêu những tên cầm đầu, mua chuộc, lôi kéo bọn còn lại, từng bước phá lỏng, phá rã ấp, đưa nhân dân về làng cũ làm ăn. Những khu vực trọng điểm của địch như: Tịnh Bình, Bình Trung, Làng Trang (Quảng Ngãi)... nhân dân liên kết lại, liên tục phá đi phá lại nhiều lần các ấp chiến lược, khu gom dân, từng bước làm thất bại kế hoạch bình định của địch.

Sự kiện nổi bật nhất trong phong trào thi đua với Ấp Bắc của quân, dân Khu V là trận đánh bại cuộc hành quân của ba sư đoàn chủ lực ngụy, vào căn cứ Măng Xim (khu giáp ranh ba tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum) do tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh vùng II chiến thuật chỉ huy, nhằm diệt cơ quan lãnh đạo Khu V, phá căn cứ trung tâm của cách mạng miền Trung.

Địch tổ chức ba mũi tiến công từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đánh lên, Kon Tum đánh xuống, hình thành thế “bủa lưới” vây căn cứ và dùng hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ đổ bộ bằng đường không xuống trung tâm căn cứ hòng bất ngờ bắt chụp toàn bộ cơ quan đầu não, phá tan hệ thống chỉ huy, thông tin, kho tàng của ta. Ngày 4-5-1963, các mũi tiến công trên bộ của địch chiếm lĩnh các vị trí hình thành thế “bủa lưới” như kế hoạch đã đặt ra.
____________________________________
1. Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Phổ (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.230.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:52:34 pm

Theo dõi nắm được ý định và cách đánh của địch, lực lượng vũ trang các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, KonTum, trung đoàn 2 bộ binh của ta cùng tiểu đoàn đặc công 409 hiệp sức chặn đánh các mũi tiến quân theo đường bộ của địch từ ngoài vào căn cứ. Ở bên trong, ta đã xây dựng hệ thống công sự, hầm hào, bố trí bãi mìn, vật cản, lực lượng bảo vệ căn cứ, cán bộ, nhân viên các cơ quan quân khu và dân quân, du kích chốt chặn các đường mòn, xây dựng trận địa bắn máy bay, đánh xe cơ giới địch.

Trong lúc các đơn vị trong căn cứ đang gấp rút hoàn thành công tác chuẩn bị, thì ngày 26-4, tiểu đoàn đặc công 409 cùng hai đại đội bộ binh tiểu đoàn 95 thuộc trung đoàn 2 do đồng chí Hồ Văn Trí, tham mưu trưởng trung đoàn, chỉ huy, bất ngờ tập kích tiêu diệt đơn vị bảo vệ cho công binh ngụy đang mở đường ở đoạn Gia Vụt đi Măng Đen. Qua hai giờ chiến đấu, ta diệt sở chỉ huy tiểu đoàn, một đại đội bộ binh, một trung đội pháo binh, thu hai khẩu pháo 105mm. Trận đầu ra quân thắng lợi làm cho kế hoạch tiến công của địch vào căn cứ Măng Xim gặp khó khăn.

Đầu tháng năm, khi các mũi tiến công của quân ngụy vừa đến bên ngoài căn cứ đã bị quân, dân các địa phương Quảng Ngãi, nam Quảng Nam và Kon Tum chặn đánh. Lực lượng vũ trang địa phương Kon Tum tập kích sở chỉ huy trung đoàn 41, sư đoàn 22 ở bắc Kom Plong. Du kích huyện Đắc Lây phục kích diệt gần 100 tên, hạ một số máy bay lên thẳng, chặn mũi tiến công của địch từ Đắc Tả xuống căn cứ. Cùng lúc, mũi tiến công của địch từ Đắc Hà đến Côxia cũng phải dừng lại sau khi bị bộ đội và du kích bắn rơi ba trực thăng, tiêu diệt trên 100 lính, sĩ quan. Hai mũi khác từ Gi Lăng tiến lên Vi Măng Xông, dọc theo triền sông Tranh đánh vào căn cứ cũng bị thiệt hại nặng với khoảng 200 tên chết và bị thương, hai máy bay lên thẳng bị phá huỷ.

Mặc dù các mũi tiến công trên bộ bị đánh thiệt hại nặng không vào được căn cứ, nhưng bộ chỉ huy hành quân của địch vẫn cho máy bay vận chuyển hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến đổ xuống khu vực Nước Xu. Đơn độc trong vùng rừng núi, lại chưa thông thuộc địa hình, ngay trong ngày, 80 lính thuỷ đánh bộ ngụy bị du kích tiêu diệt.

Sau một tuần hành quân không chiếm được Măng Xim, Bộ tư lệnh vùng II chiến thuật ngụy điều động quân tăng viện, quyết thực hiện cho được mục đích đề ra. Khi đoàn xe chở quân tăng cường của sư đoàn 22 ngụy vào tới Cam Rẫy, Măng Đen bị ta phát hiện, nhanh chóng cơ động lực lượng chặn đánh diệt 13 xe cùng hơn 100 tên địch. Thất bại này làm cho sĩ quan, binh lính địch đang tham gia cuộc hành quân hoang mang đến cực độ. Thấy có cố gắng, cũng không xoay chuyển được tình thế, ngày 15 tháng 5, bộ chỉ huy hành quân của địch thu quân, chấm dứt cuộc hành quân với tổn thất ước tính khoảng 600 binh sĩ thương vong, gần 20 máy bay trực thăng vũ trang bị bắn rơi, hàng chục xe quân sự bị phá huỷ.

Cũng trong khoảng thời gian bộ đội chủ lực và du kích đánh thắng trận càn của chủ lực địch vào căn cứ Măng Xim, nhân dân Kon Tum nổi dậy phá banh một loạt ấp chiến lược quanh chi khu Đắk Pét. Ở các tỉnh đồng bằng, lực lượng vũ trang địa phương, du kích đánh sâu xuống khu vực ven đường quốc lộ số 1, phát động nhân dân nổi dậy giành chính quyền làm chủ ở 32 thôn thuộc 12 xã ở tây thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam), tập kích một số mục tiêu trong nội thị, diệt cứ điểm Mò O.

Từ thắng lợi Măng Xim, phong trào du kích ở Tây Nguyên và các tỉnh đồng bằng Khu V được chủ lực giúp đỡ, tạo đà đã phát triển về số lượng và chất lượng. Nét nổi bật của phong trào này là ở chỗ bộ đội địa phương và du kích chiến đấu bằng chính vũ khí thô sơ tự sản xuất tại chỗ như chông, thò, cạm bẫy, cung nỏ, lựu đạn, bộc phá, mìn... kết hợp với những vũ khí thu được của địch.

Nhiều tuyến bố phòng dài hàng chục kilômét bằng chông, mìn, giàn thò... được xây dựng trên nhiều địa phương Khu V mỗi bước địch tiến quân, chúng đều bị thương vong. Có tổ du kích bố trí giàn thò liên hoàn trên một đoạn đường khoảng 100m đánh thiệt hại nặng một trung đội địch đi càn. Những bãi mìn, bom, hầm chông... góp phần tiêu hao nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch. Sáu tháng đầu năm 1963, trên mặt trận giao thông, quân dân Khu V đánh thiệt hại nặng nhiều toa tầu quân sự, phá huỷ, thu hơn 100 xe cơ giới, diệt hàng trăm lính, sĩ quan địch. Bộ đội, du kích Gia Lai, Kon Tum, Quảng Đà, Quảng Ngãi... bằng súng bộ binh, bắn rơi 24 máy bay các loại.

Được thắng lợi quân sự hỗ trợ, phong trào đấu tranh chính trị lên mạnh. Từ tháng 7 đến tháng 10-1963, Quảng Ngãi, Bình Định tổ chức 1.524 cuộc đấu tranh trực diện với địch với hơn một triệu lượt người tham gia. Kết hợp tiến công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận, nhân dân phá đi phá lại 1.876 lần ấp chiến lược (phá banh hơn 400 ấp trong tổng số 900 ấp địch xây dựng trên địa bàn này).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:54:09 pm

Song song với phát triển các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, Khu V không ngừng đẩy mạnh công tác xây dựng làng, xã chiến đấu, căn cứ hậu phương trực tiếp của chiến trường. Làng, xã chiến đấu được xây dựng không chỉ là những căn cứ chống địch hành quân càn quét rất có hiệu quả, là địa bàn thích hợp cho du kích bám trụ tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực, vũ khí, lực lượng, phát triển chiến tranh du kích sẵn sàng bổ sung cho chiến trường, mà còn là bàn đạp xuất phát tiến công của lực lượng cách mạng. Do tầm quan trọng đó, các cấp uỷ địa phương tích cực lãnh đạo, động viên, tổ chức nhân dân xây dựng ngày đêm, vừa xây dựng, vừa chống địch càn quét, trong sáu tháng đầu năm 1963, toàn khu xây dựng được 35 thôn, xã thành làng chiến đấu. Nhiều xã chiến đấu điển hình lập được thành tích xuất sắc. Xã chiến đấu Hoà Hiệp, huyện Tuy Hoà tỉnh Phú Yên, liên tục tổ chức lực lượng đánh bại hầu hết các cuộc hành quân cỡ tiểu đoàn địch trên dọc tuyến giao thông quốc lộ số 1 đoạn từ Tuy Hoà đi Nha Trang. Xã A1, huyện An Khê, tỉnh Gia Lai bao vây, bắn tỉa tiêu hao sinh lực địch, phá dứt điểm hai đồn ở Khốc và Krông Đun... Những thành công khởi đầu này khẳng định sự trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân địa phương, gắn liền với sự ra đời của hệ thống làng xã chiến đấu, góp phần phát triển chiến tranh nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả chiến đấu trên địa bàn Khu V.

Tuy vậy, phong trào đấu tranh ở vùng đồng bằng Khu V còn có những hạn chế nhất định, bởi vì lực lượng chủ lực chưa thực hiện được những trận đánh vào sâu trong lòng địch, chưa bám trụ được địa bàn để hỗ trợ, thúc đẩy phong trào du kích và nhân dân nổi dậy phá kìm, phá ấp, giành quyền làm chủ, khi bộ đội chủ lực rút đi, địch đã líp lại.

Trong một số trận chống càn, bộ đội chủ lực và du kích còn bị thương vong khá nhiều. Tháng 4-1963, tiểu đoàn 95, trung đoàn 2 chủ lực quân khu tổ chức chống địch càn quét ở miền tây Quảng Ngãi bị thương vong tới 110 đồng chí, làm mất 60 súng bộ binh và một số trang dụng quân sự. Tư tưởng ngại tác chiến với xe bọc thép M113 và máy bay trực thăng vũ trang chưa khắc phục được trong một số đơn vị cơ sở. Trong khi đó, nguồn bổ sung tại chỗ không bù đắp kịp quân số hao hụt; vũ khí, trang bị chủng loại không đồng bộ, từ nhiều nguồn: mua của nước ngoài, viện trợ của các nước anh em, thu được của địch..., lại lạc hậu, cũ kỹ, đạn dược thiếu thốn, phải tham gia chiến đấu liên tục dài ngày (vài tuần đến hàng tháng), không có điều kiện bổ sung, sửa chữa. Mặt khác, điều kiện vật chất rất eo hẹp, thiếu lương thực, thuốc chữa bệnh, quần áo trang dụng..., lại phải sống, chiến đấu chủ yếu ở vùng rừng núi khí hậu khắc nghiệt, bệnh tật phát sinh (nhất là sốt rét rừng), quân số biên chế của các đơn vị thường xuyên không bảo đảm. Mỗi tiểu đoàn quân số chỉ bằng một đại đội hoặc thấp hơn. Trong khi đó, số lượng quân địch gấp nhiều lần ta, được trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu hiện đại, vật chất bảo đảm tốt. Mặc dù vậy, trong năm 1963, quân dân Khu V tổ chức được hơn 4.000 trận đánh lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20.000 tên địch, phá huỷ, phá hỏng 337 xe quân sự, trong đó có 40 xe M113. Qua thực tế chiến đấu, lực lượng vũ trang và nhân dân từng bước trưởng thành, nhưng sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự và chính trị chuyển biến còn chậm. Do vậy, việc chống chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận trên chiến trường chưa đạt kết quả cao, việc hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị, phá ấp chiến lược còn bị hạn chế. Nửa đầu năm 1963 ta phá được thế kìm kẹp ở 250 thôn, ngay sau đó địch chiếm lại 179 thôn, lập thêm gần 1.000 ấp chiến lược, trại tập trung, nâng tổng số ấp chiến lược lên 2.000 ấp, vùng giải phóng ở vùng đồng bằng Khu V bị thu hẹp còn 34 thôn ấp với 6000 dân.

Nguyên nhân tình trạng này không phải hoàn toàn do lực lượng vũ trang ta hoạt động chưa mạnh để làm hậu thuẫn đắc lực cho phong trào nổi dậy của quần chúng, mà còn do lãnh đạo ở các địa phương chưa quán triệt thấu đáo phương châm phá ấp chiến lược chủ yếu bằng lực lượng bên trong là chính, lực lượng bên ngoài là quan trọng. Do đó, việc xây dựng cơ sở, phát động và giáo dục quần chúng nổi dậy của các cấp uỷ địa phương còn yếu kém, thường ỷ lại lực lượng từ bên ngoài đánh vào hoặc huy động nhân dân ở các vùng giải phóng lân cận kéo đến phá ấp. Nhân dân sống trong ấp chiến lược là lực lượng hỗ trợ. Những hạn chế này đã được quân, dân Khu V rút kinh nghiệm, uốn nắn kịp thời, từng bước đưa phong trào tiến lên.

Trên chiến trường Trị Thiên, sang năm 1963 phong trào ở miền núi phát triển khá nhờ Liên tỉnh uỷ có chủ trương, kế hoạch cụ thể, phát động lực lượng bên trong các ấp chiến lược tự nổi dậy phá thế kìm kẹp kết hợp với hoạt động vũ trang. Các cuộc hành quân càn quét lớn của địch đều bị đánh bại buộc chúng phải giảm các hoạt động ở miền núi quay về đối phó với phong trào cách mạng ở thành thị và đồng bằng. Âm mưu lấn chiếm miền núi của chúng bị thất bại. Địa bàn giáp ranh giữa miền núi và đồng bằng ở Trị Thiên được củng cố, thế liên hoàn giữa ba vùng hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiến công địch ở đồng bằng và thành thị.

Ở đồng bằng, ta kết hợp được các lực lượng và các hình thức đấu tranh, mở ra thời kỳ mới trong việc phá ấp chiến lược phá thế kìm kẹp, đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao. Lực lượng vũ trang bắt đầu phát huy vai trò xung kích, làm nòng cốt cho phong trào phá ấp, phát động nhân dân nổi dậy diệt ác, trừ gian, giành quyền làm chủ thôn ấp. Trong năm 1963, lực lượng vũ trang cả ba vùng đánh 740 trận, diệt 1.614 tên, làm bị thương 715, bắt 38, thu 108 súng, bắn rơi 21 máy bay, 108 lần phối hợp với nhân dân phá ấp chiến lược; bắt và diệt 222 tên tề, điệp ác ôn (riêng sáu tháng đầu năm, du kích năm huyện miền núi đánh 519 trận, diệt, làm bị thương 946 tên) mở ra khu vực thông thương với một số tỉnh của Khu V và miền Bắc, tạo nên vùng “cửa ngõ” là hai huyện Hải Lăng (Quảng Trị), Phong Điền (Thừa Thiên) nối liền căn cứ với đồng bằng và đô thị.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:54:33 pm

Thắng lợi của phong trào đấu tranh tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở ở thôn, xã phát triển. Tính đến giữa năm 1963, so với năm 1962, số cơ sở xây dựng được tăng bình quân 30-40% (riêng Quảng Trị, số thôn có cơ sở là 269/492, chiếm tỉ lệ 45%). Các xã ở Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng có từ 100 đến 300 cơ sở. Còn ở Thừa Thiên, đầu năm 1963, phát triển còn chậm, chỉ có 95/587 số thôn có cơ sở.

Cùng với phong trào đấu tranh, xây dựng cơ sở cách mạng, lực lượng vũ trang cũng có sự thay đổi cả về chất lẫn lượng. Năm 1963, lực lượng vũ trang phân khu Trị Thiên - Huế từ một tiểu đoàn được bổ sung thêm một tiểu đoàn và một số đại đội trực thuộc, tỉnh có trung đội hoặc đại đội, huyện có trung đội. Riêng du kích miền núi Quảng Trị, Thừa Thiên có 2.191 người.

Như vậy, phong trào thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược trong năm 1963 ở Trị Thiên - Huế có bước tiến mới cả về thế và lực. Tuy chưa làm cho tình hình thay đổi lớn, nhưng đã giữ vai trò quan trọng cùng toàn miền tiếp tục giữ vững thế tiến công.

Ở chiến trường Khu VI, ngay từ những tháng đầu năm 1963, địch tập trung lực lượng mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào vùng giáp ranh Bình Thuận, Khánh Hoà, đánh sâu vào khu vực núi cao thuộc các tỉnh Lâm Đồng, Đắc Lắc. Riêng các tỉnh đồng bằng, địch cho lực lượng biệt kích, cảnh sát dã chiến, bộ binh mở các cuộc hành quân quy mô nhỏ hoặc tập kích bất ngờ vào các lõm của ta.

Phương pháp tác chiến của địch là dùng máy bay, pháo binh đánh phá dữ dội trên một khu vực rộng, rồi dùng trực thăng đổ quân xuống phối hợp với xe bọc thép, bộ binh tổ chức thành nhiều hướng, mũi với chiến thuật “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”, càn đi quét lại nhiều lần trên từng khu vực nhỏ, hòng bắt, tiêu diệt cơ sở cơ quan lãnh đạo, cán bộ nằm vùng của ta, gom dân dồn vào các ấp chiến lược.

Trước tình hình đó, học tập kinh nghiệm của Ấp Bắc, lãnh đạo và chỉ huy Khu VI bố trí lực lượng trên các hướng dự kiến địch sẽ tiến công, tổ chức những đơn vị chuyên bắn máy bay, xe bọc thép, kết hợp các hình thức đấu tranh để ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch. Đi đầu trong đợt ra quân “thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược”' lực lượng vũ trang vùng căn cứ Bình Thuận lần lượt bẻ gãy ba cuộc hành quân mang mật danh: Sơn Dương I, Sơn Dương II, Bình Lâm của sư đoàn 3 bộ binh ngụy, gây thiệt hại về người và phương tiện chiến tranh của địch. Phối hợp tác chiến của lực lượng vũ trang, quần chúng cách mạng Bình Thuận được các cơ sở mật làm nội ứng, tổ chức đấu tranh trực diện với địch, phá tan 38 ấp và khu tập trung, đưa những người bị bắt về quê cũ.

Để căng kéo lực lượng địch, tạo điều kiện cho nhân dân trong các vùng căn cứ chống càn, tiểu đoàn 840 chủ lực quân khu dùng một bộ phận lực lượng bất ngờ đánh chiếm cứ điểm Hằng Tổ, phục kích trên đường số 21 (kép) diệt một đoàn xe quân sự 21 chiếc, hỗ trợ đắc lực cho đồng bào Ba Na dùng vũ khí thô sơ tự tạo diệt bọn ác ôn, phá khu dồn dân trở về buôn làng cũ. Phối hợp với hoạt động của quân chủ lực, bộ đội Bình Thuận, sau khi đánh thiệt hại địch ở các cứ điểm Phi Long, Phi Hổ, kết hợp với bộ đội huyện Bắc Bình phục kích đường giao thông, diệt một đoàn xe chở hàng quân sự tại khu vực Bàu Sen (quốc lộ số 1), diệt một đại đội bảo an và bốn trung đội dân vệ đi càn, thu 160 súng bộ binh và một số hàng hoá quân sự. Thừa thắng, ta đánh luôn đồn Bình Lâm làm thiệt hại nặng một đại đội bảo an đồn trú tại đây. Đến giữa năm 1963, bộ đội Bình Thuận phối hợp với bộ đội huyện Tánh Linh đánh bại trận càn của hai đại đội bảo an do tên quận trưởng Tánh Linh cầm đầu ở khu vực Suối Kết, tạo đà cho quần chúng trong ấp nổi dậy giành quyền làm chủ.

Trận đánh “thì đua với Ấp Bắc” có ý nghĩa quan trọng nhất của Khu VI trong thời gian này là đánh bại cuộc hành quân của 2.500 quân chủ lực ngụy có không quân, pháo binh yểm trợ do tướng Tôn Thất Đính chỉ huy ở khu căn cứ Khánh Hòa (vùng lưu vực sông Tô Hạp). Ngày 1-6-1963, cuộc hành quân lớn của quân chủ lực ngụy bắt đầu. Học tập kinh nghiệm chống càn của quân, dân Ấp Bắc và đồng bào Khu V, Tây Nguyên, các cơ sở cách mạng hướng dẫn nhân dân dùng những vũ khí thô sơ, mang cung, bẫy đá, hầm chông... bố trí thành nhiều tuyến bố phòng ngăn chặn, sát thương địch, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội và du kích có thời gian cơ động lực lượng, lợi dụng thế hiểm hóc địa hình miền núi, bám đánh chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch. Với cách đánh hiểm và tài bắn tỉa chính xác của các tay súng, tay cung của du kích người dân tộc vùng cao, hàng trăm binh sĩ ngụy phải đền tội. Nhiều tên chỉ huy các hướng, các mũi bị trúng đạn, tên thuốc độc ngay từ đợt xung phong đầu tiên. Một nỗi kinh hoàng trước thế trận thiên la địa võng của chiến tranh nhân dân địa phương đè nặng lên sĩ quan, lính ngụy trong suốt cuộc hành quân này. Biết có tiếp tục cuộc hành quân cũng chỉ chuốc thêm thương vong. Sau 38 ngày tham chiến, Tôn Thất Đính hạ lệnh lui quân, bỏ dở kế hoạch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:55:13 pm

Tiếp tục phát huy những thắng lợi đã giành được, ngày 22-6-1963, bằng những trái mìn chống tăng do xưởng công binh Cao Thắng sản xuất, bộ đội Bình Thuận diệt đoàn tàu hoả gồm 12 toa, phá hỏng toàn bộ vũ khí và hàng hoá trên tàu. Ngày 28 tháng 10, bộ đội, du kích lại phục kích một đoàn xe bọc thép chở lính đi càn vào hướng thị xã Phan Thiết, diệt một xe và hàng chục lính, thu 50 súng, sau đó, trụ lại tổ chức cho nhân dân một số thôn ấp vòng ngoài thị xã Phan Thiết nổi dậy diệt ác ôn, phá lỏng thế kìm kẹp. Tính đến hết năm 1963, quân, dân Bình Thuận - lá cờ đầu của “phong trào thi đua Ấp Bắc” của Khu VI đã đánh 570 trận lớn nhỏ, diệt gần 2.000 tên, làm rã ngũ, đào ngũ 550 tên, thu 272 súng các loại, bắn rơi 11 máy bay,... Nhờ đẩy được phong trào đấu tranh vũ trang lên tương đối đều khắp, liên tục, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, binh vận, Bình Thuận cản phá thành công các cuộc hành quân càn quét, gom dân, lập ấp chiến lược, giữ vững các vùng căn cứ và vùng giải phóng.

Như vậy, với sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các hình thức đấu tranh một cách linh hoạt, thích hợp..., quân Khu VI bước đầu giành thắng lợi, đánh bại một số cuộc càn quét, phát động nhân dân phá vỡ được một bộ phận ấp chiến lược. Điều cốt yếu nhất rút ra từ hoạt động thực tiễn của chiến trường Khu VI cũng như ở toàn miền là đấu tranh vũ trang phải đi song song với đấu tranh chính trị và binh vận, để diệt cơ sở hạ tầng của ngụy, mới giải phóng được dân, được đất, mở rộng căn cứ đứng chân, tạo thanh thế ngày càng lớn cho cách mạng. Những thành quả của Khu VI, tuy chỉ là bước đầu, nhưng nó khẳng định ta có đủ khả năng đánh thắng quân ngụy, phá vỡ quốc sách ấp chiến lược của chúng.

Là một quân khu đã làm nên trận Ấp Bắc oai hùng và trở thành tên gọi của phong trào thi đua sôi nổi trên toàn Miền trong năm 1963, Khu VIII không ngừng phát triển lực lượng, nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội và du kích, tổ chức quần chúng, xây dựng các làng xã chiến đấu chu đáo. Với phương hướng hành động là tập trung toàn lực, toàn diện vào đánh địch, nắm vững khâu chính là đẩy mạnh phong trào du kích chiến, kết hợp chặt chẽ giữa chống càn quét và chống gom dân, lập ấp chiến lược kết hợp chặt chẽ lực lượng bên trong và lực lượng bên ngoài, bên trên và bên dưới, địa phương này với địa phương khác, kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, xác định lực lượng quần chúng là cơ bản, lực lượng vũ trang kết hợp là đòn bẩy quan trọng, Khu uỷ Khu VIII phát động hai đợt thi đua giết giặc lập công trên chiến trường đồng bằng miền Trung Nam Bộ. Đi tiên phong cho phong trào thi đua của khu là Mỹ Tho.

Sau thất bại Ấp Bắc, Mỹ- ngụy quyết định lao sâu hơn vào cuộc chiến tranh bằng kế hoạch chiến lược với tên gọi “Kế hoạch tổng tiến công”, thực hiện từ tháng 2-1963. Chúng tập trung lực lượng tăng cường hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, ra sức dồn dân, lập ấp chiến lược. Mặc dù địch đã biến nhiều xã, huyện trong tỉnh Mỹ Tho như xã Thân Hữu Nghĩa ở phía nam huyện Châu Thành thành vùng trắng, đồn, bốt dày đặc, lực lượng kìm kẹp đông, chúng đánh phá, dồn dân hết sức ác liệt, nhưng nhân dân và lực lượng vũ trang vẫn kiên cường bám trụ đánh địch, mở vùng.

Được khí thế của Ấp Bắc tạo đà, phong trào ở Mỹ Tho diễn ra mạnh mẽ ngay từ những ngày đầu của đợt thi đua. Sau khi giành thắng lợi ở Ấp Bắc, quân, dân Mỹ Tho tổ chức ngay đợt ra quân phá ấp chiến lược, chống hành động “xúc dân” ở bảy xã quanh vùng Ấp Bắc đưa ra lộ số 4, lập các khu dồn dân Dưỡng Diềm, Điền Hy và hai xã Trung Hoà, Tân Bình Thành ra khu vực lộ An Khương. Khi binh lính ngụy xông vào các nhà dân xúc lúa, ném đồ đạc, xua kéo nhân dân lên xe cơ giới, xe bọc thép chở vào các khu tập trung, bà con đã kiên quyết đấu tranh giành giật quyết liệt, không cho chúng phá tài sản, gom người vào trại tập trung. Không khuất phục trước hành động của những tên lính ngụy, bác Năm Dành ở Tân Hội - Cai Lậy đã rút cây mác cắm trên vách nhà, trừng mắt quát thẳng vào mặt tên quận trưởng Nguyễn Thúc Hùng: “Cả đời tao sống ở đây chết cũng chôn với mồ mả ông bà ở đây. Tao không đi đâu hết. Trước khi chết, tao giết chết mày trước đã”1. Hành động quyết tử của bác Năm Dành cùng bà con trong xóm ấp, buộc tên Hùng vội cho quân lính dừng tay, lui quân. Để kịp thời hỗ trợ cho phong trào của nhân dân, du kích và bộ đội tổ chức một số trận tiến công giành được thắng lợi rất quan trọng. Tiêu biểu nhất là giữa tháng 4-1963, tiểu đoàn 261 chủ lực quân khu tiến công Cầu Thị Qua (xóm Vuông), diệt một đại đội bộ binh và tám xe bọc thép của quân ngụy. Với những thắng lợi này, quân, dân Mỹ Tho đánh bại kế hoạch hành quân gom dân bảy xã chung quanh Ấp Bắc của quân ngụy vùng IV chiến thuật.

Cũng ở thời điểm này, tiểu đoàn 514 Mỹ Tho phân tán lực lượng xuống các địa phương ở nam lộ số 4 hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược. Đại đội 2 tiến công diệt một đại đội địch đi càn ở Long Hưng, hậu thuẫn cho nhân dân nổi dậy diệt ba tiểu đội dân vệ, phá banh các ấp chiến lược thuộc các xã Kim Sơn, Vĩnh Kim. Đại đội 2 tiến xuống Chợ Gạo phá khu ấp chiến lược Thạnh Trị. Đại đội 1 cũng đẩy mạnh tiến công làm nòng cốt cho nhân dân các xã Long Trung, Long Tiên, huyện Cai Lậy phá rã một mảng lớn ấp chiến lược, đưa các gia đình về quê cũ. Sang tháng 5, đại đội 1 và 2 của tiểu đoàn 514 lại tổ chức bao vây diệt đồn Cẩm Sơn, giải phóng hai xã Cẩm Sơn, Xuân Sơn - Cai Lậy.

Từ thực tế đợt ra quân đầu năm này, Mỹ Tho khẳng định: lực lượng vũ trang muốn hỗ trợ cho quần chúng phá được ấp chiến lược phải thực hiện luồn sâu, trụ lại rồi bung ra tiến công địch, mục tiêu tiến công là chọn những nơi quân địch yếu, sơ hở, rồi phát triển tiến công đánh mở rộng ra từng vùng.
____________________________________
1. Cuộc kháng, chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Bộ chỉ huy quân sự Tiền Giang xuất bản, 1988. tr.211.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:55:39 pm

Phát huy thắng lợi của đợt ra quân sáu tháng đầu năm, bắt đầu từ tháng 7-1963, tiểu đoàn 261 và 514 cùng lực lượng bộ đội địa phương huyện, du kích các xã phối hợp với lực lượng chính trị, binh vận tiếp tục đẩy mạnh tiến công địch trên địa bàn toàn tỉnh Mỹ Tho. Kế hoạch hoạt động được xác định trên hai hướng: hướng chính là 14 xã thuộc hai huyện Cai Lậy, Châu Thành. Lực lượng tham gia gồm tiểu đoàn 261, đại đội 1 tiểu đoàn 514 và toàn bộ bộ đội huyện, du kích các xã, nhằm tiêu diệt, bức hàng, bức rút các đồn bốt, phá dứt điểm các ấp chiến lược, giải phóng các xã. Hướng phụ là huyện Chợ Gạo, do đại đội 2 tiểu đoàn 514, bộ đội huyện Chợ Gạo, du kích các xã có nhiệm vụ đánh phá khu gom dân Trung Hoà, Tân Bình Thạnh, khu ấp chiến lược Ông Văn ở Đăng Hưng Phước thực hiện căng kéo địch.

Trong đợt hoạt động này, lần đầu tiên một ban chỉ huy thống nhất được thành lập gồm các đồng chí: Châu Kim Sơn - Tham mưu phó Quân khu VIII giữ chức chỉ huy trưởng, Nguyễn Thanh Hà, thường vụ tỉnh uỷ, chính trị viên tỉnh đội Mỹ Tho giữ chức chính trị viên mặt trận, Nguyễn Văn Danh - tỉnh đội trưởng Mỹ Tho, Nguyễn Văn Điều, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 261 phó chỉ huy.

Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, tập kết lực lượng trên hướng chính, đêm 16 tháng 7, ta bắt đầu nổ súng, hình thành thế bao vây các đồn Cái Mít, Chợ Cầu. Sáng 17 quân địch điều động một bộ phận sư đoàn 7 và xe M113 tiến ra lộ Ba Dừa, lộ số 4 và lộ Đông Hoà, nhưng chúng không tiến được vào khu chiến. Bị ta bao vây, uy hiếp mạnh mà sư đoàn 7 vẫn không đến ứng cứu giải toả, sáng 19-7, toàn bộ quân địch ở đồn bốt Cái Mít, Chợ Cầu và một số đồn bốt lân cận đã rút chạy.

Đêm 20 tháng 7, tiểu đoàn 261 tiến công tiêu diệt chi khu Vĩnh Kim. Đại đội 1 tiểu đoàn 514 diệt bốt Bờ Trúc xã Đông Hoà, bốt Cầu Lấp xã Song Thuận. Trước sức tiến công mạnh mẽ của ta, ngày 21, các đồn bốt như Bình Trưng, Phú Phong, Mù U, ngã tư Hưng Long (Tam Bình), Ngã Tắc (Long Trung), ngã ba Long Tiên, Phú Quý... cả thảy 15 đồn bốt trong khu vực, quân địch bỏ chạy hoặc đầu hàng.

Trên hướng Chợ Gạo, đêm 16 tháng 7, đại đội 2 tiểu đoàn 514 tập kích khu gom dân Trung Hoà, diệt một trung đội bảo an, hỗ trợ cho nhân dân phá kìm trở về quê cũ làm ăn. Ngày 17, đại đội 2 và bộ đội huyện Chợ Gạo đẩy lùi cuộc tập kích của một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 7 và hai đại đội bảo an ngụy, diệt 40 tên, bắn rơi một máy bay khu trục tại cầu Ông Hậu xã Mỹ Tịnh An. Đêm 17, đại đội 2 tiểu đoàn 514 cơ động xuống cầu Ông Hàn xã Quảng Long. Phát hiện chỉ có một đại đội của tiểu đoàn 514, chỉ huy sư đoàn 7 ngụy dùng hai trung đoàn bộ binh, 45 xe M113, 12 pháo, 27 tàu, 30 trực thăng đổ quân hình thành thế bao vây quyết “xoá sổ” đại đội 2.

11 giờ 30 phút ngày 20 tháng 7, quân địch chia làm nhiều mũi cùng lúc tiến công vào khu vực tập kết lực lượng của đại đội 2 tại cầu Ông Hàn. Biết quân địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần, đại đội 2 học tập kinh nghiệm của trận Ấp Bắc trước đây, nhanh chóng phối hợp chặt chẽ với bộ đội huyện Chợ Gạo, du kích Quảng Long khẩn trương chuẩn bị công sự, trận địa đánh trả quân địch. Qua năm giờ chiến đấu liên tục, các mũi tiến công của địch bị đẩy lùi. Trận địa vẫn được giữ vững cho đến khi màn đêm buông xuống ta chủ động rút quân. Kết quả, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 200 tên địch, bắn rơi ba máy bay, bắn hỏng và phá huỷ tám xe M113; bộ đội ta hy sinh 13, bị thương 15 đồng chí. Đây là trận chiến đấu không cân sức, gay go quyết liệt, nhưng là trận ta giành được thắng lợi vang dội, gây ảnh hưởng sâu rộng trên địa bàn quân khu.

Sau khi diệt chi khu Vĩnh Kim và 15 đồn bốt trên hướng chính, quân địch không có hoạt động ứng cứu, giải toả đáng kể; đồng thời ở hướng Chợ Gạo, ta lại giành thắng lợi ở trận cầu Ông Hàn xã Quảng Long ngày 22-7-1963 Ban chỉ huy thống nhất quyết định kết thúc đợt hoạt động. Ta giải phóng được hoàn toàn 12 xã thuộc hai huyện Cai Lậy, Châu Thành, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn liên hoàn nối liền bắc lộ số 4 với Đồng Tháp Mười, đặt tên là “vùng 20-7” để ghi nhớ một chiến công đánh dấu bước trưởng thành của các lực lượng vũ trang, chính trị trong quân khu.

Thắng lợi trong đợt hoạt động 20-7 ở Mỹ Tho để lại bài học kinh nghiệm có giá trị về việc sử dụng các lực lượng, đánh địch bằng hai chân ba mũi, về phá ấp chiến lược, mở mảng, mở vùng, giải phóng nông thôn... cho Khu VIII và các địa phương toàn miền học tập.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:56:44 pm

Trong khi phong trào cách mạng ở Mỹ Tho liên tiếp giành được thắng lợi, thì ở Bến Tre phong trào còn nhiều khó khăn. Từ những tháng đầu năm 1963, địch tập trung lực lượng càn quét với mức độ ác liệt trên hầu khắp các địa bàn toàn tỉnh, dựng thêm 129 ấp chiến lược, thu hẹp phần quan trọng diện tích vùng giải phóng. Lực lượng vũ trang của ta hoạt động yếu, chủ lực phân tán, chiến đấu kém hiệu quả, phong trào đấu tranh chính trị giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Để nhanh chóng khắc phục khó khăn này, tỉnh uỷ triệu tập hội nghị mở rộng vào đầu tháng 4-1963. Hội nghị chỉ rõ: Qua thực tiễn kinh nghiệm Ấp Bắc, nếu địch càn quét, lấn chiếm, ta không tích cực chống càn quét là sai; đấu tranh vũ trang không mạnh thì đấu tranh chính trị và binh vận sẽ gặp rất nhiều khó khăn; phong trào không lên được thì vùng giải phóng sẽ ngày càng bị thu hẹp. Tại hội nghị này, tư tưởng bảo thủ, hữu khuynh tồn tại trong một số cán bộ, đảng viên được đưa ra phân tích, mổ xẻ, phê phán, uốn nắn. Sau những ngày bàn bạc, tranh luận sôi nổi, khẩn trương, các đại biểu thống nhất chủ trương hành động trước mắt là: tập trung huấn luyện, tăng cường vũ khí, trang bị, nâng cao sức chiến đấu cho hai đại đội chủ lực tỉnh, thành lập thêm đại đội thứ ba và đại đội trợ chiến; phát triển các trung đội thông tín, trinh sát, đặc công, công binh thành đại đội. Đồng thời, khẩn trương kiện toàn các cơ quan chỉ huy quân sự các cấp kiên quyết chỉ đạo bộ đội tỉnh, huyện đứng lại cùng du kích và nhân dân chống các cuộc hành quân càn quét của địch, hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy gỡ đồn bốt, phá ấp chiến lược, mở thêm vùng làm chủ. Kết thúc hội nghị, tỉnh uỷ phát động phong trào thi đua hưởng ứng chương trình hành động của Quân uỷ Miền trong năm 1963: “thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược” trong toàn thể lực lượng vũ trang và nhân dân.

Để bảo đảm cho phong trào thi đua thành công, cuối tháng 4 đầu tháng 5-1963, Ban quân sự Bến Tre đưa đại đội 1 và 2 chủ lực về căn cứ Thạnh Phong (huyện Thạnh Phú), nơi có địa hình thuận lợi, có điều kiện bảo đảm vật chất tốt... để thực hiện việc huấn luyện nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật và giác ngộ chính trị... Nội dung đợt huấn luyện này chú trọng việc xây dựng công sự theo cấu trúc hình chữ L có nắp - một dạng công sự thuận lợi cho cả chiến đấu tiến công và phòng ngự. Về bắn súng, đi sâu vào phương pháp bắn máy bay lên thẳng, đánh xe M113. Về chiến thuật, chú trọng cách đánh vận động, phục kích từ cấp tiểu đội đến cấp đại đội. Trong quá trình huấn luyện, kinh nghiệm và mô hình trận Ấp Bắc được áp dụng như một tưởng định mẫu mực.

Sự cố gắng của lãnh đạo và quân, dân Bến Tre mang lại những kết quả đáng phấn khởi. Ngày 5-7-1963, bộ đội tỉnh cùng du kích xã Thạnh Phú Đông tiến công đồn Cái Mít (trên triền sông Hàm Luông). Sau khi hạ đồn, ta chia lực lượng ra phục kích chờ đánh quân viện. Đúng dự kiến của ta, địch cho tiểu đoàn 3 trung đoàn 12, sư đoàn 7 đến ứng cứu. Địch dùng trực thăng đổ một đại đội bộ binh xuống Gò Keo. Phát hiện hành động của địch, ta khẩn trương phân chia đội hình, cơ động, bí mật chiếm các vị trí xung yếu, tổ chức đánh trực thăng khi chúng vừa chạm đất Bị đánh bất ngờ, bộ binh địch không kịp trở tay, mạnh tên nào tên nấy chạy ra cánh đồng để thoát chết. Đại đội địch còn lại, tuy được máy bay trực thăng đổ xuống an toàn, nhưng khi xung phong bị du kích và bộ đội ta bố trí trong các công sự, hầm hào dùng hoả lực phối hợp đánh mạnh, gây tổn thất cả về người và phương tiện. Trận đánh diễn ra ác liệt, lực lượng ta tuy thiếu thốn lương thực, vũ khí nhưng vẫn kiên quyết bám trụ đến cùng. Sau một tuần tham chiến, nhiều sinh lực, vũ khí và trang dụng quân sự địch bị tiêu hao, chúng không xung phong vào được trận địa ta, buộc phải lui quân, chịu mất đồn Cái Mít và cả khu vực điểm cao Gò Keo. Được lực lượng vũ trang hỗ trợ đắc lực, quần chúng trong ấp chiến lược nhất tề nổi dậy diệt ác, trừ gian, phá ách kìm kẹp, giải phóng hoàn toàn xã Thạnh Phú Đông, xây dựng thành xã chiến đấu.

Khuếch trương thắng lợi đã giành được, từ ngày 10 đến ngày 15-7-1963, các cơ sở mật thuộc các xã Thạnh Phú Đông, Hiệp Hưng, Tân Hào, Phước Long tổ chức được 2.000 quần chúng nòng cốt và thân nhân gia đình binh sĩ ngụy kéo về thị trấn Giồng Trôm, đòi chính quyền ngụy bồi thường thiệt hại tài sản, tính mạng của chồng, con bị chết trận, đòi chấm dứt ngay những hành động càn quét, đánh phá, kêu gọi con em quay súng trở về với bà con, xóm làng.

Rút kinh nghiệm trận Gò Keo, ngày 2 tháng 9, hai đại đội chủ lực của tỉnh cùng bộ đội huyện Giồng Trôm tiến đánh đồn Sơn Phú, phục kích đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an 232 đến ứng cứu. Thừa thắng, bộ đội ta lại tập kích diệt đồn Lương Phú, chặn quân tiếp viện bằng đường thuỷ trên sông Tài Phú, bắn chìm hai tàu, diệt đại đội bảo an Giồng Trôm, trong đó có tên đại úy đồn trưởng.

Ngày 9 tháng 9, bộ đội tỉnh hành quân xuống Ba Tri phối hợp cùng lực lượng vũ trang huyện, du kích xã diệt đồn Mỹ Nhơn, sau đó, chuyển sang vận động phục kích diệt toàn bộ đại đội bảo an 907 khét tiếng ác ôn được thành lập từ thời Pháp, bắt 35 tù binh, thu 80 súng các loại. Thắng lợi trong trận vận động phục kích này đánh dấu bước trưởng thành mới của lực lượng vũ trang Bến Tre. Cùng thời gian này, đại đội 3 chủ lực vừa thành lập hiệp đồng với bộ đội Thạnh Phú tập kích đánh tiêu hao nặng đại đội bảo an 854 ở Cầu Ván (xã Giao Thạnh) tạo điều kiện cho nhân dân ở một số ấp chiến lược trong huyện nổi dậy phá ấp giành quyền làm chủ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:57:07 pm

Đi đôi với tác chiến thắng lợi, lực lượng chủ lực đã có bước phát triển. Ngoài ba đại đội bộ binh đang trực tiếp chiến đấu, tỉnh xây dựng được một đại đội hoả lực mạnh có đủ phân đội ĐK57, ĐK75.... Cũng tại đây một trung đội “vũ trang tóc dài” gồm 43 đồng chí được thành lập. Nhiệm vụ của đội là vũ trang tuyên truyền và phát động phong trào quần chúng ở các vùng sâu, vùng yếu, cải trang để điều tra tình hình trong các hang ổ địch, phục vụ cho các trận đánh quan trọng.... Trung đội hoạt động rất có hiệu quả. Bên cạnh đó, ở các huyện, lực lượng vũ trang từ hai trung đội đã phát triển lên đại đội; riêng các huyện trọng điểm như Giồng Trôm, Mỏ Cày xây dựng được đại đội bộ binh có đủ ba trung đội và các tiểu đội thông tin, trinh sát, còn mỗi xã có từ một đến hai trung đội du kích.

Với lực lượng trên, trong đợt một của phong trào thi đua Ấp Bắc, Bến Tre tổ chức đánh 4.759 trận lớn nhỏ, diệt 2.596 tên, làm bị thương 5.654, bắt làm tù binh 536 tên, 3.956 tên đào rã ngũ; hỗ trợ cho quần chúng phá hoàn toàn 121 ấp, phá lỏng 47 ấp và khu tập trung, chuyển 34 ấp chiến lược thành làng chiến đấu. Đến đây lực lượng vũ trang ba thứ quân của tỉnh thực sự đảm nhiệm xuất sắc vai trò “đòn xeo” trong phong trào thi đua giết giặc, phá ấp chiến lược ở Bến Tre. Ngoài ra, trong năm 1963, toàn tỉnh nuôi và huấn luyện 4.558 đàn ong và tổ chức cho ong tham gia chiến đấu ở 71 xã. Mỗi bờ rào ở ấp, xã chiến đấu đều có “đội quân ong” canh giữ, sẵn sàng đón đánh địch.

Khác với ở Mỹ Tho, Bến Tre, ở Kiến Tường, địch tổ chức cuộc hành quân quy mô lớn kéo dài nhiều tháng với tên gọi “Đức Thắng 23”, đánh vào hướng nam huyện Mộc Hoá (ngày 19-3-1963), và dọc vùng kênh Năm Ngàn (ngày 20-6-1963). Tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh chỉ thị cho các đơn vị chủ lực, địa phương, du kích tổ chức lực lượng ém sẵn, chặn đánh tiêu hao một phần lực lượng, phương tiện chiến tranh của địch, đồng thời, củng cố, phát triển lực lượng của ta. Tuy thành quả giành được qua phong trào thi đua Ấp Bắc chưa được bao nhiêu, nhưng đến giữa năm 1963, cả bộ đội tỉnh, huyện, du kích xã, ấp ở Kiến Tường tăng lên gấp hai lần. Chủ lực tỉnh thành lập được hai đại đội bộ binh, hai đại đội (thiếu) đặc công, công binh, 13 trung đội bộ đội huyện, còn mỗi cơ sở ấp, xã có từ một đến ba tiểu đội du kích.

Học tập kinh nghiệm mở vùng 20-7 của quân, dân Mỹ Tho và sự giúp sức trực tiếp của tiểu đoàn 261 của quân khu và tiểu đoàn 514 Mỹ Tho, phong trào ở Gò Công cũng có những chuyển biến. Đêm 8-9-1963, tiểu đoàn 261 làm nòng cốt cùng lực lượng vũ trang tỉnh Gò Công mở trận tiến công diệt đồn Tân Tây, diệt đại đội biệt kích ác ôn đóng tại chi khu quân sự Gò Công, rồi trụ lại chặn đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 7, một chi đoàn xe bọc thép M113 đi giải toả, diệt hàng chục tên cùng gần một chục xe M113. Cùng trong khoảng thời gian trên, đại đội 2 tiểu đoàn 514 phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ tổ chức bao vây diệt nhiều đồn bốt địch, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, giải phóng hoàn toàn hai xã Kiềng Phước, Tân Thành (Hoà Tân).

