Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 03:22:48 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3  (Đọc 100325 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #100 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 10:51:02 pm »


Sự kiện ngày 2-8 được các nhà chính trị, quân sự nước Mỹ lợi dụng, thổi phồng lên gây một tác động tâm lý trong công chúng Mỹ. Ngày 3-8, Tổng thống Mỹ Giônxơn phái thêm tàu khu trục C.Tơnnơ Gioa cùng với chiếc Mađốc trở lại Vịnh Bắc Bộ. Ngày 4-8, vùng biển Việt Nam ngoài khơi có bão lớn, trời tối đen như mực, phân đội tàu phóng lôi 12 chiếc của hải quân Việt Nam đã vào neo đậu trong căn cứ. Tuy vậy, theo kế hoạch đã sắp đặt trước, tàu chiến Mỹ vẫn phát tín hiệu là bị tiến công. Trong cuộc họp chiều 4-8-1964, L. Giônxơn ra lệnh cho không quân Mỹ mở cuộc tiến công “trả đũa” và yêu cầu Quốc hội ra nghị quyết trao quyền cho Tổng thống sử dụng lực lượng vũ trang đối phó với “cuộc khủng hoảng lớn” ở Việt Nam. Không chờ Quốc hội cho phép, Giônxơn ra lệnh triển khai lực lượng không quân đánh miền Bắc, chuẩn bị sẵn sàng mở rộng thành cuộc chiến tranh không quân chống Việt Nam với quy mô ngày càng lớn, đồng thời, đặt các đơn vị lính thuỷ đánh bộ và lục quân Mỹ vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, nhằm phòng ngừa bất cứ sự trả đũa nào của Hà Nội và Trung Quốc.

Ngay trong ngày 4-8, khi Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đang làm rùm beng “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, thiếu tướng hải quân Herích, chỉ huy cuộc tuần tra, điện về Lầu Năm Góc bức điện quan trọng: “Việc xem xét lại hành động cho thấy rằng các tiếp xúc ghi được về các ngư lôi đã được bắn tỏ ra đáng nghi ngờ. Đề nghị đánh giá đầy đủ trước khi có hành động tiếp theo”1. Trong báo cáo của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương hôm đó cũng có nhận định rằng: “Vẫn còn mơ hồ, không biết một cuộc tiến công vào các tàu khu trục (Mỹ) đã thực sự xảy ra hay chưa?”2. Mặc dù vậy Oasinhtơn vẫn phát động một cuộc tiến công miền Bắc gọi là những phản ứng “có giới hạn và thích hợp” của Mỹ. Sự kiện ngày 4-8-1964 chỉ là sự bịa đặt của Hoa Kỳ để lấy cớ mở rộng cuộc chiến tranh không quân, hải quân, đánh phá miền Bắc và đưa quân viễn chình Mỹ vào miền Nam Việt Nam, trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược.

Ngày 5-8-1964, Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, thì hai ngày sau (7-8 ), Quốc hội Mỹ chính thức thông qua nghị quyết sai trái về sự kiện Vịnh Bắc Bộ với đa số phiếu áp đảo. Thượng viện và Hạ viện Mỹ quyết định rằng “Quốc hội tán thành và ủng hộ quyết tâm của Tổng thống, với tư cách tổng tư lệnh, sẽ tiến hành mọi biện pháp đẩy lùi bất cứ một cuộc tiến công vũ trang nào vào những lực lượng của Mỹ, ngăn ngừa những cuộc tiến công khác nữa”3. Quốc hội Mỹ cho phép Tổng thống “tiến hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc sử dụng lực lượng vũ trang, để giúp đỡ bất kỳ quốc gia nào là thành viên hoặc nước bảo trợ của hiệp ước phòng thủ chung Đông Nam Á yêu cầu giúp đỡ bảo vệ nền tự do của mình”4.

Với những nội dung chủ yếu nói trên, nghị quyết Vịnh Bắc Bộ về thực chất, là một “Bản tuyên chiến đề trước ngày” mà Quốc hội Mỹ giao cho Tổng thống Giônxơn.

Như vậy, trong khoảng thời gian ba ngày sau khi dựng nên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, chính quyền Mỹ “đặt được vào vị trí vững chắc hai điểm chủ chốt trong chương trình chi tiết 23-5, tức là bố trí trước các lực lượng oanh kích lớn và tranh thủ được Quốc hội cho phép được hành động rộng lớn hơn”5. L. Giônxơn giành được đặc quyền sử dụng lực lượng Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

12 giơ 30 phút ngày 5-8-1964, không quân Mỹ mở cuộc tiến công bằng bom đầu tiên xuống miền Bắc Việt Nam được gọi là “mũi tên xuyên”.

Nhờ chuẩn bị từ trước với tinh thần cảnh giác cao, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta không bị bất ngờ. Mạng rađa cảnh giới của ta kịp thời phát hiện các tốp máy bay địch trên từng hướng và thông báo cho các đơn vị phòng không pháo cao xạ, hải quân và dân quân, tự vệ sẵn sàng đánh trả.
____________________________________
1. Dẫn theo Giôdép Amto: Lời phán quyết từ Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr.88.
2. Báo cáo trực tiếp của Đô đốc Sáp (Sharp) cho Mắc Namara ngày 4-8-1964. Dẫn theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tldd, t1, tr.237. Cũng theo tài liệu này, tại cuộc họp báo ở Oasinhtơn ngày 5-8-1964, Mắc Namara cho biết: Vào lúc đó, Mỹ đã tăng cường lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương, bao gồm: “thứ nhất là một đội tàu chở máy bay tiến công được di chuyển từ Hạm đội 1 ở bắc Thái Bình Dương đến tây Thái Bình Dương; thứ hai, máy bay tiêm kích và máy bay ném bom chiến đấu đã được chuyển đến Nam Việt Nam; thứ ba, máy bay ném bom chiến đấu đã được chuyền đến Thái Lan; thứ tư, những phi đội máy bay tiêm kích và máy bay ném bom chiến đấu đã dược chuyển từ Mỹ đến các căn cứ tiền tiêu ở Thái Bình Dương; thứ năm, một lực lượng đặc nhiệm chống tàu ngầm đã được chuyển đến biển Nam Hải; cuối cùng, các lực lượng lục quân và lính thuỷ đánh bộ được chọn lựa đã đặt trong tình trạng báo động và sẵn sàng hành động”.
3, 4. Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ của Quốc hội Mỹ, tlđd, t.1, tr.240.
5. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.1, tr.241.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #101 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 10:51:35 pm »


Tại Cửa Hội (Nghệ An), lúc 12 giờ 30 phút, tám máy bay Mỹ lao vào ném bom đã bị lưới lửa phòng không trên các tàu hải quân và trên đất liền bắn rơi một chiếc ở phía tây đảo Hòn Mắt 2km. Một tốp khác tám chiếc lợi dụng sự che khuất của núi từ phía tây lao đến ném bom cảng sông Gianh (Quảng Bình). Các trận địa phòng không và tàu hải quân cùng với dân quân xã Cảnh Dương bắn cháy một chiếc rơi xuống biển, bắn bị thương một chiếc khác. Tại Hòn Gai, Bãi Cháy, một tốp tám chiếc vừa lao xuống ném bom bị hoả lực các cỡ của bộ đội phòng không, hải quân, dân quân bắn trả mãnh liệt, một chiếc A4 trúng đạn rơi xuống vùng biển Hà Tu, tên giặc lái- trung uý I.Anvơrét nhảy dù xuống biển. Thượng sĩ cơ yếu Nguyễn Kim Bảo của Quân khu Đông Bắc cùng hai chiến sĩ biên phòng đang trên đường ra đảo Cô Tô bằng thuyền đã cùng bác Lộc và dân quân địa phương tổ chức bắt sống tên phi công Mỹ. Hồi 14 giờ 45 phút, máy bay Mỹ tiếp tục đánh Bãi Cháy, Lạch Trường, bị ta bắn rơi ba chiếc, bắn bị thương một chiếc khác. 16 giờ 20 phút, máy bay Mỹ ném bom cảng sông Gianh lần thứ lai. Lực lượng phòng không và dân quân của ta ở đây cảnh giác, nổ súng đúng thời cơ, bắn rơi hai chiếc (một chiếc rơi ngoài biển cách cửa sông Gianh 25km, một chiếc rơi ở vùng Cự Nẫm, huyện Bố Trạch). Tại Cửa Hội, chiều hôm đó, tám máy bay Mỹ lao vào nhưng bị hoả lực của ta bắn mạnh, chúng phải tháo chạy.

Cuộc ném bom miền Bắc đầu tiên của không quân Mỹ ngày 5-8-1964 đã bị quân, dân ta bắn rơi tám máy bay phản lực, bắn bị thương hai chiếc khác, bắt sống một giặc lái. Tỷ lệ thiệt hại của Mỹ là 12% so với số lần máy bay xuất kích (64 lần xuất kích). Đó là điều hoàn toàn bất ngờ đối với không quân Hoa Kỳ.