Trong khi nhiều vùng giải phóng các tỉnh khác ở Khu VIII được khôi phục, thì ở Long An tình hình lại diễn ra theo chiều ngược lại. Đầu năm 1963, quân chủ lực ngụy ồ ạt đổ về chiếm đóng khắp các địa bàn tỉnh Long An. Trung đoàn 46 thuộc sư đoàn 25 ngụy chiếm đóng Đức Hoà và rải quân chốt trên dường 31; trung đoàn 10 chốt giữ dọc đường 4 (từ Bến Lức đến Thủ Thừa); một chiến đoàn thuỷ quân lục chiến chiếm giữ Cần Đước; một chiến đoàn biệt động quân chiếm đóng Cần Giuộc. Dọc đường số 4, những đoàn trọng điểm hoạt động của ta, địch bố trí nhiều xe tăng, xe bọc thép án ngữ ngày đêm; các trận địa hoả lực hai bên đường được tăng thêm nhiều pháo và đạn bắn phá liên tục. Trên sông Vàm Cỏ, đoạn thuộc huyện Bến Lức, địch bố trí hai hải đoàn tàu chiến số 22 và 28, liên tục ngày đêm tuần tra bắn phá vào các căn cứ của ta và chi viện hoả lực cho bộ binh hành quân càn quét dồn dân lập ấp chiến lược ở dọc hai triền sông.

Vào thời điểm này, lực lượng vũ trang Long An chưa có gì thay đổi. Bộ đội chủ lực miền có một đại đội cơ động, một đại đội đặc công, một phân đội trinh sát, một phân đội hoả lực... ưu thế thuộc về quân địch. Chúng liên tục mở các cuộc hành quân cấp chiến đoàn hỗn hợp (gồm hai, ba tiểu đoàn bộ binh, một, hai chi đoàn xe bọc thép, có không quân, pháo binh chi viện), kéo dài nhiều ngày trên một khu vực hẹp (khoảng hai, ba thôn, ấp) kết hợp với các đoàn cán bộ bình định, dồn dân lập ấp chiến lược. Phương châm hoạt động của địch là càn quét chà đi xát lại nhiều lần trên một khu vực, xong rồi mới chuyển sang khu vực khác. Tiêu biểu nhất trong các cuộc hành quân bình định của địch năm 1963 là cuộc hành quân đánh phá xã Mỹ Hạnh huyện Đức Hoà. Đầu tháng 3-1963, địch dùng một chiến đoàn bộ binh, một chi đoàn xe bọc thép, một đơn vị biệt động quân thực hành bao vây tiến công chiếm giữ khu vực Trầm Lạc, Ấp Mới, sau đó dùng xe tăng, máy ủi phá hệ thống công sự, hầm hào chiến đấu mà bộ đội, du kích và nhân dân xây dựng trước đó. Phần lớn hầm bí mật bị phá huỷ, các cơ sở cách mạng bị phá vỡ, du kích, bộ đội không thể trụ bám được địa bàn.

Đi đôi với việc tàn phá xóm ấp, quân ngụy khẩn trương xây dựng các trục giao thông, ấp chiến lược Mỹ Hạnh. Đây là ấp chiến lược rất kiên cố. Chung quanh ấp là bờ tường đất đắp cao, cắm chông dày đặc, tiếp đến là hệ thống hàng rào dây thép gai ba lớp đơn, bùng nhùng và cũi lợn. Địch dồn được quá nửa dân số xã Mỹ Hạnh (khoảng 1.500 người) vào ấp chiến lược.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:57:42 pm

Cũng như cách làm ở Mỹ Hạnh, địch dồn dân ở 8/10 xã của huyện Đức Hoà vào ấp chiến lược. Ở Đức Huệ, địch tập trung củng cố khu ấp chiến lược Quéo Ba xã Mỹ Quý Tây. Ở Bến Lức, chúng xây dựng khu ấp trọng điểm ở Voi Lá, Tán Lông... phát triển ra các địa bàn khác. Riêng ở Cần Giuộc, tất cả các xã đều có ấp chiến lược... Đến tháng 9-1963, địch lập được 270 ấp chiến lược... trên 85 xã của tỉnh Long An. Phần lớn vùng giải phóng của ta giành được từ phong trào đồng khẩn bị quân địch lấn chiếm. Đến đây, quân ngụy thực hiện được một phần mục đích là tách lực lượng cách mạng ra khỏi quần chúng, làm cho bộ đội và du kích lâm vào tình trạng khó khăn. Tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh chỉ đạo các địa phương bám trụ, khẩn trương xây dựng lại các cơ sở bí mật, dùng đại đội cơ động của tỉnh và các đơn vị vũ trang huyện mở các trận tiến công vào một số đồn bốt, ấp chiến lược, nhưng không có kết quả. Vì lực lượng vũ trang của tỉnh đột nhập vào ấp chiến lược, giải tán toàn bộ dân vệ, thanh niên chiến đấu, thu vũ khí, vận động nhân dân nổi dậy phá rào, phá bờ tường đất bảo vệ chung quanh, sau đó rút quân, nhưng sáng hôm sau, địch chiếm lại. Tình trạng phá ấp chiến lược kiểu này diễn ra ở nhiều địa phương của Long An. Tỉnh uỷ rút kinh nghiệm, thay đổi phương pháp, đưa cán bộ vào bí mật hoạt động trong ấp, xây dựng lại cơ sở, tổ chức các đội du kích mật, sẵn sàng phối hợp với lực lượng quân sự, chính trị bên ngoài, thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào.

Giữa tháng 9-1963, Khu uỷ Khu VIII mở hội nghị sơ kết đợt một phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược”. Từ thực tiễn hoạt động ở các địa phương, Khu uỷ kết luận: Ấp chiến lược mạnh ở vòng ngoài, sơ hở ở bên trong. Ta có thể đưa lực lượng vũ trang vào những vùng sâu, vùng yếu, bất ngờ tiến công địch, nhanh chóng phát động nhân dân nổi dậy mở mảng, mở vùng trên khu vực rộng lớn. Lực lượng vũ trang phải trụ lại tổ chức đánh địch, hỗ trợ cho nhân dân tác chiến với máy bay trực thăng, xe bọc thép, có vậy mới giữ được dân, được đất, làm hậu thuẫn đắc lực cho phong trào đấu tranh của quần chúng phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ.

Khu uỷ Khu VIII quyết định phát động đợt hai phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược” trọng điểm là tỉnh Long An, Mỹ Tho... Ở các địa phương này trong đợt một, phong trào đấu tranh của nhân dân đã gây cho địch những thiệt hại, phá vỡ, phá lỏng nhiều ấp chiến lược, nhưng cuộc đấu tranh giữa ta và địch ở thế giằng co quyết liệt.

Cuối tháng 9-1963, Tỉnh uỷ Long An triệu tập hội nghị cán bộ để bàn biện pháp thực hiện nhiệm vụ tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, phá ấp chiến lược, thu hẹp cho được phạm vi chiếm đóng của địch, giải phóng nhân dân. Trên địa bàn tỉnh Long An cho đến thời điểm này chưa có địa phương nào tìm ra được phương thức phá ấp chiến lược có hiệu quả để rút kinh nghiệm học tập.

Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, hội nghị chỉ ra những nguyên nhân làm giảm sút các phong trào là: Xây dựng lực lượng chưa theo kịp sự thay đổi về tương quan lực lượng giữa địch và ta trên địa bàn, chưa mạnh dạn thay đổi cách đánh, chưa đánh đúng đối tượng là quân chủ lực địch trong hành quân càn quét và đóng đồn bốt. Về phá ấp chiến lược, nếu chỉ phá được hàng rào và bờ tường ấp thì mới chỉ phá được hình thức chứ chưa phá được nội dung của ấp chiến lược. Hội nghị chỉ rõ: Phương pháp phá ấp chiến lược cụ thể là dùng lực lượng vũ trang đánh tiêu diệt đồn bốt và lực lượng càn quét, rồi trụ lại tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy bung về làng cũ.

Thực hiện phương thức trên, tỉnh uỷ mà trực tiếp là Ban quân sự tỉnh đã tăng cường, củng cố lực lượng vũ trang ba thứ quân; bên cạnh một đại đội cơ động với 500 cán bộ, chiến sĩ được xây dựng từ đầu năm 1963, tỉnh thành lập thêm đại đội chủ lực thứ hai với quân số 300 cán bộ, chiến sĩ. Cùng với bộ binh, tỉnh xây dựng hai đại đội đặc công, một đại đội trinh sát, một đại đội pháo, một đại đội phòng hoá chất độc, một trung đội công binh và một trung đội thông tin1. Ở các huyện đều có đại đội tập trung, mỗi xã có từ một đến hai trung đội du kích. Trên hầu khắp các địa bàn xã, ấp, lực lượng vũ trang phối hợp và làm nòng cốt cùng nhân dân khẩn trương xây dựng công sự trận địa, thường xuyên trinh sát nắm địch, sẵn sàng chiến đấu.

Cuối tháng 9-1963, sau khi củng cố được lực lượng và trang bị thêm vũ khí, bộ đội Đức Hoà cùng nhân dân tiến công đồn Giồng Lớn, diệt một đại đội bảo an. Các cơ sở mật tổ chức cho nhân dân nổi dậy giải toả lực lượng thanh niên chiến đấu, dân vệ của địch, phá banh ấp chiến lược Giồng Lớn.

Trung tuần tháng 10, bộ đội Tân Trụ, Bến Lức tập kích diệt các đồn bốt ở Tân Bửu, Bình Đức, Mỹ Thạnh, trụ lại đánh thiệt hại nặng các cuộc hành quân càn quét dồn dân, lập ấp của quân chủ lực và bảo an. Trong tháng 10, lực lượng vũ trang tỉnh tiến công diệt hàng chục đồn bốt, hỗ trợ có hiệu quả cho nhân dân nổi dậy phá banh, phá rã 20 ấp chiến lược.
____________________________________
1. Theo Long An – Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.116.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 06:58:51 pm

Để tạo sự chuyển biến lớn thúc đẩy phong trào toàn tỉnh, tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh Long An tập trung hai đại đội đặc công, hai đại đội bộ binh, một trung đội công binh và bộ đội địa phương huyện Đức Hoà do đồng chí Huỳnh Công Thân (Tư Thân), tỉnh đội trưởng trực tiếp chỉ huy, tiến công trung tâm huấn luyện biệt kích Hiệp Hoà (tỉnh Hậu Nghĩa1) - căn cứ án ngữ hành lang biên giới Việt Nam - Campuchia của địch. Nhờ trinh sát, điều tra tình hình chu đáo, xây dựng quyết tâm chiến đấu sát thực, công tác bảo đảm được chuẩn bị kỹ lưỡng, chỉ hơn nửa giờ (từ 1 giờ đến 1 giờ 40 phút) đêm 22-11-1963, ta đã làm chủ được mục tiêu, diệt 78 tên địch, bắt làm tù binh gần 100 tên khác, thu 500 khẩu súng các loại (trong đó có 12 súng cối và đại liên, 18 trung liên, 100 tiểu liên, 400 cácbin, súng trường tự động, gần bốn tấn đạn các loại cùng nhiều trang dụng, thuốc chữa bệnh). Phía ta, hai đồng chí hy sinh, hai bị thương.

Thắng lợi trận Hiệp Hoà tạo đà cho nhân dân sống trong các khu tập trung, ấp chiến lược ở chung quanh căn cứ liên kết nhau lại nổi dậy, đánh đuổi ngụy quyền, ngụy quân ở cơ sở, phá lỏng, phá rã thế kìm kẹp. Chỉ ba ngày sau chiến thắng Hiệp Hoà, phần lớn các đồn bốt, ấp chiến lược ở các vùng Đức Hoà, Khánh Hoà, Sô Đo, Mỹ Hạnh bị phá cơ bản; hệ thống đồn bốt, tháp canh của quân ngụy trên đường số 10 (dài khoảng 40 km) đều bị ta bức rút.

Thắng lợi Hiệp Hoà là bằng chứng khẳng định muốn phá ấp chiến lược, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, thôn, ấp phải giỏi đánh công kiên, tiêu diệt được các đồn bốt, căn cứ kiên cố mới bảo đảm chắc chắn cho quần chúng nổi dậy phá kìm, phá ấp, giành và giữ được quyền làm chủ lâu dài.

Cay cú trước thất bại đêm 22 tháng 11, ngày 23 địch huy động một trung đoàn chủ lực, bốn trực thăng vũ trang, 18 xe bọc thép M113 chia làm hai cánh tiến công tái chiếm căn cứ Hiệp Hoà. Đúng thời điểm quân địch triển khai cuộc hành quân, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, hàng ngàn dân các xã Tân Mỹ, Tân Phú, An Ninh, Hiệp Hoà tập trung kéo ra chặn đường tiến quân, đấu tranh chính trị trực diện với địch. Các bà, các chị có chồng con chết trận than khóc, kêu gào, đòi bọn chỉ huy hành quân phải bồi thường nhân mạng, tài sản... do chúng gây ra. Cán bộ cơ sở và quần chúng cốt cán nhân cơ hội này kêu gọi, vận động binh sĩ ngụy quay súng, phản đối cuộc hành quân. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của đội quân tóc dài, binh sĩ địch vốn đã hoang mang lại càng hoang mang hơn. Chỉ huy quân địch bị dồn vào thế bị động, phải thu quân, bỏ dở kế hoạch hành quân chiếm lại căn cứ biệt kích Hiệp Hoà. Đây là thắng lợi thứ hai ở Hiệp Hoà, do nhân dân, nòng cốt là phụ nữ nắm thời cơ, khuếch trương chiến thắng quân sự của lực lượng vũ trang ngày hôm trước, khéo tổ chức đấu tranh, là kết quả của sự kết hợp giữa tiến công quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận.

Quân và dân Long An đã tạo ra thế mời, lực mới không những trên địa bàn của tỉnh mà còn cho cả Khu VIII và chiến trường miền. Sau trận đánh, bộ đội tỉnh, huyện đều được đổi mới cả về trang bị, trưởng thành về trình độ tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng tác chiến. Riêng bộ đội tỉnh từ hai đại đội bộ binh lúc đầu với tổng số 800 quân, quân khu chuẩn y cho Long An thành lập một tiểu đoàn bộ binh và một phân đội đặc công nước có đủ trang bị, vũ khí chuyên dụng. Du kích ấp, xã cũng dần dần được trang bị đủ súng bộ binh, lựu đạn, được huấn luyện một cách cơ bản.

Khuếch trương chiến thắng Hiệp Hoà, lực lượng vũ trang và du kích các huyện, xã liên tục tiến công địch, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá tan 30 ấp chiến lược, phá lỏng gần 100 ấp khác, phá bỏ 26 đồn bốt, giải phóng 23 xã, giải tán hơn 1.600 thanh niên chiến đấu của địch ở Long An. Riêng huyện Đức Hoà, sau một tuần kết hợp tiến công và nổi dậy đã gỡ và phá gần như toàn bộ đồn bốt, ấp chiến lược trên phạm vi tám xã.

Trận Hiệp Hoà thực sự là mốc mở đầu cho đợt hai cao trào phá ấp chiến lược ở Long An nói riêng, và Khu VIII nói chung. Tổng kết tình hình Long An cuối năm 1963, Bộ tư lệnh vùng III chiến thuật ngụy thú nhận: Tính đến ngày 12-12-1963, trong số 279 ấp chiến lược đã hoàn thành, chỉ có 52 ấp nguyên vẹn, phần còn lại chính quyền địa phương chỉ kiểm soát được một cách lỏng lẻo, hoặc đã bị hoàn toàn phá vỡ. Thanh niên chiến đấu đã có tới 2/3 trả súng hay bỏ ngũ trở về quê. Tình trạng tỉnh Long An bị Việt cộng làm ung thối hơn 80% và lực lượng Cộng hoà mất hẳn thế chủ động, chỉ chạy theo các hoạt động của cách mạng.

Cùng với Long An, Mỹ Tho bước vào đợt hai của cao trào giết giặc, lập công và phá ấp chiến lược vẫn giữ được khí thế sôi động. Trong tháng 10, 11 và 12-1963, Tỉnh uỷ, Ban quân sự Mỹ Tho điều động tiểu đoàn 261 xuống địa bàn trọng điểm thuộc phía nam đường số 4 (Cai Lậy, Châu Thành) tiếp tục tiến công địch, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, đưa tiểu đoàn 514 xuống hoạt động ở Phú Mỹ, Củ Chi. Tại khu vực trọng điểm, tiểu đoàn 261 bao vây tiến công yếu khu Ba Dừa, buộc địch phải đầu hàng. Mất Ba Dừa, căn cứ mạnh, làm các đồn bốt địch đóng ở các xã Long Trung, Long Khánh, Long Tiên, Tam Bình, Cẩm Sơn, Xuân Sơn rút chạy. Phát huy thắng lợi, tiểu đoàn tiến xuống giải phóng Đông Hoà, sang Cai Lậy, giải phóng Hiệp Đức.

Trên hướng Phú Mỹ - Củ Chi, sáng ngày 3 tháng 11, tiểu đoàn 514 diệt đơn vị ác ôn do tên Huề chỉ huy, đánh chiếm chi khu Phú Mỹ, giải phóng các xã Phú Hoà, Tân Hoà Thành, Tân Lý Đông, phá tan ấp chiến lược Củ Chi và đánh bại các đợt phản kích của sư đoàn 7 ngụy tại quẹo lộ Tân Lý Đông, diệt hàng trăm tên địch và năm xe M113. Tiếp đó, đại đội 2 và 3, tiểu đoàn 514 cơ động phối hợp với lực lượng vũ trang, bán vũ trang ba huyện Chợ Gạo, Gò Công, Hoà Đồng diệt, bức hàng, bức rút trên 30 đồn bốt, giải phóng thêm nhiều vùng rộng lớn. Tính từ 20 tháng 7 đến hết tháng 11-1963, Mỹ Tho đã diệt, bức hàng, bức rút 162 đồn bốt (có hai chi khu), giải phóng 52 xã.
____________________________________
1. Tỉnh Hậu Nghĩa được thành lập ngày 15-10-1963, gồm các huyện Củ Chi, Trảng Bàng (Tây Ninh), Đức Hoà, Đức Huệ (Long An).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:14:29 pm

Nhìn lại cả năm 1963, lực lượng vũ trang Mỹ Tho đã đánh 4.072 trận (riêng du kích đánh 3.559 trận), loại khỏi vòng chiến đấu 11.707 tên địch, bắn rơi hàng chục máy bay, phá huỷ, phá hỏng 13 xe M113, 27 xe quân sự khác, hỗ trợ có hiệu quả cho 2.306.600 lượt người đấu tranh chính trị (trong đó có 380.000 lượt người sống trong các ấp chiến lược, khu dồn dân), phá 105 ấp (dứt điểm 55 ấp), giải tán 1.756 lượt bộ máy chính quyền xã, ấp của địch, giải phóng hơn 60.000 dân. Đánh giá quốc sách ấp chiến lược ở Mỹ Tho, Bộ Tổng tham mưu địch nhận định: “Tại Mỹ Tho một trong các tỉnh trọng điểm của Trung Nam Bộ, chỉ còn 10 trong số 184 ấp đã lập, nhưng không còn đủ tiêu chuẩn nữa”1.

Từ những điển hình Long An, Mỹ Tho, các địa phương còn lại ở Khu VIII cũng bừng lên không khí cách mạng sôi nổi. Nét nổi bật nhất toàn khu trong đợt ra quân này là ngoài việc đẩy mạnh tiến công quân sự kết hợp với chính trị, ta còn có sáng kiến lập ra các đội “binh vận lưu động” hoạt động có hiệu quả. Cứ sau mỗi lần lực lượng vũ trang ta đánh thắng một trận càn quét hoặc hạ được một đồn, bốt, các đội “binh vận lưu động” liền tổ chức vào tận căn cứ đóng quân và gia đình binh sĩ ngụy báo tin thương vong, tin thất bại... tuyên truyền, vận động binh sĩ và gia đình họ đứng về phía cách mạng phản chiến, buông súng trở về với nhân dân. Nhờ kết hợp tốt phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi, trong đợt hai toàn khu tiêu diệt, bức hàng, bức rút được 267 đồn bốt, phá vỡ nhiều khu dồn dân nằm sâu trong lòng địch, thu hẹp quyền kiểm soát của chúng. Qua hai đợt hoạt động trong năm 1963, quân, dân Khu VIII vẫn giữ được truyền thống đấu tranh kiên cường của mình, giành được thắng lợi rất quan trọng, đánh bại một bước cơ bản quốc sách ấp chiến lược ở Khu VIII, đóng góp công sức và kinh nghiệm vào việc đẩy mạnh phong trào thi đua toàn miền, phát triển chiến tranh nhân dân, bẻ gẫy từng bước các thủ đoạn chiến thuật và biện pháp chiến lược của Mỹ trong chiến tranh đặc biệt.

Hưởng ứng phong trào thi đua Ấp Bắc, trên địa bàn Khu IX (miền Tây Nam Bộ), lực lượng vũ trang tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Rạch Giá... vừa đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng, huấn luyện bộ đội cách đánh xe tăng và máy bay trực thăng, vừa tổ chức tiến công địch để rút kinh nghiệm và hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy gỡ đồn, phá ấp giành quyền làm chủ. Tỉnh Trà Vinh trong năm 1963, địch tập trung chủ lực, bảo an, biệt kích tổ chức 3.772 cuộc hành quân càn quét từ cấp đại đội đến cấp trung đoàn, giết và làm bị thương hơn 900 người, đốt phá 890 nóc nhà, dồn khoảng 2 vạn dân vào 515 ấp chiến lược và khu tập trung. Cuộc đấu tranh chống địch càn quét, dồn dân diễn ra rất quyết liệt, song số xã giải phóng vẫn bị địch lấn chiếm. Huyện Cái Nhúm gần như mất hết. Nguyên nhân thiệt hại này là do lúc đầu tỉnh chỉ dùng lực lượng vũ trang từ ngoài đánh vào giải phóng ấp. Khi lực lượng vũ trang rút đi, địch bắt ép dân làm lại. Ta đưa lực lượng đến phá, giành giật với địch năm, bảy lần cũng không xong. Tự rút kinh nghiệm và qua gương các tỉnh bạn, Tỉnh uỷ Trà Vinh khẩn trương xây dựng cơ sở bên trong, tổ chức giác ngộ quần chúng phối hợp với lực lượng vũ trang, đấu tranh tự giải phóng. Nhờ đó, khi bộ đội đánh vào ấp số hai xã Long Mỹ, huyện Cầu Ngang, nhân dân ở đây nổi dậy phá rào, san đồn, làm binh vận kêu gọi binh sĩ địch buông súng trở về với nhân dân. Có cơ sở và nhân dân sở tại phối hợp, lực lượng vũ trang bám trụ hỗ trợ cho các ban tự quản (hình thức đầu tiên của chính quyền nhân dân) xây dựng củng cố, giữ vững xã đã giải phóng.

Từ điển hình Long Mỹ, trong năm 1963 tỉnh Trà Vinh tổ chức được hàng trăm trận đánh vừa và nhỏ, diệt 2.277 tên, làm bị thương 2.670 tên, thu và phá huỷ 1.338 súng, 49 xe quân sự..., phá và bức hàng 198 đồn bốt, doanh trại địch, giải phóng được 16 xã, 114 ấp với hàng chục vạn dân.

Thi đua với Trà Vinh, quân, dân Cà Mau kết hợp ba mũi giáp công, tiến công địch 3.326 trận vừa và nhỏ bằng các loại vũ khí thô sơ, súng trường, lựu đạn, diệt 10.591 tên (trong đó 740 tên bị diệt do hầm chông, 182 tên khác trúng mìn, lựu đạn gài sẵn), bắt làm tù binh 2.283 tên, thu 473 súng các loại, phá banh 29, phá cơ bản 27 ấp chiến lược, năm khu dồn dân, giải phóng hoàn toàn 12 xã với 284.280 người.

Sự kiện nổi bật nhất trong năm của Cà Mau cũng như của quân khu là trận tiến công tiêu diệt hai chi khu Cái Nước, Đầm Dơi, quét sạch hệ thống đồn bốt, ấp chiến lược, mở rộng khu căn cứ kháng chiến Cà Mau, diễn ra tháng 9 -1963.

Là một trong những chi khu trọng yếu của vùng IV chiến thuật, địch đã thiết kế Cái Nước - Đầm Dơi thành những cụm cứ điểm mạnh, có hệ thống công sự, hầm hào kiên cố, liên hoàn do lực lượng của Quân khu IV chiếm giữ.

Chi khu Cái Nước nằm ở phía nam và cách tiểu khu An Xuyên 32 km, trên trục lộ Cà Mau - Năm Căn. Ngay từ năm 1955, chi khu đã được xây dựng khá kiên cố. Chung quanh có tường rào dây thép gai kết hợp với hệ thống bãi mìn và các ổ chiến đấu tạo thành thế phòng thủ liên hoàn, vững chắc. Quân số thường xuyên chốt giữ chi khu khoảng 200 tên, gồm một đại đội bảo an, ba trung đội dân vệ, bộ máy hành chính quận và hội đồng xã Tân Hưng Đông, được trang bị súng bộ binh, hai súng cối, ba đại liên, 10 trung liên. Ngoài hệ thống phòng thủ bên trong, địch còn tổ chức một mạng lưới tình báo, gián điệp hoạt động tích cực theo dõi, phát hiện ta.
____________________________________
1. Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991, tr.138.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:16:01 pm

Để đánh chắc thắng mục tiêu chi khu Cái Nước, Bộ Tư lệnh quân khu dùng tiểu đoàn 306 quân khu là đơn vị chủ công (Quân số 523 người, biên chế thành ba đại đội bộ binh, một đại đội ĐKZ, một số đơn vị trực thuộc) do đồng chí Trần Tứ Phương (Kiên Cường) làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đoàn Quang Vũ làm chính trị viên. Ngoài ra, tiểu đoàn còn được phối thuộc một đại đội pháo, một trung đội trinh sát đặc công, trung đội địa phương huyện Cái Nước. Chỉ huy trực tiếp trận tiến công là đồng chí Nguyễn Hoài Phô (Ba Mai), Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng quân khu. Về phía Tỉnh uỷ Cà Mau có đồng chí Bí thư và Phó bí thư cùng đồng chí Bí thư Huyện uỷ Cái Nước có mặt tại sở chỉ huy của trận đánh.

Chi khu Đầm Dơi nằm án ngữ trên sông Đầm Dơi, cách chi khu Cái Nước chừng 21 km về hướng đông nam được xây dựng kiên cố từ năm 1955. Chung quanh chi khu là hệ thống tường rào dây thép gai, các ụ bắn, bãi mìn, vật cản.... Trung tâm chi khu có tháp canh cao bảy mét để quan sát bao quát tình hình.

Lực lượng bảo vệ chi khu có 177 tên, gồm một đại đội bảo an, một trung đội dân vệ, cảnh sát và hội đồng hành chính xã Tân Duyệt. Vũ khí trang bị, ngoài số súng bộ binh, còn có hai khẩu cối 81 ly, hai khẩu cối 60 ly, một đại liên.

Tham gia tiến công chi khu Đầm Dơi, ngoài lực lượng chủ công là tiểu đoàn U Minh, còn có các đơn vị phối thuộc gồm: trung đội đặc công Cà Mau, một đại đội trợ chiến có bốn khẩu ĐKZ, một phân đội lăng Xà Bom và đại đội bộ binh huyện Đầm Dơi. Chỉ huy trực tiếp trận tiến công là đồng chí Nguyễn Đệ (Ba Trung), tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn U Minh và đồng chí Vưu Hoài Thanh (Tư Bằng), chính trị viên. Để bảo đảm chiến đấu, Tỉnh uỷ Cà Mau giao nhiệm vụ cho huyện uỷ và ban quân sự huyện lo bảo đảm các mặt cho các đơn vị chiến đấu, tuyên truyền phát động quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy phá ấp chiến lược tại các địa phương khi thời cơ đến. Sau khi hoàn thành việc bố trí lực lượng và công tác chuẩn bị, đêm 9-9-1963, trận đánh chính thức mở màn. Vào hồi 15 giờ 40 phút ngày 9, tiểu đoàn 306 và các đơn vị phối thuộc đã chiếm lĩnh xong trận địa xuất phát xung phong trên hướng Cái Nước.

0 giờ 40 phút ngày 10, trên hướng mục tiêu chi khu Cái Nước, các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công. Sau một giờ chiến đấu, ta diệt xong chi khu, bắt sống tên quận trưởng, làm chủ hai đồn Hàng Gòn, Bà Lộc và diệt các tháp canh..., hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá tan các ấp chiến lược, san bằng chi khu. Ta chỉ làm chủ chi khu đến 15 giờ ngày 10 tháng 9.

Trên hướng chi khu Đầm Dơi, vào 18 giờ 30 phút ngày 9, tiểu đoàn U Minh và các đơn vị bộ đội địa phương dùng 300 xuồng hành quân chiếm lĩnh trận địa. Đến nửa đường, đại đội ĐKZ sa vào bãi mìn, sáu đồng chí hy sinh, năm đồng chí bị thương, hai khẩu ĐKZ bị hỏng. Nghe mìn nổ, địch báo động toàn chi khu và tập trung súng cối bắn cấp tập vào hướng bộ đội ta hành quân. Các đơn vị của ta khắc phục mọi khó khăn tiếp cận được vị trí xuất phát tiến công.

4 giờ 10 phút ngày 10 tháng 9, trên các hướng được phân công, chiến sĩ ta tập trung hoả lực ĐKZ, lựu đạn... diệt các lô cốt, ổ đề kháng, dùng bộc phá mở tung các cửa mở tạo điều kiện cho bộ binh đánh sâu vào bên trong chi khu. Trong 25 phút đầu tiên, ta loại khỏi vòng chiến đấu 50 tên, diệt phần lớn các mục tiêu trong chi khu. Lực lượng của địch co cụm lại chống cự quyết liệt. Chúng tập trung hoả lực phản kích nhiều lần, nhưng không thành công. Cả quận trưởng và quận phó đều bị ta tiêu diệt; bọn sống sót phải lùi xuống ẩn nấp trong công sự, hầm ngầm, chờ lực lượng đến chi viện.

Đến 6 giờ sáng, xét thấy nếu kéo dài thời gian trận đánh sẽ không có lợi, vì rất có thể địch tập trung lực lượng lớn phản kích vào chi khu, đồng chí Nguyễn Đệ quyết định cho các đơn vị lui quân.

Ngay sau đó địch tập trung máy bay ném bom phốt pho xuống phía nam chi khu và ném bom, bắn rốc két dữ dội xuống dọc sông Đầm Dơi. 14 giờ cùng ngày, địch huy động các đơn vị thuỷ quân lục chiến, biệt động quân, không quân... đánh vào đội hình rút lui của ta. Tiểu đoàn U Minh và các đơn vị phối thuộc trụ lại đánh trả quân địch. Kết quả: ta đánh bại hai đợt đổ quân phản kích, diệt và bắt trên 100 tên địch, bắn rơi một máy bay T28 và một số máy bay trực thăng. Về phía ta, 40 đồng chí hy sinh.

Trận tiến công Đầm Dơi - Cái Nước ngày 9 và 10-9-1963, bộ đội chủ lực Quân khu IX và bộ đội địa phương Cà Mau tiêu diệt được hai chi khu, một số đồn bốt, ấp chiến lược, loại khỏi vòng chiến đấu 327 tên, trong đó, diệt tên quận trưởng, tên quận phó Đầm Dơi, bắt sống quận trưởng, quận phó Cái Nước, thu 179 khẩu súng các loại, 23 vô tuyến điện, hai tấn đạn. Phía ta, 60 đồng chí hy sinh, 46 bị thương. Đây là một chiến công lớn của quân dân Cà Mau, của đồng bằng sông Cửu Long trong thời kỳ chiến tranh đặc biệt, phá rã một mảng lớn ấp chiến lược ở tuyến sông Bảy Háp, dọc trục lộ Năm Căn - Cà Mau, giải phóng hàng ngàn gia đình khỏi ách kìm kẹp, mở ra vùng căn cứ liên hoàn hai huyện Đầm Dơi - Cái Nước. Thắng lợi này khẳng định sự trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt của lực lượng vũ trang ba thứ quân và sức mạnh của nhân dân trong phong trào thi đua giết giặc lập công của toàn Khu IX. Đây cũng là trận cường tập tiêu diệt được chi khu địch đầu tiên của Quân khu IX.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:16:27 pm

Tiếp đà thắng lợi, ngày 23-11-1963, Bộ Tư lệnh Quân khu IX dùng tiểu đoàn 306, tiểu đoàn U Minh (Cà Mau), tiểu đoàn cao xạ cùng các đơn vị địa phương Cái Nước, Ngọc Hiển, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Hoài Phô tiến công cứ điểm Chà Là, một căn cứ quân sự quan trọng của địch nằm trên hướng đông nam cách thị xã Cà Mau chừng 30 km. Lực lượng địch ở đây có khoảng 300 tên gồm một đại đội của trung đoàn 32 sư đoàn 21 và một đại đội bảo an.

Đêm 28-11-1963, các đơn vị tham gia trận đánh nổ súng tiến công diệt các lô cốt, đồn bốt bảo vệ chung quanh căn cứ Chà Là. Bị đánh bất ngờ vào giữa đêm, quân địch hoảng loạn chống đỡ yếu ớt. Sau ba giờ chiến đấu, ta diệt hoàn toàn cứ điểm Chà Là, loại khỏi vòng chiến đấu 270 tên, bắt 80 tên, thu nhiều vũ khí, đồ dùng quân sự. Đồng bào ở hai ấp chiến lược quanh căn cứ được bộ đội hỗ trợ nổi dậy phá ấp, diệt bọn ác ôn, phá đồn bốt, trở về quê cũ.

Ngày hôm sau, địch liên tục dùng bom, pháo đánh phá dữ dội vào khu vực căn cứ và cho 30 máy bay trực thăng đổ quân trên nhiều hướng quyết chiếm lại Chà Là. Cũng như trận Ấp Bắc trước đây, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, du kích tại chỗ phối hợp chiến đấu ăn khớp, kịp thời (ngày 24-11) loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, thu hàng trăm súng bộ binh, hàng trăm chiếc dù, bắn rơi 19 máy bay các loại. Trận Chà Là là một thắng lợi lớn của quân dân miền Tây Nam Bộ cuối năm 1963. Đây là trận ta hạ được số lượng máy bay nhiều nhất từ trước tới lúc này ở đồng bằng sông Cửu Long. Thắng lợi Chà Là và thắng lợi của quân, dân miền Tây Nam Bộ nửa cuối 1963 tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mọi mặt của lực lượng và phong trào đấu tranh trong thời gian sau đó của Quân khu IX.

Thi đua với Cà Mau, Trà Vinh, trong năm 1963, lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Sóc Trăng cũng tổ chức đánh được 1.968 trận quy mô đại đội, trung đội, diệt và bắt làm tù binh 2.510 tên, gọi hàng và làm rã ngũ, đào ngũ 1.086 tên, thu 296 súng các loại, diệt và bức rút, bước hàng 22 đồn, bốt cỡ trung đội và đại đội quân ngụy. Đi đôi với hoạt động vũ trang tiêu hao sinh lực địch, tỉnh uỷ phát động phong trào đấu tranh chính trị, binh vận rộng rãi và đều khắp, phá dứt điểm 13, phá banh 51, phá rã 68 ấp chiến lược và sáu khu dồn dân của địch, đưa 48.547 người về quê cũ.

Ở Rạch Giá, lực lượng vũ trang của ta mới tổ chức đánh được 291 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 1.932 tên địch, thu 241 súng, gỡ được chín đồn, phá hoàn toàn 15, phá rã 35 ấp chiến lược, giải phóng 13.795 dân.

Ngoài các tỉnh có phong trào khá, lập được những chiến công lớn, các địa phương khác trong quân khu tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng phong trào đấu tranh chống địch càn quét, dồn dân, lập ấp cũng phát triển hơn những năm trước. Trong năm 1963, quân khu huy động 15,6 triệu lượt người đấu tranh chính trị phối hợp với đòn tiến công quân sự của lực lượng vũ trang. Kết quả toàn quân khu, đã loại khỏi vòng chiến đấu 9.000 binh sĩ ngụy, phá được 806 ấp chiến lược (trong đó phá dứt điểm 530 ấp) trên tổng số 1.562 ấp, giải phóng 1,9 triệu dân. Thắng lợi to lớn này của Quân khu IX đóng góp cho cách mạng miền Nam nhưng kinh nghiệm quan trọng trong việc đánh bại các chiến thuật mới của địch.

Phong trào thi đua Ấp Bắc, giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược ở miền Đông Nam Bộ (Khu VII) nơi có bộ máy đầu não của chính quyền trung ương ngụy, hoạt động của lực lượng vũ trang ba thứ quân và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng vừa phải khôn khéo để hạn chế tổn thất, vừa phải phối hợp nhịp nhàng giữa thành thị với nông thôn, giữa phong trào nội thành và ngoại thành Sài Gòn với phong trào toàn miền.

Trong nội đô, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phản đối Mỹ, ngụy dồn dân, bắt lính, đuổi nhà... được sự hỗ trợ có hiệu lực của bộ đội đặc công, biệt động... trong các trận đánh vào các mục tiêu quan trọng ở trung tâm chỉ huy, điều hành chiến tranh của địch. Những trận đánh doanh trại lính Mỹ ở số 31 đường Cao Thắng của đội biệt động số 65, tháng 2-1963, trận tập kích sân bay Tân Sơn Nhất ngày 20-3-1963 và cơ quan cố vấn quân sự Mỹ ở đường Trần Hưng Đạo ngày 25-4-1963... cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng, làm cho nội bộ ngụy quân, ngụy quyền ở Sài Gòn mất ổn định.

Ở ngoại thành, phong trào đấu tranh chống địch đuổi nhà, dồn dân cũng diễn ra quyết liệt dưới các hình thức đưa kiến nghị, biểu tình, và dùng gậy gộc, dao búa... ngăn cản quân lính và xe ủi của địch, không cho phá nhà, dồn dân vào các khu tập trung. Có lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân trong các ấp chiến lược nổi dậy phá ấp trở về quê cũ làm ăn. Riêng Củ Chi, sáu tháng đầu năm 1963, quân và dân ta đã phá dứt điểm tám ấp, phá rã năm ấp, phá hỏng 58 ấp chiến lược. Cùng với phong trào phá ấp chiến lược, ta đã xây dựng, phát triển các lõm du kích chung quanh thành phố. Các căn cứ lõm Vườn Thơm (Bình Tân), Bà Vụ, Tam Tân (Tân Bình), Tuy An, Tân Phú Trung (Củ Chi)... được xây dựng, lực lượng du kích công khai và du kích mật phát triển mạnh. Tác chiến giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích gắn bó và đạt hiệu suất chiến đấu ngày càng cao. Hoạt động của lực lượng vũ trang đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trí của các tầng lớp nhân dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:16:51 pm

Tại tỉnh Bà Rịa (cũng như các tỉnh vành đai bảo vệ Sài Gòn), địch tập trung lực lượng và các phương tiện hiện đại liên tiếp mở các cuộc hành quân quy mô vừa và lớn. Thủ đoạn hoạt động của chúng là dùng chiến đoàn hỗn hợp bộ binh, pháo binh, thiết giáp, khoanh từng vùng năm, sáu xã đánh phá liên tục ngày đêm, gom dân, lập ấp, bình định xong vùng này mới chuyển sang vùng khác. Nhưng tại đây cuộc đấu tranh chống địch của nhân dân đã diễn ra khá sôi động ngay từ khi Trung ương Cục phát động phong trào “Thi đua Ấp Bắc”, giết giặc lập công và phá ấp chiến lược”. Lực lượng vũ trang tại chỗ dựa vào nhân dân tổ chức đánh lui nhiều trận càn cỡ trung, đại đội bảo an, dân vệ vào các xóm ấp, hỗ trợ cho nhân dân phá lỏng những ấp chiến lược ngoại ô. Dần dần, tác chiến của bộ đội dân quân, du kích và đấu tranh chính trị của nhân dân phối hợp được với nhau, liên kết được nhiều địa phương cùng đấu tranh chống địch, thắng lợi giành được mỗi ngày một lớn hơn. Điển hình là phong trào ở huyện Châu Đức, tháng 9-1963, trung đội bộ đội huyện cùng một số du kích bí mật phục kích, chặn đánh một tiểu đoàn biệt động quân tại khu vực Cây Cám, diệt 38 tên, thu năm súng. Sau đó, trung đội bộ đội huyện Châu Đức được đại đội 45 chủ lực tỉnh Bà Rịa hỗ trợ tổ chức bám trụ tại khu vực địa đạo Long Phước, liên tiếp đánh bại nhiều trận càn của quân chủ lực và quân địa phương ngụy. Vừa chiến đấu vừa xây dựng, đến cuối năm 1963, bộ đội huyện Châu Đức từ một trung đội đã phát triển lên thành đại đội, nhiều xã xây dựng được tiểu đội du kích, một số xã trọng điểm có trung đội du kích, trang bị khá.

Cũng như Châu Đức, năm 1963, trung đội bộ đội huyện Long Đất được bổ sung quân số, vũ khí, phát triển lên quy mô đại đội - đại đội 25. Trung tuần tháng 9, đại đội 25 ra quân đánh bại trận càn của tiểu đoàn bảo an 356, loại khỏi vòng chiến đấu 75 tên. Sang tháng 10, được du kích dẫn đường và có lực lượng nội ứng ém sẵn, đại đội 25 tiến công địch ở ấp chiến lược Phước Lợi, hỗ trợ cho nhân dân trong ấp nổi dậy bắt 12 tên ác ôn, thu 13 súng và làm chủ toàn bộ ấp.

Nằm ngay sát nách Sài Gòn - Chợ Lớn, cuộc đấu tranh của quân, dân Biên Hoà chống Mỹ - ngụy diễn ra sôi nổi và rộng khắp. Điểm nổi bật ở Biên Hoà là Tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh đã lãnh đạo kết hợp nhiều hình thức đấu tranh giữa các lực lượng quân sự, chính trị, binh vận khắp các địa phương, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng kẻ thù trong điều kiện so sánh lực lượng trên địa bàn địch có nhiều ưu thế. Lá cờ tiên phong của phong trào ở Biên Hoà trong thời gian này là lực lượng vũ trang huyện Long Thành. Cuối tháng 11, bộ đội huyện cùng du kích xã, ấp bí mật phục kích trên trục đường số 15, chặn đánh một đơn vị chủ lực địch càn quét mở rộng căn cứ, dồn dân lập ấp, diệt nhiều địch, trong đó có tên trưởng tiểu khu. Lợi dụng lúc quân địch đang hoang mang, một bộ phận bộ đội ta cải trang mặc sắc phục lính ngụy, dùng xe của chỉ huy địch bất ngờ đột nhập “hợp pháp” diệt đồn Đờ La, bắt tên đồn trưởng và tên ấp trưởng. Được bộ đội và du kích hỗ trợ, lực lượng binh vận tại chỗ kêu gọi binh sĩ ở đồn Long Tân buông súng ra hàng, các cán bộ cơ sở bí mật nhanh chóng xuống các xóm ấp kêu gọi và tổ chức cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Vừa chiến đấu chống địch, các cán bộ cơ sở và quần chúng vừa tuyên truyền, vận động được hơn 1.000 thanh niên tòng quân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang.

Cùng trong năm 1963, phong trào phá ấp chiến lược ở Long Khánh được kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng ở bên ngoài đánh vào với cơ sở ở trong ấp vận động tổ chức cho quần chúng nổi dập. Ấp chiến lược Nghĩa Hưng được ngụy quyền xây dựng từ những năm trước phong trào đồng khởi. Ta xây dựng ông Tám Hường thành cơ sở mật. Ông hoạt động rất tích cực, thường xuyên liên lạc với đội vũ trang tuyên truyền, cung cấp đầy đủ những tin tức quan trọng về địch cho các cán bộ lãnh đạo phong trào. Đêm 15 - 4, chính ông tổ chức quần chúng trong ấp làm nội ứng, đón dẫn đội vũ trang tuyên truyền của tỉnh đột nhập ấp, bắt 13 tên cán bộ bình định, hai dân vệ, thu 15 súng, cùng nhân dân phá sập các tháp canh, hàng rào, phá dứt điểm toàn bộ ấp. Tại ấp Bảo Vinh, quần chúng sáng tạo cách thức phá ấp chiến lược mới là, ban đêm nhân dân bí mật dùng kéo, kìm cắt đứt từng mảng dây thép gai rào chắn mở lối đi, sáng ra, báo với ban quản lý ấp là Việt cộng đột nhập cắt phá. Địch bắt dân rào lại, chôn thêm chông, mìn..., khi làm nhân dân đánh dấu để du kích và bộ đội vào gỡ mang đi. Mặt khác nhân dân còn bí mật chôn mìn, bộc phá xuống các “lối mở” địch thường tuần tra, diệt một số lính và nhân viên ngụy quyền, khiến chúng lo sợ bỏ bê trễ công việc xây dựng, quản lý ấp chiến lược và khu tập trung. Từ đây, người ra vào ấp, địch không còn kiểm soát được chính quyền ấp chỉ còn là hình thức, không hoạt động. Nhân dân gọi đây là “ấp chiến lược giải phóng”.

Học tập kinh nghiệm Nghĩa Hưng, Bảo Vĩnh, nhân dân ở nhiều ấp chiến lược trong tỉnh, nổi dậy phá ấp và giành quyền làm chủ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:17:15 pm

Ở Thủ Dầu Một, Tỉnh uỷ và Ban quân sự tỉnh, các ban cán sự huyện đội chú trọng đẩy mạnh công tác sản xuất, cải tiến các loại chông, mìn chống tăng, bộc phá và sửa chữa súng bộ binh, nâng cao hiệu quả chiến đấu. Tháng 5-1963, sư đoàn 5 ngụy tổ chức cuộc hành quân gom dân ở ba xã phía tây nam huyện Bến Cát, bị du kích xã Tây An và Phú Thứ phục kích chặn đứng mũi tiến công trên đường 14, đoạn Rạch Bắp và ở ngã tư Phú Thứ, kìm hãm, phân tán địch, tạo điều kiện cho đại đội 304 của tỉnh và đại đội 81 huyện Bến Cát diệt gọn bọn địch đóng trong nhà thờ Hương Thuốc (nằm trong ấp chiến lược Long Cần). Được lực lượng vũ trang hỗ trợ đắc lực, nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ. Tính đến tháng 9-1963, toàn huyện Bến Cát diệt được 11 xe bọc thép M113, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. Trong đợt phá ấp chiến lược này, Bến Tượng là ấp trọng điểm của địch xây dựng từ những năm đầu chiến tranh, nhưng nhân dân vẫn thể hiện một lòng theo cách mạng.

Tại đây, địch ra sức cào nhà, đốt làng, dồn dân. Chúng quyết biến Bến Tượng thành vùng trắng, nhân dân kiên quyết chống lại, kiên trì bám trụ, dùng dao phay, gậy gộc, cuốc thuổng... đánh trả. Song, lực lượng địch mạnh, Bến Tượng lại là vùng “ưu tiên” đánh phá, dồn dân, cuối cùng chúng vẫn dồn được dân vào ấp để kìm kẹp. Không nhụt ý chí, nhân dân vẫn liên tục đấu tranh đòi tự do đi lại làm ăn, chống bắt lính, lao động khổ sai. Cuộc đấu tranh diễn ra dai dẳng, quyết liệt, một chi bộ mật trong ấp được xây dựng, củng cố. Cuối năm 1963, chi bộ lãnh đạo tổ chức quần chúng bất ngờ nổi dậy diệt những tên ác ôn có nhiều nợ máu, tuyên truyền và khống chế, vô hiệu hoá dân vệ trong ấp để dân chúng phá rào, lấp hào, gỡ bỏ vật cản, rồi đưa từng bộ phận bà con trở về quê cũ. Với cách làm như vậy ấp chiến lược Bến Tượng bị ta phá dứt điểm. Riêng ấp Thới Hoà nằm cạnh đường số 13, bộ đội, du kích tổ chức nhân dân vùng chung quanh xây dựng hệ thống làng, xã chiến đấu bao quanh ấp, khống chế chặt các đồn bốt bảo vệ, rồi phát động quần chúng nổi dậy phá rào, phá nhà, gồng gánh đồ đạc rời khỏi ấp, mà ta không mất một viên đạn, quả mìn nào.

Thi đua với phong trào diệt địch phá ấp chiến lược của các tỉnh bạn, nhân dân và lực lượng vũ trang Tây Ninh cũng liên tục tiến công giải phóng từng mảng ấp chiến lược khiến bọn địch hoang mang, chúng phải yêu cầu Sài Gòn chi viện. Mặc dù vậy, đầu tháng 7-1963, một trung đội của đại đội 33 huyện Gò Dầu, phối hợp với du kích xã Cẩm Giang tập kích diệt gọn trung đội bảo an chốt giữ tại ấp chiến lược Bàu Nâu, thu toàn bộ máy thông tin và vũ khí trang bị, giải phóng hoàn toàn số dân bị địch giam giữ trong ấp. Bàu Nâu bị diệt, binh linh đóng trong các đồn Tân Hưng, Bàu Cỏ hoảng sợ bỏ đồn tháo chạy. Cùng thơi gian trên, quân, dân Tây Ninh diệt thêm được bốt Hàng Đường (xã Thanh Điền, huyện Gò Dầu), đồn Cầu Khởi (huyện Dương Minh Châu), đồn Lâm Vồ (thị xã Tây Ninh). Phong trào diệt địch, phá đồn của lực lượng vũ trang lên mạnh, hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh chính trị, binh vận và phá ấp chiến lược của quần chúng phát triển, trong số 94 ấp chiến lược địch đã xây dựng (tính đến cuối 1963) có 54 ấp bị ta phá banh, phá rã.

Với cách thức tổ chức lực lượng, sử dụng vũ khí, trang bị hiện có và áp dụng phương pháp đấu tranh thích hợp, các phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược” ở miền Đông Nam Bộ phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, giữ vững và phát huy có hiệu quả thế chủ động tiến công. Trong năm 1963, quân, dân miền Đông Nam Bộ loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, hàng trăm xe tăng, thiết giáp, xe quân sự, thu nhiều vũ khí, trang bị. Thắng lợi quân sự thực sự hỗ trợ và tạo đà cho phong trào nổi dậy đấu tranh chính trị của quần chúng đạt kết quả, phá banh và phá rã hàng trăm ấp chiến lược, khu dồn dân. Trong phong trào phá ấp chiến lược năm 1963, miền Đông Nam Bộ đã góp nhiều kinh nghiệm quý về sự kết hợp giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, binh vận, phối hợp ba mũi giáp công, xây dựng làng, xã chiến đấu và tổ chức tập hợp quần chúng.

Qua phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược”, không những lực lượng vũ trang địa phương, các tổ chức chính trị của quần chúng trưởng thành, có kinh nghiệm, mà bộ đội chủ lực miền cũng được bổ sung số lượng, nâng cao chất lượng, có thêm kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng giữa ba thứ quân để hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành, giữ quyền làm chủ. Một mặt, bộ đội ta tiếp tục đánh địch, thu vũ khí địch bổ sung cho đơn vị, mặt khác, tổ chức luyện tập, nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật. Trong lúc chưa có đủ súng chống tăng đánh xe bọc thép và xe cơ giới địch, các đơn vị chọn lọc, huấn luyện những xạ thủ giỏi để khi chống càn, phục kích, bắn tỉa diệt tên lái xe và xạ thủ bắn súng đại liên trên tháp xe, buộc xe địch phải dừng lại, tạo điều kiện cho các tổ dùng lựu đạn áp sát phá đứt xích xe tăng, diệt địch. Các đơn vị chủ lực của miền phát triển lực lượng về mọi mặt, chủ động mở những trận tiến công địch để hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược.

Ngày 18-10, tiểu đoàn bộ binh 5, trung đoàn 2 được tăng cường một đại đội đặc công tiến công đồn Cây Trường trong ấp chiến lược xã Long Nguyên, huyện Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một. Cây Trường là đồn lớn, có hệ thống lô cốt, công sự hoả điểm, hầm ngầm bằng xi măng cốt thép kiên cố, chung quanh là hệ thống hàng rào dây thép gai nhiều lớp. Chốt giữ đồn là một đại đội bảo an, một trung đội dân vệ. Đây là lực lượng hỗ trợ chủ yếu, trực tiếp cho bọn ác ôn kìm kẹp nhân dân trong các ấp chiến lược.

Do chuẩn bị chu đáo, chủ động đánh địch, cho nên tiểu đoàn 5 đột phá mở cửa, đưa lực lượng tiến vào đánh chiếm các cứ điểm vòng ngoài, diệt các lô cốt, công sự phòng ngự nhanh. Nhưng sau đó, phần lớn lực lượng địch chui xuống hầm ngầm cố thủ, chống trả.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:17:52 pm

Để đánh dứt điểm mục tiêu, bộ phận đánh lô cốt chủ yếu tập trung lựu đạn, bộc phá tiêu diệt các hoả điểm. Nhiều cán bộ chiến sĩ hy sinh và bị thương. Trước tình thế hết sức khó khăn, chiến sĩ Trừ Văn Thố1, sau khi dùng bộc phá, lựu đạn tiêu diệt hoả điểm không thành, đã dũng cảm lấy thân mình chèn kín lỗ châu mai, dập tắt hoả điểm địch, tạo điều kiện cho tiểu đoàn 5 nhanh chóng đánh chiếm toàn bộ mục tiêu. Đồn Cây Trường bị tiêu diệt, nhân dân trong ấp chiến lược Long Nguyên nổi dậy, đánh đuổi bọn ác ôn dân vệ, phá ấp trở về thôn cũ.

Kết thúc một năm xây dựng, chiến đấu, cuối tháng 12-1963, trung đoàn 2 mở hội nghị quân chính tại ấp Đường Long xã Thanh Tuyền, huyện Bến Cát tổng kết, rút kinh nghiệm về phương pháp tác chiến và bàn kế hoạch hoạt động năm 1964. Hội nghị đang họp thì trinh sát báo tin: địch tập trung 13 tiểu đoàn chủ lực mở cuộc hành quân Đại Phong 35 càn quét khu vực bắc Bến Cát (Thủ Dầu Một) và vùng căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Ngày 31-12, tiểu đoàn 32 Cọp đen thuộc sư đoàn 5 ngụy do cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy đang tiến vào khu vực đóng quân của trung đoàn. Ban chỉ huy trung đoàn dừng hội nghị, chuyển sang xác định quyết tâm, triển khai lực lượng chống càn. Do chủ động bố trí lực lượng, lợi dụng địa hình, phát huy tốt hoả lực trên hướng chính diện, tiểu đoàn 5 đánh lui ba đợt xung phong của địch, làm thiệt hại nặng một đại đội. Do địa hình trống trải, hoả lực địch ngăn chặn rất ác liệt, bộ đội ta không xuất kích tiến công được. Đến 15 giờ, địch tập trung lực lượng tiến công lần thứ tư. Chờ cho quân địch vào đúng tầm, chiến sĩ tiểu đoàn 5 đồng loạt nổ súng, diệt hàng chục tên địch trong đó có tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Cọp đen. Toàn bộ quân địch như rắn mất đầu co cụm lại và gọi đồng bọn đến cứu viện.

Trước tình huống nguy cấp, chỉ huy cuộc hành quân của địch không dám tung lực lượng dự bị ra cứu viện, chúng chỉ cho máy bay trực thăng bắn phá dữ dội tạo “hành lang” cho bọn sống sót của tiểu đoàn 32 rút về Bến Súc. Phán đoán được ý định của địch, trung đoàn 2 tập trung lực lượng nhanh chóng cơ động, hình thành thế bao vây, dồn toàn bộ quân địch xuống lòng suối Xuy Nô. Bằng phương pháp tiến công kết hợp gọi hàng đến 18 giờ ngày 31-12-1963, trung đoàn 2 xoá sổ hoàn toàn tiểu đoàn Cọp đen, loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên, bắt 58 tên, bắn rơi ba trực thăng, thu 110 súng các loại và đồ dùng quân sự. Đây là trận đầu tiên bộ đội chủ lực Miền tiêu diệt gọn một tiểu đoàn địch, mở đầu cho thời kỳ đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn địch của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ. Lúc này yêu cầu khách quan và chủ quan là phải có sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất lực lượng vũ trang để đáp ứng được tình hình địch mở rộng chiến tranh xâm lược, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam thay Ban cán sự miền Nam. Sự kiện này đánh dấu bước tiến mới của lực lượng vũ trang miền Nam về thống nhất biên chế, tổ chức chỉ huy, nghệ thuật tác chiến. Trải qua những thử thách vô cùng gian khổ và ác liệt, lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam vừa chiến đấu, vừa xây dựng và rút kinh nghiệm, đã sáng tạo ra nhiều cách đánh đạt hiệu suất cao. Với những khẩu súng tương đối hiện đại do miền Bắc chi viện và thu được của địch, các quả mìn, đạp lôi, thủ pháo, lựu đạn..., do các xưởng quân giới tự chế tạo trang bị cho bộ đội chủ lực và địa phương, kết hợp chặt chẽ với những hầm chông, bẫy đá, giàn thò của du kích các bản làng miền núi, những tổ ong vò vẽ, súng ngựa trời... của tự vệ, du kích các ấp xã vùng đồng bằng cùng phát huy tác dụng trong các trận chống càn, diệt bốt, phá các khu dồn dân, ấp chiến lược trên hầu khắp địa bàn toàn miền. Mặc dù phong trào ở các địa phương chưa thật đồng đều, nhưng nó đã thực sự phát triển thành một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện rộng lớn, trong đó, đấu tranh vũ trang gắn bó chặt chẽ với đấu tranh chính trị, nhiệm vụ đánh địch hành quân càn quét đi đôi với nhiệm vụ phá ấp chiến lược, tạo nên sức mạnh tổng hợp nâng cao hiệu quả chiến đấu.

Nhờ phương thức đấu tranh phù hợp, đúng đắn, sáng tạo năm 1963, quân, dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 7,8 vạn tên địch; bắn rơi và phá huỷ hơn 160 máy bay các loại; phá huỷ, phá hỏng hàng trăm xe quân sự; đánh đổ 34 đoàn tàu quân sự; bắn chìm, bắn cháy 236 tàu thuyền chiến đấu; thu 1,1 vạn vũ khí các loại; phá banh, phá rã 2.895 trong tổng số 6.164 ấp chiến lược, giải phóng hàng nghìn thôn ấp với gần chín triệu dân. Chương trình bình định của địch, xương sống của cuộc chiến tranh đặc biệt, về cơ bản đã bị ta đánh bại. Từ thực tế xây dựng lực lượng, tổ chức chiến đấu, lực lượng vũ trang cách mạng đã trưởng thành vượt bực về số lượng, chất lượng, trang bị và tác chiến hiệp đồng giữa ba thứ quân, hai lực lượng chính trị, quân sự.
____________________________________
1. Trừ Văn Thố sinh năm 1938, tại Thanh Hoà, Cai Lậy, Mỹ Tho, nhập ngũ năm 1961, là chiến sĩ trinh sát đặc công Trung đoàn 2. Trừ Văn Thố được truy tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba và danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:18:58 pm

II. CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM LÂM VÀO CUỘC KHỦNG HOẢNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRẦM TRỌNG VÀ CUỘC ĐẢO CHÍNH THÁNG 11-1963

Cuộc đấu tranh của quân, dân ta ở miền Nam trong năm 1963 đã đẩy chính quyền và quân đội Sài Gòn vào thế suy yếu toàn diện, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ đang từng bước bị phá sản mà mở đầu bằng trận thua của quân ngụy ở Ấp Bắc. Thắng lợi của cách mạng tác động sâu sắc đến nhận thức của nhân dân ta và các tôn giáo chính quyền tay sai về cuộc chiến tranh của Mỹ, khiến cho các tôn giáo và tầng lớp nhân dân nhận rõ bộ mặt bán nước của tập đoàn Ngô Đình Diệm và chính sách xâm lược của Mỹ. Chính sách đối xử không bình đẳng giữa các tôn giáo của chính quyền Diệm - Nhu làm nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa các tôn giáo với tập đoàn cầm quyền Diệm dẫn đến cuộc đấu tranh của Phật giáo chống Diệm bùng nổ. Cuộc đấu tranh của Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo như đổ thêm dầu vào lửa, góp phần đẩy chính quyền Sài Gòn vào cơn khủng hoảng nghiêm trọng.

Tháng 5-1963, trung tâm Phật giáo miền Nam tại Huế, các tăng ni, phật tử đang chuẩn bị tổ chức hành lễ đón ngày Phật đản, thì vào 13 giờ ngày 6-5-1963, tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm thị trưởng thành phố Huế đến chùa Từ Đàm truyền đạt lời “thỉnh cầu” của Ngô Đình Cẩn: “Ông cố vấn (Ngô Đình Cẩn) thiết tha yêu cầu Ban tổ chức đại lễ 2507 Phật đản thông báo cho toàn thể tín đồ Phật giáo đừng treo cờ Phật trong ngày đại lễ ấy”1. Điều “thỉnh cầu” này diễn ra sau khi lễ ngân khánh của tổng giám mục Ngô Đình Thục vừa được tổ chức rất trọng thể tại Huế với cờ Thiên chúa giáo được treo ở khắp nơi. Bằng cách làm như vậy Diệm - Nhu cho là tạo được yếu tố bất ngờ không cho Phật giáo kịp trở tay phản ứng. Nếu Phật giáo chịu tuân theo yêu cầu của Diệm thì thời gian “tàn lụi” của nó cũng như chính sách “Thiên chúa giáo hoá” sẽ được hoàn thành sau một thời gian không lâu nữa. Nhưng mọi toan tính của chính quyền Ngô Đình Diệm không diễn ra theo ý muốn, toàn bộ tăng ni, tín đồ Phật giáo miền Nam đã phản ứng mạnh mẽ đối với chính quyền Diệm, mở đầu là ở Huế.

Đêm mồng 6-5-1963, giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam tổ chức cuộc họp tại chùa Từ Đàm thống nhất kế hoạch đối phó với chính quyền Diệm. Giới lãnh đạo Phật giáo đưa ra ý định phản ứng lệnh cấm treo cờ Phật bằng cách chỉ thị cho các cấp Phật giáo không tổ chức lễ Phật đản, xem đây như một cách thức phản đối lại chính quyền. Nhưng liền sau đó ý định này phải bỏ, vì nếu làm như vậy sẽ gây sự phản ứng của các tín đồ đối với giới lãnh đạo Phật giáo. Mặt khác, chính sự phản ứng trên vô hình trung Phật giáo sẽ mắc lừa âm mưu “dĩ đạo, trị đạo” của Diệm. Cuối cùng, giới lãnh đạo Phật giáo thống nhất phản đối lệnh cấm treo cờ Phật bằng cách gửi liên tục nhiều điện văn cho tổ chức Phật giáo thế giới, cho chính quyền Diệm, cho các cơ sở Phật giáo miền Nam... để gây sức ép buộc chính quyền bãi bỏ lệnh cấm đoán sai trái này.

Trước thái độ rất kiên quyết của giới lãnh đạo Phật giáo chính quyền Diệm buộc phải tìm cách tạm thời chấp nhận thương lượng để tìm cách đối phó. Cuộc hội kiến giữa giới lãnh đạo Phật giáo và Ngô Đình Cẩn đi đến thống nhất cho tăng ni, phật tử treo cờ ở nhà riêng, nhưng còn phải chờ quyết định chính thức của tổng thống. Nhưng ngay sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Cẩn ra lệnh cho trưởng ty cảnh sát thành phố Huế tập trung cảnh sát, mật vụ hạ cờ phật giáo. Ngày 7-5-1963, cảnh sát và mật vụ ở thành phố Huế bắt đầu ra tay hạ cờ, giành giật, xé nát và vứt xuống đường, công khai đánh chửi, hăm doạ bắt và bỏ tù tất cả tín đồ, tăng ni có hành động chống đối. Không chỉ có cờ Phật mà tất cả những chiếc đèn lồng nếu có dấu hiệu của Phật giáo (mà hầu hết đều có, nhất là hình tượng Phật, màu cờ Phật giáo và hoa sen năm cánh) cũng bị cảnh sát phá rách, vứt bỏ.

Hành động phá cờ Phật của chính quyền Huế nhanh chóng lan rộng ra khắp thành phố. Quần chúng Phật tử xuống đường kéo đến tỉnh toà yêu cầu giải quyết. Khí thế của quần chúng Phật tử làm cho “phố phường như bừng dậy trong một cuộc động quân. Khắp các đường phố, từ trong thành, Đông Ba, Gia Hội, từng đoàn người lũ lượt kéo qua cầu Trường Tiền. Từ Vĩ Dạ lên, ở trên ga xuống, phía Kho Rèn, An Cựu về, dân thị xã và vùng phụ cận đổ xô về phía tỉnh đường đông nghịt cả người, đông một cách đáng sợ, như cuồng phong tới, như bão tố lên”2. Thấy phong trào Phật giáo bùng lên quá mạnh mẽ, tỉnh trưởng Thừa Thiên phải hứa trước đông đảo quần chúng chấp nhận cho Phật giáo treo cờ lại như cũ.

Như thông lệ ngày lễ Phật đản hàng năm, tăng ni, phật tử ở Huế đều tổ chức cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm để làm lễ. Ngày 8-5-1963, từ sáng sớm số đông phật tử đã đến tụ tập tại chùa Diệu Đế chuẩn bị làm lễ rước Phật. Buổi lễ Phật đản sẽ được tường thuật trên đài phát thanh Huế lúc 20 giờ 5 phút cùng ngày nhưng bị Chính quyền Diệm huỷ bỏ. Nhận được tin này, tăng ni, phật tử khắp nơi từ ngoại thành đổ dồn về đài phát thành Huế đấu tranh. Đến 21 giờ ngày 8-5, đài phát thanh đã bị hàng nghìn tăng ni, phật tử quần chúng kéo đến bao vây và phản đối kịch liệt hành động sai trái của chính quyền. Vì vậy, ngày Phật đản năm 1963, ngoài ý nghĩa tôn giáo còn là một cuộc biểu dương lực lượng, tinh thần của Phật giáo miền Nam chống Diệm.
____________________________________
1. Thích Trí Quang: Cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam, tuần báo Hải triều âm - số 2 ngày 30-4-1964.
    - Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam hàng nghìn năm. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử, Phật giáo đã trở thành tín ngưỡng chiếm ưu thế rộng lớn trong xã hội. Đến năm 1963, trong tổng số 17 triệu dân toàn miền Nam có tới 11 triệu người theo đạo Phật (chiếm 3/4 dân số) nhưng số tăng sư, phật tử thực sự chỉ có khoảng bốn triệu.
2. Quý Linh: Mở đầu cuộc đấu tranh Phật giáo. Trước cơn sóng gió, Ban hướng dẫn gia đình Phật tử Trung phần xuất bản, Huế, 1964, tr. 13.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:19:43 pm

Trong lúc cuộc đàm phán giữa giới lãnh đạo Phật giáo và tỉnh trưởng Thừa Thiên đang được tiến hành tại đài phát thanh, thì ở bên ngoại, phó tỉnh trưởng phụ trách quân sự, thiếu tá Đặng Sỹ (một tín đồ Thiên chúa giáo) chỉ huy binh lính, cảnh sát, xe tăng tiến công tăng ni, phật tử đang tụ tập. Xe cứu hoả xịt nước, cảnh sát ném lựu đạn cay, trái phá, tiếp đến là xe tăng từ nhiều hướng tiến công vào đám đông quần chúng phật tử tay không vũ khí. Cuộc đàn áp của chính quyền Diệm làm nhiều người bị thương, tám phật tử bị chết (có một số nạn nhân bị xe tăng cán vỡ đầu hoặc dập nát mình).

Không chịu lùi bước, ngày 9 tháng 5, các phật tử Huế lại đổ ra đường phố tiếp tục biểu tình, tố cáo tội ác của chính quyền và yêu cầu giới lãnh đạo Phật giáo tiếp tục lãnh đạo tăng ni, phật tử tiếp tục đấu tranh đến cùng để bảo vệ đạo pháp. Sáng ngày 1 tháng 5, trước đông đảo Phật tử tại chùa Từ Đàm, Hội trưởng Hội Phật giáo Trung phần một lần nữa khẳng định chủ trương đấu tranh hoà bình, bất bạo động, không đặt một tôn giáo nào làm đối tượng mà chỉ nhằm mục đích công bằng xã hội. Hòa thượngThích Tịnh Khiết thay mặt Tổng hội Phật giáo Việt Narn công bố bản tuyên ngôn của tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam, trong đó đưa ra năm yêu cầu khẩn thiết đòi chính quyền Diệm phải thực hiện ngay:

“1 - Yêu cầu Chính phủ Việt Nam cộng hoà thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ của Phật giáo.

2 - Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một quy chế đặc biệt như các hội truyền giáo Thiên chúa đã được ghi trong Dụ số 10.

3 - Yêu cầu Chính phủ chấn chỉnh tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.

4 - Yêu cầu cho tăng ni, tin đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.

5 - Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những người bị giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội đúng mức”1.

Thấy nguy cơ phong trào Phật giáo ở Huế có thể lan rộng, gây nguy hiểm cho chế độ, Diệm cử phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ra Huế dàn xếp với Phật giáo. Tại Huế, Thơ hứa với các phật tử là sẽ đáp ứng các yêu cầu nói trên. Phong trào Phật giáo tạm thời lắng xuống. Song, ngay sau đó, cố vấn Ngô Đình Nhu cho rằng: nếu đáp ứng những yêu cầu ấy sẽ làm cho Phật giáo tiếp tục yêu sách, lấn tới, Chính quyền Diệm quyết định không thực hiện những điều hứa hẹn với tăng ni, phật tử.

Trước sự lật lọng ấy, cuộc đấu tranh của Phật giáo lại bùng lên sôi nổi tại Huế, nhanh chóng lan rộng đến Đà Nẵng, Sài Gòn và khắp các thành phố, thị xã toàn miền Nam. Tại Sài Gòn, ngày 11 tháng 6, hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư trung tâm thành phố (đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt - nay là đường Nguyễn Đình Chiểu và Cách mạng Tháng Tám) phản đối chính quyền Diệm - Nhu trước hàng trăm tăng ni, phật tử, gây nên sự xúc động mạnh trong nhân dân. Gương hy sinh của hoà thượng Thích Quảng Đức tố cáo, lên án chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm trước dư luận trong và ngoài nước. Chế độ ấy phải bị đánh đổ.

Để ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật tử Huế, ngày 14-5-1963, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố vạch rõ: Cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền phát xít Mỹ - Diệm đối với đồng bào biểu tình tay không ngày 8 tháng 5 ở Huế là một hành động độc ác tày trời không thể tha thứ được đối với nhân dân ta nói chung và đối với đồng bào theo đạo Phật nói riêng... Cuộc đàn áp đẫm máu lần này đã bóc trần lời của Mỹ - Diệm vẫn thường vỗ ngực xưng là hữu thần, là tôn trọng tự do tín ngưỡng, và nhất là nó sẽ càng nung nấu thêm lòng căm thù và chí kiên quyết tiêu diệt chúng của tín đồ các tôn giáo ở miền Nam Việt Nam.

Xã luận báo Nhân dân số ra ngày 15-5-1963 khẳng định “Cuộc đấu tranh của đồng bào theo đạo Phật và các tầng lớp đồng bào khác ở Huế là một cuộc đấu tranh chính nghĩa, được nhân dân cả nước ủng hộ. Nhân dân miền Bắc vô cùng khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất của đồng bào Huế được sự ủng hộ rộng rãi ở miền Nam. Chúng ta tin chắc cuộc đấu tranh bền bỉ và anh dũng của đồng bào Huế và ở toàn miền Nam mặc dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng”.
____________________________________
1. Bản tuyên ngôn của tăng, tín đồ Phật giáo do Hoà thượng Thích Tịnh Khiết đọc tại cuộc mít tinh của Phật tử tại chùa Từ Đàm - Huế, ngày 10-5-1963, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu SC 04, HS. 8352.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:20:53 pm

Để ủng hộ phong trào đấu tranh của Phật giáo, học sinh, sinh viên, công chức và nhân dân các thành phố, các địa phương miền Nam liên tục xuống đường biểu tình, bãi công, đưa yêu sách đòi chính quyền Diệm phải thực hiện những cam kết đối với Phật giáo. Ngày 3 tháng 6, 500 sinh viên Huế kéo đến trụ sở đại diện chính quyền ngụy đấu tranh. Ngụy quyền Huế đã đưa lực lượng cảnh sát đến giải tán. Sáng ngày 16 tháng 6, tại Sài Gòn, khoảng 70 vạn quần chúng và phật tử cùng lúc đổ ra các đường phố kéo nhau về chùa Xá Lợi, nơi đặt thi hài Hoà thượng Thích Quảng Đức đấu tranh. Cuộc xuống đường bị cảnh sát đặc biệt dùng hơi cay, chó bécgiê đàn áp dã man; nhiều người bị thương và bị bắt.

Ngày 16 tháng 8, tại thành phố Huế, tất cả chợ búa, trường học, công sở, xí nghiệp đều nhất loạt tổng đình công phản đối lệnh giới nghiêm, thiết quân luật phong tỏa các chùa. Toàn thể sinh viên, giáo sư bãi khoá, từ chức. Phong trào bất hợp tác với chính quyền Diệm diễn ra mạnh mẽ làm cho guồng máy xã hội bị tê liệt. Thấy phong trào đấu tranh ngày càng lên mạnh, Diệm tiến hành kế hoạch “nước lũ” “cương quyết thanh trừng các phần tử phản bội và quá khích trong các giới tăng ni, công chức, giáo sư, sinh viên cũng như trong các đoàn thể nhân dân”1. Viện lý do các chùa chiền có chứa quân phiến loạn, vũ khí và các phần tử chống đối chính quyền, đêm 20 rạng ngày 21-8-1963, chính quyền Diệm dùng lực lượng cảnh sát dã chiến và lực lượng đặc biệt của Nhu tiến công đồng loạt hầu khắp các chùa. Chúng bắt trên 1.400 nhà sư, phật tử (trong đó có 720 người ở các chùa thuộc Sài gòn, 595 người ở các chùa Huế) mang về trại tập trung tra tấn xét hỏi. Chính quyền Diệm còn lùng bắt thêm 2.000 người khác gồm giáo sư, luật sư, sinh viên ở Huế và Sài Gòn.

Sau cuộc vây ráp, tiến công chùa chiền, bắt bớ nhiều tăng ni, phật tử, sinh viên, học sinh... không những chính quyền Diệm - Nhu không đè bẹp được phong trào Phật giáo mà càng làm cho phong trào ấy phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Ngày 21 tháng 8, nhiều khoa trưởng, giáo sư các trường đại học từ chức. Ngày 22 tháng 8, “Ủy ban chỉ đạo sinh viên, học sinh” được thành lập tại Sài Gòn. Ngày 24 tháng 8, 1200 sinh viên đại học Bách khoa, 700 sinh viên đại học Dược, trên 1200 sinh viên đại học Luật... bỏ thi, nghỉ học xuống đường mít tinh lên án chính quyền Diệm. Tiêu biểu nhất là 25 tháng 8, nhiều ngàn sinh viên, học sinh Sài Gòn đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại chợ Bến Thành lên án hành động đàn áp của chính quyền Diệm đối với phong trào Phật giáo. Cuộc mít tinh được đông đảo nhân dân và thương nhân khu vực chợ hưởng ứng. Chính quyền Diệm đưa lực lượng cảnh sát đến đàn áp, nữ sinh viên Quách Thị Trang hy sinh, gần 200 nam, nữ sinh viên bị bắt mang về giam giữ tại trung tâm huấn luyện Quang Trung. Cũng trong tháng 8-1963, đã có thêm sáu nhà sư nữa ở miền Nam tự thiêu để tỏ rõ quyết tâm đấu tranh không khoan nhượng của Phật giáo đối với chính quyền Diệm.

Như vậy, cùng với phong trào đấu tranh chống địch bình định, phá ấp chiến lược, phong trào Phật giáo, phong trào học sinh, sinh viên... làm cho tình hình miền Nam ngày càng mất ổn định một cách nghiêm trọng. Mỹ thấy tình hình căng thẳng có nguy cơ làm sụp đổ chính quyền Sài Gòn mà Mỹ dày công xây dựng, buộc phải đặt vấn đề xem xét vai trò của Diệm - Nhu. Lầu Năm Góc cho rằng: “Phải có sự sửa đổi căn bản trong bộ máy Chính quyền Diệm, loại bỏ những cái gì cản trở việc thực hiện chỉ thị của Mỹ”2.

Diệm là người rất trung thành với Mỹ và chống cộng một cách điên cuồng. Nhưng chính Diệm lại khước từ ý định cải tổ chính quyền Sài Gòn của Mỹ. Trong khi đó, kế hoạch Stalây-Taylơ đã bị phá sản, cho nên bằng mọi cách Mỹ phải tìm cho được người lãnh đạo chính quyền Sài Gòn biết “nghe lời” để che dấu bộ mặt xâm lược của Mỹ, tránh được sự phản đối của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.

Cuối tháng 8-1963, Chính phủ Mỹ cử Henry Cabốtlốt - một chuyên gia về đảo chính sang Sài Gòn làm đại sứ thay Nâutinh. Cabốtlốt chuyển cho Diệm ý kiến Chính phủ Mỹ yêu cầu Diệm cải tổ nội các, mở rộng dân chủ, chia bớt quyền cho thủ tướng; đưa vợ chồng Nhu ra nước ngoài đề xoa dịu sự công phẫn; giải quyết nhanh, êm thấm vụ Phật giáo, xem xét lại việc sử dụng tiền viện trợ của Mỹ... Diệm chẳng những không nghe, mà còn dùng mật vụ thủ tiêu bí mật một số sỹ quan, nhân viên người Mỹ với lý do đây là những phần tử có âm mưu đảo chính lật đổ chính quyền hợp hiến. Hành động này làm cho mâu thuẫn giữa Diệm - Nhu với các quan chức trong quân đội, chính quyền thêm gay gắt. Ngày 2 tháng 9, tại Nhà Trắng, Tổng thống Kennơđi nói: “Phải thay đối chính sách, có lẽ phải thay đổi cả người nữa”3 ở Nam Việt Nam. Trong lần gặp gỡ các tướng lĩnh Sài Gòn, tướng Côlin đã nói: “Mỹ đồng ý thải Nhu, còn việc giữ Diệm hay không là tuỳ các tướng, thả mấy người phật tử bị giam ra. Yêu cầu các tướng suy nghĩ kỹ về các mặt của kế hoạch. Lúc này, Mỹ chưa thể làm gì nhiều”4.
____________________________________
1. Kế hoạch thanh toán vụ tranh chấp, bạo động của Tổng hội Phật giáo Thừa Thiên, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II ký hiệu SC. 04. HS.8466.
2. Thiết Vũ - Hải Âu: Bộ mặt thật CIA, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr.392.
3, 4. Thiết Vũ - Hải Âu: Bộ mặt thật CIA, Sđd, tr.392, 398.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:22:46 pm

Để nhanh chóng phế truất vai trò của Diệm - Nhu, Mỹ tạm thời đình chỉ viện trợ kinh tế và quân sự cho Sài Gòn, mặt khác, lại cung cấp cho quân đảo chính số liệu, sơ đồ về các kho trại, hầm chứa vũ khí, đạn dược, trang dụng quân sự bí mật (do Nhu nắm) để khai thác và sử dụng, cũng như hạn chế sức mạnh của đối thủ. (Bởi vì, những vũ khí trang bị này phần lớn là của lực lượng đặc biệt bảo vệ cơ quan Trung ương Sài Gòn do đại tá Lê Quang Tung chỉ huy, Ngô Đình Nhu trực tiếp giám sát). Cùng thời điểm này, tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng quốc phòng cùng các tướng Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính... là những nhân vật đang nắm quyền cao chức trọng quân đội ngụy, có tham vọng lớn và chán ghét chế độ độc tài gia đình trị Diệm - Nhu, tập hợp nhau lập ra Hội đồng quân nhân, lãnh đạo, tổ chức lực lượng và vạch kế hoạch cuộc đảo chính1 lật đổ Diệm. Kế hoạch này được toà Đại sứ Mỹ đứng đầu là Cabốtlốt ủng hộ.

Ngày 1 tháng 11 là “ngày lễ Các Thánh”, các công chức, binh sĩ được nghỉ buổi sáng, các đơn vị thường mất cảnh giác lơ là trong việc trực ban, canh gác, Bộ chỉ huy đảo chính quyết định hành động vào lúc 13 giờ chiều (từ trước tới nay ít có cuộc đảo chính nào lại diễn ra ban ngày). Một giờ trước đó, tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng quốc phòng triệu tập một cuộc họp “rất quan trọng”, thành phần gồm các tướng tá, tư lệnh các quân binh chủng, tổng giám đốc và giám đốc các sở, nha... (gồm những tướng tá không tham gia đảo chính) tại Bộ tổng tham mưu để cầm chân họ tại đó.

Đúng kế hoạch, 13 giờ ngày 1 tháng 11, đại uý Hùng Minh chỉ huy tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến chia lực lượng làm hai mũi đánh chiếm Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia, Tổng nha cảnh sát đô thành. Cùng lúc, tiểu đoàn 1 cũng đánh chiếm được đài phát thanh, nhưng ngay sau đó bị một bộ phận lực lượng phòng vệ trung thành với Diệm Nhu, có chiến xa yểm trợ, phản kích chiếm lại. Đến 15 giờ, quân đảo chính mới đẩy lùi được lực lượng phòng vệ, chiếm lại đài phát thanh, phát lời kêu gọi của tướng Minh.

Tại khu vực thành Cộng Hoà, cuộc giao chiến giữa quân đảo chính và quân chính phủ diễn ra ác liệt. Trung tá Vĩnh Lộc chỉ huy chiến đoàn Vạn Kiếp cố tình chậm trễ, chờ đợi nghe ngóng, nếu tình hình thuận lợi mới hành động; mãi tới 15 giờ 45 phút, đại tá Nguyễn Văn Thiệu phải đưa sư đoàn 5 đến tăng cường triển khai tiến công. Trên các hướng khác, đại đội truyền tin do đại uý Đỗ Như Luận án ngữ trước Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt; học viên trường Thiết giáp Quang Trung, do tướng Dương Hiếu Nghĩa chỉ huy, làm chủ Bộ Tổng tham mưu, triển khai lực lượng phòng thủ. Đại tá Nguyễn Hữu Có cho sư đoàn 7 chặn các ngả đường đề phòng lực lượng của tướng Huỳnh Văn Cao ở đồng bằng sông Cửu Long có thể cơ động về ứng cứu Diệm.

16 giờ, từ dinh Gia Long, Diệm điện thoại cho tướng Trần Thiện Khiêm xin nói chuyện trực tiếp. Khiêm “giải thích” cho Diệm là: do tình thế đòi hỏi các tướng lĩnh phải đứng lên làm đảo chính và khuyên Diệm mau chóng chấp nhận từ chức, sau đó, sẽ được đưa ra nước ngoài một cách an toàn. Tiếp đó, tướng Đôn và tướng Minh nhắc lại lời đề nghị nói trên, Diệm không chấp nhận.

Trước sự ngoan cố của Diệm, Nhu, quân đảo chính quyết định tiến công vào dinh Gia Long. 19 giờ 30 phút, phương án tiến công được thông qua cũng là lúc đài phát thanh Sài Gòn loan tin thành Cộng Hoà thất thủ. Nhận được tin này, các đơn vị quân ngụy và nguỵ quyền các cấp... cùng lên tiếng ủng hộ quân đảo chính. 23 giờ ngày 2 tháng 11, tướng Nguyễn Văn Minh ra lệnh thả tất cả các sư sãi, tăng ni, phật tử cùng những sinh viên, học sinh mà Diệm bắt giam trong thời gian khủng hoảng tôn giáo.

5 giờ sáng ngày 2 tháng 11, thiết đoàn 2, chiến đoàn thiết giáp 24 và tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến do Lý Tòng Bá chỉ huy hình thành hai gọng kìm đánh vào dinh Gia Long. Bộ chỉ huy đảo chính cho đại tá Lâm Văn Phát làm nhiệm vụ kiểm tra, đốc chiến cuộc tiến công. Cuộc đọ sức ở khu vực dinh Gia Long diễn ra ác liệt, nhiều binh sĩ của cả hai bên bị thiệt mạng, vài chục xe thiết giáp bị phá huỷ, nhưng ưu thế sức mạnh dần dần nghiêng về quân đảo chính. Đến 6 giờ, biết có cố gắng chống cự cũng không đạt kết quả, lực lượng bảo vệ dinh buông súng đầu hàng. Lý Tòng Bá dẫn quân vào nội cung, thì Diệm, Nhu đã bỏ trốn từ trước.

Cũng thời điểm này, tại miền Trung Việt Nam, tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh vùng I chiến thuật bắt giam “lãnh chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn.
____________________________________
1. Lực lượng tham gia đảo chính:
    - Tiểu đoàn 1 và 4 thuỷ quân lục chiến,
    - Tiểu đoàn 6 nhảy dù.
    - Chiến đoàn thiết giáp 24 (thuộc thiết đoàn Vạn Kiếp),
    - Sư đoàn bộ binh 5,
    - Trung đoàn 10 và thiết đoàn 2 của sư đoàn 7 bộ binh,
    - 1 đại đội truyền tin
    Trước khi xảy ra cuộc đảo chính này, chính quyền Diệm - Nhu đã từng bị hai cuộc binh biến của quân đội.
    a) Cuộc binh biến ngày 11-11-1960.
    Đêm 10, rạng ngày 11-11-1960, nhiều tiểu đoàn nhảy dù do đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh lữ dù Sài Gòn chỉ huy, đánh chiếm một số cơ quan đầu não, bao vây dinh Độc lập. Trước sức áp đảo của quân binh biến, một mặt, Diệm tuyên bố giao quyền cho quân đội và cử đại tá Nguyễn Khánh liên lạc với nhóm chỉ huy binh biến; mặt khác, bí mật báo cho Trần Thiện Khiêm, Tư lệnh quân đoàn 4 về ứng cứu. Sáng ngày 12 tháng 11, Khiêm đưa quân về dẹp xong lực lượng binh biến. Nguyễn Chánh Thi phải chạy sang ty nạn tại Campuchia.
    b) Ném bom dinh Độc lập ngày 27-2-1962.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:24:16 pm

Lúc 6 giờ 30 phút ngày 2 tháng 11, Dương Văn Minh đã đọc lời tuyên bố thắng lợi hoàn toàn của quân đảo chính trên đài phát thanh Sài Gòn, chính thức công bố sự cáo chung của chính quyền Diệm - Nhu. Chế độ độc tài gia đình trị và nền đệ nhất cộng hoà với học thuyết “Cần lao nhân vị” bị sụp đổ hoàn toàn.

Riêng đối với Diệm, Nhu, sau khi được Cao Xuân Vỹ, thủ linh thanh niên cộng hoà lái xe đưa đến tạm trú tại nhà thờ cha Tam ở Chợ Lớn, vẫn hy vọng sẽ được lực lượng của Huỳnh Văn Cao đến ứng cứu. Nhưng Cao đã ủng hộ phe đảo chính. Diệm, Nhu biết không còn cách nào khác là phải khai báo địa điểm ẩn nấp cho quân đảo chính biết. Ngay sau đó, các tướng Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân cho người “đi đón” Diệm, Nhu đưa về Bộ tổng Tham mưu. Lợi dụng thời cơ này, để trừ hậu họa và rửa mối thù cá nhân, Minh đưa đại uý Nhung, người bảo vệ tin cẩn của mình vào nhóm những quân nhân đi đón Diệm, Nhu. Trên đường trở về, Nhung bắn chết Diệm Nhu ngay trong xe. Sau đó, Nhung cũng bị bắn chết để bịt đầu mối. Vài tháng sau đó, Ngô Đình Cẩn cũng bị toà án quân sự Sài Gòn kết án tử hình. Đây là cái mốc đánh dấu sự thay đổi từ chính quyền dân sự sang quân sự để tiếp tục chiến tranh, đồng thời, cũng là thời kỳ ngụy quyền Sài Gòn khủng hoảng nghiêm trọng, các tướng lĩnh quân đội Việt Nam cộng hòa cắn xé lẫn nhau, tranh giành quyền lực gay gắt, những cuộc đảo chính và phản đảo chính diễn ra liên miên1.

Ngay sau cuộc đảo chính, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố: Việc thay đổi tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai Mỹ này bằng một tập đoàn khác cũng độc tài và tiếp tục theo đuổi các chính sách xâm lược phản động của Mỹ ở đây. Nói một cách khác, nếu như tập đoàn Ngô Đình Diệm bị xoá bỏ, mà nguồn gốc đẻ ra chế độ ấy cùng các chính sách phản dân, hại nước do chế độ ấy chấp hành còn nguyên vẹn, thì sự xoá bỏ nói trên rốt cục chỉ là sự thay đổi đào kép trong tấn tuồng vẫn tiếp diễn. Nhân dân miền Nam không đồng tình với một kiểu thay đổi như vậy, mà phải “kiên quyết xoá bỏ nguồn gốc đẻ ra chế độ ấy cùng các chính sách phản dân hại nước của nó...”2.

Hai mươi ngày sau khi chính quyền Diệm bị lật đổ, ngày 22-11-1963, Tổng thống Mỹ Kennơđi, người quyết định tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt ở Việt Nam và Đông Dương cũng bị ám sát. Sự kiện này gây chấn động nước Mỹ trong cố gắng chiến tranh của chính quyền và làm cho giới cầm quyền ở Việt Nam hoang mang, tình hình chính trị của chúng rối ren. Đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng. Lúc này thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn so với những năm trước, nhưng vẫn chưa đủ sức tiến lên giành thắng lợi quyết định. Mặt khác, ta chưa dự kiến thời cơ có thể đến sớm như vậy, khi thời cơ đến không đủ sức kịp thời tận dụng để tạo ra được bước ngoặt quyết định. Hơn nữa, phong trào Phật giáo, nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đảo chính ở Sài Gòn, không phải là phong trào do Đảng trực tiếp lãnh đạo, ta nhân cơ hội này vận động, thúc đẩy thêm phong trào chống Mỹ-Diệm trong nhân dân. Về phía địch, tuy bị khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị, nhưng chưa tan rã về tổ chức. Ngụy quân, nhất là quân chủ lực còn khá mạnh. Mỹ lại tiếp tục đưa ồ ạt vũ khí cố vấn lực lượng đặc biệt Mỹ vào miền Nam làm cho tương quan lực lượng chưa có lợi đối với ta, cuộc chiến đấu còn phải tiếp tục.
____________________________________
1. Sau cuộc dào chính ngày 1-11-1963, một loạt các cuộc đảo chính hay “cải tổ” chính phủ nữa lại liên tiếp diễn ra.
    - Ngày 30-4-1964, Nguyễn Khánh đảo chính lật đổ Chính phủ Dương Văn Minh.
    - Ngày 16-5-1964 cải tổ chính phủ Nguyễn Khánh.
    - Ngày 25-8-1964, Dương Văn Minh lật đổ chính phủ Nguyễn Khánh.
    - Ngày 25-9-1964, Huỳnh Văn Tôn, Lâm Văn Phát, Nguyễn Văn Đức làm đảo chính nhưng thất bại.
    - Ngày 20-12-1964, Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu làm đảo chính bộ phận.
    - Ngày 27-1-1965, Nguyễn Khánh làm đảo chính lập Hội đồng nhân dân.
    - Ngày 12-2-1965, Taylo “dàn xếp” lập chính quyền do Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng, Phan Huy Quát làm thủ tướng.
    - Ngày 19-2-1965, Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát, Huỳnh Văn Tôn làm đảo chính nhưng thất bại.
    - Ngày 6-3, ngày 20-4, ngày 20-5-1965, ba lần Chính phủ Phan Huy Quát bị đảo chính hụt.
    - Ngày 11-6-1965, Chính phủ Phan Huy Quát bị lật đổ, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ lập chính phủ mới.
2. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, t.I, tr.413.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2010, 07:24:58 pm

Ngay sau khi Kennơđi bị giết, Phó tổng thống Giônxơn lên thay thể hiện “quyết tâm không đổi” đối với cuộc chiến Việt Nam. Trong bài diễn văn nhậm chức, Giônxơn nói: “Mỹ sẽ ủng hộ và tiếp tục viện trợ cho Nam Việt Nam đánh thắng lực lượng cộng sản”. Không bao lâu sau lời tuyên bố này, các tàu vận tải biển cỡ lớn, các máy bay chuyên chở hạng nặng của Mỹ ngày đêm đổ một khối lượng rất lớn vũ khí, kỹ thuật, phương tiện chiến tranh vào Sài Gòn; nhanh chóng nâng số lượng pháo binh lên 1,2 lần; trực thăng vũ trang lên 1,5 lần; tàu xuồng chiến đấu lên 1,1 lần... so với năm 1962. Tháng 12-1963, Mỹ - ngụy đã thành lập thêm Vùng IV chiến thuật thuộc lãnh thổ đồng bằng sông Cửu Long.