Thắng lợi này củng cố niềm tin của quân và dân ta, tạo nên khí thế mới quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược bảo vệ vững chắc hậu phương lớn, tăng cường sức mạnh cho miền Nam tiến công và nổi dậy. Đảng, Nhà nước và quân đội ta đã tổ chức trọng thể lễ mừng công tuyên dương công trạng lực lượng phòng không và hải quân ta chiến thắng vẻ vang không quân Mỹ trong ngày 5-8-1964. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã tham dự lễ mừng công này.

Ngày 3-5-1964, theo Mỹ đạo diễn, Phumi Nôxavẳn yêu cầu quân đội các nước trong khối SEATO can thiệp vào Lào. Cũng trong tháng 6-1964, Mỹ bắt đầu ném bom ở Lào. Ngày 11-6, chúng oanh tạc thị trấn Khang Khay (Xiêng Khoảng) làm chết và bị thương nhiều dân thường. Ngày 14-6, phi công Mỹ được lệnh tự do bắn phá các mục tiêu cần thiết trong vùng giải phóng Pathét Lào. Tháng 8-1964, không quân Mỹ ném bom và rải chất độc hoá học xuống vùng Trung- Hạ Lào. Sau đó, Mỹ thúc ép Hoàng thân Phuma để Thái Lan công khai đưa quân can thiệp vào Lào (19-12-1964) và đồng ý cho Mỹ oanh tạc hành lang vận chuyển chiến lược Bắc- Nam dọc biên giới Việt- Lào (24-12-1964). Lực lượng không quân chiến thuật Mỹ gồm tập đoàn không quân số 7 và 13, liên đội đặc biệt số 506, Hãng hàng không Air America, Hãng hàng không Air Continentail được huy động vào cuộc chiến, oanh tạc toàn bộ lãnh thổ Lào và đường Trường Sơn.

Sau ngày 5-8-1964, Mỹ đẩy mạnh kế hoạch ném bom đường vận tải chiến lược Trường Sơn, đồng thời tăng cường chiến tranh đặc biệt ở Lào mà chúng đã tiến hành từ đầu năm 1964, nhằm cắt đứt chi viện của hậu phương lớn, củng cố vị trí Mỹ và phái hữu ở Lào, cô lập cách mạng miền Nam.

Trước tình hình nói trên, một số đơn vỉ phòng không Quân khu IV được điều lên bố trí ở miền tây Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hành lang chiến lược Bắc- Nam và cơ động giúp bạn Lào khi có yêu cầu.

Ngày 18-11-1964, không quân Mỹ ném bom khu vực Cha Lo, miền tây Quảng Bình. Đại đội 3, tiểu đoàn 14 pháo cao xạ thuộc sư đoàn 325, Quân khu IV do đại đội trưởng Lê Hữu Mai và chính trị viên Nguyễn Viết Xuân chỉ huy kịp thời đánh trả. Trận đánh diễn ra ác liệt, chính trị viên Nguyễn Viết Xuân bị thương nặng. Trong giây phút trận địa dường như im hẳn tiếng súng bắn trả, chỉ còn tiếng máy bay địch gầm rít và tiếng bom rơi, đạn nổ, bỗng vang lên lời hô của Nguyễn Viết Xuân “Phản lực Mỹ không có gì đáng sợ! Nhằm thẳng quân thù, bắn!” đã tiếp thêm sức cho cán bộ, chiến sĩ đại đội 3 vững vàng trên mâm pháo nhả đạn. Khẩu đội trưởng Nguyễn Duy Dĩnh, quần áo bắt lửa cháy, anh vẫn bình tĩnh chỉ huy khẩu đội bắt mục tiêu. Các chiến sĩ Nguyễn Văn Hường, Nguyễn Đặng, Đặng Văn Đinh bị thương nặng vẫn không rời trận địa, tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu cho đến kết thúc trận đánh. Trong trận này, đại đội 3 bắn rơi ba máy bay Mỹ, bảo vệ được mục tiêu. Nguyễn Viết Xuân anh dũng hy sinh, nhưng lời hô “Nhằm thẳng quân thù, bắn!” của anh trở thành khẩu hiệu hành động của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Nguyễn Viết Xuân được Quốc hội, Chính phủ tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Cùng với hành động chiến tranh chống nhân dân Việt Nam, Mỹ còn xúi giục, ủng hộ phái hữu Lào đem quân càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng thuộc quyền kiểm soát của Pathét Lào và lực lượng trung lập yêu nước, gây nên tình hình hết sức căng thẳng ở Lào. Ngày 17-8-1964, Mắc Clotxay, người phát ngôn bộ ngoại giao Mỹ, còn đe doạ rằng: Mỹ sẵn sàng thi hành bất cứ biện pháp nào do tình hình Lào đòi hỏi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #102 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 10:52:17 pm »


Tháng 3-1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào họp hội nghị lần thứ 12 chủ trương:

1. Ra sức đẩy mạnh đấu tranh chính trị, kết hợp với tăng cường hoạt động quân sự một cách tích cực nhằm làm thất bại mọi âm mưu của địch và cải thiện tình hình, giữ vững Chính phủ liên hợp và hoà bình, trung lập.

2. Ra sức củng cố lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng nửa vũ trang.

3. Tích cực khôi phục, củng cố và xây dựng vùng giải phóng, căn cứ địa...

Tháng 5-1964, theo yêu cầu của bạn, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng Pathét Lào mở cuộc tiến công quân sự với binh vận, giải phóng Cánh Đồng Chum- Xiêng Khoảng- Muông Sủi- Tha Thơm, nối liền Cánh Đồng Chum với căn cứ địa Sầm Nưa, Bắc Lào và Trung Lào, mở thông đường số 7 với Việt Nam. Ta và bạn loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.500 địch, thu 30 khẩu pháo, 2982 súng các loại, 19 xe bọc thép, 181 ô tô, giải phóng một vùng rộng 3.000 km2 với 28 xã, 30.000 dân.

Thắng lợi ở Cánh Đồng Chum làm cho lực lượng phản bội giả danh trung lập của Coongle bị loại trừ, quân đội phái hữu thêm suy yếu, lôi kéo được lực lượng trung lập của đại tá Đươn đi theo Pathét Lào. Từ đây, tình hình chính trị, quân sự ở Lào được cải thiện một bước, cách mạng làm chủ một vùng chiến lược rất quan trọng, một chiến trường thu hút, giam chân và tiêu diệt sinh lực địch, chiến trường có ý nghĩa quyết định thắng lợi của chiến tranh cách mạng Lào. Thắng lợi này còn góp phần tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn.

Toàn bộ tình hình ở hai miền Nam, Bắc Việt Nam và Lào chứng tỏ rằng: sau mấy tháng thực hiện kế hoạch Giônxơn- Mắc Namara, địch chẳng những không đạt được các mục tiêu chúng đề ra, ngược lại, chúng vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của lực lượng cách mạng miền Nam và sự đánh trả quyết liệt của quân, dân miền Bắc. Sự trưởng thành nhanh chóng của bộ đội chủ lực trên chiến trường miền Nam đã tạo ra những quả đấm mạnh, đủ sức mở các chiến dịch quyết định làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Chính Taylo, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, kẻ đại diện cho Hoa Kỳ cùng với CIA và phái đoàn MAAG điều khiển cuộc chiến tranh đặc biệt ở miền Nam, cũng phải thừa nhận: “Về mặt trang bị và huấn luyện, Việt cộng được trang bị và được lãnh đạo tốt hơn bất kỳ lúc nào trước đây”1. Còn chính phủ của Khánh thì “Bất lực, đầy rẫy những bộ trưởng không có kinh nghiệm, ghen tỵ, nghi ngờ lẫn nhau...”2, khiến cho “... dân chúng hoang mang và có thái độ bàng quan”3 đối với chính quyền Sài Gòn. Tình hình đó đẩy Mỹ, chính quyền Sài Gòn càng thêm lún sâu vào những mâu thuẫn, bế tắc trong việc giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam đúng như Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã nhận định trong cuộc họp tháng 9-1964 là: “... Cứ tiếp tục cuộc chiến tranh đặc biệt chắc chắn Mỹ sẽ thua; nếu đưa quân Mỹ vào hỗ trợ cũng không chắc thắng, dùng không quân đánh phá miền Bắc có giới hạn cũng không giải quyết được vấn đề gì, không ngăn chặn được miền Bắc chi viện cho miền Nam, đưa chiến tranh đặc biệt ra toàn cõi Việt Nam bằng tiến công quy mô lớn ra miền Bắc, thì chắc chắn Mỹ sẽ càng thất bại nặng nề hơn”4. Do đó, âm mưu và khả năng sắp tới của Mỹ có thể sẽ là đẩy mạnh những cố gắng cuối cùng trong khuôn khổ của cuộc chiến tranh đặc biệt bằng cách tăng thêm phương tiện chiến tranh, nhất là không quân; tăng thêm nhân viên quân sự cho đến cả một số đơn vị chiến đấu có giới hạn của Mỹ hoặc của một vài nước chư hầu nào đó vào miền Nam để chiếm đóng một số vị trí chiến lược, tăng thêm lực lượng của quân đội tay sai đẩy mạnh các hoạt động càn quét, nhất là tăng cường các hoạt động của máy bay, đại bác và chiến xa ác liệt hơn để cố hòng ngăn chặn những thắng lợi lớn sắp tới của nhân dân miền Nam...”5. Từ những nhận định trên đây, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương: “Trên cơ sở nắm vững quan điểm trường kỳ, cần động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tập trung mọi khả năng, lực lượng để giành một bước thắng lợi quyết định trong một vài năm tới”6.