Được Mỹ viện trợ ồ ạt, tuy nội bộ chính quyền Sài Gòn vẫn còn lục đục, nhưng quân ngụy vẫn khẩn trương vạch kế hoạch, tập trung lực lượng mở nhiều cuộc hành quân càn quét, dồn dân, lập ấp chiến lược, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường. Trọng điểm hoạt động của quân ngụy trong thời gian này là Nam Bộ, mục đích đặt ra là tiêu diệt lực lượng vũ trang giải phóng, phá căn cứ, kho tàng dự trữ, hệ thống giao thông, vận tải, cơ sở hạ tầng của cách mạng. Địch tập trung hoả lực, chất độc hoá học tạo nên những vành đai trắng “cách ly” giữa ấp chiến lược với căn cứ cách mạng và vùng giải phóng. Mặt khác, chúng đẩy mạnh hoạt động chiến tranh tâm lý, mua chuộc, chiêu hồi, lôi kéo những phần tử dao động, biến chất tham gia hoạt động chống phá cách mạng từ bên trong. Mọi cố gắng của địch đều bị quân và dân miền Nam kết hợp ba mũi đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận trên khắp ba vùng chiến lược chặn đánh, gây cho chúng những thiệt hại nghiêm trọng. Tuy vậy, do lực lượng còn có hạn, ta chưa tổ chức được những trận đánh quyết định.

Tháng 12-1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ chín. Sau khi phân tích mọi mặt mạnh, yếu của cả ta và địch, những thành quả mà ta đã giành được trong thời gian trước đó, hội nghị chỉ rõ: Quy mô cuộc chiến tranh ở miền Nam có thể tiếp tục duy trì như mức độ hiện nay (1963) hoặc là tăng cường hơn nữa. Nếu Mỹ có thể tăng thêm nhiều lần số lượng cố vấn và yểm trợ, cùng với lôi kéo một bộ phận quân chư hầu vào tham chiến, thì quân ngụy Sài Gòn vẫn giữ vai trò chủ yếu. Do vậy, quân và dân miền Nam phải tranh thủ tập trung mọi nỗ lực để làm thất bại mọi âm mưu, hành động của địch ở mức độ hiện tại, mặt khác, sẵn sàng đánh thắng khi chúng mở rộng quy mô chiến tranh.

Mỹ lợi dụng sự chia rẽ, bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tìm cách lôi kéo, chia rẽ Liên Xô, Trung Quốc hòng ngăn chặn bước tiến của cách mạng Việt Nam để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta, vì vậy, còn lâu dài, gian khổ, vô cùng phức tạp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương dự kiến con đường phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa từng phần, đẩy lùi địch từng bước, tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn, nhưng cũng có thể thông qua một bước quá độ trước khi giành thắng lợi trọn vẹn.

Tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mỹ vấp phải mâu thuẫn cơ bản trong đường lối chiến tranh là: mặt chính trị rất yếu, phải dùng quân sự làm chính; trong khi đó ta kém địch về vũ khí, phương tiện và ưu thế lực lượng, nhưng mạnh hơn địch về thế trận, sự chủ động và đặc biệt là về chính trị. Từ những phân tích, đánh giá nói trên, Hội nghị Trung ương một lần nữa khẳng định phương châm cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam là: Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hai hình thức đấu tranh này đều cơ bản, có vai trò quyết định, trong đó đấu tranh vũ trang có vai trò quyết định trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân địch. Cuộc chiến tranh sẽ kéo dài, nhưng phương hướng phấn đấu là tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Trong chỉ đạo, cần tìm mọi cách kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt; đồng thời, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh cục bộ quy mô lớn của đế quốc Mỹ.

Để tăng cường thêm sự ủng hộ quốc tế, đặc biệt là các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, Đảng ta và Bác Hồ Chủ trương củng cố, thắt chặt quan hệ keo sơn giữa Đảng và nhân dân các nước Đông Dương cùng chống kẻ thù chung là Mỹ. Mặt khác, ta chủ trương vận động các đảng anh em giải quyết các bất đồng có lý, có tình trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, kêu gọi sự đồng tình, ủng hộ về vật chất và tinh thần của Đảng cộng sản và nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã vận động những tổ chức hoà bình của nhân dân thế giới, các tổ chức nhân dân Á, Phi, Mỹ Latinh có hành động phối hợp mạnh mẽ đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Với chủ trương đúng đắn đó của Đảng và Chính phủ ta, nhiều uỷ ban đoàn kết với Việt Nam của các nước đã ra đời. Uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được đề cao. Mặt trận dân tộc giải phóng vừa thành lập đã được nhiều nước trên thế giới công nhận. Đây là những nhân tố khách quan thuận lợi góp phần quan trọng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước mắt là đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ.

*
*   *

Với những thắng lợi quan trọng giành được trong năm 1963 qua trận Ấp Bắc và phong trào thi đua giết giặc, lập công, phá ấp chiến lược, quân và dân miền Nam đã đánh bại chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận, làm cho chiến lược chiến tranh đặc biệt của địch đang bị phá sản. Thắng lợi của cách mạng cộng với cuộc đấu tranh của đồng bào Phật giáo kéo dài và sôi động càng đẩy chính quyền, quân đội Sài Gòn vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, toàn diện. Mâu thuẫn giữa chính quyền với giới quân sự, giữa Diệm, Nhu với Mỹ gay gắt dẫn đến Mỹ buộc phải thay ngựa giữa dòng ủng hộ nhóm tướng trẻ lật đổ Diệm, Nhu, dựng lên chính quyền quân sự để Mỹ thuận bề đẩy mạnh leo thang chiến tranh xâm lược. Song, lực lượng cách mạng miền Nam đang ở thế thắng, thế chủ động đã tìm ra phương pháp đấu tranh thích hợp, đặc biệt là sự kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận, phát huy có hiệu quả sức mạnh của phong trào quần chúng trên cả ba vùng chiến lược.

Để phát triển những thắng lợi đã giành được, Bộ Chính trị Quân uỷ Trung ương tập trung lãnh đạo nhân dân miền Bắc phát huy vai trò hậu phương chiến lược, tăng cường chi viện sức người, sức của cho miền Nam và chỉ đạo cho Đảng bộ miền Nam, lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục tiến công đánh quỵ quân chủ lực, bảo an ngụy, mở rộng vùng giải phóng, phát triển lực lượng ta và thế trận chiến tranh nhân dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:42:50 pm

Chương XIII
ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ
(1964 - giữa 1965)


I- ĐƯA CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT LÊN ĐỈNH CAO, DÙNG KHÔNG QUÂN ĐÁNH PHÁ MIÊN BẮC,
MỸ KHÔNG NGĂN CẢN ĐƯỢC CUỘC TIẾN CÔNG CỦA TA.
CHIẾN THẮNG BÌNH GIÃ - AN LÃO

Trái với tính toán của phía Mỹ, cuộc chính biến lật đổ anh em Diệm, Nhu (1-11-1963) không làm cho tình hình thành trì của chính quyền Sài Gòn ổn định, ngược lại nó càng bị đẩy vào cuộc khủng hoảng mới, triển miên, trầm trọng hơn. Chính phủ mới do Dương Văn Minh cầm đầu tồn tại chưa đầy ba tháng thì tướng Nguyễn Khánh, một người trong nhóm làm chính biến lật đổ Diệm - Nhu, lại lật đổ Minh (30-1-1964). Cuộc đảo chính lần này - như Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ bình luận: là sự kiện “mở đầu cái vòng tranh giành quyền bính làm hại Oasinhtơn tới hai năm sau, đẩy Mỹ tham gia ngày càng sâu hơn vào cuộc chiến tranh Việt Nam với cố gắng chống đỡ cho các chính thể nối tiếp nhau ở Nam Việt Nam khỏi bị sụp đổ”1. Trên thực tế, chỉ trong năm 1964, đã có năm lần đảo chính, chín lần âm mưu đảo chính và bốn lần thay đổi bọn cầm đầu chính quyền Sài Gòn!

Phó tổng thống Mỹ L.Giônxơn lên thay J.Kennơđi trong lúc cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đang trở nên ngày càng nóng bỏng. Mắc Namara nhận xét đây thực sự là một mớ bòng bong cực kỳ khủng khiếp, rõ ràng còn nguy hiểm hơn tình thế mà Kennơđi kế thừa từ Aixenhao”2.

Hai ngày sau khi J.Kennơđi bị ám sát, trên cương vị mới, Giônxơn triệu tập cuộc họp với các cố vấn cấp cao về Việt Nam. Trong cuộc họp này, ông khẳng định tiếp tục theo đuổi các chính sách và những hành động mà Mỹ đã cam kết với Nam Việt Nam để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh. Muốn vậy, theo Giônxơn, hành động trước mắt của Mỹ là gia tăng các hoạt động quân sự; hoạt động quân sự phải được ưu tiên so với “những cải cách xã hội” mà Mỹ đang triển khai ở miền Nam Việt Nam. Lập trường trên đây của Giônxơn và Chính phủ Mỹ được chính thức thể hiện trong giác thư về hành động an ninh quốc gia (NSAM số 273) ra ngày 26-11-1963. Theo đó, chính sách của Giônxơn, cũng giống như của Kennơđi là “nhằm giúp đỡ nhân dân và chính phủ Nam Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ chống lại mưu đồ của cộng sản được sự chỉ đạo và hậu thuẫn từ bên ngoài”3 bằng cách tiếp tục tăng cường viện trợ, huấn luyện và cố vấn cho chính quyền, quân đội Sài Gòn đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt. Bản giác thư cũng khẳng định lại quyết tâm của Mỹ là kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi vào cuối 1965. Cùng thời gian này, Giônxơn chính thức phê chuẩn kế hoạch về các hoạt động bí mật chống Bắc Việt Nam, một kế hoạch được đưa ra tại Hội nghị Hônôlulu ngày 20-11-1963, và sau đó, được gọi là Kế hoạch hành quân 34A.

Chuẩn bị cho nỗ lực chiến tranh mới của Mỹ, tháng 12-1963, Giônxơn chỉ thị cho phái đoàn Mắc Namara tới Sài Gòn xem xét tình hình tại chỗ, đề xuất những biện pháp mới nhằm giành thắng lợi. Sau chuyến đi, ngày 21-12-1968, Mắc Namara trình lên Giônxơn báo cáo mang tên Tình hình Việt Nam. Báo cáo chỉ ra rằng, hiện tại, chính phủ mới ở Nam Việt Nam là nhân tố đáng lo ngại nhất đối với Mỹ, bởi vì: “Đó là một chính phủ không ổn định và dễ thay đổi”4. “Phái đoàn Mỹ là nhược điểm thứ hai. Phái đoàn này thiếu sự lãnh đạo, không được thông báo tin tức đầy đủ, không hoạt động theo kế hoạch chung”5. Và nhân tố thứ ba - nhân tố cuối cùng, là “Việt cộng đã đạt được rất nhiều tiến bộ trong thời gian kể từ khi có đảo chính.... Hiện nay, Việt cộng kiểm soát được những tỉ lệ dân số rất cao ở một số tỉnh then chốt, đặc biệt là các tỉnh ở ngay phía nam và phía tây Sài Gòn”6. Tựu trung, theo Mắc Namara, đến cuối năm 1963, “tình hình rất rắc rối. Chiều hướng hiện nay, trừ phi có sự thay đổi trong hai, ba tháng tới, nếu không may mắn lắm, sẽ dẫn tới việc trung lập hoá, có khả năng nhiều hơn là Nam Việt Nam trở thành một quốc gia dưới quyền kiềm soát của cộng sản”7.

____________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Sđd, t.1, tr.173.
2. R.S.Mc Namara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.112.
    Theo Mc. Namara “mớ bòng bong” đó bao gồm các vấn đề về hoặc liên quan tới chiến tranh Việt Nam như: Liệu việc mất Nam Việt Nam có là mối đe doạ đối với an ninh Hoa Kỳ nghiêm trọng tới mức cần thiết phải có hành động cực đoan để ngăn chặn nó hay không? Nếu có, thì Mỹ phải hành động như thế nào? Liệu Mỹ có cần đưa lực lượng không quân và bộ binh vào hay không? Có nên phiêu lưu tiến hành một cuộc chiến tranh với Trung Quốc hay không? Cái giá cao nhất về mặt kinh tế, quân sự, chính trị, con người của một hành động như vậy là gì? Liệu nó có thành công hay không? Nếu như cơ hội thắng lợi thấp, cái giá phải trả cao, thì có cách gì đáng được nghiên cứu, thỏa thuận?...
3. Dẫn theo Mc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Sđd, tr. 113.
4 - 7. Bị vong lục về Tình hình Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng R.S. Mắc Namara gửi Tổng thống Giônxơn ngày 21-12-1963. Dẫn theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Sđd, t.1, tr.246-247.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:44:06 pm

Để ngăn chặn chiều hướng này và cải thiện tình hình ảm đạm đang bao trùm các tỉnh chung quanh Sài Gòn và các tỉnh vùng châu thổ sông Cửu Long Mắc Namara đề xuất ba biện pháp:

1. Yêu cầu Chính phủ Sài Gòn bố trí lại toàn bộ lực lượng quân đội theo hướng bảo đảm cho các tỉnh chung quanh Sài Gòn và vùng châu thổ có quân số tăng lên gấp đôi;

2. Tăng số nhân viên quân sự, nhân viên phái đoàn hành quân Mỹ (USOM) đến mức số người Mỹ có ở Nam Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng đem lại cho các cơ quan điều hành chiến tranh của Mỹ sự đánh giá độc lập, đáng tin cậy về các mặt hoạt động trên chiến trường;

3. Chuẩn bị các chương trình bình định thiết thực, đồng thời nỗ lực để bảo đảm an ninh cho các vùng do Chính phủ Việt Nam cộng hoà hiện còn đang kiểm soát và sau đó, mở rộng dần ra vùng gần đó.

Ngoài ba biện pháp trên đây, báo cáo của Mắc Namara còn kiến nghị một loạt biện pháp nhằm thúc đẩy mạnh hơn cuộc chiến tranh bí mật chống miền Bắc, kể cả việc cho máy bay U2 chụp bản đồ toàn bộ biên giới Lào và Campuchia; mở các cuộc hành quân ở Lào để ít ra “cũng cung cấp được những tin tức tình báo thoả đáng về các hoạt động dọc con đường hành lang Lào”1.

Những nhận định và kiến nghị của Mắc Namara được Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ đồng ý. Trong bị vong lục gửi Mắc Namara ngày 22-1-1964, tướng Mácxoen Taylo Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân cho rằng, Mỹ “cần mở rộng cuộc chiến tranh sang oanh tạc Bắc Việt Nam bằng không quân Mỹ và chuyển từ huấn luyện người Nam Việt Nam sang tiến hành cuộc chiến tranh cả ở hai miền Bắc và Nam Việt Nam bằng lực lượng chiến đấu Mỹ”2.

Từ 8 đến 12-3-1964, Mắc Namara và Taylo lại sang Sài Gòn một lần nữa. Trở về Mỹ, ngày 16-3-1964, Mắc Namara trình lên Tổng thống Giônxơn báo cáo về tình hình Nam Việt Nam và những biện pháp nhằm thay đổi chiều hướng cuộc chiến tranh. Báo cáo được Tổng thống Mỹ phê chuẩn ngày 17-3-1964 trở thành bị vong lục về hành động an ninh quốc gia số 288. Bị vong lục đánh giá lại toàn bộ tình hình sau đảo chính, xét duyệt lại các mục tiêu của Mỹ, chỉ ra các phương án hành động và cuối cùng chủ trương thực hiện 12 biện pháp lớn, trong đó bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

1. Sẵn sàng cung cấp viện trợ và hỗ trợ cho Nam Việt Nam chừng nào còn cần thiết.

2. Ủng hộ Chính phủ Khánh chống lại bất kỳ cuộc đảo chính nào sau này.

3. Ủng hộ chương trình động viên quốc gia (kể cả việc thông qua một đạo luật về quân dịch), đưa Nam Việt Nam vào tình thế chiến tranh.

4. Giúp đỡ chính quyền Sài Gòn tăng quân số (Quân chính quy và nửa chính quy) lên ít nhất 50 vạn người.

5. Giúp đỡ đào tạo đội ngũ cán bộ hành chính, dân sự đông đảo hoạt động ở cấp tỉnh, quận và thôn ấp.

6. Cung cấp cho quân ngụy 25 máy bay A14 thay thế cho các máy bay T28, các xe bọc thép M113, tàu tuần tra trên sông và từ năm đến 10 triệu đôla cho các khoản trang bị khác.

7. Cho phép máy bay Mỹ tiếp tục bay do thám ở độ cao các khu vực biên giới Nam Việt Nam, cho phép “truy kích ngay lập tức” và tiến hành các hoạt động trên bộ của Nam Việt Nam ở biên giới Lào nhằm kiểm soát biên giới.

8. Chuẩn bị ngay lập tức để khi được báo trước 72 tiếng đồng hồ là có thể tiến hành các hoạt động quy mô lớn “kiểm soát biên giới” ở Lào, Campuchia và các hoạt động trả đũa chống Bắc Việt Nam, khi được báo trước 30 ngày là có thề tiến hành chương trình “gây sức ép quân sự công khai từng bước một” chống Bắc Việt Nam.

Nhằm biến những chủ trương biện pháp nói trên thành hiện thực, Giônxơn thay đổi toàn bộ giới lãnh đạo cao cấp Mỹ ở Sài Gòn, tướng Uyliam Oétmolen được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh các lực lượng quân sự Mỹ ở Việt Nam thay Háckin; Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mắcxoen Taylo thay Cabốtlốt làm đại sứ Mỹ, ở Sài Gòn; Alếchxít Giônxơn một nhà ngoại giao chuyên nghiệp có kinh nghiệm được đánh giá cao, làm phó cho Taylo. Lực lượng cố vấn, yểm trợ Mỹ được tăng cường từ 22.400 người (năm 1963) lên 26.200 người (1964), trong đó có 10.400 cố vấn Mỹ; quân ngụy tăng từ 417.000 người năm 1963 (với 206.000 chủ lực và 211.000 quân địa phương) lên 561.000 người năm 1964 (với 267.000 chủ lực và 294.000 quân địa phương).
____________________________________
1. Bị vong lục về Tình hình Việt Nam của Bộ Trưởng Quốc phòng R.S. Mắc Namara gửi Tổng thống Giôn Xơn ngày 21-12-1963. Dẫn theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Sđd, t.1, tr.248.
2. Dẫn theo Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ..., Sđd, tr.119.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:44:50 pm

Cùng với việc tăng nhanh quân số, trang bị kỹ thuật cũng được tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng: máy bay năm 1963 mới có 627 chiếc (trong đó có 344 trực thăng) sang năm 1964 tăng lên 989 chiếc (có 392 trực thăng); xe cơ giới tăng từ 582 chiếc năm 1963 lên 732 chiếc năm 1964; pháo từ 248 khẩu (1963) lên 415 khẩu (1964)...

Mỹ, ngụy còn điều chỉnh thế bố trí chiến lược, cải tổ hệ thống chỉ huy, biến vùng chiến thuật thành một đơn vị chiến lược hoàn chỉnh, rút bớt một số đồn bốt lẻ, chuyển quân chiếm đóng thành lực lượng cơ động, tạo điều kiện cho các cấp có khả năng độc lập mở các cuộc hành quân càn quét mật độ cao, phục vụ chương trình “bình định trọng điểm” ở các vùng quanh Sài Gòn và các tỉnh Biên Hoà, Bình Dương, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An, Định Tường. Để che giấu tính chất tàn bạo của ấp chiến lược, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đổi tên ấp chiến lược thành ấp đời mới, ấp tân sinh, chương trình bình định đổi thành chương trình phát triển cách mạng, tái thiết nông thôn, cuộc chiến tranh chống nghèo đói, v.v... Về thực chất và trên thực tế, dù đổi tên gọi, nhưng hình thức và nội dung của những ấp tân sinh hoặc chương trình phát triển cách mạng... chẳng những không khác trước mà còn có phần tàn bạo, khắc nghiệt hơn.

Từ cuối tháng 2-1964, địch vạch kế hoạch bình định mang tên Chiến thắng, hòng tiêu diệt toàn bộ tổ chức quân sự chính trị, kinh tế của ta. Kế hoạch được bắt đầu thực hiện từ 1-4-1964, dự định chia làm hai bước:

Bước một từ 1-4-1964 đến 3-12-1965: bình định có trọng điểm ở các vùng chiến thuật theo thứ tự ưu tiên I, II, III bằng những cuộc hành quân đánh phá liên tục kết hợp với gom dân lập ấp tân sinh1.

Bước hai, bắt đầu từ 1966, tiến công vào các vùng căn cứ tiêu diệt các đơn vị chủ lực Quân giải phóng, phá huỷ các cơ sở quân sự của ta.

Đối với miền Bắc, Mỹ tiếp tục bổ sung để tiến tới hoàn chỉnh chương trình bí mật mà Lầu Năm Góc gọi là “chương trình quân sự không công khai chống Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”, trong đó quan trọng nhất là Kế hoạch tác chiến 34A. Kế hoạch này bao gồm các chuyến bay do thám bằng máy bay U2 và bắt cóc công dân Bắc Việt Nam để khai thác tin tức tình báo, thả dù hoặc tung các đội biệt kích từ biển vào phá hoại, gây chiến tranh tâm lý...

Cùng với kế hoạch 34A, Mỹ còn có kế hoạch bí mật đẩy mạnh hoạt động không quân ở Lào do đại sứ Mỹ ở Lào Lêôna Ơngơ điều khiển. Theo kế hoạch này, một lực lượng từ 25 đến 40 máy bay mang nhãn hiệu không quân Hoàng gia Lào, nhưng do phi công Mỹ và Thái Lan lái, tiến hành các hoạt động trinh sát, ném bon các mục tiêu nghi có quân Việt Nam và Pathét Lào ở Lào. Hoạt động này tăng dần về cường độ và phạm vi, trở thành “một kiểu mở màn cho việc ném bom miền Bắc Việt Nam”.

Bộ phận quan trọng thứ ba trong chương trình không công khai chống Bắc Việt Nam là kế hoạch Đề Sôtô sử dụng tầu hải quân Mỹ thực hiện các cuộc tuần tra ở vịnh Bắc Bộ. Mục đích của các cuộc tuần tra này một mặt là phô trương lực lượng, gây sức ép tâm lý, mặt khác, thu thập tin tức tình báo, hỗ trợ cho kế hoạch 34A.

Bổ sung cho các nỗ lực quân sự ở miền Nam Việt Nam, ngày 19-4-1964, Mỹ giật dây Cupraxít làm đảo chính ở Viêng Chăn, gạt Pathét Lào ra khỏi chính phủ liên hợp, hòng biến chính phủ Phuma thành công cụ của Mỹ. Họ còn thoả thuận với phái hữu của Lào cho phép quân đội Sài Gòn vượt biên giới Lào- Việt truy kích Việt cộng trong trường hợp cần thiết.

Đối với Campuchia, bằng thủ đoạn vừa kiềm chế, gây sức ép, vừa mua chuộc, Mỹ buộc chính phủ Vương quốc Campuchia chống cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Mỹ lôi kéo Lào và Campuchia cô lập cách mạng Việt Nam, xoá bỏ “đất thánh” của “Việt cộng” trên đất Campuchia, cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh qua đất Lào.
____________________________________
1. Vùng I chiến thuật (Bắc Trung Bộ), trọng điểm bình định là vùng duyên hải; ở Vùng II (Trung Trung Bộ) trọng điểm là vùng ven biển từ Bình Định đến Ninh Thuận, thung lũng Bình Khê, Củng Sơn, dọc trục lộ các tỉnh Pleiku, Phú Bổn, Đắc Lắc, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng; ở Vùng III (Đông Nam Bộ) trọng điểm là quanh Sài Gòn; ở Vùng IV (Đồng bằng sông Cửu Long) là An Giang, Châu Đốc, Vĩnh Long, Gò Công, một phần các tỉnh Phong Dinh, Kiến Phong, Kiên Giang, Định Tường...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:45:38 pm

Trên trường quốc tế, Mỹ ráo riết khai thác những khuynh hướng phức tạp trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt là mâu thuẫn Xô- Trung, nhằm hạn chế sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trên thế giới, trước hết là của Liên Xô, Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Trước những âm mưu, thủ đoạn và biện pháp mới của Mỹ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 (Khoá III), tháng 12-1963, trên cơ sở đánh giá toàn bộ diễn biến của tình hình chiến trường, trong nước và trên thế giới, chỉ rõ phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam với nhiệm vụ trước mắt là: “Động viên toàn Đảng, toàn dân vượt mọi khó khăn, trên cơ sở phát triển mạnh mẽ hơn nữa ý thức giác ngộ chính trị của nhân dân, ra sức phấn đấu xây dựng lực lượng về mọi mặt, chính trị và vũ trang, nhất là lực lượng vũ trang, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho ta mau chóng hơn, tích cực xây dựng và mở rộng căn cứ, nhất là ở những địa bàn chiến lược và cơ động của quân chủ lực, tiến lên đánh tiêu diệt và làm tan rã từng bộ phận quân địch, phá phần lớn các ấp chiến lược, làm chủ phần lớn xã thôn và rừng núi, tạo điều kiện cho phong trào quần chúng ở đô thị nổi dậy mạnh mẽ, thúc đẩy chế độ Mỹ và tay sai khủng hoảng, suy sụp mau chóng hơn, làm cho phong trào tiến lên giành chủ động chiến lược, sáng tạo ra thời cơ và giành những thắng lợi quyết định”1. Trong việc thực hiện nhiệm vụ trên đây, hội nghị chỉ ra hai nội dung chủ yếu, phải quyết tâm đạt cho được nhằm làm thất bại âm mưu “kiểm soát nhân dân bằng ấp chiến lược và tiêu diệt lực lượng vũ trang ta bằng lực lượng quân sự mạnh”2 của địch. Hai nội dung đó là:

1. Làm thất bại mức độ gom dân lập ấp chiến lược của địch, phá phần lớn các ấp chiến lược địch đã làm được, bảo đảm giành nhân tài, vật lực cho cách mạng, làm chủ phần lớn nông thôn, rừng núi;

2. Tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã từng bộ phận quân đội địch, tạo điều kiện làm tan rã lực lượng quân sự, chỗ dựa của Mỹ và tay sai.

Điểm mới của Hội nghị Trung ương lần thứ 9 là chủ trương xây dựng bộ đội chủ lực, tạo ra quả đấm mạnh đủ sức đánh bại lực lượng nòng cốt của chiến lược chiến tranh đặc biệt là quân chính quy ngụy, tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi quyết định. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín đã bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng miền Nam do Hội nghị Trung ương 15 (khoá II) và các nghị quyết của Bộ Chính trị tiếp sau đó đã đề ra; nó cụ thể hoá những nhiệm vụ mà cách mạng miền Nam phải tiến hành để đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ.

Sau hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín, trên miền Bắc, Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng chủ động có kế hoạch chuẩn bị trước một bước. Tháng 1-1964, Bộ Tổng tham mưu được sự uỷ nhiệm của Chính phủ tổ chức Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc. Tham gia hội nghị có đại biểu một số bộ trong Chính phủ và đại diện chính quyền, cơ quan quân sự các tỉnh, đại diện các quân khu, quân chủng, binh chủng. Sau hội nghị, tổ chức phòng không nhân dân được thành lập ở khắp các địa phương; việc tuần tiễu, bố phòng vùng ven biển, khu vực giới tuyến và dọc biên giới phía tây được tăng cường. Hệ thống phòng không của ba thứ quân được triển khai rộng khắp tập trung trên các trọng điểm thành phố, khu công nghiệp, các công trình lớn..., hệ thống hầm hào trú ẩn được xây dựng ở các cơ quan, trường học, bệnh viện và các đường phố. Việc sơ tán bớt các kho vật tư, máy móc... cũng được tiến hành khẩn trương.

Ngày 26-4-1964, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu trong lực lượng phòng không, đến ngày 1-6-1964, lệnh này được áp dụng trong toàn lực lượng vũ trang miền Bắc.

Tháng 6-1964, Bộ Chính trị ra chỉ thị: “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, phá tan âm mưu khiêu khích, đánh phá miền Bắc của không quân địch”. Chỉ thị nêu rõ: do thất bại liên tiếp ở miền Nam và Lào, Mỹ và bè lũ tay sai đang lúng túng và nhất định chúng điên cuồng đối phó lớn. Chúng đang chuẩn bị và trước sau sẽ tập kích bằng đường biển và đường không vào miền Bắc nước ta. Phương châm của ta là kết hợp mọi biện pháp, tích cực đánh địch với biện pháp phòng tránh, lấy bộ đội phòng không làm nòng cốt phát động một phong trào rộng rãi bắn rơi máy bay địch bằng mọi thứ súng bộ binh.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị và lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu trong các lực lượng vũ trang, các đơn vị thuộc Quân chủng Phòng không- Không quân, Hải quân đã chuyển nhiệm vụ từ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu sang chiến đấu và huấn luyện; từ trạng thái hoà bình sang trạng thái chiến tranh đối phó với những âm mưu và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ.
____________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa III, lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TW 183, tr.21-22.
2. Tlđd.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:46:24 pm

Để tăng cường sự đoàn kết nhất trí của toàn dân trước âm mưu mở rộng chiến tranh của Mỹ, ngày 27-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Dự hội nghị có các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hơn 300 đại biểu là những cán bộ lão thành, những nhà hoạt động chính trị được nhân dân yêu quý, những người tiêu biểu cho các giới, các ngành..., những anh hùng, chiến sĩ thi đua, những người trí thức cách mạng và những nhân sĩ yêu nước... Hội nghị đã nghe và thảo luận báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành tích to lớn của nhân dân ta trong 10 năm qua, về tình hình hiện tại và nhiệm vụ trước mắt, đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng và Chính phủ. Tại hội nghị này, Người nói: “Hiện nay, bọn hiếu chiến Mỹ và bè lũ tay sai mới của chúng lại ba hoa hô hào “Bắc tiến”. Nhưng chúng phải hiểu rằng: Nếu chúng liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại. Vì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đánh lại chúng, vì các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ toàn thế giới sẽ hết sức ủng hộ ta; vì nhân dân Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ cũng sẽ phản đối chúng.

Tình hình ở miền Nam hiện nay chứng tỏ một cách rõ rệt sự thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh đặc biệt này”1.

Cuối cùng Người kêu gọi: “Chúng ta hãy phát huy truyền thống của dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, luôn luôn sẵn sàng hy sinh, phấn đấu vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc của nhân dân và sự nghiệp cách mạng toàn thế giới. Những thắng lợi mới to lớn và vẻ vang đang chờ chúng ta!”2.

Hội nghị chính trị đặc biệt có ý nghĩa như một Hội nghị Diên Hồng của dân tộc trong thời đại mới, nó biểu thị quyết tâm lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta kiên quyết kháng chiến, đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Cùng thời gian này, Quân uỷ Trung ương họp tổng kết công tác chỉ đạo quân sự trong 10 năm, ra nghị quyết về Tình hình và nhiệm vụ quân sự của Đảng.

Xuất phát từ nhiệm vụ chung của cách mạng, Quân uỷ Trung ương xác định hai nhiệm vụ chiến lược quân sự là: bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, bảo vệ an ninh, toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn trật tự, trị an ở hậu phương lớn; đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng quân sự địch, đánh đổ chế độ thống trị của Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Hai nhiệm vụ này có quan hệ gắn bó mật thiết, thúc đẩy nhau, trong đó nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc có tính chất quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng miền Nam và trong cả nước.

Nghị quyết Quân uỷ Trung ương chỉ ra phương châm chiến lược quân sự đối với miền Bắc là “phòng ngự tích cực” bằng cách vừa tăng cường lực lượng, củng cố quốc phòng, bảo vệ giữ vững miền Bắc, vừa tích cực chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, giúp đỡ về quân sự cho các nước láng giềng, đặc biệt là cách mạng Lào.

Theo phương hướng đó, ở miền Bắc, khung biên chế thời chiến cho các đơn vị bộ đội chủ lực của bộ và các quân khu được thực hiện từ đầu 1964, đưa số quân thường trực tăng lên gần 300.000 người. Từ đây, ta bắt đầu đưa quân vào chiến trường dưới hình thức các đơn vị đủ quân số và trang bị theo biên chế (chứ không phải là các “đơn vị khung” hoặc các đoàn đi lẻ như trước). Các trung đoàn bộ binh 101, 95, 18 (sư đoàn 825) là những trung đoàn chủ lực cơ động đầu tiên hành quân vào chiến trường.

Cùng với việc đưa một số đơn vị chủ lực hoàn chỉnh vào chiến trường, ngành hậu cần, kỹ thuật cũng điều chỉnh kế hoạch, bố trí các cụm kho, trạm, xưởng sản xuất, bệnh viện bảo đảm phục vụ yêu cầu của nhiệm vụ mới, thành lập thêm một số cơ sở để đưa theo các đơn vị bổ sung cho miền Nam.

Công tác vận tải chiến lược đổi mới phương thức hoạt động nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu chi viện cho miền Nam. Đường vận tải cơ giới vượt qua đường số 9 vào đến sông Bạc và Tà Xẻng. Mùa khô 1963-1964, Đoàn 559 bắt đầu vận chuyển hàng kết hợp cả hai phương tiện gùi thồ và ô tô. Khối lượng hàng hoá vào chiến trường trong năm 1964 tăng gần bốn lần so với 1963. Tuyến vận tải biển với tàu vỏ sắt trọng tải 100 tấn đã tăng nhịp độ và quy mô vận chuyển vào Nam. Năm 1964, Đoàn 125 vận tải biển đưa được 88 chuyến hàng với tổng số trên 4.000 tấn vũ khí vào Nam Bộ và Khu V.

Đến cuối tháng 7-1964, mọi công tác chuẩn bị của lực lượng vũ trang và nhân dân trên miền Bắc, đặc biệt là của các quân chủng Phòng không- Không quân, Hải quân, Hậu cần để sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại và chi viện cho miền Nam về cơ bản đã hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch.
____________________________________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.11, tr.228, 234-235.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:46:54 pm

Ở miền Nam, từ sau khi quán triệt tinh thần Nghị quyết chín Trung ương và các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền (thành lập 10-1963) xúc tiến thành lập các bộ chỉ huy chiến dịch, phát triển khối chủ lực bằng lực lượng tại chỗ và lực lượng từ miền Bắc đưa vào. Miền Đông Nam Bộ từng bước được xây dựng thành chiến trường đánh tiêu diệt lớn của bộ đội chủ lực. Tại đây, ta xây dựng được hai trung đoàn bộ binh (1 và 2), một trung đoàn pháo binh (đoàn 80). Tại Khu V với sự tăng cường hai trung đoàn 101, 320 từ miền Bắc vào, ngày 1-5-1964, mặt trận Tây Nguyên được thành lập mang mật danh chiến trường B3. Đại tá Nguyễn Chánh, Phó tư lệnh Khu V được cử làm Tư lệnh mặt trận, đại tá Đoàn Khuê, Phó chính uỷ Khu V được cử làm Chính uỷ mặt trận.

Ở Khu V lúc này ta cũng xây dựng được hai trung đoàn bộ binh (1 và 2) và một số tiểu đoàn pháo binh, đặc công, đại đội thông tin, công binh...

Như vậy, vào năm 1964, trên chiến trường miền Nam, ta đã có hai khối chủ lực cơ động. Sự phát triển của bộ đội chủ lực gắn liền với việc xây dựng căn cứ địa làm chỗ đứng chân. Đến lúc này, một số căn cứ hậu phương tại chỗ trên chiến trường tiếp tục được củng cố, mở rộng... Căn cứ của Khu V được xây dựng ở miền tây các tỉnh đồng bằng Trung Bộ và Tây Nguyên; căn cứ của chiến trường Nam Bộ bao gồm các chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh), Chiến khu D (Sông Bé), Rừng Sát, Hắc Dịch. Miền Trung và Tây Nam Bộ có các căn cứ U Minh, Đồng Tháp... Toàn bộ các căn cứ này nối với nhau thành hệ thống liên hoàn.

Lợi dụng tình hình địch đang khủng hoảng nghiêm trọng, bọn ngụy quyền chóp bu và giới tướng lĩnh quân sự làm đảo chính lật đổ lẫn nhau, quân đội ngụy hoạt động cầm chừng, vùng nông thôn có phần bị bỏ lỏng; các đảng bộ miền Nam động viên nhân dân và các lực lượng vũ trang giải phóng nắm thời cơ, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, phá ấp chiến lược, làm chuyển biến cục diện chiến trường có lợi cho ta.

Tại miền Đông Nam Bộ, ngày cuối cùng của năm 1963 (31-12-1963), địch mở cuộc càn lớn mang tên Đại phong 35 với 13 tiểu đoàn đánh vào vùng căn cứ Bời Lời (Tây Ninh), Bến Cát (Thủ Dầu Một). Tiểu đoàn 32 biệt động thuộc sư đoàn 5 ngụy mệnh danh tiểu đoàn Cọp đen - một tiểu đoàn khét tiếng hung ác, chuyên lùng sục các căn cứ du kích, càn vào ấp Đường Long (xã Thanh Tuyền, huyện Bến Cát, Thủ Dầu Một) - nơi đứng chân của trung đoàn 2 chủ lực Miền (Q762). Ban chỉ huy trung đoàn quyết định triển khai ngay phương án tác chiến đã được chuẩn bị. Vì thế, sau ba giờ chiến đấu, trung đoàn 2 (thiếu 1 tiểu đoàn) diệt gọn tiểu đoàn 35 Cọp đen, bắt sống 57 tên, thu trên 100 súng.

Đây là trận đầu tiên bộ đội chủ lực Miền tiêu diệt gọn một tiểu đoàn địch, mở đầu thời kỳ đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn địch trên chiến trường miền Đông.

Sau chiến thắng này, tháng 2-1964, trung đoàn 2 lại phục kích diệt một đại đội địch tại Bình Mỹ (Thủ Dầu Một). Phát huy thắng lợi, trung đoàn liên tục tổ chức nhiều trận phục kích trên đường số 13, diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch trong các trận Cần Đâm, Lai Khê, Cây Dền...

Trên hướng Tây Ninh, Củ Chi, ngày 6-2-1964, trung đoàn 1 (Q761) được tăng cường một đại đội đặc công và một đại đội súng máy 12,7 ly, tiến công đồn Bến Cầu (Tây Ninh), loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bắn rơi 20 máy bay. Ngày 3-4-1964, Trung đoàn đánh vận động diệt một đại đội biệt kích địch ở Bàu Cói (bắc Bà Đen).

Trên địa bàn Trung Nam Bộ (Khu VIII), tháng 1-1964, địch mở cuộc hành quân mang tên Sóng thần 5 đánh vào vùng ven biển Thạnh Phú (tỉnh Bến Tre). Trong cuộc hành quân này, địch sử dụng bốn chiến đoàn thuỷ quân lục chiến (16 tiểu đoàn), một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 7 (đóng sẵn ở Thạnh Phú), sáu đại đội biệt kích (thuộc hai quận Mỏ Cày và Hàm Long), 60 máy bay, 14 tàu chiến, 19 giang thuyền, 26 xe M113, 12 khẩu pháo 105 ly và 155 ly. Đây là cuộc hành quân lớn nhất của địch kể từ sau cuộc phản kích thất bại của 10.000 lính thuỷ quân lục chiến nhằm dập tắt phong trào đồng khởi ở Bến Tre hồi tháng 3-1960. Chỉ huy cuộc hành quân này có các tướng Lê Văn Kim, Tổng tham mưu trưởng ngụy quân, tướng Lâm Văn Phát, Tư lệnh khu chiến thuật Tiền Giang.

Địch dùng chiến thuật Bủa lưới phóng lao để hình thành thế bao vây ta từ phía biển và đất liền; dùng hoả lực của pháo hạm, pháo mặt đất, máy bay đánh phá ác liệt hai xã Thạnh Phong và Giao Thạnh, nơi chúng nhận định có căn cứ, kho tàng tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc vào của Quân giải phóng.

Kiên quyết chặn đánh lực lượng tiến công của địch, tiểu đoàn 263 chủ lực Quân khu VIII (thành lập cuối 1963) phối hợp với một đại đội bộ đội địa phương Bến Tre, một trung đội bộ đội huyện Thạnh Phú, cùng lực lượng các trường huấn luyện tân binh, trường quân chính, trường y tá và hai trung đội bảo vệ căn cứ của Quân khu tổ chức chống càn. Trong hai ngày đầu, ta bắn rơi, bắn cháy 32 máy bay địch, chặn đứng bốn đợt đổ quân của chúng xuống Hồ cỏ. Sau 17 ngày giằng co quyết liệt và trước sức chặn đánh kiên quyết của ta, ngày 5-2-1964, địch buộc phải lui quân. 1.240 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, nhiều máy bay bị bắn rơi. Về phía ta, lực lượng được bảo toàn, kho vũ khí trên 300 tấn được giữ nguyên vẹn. Thắng lợi này tạo thêm niềm tin mới cho nhân dân Bến Tre cũng như nhân dân đồng bằng sông Cửu Long vào khả năng đánh bại các cuộc hành quân lớn của địch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:47:56 pm

Sau chiến thắng ở Thạnh Phú, tiểu đoàn 263 chuyển sang hoạt động ở Ba Tri. Tại đây, sáng 18-3-1964, tiểu đoàn cùng hai đại đội của tỉnh diệt gọn tiểu đoàn 2 tức tiểu đoàn Ó đỏ (trung đoàn 12, sư đoàn 9). Tháng 4-1964, tiểu đoàn 263 chuyển sang nhiệm vụ mở mảng ở Mỏ Cày. Đêm 8-4-1964, đại đội đặc công tỉnh Bến Tre diệt đồn bảo an ngã ba Cây Điệp, (có một trung đội bảo an đóng giữ), vây chặt đồn dân vệ xã An Thạnh, buộc địch phải đưa tiểu đoàn 1 (tiểu đoàn Ó vàng thuộc trung đoàn 12 sư đoàn 9 ngụy) đến chi viện giải toả. Ta tổ chức trận địa phục kích. 13 giờ ngày 9-4-1964, tiểu đoàn Ó vàng lọt vào trận địa phục kích của ta. Sau một giờ chiến đấu ác liệt, lực lượng vũ trang ta diệt gọn tiểu đoàn này, bắn cháy năm xe M113, bắn rơi ba máy bay trực thăng, một máy bay khu trục.

Trên hướng Mỹ Tho, Kiến Tường, từ tháng 4-1964, chủ lực Quân khu VIII cùng bộ đội tỉnh cũng liên tục tiến công địch. Đêm 20-7-1964, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Sở chỉ huy tiền phương Quân khu VIII, tiểu đoàn 261 (chủ lực Khu VIII), hai đại đội hỏa lực, (cối 82 và ĐKZ75), một đại đội đặc nhiệm của quân khu, bộ đội địa phương huyện Cái Bè và du kích các xã nam đường số 4 hợp đồng chặt chẽ, đánh chiếm chi khu Cái Bè, diệt tại chỗ trên 100 tên địch, phá hỏng hai khẩu pháo 105 ly, thu nhiều đạn dược, vũ khí quân trang, quân dụng.

Tại miền Tây Nam Bộ (Khu IX) đầu năm 1964, Quân khu IX xác định chiến trường trọng điểm là Cần Thơ, Sóc Trăng nên đã tăng cường một trung đoàn chủ lực cho chiến trường này, cùng với tiểu đoàn Tây Đô (của Cần Thơ) và Phú Lợi (của Sóc Trăng) kết hợp với bộ đội địa phương huyện và dân quân, du kích các xã, mở các đợt hoạt động nhằm đẩy mạnh phong trào phá ấp chiến lược ở hai huyện Long Mỹ (Cần Thơ), Mỹ Xuyên (Sóc Trăng).

Tháng 4-1964, lực lượng vũ trang quân khu mở đợt tiến công chi khu quân sự Vĩnh Thuận. Đây là một chi khu nằm sát rừng U Minh, cách chi khu Thới Bình 20 km theo hướng kênh Xáng Chắc Băng do 300 lính bảo an canh giữ, bên cạnh là một trung đội pháo với hai khẩu 105 ly. Tham gia trận đánh chi khu Vĩnh Thuận có trung đoàn 96 (với hai tiểu đoàn T70 và T80) tiểu đoàn 306 và 309 cùng bộ đội địa phương Vĩnh Thuận, Thới Bình, du kích các xã Vĩnh Phong, Tân Phú, Trí Phải.

24 giờ ngày 4-4-1964, cuộc tiến công vào chi khu Vĩnh Thuận bắt đầu. Sau 30 phút chiến đấu, ta chiếm dinh quận trưởng, chi công an, trận địa pháo 105 ly, cơ quan hành chính, một đồn dân vệ, trụ sở tề xã Vĩnh Thuận, diệt đồn kênh 14, đánh thiệt hại nặng căn cứ bảo an quận, diệt 100 tên, trong đó có tên quận trưởng, hai cố vấn Mỹ, phá huỷ hai khẩu pháo. Hôm sau, địch từ trung tâm huấn luyện huyện Sử đến tiếp viện. Tiểu đoàn 306, 309 phục kích tại Danh Hạt, đánh diệt tiểu đoàn 4 ngụy thuộc Trung tâm huấn luyện biệt kích huyện Sử.

Bị thất bại nặng ở Vĩnh Thuận, và Danh Hạt, địch điều lữ nhảy dù từ Cần Thơ đổ quân xuống kênh 3, kênh 13, 14 để cứu viện. 0h30 ngày 7-4-1964, bộ đội ta áp sát nơi đồn trú của quân nhảy dù, dùng thủ pháo, tiểu liên tập kích địch. Đến 5h30, trận đánh kết thúc, ta diệt hàng trăm lính nhảy dù. Chi khu Vĩnh Thuận bị bộ đội ta đánh thiệt hại nặng, một tiểu đoàn địa phương địch bị diệt, hai tiểu đoàn nhảy dù bị đánh thiệt hại, hai khẩu pháo bị phá hỏng, ta còn thu nhiều chiến lợi phẩm khác.

Chiến thắng Vĩnh Thuận giáng cho địch một đòn đau, mở ra khả năng đánh tiêu diệt chi khu, đánh quân viện, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng.

Trên địa bàn Khu V (bao gồm cả Tây Nguyên và Trị Thiên), từ 23-4 đến 22-5-1964, lực lượng vũ trang quân khu đánh bại cuộc hành quân càn quét của 10 tiểu đoàn địch vào căn cứ Đỗ Xá (Quảng Ngãi). Tháng 7-1964, toàn quân khu mở đợt hoạt động hè- thu. Mở đầu đợt hoạt động, ngày 1-7-1964, trên đường số 19 (Gia Lai), tiểu đoàn 303 súng máy cao xạ và tiểu đoàn 200 pháo cối thuộc lực lượng vũ trang Tây Nguyên, tiến công trung tâm huấn luyện biệt kích Plây Cơrong (Kon Tum). Đây là một trung tâm huấn luyện biệt kích lớn do 12 cố vấn Mỹ chỉ huy. Thời tiết Tây Nguyên đã vào mùa mưa, bộ đội, dân công phải tìm chặt những tàu lá chuối rừng che cho hàng và súng đạn, gian nan, vất vả, nhưng tất cả đều không nản chí, họ lao vào cuộc chiến quyết liệt suốt ba giờ, tiêu diệt bốn đại đội biệt kích, chín cố vấn Mỹ, thu 200 súng các loại. Chiến thắng Plây Cơrong được Bộ Chỉ huy Quân giải phóng tặng thưởng huân chương quân công hạng ba. Đây là tấm huân chương đầu tiên của lực lượng vũ trang Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ.