Bộ Chính trị giao cho Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng chuẩn bị một kế hoạch chiến lược trong đó dự kiến đầy đủ sự phát triển của tình hình, nhanh chóng tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang bảo đảm thực hiện các trận đánh tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực địch, tạo ra và tranh thủ thời cơ đánh bại quân ngụy trước khi Mỹ vào.
____________________________________
1, 2, 3. Báo cáo của Taylo gửi Mắc Namara ngày 10-8-1964, dẫn theo Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t1.
4, 5, 6. Nghị quyết Bộ Chính trị (9-1964) lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TW 1159.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #103 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 10:53:08 pm »


Tháng 10-1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương được cử vào chiến trường làm chính uỷ Bộ chỉ huy Miền. Cùng đi đợt này còn có Thiếu tướng Trần Độ, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Đại tá Hoàng Cầm và nhiều cán bộ trung, cao cấp có kinh nghiệm xây dựng bộ đội chủ lực và chỉ huy đánh lớn.

Chấp hành chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 11-10-1964, Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho các chiến trường mở đợt hoạt động quân sự trên toàn miền Nam nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực ngụy, kết hợp tiêu hao rộng rãi, thúc đẩy thêm sự tan rã của chúng, đẩy mạnh phá ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp, giành thêm nhiều nhân tài, vật lực, mở rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng kiểm soát của địch, đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, làm tăng sự khủng hoảng chính trị và mâu thuẫn nội bộ địch.

Căn cứ vào các nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, các chiến trường Nam Bộ, Khu V xúc tiến làm kế hoạch tác chiến thu đông năm 1964 nhằm đánh bại quân ngụy, đánh sập chỗ dựa của Mỹ trước khi chúng đưa quân viễn chinh vào tiến hành chiến tranh cục bộ, đồng thời phát triển và củng cố thế trận chiến tranh nhân dân của ta. Theo phương hướng đó, cuối tháng 10-1964, Đảng ủy và Bộ chỉ huy Miền vạch kế hoạch mùa khô 1964-1965 cho toàn chiến trường B2 là tập trung phần lớn lực lượng chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch tiến công tại miền Đông Nam Bộ nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực ngụy, hỗ trợ nhân dân phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, củng cố, nối liền các căn cứ nam- bắc đường số 2 (Bà Rịa) bảo vệ các bến tiếp nhận hàng bằng đường biển, rèn luyện và nâng cao trình độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực.

Địa bàn tác chiến chiến dịch gồm các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà, Bình Thuận, trải rộng trên diện tích gần 500 km2. Hướng chủ yếu của chiến dịch được xác định là Bà Rịa- Long Khánh; hai hướng phối hợp là Nhơn Trạch, Long Thành (Biên Hoà) và Hoài Đức, Tánh Linh (Bình Thuận). Lực lượng tham gia chiến dịch có hai trung đoàn bộ binh (Q761, Q762), còn gọi là trung đoàn 1 và 2, đoàn 80 pháo binh Miền1 (gồm bốn tiểu đoàn), hai tiểu đoàn (500 và 800) chủ lực của Quân khu miền Đông, tiểu đoàn 186 của Quân khu VI (gần như toàn bộ lực lượng chủ lực có ở miền Đông Nam Bộ lúc bấy giờ) cùng bộ đội địa phương tỉnh (đại đội 445 của Bà Rịa), huyện, du kích các xã trên địa bàn chiến dịch, ước tính khoảng 7.000 quân.

Bộ chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí: Trần Đình Xu, Chỉ huy trưởng; Lê Văn Tưởng, Chính uỷ; Lê Xuân Lựu, Phó chính uỷ; Nguyễn Hồng Lâm (Hai Bứa), Phó chỉ huy; Nguyễn Hoà, Phó chỉ huy, Tham mưu trưởng.

Đây là lần đầu tiên, Quân uỷ và Bộ chỉ huy miền tập trung một lực lượng tương đối lớn mở chiến dịch dài ngày trên một địa bàn rộng. Vì vậy, công tác chuẩn bị đòi hỏi phải hết sức khẩn trương và nỗ lực cao để đáp ứng kịp thời yêu cầu chiến dịch.

Trong quá trình chuẩn bị, các đoàn hậu cần Miền và của quân khu dựa vào địa phương để động viên sức người, sức của trong vùng giải phóng, vùng tạm bị chiếm, đồng thời, kết hợp chặt chẽ việc tiếp nhận nguồn vũ khí chi viện của trung ương và các nơi khác, bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chiến dịch. Trong vòng hai tháng, ngành hậu cần và nhân dân địa phương đã thu gom được 200 tấn lương thực, vận chuyển 500 tấn vũ khí từ Thạnh Phú (Bến Tre) về đến sông Thị Vải. Số vũ khí này là do miền Bắc chi viện bằng đường biển vào. Ngoài ra, một số hàng quân y và thông tin kỹ thuật từ miền Bắc đưa vào cũng kịp thời phân phối đến các đơn vị. Một đội phẫu cơ động và bệnh viện dã chiến với 300 giường có đủ thuốc và máu khô cứu chữa cho 600 thương binh được thành lập.

Ở khu V, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu vạch kế hoạch tác chiến chiến dịch trên hai hướng là bắc Bình Định, nam Quảng Ngãi và một hướng trên trục đường số 14 Tây Nguyên. Trọng điểm chiến dịch được chọn là bắc Bình Định (khu vực An Lão, Đèo Nhông).

Đi đôi với việc triển khai các mặt chuẩn bị, Bộ chỉ huy Miền và Khu V đồng thời mở đợt hoạt động của bộ đội địa phương trên toàn chiến trường để buộc địch phải phân tán đối phó trên nhiều hướng, tạo thuận lợi cho quá trình chuẩn bị chiến dịch.

Đêm 31-10-1964, lực lượng pháo binh miền (đoàn 80) pháo kích sân bay Biên Hoà. Đây là một căn cứ không quân lớn của địch, thường xuyên có từ 300 đến 400 máy bay các loại, trong đó có cả F101, F102, B57, máy bay do thám U2, các kho chứa bom đạn, xăng dầu và xưởng sửa chứa... Sân bay Biên Hoà không chỉ là nơi xuất phát của máy bay Mỹ đi bắn phá các nơi, mà còn là nơi huấn luyện, đào tạo phi công ngụy trên chiến trường. Do vị trí đặc biệt quan trọng đó, địch tổ chức bố phòng nghiêm ngặt với hệ thống rào kẽm gai, bãi mìn, lô cốt, hệ thống đèn pha chiếu sáng và lực lượng bảo vệ sân bay gồm một đại đội pháo binh, một đại đội thiết giáp, một tiểu đoàn bộ binh, một đại đội an ninh quân đội, một phi đội máy bay lên thẳng HU1A và máy bay Xcrađơ sẵn sàng ứng chiến. Bảo vệ từ xa có hai tiểu đoàn lính ngụy đóng tại thị xã Biên Hoà, một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 5 tuần tra chung quanh...
____________________________________
1. Còn gọi là Q763.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #104 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 10:54:13 pm »


Chiều 31-10-1964, lực lượng ta bí mật hành quân từ chiến khu D đến bố trí trận địa pháo tại Hốc Bà Thức (cách sân bay 1 km về phía đông bắc). Lúc 23 giờ, pháo ta bắt đầu giội đạn vào sân bay. Trận đánh diễn ra nhanh, 130 quả đạn rơi đúng mục tiêu, phá huỷ, phá hỏng 59 máy bay các loại, 193 tên địch bị diệt, hai kho đạn lớn, một kho xăng, một đài quan sát và 18 căn trại địch bị thiêu huỷ. Với chiến công này, đoàn pháo binh 80 Miền được tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng nhất.

Tiếp theo chiến thắng Biên Hoà, ngày 15-11-1964, tiểu đoàn 500 của Quân khu miền Đông (T1) phục kích trên lộ số 15 tại xã Phước Thái, diệt đoàn xe cơ giới 12 chiếc của địch đang trên đường từ Biên Hoà xuống Vũng Tàu.

Ở Sài Gòn, đêm 18-11-1964, các chiến sĩ đặc công bí mật luồn vào sân bay Tân Sơn Nhất, đánh vào Câu lạc bộ hàng không, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm sĩ quan và phi công Mỹ.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12, các đơn vị thuộc Quân khu miền Đông tiếp tục mở các cuộc tiến công địch trong các ấp chiến lược chung quanh chi khu Hoài Đức và một số nơi ở Gia Định, Tây Ninh, địch buộc phải căng kéo lực lượng chống đỡ khắp nơi. Cùng lúc đó, các đơn vị tham gia chiến dịch (Q761, Q762, Q763 pháo binh và một số phân đội bảo đảm) chia thành nhiều hướng bí mật tiến về chiến trường chính Bà Rịa. Ngày 10-11-1964, lực lượng ta đã vào vị trí tập kết và triển khai đội hình xuất phát tiến công.

Ở Bà Rịa (hướng chủ yếu của chiến dịch), địch có bốn chi khu quân sự là Đức Thạnh, Long Điền, Đất Đỏ và Xuyên Mộc. Mỗi chi khu địch bố trí từ một đại đội đến một tiểu đoàn bảo an đóng giữ. Bảo vệ chi khu còn có hệ thống đồn bốt và các ấp chiến lược do lực lượng dân vệ và phòng vệ dân sự canh giữ. Bà Rịa cùng với Biên Hoà hợp thành đặc khu Phước Biên. Ngoài lực lượng tại chỗ (bảo an, dân vệ), địch còn tăng cường cho khu vực này tiểu đoàn 36 biệt động quân bố trí tại Phú Mỹ, một chi đội xe cơ giới và hai trung đội pháo 105 ly ở Phước Lễ, chưa kể lực lượng cơ động của quân đoàn 3 ngụy (gồm các tiểu đoàn 30, 35, 33 biệt động, tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến, một lữ đoàn dù, một trung đoàn xe M113) sẵn sàng chi viện ứng cứu cho đặc khu khi cần.

Nghiên cứu kỹ địa hình và hệ thống phòng thủ của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chọn ấp Bình Giã (thuộc chi khu Đức Thạnh) làm điểm khơi ngòi chiến dịch. Chọn Bình Giã vì đây là một vị trí quan trọng của địch. Bình Giã bị diệt, chi khu Đức Thạnh, đường số 2 bị uy hiếp, Bà Rịa bị chia cắt khỏi Long Khánh và đường số 1, khu vực phòng ngự có tầm chiến lược của chúng sẽ mất hiệu lực. Ngoài ra, Bình Giã còn là một ấp chiến lược địch xây dựng tương đối hoàn chỉnh. Tại đây, có hơn 400 gia đình giáo dân di cư, trong đó hầu hết là gia đình binh sĩ, sĩ quan thuộc lực lượng biệt động và thuỷ quân lục chiến. Do vậy, nếu Bình Giã bị tiến công, địch sẽ điều động lực lượng tổng dự bị đến ứng cứu, giải toả; ta có điều kiện đánh diệt quân viện ngoài công sự.

Theo kế hoạch đã định, đêm 2-12-1964, đại đội 445 bộ đội tỉnh Bà Rịa tiến công ấp chiến lược Bình Giã. Cùng lúc, pháo binh Miền, tiểu đoàn 1, trung đoàn 761 pháo kích, bao vây, kiềm chế chi khu quân sự Đức Thạnh. Địch vội vã dùng máy bay lên thẳng chở tiểu đoàn 38 biệt động quân đổ xuống tây nam Đức Thạnh giải vây và tiến lên khôi phục lại ấp Bình Giã. Lực lượng tiến công của ta ít, địch phản kích quyết liệt, trận đánh mở màn chiến dịch tại Bình Giã không thành công. Mặc dù vậy, Bộ chỉ huy chiến dịch vẫn quyết định điều chỉnh, bố trí lại đội hình, tiếp tục đánh chiếm Bình Giã, kéo địch ra tiếp viện để diệt.

Ngày 7-12-1964, đại đội 445 phối hợp với một đại đội thuộc trung đoàn 761 tiến công ấp chiến lược Bình Giã lần thứ hai. Đồng thời, tiểu đoàn 3 trung đoàn 761, và tiểu đoàn 5 trung đoàn 762, đánh chi khu quân sự Đất Đỏ. Các đơn vị pháo binh Miền tập kích hoả lực vào các chi khu Xuyên Mộc, Đức Thạnh và căn cứ huấn luyện biệt kích Vạn Kiếp.

Trước áp lực ngày càng tăng của ta ở Bình Giã và Đức Thạnh, ngày 9-12-1964, địch dùng chi đoàn 3 thiết giáp có không quân yểm trợ mở cuộc hành quân Bình Tuy 33 càn quét giải toả dọc lộ số 2, soạn từ Bình Giã đến Đức Thạnh. Trung đoàn 762 đã bố trí trận địa phục kích, song địch lại hành quân không đúng hướng dự kiến của ta, buộc trung đoàn phải điều chỉnh thế bố trí, cơ động về đông núi Nghệ (cách lộ số 2 khoảng 4 km) ém quân chờ đợi. Sau bốn ngày kiên trì chờ đợi, ngày 13 tháng 12, đoàn xe địch từ Đức Thạnh trở về đi vào trận phục kích của ta. Ngay lập tức, bộ đội ta được lệnh xuất kích. Đại đội trưởng Tạ Quang Tỷ chỉ huy bộ phận chặn đầu, chỉ mục tiêu cho ĐKZ 75 bắn cháy chiếc đi đầu và nhảy lên xe bắn chế áp. Đội hình địch ùn lại. Được máy bay yểm trợ, địch chống trả quyết liệt. Hoả lực phòng không của ta đánh trả mãnh liệt bắn cháy và bắn bị thương bảy máy bay lên thẳng vũ trang và một máy bay trinh sát L19. Trong lúc đó, các chiến sĩ bộ binh dùng tiểu liên, lựu đạn diệt từng xe và xung phong chiếm các xe, dùng đại liên địch diệt địch. Sau hơn một giờ chiến đấu ác liệt, ta làm chủ hoàn toàn trận địa, diệt gọn chi đoàn thiết giáp số 3 gồm 14 chiếc M113 và 107 tên địch (có chín cố vấn Mỹ), thu 12 đại liên, hai trọng liên, hai cối 81, năm trung liên và 58 súng tự động. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường miền Đông Nam Bộ ta diệt gọn một chi đoàn thiết giáp, lực lượng cơ động mạnh của ngụy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #105 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 10:55:23 pm »


Trên hướng phối hợp Tánh Linh, Hoài Đức, tiểu đoàn 186 chủ lực Quân khu VI đánh chiếm ấp chiến lược Mê-pu buộc địch đưa viện binh ở Hoài Đức ra và từ đường số 1 lên. Ta diệt một đại đội bảo an và một đại đội dân vệ. Lực lượng ở tiểu khu La Gi đến tiếp viện, bộ đội ta chặn đánh thiệt hại thêm hai đại đội bảo an nữa. Bước một của chiến dịch kết thúc. Lực lượng ta còn đang sung sức. Chi khu Đức Thạnh và tỉnh lộ 2 vẫn bị uy hiếp. Giữa lúc đó, đêm 22-12-1964, chuyến tàu chở 44 tấn vũ khí từ miền Bắc vào cập bến Lộc An an toàn. Số vũ khí này được trang bị ngay cho các đơn vị tham gia chiến dịch. Sức chiến đấu của bộ đội được tăng cường. Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định: mặc dù dịch bị thất bại, bị đẩy vào thế bị động, lúng túng, nhưng do tầm quan trọng của mục tiêu, chúng cố giữ nhất định địch sẽ dùng lực lượng cơ động lớn đến ứng cứu cho Bình Giã. Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm tập trung toàn bộ lực lượng trên khu vực Đức Thạnh- Bình Giã, đường số 2, sử dụng bộ binh và hoả lực đánh chìm và trụ lại ấp Bình Giã, phá chi khu Đức Thạnh, kéo địch đến khu vực đã lựa chọn để đánh trận then chốt quyết định.

Đợt hai chiến dịch chuẩn bị mở màn thì một sự kiện gây chấn động lớn không chỉ ở Sài Gòn mà cả ở nước Mỹ: Ngày lễ giáng sinh (24-12-1964), các sĩ quan Mỹ đang tập trung đông đủ chờ những nghệ sĩ nổi tiếng nhất nước Mỹ sang biểu diễn phục vụ, thì Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê) trong vai thiếu tá ngụy và Nguyễn Hoá (Tư Mập) cải trang thành lái xe đưa khối thuốc nổ 100 kg trong chiếc xe NASH vào đậu ở tầng trệt của khách sạn Brink. 17 giờ 55 phút, đúng giờ hẹn, khối thuốc nổ tung làm sập ba tầng của khách sạn, hơn 100 người chết và bị thương trong đó có 66 người Mỹ. Vụ nổ gây hoang mang cao độ trong hàng ngũ sĩ quan Mỹ, bởi theo đại tá Kunje, người phụ trách bảo vệ an toàn cho các cư xá Mỹ ở Sài Gòn, đánh giá thì Brink là “chỗ an toàn nhất cho các sĩ quan Mỹ”. Sau vụ nổ, Oétmolen ra lệnh đưa vợ con lính Mỹ về nước. Còn Taylo báo cáo với Giônxơn: Để người Mỹ bảo đảm an ninh cho chính mình, đòi hỏi phải có 75.000 lính Mỹ. Và cho dù vậy cũng không ai bảo đảm sẽ không có những vụ như khách sạn Brink xảy ra.