Ngày 6-7-1964, chủ lực phân khu Bắc (Trị Thiên) tiến công trung tâm huấn luyện biệt kích Nam Đông (Thừa Thiên), diệt ba đại đội.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:48:27 pm

Ở vùng đồng bằng, ngày 9-8-1964, tiểu đoàn 90 trung đoàn 1 (chủ lực quân khu) phối hợp với bộ đội địa phương Tam Kỳ (Quảng Nam) tiến công ấp chiến lược Kỳ Sanh và đánh quân viện. Vào thời điểm này trang bị vũ khí và phương tiện chiến đấu của bộ đội thiếu thốn mọi bề. Bộ đội không có xẻng đào công sự, làm thế nào bảo toàn được lực lượng lúc chuẩn bị trận địa tiến công trong khi địch phòng ngự chặt? Ban chỉ huy trung đoàn 1 và tiểu đoàn 90 rất lo lắng. Giữa lúc đó đồng chí Chu Huy Mân, Tư lệnh quân khu, xuống kiểm tra, động viên đơn vị trước khi xuất kích. Biết đơn vị đang gặp khó khăn, đồng chí Tư lệnh tìm một khúc gỗ đẽo nhọn, đứng trước hàng quân, sau khi giao nhiệm vụ và nhắc nhở nhưng việc cần làm, rồi trao cho tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 90 khúc gỗ vạt nhọn và nói: chúng ta không chờ đủ trang bị mới đánh giặc cách mạng còn khó khăn, phải dám nghĩ, dám làm, biết khắc phục khó khăn, bằng khúc gỗ này cộng với quyết tâm của người chiến sĩ cách mạng, nó sẽ trở thành chiếc xẻng tốt để làm nên chiến thắng... Đồng chí tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 90 xúc động nhận khúc gỗ từ tay Tư lệnh, phát động toàn đơn vị tìm gỗ tốt vạt nhọn làm xẻng đào công sự. Sáng kiến tuy nhỏ mà ý nghĩa lớn. Nhờ có chiếc xẻng gỗ, bộ đội đào được công sự chiến đấu, vừa bảo vệ được mình vừa tổ chức được trận địa vững chắc, đánh diệt một đại đội địch, tiêu hao nặng một tiểu đoàn, phá huỷ 10 xe cơ giới, có 6 xe M113. Với trận Kỳ Sanh, lần đầu tiên trên chiến trường Khu V, ta đánh bại chiến thuật thiết xa vận của địch. Đây là trận đánh thể hiện quyết tâm cao, tinh thần khắc phục gian khổ, khó khăn, tính sáng tạo của bộ đội Khu V. Kết hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực lực lượng đặc công và biệt động tổ chức nhiều trận đánh sâu vào sào huyệt địch, tiêu diệt sinh lực cao cấp của chúng như cố vấn, lực lượng yểm trợ Mỹ, kho xăng, sân bay... Ngày 2-1-1964, bộ đội đặc công tiến công khu nhà ở của đoàn cố vấn Mỹ ở thị xã Kon Tum, diệt nhiều tên địch.

Ngày 9-1-1964, hai chiến sĩ của đội biệt động 67 (Sài Gòn- Gia Định) dùng mìn đánh nhà hàng Bambu ở khu vực Lăng Cha Cả gần sân bay Tân Sơn Nhất, giết và làm bị thương 15 tên Mỹ. Đúng một tháng sau, ngày 9-2-1964, tại sân dạ cầu Tân Sơn Nhất (nằm ở góc đường Ngô Đình Khôi- Võ Tánh), các chiến sĩ biệt động 67 lại đánh một trận xuất sắc, diệt 59 sĩ quan Mỹ, trong đó có cả các sĩ quan cấp tá. Ngày 16-12-1964, đội biệt động 159 (Sài Gòn- Gia Định) tổ chức đánh mìn rạp chiếu bóng Kinh Đô- rạp dành riêng cho sĩ quan Mỹ- diệt và làm bị thương 150 tên. Chiều 30-4-1964, được tin chiến hạm Mỹ (tàu Card) trọng tải 16.500 tấn chở vũ khí và phương tiện chiến tranh vừa cập bến Sài Gòn, đội biệt động 65 (Sài Gòn- Gia Định) quyết định đánh tàu ngay tức khắc. Trước đây, vào cuối năm 1963, đội được giao nhiệm vụ nghiên cứu tổ chức những trận đánh ở cảng Sài Gòn, một cảng lớn nằm ở phía tây thành phố, trên sông Sài Gòn mà Mỹ đã đổ ra nhiều tiền của xây dựng thành nơi tiếp tế hậu cần, vũ khí và phương tiện chiến tranh cho ngụy, được bảo vệ khá cẩn mật. Mỗi lần tàu chở hàng quân sự của Mỹ cập bến, tàu hải quân của ngụy phải chốt chặn hai đầu cảng, tàu nhỏ tuần tiễu cảnh giới trên sông. Ngoài ra, địch còn cho nhiều mật vụ, cảnh sát chìm trà trộn trong công nhân cảng và nhân dân bên kia bờ Thủ Thiêm để phát hiện các hoạt động phá hoại của ta. Vì vậy, việc tiếp cận tàu Mỹ rất khó. Lâm Sơn Náo vốn là công nhân làm việc hợp pháp tại cảng, được giác ngộ, trở thành đội viên đội biệt động 65. Cha anh là một công nhân già từng nhiều năm làm thợ hồ ở cảng. Ông nắm chắc hệ thống đường hầm, cống ngầm trong cảng. Chính ông chỉ vẽ cho Náo đường cống ngầm dẫn đến khu vực tàu Mỹ thường đỗ. Dựa vào đó, ngày29-12-1963, chính Náo tổ chức trận đánh tàu US Core. Song trận đánh không thành vì nguồn điện yếu không đủ sức điểm hoả. Rút kinh nghiệm, lần này Náo cẩn thận hơn.

Đêm 1-5-1964, Lâm Sơn Náo cùng Nguyễn Phú Hùng đưa khối thuốc nổ nặng 80kg xuống thuyền xuôi theo sông Sài Gòn đến vị trí tàu đỗ. Địch phát hiện, chúng bật đèn pha rọi sáng và đuổi theo. Nhanh trí, Náo giả làm người đi buôn hàng lậu rồi dúi cho bọn địch một ít tiền. Chúng cho đi. Hai anh chèo thuyền qua sông rồi chui vào đường cống rộng khoảng 2,5 m. Đi được 300 m thì nước cạn, Náo và Hùng rời thuyền vác thuốc nổ đi về phía chiếc tàu Mỹ đang đậu. Hai khối thuốc nổ, mỗi khối 40 kg được các anh đặt cách nhau 10m áp chặt vào thành tàu. Sáng 2-5-1964, một tiếng nổ dữ dội vang lên từ cảng Sài Gòn. Tàu Card bị nhấn chìm kéo theo 21 máy bay lên thẳng HU1A, hai máy bay trinh sát L19 và một máy bay khu trục AD26, 55 tên Mỹ chết và bị thương. Đây là một trong những chiến công xuất sắc nhất của biệt động Sài Gòn trong những năm đánh Mỹ. Sau trận đánh, đội biệt động 65 được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng nhì, Lâm Sơn Náo được tặng Huân chương Quân công hạng ba, Nguyễn Phú Hùng được tặng Huân chương Chiến công hạng ba.

Cùng với trận đánh vang dội trên đây, tại cầu Công Lý, một trận đánh khác nhằm diệt Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara khi ông ta từ sân bay Tân Sơn Nhất về dinh Độc Lập cũng được xúc tiến. Trận đánh do Nguyễn Văn Trỗi, chiến sĩ đội biệt động 65 thực hiện, nhưng kế hoạch bị bại lộ, anh bị bắt trước khi xe Mắc Namara chạy qua. Trận đánh không thành nhưng nó đã làm cho tướng tá Mỹ hoang mang, làm chấn động dư luận. Nhân dân tiến bộ nhiều nước châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ Latinh lên tiếng phản đối Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đòi thả Nguyễn Văn Trỗi. Du kích Vênêduyêla đã bắt tên trung tá Mỹ ở thủ đô Caracát đòi đổi mạng cho anh Trỗi. Sự kiện này thể hiện tình đoàn kết chiến đấu và sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới với cuộc chiến đấu chính nghĩa của Việt Nam. Ở Sài Gòn, một mặt địch tăng cường đối phó, mặt khác, chúng tuyên truyền lừa bịp dư luận bằng cách tuyên bố sẽ bảo toàn tính mạng cho Nguyễn Văn Trỗi nếu du kích Vênêduyêla thả tên trung tá Mỹ. Sau đó chúng lật lọng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:48:52 pm

Trong khi Mỹ, ngụy đang lo đối phó với sự kiện Nguyễn Văn Trỗi đặt mìn ở cầu Công Lý, thì ngày 25-8-1964, hai chiến sĩ biệt động Sài Gòn Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê) và Nguyễn Thị Minh Nguyệt trong vai phụ tá tình báo Mỹ và nhân tình của đại tá cố vấn, đưa khối thuốc nổ vào đánh khách sạn Caraven, nơi dành riêng cho sĩ quan Mỹ và chư hầu. Đúng 11 giờ, giờ cao điểm các sĩ quan tập trung ở khách sạn, khối thuốc hẹn giờ nổ tung, trên 100 tên Mỹ chết và bị thương.

Cùng với những trận đánh của lực lượng biệt động, đặc công, tại các thành phố lớn, thị xã, thị trấn và nhiều vùng nông thôn, phong trào đấu tranh chính trị phát triển ngày càng mạnh mẽ. Ở Sài Gòn, từ đầu 1964, phong trào đấu tranh của công nhân ngành dệt, trong đó nổi bật là hai hãng Vimytex và Vinatexco diễn ra sôi nổi. Tại hãng Vinatexco, sau khi đưa yêu sách đòi tăng 30% lương, cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện đời sống bị chủ hãng phớt lờ, ngày 14-1-1964, 2.000 nam, nữ công nhân đình công, biểu tình chiếm hãng. Sáng 17-1, chính quyền Sài Gòn đưa hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ cùng hàng trăm cảnh sát đến đàn áp làm một số người chết, 200 người khác bị thương. Chúng còn bắt đi một số đại diện công nhân. Hành động này gây làn sóng căm phẫn trong công nhân, nhân dân lao động toàn thành phố. Ngay lập tức, hơn 20 nghiệp đoàn với trên hai vạn công nhân ngành dệt, 7.000 công nhân khuân vác ở bến tàu, 6.000 công nhân đường sắt, 2.000 công nhân lái xe và hàng vạn công nhân cao su ở Tây Ninh, Thủ Dầu Một mít tinh, biểu tình, ra kiến nghị ủng hộ. Trước sức mạnh đoàn kết đấu tranh của công nhân, lại được đòn quân sự hỗ trợ, địch buộc phải trả tự do cho những người bị bắt, chấp nhận giải quyết các yêu sách của công nhân.

Ba tháng sau cuộc đấu tranh của hãng Vinatexco, ngày 17-4, phong trào lại bùng lên ở hãng Vimytex khi chủ hãng sa thải 151 công nhân. Ngày 10-5, ngụy quyền đưa lực lượng bảo an và lính nhảy dù đến đàn áp làm hơn 100 công nhân bị thương. Cuộc đấu tranh càng thêm quyết liệt, lôi cuốn các nghiệp đoàn khác tham gia, kéo dài đến tháng 7-1964.

Lo sợ trước phong trào đấu tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động, ngày 16-7, Nguyễn Khánh ra sắc luật cấm biểu tình, đình công, hội họp. Thế nhưng, ngày 21-7-1964, một cuộc tổng đình công lớn lại được tổ chức phản đối sắc luật trên, ủng hộ công nhân Vimytex. Hai mươi vạn công nhân các ngành dệt, điện nước, xăng dầu, xích lô, tắc xi, xe buýt... của Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn nghỉ việc, rầm rộ xuống đường biểu tình đòi huỷ bỏ sắc luật đòi tự do dân chủ, tự do nghiệp đoàn, đòi Mỹ cút về nước... Cuộc tổng đình công làm cho các hoạt động công cộng trong thành phố hầu như tê liệt. Suốt thời gian đó, Sài Gòn không điện nước, giao thông ngừng trệ, nhiều nhà hàng đóng cửa, đường dây liên lạc giữa Sài Gòn và nước ngoài bị gián đoạn...

Trước sức phản kháng của công nhân, Nguyễn Khánh phải tuyên bố huỷ bỏ sắc luật cấm biểu tình vừa ban bố, hứa giải quyết các yêu sách của công nhân, buộc chủ hãng phải thu nạp lại số công nhân đã bị sa thải trước đó.

Cuộc đấu tranh của công nhân hãng Vimytex vừa lắng xuống, thì ngày 17-8-1964, chính quyền Sài Gòn công bố bản Hiến chương Vũng Tàu kèm theo cuộc trưng cầu dân ý về việc Khánh lên làm quốc trưởng. Đây là bản hiến chương do Mỹ- Khánh thoả thuận ngày 16-8 tại Vũng Tàu nhằm mở đường cho Mỹ can thiệp mạnh mẽ vào miền Nam, ngăn chặn mọi cuộc chống đối của nhân dân. Vì vậy, hiến chương vừa công bố, lập tức ngay ngày hôm sau (18-8-1964), các cuộc biểu tình phản đối của quần chúng nhân dân đã nổ ra không chỉ ở Sài Gòn mà ở hầu khắp các đô thị lớn ở miền Nam.

Từ 18 đến 22-8-1964, học sinh, sinh viên tổ chức cuộc hội thảo lớn lên án Mỹ- Khánh, đòi huỷ bỏ Hiến chương Vũng Tàu, mở đầu cho cuộc xuống đường đấu tranh chống Hiến chương ở các đô thị. Trong cuộc đấu tranh đó, hàng vạn người kéo đến Bộ Thông tin đập phá đài phát thanh, bao vây dinh Độc Lập phản đối chế độ độc tài quân sự, đòi Nguyễn Khánh từ chức, đòi Mỹ cút khỏi miền Nam... Địch đàn áp làm chết và bị thương nhiều đồng bào và bắt đi 1.400 người khác. Hành động đó như lửa đổ thêm dầu, khiến quần chúng càng thêm căm phẫn.

Ở Huế, Đà Nẵng, từ 21-8-1964, đông đảo học sinh, sinh viên xuống đường biểu tình phản đối Mỹ- Khánh ký Hiến chương Vũng Tàu, đả đảo bọn “cõng rắn cắn gà nhà”, “bán thành phố Đà Nẵng cho Mỹ làm căn cứ”… Các cuộc biểu tình của học sinh, sinh viên lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia, tạo ra áp lực nặng nề đối với địch.

Trước tình hình đó, ngày 25-8-1964, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Oanh và Quốc vụ khanh Nghiêm Xuân Hồng buộc phải ra tuyên cáo của Hội đồng quân sự đồng ý rút bỏ Hiến chương Vũng Tàu hòng xoa dịu sự phẫn nộ của nhân dân. Phong trào đấu tranh chính trị không vì thế mà lắng xuống. Trong tháng 9-1964, tại thị xã Quảng Ngãi, hơn hai vạn nhân dân các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Bình Sơn, Sơn Tịnh, kéo vào bao vây các cơ quan ngụy quyền tỉnh, phản đối chế độ độc tài quân sự, đòi chấm dứt bắt lính, đòi Mỹ phải chấm dứt can thiệp vào miền Nam Việt Nam. Ngày 20-9, học sinh thị xã Qui Nhơn bao vây đài phát thanh. Ba ngày sau, ngày 23-9, 5.000 dân huyện Tuy Phước đi trên 100 chiếc ghe và xuồng gắn máy cùng hàng chục ôtô theo hai đường thuỷ, bộ kéo vào thị xã đấu tranh đòi Mỹ rút khỏi miền Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:49:31 pm

Phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân cùng với những trận đánh táo bạo của đặc công và biệt động ở vùng đô thị làm tình hình chính trị của ngụy quyền Sài Gòn vốn không ổn định, càng rối ren, hậu phương địch mất an ninh. Tại nông thôn đồng bằng, với sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực, các lực lượng vũ trang địa phương, nhân dân nổi dậy phá tan từng mảng hệ thống ấp chiến lược, giành quyền làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau.

Long An là một trong những trọng điểm bình định của địch. Từ đầu 1964, Tỉnh uỷ phát động cao trào tiến công và nổi dậy, lấy Đức Hoà, Bến Lức (bắc đường số 4) làm chiến trường điểm, nam đường số 4 làm diện, nhằm đánh bại kế hoạch bình định trọng điểm của địch trên địa bàn tỉnh. Sư đoàn 25 ngụy vừa được điều từ Quảng Ngãi vào là đối tượng chính của cuộc tiến công. Thể hiện quyết tâm của Tỉnh uỷ, tiểu đoàn 1 chủ lực tỉnh bẻ gẫy nhiều cuộc càn lớn của địch, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, trong đó nổi bật nhất là trận chống càn ngày 8-4-1964 ở xã Thạnh Lợi huyện Thủ Thừa. Trong trận này, tiểu đoàn 1 phối hợp chiến đấu chặt chẽ với lực lượng dân quân, du kích và nhân dân tiến công quân sự kết họp với đấu tranh chính trị và binh vận loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên, buộc tiểu đoàn 51 biệt động quân phải rút khỏi Thạnh Lợi, bắn rơi sáu máy bay. Đây là trận đầu tiên lực lượng vũ trang tỉnh hạ được nhiều máy bay nhất, cũng là trận chống càn lớn đầu tiên diệt được nhiều địch mà ta ít thương vong.

Tính đến tháng 8-1964, trên toàn tỉnh, ta diệt và bức rút 60 đồn bốt, giải tán 2000 thanh niên chiến đấu. Hệ thống ấp chiến lược của địch bị phá rã chỉ còn một số ấp sát thị trấn, thị xã. Vùng giải phóng mở ra liên hoàn trong 23 xã. Quốc sách ấp chiến lược của địch cơ bản bị thất bại ở Long An.

Tại Kiến Tường, cuối 1963, đầu 1964, lợi dụng thời cơ Diệm đổ, chính quyền địch đang trong cơn khủng hoảng, ta đẩy mạnh hoạt động, giải phóng toàn bộ vùng 4 và hầu hết vùng 6 cùng bốn xã vùng 8 (Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Vĩnh Đại, Hưng Điền)1.

Trên địa bàn Thủ Dầu Một, tháng 4-1964, đại đội 303 Phước Thành kết hợp với bộ đội địa phương Phú Giáo, Tân Uyên và du kích tiến công tiêu diệt bốt Tân Bình, Nhà Đỏ, giải phóng hoàn toàn xã Tân Bình. Ở Phước Long, tiểu đoàn 240 khu 10 cùng bộ đội Phước Long tiến công chi khu Bù Đăng, tiêu diệt toàn bộ quân địch tại đây và san bằng đồn bốt.

Ở Bà Rịa- Long Khánh, từ 3-1964, phong trào phá ấp chiến lược phát triển mạnh. Ta giải phóng Bình Lộc, Bảo Chánh, Bảo Vinh, Suối Cát; mở rộng vùng giải phóng ra vùng lộ 2, Châu Thành, Long Đất.

Tỉnh Biên Hoà, các đơn vị của tỉnh (đại đội 240, 245, và đại đội công binh) tiến công diệt tua Đầm Giá, đồn Đại An, đồn Cá Trê,... tạo đà cho phong trào chống địch gom dân, lập ấp chiến lược của tỉnh phát triển.

Cần Thơ, bộ đội tỉnh cùng bộ đội huyện Phụng Hiệp diệt bốn đồn, phá banh hệ thống ấp chiến lược ở vùng giáp ranh ba huyện Châu Thành, Phụng Hiệp, Kế Sách.

Tỉnh Sóc Trăng, tiểu đoàn Phú Lợi hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá dứt điểm 93 ấp chiến lược, phá banh 91 ấp, giải phóng 12 xã với 136.000 dân.

Tỉnh Trà Vinh, phá dứt điểm 298 ấp chiến lược, phá banh 186 ấp, gỡ 198 đồn, giải phóng trên 130.000 dân.

Mùa hè 1964, chiến tranh nhân dân địa phương ở Bến Tre phát triển đến đỉnh cao. Tỉnh phát động toàn dân nổi dậy đấu tranh chính trị hỗ trợ cho tiến công quân sự. Tiểu đoàn 516 của tỉnh được thành lập (15-4-1964) trên cơ sở ba đại đội bộ binh và đại đội trợ chiến được xây dựng trước đây với quân số 1.300 người. Tháng 5-1964, đại đội 1 và 2 của tiểu đoàn 516 đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn biệt động 41 (tiểu đoàn Cọp đen). Đại đội 3 tập kích một trung đội địch đóng đồn ở khu phố An Hoá (Châu Thành), diệt nhiều tên, hỗ trợ cho phong trào phá ấp chiến lược.

Vĩnh Long, Trà Vinh, cao trào phá ấp chiến lược phát triển mạnh, rộng khắp. Ta làm chủ nhiều vùng rộng lớn, liên hoàn từ ven biển, cặp theo các tuyến sông Tiền, sông Hậu, sông Mang Thít.

Cà Mau- Bạc Liêu, ta giải phóng hầu hết các ấp chiến lược, chỉ còn 14 ấp vùng sâu trong tổng số 405 ấp do địch kiểm soát. Chính quyền nhân dân tự quản được thiết lập ở hàng chục xã.

Cùng thời gian này, trên địa bàn Khu V, chiến tranh du kích phát triển rộng khắp cả ở đồng bằng và rừng núi. Ở đồng bằng, du kích cùng nhân dân nổi dậy phá cầu, phá đường bao vây đồn địch. Du kích Quảng Nam liên tiếp chặn đánh nhiều đoàn xe quân sự địch trên đèo Hải Vân. Du kích Tuy Hoà (Phú Yên) mưu trí, táo bạo bắt sống một cố vấn Mỹ giữa ban ngày... Được sự hỗ trợ của đòn tiến công quân sự, ở nhiều địa phương, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân phát triển mạnh mẽ. Trong cuộc đấu tranh đó, xuất hiện những người như mẹ Lê Thị Kinh, 75 tuổi, ở Hoà Đồng (Tuy Hoà) nằm cản đoàn xe bọc thép địch, buộc cả đoàn bảy chiếc M113 phải quay về Tuy Hoà.
____________________________________
1. Kiến Tường là tỉnh được Diệm lập ra từ 1957 khi chúng nhập hai tỉnh Chợ Lớn và Tân An thành tỉnh Long An; huyện Mộc Hoá được chúng tách thành tỉnh Kiến Tường với bốn quận. Ta gọi là bốn vùng (vùng 2, 4, 6, 8 ). Kiến Tường nay thuộc Long An.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:49:57 pm

Hoà với phong trào đấu tranh ở đồng bằng, tại các vùng rừng núi Tây Nguyên, đồng bào kinh, thượng bị địch dồn vào các khu dinh điền, ấp chiến lược nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải phóng hàng chục khu dinh điền và ấp chiến lược.

Đến hết tháng 7-1964, quân, dân Khu V đã phá 1.080 ấp chiến lược ở đồng bằng và hàng trăm ấp chiến lược ở rừng núi, giải phóng nhiều vùng nông thôn. Những vùng này nối liền các căn cứ rừng núi với đồng bằng ven biển, tạo thành thế liên hoàn, hỗ trợ cho nhau.

Thắng lợi của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam trong nửa đầu 1964 làm thất bại một bước kế hoạch Giônxơn- Mắc Namara. Chương trình bình định 12 tỉnh của Mỹ, ngụy đề ra lúc đầu chúng không thực hiện được phải rút chỉ tiêu xuống còn bốn tỉnh để cuối cùng, trên thực tế chỉ còn bình định được mấy quận thuộc các tỉnh ven Sài Gòn như Biên Hoà, Hậu Nghĩa, Long An.

Chương trình bình định của Mỹ, xương sống của cuộc chiến tranh đặc biệt, về cơ bản bị thất bại trên nhiều bình diện, trong đó kế hoạch Giônxơn- Mắc Namara bị đổ vỡ đã làm cho tình hình chính trị, quân sự vào những tháng cuối năm 1964 có bước chuyển biến mới có lợi cho cách mạng. Lực lượng chính trị, quân sự của ta phát triển lớn mạnh hơn trước, đặc biệt là khối chủ lực cơ động đã đủ sức tạo ra những quả đấm hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.

Càng bị thua đau ở miền Nam, Mỹ càng tăng cường chống phá miền Bắc. Ngày 17-2-1964, các hoạt động trinh sát bằng không quân trong khuôn khổ kế hoạch 34A, nhằm thu thập tin tức tình báo, phát hiện hệ thống phòng không, rađa và căn cứ quân sự, kho tàng trên miền Bắc được tăng cường. Ngày 2-3-1964, Mỹ dùng tàu khu trục tuần tiễu ven biển miền Bắc Việt Nam trong kế hoạch Đềsôtô để làm hậu thuẫn cho hải quân ngụy đánh phá các đảo và vùng dân cư ven biển các tỉnh Khu IV. Ngày 17-4-1964, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ đưa ra kế hoạch đánh phá các tuyến vận chuyển chiến lược của ta chạy dọc biên giới Việt Nam- Lào, Việt Nam- Campuchia nhằm ngăn chặn sự chi viện từ Bắc vào Nam. Kế hoạch này được mang tên Ốplan 37 dự định thực hiện qua ba giai đoạn:

Giai đoạn 1: Truy kích Việt cộng qua biên giới Lào và Campuchia.

Giai đoạn 2: Mở các cuộc oanh kích và dùng mìn đánh phá các mục tiêu đã dự định trong nội địa miền Bắc.

Giai đoạn 3: Tăng cường oanh tạc mạnh mẽ và liên tục chống miền Bắc.

Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ thông qua kế hoạch dùng không quân, hải quân đánh phá 94 mục tiêu trên miền Bắc của ta. Dự tính kế hoạch phải hoàn thành trong 12 ngày với sự tham gia của toàn bộ lực lượng không quân Mỹ ở Thái Bình Dương.

Thực hiện kế hoạch trên đây, tháng 6-1964, địch tung biệt kích, người nhái ra miền Bắc, đánh phá Cầu Hang ở Thanh Hoá (12-6), tập kích Nhà máy nước Bàu Trò ở Quảng Bình (30-6), biệt kích nhảy dù xuống vùng núi Yên Bái (17-6), Quỳ Châu, thuộc Nghệ An (19-7). Đồng thời với hành động nói trên, Mỹ đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch 34A, dùng các tàu khu trục thuộc hạm đội 7 tuần tiễu, khiêu khích trong vùng Vịnh Bắc Bộ.

Đêm 30 rạng ngày 31-7-1964, lực lượng biệt kích của hải quân Sài Gòn, dưới sự chỉ huy của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn (MACV), bất ngờ bắn phá vào đảo Hòn Mê (Thanh Hoá) và Hòn Ngư (Nghệ An). Trong khi đang diễn ra cuộc bắn phá, tàu khu trục Mađốc của Mỹ được lệnh tiến vào Vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ tuần tiễu thu thập tin tức tình báo về các trạm rađa và trận địa phòng thủ bờ biển của ta, yểm trợ cho hải quân. Tháng 8-1964, đại sứ Mỹ Taylo điện về Oasinhtơn gợi ý một cuộc “ném bom phối hợp cẩn thận” đối với Bắc Việt Nam để ngăn chặn sự sụp đổ của vị trí Mỹ ở Đông Nam Á. Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ đề nghị tổng thống nên có “một chiến dịch khiêu khích Bắc Việt Nam”. Với ý đồ trên, trong hai ngày 1 và 2-8-1964, các máy bay T28 của phái hữu Lào được Mỹ sử dụng bắn phá các đồn biên phòng Nậm Cắn và Noọng De ở Nghệ An. Ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, tàu Mađốc tiếp tục tiến về phía bắc, xâm phạm hải phận của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, và gây ra một số vụ khiêu khích đối với thuyền đánh cá của ngư dân miền Bắc. Trước hành động ngang ngược đó, ngày 2-8-1964, một phân đội tàu phóng lôi của hải quân ta do chỉ huy trưởng Lê Duy Khoái chỉ huy đã phóng ngư lôi truy đuổi tàu Mađốc, buộc tàu này phải rút ra khỏi vùng biển quốc tế.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:51:02 pm

Sự kiện ngày 2-8 được các nhà chính trị, quân sự nước Mỹ lợi dụng, thổi phồng lên gây một tác động tâm lý trong công chúng Mỹ. Ngày 3-8, Tổng thống Mỹ Giônxơn phái thêm tàu khu trục C.Tơnnơ Gioa cùng với chiếc Mađốc trở lại Vịnh Bắc Bộ. Ngày 4-8, vùng biển Việt Nam ngoài khơi có bão lớn, trời tối đen như mực, phân đội tàu phóng lôi 12 chiếc của hải quân Việt Nam đã vào neo đậu trong căn cứ. Tuy vậy, theo kế hoạch đã sắp đặt trước, tàu chiến Mỹ vẫn phát tín hiệu là bị tiến công. Trong cuộc họp chiều 4-8-1964, L. Giônxơn ra lệnh cho không quân Mỹ mở cuộc tiến công “trả đũa” và yêu cầu Quốc hội ra nghị quyết trao quyền cho Tổng thống sử dụng lực lượng vũ trang đối phó với “cuộc khủng hoảng lớn” ở Việt Nam. Không chờ Quốc hội cho phép, Giônxơn ra lệnh triển khai lực lượng không quân đánh miền Bắc, chuẩn bị sẵn sàng mở rộng thành cuộc chiến tranh không quân chống Việt Nam với quy mô ngày càng lớn, đồng thời, đặt các đơn vị lính thuỷ đánh bộ và lục quân Mỹ vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, nhằm phòng ngừa bất cứ sự trả đũa nào của Hà Nội và Trung Quốc.

Ngay trong ngày 4-8, khi Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đang làm rùm beng “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, thiếu tướng hải quân Herích, chỉ huy cuộc tuần tra, điện về Lầu Năm Góc bức điện quan trọng: “Việc xem xét lại hành động cho thấy rằng các tiếp xúc ghi được về các ngư lôi đã được bắn tỏ ra đáng nghi ngờ. Đề nghị đánh giá đầy đủ trước khi có hành động tiếp theo”1. Trong báo cáo của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương hôm đó cũng có nhận định rằng: “Vẫn còn mơ hồ, không biết một cuộc tiến công vào các tàu khu trục (Mỹ) đã thực sự xảy ra hay chưa?”2. Mặc dù vậy Oasinhtơn vẫn phát động một cuộc tiến công miền Bắc gọi là những phản ứng “có giới hạn và thích hợp” của Mỹ. Sự kiện ngày 4-8-1964 chỉ là sự bịa đặt của Hoa Kỳ để lấy cớ mở rộng cuộc chiến tranh không quân, hải quân, đánh phá miền Bắc và đưa quân viễn chình Mỹ vào miền Nam Việt Nam, trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược.

Ngày 5-8-1964, Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, thì hai ngày sau (7-8 ), Quốc hội Mỹ chính thức thông qua nghị quyết sai trái về sự kiện Vịnh Bắc Bộ với đa số phiếu áp đảo. Thượng viện và Hạ viện Mỹ quyết định rằng “Quốc hội tán thành và ủng hộ quyết tâm của Tổng thống, với tư cách tổng tư lệnh, sẽ tiến hành mọi biện pháp đẩy lùi bất cứ một cuộc tiến công vũ trang nào vào những lực lượng của Mỹ, ngăn ngừa những cuộc tiến công khác nữa”3. Quốc hội Mỹ cho phép Tổng thống “tiến hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc sử dụng lực lượng vũ trang, để giúp đỡ bất kỳ quốc gia nào là thành viên hoặc nước bảo trợ của hiệp ước phòng thủ chung Đông Nam Á yêu cầu giúp đỡ bảo vệ nền tự do của mình”4.

Với những nội dung chủ yếu nói trên, nghị quyết Vịnh Bắc Bộ về thực chất, là một “Bản tuyên chiến đề trước ngày” mà Quốc hội Mỹ giao cho Tổng thống Giônxơn.

Như vậy, trong khoảng thời gian ba ngày sau khi dựng nên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, chính quyền Mỹ “đặt được vào vị trí vững chắc hai điểm chủ chốt trong chương trình chi tiết 23-5, tức là bố trí trước các lực lượng oanh kích lớn và tranh thủ được Quốc hội cho phép được hành động rộng lớn hơn”5. L. Giônxơn giành được đặc quyền sử dụng lực lượng Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

12 giơ 30 phút ngày 5-8-1964, không quân Mỹ mở cuộc tiến công bằng bom đầu tiên xuống miền Bắc Việt Nam được gọi là “mũi tên xuyên”.

Nhờ chuẩn bị từ trước với tinh thần cảnh giác cao, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta không bị bất ngờ. Mạng rađa cảnh giới của ta kịp thời phát hiện các tốp máy bay địch trên từng hướng và thông báo cho các đơn vị phòng không pháo cao xạ, hải quân và dân quân, tự vệ sẵn sàng đánh trả.
____________________________________
1. Dẫn theo Giôdép Amto: Lời phán quyết từ Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr.88.
2. Báo cáo trực tiếp của Đô đốc Sáp (Sharp) cho Mắc Namara ngày 4-8-1964. Dẫn theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tldd, t1, tr.237. Cũng theo tài liệu này, tại cuộc họp báo ở Oasinhtơn ngày 5-8-1964, Mắc Namara cho biết: Vào lúc đó, Mỹ đã tăng cường lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, bao gồm: “thứ nhất là một đội tàu chở máy bay tiến công được di chuyển từ Hạm đội 1 ở bắc Thái Bình Dương đến tây Thái Bình Dương; thứ hai, máy bay tiêm kích và máy bay ném bom chiến đấu đã được chuyển đến Nam Việt Nam; thứ ba, máy bay ném bom chiến đấu đã được chuyền đến Thái Lan; thứ tư, những phi đội máy bay tiêm kích và máy bay ném bom chiến đấu đã dược chuyển từ Mỹ đến các căn cứ tiền tiêu ở Thái Bình Dương; thứ năm, một lực lượng đặc nhiệm chống tàu ngầm đã được chuyển đến biển Nam Hải; cuối cùng, các lực lượng lục quân và lính thuỷ đánh bộ được chọn lựa đã đặt trong tình trạng báo động và sẵn sàng hành động”.
3, 4. Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ của Quốc hội Mỹ, tlđd, t.1, tr.240.
5. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.1, tr.241.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:51:35 pm

Tại Cửa Hội (Nghệ An), lúc 12 giờ 30 phút, tám máy bay Mỹ lao vào ném bom đã bị lưới lửa phòng không trên các tàu hải quân và trên đất liền bắn rơi một chiếc ở phía tây đảo Hòn Mắt 2km. Một tốp khác tám chiếc lợi dụng sự che khuất của núi từ phía tây lao đến ném bom cảng sông Gianh (Quảng Bình). Các trận địa phòng không và tàu hải quân cùng với dân quân xã Cảnh Dương bắn cháy một chiếc rơi xuống biển, bắn bị thương một chiếc khác. Tại Hòn Gai, Bãi Cháy, một tốp tám chiếc vừa lao xuống ném bom bị hoả lực các cỡ của bộ đội phòng không, hải quân, dân quân bắn trả mãnh liệt, một chiếc A4 trúng đạn rơi xuống vùng biển Hà Tu, tên giặc lái- trung uý I.Anvơrét nhảy dù xuống biển. Thượng sĩ cơ yếu Nguyễn Kim Bảo của Quân khu Đông Bắc cùng hai chiến sĩ biên phòng đang trên đường ra đảo Cô Tô bằng thuyền đã cùng bác Lộc và dân quân địa phương tổ chức bắt sống tên phi công Mỹ. Hồi 14 giờ 45 phút, máy bay Mỹ tiếp tục đánh Bãi Cháy, Lạch Trường, bị ta bắn rơi ba chiếc, bắn bị thương một chiếc khác. 16 giờ 20 phút, máy bay Mỹ ném bom cảng sông Gianh lần thứ lai. Lực lượng phòng không và dân quân của ta ở đây cảnh giác, nổ súng đúng thời cơ, bắn rơi hai chiếc (một chiếc rơi ngoài biển cách cửa sông Gianh 25km, một chiếc rơi ở vùng Cự Nẫm, huyện Bố Trạch). Tại Cửa Hội, chiều hôm đó, tám máy bay Mỹ lao vào nhưng bị hoả lực của ta bắn mạnh, chúng phải tháo chạy.

Cuộc ném bom miền Bắc đầu tiên của không quân Mỹ ngày 5-8-1964 đã bị quân, dân ta bắn rơi tám máy bay phản lực, bắn bị thương hai chiếc khác, bắt sống một giặc lái. Tỷ lệ thiệt hại của Mỹ là 12% so với số lần máy bay xuất kích (64 lần xuất kích). Đó là điều hoàn toàn bất ngờ đối với không quân Hoa Kỳ.

Thắng lợi này củng cố niềm tin của quân và dân ta, tạo nên khí thế mới quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược bảo vệ vững chắc hậu phương lớn, tăng cường sức mạnh cho miền Nam tiến công và nổi dậy. Đảng, Nhà nước và quân đội ta đã tổ chức trọng thể lễ mừng công tuyên dương công trạng lực lượng phòng không và hải quân ta chiến thắng vẻ vang không quân Mỹ trong ngày 5-8-1964. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã tham dự lễ mừng công này.

Ngày 3-5-1964, theo Mỹ đạo diễn, Phumi Nôxavẳn yêu cầu quân đội các nước trong khối SEATO can thiệp vào Lào. Cũng trong tháng 6-1964, Mỹ bắt đầu ném bom ở Lào. Ngày 11-6, chúng oanh tạc thị trấn Khang Khay (Xiêng Khoảng) làm chết và bị thương nhiều dân thường. Ngày 14-6, phi công Mỹ được lệnh tự do bắn phá các mục tiêu cần thiết trong vùng giải phóng Pathét Lào. Tháng 8-1964, không quân Mỹ ném bom và rải chất độc hoá học xuống vùng Trung- Hạ Lào. Sau đó, Mỹ thúc ép Hoàng thân Phuma để Thái Lan công khai đưa quân can thiệp vào Lào (19-12-1964) và đồng ý cho Mỹ oanh tạc hành lang vận chuyển chiến lược Bắc- Nam dọc biên giới Việt- Lào (24-12-1964). Lực lượng không quân chiến thuật Mỹ gồm tập đoàn không quân số 7 và 13, liên đội đặc biệt số 506, Hãng hàng không Air America, Hãng hàng không Air Continentail được huy động vào cuộc chiến, oanh tạc toàn bộ lãnh thổ Lào và đường Trường Sơn.

Sau ngày 5-8-1964, Mỹ đẩy mạnh kế hoạch ném bom đường vận tải chiến lược Trường Sơn, đồng thời tăng cường chiến tranh đặc biệt ở Lào mà chúng đã tiến hành từ đầu năm 1964, nhằm cắt đứt chi viện của hậu phương lớn, củng cố vị trí Mỹ và phái hữu ở Lào, cô lập cách mạng miền Nam.

Trước tình hình nói trên, một số đơn vỉ phòng không Quân khu IV được điều lên bố trí ở miền tây Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hành lang chiến lược Bắc- Nam và cơ động giúp bạn Lào khi có yêu cầu.

Ngày 18-11-1964, không quân Mỹ ném bom khu vực Cha Lo, miền tây Quảng Bình. Đại đội 3, tiểu đoàn 14 pháo cao xạ thuộc sư đoàn 325, Quân khu IV do đại đội trưởng Lê Hữu Mai và chính trị viên Nguyễn Viết Xuân chỉ huy kịp thời đánh trả. Trận đánh diễn ra ác liệt, chính trị viên Nguyễn Viết Xuân bị thương nặng. Trong giây phút trận địa dường như im hẳn tiếng súng bắn trả, chỉ còn tiếng máy bay địch gầm rít và tiếng bom rơi, đạn nổ, bỗng vang lên lời hô của Nguyễn Viết Xuân “Phản lực Mỹ không có gì đáng sợ! Nhằm thẳng quân thù, bắn!” đã tiếp thêm sức cho cán bộ, chiến sĩ đại đội 3 vững vàng trên mâm pháo nhả đạn. Khẩu đội trưởng Nguyễn Duy Dĩnh, quần áo bắt lửa cháy, anh vẫn bình tĩnh chỉ huy khẩu đội bắt mục tiêu. Các chiến sĩ Nguyễn Văn Hường, Nguyễn Đặng, Đặng Văn Đinh bị thương nặng vẫn không rời trận địa, tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu cho đến kết thúc trận đánh. Trong trận này, đại đội 3 bắn rơi ba máy bay Mỹ, bảo vệ được mục tiêu. Nguyễn Viết Xuân anh dũng hy sinh, nhưng lời hô “Nhằm thẳng quân thù, bắn!” của anh trở thành khẩu hiệu hành động của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Nguyễn Viết Xuân được Quốc hội, Chính phủ tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Cùng với hành động chiến tranh chống nhân dân Việt Nam, Mỹ còn xúi giục, ủng hộ phái hữu Lào đem quân càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng thuộc quyền kiểm soát của Pathét Lào và lực lượng trung lập yêu nước, gây nên tình hình hết sức căng thẳng ở Lào. Ngày 17-8-1964, Mắc Clotxay, người phát ngôn bộ ngoại giao Mỹ, còn đe doạ rằng: Mỹ sẵn sàng thi hành bất cứ biện pháp nào do tình hình Lào đòi hỏi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:52:17 pm

Tháng 3-1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào họp hội nghị lần thứ 12 chủ trương:

1. Ra sức đẩy mạnh đấu tranh chính trị, kết hợp với tăng cường hoạt động quân sự một cách tích cực nhằm làm thất bại mọi âm mưu của địch và cải thiện tình hình, giữ vững Chính phủ liên hợp và hoà bình, trung lập.

2. Ra sức củng cố lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng nửa vũ trang.

3. Tích cực khôi phục, củng cố và xây dựng vùng giải phóng, căn cứ địa...

Tháng 5-1964, theo yêu cầu của bạn, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng Pathét Lào mở cuộc tiến công quân sự với binh vận, giải phóng Cánh Đồng Chum- Xiêng Khoảng- Muông Sủi- Tha Thơm, nối liền Cánh Đồng Chum với căn cứ địa Sầm Nưa, Bắc Lào và Trung Lào, mở thông đường số 7 với Việt Nam. Ta và bạn loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.500 địch, thu 30 khẩu pháo, 2982 súng các loại, 19 xe bọc thép, 181 ô tô, giải phóng một vùng rộng 3.000 km2 với 28 xã, 30.000 dân.

Thắng lợi ở Cánh Đồng Chum làm cho lực lượng phản bội giả danh trung lập của Coongle bị loại trừ, quân đội phái hữu thêm suy yếu, lôi kéo được lực lượng trung lập của đại tá Đươn đi theo Pathét Lào. Từ đây, tình hình chính trị, quân sự ở Lào được cải thiện một bước, cách mạng làm chủ một vùng chiến lược rất quan trọng, một chiến trường thu hút, giam chân và tiêu diệt sinh lực địch, chiến trường có ý nghĩa quyết định thắng lợi của chiến tranh cách mạng Lào. Thắng lợi này còn góp phần tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn.

Toàn bộ tình hình ở hai miền Nam, Bắc Việt Nam và Lào chứng tỏ rằng: sau mấy tháng thực hiện kế hoạch Giônxơn- Mắc Namara, địch chẳng những không đạt được các mục tiêu chúng đề ra, ngược lại, chúng vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của lực lượng cách mạng miền Nam và sự đánh trả quyết liệt của quân, dân miền Bắc. Sự trưởng thành nhanh chóng của bộ đội chủ lực trên chiến trường miền Nam đã tạo ra những quả đấm mạnh, đủ sức mở các chiến dịch quyết định làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Chính Taylo, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, kẻ đại diện cho Hoa Kỳ cùng với CIA và phái đoàn MAAG điều khiển cuộc chiến tranh đặc biệt ở miền Nam, cũng phải thừa nhận: “Về mặt trang bị và huấn luyện, Việt cộng được trang bị và được lãnh đạo tốt hơn bất kỳ lúc nào trước đây”1. Còn chính phủ của Khánh thì “Bất lực, đầy rẫy những bộ trưởng không có kinh nghiệm, ghen tỵ, nghi ngờ lẫn nhau...”2, khiến cho “... dân chúng hoang mang và có thái độ bàng quan”3 đối với chính quyền Sài Gòn. Tình hình đó đẩy Mỹ, chính quyền Sài Gòn càng thêm lún sâu vào những mâu thuẫn, bế tắc trong việc giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam đúng như Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã nhận định trong cuộc họp tháng 9-1964 là: “... Cứ tiếp tục cuộc chiến tranh đặc biệt chắc chắn Mỹ sẽ thua; nếu đưa quân Mỹ vào hỗ trợ cũng không chắc thắng, dùng không quân đánh phá miền Bắc có giới hạn cũng không giải quyết được vấn đề gì, không ngăn chặn được miền Bắc chi viện cho miền Nam, đưa chiến tranh đặc biệt ra toàn cõi Việt Nam bằng tiến công quy mô lớn ra miền Bắc, thì chắc chắn Mỹ sẽ càng thất bại nặng nề hơn”4. Do đó, âm mưu và khả năng sắp tới của Mỹ có thể sẽ là đẩy mạnh những cố gắng cuối cùng trong khuôn khổ của cuộc chiến tranh đặc biệt bằng cách tăng thêm phương tiện chiến tranh, nhất là không quân; tăng thêm nhân viên quân sự cho đến cả một số đơn vị chiến đấu có giới hạn của Mỹ hoặc của một vài nước chư hầu nào đó vào miền Nam để chiếm đóng một số vị trí chiến lược, tăng thêm lực lượng của quân đội tay sai đẩy mạnh các hoạt động càn quét, nhất là tăng cường các hoạt động của máy bay, đại bác và chiến xa ác liệt hơn để cố hòng ngăn chặn những thắng lợi lớn sắp tới của nhân dân miền Nam...”5. Từ những nhận định trên đây, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương: “Trên cơ sở nắm vững quan điểm trường kỳ, cần động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tập trung mọi khả năng, lực lượng để giành một bước thắng lợi quyết định trong một vài năm tới”6.