Ba ngày sau trận đánh khách sạn Brink, đêm 27-12-1964, chiến dịch Bình Giã bước vào đợt hai. Đại đội 2 (tiểu đoàn 1 trung đoàn 761) cùng đại đội 445 Bà Rịa bí mật đột nhập ấp chiến lược Bình Giã. 4 giờ sáng ngày 28 tháng 12, lực lượng ta bất ngờ nổ súng tiến công đồn bảo an và lực lượng dân vệ trong ấp. Cùng lúc, hoả lực ĐKZ 75 và cối 81 ly bố trí ở tây bắc Ngãi Giao bắn phá chi khu quân sự Đức Thạnh, gây cho địch nhiều thiệt hại. Ấp Bình Giã bị mất, chi khu Đức Thạch bị uy hiếp, sáng 28-12-1964,. địch dùng máy bay lên thẳng chở tiểu đoàn 30 biệt động quân từ Bà Rịa đổ xuống Trảng Trống (tây nam Đức Thạnh), rồi chia thành ba mũi tiến vào Bình Giã. Bị ta chặn đánh quyết liệt, lực lượng địch tháo chạy về ấp La Vân (nam Đức Thạnh).

Trưa ngày 28 tháng 12, địch dùng 24 máy bay lên thẳng vũ trang yểm trợ cho 50 máy bay lên thẳng chở tiểu đoàn 33 biệt động quân từ Biên Hoà (sở chỉ huy Quân đoàn III ngụy) đổ xuống đông bắc ấp Bình Giã định phối hợp cùng tiểu đoàn 30 ở hướng tây đánh chiếm lại ấp. Dự đoán trước hướng phản kích của địch, trung đoàn 761 bố trí trận địa phục kích ở nam và đông nam ấp, dùng lực lượng phòng không khống chế máy bay lên thẳng, không để địch đổ quân ở hướng đông bắc, buộc chúng phải đổ xuống đông nam ấp, đúng nơi ta phục kích. Cuộc chiến diễn ra gần sát với phương án ta dự kiến. Kết quả, ta tiêu diệt tiểu đoàn 33, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 30, bắn rơi 18 máy bay. Hai lần địch dùng máy bay đổ quân hòng chiếm lại Bình Giã, nhưng đều bị thất bại. Mặc dù vậy, chúng vẫn không từ bỏ ý đồ chiếm lại Bình Giã. Vì thế, ngày 30-12-1964, địch lại cho máy bay lên thẳng đổ tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến xuống đông nam ấp La Vân (gần quận lỵ Đức Thạnh) để cùng tiểu đoàn 30 vừa được bổ sung quân số chiếm lại Bình Giã. Trung đoàn 761 của ta lúc này, đang ém quân ở Quảng Giáo. Tại đây, ta bắn rơi một máy bay lên thẳng, bốn tên Mỹ ngồi trong máy bay (có một trung tá) chết. Bộ chỉ huy chiến dịch dự đoán địch sẽ đi tìm xác bọn Mỹ, đã bố trí trung đoàn 761 phục kích. Chiều 31-12-1964, tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến hành quân đến Quảng Giáo để lấy xác. Trung đoàn 761 bất ngờ nổ súng. Tiểu đoàn 4 vốn là loại lính tinh nhuệ bậc nhất của quân ngụy thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược, chúng chống trả ngoan cố. Trận chiến mỗi lúc một ác liệt. Ta và địch giành nhau từng thước đất. Các đơn vị của ta mưu trí chia cắt địch thành từng cụm để tiêu diệt. Đến 18 giờ, ta tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn 4 (600 tên) thu toàn bộ vũ khí. Đây là lần đầu tiên lực lượng vũ trang giải phóng diệt gọn một tiểu đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược của địch.

Để cứu nguy cho Đức Thạnh, lấy lại Bình Giã, ngày 1-1-1965, địch mở cuộc hành quân giải toả mang tên Hùng Vương 2. Địch tung vào cuộc hành quân này 2.000 quân, gồm cơ giới, nhảy dù, thuỷ quân lục chiến và cả máy bay lên thẳng. Toàn bộ lực lượng địch đổ xuống khu vực tác chiến Bình Giã, Đức Thạnh, tây đường số 2 để kết hợp với tàn quân còn lại của tiểu đoàn 30 và 38 biệt động quân phản kích hòng đẩy lùi ta khỏi khu chiến.

Nắm được kế hoạch hành binh của địch, tiểu đoàn 4 trung đoàn 762 chủ động bố trí phục kích đánh diệt gọn đoàn xe 10 chiếc và một đại đội địch trên đường số 15 từ Vũng Tàu về Sài Gòn ở vị trí đối diện với núi Cóc Tiên. Hai ngày sau, 3-1-1965, trung đoàn 762 lại diệt đoàn xe 16 chiếc (có hai xe tăng, hai M113) cùng tiểu đoàn 35 biệt động quân trên đường số 2 đoạn từ Bà Rịa lên Đức Thạnh. Cùng ngày, tiểu đoàn 800 tập kích trại biệt kích Bình Sơn, phối hợp với du kích Long Thành diệt đồn Tam An, Phước Thọ, hỗ trợ quần chúng phá ấp chiến lược.

Trên hướng Hoài Đức-Tánh Linh, ta bao vây chi khu Hoài Đức, địch không đủ sức giải toả. Nhân đà đó, ta đánh chiếm ấp chiến lược Mê-pu, Sùng Nhơn, Đậm Rim... làm tan rã lực lượng dân vệ ở đây.

Ngày 3-1-1965, chiến dịch tiến công Bình Giã kết thúc thắng lợi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #106 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 10:56:26 pm »


Hơn một tháng chiến đấu (từ 2-12-1964 đến 3-1-1965), lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã tiêu diệt hai tiểu đoàn chủ lực ngụy (tiểu đoàn 33 biệt động quân và tiểu đoàn 4 thuỷ quân lục chiến), chi đoàn 3 M113 (thuộc thiết đoàn 1) và hai đoàn xe cơ giới; đánh thiệt hại nặng ba tiểu đoàn biệt động quân (30, 35, 38 ), bảy đại đội bảo an; làm tan rã hầu hết dân vệ trong khu vực. Tổng số địch bị diệt trong chiến dịch lên tới 1.755 tên, bị bắt 193 tên, 45 xe bị phá huỷ, phá hỏng (phần lớn là M113), 56 máy bay các loại bị bắn rơi và bắn cháy. Ta thu hơn 1.000 súng các loại. Nhiều ấp chiến lược ở ven đường số 2, số 15 thuộc các huyện Đất Đỏ, Long Thành, Nhơn Trạch bị phá tan. Huyện Hoài Đức được giải phóng, vùng căn cứ Hát Dịch được củng cố, mở rộng nối liền chiến khu D với căn cứ Bình Thuận.

Chiến thắng Bình Giã báo hiệu sự phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt là không tránh khỏi, nó góp phần làm thay đổi tương quan lực lượng và thế chiến lược giữa ta và địch. Bộ Quốc phòng Mỹ phải thú nhận: “Mối thất vọng của Oasinhtơn đối với tình hình quân sự càng tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại trông thấy trong trận đánh ác liệt ở Bình Giã.... Mọi bằng chứng chỉ rõ tình hình sụp đổ cuối cùng của Chính phủ Việt Nam là có thể xảy ra và rõ ràng là có khả năng Việt cộng củng cố một cách thắng lợi quyền lực của họ”1.

Ngoài ý nghĩa trên đây, chiến thắng Bình Giã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng bộ đội chủ lực thành quả đấm mạnh đủ sức làm nòng cốt đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Cũng từ đây, trung đoàn 1 (Q761) được vinh dự mang tên trung đoàn Bình Giã.

Phối hợp với Bình Giã, trên các mặt trận thuộc Nam Bộ, các lực lượng vũ trang ta đều đẩy mạnh hoạt động, tranh thủ thời cơ tiến công tiêu diệt địch. Ngày 30 và 31-12-1964, đại đội 304 Thủ Dầu Một phục kích diệt gọn một đại đội biệt kích tại Đồng Sổ; bộ đội địa phương Long Khánh đánh lật một đoàn xe lửa địch. Cũng trong tháng 12-1964, lực lượng vũ trang Quân khu VI đánh quận lỵ Thiện Giáo, diệt một đại đội ngụy, thu 113 súng. Quân khu VIII diệt chi khu Ba Dừa. Quân khu IX đánh quận lỵ Long Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên địch, thu 350 súng...

Trong lúc phong trào ở Nam Bộ phát triển tương đối thuận lợi, thì ở Khu V, tháng 10-1964, một trận lụt lớn chưa từng thấy trong vòng 100 năm đã xảy ra. Hàng ngàn thôn xóm ngập chìm trong nước; lương thực, thực phẩm cũng như tài sản, hoa màu bị cuốn trôi. Nạn đói đe dọa nhân dân trong vùng ảnh hưởng nghiêm trọng đến các mặt của đời sống, gây khó khăn lớn cho kế hoạch tác chiến thu-đông. Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho trận lụt này có giá trị như một cuộc phản công của nhiều sư đoàn, chúng lợi dụng thiên tai, dùng xuồng máy, xe lội nước càn quét đánh phá, kết hợp với máy bay liên tục ném bom bắn phá các làng mạc đông dân cư, hòng làm cho nhân dân không giúp đỡ được nhau, phải khuất phục chúng. Khó khăn chồng chất tưởng chừng không khắc phục nổi. Song Khu uỷ Bộ tư lệnh Khu V, một mặt động viên lực lượng giữ vững quyết tâm thực hiện kế hoạch tác chiến đã định, mặt khác, cứu trợ đồng bào vùng ngập lụt. Miền Bắc và các tỉnh Nam Bộ kịp thời chi viện lương thực, thuốc chữa bệnh hỗ trợ nhân dân vùng bị lụt nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai. Hàng trăm chuyến ô tô, hàng trăm tàu thuyền từ khắp nơi vượt qua vùng phong toả của địch đưa hàng cứu trợ vào cho đồng bào Khu V. Cả nước tiếp sức cho Khu V. Nhờ đó, quân, dân Khu V nhanh chóng vượt qua khó khăn.

Đầu tháng 12-1964, cùng với tiếng súng Bình Giã ở Đông Nam Bộ, Khu V cũng triển khai chiến dịch thu-đông, tiến công chi khu quân sự An Lão. An Lão là một huyện phía tây tỉnh Bình Định, cách Quy Nhơn 96 km về phía tây-bắc, nằm trong thung lũng sông An Lão. Với chiều rộng 4 km, chiều dài 22 km, huyện An Lão có 15.000 dân. Từ lâu, địch xây dựng An Lão thành chi khu quân sự mạnh với ba cứ điểm: đồi 193, Hội Long, đồi Mít và tám ấp chiến lược hợp thành thế liên hoàn yểm trợ chặt chẽ cho nhau trong hệ thống phòng ngự và kìm kẹp của địch ở Bình Định. Lực lượng địch bố trí ở đây có khoảng 900 tên gồm ba đại đội bảo an và 12 trung đội dân vệ, một trung đội lính cộng hoà, một trung đội súng cối 106,7 ly.

Bộ Tư lệnh Quân khu V đã quyết định sử dụng trung đoàn 2 chủ lực quân khu, tiểu đoàn 409 đặc công, cùng lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Bình Định và hai huyện An Lão, Hoài Nhơn tiến công chi khu quân sự An Lão nhằm tiêu diệt hệ thống các cứ điểm then chốt, đánh quân viện, làm thất bại chiến thuật thiết xa vận, trực thăng vận của địch, phát động quần chúng nổi dậy phá hệ thống ấp chiến lược, giải phóng vùng đất bằng, phì nhiêu trên lưu vực sông An Lão, nối căn cứ du kích Bình Định với Quảng Ngãi.
____________________________________
1. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, tlđd, t.2, tr.25.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #107 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 10:57:35 pm »


1 giờ ngày 7-12-1964, tiểu đoàn đặc công 409, tiểu đoàn 92 (trung đoàn 2), cùng bộ đội địa phương huyện An Lão đồng loạt nổ súng tiến công vào cả ba cứ điểm: đồi 193, Hội Long, đồi Mít và tám ấp chiến lược, bao vây uy hiếp chi khu quận lỵ An Lão. Địch chủ quan cho rằng ta không thể đánh một lúc cả ba cứ điểm, vì vậy, đòn tiến công mạnh mẽ, bất ngờ trên toàn tuyến của ta đã làm cho địch lúng túng, không kịp ứng cứu. Thế liên hoàn trong hệ thống phòng thủ bị cắt rời, rối loạn. Chỉ sau 15 phút chiến đấu, các chiến sĩ đại đội 50 đặc công diệt gọn địch ở điểm cao 193. Sau đó, các cứ điểm đồi Mít, Hội Long, suối Bà Nho cũng lần lượt bị quân ta đánh chiếm. Tám ấp chiến lược trong khu vực bị phá banh. Chiến thuật phòng ngự cứ điểm kết hợp với hệ thống ấp chiến lược của địch bị thất bại. Bị đòn bất ngờ và trước nguy cơ mất An Lão, sư đoàn 22 ngụy phải bỏ dở cuộc hành quân Quyết thắng 707 càn quét đánh phá phía nam Binh Định để rút bốn tiểu đoàn và một chi đội xe bọc thép về giải vây cho An Lão.

Dự đoán địch có thể giải toả bằng đổ bộ đường không kết hợp hành quân đường bộ, ban chỉ huy trận đánh quyết định đưa một bộ phận của tiểu đoàn 93 trong lực lượng đặc công, chiếm giữ điểm cao 193, một cứ điểm khống chế toàn bộ khu vực chiến đấu và trực tiếp uy hiếp quận lỵ An Lão, mặt khác, tập trung lực lượng diệt quân cứu viện đường bộ của địch. Ngày 7 tháng 12, không quân địch liên tục đánh phá khu vực An Lão nhằm yểm trợ cho lực lượng tăng viện bằng đường không hòng giải vây cho quận lỵ. Nhưng chúng không thực hiện được ý định. 8 giờ sáng ngày 8-12, sáu máy bay khu trục và hai máy bay trinh sát yểm hộ cho 26 máy bay lên thẳng chở quân đổ xuống chân điểm cao 193. Địch vừa xuống đất, chưa kịp triển khai đội hình chiến đấu đã bị tiểu đoàn 93 Quân giải phóng chặn đánh, buộc chúng phải dạt về phía đông 5 km. Trong khi đó, cánh quân bộ gồm một tiểu đoàn của trung đoàn 41 có sáu M113 dẫn đầu theo tỉnh lộ số 56 từ Bồng Sơn lên An Lão bị tiểu đoàn 92 chặn đánh, bắn cháy ba chiếc và bị thương hai chiếc khác. Chiếc thứ sáu tháo chạy hốt hoảng lao xuống suối. Số địch còn lại vội vã tháo lui, co cụm trên điểm cao 174. Từ trưa ngày 8 tháng 12, máy bay địch liên tục đánh phá vào đội hình của trung đoàn 2 Quân giải phóng Khu V suốt ba giờ làm ta hy sinh, bị thương gần 50 cán bộ, chiến sĩ. 16 giờ, chúng lại sử dụng một chi đội xe M113 dẫn đầu bộ binh tiến vào hướng quận lỵ An Lão. Tiểu đoàn 95 kịp thời chặn đánh địch, địch buộc phải bỏ luôn điểm cao 174 rút về Bồng Sơn.

Tối 8-12-1964, Bộ tư lệnh Quân khu V thấy mục đích trận đánh chi khu quân sự An Lão đã đạt được, quyết định kết thúc trận đánh, rút bộ đội chủ lực ra hướng khác để lực lượng địa phương tiếp tục hoạt động củng cố thắng lợi.

Kết quả: Ta diệt 168 tên địch, một chi đội M113, làm tan rã hai đại đội bảo an, 12 trung đội dân vệ, bắn rơi một máy bay, thu 300 súng các loại, phá tan hệ thống ấp chiến lược quanh quận lỵ An Lão, giải phóng 11.000 dân.

Bảy ngày sau khi chủ lực ta rút đi, địch nống ra chiếm lại được An Lão. Song, do phong trào du kích ở đây phát triển, sau đó, địch phải bỏ quận lỵ An Lão, co về chốt ở Mỹ Thạnh, gần quốc lộ số 1. Từ cuối tháng 12-1964, khu vực An Lão (từ Phước Bình đến Hưng Nhơn) trở thành vùng giải phóng liên hoàn.

Với chiến thắng An Lão, lần đầu tiên, bộ đội chủ lực Quân khu V áp dụng thành công chiến thuật vây điểm diệt viện, đánh địch đổ bộ đường không, mở ra khả năng đánh tiêu diệt chủ lực ngụy, phá vỡ từng khu vực phòng thủ của chúng.

Phối hợp với An Lão, trong hai ngày 8 và 9-12-1964, tiểu đoàn 40, trung đoàn 1 tiến công cứ điểm Chóp Chài (tây thị xã Tam Kỳ 9 km), diệt gọn một đại đội bộ binh và sở chỉ huy tiểu đoàn địch, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn khác, phá huỷ, phá hỏng 14 xe quân sự, hai pháo 105 ly, thu nhiều súng đạn.

Chiến thắng An Lão và Bình Giã đánh dấu bước phát triển mới của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam trong đó khối chủ lực cơ động của Quân giải phóng lớn mạnh vượt bậc, trình độ tác chiến tập trung được nâng cao, tạo ra một bước ngoặt của hình thái đấu tranh vũ trang của cuộc chiến tranh giải phóng. Cùng với chủ lực cơ động, lực lượng tinh nhuệ và các binh chủng khác của Quân giải phóng cũng trưởng thành trong đánh hậu cứ địch; lực lượng chính trị và chiến tranh nhân dân địa phương có khả năng phối hợp tác chiến với chủ lực trong những chiến dịch, đợt hoạt động quân sự quy mô lớn, cũng như trong đấu tranh giành dân, giành quyền làm chủ ở nông thôn. Quyền chủ động chiến lược của cách mạng được củng cố và phát huy mạnh mẽ trên khắp ba vùng chiến lược.

Với chiến thắng An Lão, Bình Giã tháng 12-1964, quân và dân ta ở miền Nam đã đánh bại về cơ bản chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhận xét: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được, đến trận Bình Giã, thì Mỹ thấy sẽ thua ta trong chiến tranh đặc biệt”1.

Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam tập kích địch ở thị xã Tam Kỳ và pháo kích cứ điểm Cây Xanh, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá các ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ đến ven thị xã Tam Kỳ.