Bộ Chính trị giao cho Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng chuẩn bị một kế hoạch chiến lược trong đó dự kiến đầy đủ sự phát triển của tình hình, nhanh chóng tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang bảo đảm thực hiện các trận đánh tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực địch, tạo ra và tranh thủ thời cơ đánh bại quân ngụy trước khi Mỹ vào.
____________________________________
1, 2, 3. Báo cáo của Taylo gửi Mắc Namara ngày 10-8-1964, dẫn theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t1.
4, 5, 6. Nghị quyết Bộ Chính trị (9-1964) lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TW 1159.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:53:08 pm

Tháng 10-1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương được cử vào chiến trường làm chính uỷ Bộ chỉ huy Miền. Cùng đi đợt này còn có Thiếu tướng Trần Độ, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Đại tá Hoàng Cầm và nhiều cán bộ trung, cao cấp có kinh nghiệm xây dựng bộ đội chủ lực và chỉ huy đánh lớn.

Chấp hành chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 11-10-1964, Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho các chiến trường mở đợt hoạt động quân sự trên toàn miền Nam nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực ngụy, kết hợp tiêu hao rộng rãi, thúc đẩy thêm sự tan rã của chúng, đẩy mạnh phá ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp, giành thêm nhiều nhân tài, vật lực, mở rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng kiểm soát của địch, đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, làm tăng sự khủng hoảng chính trị và mâu thuẫn nội bộ địch.

Căn cứ vào các nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, các chiến trường Nam Bộ, Khu V xúc tiến làm kế hoạch tác chiến thu đông năm 1964 nhằm đánh bại quân ngụy, đánh sập chỗ dựa của Mỹ trước khi chúng đưa quân viễn chinh vào tiến hành chiến tranh cục bộ, đồng thời phát triển và củng cố thế trận chiến tranh nhân dân của ta. Theo phương hướng đó, cuối tháng 10-1964, Đảng ủy và Bộ chỉ huy Miền vạch kế hoạch mùa khô 1964-1965 cho toàn chiến trường B2 là tập trung phần lớn lực lượng chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch tiến công tại miền Đông Nam Bộ nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực ngụy, hỗ trợ nhân dân phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, củng cố, nối liền các căn cứ nam- bắc đường số 2 (Bà Rịa) bảo vệ các bến tiếp nhận hàng bằng đường biển, rèn luyện và nâng cao trình độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực.

Địa bàn tác chiến chiến dịch gồm các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận, trải rộng trên diện tích gần 500 km2. Hướng chủ yếu của chiến dịch được xác định là Bà Rịa- Long Khánh; hai hướng phối hợp là Nhơn Trạch, Long Thành (Biên Hoà) và Hoài Đức, Tánh Linh (Bình Thuận). Lực lượng tham gia chiến dịch có hai trung đoàn bộ binh (Q761, Q762), còn gọi là trung đoàn 1 và 2, đoàn 80 pháo binh Miền1 (gồm bốn tiểu đoàn), hai tiểu đoàn (500 và 800) chủ lực của Quân khu miền Đông, tiểu đoàn 186 của Quân khu VI (gần như toàn bộ lực lượng chủ lực có ở miền Đông Nam Bộ lúc bấy giờ) cùng bộ đội địa phương tỉnh (đại đội 445 của Bà Rịa), huyện, du kích các xã trên địa bàn chiến dịch, ước tính khoảng 7.000 quân.

Bộ chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí: Trần Đình Xu, Chỉ huy trưởng; Lê Văn Tưởng, Chính uỷ; Lê Xuân Lựu, Phó chính uỷ; Nguyễn Hồng Lâm (Hai Bứa), Phó chỉ huy; Nguyễn Hoà, Phó chỉ huy, Tham mưu trưởng.

Đây là lần đầu tiên, Quân uỷ và Bộ chỉ huy miền tập trung một lực lượng tương đối lớn mở chiến dịch dài ngày trên một địa bàn rộng. Vì vậy, công tác chuẩn bị đòi hỏi phải hết sức khẩn trương và nỗ lực cao để đáp ứng kịp thời yêu cầu chiến dịch.

Trong quá trình chuẩn bị, các đoàn hậu cần Miền và của quân khu dựa vào địa phương để động viên sức người, sức của trong vùng giải phóng, vùng tạm bị chiếm, đồng thời, kết hợp chặt chẽ việc tiếp nhận nguồn vũ khí chi viện của trung ương và các nơi khác, bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chiến dịch. Trong vòng hai tháng, ngành hậu cần và nhân dân địa phương đã thu gom được 200 tấn lương thực, vận chuyển 500 tấn vũ khí từ Thạnh Phú (Bến Tre) về đến sông Thị Vải. Số vũ khí này là do miền Bắc chi viện bằng đường biển vào. Ngoài ra, một số hàng quân y và thông tin kỹ thuật từ miền Bắc đưa vào cũng kịp thời phân phối đến các đơn vị. Một đội phẫu cơ động và bệnh viện dã chiến với 300 giường có đủ thuốc và máu khô cứu chữa cho 600 thương binh được thành lập.

Ở khu V, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu vạch kế hoạch tác chiến chiến dịch trên hai hướng là bắc Bình Định, nam Quảng Ngãi và một hướng trên trục đường số 14 Tây Nguyên. Trọng điểm chiến dịch được chọn là bắc Bình Định (khu vực An Lão, Đèo Nhông).

Đi đôi với việc triển khai các mặt chuẩn bị, Bộ chỉ huy Miền và Khu V đồng thời mở đợt hoạt động của bộ đội địa phương trên toàn chiến trường để buộc địch phải phân tán đối phó trên nhiều hướng, tạo thuận lợi cho quá trình chuẩn bị chiến dịch.

Đêm 31-10-1964, lực lượng pháo binh miền (đoàn 80) pháo kích sân bay Biên Hoà. Đây là một căn cứ không quân lớn của địch, thường xuyên có từ 300 đến 400 máy bay các loại, trong đó có cả F101, F102, B57, máy bay do thám U2, các kho chứa bom đạn, xăng dầu và xưởng sửa chứa... Sân bay Biên Hoà không chỉ là nơi xuất phát của máy bay Mỹ đi bắn phá các nơi, mà còn là nơi huấn luyện, đào tạo phi công ngụy trên chiến trường. Do vị trí đặc biệt quan trọng đó, địch tổ chức bố phòng nghiêm ngặt với hệ thống rào kẽm gai, bãi mìn, lô cốt, hệ thống đèn pha chiếu sáng và lực lượng bảo vệ sân bay gồm một đại đội pháo binh, một đại đội thiết giáp, một tiểu đoàn bộ binh, một đại đội an ninh quân đội, một phi đội máy bay lên thẳng HU1A và máy bay Xcrađơ sẵn sàng ứng chiến. Bảo vệ từ xa có hai tiểu đoàn lính ngụy đóng tại thị xã Biên Hoà, một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 5 tuần tra chung quanh...
____________________________________
1. Còn gọi là Q763.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:54:13 pm

Chiều 31-10-1964, lực lượng ta bí mật hành quân từ chiến khu D đến bố trí trận địa pháo tại Hốc Bà Thức (cách sân bay 1 km về phía đông bắc). Lúc 23 giờ, pháo ta bắt đầu giội đạn vào sân bay. Trận đánh diễn ra nhanh, 130 quả đạn rơi đúng mục tiêu, phá huỷ, phá hỏng 59 máy bay các loại, 193 tên địch bị diệt, hai kho đạn lớn, một kho xăng, một đài quan sát và 18 căn trại địch bị thiêu huỷ. Với chiến công này, đoàn pháo binh 80 Miền được tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng nhất.

Tiếp theo chiến thắng Biên Hoà, ngày 15-11-1964, tiểu đoàn 500 của Quân khu miền Đông (T1) phục kích trên lộ số 15 tại xã Phước Thái, diệt đoàn xe cơ giới 12 chiếc của địch đang trên đường từ Biên Hoà xuống Vũng Tàu.

Ở Sài Gòn, đêm 18-11-1964, các chiến sĩ đặc công bí mật luồn vào sân bay Tân Sơn Nhất, đánh vào Câu lạc bộ hàng không, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm sĩ quan và phi công Mỹ.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12, các đơn vị thuộc Quân khu miền Đông tiếp tục mở các cuộc tiến công địch trong các ấp chiến lược chung quanh chi khu Hoài Đức và một số nơi ở Gia Định, Tây Ninh, địch buộc phải căng kéo lực lượng chống đỡ khắp nơi. Cùng lúc đó, các đơn vị tham gia chiến dịch (Q761, Q762, Q763 pháo binh và một số phân đội bảo đảm) chia thành nhiều hướng bí mật tiến về chiến trường chính Bà Rịa. Ngày 10-11-1964, lực lượng ta đã vào vị trí tập kết và triển khai đội hình xuất phát tiến công.

Ở Bà Rịa (hướng chủ yếu của chiến dịch), địch có bốn chi khu quân sự là Đức Thạnh, Long Điền, Đất Đỏ và Xuyên Mộc. Mỗi chi khu địch bố trí từ một đại đội đến một tiểu đoàn bảo an đóng giữ. Bảo vệ chi khu còn có hệ thống đồn bốt và các ấp chiến lược do lực lượng dân vệ và phòng vệ dân sự canh giữ. Bà Rịa cùng với Biên Hoà hợp thành đặc khu Phước Biên. Ngoài lực lượng tại chỗ (bảo an, dân vệ), địch còn tăng cường cho khu vực này tiểu đoàn 36 biệt động quân bố trí tại Phú Mỹ, một chi đội xe cơ giới và hai trung đội pháo 105 ly ở Phước Lễ, chưa kể lực lượng cơ động của quân đoàn 3 ngụy (gồm các tiểu đoàn 30, 35, 33 biệt động, tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến, một lữ đoàn dù, một trung đoàn xe M113) sẵn sàng chi viện ứng cứu cho đặc khu khi cần.

Nghiên cứu kỹ địa hình và hệ thống phòng thủ của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chọn ấp Bình Giã (thuộc chi khu Đức Thạnh) làm điểm khơi ngòi chiến dịch. Chọn Bình Giã vì đây là một vị trí quan trọng của địch. Bình Giã bị diệt, chi khu Đức Thạnh, đường số 2 bị uy hiếp, Bà Rịa bị chia cắt khỏi Long Khánh và đường số 1, khu vực phòng ngự có tầm chiến lược của chúng sẽ mất hiệu lực. Ngoài ra, Bình Giã còn là một ấp chiến lược địch xây dựng tương đối hoàn chỉnh. Tại đây, có hơn 400 gia đình giáo dân di cư, trong đó hầu hết là gia đình binh sĩ, sĩ quan thuộc lực lượng biệt động và thuỷ quân lục chiến. Do vậy, nếu Bình Giã bị tiến công, địch sẽ điều động lực lượng tổng dự bị đến ứng cứu, giải toả; ta có điều kiện đánh diệt quân viện ngoài công sự.

Theo kế hoạch đã định, đêm 2-12-1964, đại đội 445 bộ đội tỉnh Bà Rịa tiến công ấp chiến lược Bình Giã. Cùng lúc, pháo binh Miền, tiểu đoàn 1, trung đoàn 761 pháo kích, bao vây, kiềm chế chi khu quân sự Đức Thạnh. Địch vội vã dùng máy bay lên thẳng chở tiểu đoàn 38 biệt động quân đổ xuống tây nam Đức Thạnh giải vây và tiến lên khôi phục lại ấp Bình Giã. Lực lượng tiến công của ta ít, địch phản kích quyết liệt, trận đánh mở màn chiến dịch tại Bình Giã không thành công. Mặc dù vậy, Bộ chỉ huy chiến dịch vẫn quyết định điều chỉnh, bố trí lại đội hình, tiếp tục đánh chiếm Bình Giã, kéo địch ra tiếp viện để diệt.

Ngày 7-12-1964, đại đội 445 phối hợp với một đại đội thuộc trung đoàn 761 tiến công ấp chiến lược Bình Giã lần thứ hai. Đồng thời, tiểu đoàn 3 trung đoàn 761, và tiểu đoàn 5 trung đoàn 762, đánh chi khu quân sự Đất Đỏ. Các đơn vị pháo binh Miền tập kích hoả lực vào các chi khu Xuyên Mộc, Đức Thạnh và căn cứ huấn luyện biệt kích Vạn Kiếp.

Trước áp lực ngày càng tăng của ta ở Bình Giã và Đức Thạnh, ngày 9-12-1964, địch dùng chi đoàn 3 thiết giáp có không quân yểm trợ mở cuộc hành quân Bình Tuy 33 càn quét giải toả dọc lộ số 2, soạn từ Bình Giã đến Đức Thạnh. Trung đoàn 762 đã bố trí trận địa phục kích, song địch lại hành quân không đúng hướng dự kiến của ta, buộc trung đoàn phải điều chỉnh thế bố trí, cơ động về đông núi Nghệ (cách lộ số 2 khoảng 4 km) ém quân chờ đợi. Sau bốn ngày kiên trì chờ đợi, ngày 13 tháng 12, đoàn xe địch từ Đức Thạnh trở về đi vào trận phục kích của ta. Ngay lập tức, bộ đội ta được lệnh xuất kích. Đại đội trưởng Tạ Quang Tỷ chỉ huy bộ phận chặn đầu, chỉ mục tiêu cho ĐKZ 75 bắn cháy chiếc đi đầu và nhảy lên xe bắn chế áp. Đội hình địch ùn lại. Được máy bay yểm trợ, địch chống trả quyết liệt. Hoả lực phòng không của ta đánh trả mãnh liệt bắn cháy và bắn bị thương bảy máy bay lên thẳng vũ trang và một máy bay trinh sát L19. Trong lúc đó, các chiến sĩ bộ binh dùng tiểu liên, lựu đạn diệt từng xe và xung phong chiếm các xe, dùng đại liên địch diệt địch. Sau hơn một giờ chiến đấu ác liệt, ta làm chủ hoàn toàn trận địa, diệt gọn chi đoàn thiết giáp số 3 gồm 14 chiếc M113 và 107 tên địch (có chín cố vấn Mỹ), thu 12 đại liên, hai trọng liên, hai cối 81, năm trung liên và 58 súng tự động. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường miền Đông Nam Bộ ta diệt gọn một chi đoàn thiết giáp, lực lượng cơ động mạnh của ngụy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:55:23 pm

Trên hướng phối hợp Tánh Linh, Hoài Đức, tiểu đoàn 186 chủ lực Quân khu VI đánh chiếm ấp chiến lược Mê-pu buộc địch đưa viện binh ở Hoài Đức ra và từ đường số 1 lên. Ta diệt một đại đội bảo an và một đại đội dân vệ. Lực lượng ở tiểu khu La Gi đến tiếp viện, bộ đội ta chặn đánh thiệt hại thêm hai đại đội bảo an nữa. Bước một của chiến dịch kết thúc. Lực lượng ta còn đang sung sức. Chi khu Đức Thạnh và tỉnh lộ 2 vẫn bị uy hiếp. Giữa lúc đó, đêm 22-12-1964, chuyến tàu chở 44 tấn vũ khí từ miền Bắc vào cập bến Lộc An an toàn. Số vũ khí này được trang bị ngay cho các đơn vị tham gia chiến dịch. Sức chiến đấu của bộ đội được tăng cường. Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định: mặc dù dịch bị thất bại, bị đẩy vào thế bị động, lúng túng, nhưng do tầm quan trọng của mục tiêu, chúng cố giữ nhất định địch sẽ dùng lực lượng cơ động lớn đến ứng cứu cho Bình Giã. Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm tập trung toàn bộ lực lượng trên khu vực Đức Thạnh- Bình Giã, đường số 2, sử dụng bộ binh và hoả lực đánh chìm và trụ lại ấp Bình Giã, phá chi khu Đức Thạnh, kéo địch đến khu vực đã lựa chọn để đánh trận then chốt quyết định.

Đợt hai chiến dịch chuẩn bị mở màn thì một sự kiện gây chấn động lớn không chỉ ở Sài Gòn mà cả ở nước Mỹ: Ngày lễ giáng sinh (24-12-1964), các sĩ quan Mỹ đang tập trung đông đủ chờ những nghệ sĩ nổi tiếng nhất nước Mỹ sang biểu diễn phục vụ, thì Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê) trong vai thiếu tá ngụy và Nguyễn Hoá (Tư Mập) cải trang thành lái xe đưa khối thuốc nổ 100 kg trong chiếc xe NASH vào đậu ở tầng trệt của khách sạn Brink. 17 giờ 55 phút, đúng giờ hẹn, khối thuốc nổ tung làm sập ba tầng của khách sạn, hơn 100 người chết và bị thương trong đó có 66 người Mỹ. Vụ nổ gây hoang mang cao độ trong hàng ngũ sĩ quan Mỹ, bởi theo đại tá Kunje, người phụ trách bảo vệ an toàn cho các cư xá Mỹ ở Sài Gòn, đánh giá thì Brink là “chỗ an toàn nhất cho các sĩ quan Mỹ”. Sau vụ nổ, Oétmolen ra lệnh đưa vợ con lính Mỹ về nước. Còn Taylo báo cáo với Giônxơn: Để người Mỹ bảo đảm an ninh cho chính mình, đòi hỏi phải có 75.000 lính Mỹ. Và cho dù vậy cũng không ai bảo đảm sẽ không có những vụ như khách sạn Brink xảy ra.

Ba ngày sau trận đánh khách sạn Brink, đêm 27-12-1964, chiến dịch Bình Giã bước vào đợt hai. Đại đội 2 (tiểu đoàn 1 trung đoàn 761) cùng đại đội 445 Bà Rịa bí mật đột nhập ấp chiến lược Bình Giã. 4 giờ sáng ngày 28 tháng 12, lực lượng ta bất ngờ nổ súng tiến công đồn bảo an và lực lượng dân vệ trong ấp. Cùng lúc, hoả lực ĐKZ 75 và cối 81 ly bố trí ở tây bắc Ngãi Giao bắn phá chi khu quân sự Đức Thạnh, gây cho địch nhiều thiệt hại. Ấp Bình Giã bị mất, chi khu Đức Thạch bị uy hiếp, sáng 28-12-1964,. địch dùng máy bay lên thẳng chở tiểu đoàn 30 biệt động quân từ Bà Rịa đổ xuống Trảng Trống (tây nam Đức Thạnh), rồi chia thành ba mũi tiến vào Bình Giã. Bị ta chặn đánh quyết liệt, lực lượng địch tháo chạy về ấp La Vân (nam Đức Thạnh).

Trưa ngày 28 tháng 12, địch dùng 24 máy bay lên thẳng vũ trang yểm trợ cho 50 máy bay lên thẳng chở tiểu đoàn 33 biệt động quân từ Biên Hoà (sở chỉ huy Quân đoàn III ngụy) đổ xuống đông bắc ấp Bình Giã định phối hợp cùng tiểu đoàn 30 ở hướng tây đánh chiếm lại ấp. Dự đoán trước hướng phản kích của địch, trung đoàn 761 bố trí trận địa phục kích ở nam và đông nam ấp, dùng lực lượng phòng không khống chế máy bay lên thẳng, không để địch đổ quân ở hướng đông bắc, buộc chúng phải đổ xuống đông nam ấp, đúng nơi ta phục kích. Cuộc chiến diễn ra gần sát với phương án ta dự kiến. Kết quả, ta tiêu diệt tiểu đoàn 33, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 30, bắn rơi 18 máy bay. Hai lần địch dùng máy bay đổ quân hòng chiếm lại Bình Giã, nhưng đều bị thất bại. Mặc dù vậy, chúng vẫn không từ bỏ ý đồ chiếm lại Bình Giã. Vì thế, ngày 30-12-1964, địch lại cho máy bay lên thẳng đổ tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến xuống đông nam ấp La Vân (gần quận lỵ Đức Thạnh) để cùng tiểu đoàn 30 vừa được bổ sung quân số chiếm lại Bình Giã. Trung đoàn 761 của ta lúc này, đang ém quân ở Quảng Giáo. Tại đây, ta bắn rơi một máy bay lên thẳng, bốn tên Mỹ ngồi trong máy bay (có một trung tá) chết. Bộ chỉ huy chiến dịch dự đoán địch sẽ đi tìm xác bọn Mỹ, đã bố trí trung đoàn 761 phục kích. Chiều 31-12-1964, tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến hành quân đến Quảng Giáo để lấy xác. Trung đoàn 761 bất ngờ nổ súng. Tiểu đoàn 4 vốn là loại lính tinh nhuệ bậc nhất của quân ngụy thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược, chúng chống trả ngoan cố. Trận chiến mỗi lúc một ác liệt. Ta và địch giành nhau từng thước đất. Các đơn vị của ta mưu trí chia cắt địch thành từng cụm để tiêu diệt. Đến 18 giờ, ta tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn 4 (600 tên) thu toàn bộ vũ khí. Đây là lần đầu tiên lực lượng vũ trang giải phóng diệt gọn một tiểu đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược của địch.

Để cứu nguy cho Đức Thạnh, lấy lại Bình Giã, ngày 1-1-1965, địch mở cuộc hành quân giải toả mang tên Hùng Vương 2. Địch tung vào cuộc hành quân này 2.000 quân, gồm cơ giới, nhảy dù, thuỷ quân lục chiến và cả máy bay lên thẳng. Toàn bộ lực lượng địch đổ xuống khu vực tác chiến Bình Giã, Đức Thạnh, tây đường số 2 để kết hợp với tàn quân còn lại của tiểu đoàn 30 và 38 biệt động quân phản kích hòng đẩy lùi ta khỏi khu chiến.

Nắm được kế hoạch hành binh của địch, tiểu đoàn 4 trung đoàn 762 chủ động bố trí phục kích đánh diệt gọn đoàn xe 10 chiếc và một đại đội địch trên đường số 15 từ Vũng Tàu về Sài Gòn ở vị trí đối diện với núi Cóc Tiên. Hai ngày sau, 3-1-1965, trung đoàn 762 lại diệt đoàn xe 16 chiếc (có hai xe tăng, hai M113) cùng tiểu đoàn 35 biệt động quân trên đường số 2 đoạn từ Bà Rịa lên Đức Thạnh. Cùng ngày, tiểu đoàn 800 tập kích trại biệt kích Bình Sơn, phối hợp với du kích Long Thành diệt đồn Tam An, Phước Thọ, hỗ trợ quần chúng phá ấp chiến lược.

Trên hướng Hoài Đức-Tánh Linh, ta bao vây chi khu Hoài Đức, địch không đủ sức giải toả. Nhân đà đó, ta đánh chiếm ấp chiến lược Mê-pu, Sùng Nhơn, Đậm Rim... làm tan rã lực lượng dân vệ ở đây.

Ngày 3-1-1965, chiến dịch tiến công Bình Giã kết thúc thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:56:26 pm

Hơn một tháng chiến đấu (từ 2-12-1964 đến 3-1-1965), lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã tiêu diệt hai tiểu đoàn chủ lực ngụy (tiểu đoàn 33 biệt động quân và tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến), chi đoàn 3 M113 (thuộc thiết đoàn 1) và hai đoàn xe cơ giới; đánh thiệt hại nặng ba tiểu đoàn biệt động quân (30, 35, 38 ), bảy đại đội bảo an; làm tan rã hầu hết dân vệ trong khu vực. Tổng số địch bị diệt trong chiến dịch lên tới 1.755 tên, bị bắt 193 tên, 45 xe bị phá huỷ, phá hỏng (phần lớn là M113), 56 máy bay các loại bị bắn rơi và bắn cháy. Ta thu hơn 1.000 súng các loại. Nhiều ấp chiến lược ở ven đường số 2, số 15 thuộc các huyện Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn Trạch bị phá tan. Huyện Hoài Đức được giải phóng, vùng căn cứ Hát Dịch được củng cố, mở rộng nối liền chiến khu D với căn cứ Bình Thuận.

Chiến thắng Bình Giã báo hiệu sự phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt là không tránh khỏi, nó góp phần làm thay đổi tương quan lực lượng và thế chiến lược giữa ta và địch. Bộ Quốc phòng Mỹ phải thú nhận: “Mối thất vọng của Oasinhtơn đối với tình hình quân sự càng tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại trông thấy trong trận đánh ác liệt ở Bình Giã.... Mọi bằng chứng chỉ rõ tình hình sụp đổ cuối cùng của Chính phủ Việt Nam là có thể xảy ra và rõ ràng là có khả năng Việt cộng củng cố một cách thắng lợi quyền lực của họ”1.

Ngoài ý nghĩa trên đây, chiến thắng Bình Giã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng bộ đội chủ lực thành quả đấm mạnh đủ sức làm nòng cốt đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Cũng từ đây, trung đoàn 1 (Q761) được vinh dự mang tên trung đoàn Bình Giã.

Phối hợp với Bình Giã, trên các mặt trận thuộc Nam Bộ, các lực lượng vũ trang ta đều đẩy mạnh hoạt động, tranh thủ thời cơ tiến công tiêu diệt địch. Ngày 30 và 31-12-1964, đại đội 304 Thủ Dầu Một phục kích diệt gọn một đại đội biệt kích tại Đồng Sổ; bộ đội địa phương Long Khánh đánh lật một đoàn xe lửa địch. Cũng trong tháng 12-1964, lực lượng vũ trang Quân khu VI đánh quận lỵ Thiện Giáo, diệt một đại đội ngụy, thu 113 súng. Quân khu VIII diệt chi khu Ba Dừa. Quân khu IX đánh quận lỵ Long Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên địch, thu 350 súng...

Trong lúc phong trào ở Nam Bộ phát triển tương đối thuận lợi, thì ở Khu V, tháng 10-1964, một trận lụt lớn chưa từng thấy trong vòng 100 năm đã xảy ra. Hàng ngàn thôn xóm ngập chìm trong nước; lương thực, thực phẩm cũng như tài sản, hoa màu bị cuốn trôi. Nạn đói đe dọa nhân dân trong vùng ảnh hưởng nghiêm trọng đến các mặt của đời sống, gây khó khăn lớn cho kế hoạch tác chiến thu-đông. Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho trận lụt này có giá trị như một cuộc phản công của nhiều sư đoàn, chúng lợi dụng thiên tai, dùng xuồng máy, xe lội nước càn quét đánh phá, kết hợp với máy bay liên tục ném bom bắn phá các làng mạc đông dân cư, hòng làm cho nhân dân không giúp đỡ được nhau, phải khuất phục chúng. Khó khăn chồng chất tưởng chừng không khắc phục nổi. Song Khu uỷ Bộ tư lệnh Khu V, một mặt động viên lực lượng giữ vững quyết tâm thực hiện kế hoạch tác chiến đã định, mặt khác, cứu trợ đồng bào vùng ngập lụt. Miền Bắc và các tỉnh Nam Bộ kịp thời chi viện lương thực, thuốc chữa bệnh hỗ trợ nhân dân vùng bị lụt nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai. Hàng trăm chuyến ô tô, hàng trăm tàu thuyền từ khắp nơi vượt qua vùng phong toả của địch đưa hàng cứu trợ vào cho đồng bào Khu V. Cả nước tiếp sức cho Khu V. Nhờ đó, quân, dân Khu V nhanh chóng vượt qua khó khăn.

Đầu tháng 12-1964, cùng với tiếng súng Bình Giã ở Đông Nam Bộ, Khu V cũng triển khai chiến dịch thu-đông, tiến công chi khu quân sự An Lão. An Lão là một huyện phía tây tỉnh Bình Định, cách Quy Nhơn 96 km về phía tây-bắc, nằm trong thung lũng sông An Lão. Với chiều rộng 4 km, chiều dài 22 km, huyện An Lão có 15.000 dân. Từ lâu, địch xây dựng An Lão thành chi khu quân sự mạnh với ba cứ điểm: đồi 193, Hội Long, đồi Mít và tám ấp chiến lược hợp thành thế liên hoàn yểm trợ chặt chẽ cho nhau trong hệ thống phòng ngự và kìm kẹp của địch ở Bình Định. Lực lượng địch bố trí ở đây có khoảng 900 tên gồm ba đại đội bảo an và 12 trung đội dân vệ, một trung đội lính cộng hoà, một trung đội súng cối 106,7 ly.

Bộ Tư lệnh Quân khu V đã quyết định sử dụng trung đoàn 2 chủ lực quân khu, tiểu đoàn 409 đặc công, cùng lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Bình Định và hai huyện An Lão, Hoài Nhơn tiến công chi khu quân sự An Lão nhằm tiêu diệt hệ thống các cứ điểm then chốt, đánh quân viện, làm thất bại chiến thuật thiết xa vận, trực thăng vận của địch, phát động quần chúng nổi dậy phá hệ thống ấp chiến lược, giải phóng vùng đất bằng, phì nhiêu trên lưu vực sông An Lão, nối căn cứ du kích Bình Định với Quảng Ngãi.
____________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.2, tr.25.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2010, 10:57:35 pm

1 giờ ngày 7-12-1964, tiểu đoàn đặc công 409, tiểu đoàn 92 (trung đoàn 2), cùng bộ đội địa phương huyện An Lão đồng loạt nổ súng tiến công vào cả ba cứ điểm: đồi 193, Hội Long, đồi Mít và tám ấp chiến lược, bao vây uy hiếp chi khu quận lỵ An Lão. Địch chủ quan cho rằng ta không thể đánh một lúc cả ba cứ điểm, vì vậy, đòn tiến công mạnh mẽ, bất ngờ trên toàn tuyến của ta đã làm cho địch lúng túng, không kịp ứng cứu. Thế liên hoàn trong hệ thống phòng thủ bị cắt rời, rối loạn. Chỉ sau 15 phút chiến đấu, các chiến sĩ đại đội 50 đặc công diệt gọn địch ở điểm cao 193. Sau đó, các cứ điểm đồi Mít, Hội Long, suối Bà Nho cũng lần lượt bị quân ta đánh chiếm. Tám ấp chiến lược trong khu vực bị phá banh. Chiến thuật phòng ngự cứ điểm kết hợp với hệ thống ấp chiến lược của địch bị thất bại. Bị đòn bất ngờ và trước nguy cơ mất An Lão, sư đoàn 22 ngụy phải bỏ dở cuộc hành quân Quyết thắng 707 càn quét đánh phá phía nam Binh Định để rút bốn tiểu đoàn và một chi đội xe bọc thép về giải vây cho An Lão.

Dự đoán địch có thể giải toả bằng đổ bộ đường không kết hợp hành quân đường bộ, ban chỉ huy trận đánh quyết định đưa một bộ phận của tiểu đoàn 93 trong lực lượng đặc công, chiếm giữ điểm cao 193, một cứ điểm khống chế toàn bộ khu vực chiến đấu và trực tiếp uy hiếp quận lỵ An Lão, mặt khác, tập trung lực lượng diệt quân cứu viện đường bộ của địch. Ngày 7 tháng 12, không quân địch liên tục đánh phá khu vực An Lão nhằm yểm trợ cho lực lượng tăng viện bằng đường không hòng giải vây cho quận lỵ. Nhưng chúng không thực hiện được ý định. 8 giờ sáng ngày 8-12, sáu máy bay khu trục và hai máy bay trinh sát yểm hộ cho 26 máy bay lên thẳng chở quân đổ xuống chân điểm cao 193. Địch vừa xuống đất, chưa kịp triển khai đội hình chiến đấu đã bị tiểu đoàn 93 Quân giải phóng chặn đánh, buộc chúng phải dạt về phía đông 5 km. Trong khi đó, cánh quân bộ gồm một tiểu đoàn của trung đoàn 41 có sáu M113 dẫn đầu theo tỉnh lộ số 56 từ Bồng Sơn lên An Lão bị tiểu đoàn 92 chặn đánh, bắn cháy ba chiếc và bị thương hai chiếc khác. Chiếc thứ sáu tháo chạy hốt hoảng lao xuống suối. Số địch còn lại vội vã tháo lui, co cụm trên điểm cao 174. Từ trưa ngày 8 tháng 12, máy bay địch liên tục đánh phá vào đội hình của trung đoàn 2 Quân giải phóng Khu V suốt ba giờ làm ta hy sinh, bị thương gần 50 cán bộ, chiến sĩ. 16 giờ, chúng lại sử dụng một chi đội xe M113 dẫn đầu bộ binh tiến vào hướng quận lỵ An Lão. Tiểu đoàn 95 kịp thời chặn đánh địch, địch buộc phải bỏ luôn điểm cao 174 rút về Bồng Sơn.

Tối 8-12-1964, Bộ tư lệnh Quân khu V thấy mục đích trận đánh chi khu quân sự An Lão đã đạt được, quyết định kết thúc trận đánh, rút bộ đội chủ lực ra hướng khác để lực lượng địa phương tiếp tục hoạt động củng cố thắng lợi.

Kết quả: Ta diệt 168 tên địch, một chi đội M113, làm tan rã hai đại đội bảo an, 12 trung đội dân vệ, bắn rơi một máy bay, thu 300 súng các loại, phá tan hệ thống ấp chiến lược quanh quận lỵ An Lão, giải phóng 11.000 dân.

Bảy ngày sau khi chủ lực ta rút đi, địch nống ra chiếm lại được An Lão. Song, do phong trào du kích ở đây phát triển, sau đó, địch phải bỏ quận lỵ An Lão, co về chốt ở Mỹ Thạnh, gần quốc lộ số 1. Từ cuối tháng 12-1964, khu vực An Lão (từ Phước Bình đến Hưng Nhơn) trở thành vùng giải phóng liên hoàn.

Với chiến thắng An Lão, lần đầu tiên, bộ đội chủ lực Quân khu V áp dụng thành công chiến thuật vây điểm diệt viện, đánh địch đổ bộ đường không, mở ra khả năng đánh tiêu diệt chủ lực ngụy, phá vỡ từng khu vực phòng thủ của chúng.

Phối hợp với An Lão, trong hai ngày 8 và 9-12-1964, tiểu đoàn 40, trung đoàn 1 tiến công cứ điểm Chóp Chài (tây thị xã Tam Kỳ 9 km), diệt gọn một đại đội bộ binh và sở chỉ huy tiểu đoàn địch, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn khác, phá huỷ, phá hỏng 14 xe quân sự, hai pháo 105 ly, thu nhiều súng đạn.

Chiến thắng An Lão và Bình Giã đánh dấu bước phát triển mới của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam trong đó khối chủ lực cơ động của Quân giải phóng lớn mạnh vượt bậc, trình độ tác chiến tập trung được nâng cao, tạo ra một bước ngoặt của hình thái đấu tranh vũ trang của cuộc chiến tranh giải phóng. Cùng với chủ lực cơ động, lực lượng tinh nhuệ và các binh chủng khác của Quân giải phóng cũng trưởng thành trong đánh hậu cứ địch; lực lượng chính trị và chiến tranh nhân dân địa phương có khả năng phối hợp tác chiến với chủ lực trong những chiến dịch, đợt hoạt động quân sự quy mô lớn, cũng như trong đấu tranh giành dân, giành quyền làm chủ ở nông thôn. Quyền chủ động chiến lược của cách mạng được củng cố và phát huy mạnh mẽ trên khắp ba vùng chiến lược.

Với chiến thắng An Lão, Bình Giã tháng 12-1964, quân và dân ta ở miền Nam đã đánh bại về cơ bản chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhận xét: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được, đến trận Bình Giã, thì Mỹ thấy sẽ thua ta trong chiến tranh đặc biệt”1.

Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam tập kích địch ở thị xã Tam Kỳ và pháo kích cứ điểm Cây Xanh, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá các ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ đến ven thị xã Tam Kỳ.

Ở Quảng Ngãi, ngày 5 tháng 12, lực lượng vũ trang tỉnh tiến công địch ở Sơn Giang, hỗ trợ cho hơn 1.500 đồng bào trong ấp chiến lược xóm Gò và xóm Đồng nổi dậy giành quyền làm chủ. Tại Phú Yên, kết hợp với tiến công quân sự và đấu tranh chính trị, ta đánh bại cuộc hành quân càn quét của địch vào các huyện Tuy Hoà, Đồng Xuân. Trong lúc đó, lực lượng vũ trang Khánh Hoà diệt đồn Phú Thọ, phá thế kìm kẹp của địch ở các xã Ninh Phú, Ninh Đa, Vạn Hưng.... Nhân dân nổi dậy giải phóng 11 xã thuộc hai huyện Diên Khánh và Ninh Hoà.

Toàn Quân khu V, tính từ tháng 7 đến cuối 1964, cả miền núi và đồng bằng, đã có thêm 1.554 ấp chiến lược bị phá (đồng bằng phá 1.262 ấp, miền núi phá 292 ấp). Ta giải phóng thêm 924.000 dân, đưa số dân vùng giải phóng, vùng làm chủ ở Khu V lên 1.476.000 người. Chiến tranh nhân dân phát triển đều khắp. Hơn 100 xã được xây dựng thành xã chiến đấu, hàng vạn hécta ruộng đất được chia cấp cho nông dân.

Tính chung toàn miền trong năm 1964, quân và dân ta đã đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị trên cả ba vùng chiến lược, giáng cho quân ngụy những đòn nặng nề, phá rã, phá banh 3.659 ấp chiến lược (398 ấp bị phá hỏng, 2.606 ấp bị phá banh và 655 ấp bị phá dứt điểm); mở rộng vùng giải phóng, vùng làm chủ trên 2/3 đất đai toàn miền và với 10 triệu dân, làm thất bại về cơ bản quốc sách ấp chiến lược của địch. Với thắng lợi đó, thế và lực của cách mạng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, vững chắc; mọi nỗ lực của địch trong chiến tranh đặc biệt bị phá sản về căn bản. Tình hình đó khiến cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và giới lãnh đạo Oasinhtơn lo lắng; họ đánh giá lại các kế hoạch chiến lược và tìm cách leo thang chiến tranh để hòng giữ vững chính quyền và quân đội Sài Gòn, giữ vững vị trí của Mỹ ở Nam Việt Nam.
____________________________________
1. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 185.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:18:53 pm

II. CUỘC TIẾN CÔNG XUÂN-HÈ NĂM 1965
ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ

Đầu 1965, những báo cáo của các quan chức cao cấp từ Sài Gòn gửi về Oasinhtơn làm cho giới lãnh đạo Oasinhtơn hết sức lo lắng. Trong một bức điện gửi Tổng thống, đại sứ Taylo nhận định Mỹ: “đang đi trên con đường thua thiệt và cần phải mạo hiểm để có một sự thay đổi.... Giờ đây không có một hành động tích cực tức là chấp nhận thất bại trong một tương lai khá gần”1. Tương tự nhận định của Taylo, Mắc Namara và Bơndy trong một giác thư đề ngày 27-1-1965 cũng nhận thấy chính sách của Mỹ “có thể dẫn đến một thất bại thảm hại” Vào lúc đó, ngụy quyền Sài Gòn tiếp tục khủng hoảng. Các phe cánh đối lập vẫn đấu đá gay gắt dẫn đến các cuộc đảo chính và âm mưu đảo chính nhằm gạt bỏ lẫn nhau. Ngày 25-1-1965, Nguyễn Khánh và một số tướng trẻ lật đổ Trần Văn Hương, lập Hội đồng quân sự. Theo hãng AF: “Cuộc đảo chính mới này của Nguyễn Khánh là cuộc khủng hoảng to lớn lần thứ bảy kể từ ngày Diệm chết. Và mỗi lần thay đổi như vậy làm cho tình hình thêm rắc rối và cuộc chiến đấu chống Việt cộng thêm gay go”2.

Chưa đầy một tháng sau, ngày 19-2-1965, thiếu tướng Lâm Văn Phát, đại tá Phạm Ngọc Thảo cầm đầu nhóm đảo chính tự xưng là “lực lượng bảo vệ quốc gia” đã bao vây trụ sở của Nguyễn Khánh, chiếm đài phát thanh, sở bưu điện, sân bay Tân Sơn Nhất và nhiều cứ điểm khác  ở Sài Gòn. Nhưng sau đó phe đảo chính bị các lực lượng của Khánh-Kỳ bao vây, chiếm lại các vị trí. Cuộc đảo chính ngày 19 tháng 2 không thành. Ngay ngày hôm sau (20- 2-1965), một nhỏm tướng trẻ khác do Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi cầm đầu lật đổ Khánh. Dưới áp lực của nhóm này, ngày 21 tháng 2, Phan Khắc Sửu (Quốc trưởng) ký sắc lệnh chỉ định Trần Văn Minh làm quyền tổng tư lệnh thay Nguyễn Khánh. Đến đây, Nguyễn Khánh bị gạt bỏ hoàn toàn sau 13 tháng giữ các cương vị quốc trưởng, thủ tướng.... Những hy vọng cuối cùng của Mỹ về “một chính phủ ổn định tại Nam Việt Nam lúc này dường như đã tiêu tan”3.

Trong lúc nội bộ chính quyền Sài Gòn đang diễn ra sự tranh giành quyền lực, đảo chính lẫn nhau, quân, dân ta đẩy mạnh tiến công địch trên khắp các chiến trường.

Ở miền Đông Nam Bộ, ngày 20-1-1965, đại đội 707 và đại đội 200 của Quân khu Sài Gòn-Gia Định phối hợp chiến đấu, chặn đánh hai tiểu đoàn quân chủ lực ngụy càn quét vào ấp Bàu Lách, xã Nhuận Đức thuộc khu vực địa đạo Củ Chi, diệt và làm bị thương 166 tên địch, thu nhiều vũ khí. Ngày 29-1-1965, các chiến sĩ đội biệt động 65 của Quân khu Sài Gòn tiến công trụ sở Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ (MACV), loại khỏi vòng chiến đấu 55 sĩ quan Mỹ.

Ngày 12-2-1965, đội biệt động 67 dùng mìn hẹn giờ đánh vào Câu lạc bộ không quân Mỹ trong sân bay Tân Sơn Nhất, làm 115 tên chết và bị thương. Sự kiện này buộc chúng phải đình chỉ cuộc càn Phóng hỏa 1 dự định đánh vào căn cứ của Quân khu Sài Gòn-Gia Định ở vùng “tam giác sắt” (Củ Chi-Bến Cát-Dầu Tiếng). Ngày 30-3-1965, cụm biệt động 345 đánh mìn toà đại sứ Mỹ. Đây là một toà nhà năm tầng có cấu trúc rất vững chắc nằm ngay tại góc phía đông nam ngã tư đại lộ Hàm Nghi- Võ Di Nguy. Bao quanh toà nhà là bức tường bằng bê tông. Cổng ra vào có hai lớp: một lớp tôn dày 10 ly, một lớp lưới thép đan hình mắt cáo. Toà đại sứ Mỹ được bảo vệ và canh phòng rất cẩn mật. Tất cả lính gác và nhân viên phục vụ đều được đưa từ Mỹ sang. Tại cổng ra vào thường xuyên có hai quân cảnh Mỹ canh gác, xa cửa một chút, trên lề đường là hai cảnh sát ngụy kiểm soát xe cộ lưu thông trên đường. Tất cả các xe qua lại trước toà đại sứ đều không được dừng lại. Bên cạnh đó, chung quanh toà đại sứ, bọn cảnh sát mật vụ vào loại tin cẩn nhất ngày đêm tuần phòng.

Sau một thời gian tìm hiểu, nắm chắc tình hình, vạch phương án tác chiến, đúng vào ngày 30-3-1965, ngày giao ban hàng tuần của đại sứ quán Mỹ với các nước có quân tham chiến tại Việt Nam, trận đánh nổ ra. Tổ trực tiếp chiến đấu gồm năm đồng chí do Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê) phụ trách. 10 giờ 45 phút, toàn tổ đến mục tiêu. Lê Văn Việt (tức Nguyễn Văn Hai) dùng súng ngắn tiêu diệt hai tên lính gác ở cổng. Ngay tức khắc, Nguyễn Thanh Xuân lái chiếc xe hơi chở 150 kg thuốc nổ mạnh lao thẳng vào cửa chính toà đại sứ, gây nổ bằng kíp giật tay, diệt luôn tên quân cảnh, rồi nhanh chóng băng sang đường để đồng đội đang chờ sẵn ở đó chở đi. Một tiếng nổ dữ dội phát ra từ toà đại sứ. Toà nhà hư hỏng nặng. 132 tên Mỹ và các nước chư hầu khác chết và bị thương, trong đó có phó đại sứ Mỹ. A.lecxít Giônxơn bị thương nặng. Đại sứ Mỹ Taylo lúc đó vắng mặt.

Đúng vào thời điểm Mỹ đang từng bước mở rộng chiến lược xâm lược Việt Nam, trận đánh toà đại sứ trưa ngày 30 tháng 3 là đòn cảnh cáo nghiêm khắc. Sau đó không lâu Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận trong Tài liệu mật Lầu Năm Góc trận đánh này là “hoạt động táo bạo nhất và trực tiếp nhất của cộng sản chống lại Mỹ”.
_______________________________________
1. Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, Hồi ký của Giônxơn, Nxb.Weidenfeld and Niclson (Luân Đôn), Việt Nam TTX phát hành 1972, tr.49.
2. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Nxb Khoa học xã hội, t.3, tr.145.
3. Dẫn theo Trần Văn Giầu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Sđd, t3, tr. 152.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:19:23 pm

Ở Khu V, sau chiến thắng An Lão, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định mở tiếp đợt hoạt động xuân năm 1965 trên ba hướng, trọng điểm là Bình Định và đông Gia Lai (lấy tên là mặt trận A1); tây Gia Lai và bắc Kon Tum; trung Quảng Nam (lấy tên là mặt trận C5).

Trên hướng Bình Định và đông Gia Lai, đêm 6 rạng ngày 7-2-1965, bộ đội đặc công nổ súng tiến công sân bay Cù Hanh, trại lính Mỹ Hôlôwây ở Plâycu và một đơn vị của sư đoàn 2 chủ lực Quân Khu V đánh cứ điểm ở Dương Liễu (Bình Định).

Cù Hanh là sân bay lớn, quan trọng nhất của địch ở Tây Nguyên. Còn trại Hôlôwây và sở chỉ huy Quân đoàn II ngụy được bảo vệ rất cẩn mật. Chung quanh các căn cứ này được bao bọc bởi nhiều lớp dây thép gai, mìn báo động. Ngoài hàng rào 5 km là vành đai trắng với hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh về ban đêm. Bảo vệ vòng ngoài là lính cộng hoà, bảo an, bên trong có 100 hiến binh, một đại đội biệt kích, một đại đội xe tăng. 2 giờ sáng ngày 7-2-1965, các chiến sĩ đại đội 3, tiểu đoàn 409 đặc công đột nhập vào sân bay. Lệnh phát hoả được phát ra, tiếng mìn, bộc phá nổ vang rền. Ngay lập tức, đại đội cối 60 ly của trung đoàn 2 tới tấp dội đạn vào trại Hôlôwây. Sau 30 phút chiến đấu ta diệt tám tên Mỹ và làm bị thương gần 100 tên khác phá huỷ, phá hỏng 20 máy bay cùng nhiều thiết bị, khí tài và phương tiện chiến tranh của chúng. Trong lúc đặc công đánh sân bay và trại lính Mỹ trong thị xã Plâycu thì trung đoàn 2 chủ lực quân khu tiến công cứ điểm Dương Liễu (Bình Định), diệt gọn một đại đội và ba trung đội dân vệ cắt đứt đường số 1 đoạn từ Phù Mỹ đi Bồng Sơn. Suốt ngày 7-2-1965, địch cho máy bay trinh sát và một đại đội bảo an thăm dò hai bên đường số 1, đoạn từ Phù Mỹ đi Quy Nhơn để đưa quân tăng viện hòng chiếm lại Dương Liễu, giải toả quốc lộ số 1.

Ngày 8 tháng 2, chúng điều hai tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn xe thiết giáp của sư 22 theo đường số 1 ra Dương Liễu. Ta bố trí sẵn trận địa phục kích ở khu vực đèo Nhông. 13 giờ 30, toàn bộ đội hình địch nằm gọn trong thế trận bày sẵn của ta. Bộ đội ta bất ngờ nổ súng khiến cho đội hình địch rối loạn, nhiều tên bỏ cả xe M113 chạy thoát thân. Đến 15 giờ 30, ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Toàn bộ hai tiểu đoàn bộ binh với khoảng 650 tên bị diệt gần hết. Cả chi đoàn xe M113 gồm 10 chiếc nằm la liệt trên trận địa. Đây là trận vận động phục kích lớn nhất của bộ đội chủ lực Khu V lúc bấy giờ, đánh dấu bước trưởng thành về cách đánh của lực lượng vũ trang quân khu. Chiến thắng Dương Liễu - đèo Nhông càng chứng tỏ quân chủ lực ngụy đang trên đà xuống dốc. Chiến thắng đèo Nhông - Dương Liễu tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội, du kích tỉnh Bình Định diệt các bốt bảo an, dân vệ, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều xã thuộc các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước. Trước sức tiến công và nổi dậy của quân, dân ta, địch buộc phải rút bỏ quận lỵ Vân Canh, thị trấn Tam Quan; ta giải phóng phần đất nửa phía bắc tỉnh Bình Định.

Sư đoàn 22 ngụy còn chưa hết bàng hoàng vì một lúc mất hai tiểu đoàn, thì ngay trong đêm 8 tháng 2, trung đoàn 1 hoạt động ở đông và tây đèo Măng Giang trên đường số 19 lại nổ súng tiến công tiêu diệt cứ điểm Kà Tung. Đêm 9 tháng 2, lực lượng vũ trang Bình Định đánh khách sạn Việt Cường ở trung tâm thị xã Quy Nhơn, diệt 56 tên Mỹ. Đêm 10 tháng 2, tiểu đoàn 50 bộ đội tỉnh Bình Định đánh chi khu Gò Bồi, diệt một đại đội bảo an.

Trên hướng tây Gia Lai, bắc Kon Tum, đêm 7 tháng 2, tiểu đoàn 407 đặc công, tiểu đoàn 334 của trung đoàn 320 đánh chiếm một loạt đồn bảo an ở phía tây thị xã Plâycu, đồn biệt kích biên phòng Plây Mơrông, diệt 100 tên địch. Trung đoàn 101 diệt cứ điểm Đắc Giao, pháo kích căn cứ Đắc Pét. Quân ngụy ở cứ điểm Đắc Vân, Đắc Tả hốt hoảng bỏ đồn tháo chạy. Được sự hỗ trợ của bộ đội và du kích, nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược ở phía bắc quận lỵ Đắc Tô. Địch vội vã đưa tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 lên chiếm lại Đắc Giao. Vừa đến Đắc Long lực lượng này đã bị trung đoàn 101 chặn đánh, diệt một đại đội. Thừa thắng, ta đánh luôn đồn Đắc Long, bao vây đồn Đắc Xút, cắt đứt đường số 14 đoạn Đắc Tô đi Đắc Siêng. Trước nguy cơ tuyến phòng thủ bắc Kon Tum bị phá vỡ, địch điều hai trung đoàn (40 và 42), tiểu đoàn 21 biệt động lên Kon Tum mở cuộc hành quân 129 phản kích chiếm lại các vị trí đã mất. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 30-3-1965, trung đoàn 101 mới tiêu diệt gần hết tiểu đoàn 21 biệt động quân, một đại đội của tiểu đoàn 1 trung đoàn 42; bắn rơi ba máy bay. Địch phải rút khỏi khu chiến, kết thúc cuộc hành quân 129. Lực lượng bảo an, dân vệ đóng ở Đắc Tả, Đắc Vân, Mỏ Lẹt, Măng Bút bỏ chạy. Trên chiến trường Tây Nguyên, cuối mùa xuân năm 1965, địch từ hình thái chiếm đóng “tuyến kết hợp điểm” đã phải thu hẹp và bắt đầu co cụm...

Ở hướng Quảng Nam, đêm 6 rạng ngày 7-2-1965, trung đoàn 1 tiến công cứ điểm Việt An. Đây là một cứ điểm then chốt trong hệ thống phòng ngự của địch án ngữ khu vực ngã ba đường số 105 và đường số 16, cách quận lỵ Quế Sơn 8 km về phía nam. Cứ điểm nằm trên đồi cao. Lực lượng địch ở cứ điểm có một sở chỉ huy tiểu đoàn, một đại đội bộ binh, một trung đội ĐK 57 ly, một trung đội súng đại liên, một trung đội pháo 105 ly. Sau hai giờ chiến đấu quân ta làm chủ trận địa. Sở chỉ huy tiểu đoàn địch cùng lực lượng đóng tại cứ điểm bị diệt hoàn toàn. Quận lỵ Quế Sơn, Thăng Bình bị uy hiếp. Tình thế bắt buộc bọn chỉ huy sư đoàn 2 ngụy phải tổ chức năm cuộc phản kích trên đường số 16. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, trung đoàn 1 cùng lực lượng địa phương đã đánh bại các cuộc phản kích của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 1.000 tên địch trong đó có tiểu đoàn 3 trung đoàn 6 bị tiêu diệt, tám xe M113 bị bắn cháy...

Phối hợp với ba hướng trọng điểm trong đợt hoạt động mùa xuân năm 1965 của Quân khu V, bộ đội địa phương, nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tiến công và nổi dậy tiêu diệt các cứ điểm địch ở Ba Xuân, Ba Động, giải phóng năm xã phía bắc huyện Ba Tơ, chín xã phía tây ba huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:19:59 pm

Tại Phú Yên, lực lượng vũ trang ta đột nhập thị xã Tuy Hoà, đốt cháy 10 vạn lít xăng, 100 tấn quân trang, quân dụng, phá hỏng hai máy bay và một kho đạn. Nhân dân nổi dậy phá banh các ấp chiến lược còn lại.

Ở Khánh Hoà, bộ đội địa phương tỉnh tiến công địch ở Mỹ Đông, Quảng Phước, pháo kích các quận lỵ Vạn Dã, Diên Khánh, đánh sập cầu Hà Dừa.

Trên địa bàn Khu VI, quân khu xác định hướng trọng điểm của đợt hoạt động xuân năm 1965 là Tánh Linh, Hoài Đức (tỉnh Bình Thuận). Ngày 17-1-1965, tiểu đoàn 186 chủ lực quân khu tổ chức phục kích diệt gọn một đại đội bảo an và ba trung đội dân vệ từ Hoài Đức hành quân lên Mêpu. Thừa thắng, ta phát triển đánh chiếm ấp chiến lược Bắc Núi, ấp chiến lược cuối cùng nằm sát chi khu, bao vây uy hiếp quận lỵ Hoài Đức.

Ở Tánh Linh, đầu tháng 2-1965, bộ đội chủ lực quân khu diệt cứ điểm Lồ Ô, đánh thiệt hại nặng chi khu. 1.000 đồng bào trong khu tập trung Đồng Me nổi dậy phá khu tập trung, trở về căn cứ.

Phối hợp cùng hướng trọng điểm Tánh Linh, Hoài Đức, trên đường số 8, bộ đội địa phương huyện diệt một đại đội dân vệ ở chi khu Thiện Giáo (Ma Lâm) và làm tan rã lực lượng bảo an ở đây. Bộ đội đặc công, biệt động đột nhập thị xã Phan Thiết, đánh địch ở bốt cổng chữ Y, vũ trang tuyên truyền ở các ấp Phú Hưng, Phú Thành, Phú Phong B. Đêm 23-2-1965, một bộ phận của chủ lực miền cùng lực lượng địa phương huyện Hàm Tân đánh ấp Hiệp Hoà. Địch từ tiểu khu kéo xuống ứng cứu bị đánh thiệt hại nặng hai đại đội.

Bị đánh mạnh và căng kéo trên các hướng, chỉ huy tiểu khu Bình Tuy buộc phải rút bỏ một số đồn bốt lẻ có nguy cơ bị tiêu diệt.

Ngày 23-2-1965, địch ở chi khu Hoài Đức bỏ đồn chạy về Võ Đắc. Toàn bộ huyện Hoài Đức và phần lớn huyện Tánh Linh với trên ba vạn rưỡi dân được giải phóng hoàn toàn.

Đến cuối tháng 3-1965, ở khu VI, ta đã giải phóng hơn bảy vạn dân. Ở một số nơi vùng tranh chấp áp dần vào vùng ven các thị xã, thị trấn...

Cuộc tiến công đông-xuân 1964-1965 của quân, dân ta ở miền Nam đẩy chiến lược chiến tranh đặc biệt mà Mỹ thí nghiệm và nuôi hy vọng sẽ giành chiến thắng để áp dụng chống “chiến tranh nổi dậy” ở các nơi khác có nguy cơ bị phá sản hoàn toàn. Mỹ cảm thấy “đang chơi một ván bài thua” ở Việt Nam, vì “Việt cộng chiếm được nhiều quá đến nỗi một lần nữa chúng ta lại đứng trước nguy cơ nước này bị cắt làm đôi bởi một mũi dùi của Việt cộng thọc ra đến tận biển”1. Trước tình hình trên, L.Giônxơn tuyên bố trong Thông điệp nhậm chức Tổng thống ngày 20-1-1965 rằng: “Mỹ phải có hành động mạnh mẽ hơn để ngăn chặn sự sụp đổ hoàn toàn của quân đội Việt Nam cộng hoà và chính quyền miền Nam, giữ vững Nam Việt Nam”. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc viện cớ “trả đũa Việt cộng” tiến công trại lính Mỹ Hôlôwây ở Plâycu, họ coi đó là sự kiện “nhạy cảm” nhất đối với Mỹ. Bởi vậy, Tổng thống Mỹ ra lệnh cho tàu tuần tiễu và khu trục hạm kéo vào vùng biển Vịnh Bắc Bộ sẵn sàng hành động. Trên vùng biển đối diện với miền Bắc có 250 máy bay tiến công cùng với sư đoàn không quân số 2 do tướng Mo chỉ huy đóng ở Biên Hoà, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất và 500 máy bay ở các căn cứ U Đôn, Nakhom Phanom, U Bon, Cò Rạt, Tắcli ở Thái Lan sẵn sàng xuất kích. Ngày 7-2-1965, Mỹ mở chiến dịch không quân mang tên Mũi lao lửa I (Flemming Dart I) ném bom Vĩnh Linh, Đồng Hới (Quảng Bình). Ngày 13-2-1965, Mỹ mở chiến dịch không quân Mũi lao lửa II (Flemming Dart II) ném bom miền Bắc Việt Nam đến vĩ tuyến 19. Lý do mà Mỹ đưa ra để đánh phá nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nước độc lập, có chủ quyền được pháp lý quốc tế thừa nhận của Mỹ thực chất là ngụy biện để che đậy âm mưu, hành động xâm lược của Mỹ, lừa dối dư luận nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ, đang phản đối chúng. Loài người tiến bộ tự hỏi: Các trận tiến công khách sạn Brink, toà đại sứ Mỹ trước đó của Quân giải phóng đã gây cho Mỹ thiệt lại nặng gấp nhiều lần so với trận Hôlôwây về nhân mạng và phương tiện chiến tranh, nhưng sao những người cầm quyền nước Mỹ không cho đó là “sự kiện nhạy cảm” để trả đũa? Lời biện minh của giới lãnh đạo Mỹ rõ ràng không che đậy được bản chất xâm lược của chúng.

Xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và quy luật của cuộc chiến tranh xâm lược mà chúng từng tiến hành ở nhiều nơi trên thế giới, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh báo động trong toàn bộ lực lượng vũ trang và nhân dân. Chấp hành chỉ thị của Trung ương, với ý thức cảnh giác thường trực, từ sáng sớm Ngày 7-2-1965, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân ra lệnh báo động và điều một số đơn vị cơ động đến nơi dự kiến địch sẽ đánh phá. Trung đoàn rađa 290 do trung đoàn trưởng Lương Hữu Sắt và Chính uỷ Nguyễn Đặng Tuất chỉ huy thường xuyên phát sóng theo dõi, bám sát địch, thông báo kịp thời cho lực lượng phòng không và nhân dân. 13 giờ 53 phút, rađa của đại đội 12 phát hiện tốp máy bay đầu tiên từ hướng cồn cát Phú Hội bay vào ném bom thị xã Đồng Hới. Cán bộ, chiến sĩ các sư đoàn phòng không 325, 341 sẵn sàng trên mâm pháo, phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ đánh trả mãnh liệt, bắn rơi ba máy bay Mỹ.
_______________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, VNTTX phát hành, Hà Nội, 1971, t.2, tr. 157.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:20:45 pm

Ngày 8-2-1965, không quân Mỹ tiếp tục thực hiện kế hoạch “Mũi lao lửa I”. Lần này, không quân Mỹ phối hợp với không quân ngụy do Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy lao vào đánh phá Hồ Xá (Vĩnh Linh), thị xã Đồng Hới. Lực lượng phòng không trong khu vực Vĩnh Linh, Đồng Hới được thông báo kịp thời, cùng bắt được mục tiêu. Trên hướng Vĩnh Linh, ta bắn rơi ba máy bay và tại Đồng Hới bắn rơi hai chiếc.

Như vậy trong hai ngày 7 và 8- 2-1965, các đơn vị phòng không ở khu vực Vĩnh Linh, Đồng Hới (Quảng Bình) đã bắn rơi tám máy bay địch, bắn bị thương nhiều chiếc khác.

Sau hai ngày đầu hoạt động không kết quả, địch tạm ngưng đánh phá, dùng máy bay U2 do thám trên vùng trời miền Bắc. Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân nhận định: địch sẽ còn tiếp tục đánh phá Vĩnh Linh, Quảng Bình, điều tiểu đoàn pháo 37 do đồng chí Lại Đạt, tiểu đoàn trưởng và Nguyễn Nghị, chính trị viên, hành quân cấp tốc từ Vinh vào Đồng Hới. Lực lượng súng máy 14,5 ly của trung đoàn 234 cùng hai tiểu đoàn (8 và 9) của Trường sĩ quan pháo phòng không cùng được điều vào Vĩnh Linh, Quảng Bình tham gia chiến đấu. Bộ Tổng tham mưu đưa hai đại đội pháo của tiểu đoàn 14, sư đoàn 304 ở Hàm Rồng vào tăng cường bảo vệ thành phố Vinh. Bộ Tư lệnh Quân khu IV đưa đại đội 24, tiểu đoàn 14, sư 341 tăng cường cho Hồ Xá (Vĩnh Linh).

Đúng như nhận định của ta, ngày 11-2-1965, máy bay Mỹ tiếp tục đánh phá thị trấn Hồ Xá, khu vực Vĩnh Linh, đảo Cồn Cỏ, thị xã Đồng Hới và một số vùng phụ cận. Các lực lượng phòng không của ta bắn rơi một chiếc F8U, bắt sống thiếu tá phi công Rôbot Sumếchcơ tại đồi Lý Ninh. Tại cảng Gianh, đại đội 54 cùng các phân đội súng máy của hải quân, tự vệ ngư trường sông Gianh và dân quân các xã hai bên bờ sông cũng đánh trả quyết liệt, hạ hai máy bay Mỹ. Trong ngày 11-2-1965, quân và dân Quảng Bình bắn rơi sáu máy bay. Mũi lao lửa I bị bẻ gẫy, chúng liền chuyển sang thực hiện kế hoạch Mũi lao lửa II, đồng thời, ngày 13-2 Tổng thống L. Giônxơn chấp thuận chiến dịch ném bom toàn bộ miền Bắc liên tục nhằm “bẻ gẫy ý chí của Hà Nội” với mật danh Sấm Rền (Rolling Thunder). Kế hoạch này được tiến hành từ ngày 2-3-1965. Mở đầu kế hoạch Sấm Rền, 14 giờ 47 phút, Mỹ huy động 164 lần/chiếc máy bay từ các tàu sân bay chia thành nhiều tốp, theo nhiều hướng, ồ ạt tiến công căn cứ hải quân ở sông Gianh hòng tiêu diệt các tàu chiến và cơ sở cầu cảng của Hải quân Việt Nam để bảo đảm an toàn cho hải quân Mỹ khi đánh phá miền Bắc. Các lực lượng phòng không trên các tàu 161, 167, 171, 173, 175, đại đội 24, phân đội súng máy của đại đội 47 (thuộc Hải quân) phối hợp với tự vệ ngư trường, dân quân các xã Quảng Phúc, Quảng Thuận, Thanh Trạch tập trung hoả lực đánh trả quyết liệt, bắn rơi bảy máy bay (gồm A4 và F8 ).

Từ ngày 14 đến ngày 17-3-1965, địch liên tiếp sử dụng hàng trăm lượt máy bay mở rộng phạm vi đánh phá ra đến vĩ tuyến 19. Chúng tập trung vào các mục tiêu quan trọng như doanh trại quân đội, kho tàng.... Quân khu IV phải huy động hàng trăm xe ôtô cùng hàng ngàn người bốc dỡ, vận chuyển, sơ tán 4.700 tấn hàng về các kho dã chiến, chuyển 8.815 tấn vật chất phục vụ yêu cầu chiến đấu trên địa bàn quân khu, tiếp nhận 8.250 tấn hàng hoá của Tổng cục Hậu cần giao. Quân khu còn điều chỉnh lực lượng pháo cao xạ theo hướng tập trung bảo vệ những mục tiêu chủ yếu, phát động phong trào bắn máy bay rộng khắp ở các đơn vị địa phương...

Hưởng ứng phong trào này, ngày 15-3-1965, tổ dân quân xã Diễn Hùng do Tô Đức Hùng chỉ huy, bắn rơi một máy bay địch, mở đầu cho phong trào bắn máy bay bằng súng bộ binh trên miền Bắc.

Ngày 23-3-1965, máy bay địch đánh phá trận địa đại đội 11 rađa. Phân đội súng máy 14,5 ly và các tổ súng trường của đại đội phối hợp với lực lượng phòng không Vĩnh Linh kịp thời nổ súng. Ngay từ những phút đầu, một máy bay F105 của địch bị bắn rơi. Địch lao vào đánh phá ác liệt hơn. Bom rơi trúng trận địa, một số chiến sĩ hy sinh, song cả đại đội 11 vẫn không rời tay súng. Nhiều gương chiến đấu dũng cảm xuất hiện như chính trị viên đại đội Ngô Ngọc Diệp, chiến sĩ quan sát Phan Sĩ Yên, pháo thủ Mạnh Trọng Hảo.... Sau một giờ chiến đấu, trên bầu trời Vĩnh Linh, quân và dân ta đã bắn rơi bảy máy bay Mỹ, bắn bị thương nhiều chiếc khác. Hôm sau, ngày 24-3-1965, địch lại cho 24 máy bay đánh phá trạm rađa Đồng Hới do đại đội rađa 12 đóng giữ. Dự đoán được kế hoạch đánh phá của địch, trước đó đại đội 12 bí mật di chuyển khỏi trận địa, thay vào đó, một trận địa rađa giả. Tiểu đoàn 8 Trường sĩ quan pháo phòng không, tiểu đoàn pháo của trung đoàn 280 cùng lực lượng phòng không địa phương khẩn trương tổ chức trận địa phục kích đón đánh địch. Khi máy bay địch nhào tới oanh tạc trận địa rađa giả lực lượng phòng không của ta tới tấp bắn trả, hạ tại chỗ hai máy bay địch...

Qua ba tháng Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc với ý đồ khuất phục nhân dân ta trong vòng vài ba tháng, buộc miền Bắc ngừng hoặc giảm chi viện cho cách mạng miền Nam đã không thực hiện được. Trước tình hình đó, ngày 1-4-1965, Tổng thống Mỹ quyết định leo thang chiến tranh bằng việc cho phép không quân Mỹ đánh phá hệ thống cầu, cống, bến phà và nhiều mục tiêu từ vĩ tuyến 20 trở vào.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:21:09 pm

Về phía ta, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo tăng cường lực lượng pháo phòng không cho Quân khu IV và các thành phố trọng điểm như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Bộ Tổng tham mưu lệnh cho Quân chủng Phòng không-Không quân mạnh dạn sử dụng không quân khi cần, tích cực cơ động các đơn vị pháo phòng không, chủ động tổ chức trận địa phục kích, tạo yếu tố bất ngờ, đánh thắng địch giòn giã hơn nữa. Trong sử dụng lực lượng, lấy bảo vệ giao thông làm nhiệm vụ hàng đầu, chú trọng tập trung lực lượng vào các trọng điểm giao thông. Theo phương hướng đó, Quân chủng Phòng không-Không quân khẩn trương hoàn chỉnh các phương án tác chiến và thành lập hai trung đoàn tên lửa đất đối không, xây dựng trung đoàn 910 không quân thành trường huấn luyện chiến sĩ lái máy bay, khẩn trương xây dựng trung đoàn không quân tiêm kích 923, tiểu đoàn thông tin 26 thành trung đoàn 26 thông tin không quân.

Trong điều kiện bảo vệ mục tiêu trên diện rộng, Bộ Tư lệnh quân chủng quyết định điều chỉnh việc bố trí lực lượng cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ: trung đoàn 228 từ Thanh Hoá được điều về tăng cường bảo vệ Hà Nội và cơ động tác chiến trên hướng đường số 5 và tả ngạn sông Hồng; trung đoàn 212 từ Xuân Mai về tăng cường bảo vệ Hà Nội và cơ động tác chiến trên hướng tây-nam Hà Nội; một đại đội của trung đoàn 218 về tăng cường bảo vệ Nam Định…

Hàm Rồng được xác định là một trong những trọng điểm đánh phá của địch. Tại đây, ta bố trí hai đại đội pháo 57 ly của trung đoàn 234, hai đại đội pháo 37 ly của Quân khu III, một đại đội súng máy cao xạ 14,5 ly của sư đoàn 304 bộ binh và lực lượng phòng không trên tàu hải quân đậu ở sông Mã. Dọc các tuyến giao thông huyết mạch, bộ đội phòng không của chủ lực, địa phương, dân quân, tự vệ tập trung bố trí ở các bến vượt, cầu phà. Do vị trí đặc biệt quan trọng của cầu Hàm Rồng, khi soát lại các phương án đánh địch, đêm 1-4-1965, Bộ Tư lệnh Quân chung Phòng không-Không quân quyết định sử dụng lực lượng không quân tiêm kích hiệp đồng với các lực lượng phòng không ở mặt đất quyết tâm bảo vệ bằng được trọng điểm huyết mạch này của hệ thống giao thông từ Bắc vào Nam. Cục Tham mưu quân chủng trực tiếp xây dựng kế hoạch hiệp đồng tác chiến bảo vệ cầu.

Sáng 3-4-1965, nhiều tốp máy bay đánh cầu Đò Lèn (Thanh Hoá). Ngay từ phút đầu, lực lượng phòng không của trung đoàn 234 và của địa phương đã bắn rơi một chiếc F4. 10 giờ, máy bay địch đánh phá khu vực cầu Hàm Rồng. Được lệnh của Tư lệnh quân chủng, trung đoàn không quân 921 sử dụng hai biên đội MIG 17 do Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh chỉ huy tham gia cùng lực lượng phòng không đánh địch. Sau 20 phút xuất kích, không quân ta bắn rơi hai chiếc F8 và trở về căn cứ an toàn. Trận đầu ra quân, không quân Việt Nam đã lập công xuất sắc. Chiến công này có phần đóng góp của đại đội 29 rađa dẫn đường. 12 giờ 50 phút, máy bay địch tiếp tục đánh phá cầu Hàm Rồng. Các lực lượng phòng không chiến đấu quyết liệt suốt gần hai giờ. Tổ súng máy của dân quân do Phạm Gia Huấn chỉ huy bắn rơi một máy bay địch. Kết quả trong ngày 3-4-1965, các lực lượng phòng không không quân ta đã phối hợp bắn rơi tám máy bay Mỹ. Ngày 3-4-1965 trở thành ngày truyền thông của Không quân nhân dân Việt Nam.

Nhận định địch sẽ huy động lực lượng lớn đánh phá Hàm Rồng ác liệt hơn, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân điều ba đại đội pháo phòng không thuộc trung đoàn 234 từ Nghệ An ra tăng cường bảo vệ Hàm Rồng. Ngay trong đêm 3-4, đơn vị khẩn trương tổ chức hành quân di chuyển, đến phà Ghép thì trời vừa sáng. Đại đội 4 sang được phà tiến thẳng về hướng Hàm Rồng. Số còn lại gồm 11 khẩu đội cao xạ đang lần lượt qua phà, thì 8 giờ 20 phút, máy bay Mỹ lao đến ném bom. Đang hành quân, pháo không kịp tháo khỏi xe kéo, chiến sĩ ta cứ thế đánh trả máy bay địch. Dân quân các xã Hải Châu, Hải Ninh, Hải An hai bên phà Ghép phối hợp chiến đấu cùng bộ đội. Ba mươi phút chiến đấu ác liệt, ta bắn rơi ba máy bay Mỹ, bắt một giặc lái. 9 giờ 30 phút, không quân Mỹ đánh phà Ghép lần thứ hai. Các chiến sĩ đại đội 2, đại đội 5, trung đoàn 234 và khẩu đội súng máy 14,5 ly tăng cường cho phà Ghép phối hợp với dân quân, tự vệ hai bên bờ sông Yên bắn cháy bảy máy bay Mỹ.

Cũng trong ngày 4-4 tại Hoàng Mai (Nghệ An), tiểu đoàn 8 Trường sĩ quan pháo phòng không do tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Dĩnh, chính trị viên Vũ Bá Linh chỉ huy kịp thời triển khai trận địa trên đồi cao, bắn rơi một máy bay khi chúng lao xuống đánh cầu Hoàng Mai.

Trong ngày 4-4, tại khu vực Hàm Rồng, không quân Mỹ liên tục tổ chức nhiều đợt đánh phá. Tám giờ 30 phút, máy bay địch lao vào, lập tức, chúng bị lưới lửa phòng không của ta trừng trị, 1 máy bay F105 rơi tại chỗ. 9 giờ 30 phút, không quân Mỹ đánh Hàm Rồng lần thứ hai. Chúng lao xuống ném bom, bắn phá ồ ạt hai bên cầu, núi Ngọc, chợ Chớp (Hoàng Long), cầu Tào (Hoàng Lý), Nam Ngạn (thị xã)… Lửa, khói, bom đạn kín một vùng sông nước khu vực Hàm Rồng. 10 giờ 5 phút, không quân địch đánh phá cầu Hàm Rồng lần thứ ba. Hoả lực của biên đội tàu tuần tiễu 120, 136 hải quân, các trận địa pháo của trung đoàn 228, trung đoàn 280, trung đoàn 234, tiểu đoàn cao xạ thuộc sư đoàn bộ binh 304 và hoả lực tầm thấp của dân quân Nam Ngạn, Yên Vực, Hoàng Long, Hoàng Lý, Đông Tác, tự vệ nhà máy điện tạo thành lưới lửa nhiều tầng trên bầu trời Hàm Rồng phá vỡ đội hình bay của không quân Mỹ. Trong lúc hoảng loạn, chúng ném bom bừa bãi xuống các làng mạc hai bên cầu rồi tháo lui. Cùng lúc, biên đội không quân do Trần Hanh chỉ huy được lệnh xuất kích, bất ngờ xuất hiện công kích ngay phía sau đội hình F105 của địch. Sau bốn phút không chiến, biên đội của Trần Hanh bắn rơi hai chiếc F105 “thần sấm”... Dưới bom đạn ác liệt cầu Hàm Rồng vẫn sừng sững hiên ngang vắt qua sông Mã. Những đoàn xe vận tải, xe kéo pháo phủ kín lá ngụy trang nối đuôi nhau qua cầu hướng về Nam. Trong lúc đó ở các đảo thuộc vùng biển Quân khu IV, không quân và hải quân Mỹ cũng đánh phá dữ dội suốt ngày đêm. Tại đảo Cồn Cỏ, trong tháng 3-1965, hầu như ngày nào máy bay địch cũng đánh phá. Nguồn tiếp tế từ đất liền ra đảo bị gián đoạn. Vượt lên mọi khó khăn, chiến sĩ đảo Cồn Cỏ tổ chức trồng rau quanh trận địa, bắt của, câu cá cải thiện đời sống. Chi bộ đảng trên đảo chủ trương: “Công sự hoá toàn đảo, toàn năng hoá mọi người”. Từ đất liền, quân, dân Vĩnh Linh và Khu IV ngày đêm hướng ra đảo. Nhiều đội cảm tử vượt biển tiếp tế cho Cồn Cỏ. Hàng vạn bức thư trên khắp mọi miền của Tổ quốc gửi ra động viên cán bộ, chiến sĩ Cồn Cỏ-những người đứng vững trước mọi thử thách và trở thành niềm tự hào của quân, dân Vĩnh Linh cũng như trong cả nước.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:22:03 pm

Ngày 12-4-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen cán bộ, chiến sĩ đảo Cồn Cỏ “đã chiến đấu liên tục và rất dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay và đánh đuổi tàu biệt kích Mỹ... xứng đáng với truyền thống anh hùng của quân và dân ta”1.

Cùng với hành động đánh phá miền Bắc, ngày 8-3-1965, Mỹ đưa hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ vào Đà Nẵng. Đây là những đơn vị chiến đấu Mỹ đầu tiên được đưa đến miền Nam. Cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở miền Nam đến đây, trên thực tế, đã có những nhân tố của một cuộc chiến tranh cục bộ.

Trước tình hình đó, từ ngày 25 đến 27-3-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11 và ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt của cách mạng. Hội nghị nhận định: “Từ hơn một năm nay, cuộc đấu tranh yêu nước, cách mạng của đồng bào miền Nam đã tiến bộ rất nhanh, thu được những thắng lợi ngày càng lớn, cuộc chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ ngày càng bị khủng hoảng và thất bại nghiêm trọng”. “Đế quốc Mỹ đã thấy rõ là chúng có thể bị thất bại hoàn toàn nếu không thay đổi chính sách, cho đến cả thay đổi chiến lược của cuộc chiến tranh đặc biệt của chúng ở miền Nam.... Do đó chúng đang từng bước đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ và chư hầu vào miền Nam để quyết giữ chặt một số vùng chiến lược quan trọng, ngăn chặn sự tan rã của quân đội tay sai, chống lại phong trào quần chúng ở đô thị và chúng sẽ tăng cường hoạt động với mức độ ác liệt và thâm độc hơn để cố giành lại một số mục tiêu chiến lược đã mất và cải thiện tình hình quân sự và chính trị của chúng. Đồng thời, chúng mở rộng hoạt động không quân ném bom, bắn phá miền Bắc, gây áp lực hòng làm cho ta giảm sức tiến công chúng ở miền Nam, dùng sự đe dọa mở rộng chiến tranh tạo ra một dư luận trên thế giới ép ta phải nhân nhượng chúng, ngừng cuộc đấu tranh cách mạng yêu nước ở miền Nam. Với những hành động trên đây của Mỹ, cuộc chiến tranh đặc biệt của chúng ở miền Nam đã được đẩy tới mức độ cao, bao gồm một số yếu tố của chiến tranh cục bộ và chiến tranh đã vượt khỏi phạm vi miền Nam lại đến miền Bắc, trước mắt với hình thức ném bom, bắn phá bằng không quân”2.

Những âm mưu và hành động mới của Mỹ đã làm cho tình hình Việt Nam từ một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hoà bình đã chuyển thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền. Vấn đề đặt ra lúc này là phải động viên sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên cả hai miền, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, quyết chiến thắng cho kỳ được cuộc chiến tranh đặc biệt ở miền Nam, tích cực đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả bằng không quân, hải quân của địch ngày càng ác liệt hơn trên miền Bắc, đồng thời, chuẩn bị sẵn sàng đối phó để có thế thắng địch nếu chúng biến chiến tranh ở miền Nam hiện nay thành chiến tranh cục bộ, hoặc chúng gây ra chiến tranh cục bộ ở cả hai miền Nam, Bắc.

Xuất phát từ những nhận định trên đây, Hội nghị đề ra nhiệm vụ cho quân và dân ta trên cả hai miền là: “Tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra; tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong toả bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào”3. Trong tình hình cả nước có chiến tranh với mức độ và hình thức khác nhau, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương xác định: “Miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn nhưng hậu phương ấy cũng đang có chiến tranh hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu”4. Vì vậy, Hội nghị Trung ương quyết định chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc vào thời chiến để một mặt phù hợp với tình hình địch đánh phá, mặt khác, đáp ứng yêu cầu phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Trong Hội nghị này, Trung ương đề ra đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao cho phù hợp với tình hình mới, làm rõ chính sách và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ, cuộc đấu tranh của nhân dân ta là chính nghĩa.

Bằng Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, Đảng ta đã chuẩn bị trước một bước cho nhân dân ta về tư tưởng, tổ chức để chủ động đối phó với những tình huống phức tạp của chiến tranh, thể hiện tư duy sắc sảo của Đảng ta mà tập trung là Ban Chấp hành Trung ương trong việc đề ra đường lối, chỉ đạo của kháng chiến, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua các bước ngoặt của chiến tranh, chủ động tiến lên giành những thắng lợi lớn hơn.
_______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.11 tr.436.
2. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (Khoá III) tháng 3-1965, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TW 816.
3, 4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, tldd.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:22:42 pm

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11, ngày 27-4-1965, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ thị cho các chiến trường đẩy mạnh tác chiến của bộ đội chủ lực, mở những đợt hoạt động và chiến dịch cùng một lúc trên nhiều hướng, kết hợp tiến công quân sự với khởi nghĩa của quần chúng ở từng khu vực nhằm thúc đẩy nhanh quá trình sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền... để chuẩn bị điều kiện đối phó và quyết thắng địch nếu chúng mở rộng thành chiến tranh cục bộ.

Tại miền Nam, Trung ương Cục chủ trương: tiếp tục tạo thế, tạo lực, đẩy mạnh tiến công trên các mặt trận, các địa bàn, làm phá sản kế hoạch bình định có trọng điểm, đánh qụy quân chủ lực ngụy, góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt, tạo thế chủ động chiến trường, sẵn sàng trong tư thế đánh Mỹ nếu chúng liều lĩnh gây ra cuộc chiến tranh cục bộ.

Thực hiện chủ trương đó, Bộ chỉ huy quân sự miền quyết định mở tiếp đợt hoạt động xuân-hè 1965 trọng điểm là chiến dịch tiến công Đồng Xoài, nhằm đánh qụy quân ngụy trước khi Mỹ tăng quân vào miền Nam. Địa bàn chiến dịch trải rộng gần 1.000 km2 bao gồm các tỉnh Phước Long, Bình Long (hướng chính), Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hoà, Bà Rịa (hướng phối hợp). Sau chiến dịch Bình Giã, đây là lần thứ hai ta sử dụng một lực lượng tương đối lớn gồm bốn trung đoàn1, hai tiểu đoàn, và một số đơn vị đặc công, hoả lực phối hợp với lực lượng địa phương mở chiến dịch trên một khu vực rộng. Bộ chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí Lê Trọng Tấn, chỉ huy trưởng, Trần Độ chính uỷ, Hoàng Cầm, chỉ huy phó, tham mưu trưởng.

Đêm ngày 10 rạng ngày 11-5-1965, chiến dịch bắt đầu. Tiểu đoàn 1, trung đoàn 1 (Q761) chủ lực miền, tiểu đoàn 840 của Quân khu miền Đông và lực lượng pháo binh, đặc công tiến công tiểu khu Phước Long (thị xã Phước Long). Cùng lúc, một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 2 (Q762) và một đại đội thuộc trung đoàn 1 nổ súng tiến công chi khu Phước Bình.

Tại thị xã Phước Long, ngay trong đêm, bộ đội ta chiếm được khu truyền tin, kho xăng, khu cảnh sát, đồn bảo an... Lực lượng đặc công, sau khi chiếm dinh tỉnh trưởng, phát triển sang khu cư xá Mỹ, tiêu diệt 28 tên cố vấn.

Ở Phước Bình, chỉ sau 25 phút chiến đấu, ta làm chủ chi khu.

Được tin Phước Long thất thủ, ngụy quyền Sài Gòn lập tức điều quân đến ứng cứu, giải toả. Song các đường giao thông số 13, số 14 đều bị cắt đứt; thêm vào đó, bộ đội địa phương liên tiếp đánh chặn ở nhiều nơi, địch không thực hiện được phương án giải toả bằng đường bộ, chúng buộc phải dùng trực thăng đổ quân ứng cứu. Sau khi được tăng viện, địch tổ chức phản công hòng chiếm lại Phước Long. Trong cuộc chiến đấu đó, ta đánh lui sáu đợt phản công của địch, diệt hai đại đội thuộc tiểu đoàn 36 biệt động (trong đó có tên tiểu đoàn trưởng), bắn rơi 13 máy bay.

Hướng Phước Bình, lúc 9 giờ ngày 11-5-1965, tiểu đoàn 34 biệt động quân được không vận xuống Hiếu Phong cách thị xã 12 đến 14 km về phía đông-nam. Từ đây, địch hành quân lên Phước Bình. Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho trung đoàn 2 và 3 xuất kích, nhưng khi trung đoàn 2 vận động đến sân bay Phước Bình, thì địch đã rút hết. Ta mất thời cơ tiêu diệt địch.

Ngày 12-5-1965, lực lượng ta rút khỏi thị xã Phước Long.

Trên hướng phối hợp ngày 15-5, trung đoàn 4 tổ chức phục kích trên đường số 20, diệt hai đại đội bảo an, phá huỷ 20 xe quân sự. Trên các đường số 20, 13, 14, ta phá sập 12 cầu, buộc địch phải đưa ba tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 43 và 48 đến giải toả, khôi phục các trục giao thông này.

Đợt một chiến dịch Đồng Xoài kết thúc, Quân ủy miền và Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định: khu vực chủ yếu địch còn cố giữ là Chơn Thành, Đồng Xoài, thị xã Phước long, Bình Long, Bù Đốp, trong đó Đồng Xoài giữ vị trí có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Đồng Xoài (còn gọi là Đôn Luân) ở nam thị xã Phước Long 35km. Đây là khu vực nằm trùm lên ngã tư quốc lộ số 14 và tỉnh lộ số 2, là cứ điểm mạnh trong tuyến phòng thủ sông Bé bảo vệ phía bắc Sài Gòn. Từ Đồng Xoài, địch có thể khống chế cả khu vực Phước Long, Bình Long, Châu Thành, Đồng Phú. Do đó tại Đồng Xoài, địch bố trí nhiều đơn vị thiện chiến với tổng số gần 2.000 tên, có pháo binh, cơ giới yểm trợ.

Bộ chỉ huy chiến dịch chọn Đồng Xoài làm khu vực quyết chiến chiến dịch và trận đánh chi khu Đồng Xoài là trận then chốt quyết định. Ta tập trung lực lượng vào Đồng Xoài gồm trung đoàn 2, tăng cường thêm tiểu đoàn 2 của trung đoàn 3 chủ lực miền, bộ đội địa phương tỉnh Bình Long, Phước Long và du kích các xã.
_______________________________________
1. Gồm trung đoàn 1 (Q761), t.rung đoàn 2 (Q762), trung đoàn 3 (mới thành lập sau chiến dịch Bình Giã) và trung đoàn 4 (tức là trung đoàn Đồng Nai, trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân khu miền Đông, thành lập ngày 2-3-1965).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:23:19 pm

Sau một thời gian tìm hiểu tổ chức bố phòng cũng như quy luật hoạt động của địch ở khu vực Đồng Xoài, đêm 9-6-1965, bộ đội ta bắt đầu hành quân chiếm lĩnh trận địa. Trong quá trình triển khai đội hình chiến đấu, địch báo động bất ngờ, tiểu đoàn 2 làm nhiệm vụ mở cửa tưởng bị lộ liền nổ súng. Trước tình huống ngoài dự kiến, ban chỉ huy trung đoàn 2 lập tức ra lệnh tiến công sớm hơn dự định 70 phút. Trận đánh kéo dài và ngày càng trở nên ác liệt vì địch được tăng viện thêm tám đại đội. Ngoài ra, có nhiều bãi mìn, hàng rào dây kẽm gai trước trận địa địch được chúng bí mật bố trí xây dựng thêm, mà trước đó ta không phát hiện. Chi khu lại có đồn bảo an và đồn biệt động quân, khi bị tiến công, lực lượng địch ở hai đồn chi viện cho nhau rất đắc lực, gây cho ta nhiều thương vong. Các chiến sĩ tiểu đoàn 2 phải đối phó với lưới lửa dày đặc của địch trong gần hai tiếng đồng hồ mới khai thông được cửa mở. Khi ta tiêu diệt được đồn bảo an, thì trời gần sáng. Lúc này ở khu biệt động quân, tiểu đoàn 1 lợi dụng thời cơ địch lo đối phó với tiểu đoàn 2 tiến đánh đồn do quân biệt động đóng giữ, một số bị diệt, một số ra hàng. 4 giờ sáng ngày 10-6-1965, quân ta làm chủ đại bộ phận cứ điểm Đồng Xoài. Địch co về sở chỉ huy, nhà cố vấn, dựa vào hầm ngầm cố thủ chống cự. Ta trụ lại bao vây. Trưa ngày 10-6-1965, địch dùng máy bay đổ tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 7, sư đoàn 5 ngụy xuống Thuận Lợi hòng giải vây cho Đồng Xoài. Trung đoàn 1 nhanh chóng vận động đến bao vây tiêu diệt gọn tiểu đoàn địch vừa đổ xuống. 15 giờ, địch lại đổ tiểu đoàn 52 biệt động quân xuống một khu vực cách Đồng Xoài 2km về phía đông nhằm phản kích chiếm lại Đồng Xoài. Một đại đội của trung đoàn 1 đã đánh chia cắt đội hình địch, diệt gọn đại đội đi đầu, buộc số còn lại tản vào rừng.

Sáng 11-6-1965, địch tiếp tục đưa tiểu đoàn 7 nhảy dù, tiểu đoàn 46 biệt động quân thuộc sư đoàn 5 cùng một đại đội pháo 105 ly tới Đồng Xoài. Ngày 12-6, tiểu đoàn 7 nhảy dù từ Đồng Xoài hành quân lên Thuận Lợi để thu lượm tàn binh và xác đồng bọn. Trung đoàn 1 bố trí sẵn trận địa phục kích, bất ngờ nổ súng, khiến đội hình địch bị rối loạn ngay từ đầu. Sau một giờ 40 phút chiến đấu, trung đoàn 2 tiêu diệt tiểu đoàn nhảy dù 7, bắt 30 tên. Đây là tiểu đoàn nhảy dù thứ hai thuộc lực lượng cơ động chiến lược của quân ngụy bị xoá sổ. Dự kiến địch sẽ còn đổ quân để giải toả những khu vực bị ta đánh chiếm, Bộ chỉ huy chiến dịch cho điều chỉnh lại đội hình chiến đấu của trung đoàn 1 và 2, sẵn sàng đánh tiêu diệt lớn. Trong ngày 13-6, địch chỉ đổ một tiểu đoàn xuống Đồng Xoài. Nhưng ngày sau đó, địch không hành quân, chỉ cho một bộ phận thám báo sục sạo, thăm dò cách bố trí của lực lượng ta. Ngày 17-6, địch rút khỏi Đồng Xoài. Đến đây, nhiệm vụ tiêu diệt chi khu Đồng Xoài và viện binh xung quanh chi khu đã hoàn thành. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc đợt hai, củng cố lực lượng, chuẩn bị cho đợt ba chiến dịch.

Trong đợt ba, ta tiếp tục giành thắng lợi, tiêu diệt và đánh thiệt hại ba tiểu đoàn chủ lực ngụy, làm chủ hoàn toàn cứ điểm Đồng Xoài. Về thất bại này, Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ ghi nhận: “Tháng 6-1965, Việt cộng tiến công một tiền đồn ở Đồng Xoài và khi quân tiếp viện của chính phủ được đưa đến nhỏ giọt, họ bị kẻ địch ngốn hết”1. “Việt cộng chiếm được thị xã và khu cố vấn Mỹ, gây thương vong nặng nề” và “cơn bão đã nổi lên thật sự”2.

Chiến thắng Đồng Xoài có ý nghĩa rất quan trọng, nó góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường Nam Bộ có lợi cho ta. Sau chiến thắng này, trung đoàn 2 chủ lực miền được vinh dự mang tên Trung đoàn Đồng Xoài.

Phối hợp với Đồng Xoài, trên chiến trường Khu V, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu chủ trương tập trung chủ lực, mở đợt hoạt động hè trên ba hướng: bắc Quảng Ngãi, nam Tây Nguyên và tây Gia Lai- bắc Kon Tum.

Trên hướng bắc Quảng Ngãi, trọng điểm của đợt hoạt động ở đồng bằng, ta mở chiến dịch Ba Gia (còn gọi là chiến dịch tây Sơn Tịnh). Địa bàn chiến dịch gồm ba huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, thị xã Quảng Ngãi, trong đó Ba Gia là điểm quyết chiến then chốt.

Cứ điểm Ba Gia (Gò Cao) nằm án ngữ phía tây huyện Sơn Tịnh. Nó cùng với cứ điểm Hà Thành (huyện Sơn Hà) và Trà Bồng tạo thành khu tam giác phòng ngự phía tây tỉnh Quảng Ngãi. Đóng giữ cứ điểm này là tiểu đoàn 1 trung đoàn 51 ngụy. Bên cạnh lực lượng ở Ba Gia, địch còn bố trí tiểu đoàn 2 đứng chân tại thị xã Quảng Ngãi, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 51) đứng chân ở Châu Ổ (Bình Sơn), hai tiểu đoàn biệt động 37 và 39 thuộc lực lượng cơ động Vùng I chiến thuật sẵn sàng ứng cứu bất cứ lúc nào.

Về phía ta, lực lượng tham gia chiến dịch có trung đoàn 1 bộ binh (chủ lực Quân khu V) với ba tiểu đoàn 40, 60, 90 được tăng cường một tiểu đoàn trợ chiến, tiểu đoàn 45 độc lập do trung đoàn trưởng Lê Hữu Trữ và chính uỷ Nguyễn Đình Trọng chỉ huy tiến công trên hướng chủ yếu. Tiểu đoàn 83, bộ đội địa phương tỉnh cùng hai đại đội địa phương huyện và dân quân, du kích đảm nhiệm hướng thứ yếu. Đồng chí Chu Huy Mân, tư lệnh kiêm chính uỷ quân khu, trực tiếp làm tư lệnh chiến dịch.
_______________________________________
1, 2. Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ, t.2, tlđd, tr.68, 88.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:23:57 pm

Đêm 28-5-1965, các lực lượng tham gia chiến dịch bắt đầu hành quân chiếm lĩnh các khu vực ém giấu quân: tiểu đoàn 90 ở Minh Thành, tiểu đoàn 60 ở Vĩnh Lộc 1 (nam đồi Chóp Nón), tiểu đoàn 40 ở Duyên Phước 4 (đông núi Khỉ), tiểu đoàn 45 ở Vinh Khánh. Sở chỉ huy trung đoàn đóng ở Núi Thành (mỏm Hóc Khoai). Riêng tiểu đoàn 83 bộ đội địa phương tỉnh được lệnh bí mật áp sát quận lỵ Nghĩa Hành.

Theo kế hoạch chiến dịch, ngay trong đêm 28-5, ta tập kích đại đội cơ động của địch ở Duyên Phước, kéo địch từ đồn Ba Gia ra ứng cứu. Nhưng trước đó không lâu, đại đội này đã di chuyển về Núi Tròn. Ta thay đổi kế hoạch, dùng một trung đội bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh tập kích vào hai trung đội dân vệ ở làng Phước Lộc, buộc đại đội đóng ở Núi Tròn phải quay về ứng cứu, tạo điều kiện cho đại đội 2 tiểu đoàn 90 phục kích tiêu diệt, Thực hiện kế hoạch đó, ngày 29-5-1965, trinh sát đặc công của trung đoàn 1 phối hợp với một trung đội bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh đánh địch ở Phước Lộc. Địch cố thủ chờ quân ứng cứu. Pháo binh địch từ Ba Gia bắn vào làng Phước Lộc chi viện cho đồng bọn và đại đội địch đóng ở Núi Tròn quay về ứng cứu cho lực lượng dân vệ. Nguyễn Văn Ngọc - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 50 ngụy cùng một thiếu tá, một trung uý cố vấn Mỹ dẫn hai đại đội còn lại của tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 51 từ Gò Cao (Ba Gia) tiến xuống Diên Niên, Lộc Thọ đánh vào đội hình tiến công của trung đoàn 1. Nhưng tiểu đoàn 90 (trung đoàn 1) giấu quân trong các xóm của xã Sơn Nam kịp thời xuất kích vận động tiếp cận địch. 9 giờ 50 phút, toàn bộ tiểu đoàn địch đã bị ta bao vây. Các chiến sĩ trung đoàn 1 nổ súng chặn đầu, khoá đuôi. Bị đánh bất ngờ, đội hình địch hoàn toàn rối loạn. Quân ta dũng mãnh xung phong diệt từng tốp địch. Hai tên cố vấn bị bắn chết tại chỗ. Tên đại uy tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Ngọc bị bắt sống. 10 giờ 45 phút, trận đánh kết thúc, toàn bộ tiểu đoàn 1 trung đoàn 51 ngụy bị tiêu diệt. Trong năm giờ ngày mở đầu chiến dịch, ta diệt gọn một tiểu đoàn chủ lực ngụy, hai trung đội dân vệ; giết và làm bị thương 270 tên (có hai tên Mỹ), bắt 217 tên (có một đại uý tiểu đoàn trưởng, 39 sĩ quan và hạ sĩ quan). Ta thu hơn 200 súng, phá hỏng một pháo 105 ly, 4 xe GMC, một xe Jep. Cùng ngày, trên hướng thứ yếu ở phía nam sông Trà Khúc, tiểu đoàn 83 bộ đội địa phương tỉnh bao vây và tiến công chi khu quận lỵ Nghĩa Hành, uy hiếp địch đóng ở quận lỵ Tư Nghĩa, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang tại chỗ diệt ác, phá kìm. Được tin tiểu đoàn 1 trung đoàn 1 bị diệt, đồn Ba Gia không còn lực lượng đóng giữ, ngay chiều 29-5-1965, Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng I chiến thuật, điều động ngay tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến (thuộc lực lượng dự bị chiến lược), đang càn quét ở Đức Phổ, tiểu đoàn 37, 39 biệt động quân (lực lượng cơ động Vùng I chiến thuật), tiểu đoàn 2 (thuộc trung đoàn 51 sư 25) và một chi đoàn M113 tổ chức thành một chiến đoàn mạnh tập kết ở thị xã Quảng Ngãi chuẩn bị hành quân giải toả áp lực của ta và tiến công chiếm lại Ba Gia.

Suốt buổi chiều ngày 29, trên bầu trời huyện Sơn Tịnh không lúc nào ngót tiếng máy bay địch lồng lộn gầm rú, ném bom dọn đường. Mặt đất mù mịt khói lửa bom đạn và rung chuyển dữ dội. Khi màn đêm vừa buông xuống, đèn dù, pháo sáng địch soi tỏ các cánh đồng, máy bay C130 quần lượn bắn xăm từng bờ tre, mô đất, tưởng chừng không một người nào có thể trụ lại được. Dưới bom đạn ác liệt và sự kiểm soát gắt gao của địch, bộ đội ta vẫn bền gan bám trụ, bình tĩnh điều chỉnh, bố trí lại thế trận, củng cố, phát triển công sự, hầm hào, chuẩn bị cho trận đánh mới. Nhân dân Ba Gia, những người đã từng dẫn đường, che giấu bộ đội giấu quân đêm trước, nay từ trong các xóm làng xơ xác vì bom đạn địch, họ đổ ra các cánh đồng Diên Niên, Lộc Thọ, An Thành tiếp tế cơm nước, giúp bộ đội đào công sự, ngụy trang trận địa, tìm kiếm thương binh đem về nuôi dưỡng, mai táng tử sĩ. Sự phối hợp chiến đấu đó của nhân dân Ba Gia đã động viên tinh thần chiến đấu, tăng thêm sức mạnh cho bộ đội. Đó là một trong những nhân tố rất quan trọng, góp phần tạo nên chiến thắng oanh liệt của chiến dịch tiến công Ba Gia.

Sáng ngày 30-5-1965, đại bác địch từ các nơi bắn cấp tập vào khu chiến. Tiếp theo hàng trăm máy bay các loại từng tốp luân phiên nhau đến ném bom xuống hai bên đường số 5 (đoạn Sơn Tịnh đi Hà Thành) dọn đường cho bộ binh, xe tăng phản kích. Mặc cho bom đạn ác liệt, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 1 vẫn không nao núng, họ ẩn mình trong các công sự, dõi theo từng hành động của địch, sẵn sàng nổ súng. 9 giờ 30 phút, 20 xe GMC, 12 xe M113 chở chiến đoàn hỗn hợp vừa mới được thành lập từ quận lỵ Sơn Tịnh tiến lên Ba Gia. Lực lượng địch chia làm hai cánh: Cánh chủ yếu gồm tiểu đoàn 2 trung đoàn 51 và tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến theo đường chính lên đánh Phước Lộc, điểm cao Mả Tổ, núi Khỉ rồi phát triển lên Gò Cao (Ba Gia). Còn lại tiểu đoàn 39 biệt động quân theo đường An Thuyết-Vĩnh Lộc-Vĩnh Khánh tiến chiếm điểm cao Chóp Nón, hình thành mũi bọc sườn tiến công vào phía sau trận địa của ta.

Từ đài quan sát trên đỉnh núi Khỉ, ban chỉ huy trận đánh theo dõi, nắm chắc ý đồ của địch, kịp thời ra lệnh cho tiểu đoàn 45 đang bố trí ở phía sau làng Vĩnh Khánh xuất kích tiến công vào cánh quân bọc sườn của địch. 13 giờ tiểu đoàn 39 biệt động quân đến chân điểm cao Chóp Nón, tiểu đoàn 2 (trung đoàn 51) và tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến đến làng Phước Lộc. Tiểu đoàn 60 (trung đoàn 1) của ta bố trí ở đồi Mả Tổ dùng một đại đội đánh chặn địch đang cố leo lên đỉnh Chóp Nón. Cùng lúc, các chiến sĩ tiểu đoàn 45 tiến công vào phía sau đội hình tiểu đoàn 89 biệt động quân.

Nghe súng nổ ở bên sườn, cánh quân của địch trong làng Phước Lộc vội vã chiếm giữ các chiến hào, tiến đánh lên điểm cao Mả Tổ và đồi 47 nhằm chiếm vị trí khống chế không gian khu chiến, yểm trợ cho đồng bọn chiếm núi Chóp Nón. Nhưng cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 60 (trung đoàn 1) từ Vĩnh Lộc kịp vận động ra đánh vào tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến ở điểm cao 47 và đồi Mả Tổ. Trong khi đó, tiểu đoàn 40 từ chân núi Khỉ nhanh chóng hình thành hai mũi bao vây tiến công vào tiểu đoàn 2 trung đoàn 51 ở rìa phía tây làng Phước Lộc. Máy bay địch tới tấp dội bom, bắn phá, hòng cứu nguy đồng bọn ở dưới đất. Trận đánh diễn ra rất ác liệt. Bộ đội ta bám từng mô đất từng công sự, yểm trợ cho nhau liên tục tiến công vào quân địch suốt trong hai tiếng đồng hồ. Kết quả, ta tiêu diệt phần lớn tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 2, trung đoàn 51 ngụy. 19 giờ lực lượng còn lại của địch co cụm ở núi Chóp Nón, điểm cao 47, đồi Mả Tổ, làng Phước Lộc. Tình thế đặt ra cho ta phải liên tục tiến công mới tiêu diệt được quân địch. Mặc dù, sau một ngày chiến đấu ác liệt, bộ đội mệt mỏi, với tinh thần: “Chưa diệt hết địch, chưa dừng nghỉ ngơi”1, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 1 ăn cơm lấy sức và khẩn trương xốc lại đội hình, bí mật vận động bám sát các vị trí địch. Ngay trong đêm 30 rạng ngày 31, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 60 tiến công bất ngờ vào điểm cao 47 và đồi Mả Tổ. Tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến của địch chiếm giữ ở đây mất sức chiến đấu trong trận đánh chiều ngày 30, chống đỡ yếu ớt, bộ đội ta diệt nhanh gọn, bắt sống toàn bộ, làm chủ trận địa.
_______________________________________
1. Khẩu hiệu hành động của bộ đội trong chiến dịch tây Sơn Tịnh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:24:32 pm

Ở làng Phước Lộc, tiểu đoàn 2 của trung đoàn 51 ngụy quân số còn đông, chúng dựa vào hầm hào có sẵn trong ấp chiến lược, chống cự quyết liệt. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 40 phải giành giật từng đoạn chiến hào, đánh bật địch khỏi từng công sự. Cả hai bên đều bị thương vong nhiều. Không hề nao núng, bộ đội ta bám chắc trận địa, tổ chức yểm hộ cho nhau diệt từng tốp địch, chiếm từng mục tiêu, số địch còn lại phải rút khỏi làng Phước Lộc.

Ở núi Chóp Nón, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 45 của trung đoàn 1 có pháo binh chi viện, tiến công đánh chiếm điểm cao khống chế lợi hại này. Sau đợt pháo, cối bắn phá các mục tiêu, bộ đội ta xung phong. Quân địch ở đây còn sung sức có lợi thế cao, liều mạng chống trả. Trận chiến đấu diễn ra giằng co ác liệt. Chiến sĩ ta dùng tiểu liên, lựu đạn, lưỡi lê đánh gần. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 3 giờ 30 phút ngày 31 mới kết thúc. Tiểu đoàn 31 biệt động quân bị tiêu diệt. Trời hửng sáng, trung đoàn 1 của ta làm chủ trận địa. Trên cánh đồng Ba Gia nhân dân trong các thôn xóm toả ra chuyển thương binh, tử sĩ, cùng bộ đội thu dọn chiến trường.

Ròng rã ba ngày chiến đấu liên tục, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, bộ đội ta tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn địch, trong đó diệt một chiến đoàn ngụy, bẻ gãy cuộc hành quân lớn nhằm giải toả Ba Gia. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Khu V, một trung đoàn chủ lực của ta tiêu diệt một chiến đoàn hỗn hợp tinh nhuệ của địch (916 tên địch bị diệt, có bốn cố vấn Mỹ, 65 tên bị bắt; ta thu 200 súng các loại). Chiến thắng Ba Gia thể hiện sự lớn mạnh vượt bậc, tài nghệ đánh tiêu diệt của khối chủ lực Quân giải phóng. Về trận Ba Gia, tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ thú nhận: “Cuối tháng 5 (1965), ở tỉnh Quảng Ngãi thuộc bắc phần Nam Việt, một tiểu đoàn quân Chính phủ cộng hoà bị đánh bại ở gần Ba Gia, phía tây Quảng Ngãi. Lực lượng cứu viện cũng bị phục kích... Trận này kéo dài trong mấy ngày kết thúc bằng sự thất bại hoàn toàn của quân đội Việt Nam cộng hoà, hai tiểu đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn. Đây là một tin khẩn cấp hoặc ít nhất cũng khẩn cấp đối với một số sĩ quan cao cấp Mỹ được chứng kiến trận đó”1.

Đồng thời với chiến dịch Ba Gia (tây Sơn Tịnh), trên hướng phối hợp, đêm 30-5, một bộ phận tiểu đoàn 83 tập kích tiểu đoàn 37 biệt động quân ở quanh thị trấn sông Vệ, buộc tiểu đoàn này phải rút lên Hành Đức huyện Nghĩa Hành. Tại đây, lực lượng vũ trang địa phương ta đánh ngăn chặn, tiêu hao thêm một số, giam chân chúng tại chỗ. Hoạt động của bộ đội địa phương và du kích trên các hướng phối hợp tạo điều kiện cho các đơn vị tham gia chiến dịch Ba Gia hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ. Cùng với hoạt động quân sự, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng khắp trong toàn tỉnh hỗ trợ cho cuộc tiến công của lực lượng vũ trang. Ngày 3-6-1965, hơn 10 vạn nhân dân các vùng quanh thị xã và các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ Đức kéo đến các trung tâm trụ sở ngụy quyền địa phương đấu tranh đòi được biết tin tức người thân, đòi trợ cấp cho các gia đình binh sĩ thiệt mạng... làm náo loạn cả thị xã và toàn tỉnh. Chiến thắng trên mặt trận quân sự cổ vũ quần chúng ở các huyện phối hợp với du kích, nổi dậy phá ấp chiến lược ở 27 xã, 27.000 dân giành quyền làm chủ.

Thắng lợi vang dội của chiến dịch Ba Gia, khiến cho chính quyền và quân đội ngụy nhiều nơi trong tỉnh Quảng Ngãi hoang mang, chúng khó có khả năng tổ chức lực lượng đánh chiếm những vùng đã mất. Trước tình hình đó, trung đoàn 1 được lệnh phân tán từng tiểu đoàn kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương, du kích tại chỗ đánh diệt lực lượng kìm kẹp, hỗ trợ trực tiếp cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, giải phóng một số vùng nông thôn đồng bằng thuộc các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Sơn Tịnh.
_______________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.2, tr.88.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:24:57 pm

Trên hướng nam Tây Nguyên, ba trung đoàn chủ lực 2, 10 và 12 vừa vào chiến trường cũng hoạt động tích cực. Đêm 25-5-1965, ta diệt cứ điểm Ama Hrok, nhưng không diệt được các đơn vị đến tiếp viện khi chúng đang hành quân trên đường số 7. Đầu tháng 6, một bộ phận trung đoàn 12 tập kích diệt cứ điểm Ea Nu, đánh quân viện, cắt đứt đoạn đường số 7 từ Mlá đi Ea Nu. Bộ phận còn lại của trung đoàn đánh địch trên đường số 19, cắt đứt đoạn từ Măng Giang đi An Khê. Trong lúc đó, trung đoàn 10 tổ chức lực lượng thọc sâu vào đường số 21, chặn đoàn xe tiếp tế của Quân đoàn 2 ngụy, diệt đại đội hộ tống, thu, đốt trên 100 tấn gạo. Đường số 19, số 7, số 21 đều bị ta cắt đứt trong cùng một thời gian, làm gián đoạn việc tiếp tế của địch cho Tây Nguyên. Đêm 7-6, ta lại tiêu diệt cứ điểm Hoành Châm, bao vây quận lỵ Thuần Mẫn, uy hiếp quốc lộ số 14 đoạn từ Plâycu đi Buôn Ma Thuộc. Bị tấn công trên nhiều hướng, địch phải cầu cứu viện binh. Ngày 30-6, một chiến đoàn đặc nhiệm gồm hai tiểu đoàn dù số 1 và số 5, tiểu đoàn 2 trung đoàn 40 sư đoàn 22 ngụy từ Cheo Reo kéo lên cứu viện. Ta bố chí trận địa phục kích cách Cheo Reo khoảng 10 km. Khi toàn bộ đội hình địch lọt vào trận địa ta, các chiến sĩ trung đoàn 2 đồng loạt nổ súng. Địch chống cự quyết liệt, tổ chức nhiều đợt phản kích phá vây. Trận đánh kéo dài đến tối vẫn không dứt điểm. Địch co cụm lại đề phòng bị tập kích ban đêm. Ta chấn chỉnh lại đội hình; 1 giờ đêm ngày 1-7, trung đoàn 2 mở trận tập kích vào toàn bộ khu vực co cụm của địch. Sau một giờ chiến đấu, ta diệt tiểu đoàn nhảy dù số 1, đánh thiệt hại nặng sở chỉ huy chiến đoàn và hai tiểu đoàn còn lại.

Quân tiếp viện bị diệt, địch ở Thuần Mẫn hoảng sợ bỏ quận lỵ tháo chạy. Đồng bào các dân tộc nổi dậy phá ấp chiến lược, giải phóng một số buôn hai bên đường số 14 từ ngã ba Mỹ Trạch đến Buôn Hồ.

Hướng Gia Lai, đêm 31-5, tiểu đoàn 952 (tiểu đoàn 407 và 545 hợp thành) tiến công tiêu diệt quận lỵ Lệ Thanh, kéo địch ra đường số 19 tây, tạo điều kiện cho trung đoàn 320 đánh trận vận động phục kích, loại khỏi vòng chiến đấu tiểu đoàn bảo an 320 (300 tên), phái đoàn kiểm tra của Bộ Nội vụ ngụy, bắt sống phó tỉnh trưởng Plâycu (ngày 1-6-1965). Sau đó, trung đoàn 320 bao vây trại lực lượng đặc biệt Đức Cơ, buộc địch đến cứu viện, ta phục kích diệt 40 xe. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện hỗ trợ cho du kích và nhân dân nổi dậy phá hệ thống ấp chiến lược từ Thanh An đến Đức Cơ.

Tại bắc Kon Tum, đêm 25-6-1965, trung đoàn 101 diệt cứ điểm Pôcô, đánh chiếm trại lực lượng đặc biệt Tumơrông, pháo kích quận lỵ Đắc Tô. Bộ đội địa phương Kon Tum cùng du kích diệt các chốt bảo an, dân vệ từ Đắc Tô đến Đắk Pét, giải phóng các ấp chiến lược dọc đường số 14.

Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, trung đoàn 1, sau một thời gian phân tán hoạt động, được lệnh trở lại chiến trường cũ tiến công Ba Gia, tạo điều kiện mở mảng trên trục đường Trà Bồng, Bình Sơn. Lúc này, căn cứ Ba Gia do tiểu đoàn 1 lính cộng hoà đóng giữ và một trung đội pháo 105 ly. Đây là đơn vị mới thành lập lại sau khi tiểu đoàn 1 (cũ) bị ta xoá sổ ngày 29-5-1965 tại khu vực Phước Lộc. 1 giờ 45 phút ngày 5-7-1965, tiểu đoàn 40 và tiểu đoàn 45 bất ngờ nổ súng tiến công cứ điểm. Chỉ sau 35 phút chiến đấu quân ta làm chủ trận địa. Địch dùng máy bay ném bom, thả pháo sáng dọn đường và đổ quân xuống lấy thương binh, bốn chiếc HU1A bị bắn rơi tại chỗ, một số chiếc khác bị thương, năm tên Mỹ và 14 tên ngụy chết. Cuối ngày hôm đó, tiểu đoàn ngụy bị loại khỏi vòng chiến đấu. Ta thu toàn bộ vũ khí, đạn dược và quân trang, quân dụng. Đây là trận tiến công địch trong công sự vững chắc đạt hiệu quả cao của chủ lực Quân khu V.

Trong lúc tiểu đoàn 40 và 45 tiến công cứ điểm Ba Gia, tiểu đoàn 80 và 90 được giao nhiệm vụ phục kích đánh quân tiếp viện trên đường từ Trà Bồng đến Son Tịnh, Bình Sơn. Do địch không tăng viện, bộ đội chuyển sang hỗ trợ quần chúng phá ấp chiến lược, giải phóng nhiều làng dọc các trục đường giao thông...

Sau khi giành thắng lợi lần thứ hai tại Ba Gia, trung đoàn 1 rút về Vạn Tường củng cố, chuẩn bị cho thu-đông.

Ở Quảng Nam, lực lượng vũ trang tỉnh tiêu diệt sở chỉ huy dã chiến sư đoàn 2 ngụy tại trung tâm thị xã Tam Kỳ, đánh địch trên đoạn đường từ cầu An Tân ra cầu Ông Bộ, diệt hàng trăm lính ngụy và nhiều cố vấn Mỹ. Trong ngày 6-7-1965, tiểu đoàn 70 phục kích, diệt tiểu đoàn 4, trung đoàn 4, sư đoàn 2 ngụy ở Mộc Bài.

Ở Quảng Đà, ngày 28-5, tiểu đoàn 1 bộ đội địa phương tỉnh tiến công tiêu diệt hai đại đội bảo an, bảy trung đội dân vệ ở Duy Xuyên. Đêm 30-6, đặc công đánh sân bay Đà Nẵng, phá huỷ, phá hỏng 57 chiếc máy bay. Đêm 5-8 các chiến sĩ đặc công tập kích kho xăng Liên Chiểu, thiêu huỷ 19 triệu lít.

Tại Phú Yên, bộ đội địa phương đánh địch ở thị xã Tuy Hoà, và bọn bảo an, dân vệ ở núi Sầm, Hoà Vĩnh, Phú Lâm... diệt bốn tổng đoàn dân vệ và một trung đội bảo an.

Đêm 26-7, lực lượng vũ trang tỉnh Khánh Hoà đánh sân bay Nha Trang, trường sĩ quan hải quân ngụy và quận lỵ Diên Khánh, phá huỷ 21 máy bay, diệt một số học viên sĩ quan hải quân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:25:45 pm

Ở Lâm Đồng, lực lượng vũ trang địa phương bao vây, tiến công trại biệt kích Tân Rai buộc lực lượng đặc biệt Mỹ trong trại phải rút chạy. Ngày 27-6-1965, bộ đội tỉnh lại tiến công tiêu diệt cứ điểm B’Sar, một vị trí quan trọng khống chế cả một vùng rộng ở phía nam đèo Bao, đánh sập các cầu Đậm Mrế, Đạc Oai hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng các ấp chiến lược hai bên đường số 20, đường số 14 bis, buộc địch phải co về thị xã Bảo Lộc, Di Linh. Vùng giải phóng cực Nam Trung Bộ mở thông với Tánh Linh, Hoài Đức, Hàm Thuận...

Tại Bình Thuận, ngày 17-5-1965, bộ đội ta cải trang làm dân thường đi trên hai xe lam bất ngờ nổ súng diệt bọn lính gác cầu, chiếm trụ sở ngụy quyền Phú Long. Địch ở tiểu khu Phan Thiết đưa hai đại đội bảo an số 441 và 887 cùng năm xe M113 ra ứng cứu. Mặc dù lực lượng địch đông, nhưng bảy lần vượt sông đánh vào trận địa của ta, chúng đều bị đánh bật trở lại. Ngày 22-5, địch đưa thêm tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, một tiểu đoàn biệt động đến phản kích. Sau bốn giờ chiến đấu, ta bẻ gẫy các đợt xung phong của địch, giết, làm bị thương 150 tên.

Hệ thống kìm kẹp của địch ở Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận... bị phá vỡ. Vùng giải phóng mở rộng, kéo dài suốt dọc đường số 1 từ Lương Sơn vào đến Phú Long.

Kết thúc đợt hoạt động hè 1965, quân và dân Khu V tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá vỡ, uy hiếp nhiều khu vực phòng ngự của chúng, phá hàng trăm ấp chiến lược, đưa tổng số ấp chiến lược phá được trong toàn khu lên 2.100 ấp (trong tổng số 2.800 ấp địch đã lập) đưa số dân làm chủ lên 2,5 triệu, vùng giải phóng được mở rộng.

Thắng lợi trên đây củng cố hơn nữa thế chủ động tiến công của quân và dân trong toàn quân khu, tạo đà cho phong trào du kích cũng như phong trào phá ấp giành dân phất triển.

Ở miền Đông Nam Bộ, sau một thời gian củng cố, rút kinh nghiệm, các đơn vị chủ lực miền bước vào đợt ba chiến dịch Đồng Xoài, tiến công địch ở Bầu Bàng, Bù Đốp. Ngày 15-7-1965, trên đường số 13, trung đoàn 2 tập kích ấp chiến lược Bầu Bàng, nơi tiểu đoàn 2, trung đoàn 7, sư đoàn 5 ngụy đang đóng quân dã ngoại, loại khỏi vòng chiến đấu gần 400 tên, phá hỏng một số xe M113. Địch đang lo đối phó trên hướng đường số 13, thì ngày 20-7-1965, trung đoàn 1 tiến công trung tâm huấn luyện biệt kích Bù Đốp (tỉnh Phước Long). Sau ba giờ chiến đấu, ta chiếm cứ điểm, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Tuy nhiên, do lùng sục quét địch không kỹ, khi rút quân, ta bị số địch lẩn trốn bắn vào đội hình làm 20 cán bộ, chiến sĩ hy sinh và bị thương. Cứ điểm Bù Đốp bị diệt; địch rút bỏ luôn Bù Gia Mập.

Sau trận Đồng Xoài, Bầu Bàng, Bù Đốp, quân chủ lực ngụy ở chiến trường Nam Bộ bắt đầu co về phòng thủ, né tránh đụng độ với chủ lực ta, mà dùng biệt kích, máy bay đánh phá vùng căn cứ cách mạng và hành lang chiến lược. Địch có bước suy yếu mới.

Trên các hướng phối hợp, trung đoàn 4 (Quân khu miền Đông) và bộ đội địa phương cùng du kích các tỉnh liên tục đánh cắt giao thông, phá sập nhiều cầu cống, góp phần ngăn chặn các cuộc hành quân giải toả bằng đường bộ của địch.

Phối hợp với hoạt động vũ trang, nhân dân các bộ tộc trong tỉnh Phước Long nổi dậy phá bung hệ thống ấp chiến lược. 56.000 trong tổng số 67.000 dân trong tỉnh giành được quyền làm chủ.

Ngày 22-7-1965, chiến dịch Đồng Xoài kết thúc thắng lợi. Trong chiến dịch này, ta loại khỏi vòng chiến đấu bốn tiểu đoàn, 24 đại đội, sáu chi đội xe cơ giới, bốn phân đội kỹ thuật với tổng số 4.459 tên, có 73 cố vấn Mỹ; thu 1.652 súng các loại, phá huỷ 60 xe quân sự, 34 máy bay, sáu đầu máy và 12 toa xe lửa. Bên cạnh những kết quả đó, thắng lợi của chiến dịch còn có ý nghĩa quan trọng. Nó đánh dấu sự trưởng thành về trình độ tác chiến, nhất là trình độ đánh tiêu diệt của Quân giải phóng, về tổ chức chỉ huy, bảo đảm hậu cần cho một chiến dịch lớn, dài ngày. Những trận tiến công của bộ đội chủ lực trong chiến dịch Đồng Xoài có tác dụng thúc đẩy phong trào du kích phát triển đều khắp không chỉ ở miền Đông Nam Bộ mà cả vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn, hỗ trợ tích cực cho quần chúng nổi dậy phá banh, phá rã 4/5 tổng số ấp chiến lược ở Nam Bộ. Với chiến thắng này, ta buộc chính quyền Sài Gòn “phải từ bỏ chút quyền kiểm soát ít ỏi còn lại ở những vùng nông thôn phía ngoài đồng bằng sông Cửu Long”1.

Cùng với chiến thắng Ba Gia và nhiều nơi khác trong cuộc tiến công xuân-hè năm 1965, chiến thắng Đồng Xoài góp phần rất quan trọng trong việc đánh bại đội quân chủ lực ngụy, làm cho nó không đủ sức làm nòng cốt thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ.


*
*   *

Cuộc tiến công hè-thu năm 1965, đỉnh cao là các chiến dịch Ba Gia, Đồng Xoài, làm thất bại kế hoạch Giônxơn-Mắc Namara. Trong cuộc tiến công này, đòn tiến công của chủ lực Quân giải phóng kết hợp với hoạt động quân sự rộng khắp của lực lượng vũ trang địa phương và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở các tỉnh, thành đã đánh bại quân ngụy, lực lượng nòng cốt, chỗ dựa chủ yếu của Mỹ để tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt, làm thất bại chương trình bình định nông thôn, đẩy chính quyền Sài Gòn càng lún sâu hơn vào cuộc khủng hoảng chính trị. Trong khi đó, các hoạt động phá hoại của không quân Mỹ trên miền Bắc bị giáng trả mãnh liệt, bị thiệt hại nhiều máy bay, giặc lái, không đạt được kết quả như tính toán ban đầu của Mỹ. Như thế, đến giữa mùa hè năm 1965, mặc dù Mỹ từng bước đẩy cuộc chiến tranh đặc biệt tới đỉnh cao, vượt quá mức lý thuyết và dự kiến ban đầu, nhưng rốt cuộc chiến lược chiến tranh đặc biệt đã bị phá sản, cách mạng miền Nam đang vững vàng trên thế chủ động chiến lược, so sánh lực lượng trên chiến trường đang chuyển biến nhanh chóng có lợi cho ta. Tuy đội quân chủ lực ngụy đã bị thua, có những trận bị ta tiêu diệt từng chiến đoàn, tinh thần, ý chí sa sút nhưng với số lượng còn khá đông, chưa tan rã về tổ chức, trong khi đó Mỹ dốc sức viện trợ làm cho quân ngụy hồi phục, đồng thời đưa một bộ phận quân Mỹ vào miền Nam từng bước trực tiếp tiến hành chiến tranh. Cuộc chiến đấu của quân, dân ta còn phải kéo dài, ngày càng ác liệt.
_______________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.2, tr.88.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:26:36 pm

KẾT LUẬN


Bị thất bại trong hình thức truyền thống dùng viện trợ và cố vấn để thống trị nhân dân miền Nam thông qua bộ máy cai trị độc tài, phát xít do Mỹ dựng lên mà Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là đại diện, cuối năm 1960, đế quốc Mỹ chuyển sang tiến hành chiến tranh đặc biệt “dùng người Việt đánh người Việt”, tiếp tục duy trì chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.

Xuất phát từ việc nghiên cứu âm mưu, bản chất của đế quốc Mỹ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh dự kiến cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta ở miền Nam có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ giữa ta và địch, cho nên đã lãnh đạo toàn dân và lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị chuẩn bị trước mọi mặt để sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Vì vậy khi đế quốc Mỹ sử dụng quân đội Sài Gòn và chính quyền tay sai tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược dưới hình thức chiến tranh đặc biệt, thì cuộc khởi nghĩa từng phần của nhân dân ta ở miền Nam cũng phát triển thành cuộc chiến tranh cách mạng. Mặc dù so sánh lực lượng trên chiến trường những năm đầu, ta còn yếu hơn địch, nhưng nhờ có sự chuẩn bị trước, ta vẫn ở thế chủ động chiến lược. Cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam đã phát triển rộng khắp trên cả ba vùng rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị với hình thức đấu tranh rất phong phú và sáng tạo.

Trong những năm năm mươi, chiến lược quân sự toàn cầu “trả đũa ồ ạt” của chủ nghĩa Aixenhao đã không ngăn chặn được chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đế quốc Mỹ liền thay thế bằng chiến lược quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt, trong đó, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là một bộ phận hợp thành và được áp dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cuộc kháng chiến của ta chống Mỹ trong giai đoạn 1960-1965 không phải là “cuộc nội chiến”, mà đó là cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ bằng lực lượng tay sai bản xứ do Mỹ trực tiếp tổ chức và điều hành. Chính quyền, quân đội Sài Gòn chỉ là công cụ do Mỹ dựng lên, nuôi dưỡng và sử dụng để thực hiện âm mưu và chiến lược chiến tranh xâm lược của chúng - một kiểu chiến tranh “giấu mặt trá hình” của chủ nghĩa thực dân mới.

Cuộc chiến tranh lại diễn ra đúng vào thời điểm sự bất đồng giữa Liên Xô, Trung Quốc đang đến độ gay gắt. Đế quốc Mỹ lợi dụng tình hình đó tăng cường chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chúng đưa vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, trang bị và huấn luyện cho quân đội Sài Gòn sử dụng các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” càn quét đánh phá phong trào cách mạng, dồn dân vào ấp chiến lược, đồng thời khiêu khích để lấy cớ đánh miền Bắc, hỗ trợ cho chính quyền Diệm thực hiện âm mưu của Mỹ. Ta tìm mọi biện pháp đánh bại quân ngụy, phá cho được quốc sách ấp chiến lược của địch, giành dân, giành quyền làm chủ, hạn chế phạm vi chiến tranh, thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Lúc đầu với phương tiện chiến tranh hiện đại và các chiến thuật mới của Mỹ, địch đã gây cho ta nhiều thiệt hại và khó khăn.

Cuộc đấu trí giữa ta và địch diễn ra rất căng thẳng. Đảng và nhân dân ta với bản lĩnh chính trị vững vàng, với tầm nhìn xa trông rộng, đã chủ trương chỉ đạo toàn dân đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Chủ trương đó thể hiện tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng ta trong việc xác định đường lối kháng chiến. Miền Bắc đã thiết lập được quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng, củng cố hệ thống hợp tác xã nông nghiệp, thương nghiệp, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị, tinh thần trong toàn dân, làm cơ sở cho nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, động viên hàng triệu thanh niên ra tiền tuyến, đồng thời, bí mật, gấp rút mở đường chiến lược Trường Sơn, đường vận tải biển để chi viện sức người, sức của tăng cường cho cách mạng miền Nam. Trong cuộc đấu tranh gay go, ác liệt này, trí tuệ Việt Nam đã sáng tạo một phương pháp cách mạng mới độc đáo: “Sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng, lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch bàng ba mũi giáp công: quân sự chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những trận tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh...”1. Đảng ta chủ trương kiềm chế địch để thắng chúng trên chiến trường miền Nam, đồng thời sẵn sàng đánh địch khi chúng mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Cuộc chiến tranh nhân dân trên miền Bắc đã thắng không quân Mỹ ngay từ bước mở đầu.
_______________________________________
1. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.25-26.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:27:13 pm

Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ nền độc lập đã giành được sau chín năm kháng chiến chống Pháp, vừa nhằm bảo vệ tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam châu Á, bảo vệ hoà bình, cho nên tính chất chính nghĩa, nhân tố chính trị, tinh thần của nó ngày càng tỏa sáng, quy tụ toàn dân vào một mặt trận đoàn kết kháng chiến, lại có sự chỉ đạo chiến lược sáng tạo, có phương pháp cách mạng đúng, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong nước và Thế giới, nhân dân ta đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp được sự ủng hộ quốc tế, từng bước đánh thắng các chiến thuật và kế hoạch chiến lược của Mỹ-ngụy, làm chuyển hoá so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho cách mạng, đẩy địch vào thế bất lợi, bị động ngay từ đầu.

Âm mưu của Mỹ trong chiến tranh đặc biệt là tiêu diệt lực lượng vũ trang ta, triệt phá cơ sở cách mạng, bình định miền Nam trong 18 tháng bằng các kế hoạch Stalây-Taylo, Mắc Namara-Giônxơn, tiến hành các hoạt động gây rối, phá hoại làm mất ổn định miền Bắc Việt Nam. Để thực hiện âm mưu này, Mỹ sử dụng quân đội Sài Gòn có các binh chủng kỹ thuật đang phát triển, liên tục càn quét, đánh phá ác liệt vùng giải phóng, vùng đang tranh chấp để đẩy dân chúng phải chạy vào vùng do chúng kiểm soát. Đối với những vùng địch đang kiểm soát, chúng dùng bộ máy ngụy quyền và lực lượng bảo an, cảnh sát, dân vệ tại chỗ đàn áp, cưỡng bức, kết hợp với chiến tranh tâm lý mua chuộc để dồn dân vào các ấp chiến lược. Một cuộc chiến tranh giành dân, giành quyền làm chủ giữa ta với địch diễn ra trên quy mô lớn, giằng co, quyết liệt. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ đảng ở miền Nam, quân và dân ta đã phát triển cuộc chiến tranh nhân dân lên tầm cao mới, sáng tạo ra nhiều cách đánh linh hoạt, phong phú. Lực lượng vũ trang ba thứ quân và lực lượng chính trị của ta đã phối hợp đấu tranh chặt chẽ, chủ động tiến công địch trong mọi thời gian và thời tiết, đánh địch bằng ba mũi giáp công với mọi thứ vũ khí từ thô sơ đến hiện đại. Nhiều người tiến công, một người cũng tiến công; tiến công bằng cả quân sự, chính trị, binh vận. Qua cuộc chiến đấu ác liệt, gian khổ, dai dẳng với địch, nhân dân ta đã dũng cảm và sáng tạo ra phương châm “ba bám”1, trụ vững trên các địa bàn, kết hợp tiến công với nổi dậy, chống địch càn quét và phá ấp chiến lược, đi đôi với xây dựng làng, xã chiến đấu, xây dựng các căn cứ lõm cách mạng. Làng xã chiến đấu và căn cứ lõm giải phóng được xây dựng không chỉ để phòng giữ, đánh địch tại chỗ mà còn để tiến công, tạo thế bố trí cài răng lược ép địch lại. Làng, xã chiến đấu, căn cứ lõm hợp cùng với căn cứ hậu phương trực tiếp trên toàn chiến trường miền Nam với hậu phương chiến lược miền Bắc thành căn cứ cách mạng rộng lớn, liên hoàn để xây dựng cơ sở vật chất, tích trữ và phát triển lực lượng kháng chiến, thực hiện nhiệm vụ tiến công và phản công tiêu diệt địch, nhằm “lấn đất, ép địch, giành dân, tạo thế chiến trường”, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân. Nhờ đó, lực lượng cách mạng miền Nam càng đánh càng mạnh, càng thắng to. Cuối năm 1964, mặc dù Mỹ từng bước leo thang đưa “cuộc chiến tranh đặc biệt” lên đỉnh cao, có những nhân tố của “cuộc chiến tranh cục bộ” và mở rộng chiến tranh ra miền Bắc bằng không quân, hải quân, song chúng không đảo ngược được chiều hướng đang thua của ngụy quân, ngụy quyền. Tình hình chính trị của chế độ tay sai Mỹ ở miền Nam càng lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, toàn diện.

Nắm vững thời cơ do cuộc chiến đấu anh dũng của đồng bào và chiến sĩ ta ở miền Nam tạo ra, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương chỉ đạo cho các chiến trường mở các chiến dịch tổng hợp đánh qụy đội quân chủ lực ngụy, đi đôi với phá từng mảng lớn ấp chiến lược. Thực hiện chủ trương và thể hiện quyết tâm của Trung ương, lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta ở miền Nam, nòng cốt là bộ đội chủ lực đã mở các chiến dịch tiến công Bình Giã, Đồng Xoài, Ba Gia, kết hợp với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng rộng khắp, đánh bại quân chủ lực, địa phương ngụy, đồng thời đánh một số trận phủ đầu quân viễn chinh Mỹ ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Dầu Tiếng xuân-hè-thu năm 1965. Qua cuộc tiến công, quân và dân ta đã giành thắng lợi lớn, làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

Thắng lợi trong giai đoạn này chứng minh sự chỉ đạo chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là chính xác. Đảng đề ra đường lối, phương pháp cách mạng sáng tạo, xử lý các tình huống trong chiến tranh kịp thời, nhạy bén; chuẩn bị lực lượng chủ động, tích cực. Tuy nhiên, ta chưa giành được thắng lợi quyết định như dự kiến, vì đội quân ngụy bị đánh bại, nhưng chưa tan rã về tổ chức, Mỹ tăng viện trợ và đưa ồ ạt quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam, thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Tuy lực lượng ta còn hạn chế, nhưng vẫn giữ vững thế chủ động chiến lược, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân đều khắp trên cả ba vùng chiến lược, sẵn sàng chủ động cả về tư tưởng, tổ chức và quyết tâm chuẩn bị lực lượng để bước vào cuộc đọ sức trực tiếp với quân Mỹ.
_______________________________________
1. Ba bám: Dân bám đất; du kích (lực lượng vũ trang) bám địch; chi bộ đảng, cán bộ bám dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Ba, 2010, 11:28:13 pm

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Ba mươi năm kháng chiến của quân dân tỉnh Đồng Tháp, BCHQS Đồng Tháp, 1990.
2. Bến tre - 30 năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ, BCHQS Bến Tre, 1990.
3. Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm, BCHQS Bình Định, 1992.
4. Cao Văn Lượng: Âm mưu lợi dụng giáo hội Thiên chúa giáo để đàn áp phong trào cách mạng miền Nam của Mỹ-Diệm, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 48, tháng 3-1963.
5. Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, BCHQS Tiền Giang, 1988.
6. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, Nxb. ST, HN, 1987.
7. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Những sự kiện quân sự, Viện LSQSVN, HN, 1988.
8. Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Viện LSQSVN, HN, 1991.
9. G.Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb. QĐND, HN, 1991.
10. Chiến dịch tiến công Bình Giã đông-xuân 1964-1965, Viện LSQSVN, HN, 1988.
11. Chiến dịch tiến công Ba Gia, Viện LSQSVN, HN, 1987.
12. Chiến tranh du kích trên chiến trường Bình Định (1945-1975), BCHQS Bình Định, 1991.
13. Chiến trường Trị-Thiên-Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Thuận Hoá, 1985.
14. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. ST, HN, 1985.
15. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. ST, HN, 1985.
16. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. CTQG, HN, 1993.
17. Đồng Nai-30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb. Đồng Nai, 1986.
18. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, t.2, Nxb. KHXH, HN, 1968.
19. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, t.3, Nxb. KHXH, HN, 1966.
20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Nxb. CTQG, HN, 1996.
21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb. CTQG, HN, 1996.
22. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.11, Nxb. CTQG, HN, 1996.
23. Hồi ký Giônxơn: Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, VNTTX phát hành, HN, 1972.
24. Kiên Giang-30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), BCHQS Kiên Giang, 1987.
25. Khu V-30 năm chiến tranh giải phóng, t.2, BTL QK5 1989.
26. Hà Văn Lâu: Kennơđi phái Mắc Namara và Tavlo sang Việt Nam để làm gì, Tạp chí Học tập, số tháng 11-1963.
27. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t.2, Nxb. CTQG, HN,
28. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nưóc, t.1, Nxb. CTQG, HN, 1990.
29. Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Phổ (1930-1975), Nxb. CTQG, HN, 1995.
30. Lịch sử Đảng bộ huyện Hướng Hoá (1930-1975), Sở Văn hoá-thông tin Quảng Trị, 1993.
31. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, t.2, Nxb. QĐND, HN, 1994.
32. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb. QĐND, HN, 1985.
33. Lịch sử bộ đội đặc công, t.1, Nxb. QĐND, HN, 1987.
34. Lịch sử Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định kháng chiến (1945-1975), Nxb. QĐND, HN, 1994.
35. Lực lượng vũ trang Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. QĐND, HN, 1980.
36. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb. ST, HN, 1985.
37. R.S. Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấm thẩm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. CTQG, HN, 1995.
38. Đỗ Mậu: Tâm sự tướng lưu vong, Nxb. Công nhân dân, HN, 1995.
39. Miền Đông Nam Bộ kháng chiến, Nxb. QĐND, 1993.
40. Minh Hải-30 năm chiến tranh giải phóng; Nxb. Mũi Cà Mau, 1986.
41. Nam Trung Bộ kháng chiến, Nxb. CTQG, HN, 1995.
42. 50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam- Biên niên sự kiện, Nxb. QĐND, HN, 1995.
43. Những văn kiện chủ yếu của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb. ST, HN, 1964.
44. Những sự kiện Lịch sử Đảng, t.2 Nxb. TTLL, HN, 1985.
45. Những sự kiện Lịch sử Đảng, t.3, Nxb. TTLL, HN, 1985.
46. Nghiên cứu văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb. ST, HN, 1986.
47. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ chín (Khoá III), TLLT Viện LSQSVN.
48. Nghị quyết Bộ chính trị tháng 9-1964, TLLT Viện LSQSVN.
49. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (Khoá III), tháng 3-1965, TLLT Viện LSQSVN.
50. Pitơ A. Pulơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Ruzơven đến Níchxơn, Nxb. TTLL, HN, 1986.
51. Phú Yên- 30 năm chiến tranh giải phóng, BCHQS Phú Yên, 1993.
52. Quân khu III - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. QĐND, HN, 1995.
53. Quân khu IV - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. QĐND, HN, 1994.
54. Quân khu IX - 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. QĐND, HN, 1996.
55. Quảng Nam- Đà Nẵng: 30 năm chiến đấu và chiến thắng, t.2, Nxb. QĐND, HN, 1988.
56. Quảng Ngãi - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), Nxb. Tổng hợp Nghĩa Bình, 1988.
57. Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb. QĐND, HN, 1991.
58. Sedg Wick Tourison: Đội quân bí mật, cuộc chiến tranh bí mật, Nxb. CAND.
59. Sông Bé: Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1990.
60. Trận đánh 30 năm (Ký sự lịch sử) t.3, Nxb. QĐND, HN, 1988
61. Truyền thống huyện Vinh Thuận anh hùng; Ban thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, 1995.
62. Truyền thống huyện An Biên, t.2, Ban thường vụ Huyện uỷ An Biên, 1996.
63. Thiết Vũ - Hải Âu: Bộ mặt thật CIA, Nxb. QĐND, HN, 1976.
64. Thủ đô Hà Nội - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Nxb. QĐND, HN, 1991.
65. Tài liệu mật Lầu Năm Góc, TTTTKHKT dịch, TVQĐ sao lục.
66. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, VNTTX phát hành, HN, 1971.
67. Tây Bắc-Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. QĐND, HN, 1994.
68. Văn kiện Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t.1, Nxb. Sách giáo khoa Mác-Lênin, HN, 1987.
69. Việt Nam- Con số và sự kiện, Nxb. ST, HN, 1990.
70. Việt Bắc-30 năm chiến tranh cách mạng, t.2, Nxb. QĐND, HN, 1992.
71. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb. CTQG, HN, 1995.


Hết