Ở Quảng Ngãi, ngày 5 tháng 12, lực lượng vũ trang tỉnh tiến công địch ở Sơn Giang, hỗ trợ cho hơn 1.500 đồng bào trong ấp chiến lược xóm Gò và xóm Đồng nổi dậy giành quyền làm chủ. Tại Phú Yên, kết hợp với tiến công quân sự và đấu tranh chính trị, ta đánh bại cuộc hành quân càn quét của địch vào các huyện Tuy Hoà, Đồng Xuân. Trong lúc đó, lực lượng vũ trang Khánh Hoà diệt đồn Phú Thọ, phá thế kìm kẹp của địch ở các xã Ninh Phú, Ninh Đa, Vạn Hưng.... Nhân dân nổi dậy giải phóng 11 xã thuộc hai huyện Diên Khánh và Ninh Hoà.

Toàn Quân khu V, tính từ tháng 7 đến cuối 1964, cả miền núi và đồng bằng, đã có thêm 1.554 ấp chiến lược bị phá (đồng bằng phá 1.262 ấp, miền núi phá 292 ấp). Ta giải phóng thêm 924.000 dân, đưa số dân vùng giải phóng, vùng làm chủ ở Khu V lên 1.476.000 người. Chiến tranh nhân dân phát triển đều khắp. Hơn 100 xã được xây dựng thành xã chiến đấu, hàng vạn hécta ruộng đất được chia cấp cho nông dân.

Tính chung toàn miền trong năm 1964, quân và dân ta đã đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị trên cả ba vùng chiến lược, giáng cho quân ngụy những đòn nặng nề, phá rã, phá banh 3.659 ấp chiến lược (398 ấp bị phá hỏng, 2.606 ấp bị phá banh và 655 ấp bị phá dứt điểm); mở rộng vùng giải phóng, vùng làm chủ trên 2/3 đất đai toàn miền và với 10 triệu dân, làm thất bại về cơ bản quốc sách ấp chiến lược của địch. Với thắng lợi đó, thế và lực của cách mạng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, vững chắc; mọi nỗ lực của địch trong chiến tranh đặc biệt bị phá sản về căn bản. Tình hình đó khiến cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và giới lãnh đạo Oasinhtơn lo lắng; họ đánh giá lại các kế hoạch chiến lược và tìm cách leo thang chiến tranh để hòng giữ vững chính quyền và quân đội Sài Gòn, giữ vững vị trí của Mỹ ở Nam Việt Nam.
____________________________________
1. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 185.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #108 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 11:18:53 pm »


II. CUỘC TIẾN CÔNG XUÂN-HÈ NĂM 1965
ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ

Đầu 1965, những báo cáo của các quan chức cao cấp từ Sài Gòn gửi về Oasinhtơn làm cho giới lãnh đạo Oasinhtơn hết sức lo lắng. Trong một bức điện gửi Tổng thống, đại sứ Taylo nhận định Mỹ: “đang đi trên con đường thua thiệt và cần phải mạo hiểm để có một sự thay đổi.... Giờ đây không có một hành động tích cực tức là chấp nhận thất bại trong một tương lai khá gần”1. Tương tự nhận định của Taylo, Mắc Namara và Bơndy trong một giác thư đề ngày 27-1-1965 cũng nhận thấy chính sách của Mỹ “có thể dẫn đến một thất bại thảm hại” Vào lúc đó, ngụy quyền Sài Gòn tiếp tục khủng hoảng. Các phe cánh đối lập vẫn đấu đá gay gắt dẫn đến các cuộc đảo chính và âm mưu đảo chính nhằm gạt bỏ lẫn nhau. Ngày 25-1-1965, Nguyễn Khánh và một số tướng trẻ lật đổ Trần Văn Hương, lập Hội đồng quân sự. Theo hãng AF: “Cuộc đảo chính mới này của Nguyễn Khánh là cuộc khủng hoảng to lớn lần thứ bảy kể từ ngày Diệm chết. Và mỗi lần thay đổi như vậy làm cho tình hình thêm rắc rối và cuộc chiến đấu chống Việt cộng thêm gay go”2.

Chưa đầy một tháng sau, ngày 19-2-1965, thiếu tướng Lâm Văn Phát, đại tá Phạm Ngọc Thảo cầm đầu nhóm đảo chính tự xưng là “lực lượng bảo vệ quốc gia” đã bao vây trụ sở của Nguyễn Khánh, chiếm đài phát thanh, sở bưu điện, sân bay Tân Sơn Nhất và nhiều cứ điểm khác  ở Sài Gòn. Nhưng sau đó phe đảo chính bị các lực lượng của Khánh-Kỳ bao vây, chiếm lại các vị trí. Cuộc đảo chính ngày 19 tháng 2 không thành. Ngay ngày hôm sau (20- 2-1965), một nhỏm tướng trẻ khác do Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi cầm đầu lật đổ Khánh. Dưới áp lực của nhóm này, ngày 21 tháng 2, Phan Khắc Sửu (Quốc trưởng) ký sắc lệnh chỉ định Trần Văn Minh làm quyền tổng tư lệnh thay Nguyễn Khánh. Đến đây, Nguyễn Khánh bị gạt bỏ hoàn toàn sau 13 tháng giữ các cương vị quốc trưởng, thủ tướng.... Những hy vọng cuối cùng của Mỹ về “một chính phủ ổn định tại Nam Việt Nam lúc này dường như đã tiêu tan”3.

Trong lúc nội bộ chính quyền Sài Gòn đang diễn ra sự tranh giành quyền lực, đảo chính lẫn nhau, quân, dân ta đẩy mạnh tiến công địch trên khắp các chiến trường.

Ở miền Đông Nam Bộ, ngày 20-1-1965, đại đội 707 và đại đội 200 của Quân khu Sài Gòn-Gia Định phối hợp chiến đấu, chặn đánh hai tiểu đoàn quân chủ lực ngụy càn quét vào ấp Bàu Lách, xã Nhuận Đức thuộc khu vực địa đạo Củ Chi, diệt và làm bị thương 166 tên địch, thu nhiều vũ khí. Ngày 29-1-1965, các chiến sĩ đội biệt động 65 của Quân khu Sài Gòn tiến công trụ sở Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ (MACV), loại khỏi vòng chiến đấu 55 sĩ quan Mỹ.

Ngày 12-2-1965, đội biệt động 67 dùng mìn hẹn giờ đánh vào Câu lạc bộ không quân Mỹ trong sân bay Tân Sơn Nhất, làm 115 tên chết và bị thương. Sự kiện này buộc chúng phải đình chỉ cuộc càn Phóng hỏa 1 dự định đánh vào căn cứ của Quân khu Sài Gòn-Gia Định ở vùng “tam giác sắt” (Củ Chi-Bến Cát-Dầu Tiếng). Ngày 30-3-1965, cụm biệt động 345 đánh mìn toà đại sứ Mỹ. Đây là một toà nhà năm tầng có cấu trúc rất vững chắc nằm ngay tại góc phía đông nam ngã tư đại lộ Hàm Nghi- Võ Di Nguy. Bao quanh toà nhà là bức tường bằng bê tông. Cổng ra vào có hai lớp: một lớp tôn dày 10 ly, một lớp lưới thép đan hình mắt cáo. Toà đại sứ Mỹ được bảo vệ và canh phòng rất cẩn mật. Tất cả lính gác và nhân viên phục vụ đều được đưa từ Mỹ sang. Tại cổng ra vào thường xuyên có hai quân cảnh Mỹ canh gác, xa cửa một chút, trên lề đường là hai cảnh sát ngụy kiểm soát xe cộ lưu thông trên đường. Tất cả các xe qua lại trước toà đại sứ đều không được dừng lại. Bên cạnh đó, chung quanh toà đại sứ, bọn cảnh sát mật vụ vào loại tin cẩn nhất ngày đêm tuần phòng.

Sau một thời gian tìm hiểu, nắm chắc tình hình, vạch phương án tác chiến, đúng vào ngày 30-3-1965, ngày giao ban hàng tuần của đại sứ quán Mỹ với các nước có quân tham chiến tại Việt Nam, trận đánh nổ ra. Tổ trực tiếp chiến đấu gồm năm đồng chí do Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê) phụ trách. 10 giờ 45 phút, toàn tổ đến mục tiêu. Lê Văn Việt (tức Nguyễn Văn Hai) dùng súng ngắn tiêu diệt hai tên lính gác ở cổng. Ngay tức khắc, Nguyễn Thanh Xuân lái chiếc xe hơi chở 150 kg thuốc nổ mạnh lao thẳng vào cửa chính toà đại sứ, gây nổ bằng kíp giật tay, diệt luôn tên quân cảnh, rồi nhanh chóng băng sang đường để đồng đội đang chờ sẵn ở đó chở đi. Một tiếng nổ dữ dội phát ra từ toà đại sứ. Toà nhà hư hỏng nặng. 132 tên Mỹ và các nước chư hầu khác chết và bị thương, trong đó có phó đại sứ Mỹ. A.lecxít Giônxơn bị thương nặng. Đại sứ Mỹ Taylo lúc đó vắng mặt.

Đúng vào thời điểm Mỹ đang từng bước mở rộng chiến lược xâm lược Việt Nam, trận đánh toà đại sứ trưa ngày 30 tháng 3 là đòn cảnh cáo nghiêm khắc. Sau đó không lâu Bộ Quốc phòng Mỹ thừa nhận trong Tài liệu mật Lầu Năm Góc trận đánh này là “hoạt động táo bạo nhất và trực tiếp nhất của cộng sản chống lại Mỹ”.
_______________________________________
1. Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, Hồi ký của Giônxơn, Nxb.Weidenfeld and Niclson (Luân Đôn), Việt Nam TTX phát hành 1972, tr.49.
2. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Nxb Khoa học xã hội, t.3, tr.145.
3. Dẫn theo Trần Văn Giầu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Sđd, t3, tr. 152.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #109 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 11:19:23 pm »


Ở Khu V, sau chiến thắng An Lão, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định mở tiếp đợt hoạt động xuân năm 1965 trên ba hướng, trọng điểm là Bình Định và đông Gia Lai (lấy tên là mặt trận A1); tây Gia Lai và bắc Kon Tum; trung Quảng Nam (lấy tên là mặt trận C5).

Trên hướng Bình Định và đông Gia Lai, đêm 6 rạng ngày 7-2-1965, bộ đội đặc công nổ súng tiến công sân bay Cù Hanh, trại lính Mỹ Hôlôwây ở Plâycu và một đơn vị của sư đoàn 2 chủ lực Quân Khu V đánh cứ điểm ở Dương Liễu (Bình Định).

Cù Hanh là sân bay lớn, quan trọng nhất của địch ở Tây Nguyên. Còn trại Hôlôwây và sở chỉ huy Quân đoàn II ngụy được bảo vệ rất cẩn mật. Chung quanh các căn cứ này được bao bọc bởi nhiều lớp dây thép gai, mìn báo động. Ngoài hàng rào 5 km là vành đai trắng với hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh về ban đêm. Bảo vệ vòng ngoài là lính cộng hoà, bảo an, bên trong có 100 hiến binh, một đại đội biệt kích, một đại đội xe tăng. 2 giờ sáng ngày 7-2-1965, các chiến sĩ đại đội 3, tiểu đoàn 409 đặc công đột nhập vào sân bay. Lệnh phát hoả được phát ra, tiếng mìn, bộc phá nổ vang rền. Ngay lập tức, đại đội cối 60 ly của trung đoàn 2 tới tấp dội đạn vào trại Hôlôwây. Sau 30 phút chiến đấu ta diệt tám tên Mỹ và làm bị thương gần 100 tên khác phá huỷ, phá hỏng 20 máy bay cùng nhiều thiết bị, khí tài và phương tiện chiến tranh của chúng. Trong lúc đặc công đánh sân bay và trại lính Mỹ trong thị xã Plâycu thì trung đoàn 2 chủ lực quân khu tiến công cứ điểm Dương Liễu (Bình Định), diệt gọn một đại đội và ba trung đội dân vệ cắt đứt đường số 1 đoạn từ Phù Mỹ đi Bồng Sơn. Suốt ngày 7-2-1965, địch cho máy bay trinh sát và một đại đội bảo an thăm dò hai bên đường số 1, đoạn từ Phù Mỹ đi Quy Nhơn để đưa quân tăng viện hòng chiếm lại Dương Liễu, giải toả quốc lộ số 1.

Ngày 8 tháng 2, chúng điều hai tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn xe thiết giáp của sư 22 theo đường số 1 ra Dương Liễu. Ta bố trí sẵn trận địa phục kích ở khu vực đèo Nhông. 13 giờ 30, toàn bộ đội hình địch nằm gọn trong thế trận bày sẵn của ta. Bộ đội ta bất ngờ nổ súng khiến cho đội hình địch rối loạn, nhiều tên bỏ cả xe M113 chạy thoát thân. Đến 15 giờ 30, ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Toàn bộ hai tiểu đoàn bộ binh với khoảng 650 tên bị diệt gần hết. Cả chi đoàn xe M113 gồm 10 chiếc nằm la liệt trên trận địa. Đây là trận vận động phục kích lớn nhất của bộ đội chủ lực Khu V lúc bấy giờ, đánh dấu bước trưởng thành về cách đánh của lực lượng vũ trang quân khu. Chiến thắng Dương Liễu - đèo Nhông càng chứng tỏ quân chủ lực ngụy đang trên đà xuống dốc. Chiến thắng đèo Nhông - Dương Liễu tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội, du kích tỉnh Bình Định diệt các bốt bảo an, dân vệ, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều xã thuộc các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước. Trước sức tiến công và nổi dậy của quân, dân ta, địch buộc phải rút bỏ quận lỵ Vân Canh, thị trấn Tam Quan; ta giải phóng phần đất nửa phía bắc tỉnh Bình Định.

Sư đoàn 22 ngụy còn chưa hết bàng hoàng vì một lúc mất hai tiểu đoàn, thì ngay trong đêm 8 tháng 2, trung đoàn 1 hoạt động ở đông và tây đèo Măng Giang trên đường số 19 lại nổ súng tiến công tiêu diệt cứ điểm Kà Tung. Đêm 9 tháng 2, lực lượng vũ trang Bình Định đánh khách sạn Việt Cường ở trung tâm thị xã Quy Nhơn, diệt 56 tên Mỹ. Đêm 10 tháng 2, tiểu đoàn 50 bộ đội tỉnh Bình Định đánh chi khu Gò Bồi, diệt một đại đội bảo an.

Trên hướng tây Gia Lai, bắc Kon Tum, đêm 7 tháng 2, tiểu đoàn 407 đặc công, tiểu đoàn 334 của trung đoàn 320 đánh chiếm một loạt đồn bảo an ở phía tây thị xã Plâycu, đồn biệt kích biên phòng Plây Mơrông, diệt 100 tên địch. Trung đoàn 101 diệt cứ điểm Đắc Giao, pháo kích căn cứ Đắc Pét. Quân ngụy ở cứ điểm Đắc Vân, Đắc Tả hốt hoảng bỏ đồn tháo chạy. Được sự hỗ trợ của bộ đội và du kích, nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược ở phía bắc quận lỵ Đắc Tô. Địch vội vã đưa tiểu đoàn 3, trung đoàn 42 lên chiếm lại Đắc Giao. Vừa đến Đắc Long lực lượng này đã bị trung đoàn 101 chặn đánh, diệt một đại đội. Thừa thắng, ta đánh luôn đồn Đắc Long, bao vây đồn Đắc Xút, cắt đứt đường số 14 đoạn Đắc Tô đi Đắc Siêng. Trước nguy cơ tuyến phòng thủ bắc Kon Tum bị phá vỡ, địch điều hai trung đoàn (40 và 42), tiểu đoàn 21 biệt động lên Kon Tum mở cuộc hành quân 129 phản kích chiếm lại các vị trí đã mất. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 30-3-1965, trung đoàn 101 mới tiêu diệt gần hết tiểu đoàn 21 biệt động quân, một đại đội của tiểu đoàn 1 trung đoàn 42; bắn rơi ba máy bay. Địch phải rút khỏi khu chiến, kết thúc cuộc hành quân 129. Lực lượng bảo an, dân vệ đóng ở Đắc Tả, Đắc Vân, Mỏ Lẹt, Măng Bút bỏ chạy. Trên chiến trường Tây Nguyên, cuối mùa xuân năm 1965, địch từ hình thái chiếm đóng “tuyến kết hợp điểm” đã phải thu hẹp và bắt đầu co cụm...

Ở hướng Quảng Nam, đêm 6 rạng ngày 7-2-1965, trung đoàn 1 tiến công cứ điểm Việt An. Đây là một cứ điểm then chốt trong hệ thống phòng ngự của địch án ngữ khu vực ngã ba đường số 105 và đường số 16, cách quận lỵ Quế Sơn 8 km về phía nam. Cứ điểm nằm trên đồi cao. Lực lượng địch ở cứ điểm có một sở chỉ huy tiểu đoàn, một đại đội bộ binh, một trung đội ĐK 57 ly, một trung đội súng đại liên, một trung đội pháo 105 ly. Sau hai giờ chiến đấu quân ta làm chủ trận địa. Sở chỉ huy tiểu đoàn địch cùng lực lượng đóng tại cứ điểm bị diệt hoàn toàn. Quận lỵ Quế Sơn, Thăng Bình bị uy hiếp. Tình thế bắt buộc bọn chỉ huy sư đoàn 2 ngụy phải tổ chức năm cuộc phản kích trên đường số 16. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, trung đoàn 1 cùng lực lượng địa phương đã đánh bại các cuộc phản kích của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 1.000 tên địch trong đó có tiểu đoàn 3 trung đoàn 6 bị tiêu diệt, tám xe M113 bị bắn cháy...

Phối hợp với ba hướng trọng điểm trong đợt hoạt động mùa xuân năm 1965 của Quân khu V, bộ đội địa phương, nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tiến công và nổi dậy tiêu diệt các cứ điểm địch ở Ba Xuân, Ba Động, giải phóng năm xã phía bắc huyện Ba Tơ, chín xã phía tây ba huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM