Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Năm, 2024, 11:09:47 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cánh đồng phía tây  (Đọc 4257 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #30 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2023, 03:19:31 pm »

12


    Đêm đã xuống. Đại đội 1 bắt đầu xuất phát. Thủy và Dũng cùng dừng ở ngã ba giao thông hào bắt tay từng chiến sĩ và Lanh. Trong bóng đêm mờ, cả hai người đểu nhìn thấy gương mặt Lanh dưới vành mũ nan đầy vẻ cứng cỏi và phấn khích. Đại đội đi hàng dọc, cách nhau ba bước một người, ngược theo giao thông hào lên phía trước. Anh nào cũng lựu đạn, thủ pháo đầy người. Dũng lại nhớ tới buổi nào đứng ngắm nhìn quân trung đoàn 1, trung đoàn anh hùng tiến qua để sang khu đông tham chiến trên đồi A1.

    Bên kia sông Nậm Rốm, tiếng pháo vẫn ì ầm, hỏa châu chốc chốc lại vọt lên sáng lóa. Những quả pháo sáng đã tàn vẽ thành những đường khói trắng kéo dài như dệt mành trên bầu trời đen sẫm.

    Qua đường hào trục, rồi qua cả trận địa mới đào từ đầu màn 2 chiến dịch, đại đội bắt đầu lên tới đồng không. Một cảm giác trống trải, rờn rợn ôm choàng lấy tất cả mọi người. Gió đêm dào dạt càng làm tăng thêm cảm giác lạnh lẽo, trơ trọi. Không một tiếng nói. Tất cả ghì chặt lấy cuốc xẻng vũ khí vào bên sườn, không cho phát ra những tiếng lích kích. Những bước chân cũng dường như nhẹ hơn, tuy vẫn mau mau, cố không để phát ra những tiếng sột soạt mỗi khi lướt trên những đám chó đẻ mọc đầy trên mặt ruộng. Lanh đang đi với trung đội mũi nhọn của trung đội trưởng Tuynh, tách ra, đứng lại để có thể quan sát được cả đại đội và điều chỉnh cự ly và động viên anh em, nhất là các chiến sĩ mới vào trận lần đầu. Cái dáng vạm vỡ cao lớn của anh nổi bật trong bóng đêm. Hai cánh tay anh như hai cái bơi chèo cứ guồng lên lại guồng xuống như thể người đang đứng xem khoát tay cổ vũ cho những con thuyền đang đua trên sông.

     Đã nhìn thấy cứ điểm H1 ở phía trái, cách đại đội chừng hơn hai trăm mét, và cứ điểm H3 ở cánh phải cách trên bốn trăm mét. Cả hai đều tựa như hai cái nghĩa trang khổng lổ với những nấm mồ lúp xúp chi chít, với những cọc rào tua tủa nhô lên y như những cây thánh giá. Le lói một vài ánh đèn từ dưới các lô cốt, hầm ngầm hắt lên, như lửa ma trơi. Chốc chốc lại một loạt đạn đại liên, hoặc trung liên bắn ra cùng những quả cối vỡ tung trong những làn chớp đỏ rực.

     Lanh vượt lên với Tuynh. Anh trung đội trưởng gắm người tương tự như đại đội trưởng Thìn, nhưng rất nhanh nhẹn, hoạt bát. Năm 1952 đánh trận sông Đà, khi ấy Lanh là tiểu đội trưởng bộc phá thì Tuynh là chiến sĩ tiểu đội dao nhọn nổi tiếng can trường.

     Tuynh bỗng cầm tay áo Lanh giật giật. Cả hai cùng căng mắt nhìn lên. Trên các bãi chó đẻ khá rậm phía trước đang có những vật gì đó nhấp nhô như có người. Tuynh giơ tay ngang ra, phất mạnh một cái. Cả trung đội lập tức nằm rạp ngay xuống. Từ phía trước, tiếng xột xoạt nghe rõ dần. Có tiếng chân người. Rồi nhìn thấy rõ hơn những bóng người, khá nhiều, đang lom khom bước rảo như chạy thẳng về phía quân ta đang nằm dán bụng xuống đất. Tuynh thì thào bên tai Lanh:

      - Địch lại ra phục kích, anh ạ!

      Lanh lắc:

      - Để xem lại đã! Địch ra, không tản mạn thế này đâu.

      Những bóng người ở phía trước xuất hiện mỗi lúc một nhiều như cua tản mác đầy đồng.

      Một bóng đen tới sát ngay bên Tuynh và Lanh tự lúc nào. Nhanh như cắt, tuy nhỏ bé, Tuynh tung người lên, ôm chặt lấy bóng đen, và quật nó xuống liền. Bóng đen ú ớ nghẹt thở giữa hai đầu gối Tuynh kẹp chặt.

      - Ái, ái buông tôi ra!

      Bóng đen giãy giụa, cố bật lên được mấy câu.

      Tuynh vẫn không buông rời hai đầu gối:

      - Mày là ai? Ngụy hả?

      - Không! Không! Quân báo của Bộ đây.

      - Quân báo nào, nói láo!

      - Quân K80 đây mà. Quân ông Bích Lân...

      Nhìn lại trang phục của người đang nằm dưới chân mình, Tuynh ngờ ngợ. Lanh cũng đã kịp nhận ra người bị bắt:

     - Đúng là quân báo đấy.

     Bấy giờ mới cười xòa cả với nhau. Anh quân báo xoa xoa mãi nơi cổ:

     - Ông này nhỏ thó, mà cũng dữ ghê!

     Tuynh đáp tỉnh khô:

     - Tớ đô vật làng Nguyễn đây, cậu không biết hả?

     Nhưng đây không phải chỗ và là lúc để trò chuyện nhiều, Lanh tranh thủ hỏi thêm tình hình địch trong sân bay. Anh quân báo cho biết vẫn không có gì thay đổi so với đêm qua, địch vẫn không có lực lượng ở ngay trên đường băng. Chúng chui rúc hết trong các cứ điểm bao quanh sân bay.

     - Thôi được, cám ơn cậu. Đi đi!

     Anh quân báo vừa đi khỏi, tất cả những khẩu đại liên trong cứ điểm H1 bỗng cùng rống lên một loạt, rồi súng cối bắn ra tới tấp trên những thửa ruộng phía trước, nơi các chiến sĩ quân báo còn đang lóp ngóp tiếp tục vượt qua. Rồi cả cứ điểm H2 cũng bắn ra. Đại đội của Lanh tự nhiên như bị chặn lại, phải nằm nguyên tại chỗ. Chưa hề có một công sự ẩn nấp. Lanh tức quá chửi vung. Đã nghe thấy phía trên có tiếng kêu và gọi í ới. Lanh hiểu ngay: thế là đơn vị đã có thương vong. Rồi đến lượt đại đội 1 cũng vậy:

     - Báo cáo, trung đội phó trung đội 3 bị thương...

     - Báo cáo, hai chiến sĩ trung đội 2 bị thương...

       Tiếng báo cáo lan dài từ phía dưới bay lên. Lanh vội vàng tiến lên bất kể đạn địch vẫn đang réo réo trên đầu. Chính trị viên Tốn đang cùng y tá và các chiến sĩ hối hả băng bó cho thương binh. Thấy Tốn đã kịp thời có mặt, Lanh hoàn toàn yên tâm. Việc gì chứ đến việc giải quyết thương binh liệt sĩ, Tốn luôn tỏ ra cực kỳ chu đáo và thành thạo. Cũng đúng lúc đó, súng cối của tiểu đoàn từ phía sau bắn lên dồn dập, nhằm thẳng vào cả hai cứ điểm. Lanh hiểu ngay: Dũng đã kịp thời chế áp địch, chi viện cho bọn anh. Nhưng địch vẫn không ngừng hẳn. Cối ta tiếp tục bắn lên. Một trận đấu hỏa lực “không tiền khoáng hậu” giữa đôi bên ta, địch đã bất ngờ diễn ra khá kịch liệt. Dần dần đã thấy trên hai cái “nghĩa địa” khổng lồ kia có những ngọn lửa bốc lên. Hẳn những phuy xăng và những mái bạt nào đó của chúng đã trúng đạn. Các đám cháy mỗi lúc một to.

       Lanh vẫy anh chiến sĩ thông tin lại. Quay máy, Lanh báo cáo vắn tắt tình hình của đại đội. Tiếng Dũng vang lên từ phía sau, không xa lắm:

       - Tôi sẽ cho bắn dồn dập tiếp. Cậu phải cho đại đội bứt lên. Kiên quyết tiến lên! Không nằm chết gí ở đây mãi. Tiến sâu vào! Chúng nó sẽ khó chuyển bắn ngược trở lại, hiểu không?

       Lanh hiểu rồi. Thế là, sau mấy loạt súng cối dập vào H1, và H2, Lanh phất mạnh tay:

       - Tiến!

       Cả đại đội như từ dưới mặt đất mọc lên cùng một loạt. Đạn địch quả là đã bớt. Càng vượt được vào sâu bên trong, đại đội càng cảm thấy nhẹ hơn nhiều, chỉ còn những phát súng cối bắn lung tung lộn xộn. Dường như chúng đã mất mục tiêu. Lúc tiến, lúc nằm, các chiến sĩ ta nối tiếp nhau tiến lên không ngừng, như những đợt sóng.

       Một lúc sau, tiểu đội mũi nhọn đi đầu báo cáo về: “Đã tới được bờ mương thoát nước của sân bay”.

       Lanh chồm hẳn lên. Anh sướng như điên. Thế là đã tới được bờ mương! Đã sờ được tới mép sân bay rồi!

       Xem đồng hồ tay: 22 giờ 40 phút. Lanh chạy lên. Các chiến sĩ tiểu đội 1 đang nằm rải dài trên bờ con mương cấp tốc đào công sự để cải tạo nó thành một chiến hào chiến đấu. Anh chiến sĩ thông tin luôn luôn bám sát sau lưng Lanh. Lại vồ lấy ống nói, anh nói nho nhỏ, nhưng vẫn như reo như hét lên:

       - Con mương! Báo cáo, chúng tôi đã tới được con mương!

       - Có đúng con mương không? Xem lại! - Tiếng Dũng hỏi.

       - Đúng! Đúng! Là con mương mà đêm qua chúng ta đã tới. Tôi đã nhìn rõ thấy đường băng trăng trắng bên kia. Thấy cả cột đèn số 2 và xác chiếc máy bay Dakota số 4. Nó kia kìa, nằm chình ình ra, to lắm.

       - Vậy cậu dồn quân lên, nhanh chóng tiến vào đánh chiếm ngay đường băng... - Tiếng Dũng vang lên, mừng rỡ nhưng vẫn quyết liệt. Lanh vừa mới kịp dồn hết trung đội 2 lên thì pháo lớn của địch từ Mường Thanh bắt đầu bắn ra. Chúng bắn trùm lên gần suốt dọc con mương, mà đại đội 1 vừa bám được. Cũng có thể một đài quan sát nào đó của địch ở H1 hoặc H2 đã phát hiện được quân ta. Các trận địa pháo của địch trong Mường Thanh gần như dựng đứng lên mà bắn đến đỏ nòng...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #31 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2023, 03:22:21 pm »

*


         - Alô, Lanh đây! Lanh đây! Chúng tôi vẫn bám được con mương... Vâng, tôi vẫn ở đây, Tuynh đang ở cạnh tôi... Pháo nó vẫn dữ lắm... Tuynh chảy máu tai rồi, ù đặc không còn nghe được gì nữa...

         Dũng như con cọp trong cũi. Anh lồng lộn. Cán bộ tiền sát viên của pháo binh đi cùng anh đã trúng mảnh hy sinh ngay từ phút đầu. Dũng đành phải trực tiếp gọi về trận địa pháo mặt trận. Không am tường mọi khẩu ngữ chuyên môn của pháo, anh cứ gọi bừa gọi vo như bộ binh nói với nhau:

         - ... Bắn đi! Bắn mạnh vào! Chế áp thằng Mường Thanh thật lực vào cho tôi! Quân tôi vẫn chưa ngóc đầu lên được. Bắn đi! Bắn mạnh nữa đi!

         Rồi gọi về ông Thâu, ông Quý, anh yêu cầu hỏa lực của e bắn tập trung vào hai cứ điểm H1 và H2 dể phối hợp với hỏa lực của tiểu đoàn, không cho “hai thằng này” có thể tự do cắt vào hai sườn của đại đội 1.

         Pháo mặt trận bắt đầu lên tiếng, nghe như sấm dậy từ xa xa. Trận địa hỏa lực của trung đoàn cũng đồng thời bừng lửa.

        Chỉ mười lăm phút sau, đã thấy Lanh gọi điện về cho biết tình hình đã đỡ lắm. Thủy từ phía sau cũng chạy lên. Toàn thân anh đầy bùn đất và đã loang lổ máu chiến sĩ. Dặn Thủy thay anh trực ở sở chỉ huy, Dũng vẫy Báu rời hàm ếch băng lên phía trước.

        Pháo Mường Thanh đã ngớt. Nhưng từ hai cứ điểm H1 và H2 pháo sáng vẫn liên tục bắn lên sáng rực cả bầu trời. Giao thông hào đầy chiến sĩ, và thương binh tử sĩ. Dũng và Báu phải nhảy lên mặt ruộng mà chạy. Quãng quãng nghe có tiếng chiến sĩ hoặc một cán bộ từ dưới giao thông hào quát lên:

        - Thằng nào chủ quan thế? Có xuống không? Muốn xơi pháo đùng, hay pháo tép đấy?

        Mặc, hai anh em cứ cong người, lúc nằm rạp xuống ruộng, lúc lại chồm lên, tiếp tục tiến.

        Đã tới được bờ mương, Dũng nhảy phóc xuống. Chính trị viên Tốn đang cùng y tá và các cán bộ trung đội 3 băng bó thương binh để chuyển về phía sau. Tốn ngẩng lên. Mặt anh như hơi ngơ ngác, khác mọi ngày thường. Dũng hiểu: Tốn chưa bao giờ trải qua những trận pháo dữ dội như thế này. Dũng tiến lên một đoạn nữa. Lanh đang đứng chỉ dẫn cho các chiến sĩ sửa lại hai ụ trung liên. Các chiến sĩ đang xúc, đào cật lực. Những lưỡi xẻng vung lên loang loáng. Quay lại thấy Dũng, Lanh ngạc nhiên.

        - Ôi chao, anh Dũng! Anh lên đây làm gì thế này?

        Dũng không trả lời, chỉ tay một vòng:

       - Công sự còn nông lắm. Phải cho đào thêm nữa. Tôi sẽ đưa thêm gỗ lên cho các cậu làm nóc hầm.

       Rồi anh hỏi:

       - Còn hầm của cậu đâu?

       Lanh chỉ tay ra phía sau một chút:

       - Báo cáo kia!

       Dũng nhìn thấy lờ mờ trong bóng đêm một chiếc hố cá nhân không có nắp và cũng nông choèn. Anh lắc đầu:

       - Không được! Cậu phải cho anh em đào nữa, và phải có nắp chứ.

       Lanh cười:

       - Vâng, để tí nữa anh em làm xong mấy cái ụ trung liên và ĐKZ, sẽ sửa lại.

       Một chiến sĩ đứng sau Lanh chợt rụt rè:

       - Đại đội trưởng nên tranh thủ ăn tí cơm đi! Suốt từ chiều đến giờ vẫn chưa thấy anh ăn lấy một miếng.

       Dũng quay lại, nhận ra Tích tổ trưởng, mà anh đã gặp chiều hôm qua, người đã nói với anh:”... Sống chết thì cũng chẳng sợ, chỉ sợ không có người đưa dắt anh em vào chiến đau một cách chắc chắn...”.

       Nghe Tích nhắc, Lanh như mới nhớ ra. Anh cười, mở chiếc túi vải đeo bên sườn, lấy ra một nắm cơm đã nguội lạnh, rắn đanh. Chùi tay vào quần, anh bẻ đôi nắm cơm, đưa cho Dũng một nửa:

     - Anh ăn đi! Ăn với tôi một miếng cho vui, anh!

     - Mình không đói đâu - Dũng lắc đầu.

     Lanh vẫn cố mời:

     - Anh cứ ăn đi! Ăn với tôi một miếng. Ta mừng, dẫu sao cũng đã bám được vào mép sân bay...

     Không thể từ chối, Dũng cũng chùi bàn tay đầy đất vào quần rồi đỡ lấy nắm cơm.

     Lanh vừa nhai vừa nói:

     - Ngon! Phải không anh? Sau này trở về, dù có cơm gà cá gỡ cũng không thể nào ngon bằng miếng cơm này...

     Dũng gật đầu:

     - Đúng, đây là một trong những bữa ăn vô giá của lính...

     Ăn xong, Lanh đề nghị cho bọn anh tiếp tục đánh lên. Dũng lắc đầu. Anh cho lui lại tới bốn giờ sáng. Lanh ngạc nhiên:

     - Lúc nãy anh lệnh phải nhanh chóng đánh ngay vào đường băng cơ mà?

     Dũng nói:

     - Thời cơ lúc ấy qua rồi. Các cậu bị pháo kích. Địch quan sát thấy lực lượng ta đã vào tới bờ mương. Như vậy phải có chuẩn bị tốt mới đánh được. Nếu không, sẽ phơi anh em hết trên đường băng cho chúng nó thịt. Bây giờ cậu phải củng cố lại hẩm hố biến đoạn mương này thành một chiến hào tiền duyên, một bàn đạp để “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”...

    Lanh vẫn có vẻ tiếc:

    - Nhưng đến bốn giờ, có nghĩa là sau hai giờ nữa, sợ chúng nó kéo ra bịt hết đường băng mất anh ạ.

    Dũng vẫn lắc đầu:

    - Ban đêm, tụi nó không dám ra đâu. Cậu còn lạ gì. Phải tranh thủ đi thôi, tớ còn sốt tiết muốn vào nhanh gấp bốn cậu.

    Dũng trở lại sở chỉ huy. Thủy lại quay về phía sau lo việc đưa thêm gỗ lên cho Lanh, đồng thời đón tân binh, sẵn sàng bổ sung tại trận. Cả trận địa phía sau cũng như phía trước của tiểu đoàn trở nên tấp nập. Cáng thương từ phía trước hối hả khiêng về, gỗ, đạn từ phía sau rầm rập đưa ra. Quân của tiểu đoàn, quân của trung đoàn bộ, chen chúc nhau trong giao thông hào chật chội và đã lở loét tơi bời.

    Cho tới khi kim đồng hồ trên tay Dũng chỉ 04 giờ kém 15 phút đã nghe thấy tiếng Lanh báo cáo về: “Chúng tôi bắt đầu lên đấy! Các anh chuẩn bị chi viện nhá! Pháo. Nhất là pháo!”.

    Dũng gần nín thở theo dõi cuộc tiến quân “câm lặng” của Lanh lên đường băng. Theo kế hoạch, anh em bí mật tiến lên, rải ra và tranh thủ đào hào luôn. Chiếc kim đồng hổ như quá sức chậm chạp. Tuy nhiên không nghe thấy tiếng súng rộ lên. Pháo Mường Thanh cũng vẫn còn im.

    Chuông điện thoại bỗng reo lên. Dũng áp chặt ống nghe vào tai. Trái tim anh không khỏi thoáng rộn lên trong một nỗi hồi hộp.

    - Báo cáo, Lanh đây! Lanh đây...

    - Sao? Tôi nghe!

    - Báo cáo, trung đội của Tuynh đã đào được 30 mét trong sân bay nhưng đất rắn ghê lắm.

    Dũng mừng rỡ:

    - Biết rồi. Đất trên sân bay hoàn toàn là đất nện kỹ. Cứ cố gắng lên!...

    Ngẩng nhìn về bầu trời phía đông, đã thấy hơi bàng bạc sáng. Nhưng cũng chỉ mấy phút sau Lanh lại báo về. Lần này thật gấp gáp: đã thấy địch xuất hiện lố nhố, rất đông, từ phía H2 ở nam sân bay đang tiến lại.

    - Xem lại, đông là bao nhiêu? - Dũng nhắc.

    - Chưa sáng rõ, lại bắt đầu có sương mù. Chỉ thấy lố nhố đông lắm. Chúng ra phản kích đấy.

    Dũng nói ngay:

    - Phải xem lại. Chưa chắc đã là phản kích. Anh em quân báo đã cho biết quy luật của địch: các buổi sáng tinh mơ chúng thường lợi dụng sương mù tổ chức đi để tiếp tế cho H1 qua sân bay.

    - Nhưng tiếp tế gì mà đông vậy?

    - Quân báo cho biết: chúng thường có lực lượng đi tháp tùng, bảo vệ bọn thồ hàng. Cậu hãy sẵn sàng đánh ngay, không cho chúng đi qua. Chúng tôi sẽ lại chi viện tốt cho các cậu...

       Dũng chưa nói dứt câu, đã nghe thấy tiếng súng nổ ở phía trước. Pháo Mường Thanh cũng gầm lên. Nhìn lên lại thấy lửa đạn loằng nhoằng, và khói lại bốc lên, mỗi lúc một cao và dầy đặc. Không chậm hơn chúng một phút, pháo của mặt trận ta cũng lập tức đáp lại liền.

       Lại có chuông đổ hồi. Nhưng không phải Lanh. Tiếng đại đội trưởng Niên ở phía sau vang lên:

       - Báo cáo tiểu đoàn, tình hình thế nào? Đề nghị cho c2 lên phối hợp, tăng cường cho c1.

       Dũng lắc, như có Niên đang đứng ở ngay trước mặt mình:

       - Hoan nghênh! Nhưng chưa vội. Đang đụng quân đi tiếp tế cho H1. Chúng cũng khá đông, nhưng hãy cứ để cho c1 ra tay đã. Cậu cứ sẵn sàng đợi đấy, còn nhiều cơ hội.

       Trời sáng dần. Đã 05 giờ 30 phút. Phía trước, súng vẫn nổ không ngừng. Lanh báo cáo về: địch dã bị chặn lại. Chiến hào 30 mét của trung đội Tuynh tuy sụt lở mất nhiều, nhưng vẫn vững. Đích còn cách xa tới khoảng trên dưới 100 mét. Chúng đang nằm lại đó, vừa bắn vừa tranh thủ đào công sự...

       Chợt có tiếng chân người rậm rịch, Dũng bước ra khỏi hầm. Một toán chiến sĩ nuôi quân đang gùi những bao tải lớn đựng cơm nắm, muối vừng tiến ra. Có anh còn bôông bêênh gánh cả hai nồi nước uống. Dũng nói to:

       - Trên ấy đang đánh nhau, anh em lên làm gì vội! Ngồi chờ ở đây đã!

     Các chiến sĩ nuôi quân đều còn trẻ, khỏe. Họ là lính cựu hết. Họ như vây lấy Dũng nằn nì:

     - Báo cáo, tiểu đoàn cứ cho chúng em lên. Nếu không anh em mình đói mất...

     - Nhưng tôi có cản các cậu đâu! Bảo là ngồi chờ một lúc đã.

     - Báo cáo, lên mà gặp địch, chúng em xin tham gia “oánh” luôn. Báo cáo tiểu đoàn, anh em nuôi quân chưa được “oánh” lần nào. Không sợ, tiểu đoàn ạ!

     Dũng phải bật cười. Anh vẫn kiên quyết giữ họ lại.

     - Tôi rất hoan nghênh anh nuôi. Nhưng cứ phải chờ một tí đã. Lên bây giờ, anh em ta cũng không có thì giờ đâu mà ăn ngay được.

     Bấy giờ tổ anh nuôi mới chịu, ngồi rải ra trong giao thông hào, vẻ ỉu xìu. Lanh lại báo cáo về, giọng anh càng có vẻ khẩn cấp hơn: địch đã tung ra ba xe tăng. Tuynh trực tiếp chỉ huy ĐKZ, đã bắn cháy được một. Hai chiếc khác phải dừng lại, nhưng vẫn đang bắn lên rất mạnh. Trung đội 1 chỉ còn có mười bảy tay súng. Hai trung liên và một ĐKZ bị hỏng...

     Dũng hiểu tình hình đã trở nên rất cấp bách. Thủy ở phía sau lại mò lên.

     - Dưới đó thế nào, anh? - Dũng hỏi.

     Chỉ thấy Thủy cười cười, lắc lắc, gật gật. Lạ quá. Dũng hỏi lại, Thủy bỗng cười và như quát lên:

     - 155 nó nện cả vào phía trong. Mình có lẽ điếc mất rồi.

      Dũng vội móc túi lấy vỏ bao thuốc lá, xé ra, viết mấy dòng vắn tắt cho Thủy biết tình hình ở phía trên và quyết định của anh là sẽ lệnh cho Lanh dồn lực lượng của trung đội 2 và trung đội 3 đưa lên tăng cường cho Tuynh, đồng thời tiểu đoàn sẽ điều ba trung liên là hai ĐKZ của đại đội Niên lên cho mũi nhọn. Thủy gật đầu. Anh ngước cặp mắt tràn đầy lo âu nhìn Dũng. Đối với Thủy, lúc này Dũng đúng như một viên thuyền trưởng của một con tàu đang gặp sóng to gió lớn. Tất cả mọi thủy thủ đang hoàn toàn trông cậy và sẵn sàng phục tùng mọi mệnh lệnh của anh.

      Kế hoạch của Dũng được triển khai tức khắc. Pháo mặt trận được yêu cầu bắn ngay trên đường băng, tạo thành một tuyến lửa, chặn đứng xe tăng của bọn Pháp lại.

      Một lúc sau thấy tiếng súng ngớt, tổ anh nuôi lại nhao nhao xin lên. Dũng đồng ý. Anh cũng rời chỉ huy sở đi luôn.

      Lanh vẫn ở hầm chỉ huy bên bờ mương, nhưng nóc hầm đã bị đạn pháo địch phá tung, chỉ còn trơ lại hai, ba khúc gỗ cháy đen và rách mướp nằm lăn lóc trên bờ đất đang còn nghi ngút khói.

      - Anh lại lên đây làm gì? - Lanh lại ngạc nhiên và cả lo lắng kêu lên, khi thấy Dũng.

      Khói vẫn còn cay xè mắt và ngạt thở trong khắp các hầm hố đổ nát. Dũng không khỏi bàng hoàng. Lên tới đây anh được Lanh cho biết tỉ mỉ hơn: thì ra địch toàn là lính dù lê dương, không những thế còn có cả lính Ma-rốc. Những giây phút vừa qua, chừng 30 tên BEP đã lợi dụng xe tăng áp đảo ta về hỏa lực, tràn vào được một đoạn chiến hào của trung đội. Các chiến sĩ ta theo lệnh Tuynh đã lao vào đánh giáp lá cà, dùng toàn lựu dạn và lưỡi lê. Đã dầy kín cả một nửa giao thông hào vừa xác địch vừa tử sĩ của ta...

     Trời Điện Biên buổi sáng hơi se se lạnh mà mồ hôi chảy dài trên trán và hai thái dương Dũng. Anh nói, giọng vốn đã hơi khàn nay càng như khê đặc:

     - Đưa nốt trung đội 3 lên! Bỏ đoạn hào kia, sẽ giải quyết sau. Đào ngay một đoạn hào khác. Địch sẽ còn đánh đấy! Hãy sẵn sàng...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #32 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2023, 03:25:08 pm »

*


     Điện từ đại đoàn qua ông Thâu, ông Quý đã xác định cho Dũng biết: lực lượng đang đánh nhau với tiểu đoàn 2 trên sân bay chưa phải lực lượng lớn của Mường Thanh, mà đúng là lực lượng tiếp tế thường xuyên cho H1 nhưng có tăng cường. H1 bị trận địa chiến hào đánh lấn của e3 vây bủa rất nguy ngập. Chỉ có một lối duy nhất vận chuyên tiếp tế và liên lạc đường bộ với Mường Thanh là đi qua sân bay. Vì vậy rất dễ hiểu là chúng phải gắng sức mở cho dược một hành lang để đi tới H1. Đại đoàn lệnh cho e2 và cụ thể tiểu đoàn 2 phải kiên quyết bằng mọi giá không cho địch khai thông được đường qua sân bay. Đại đoàn đã cho chuyển xuống trung đoàn thêm đạn dược, vũ khí và cả một số tân binh để sẵn sàng bổ sung. Đại đoàn cũng thông báo cho biết: chiến hào của trung đoàn 3 đã đào lấn được vào tận trong bãi dây thép gai của H1, đồng thời các chiến sĩ của tiểu đoàn Lê Phong cũng đã bắn sụp được một số lô cốt và ụ súng quan trọng ở tiền duyên của địch. Tình hình bên đó là khá thuận lợi...

     Nhận được thông báo ấy qua ông Thâu, Dũng cảm thấy đầu óc mình nhẹ nhõm đi được một chút. Một toán tù binh gồm hai lính Ma-rốc và một lính dù người Đức được dẫn từ phía sân bay trở ra. Dũng giữ chúng lại. Không cần phiên dịch, anh trực tiếp hỏi bằng tiếng Pháp:

     - Lực lượng các anh có bao nhiêu?

     Ba tên tù binh quần áo đều tơi tả, đứa nào cũng bị thương đứa bị mảnh vào đầu, đứa bị lê đâm vào nách. Chúng đã được băng bó sơ qua. Một tên thều thào:

     - Trình ông chỉ huy, chúng tôi có hai trung đội mang vác, một tiểu đoàn dù BEP thêm một đại đội lính Bắc Phi. Đại đội này đi tăng cường cho H1. Đại úy Kubiak chỉ huy chung. Chúng tôi tập kết ở H2 tiến ra...

     - Nhiệm vụ của các anh được trao cụ thể như thế nào? - Dũng chau mày hỏi tiếp. - Giải tỏa cho H1 hoặc cho sân bay, hay là gì?

     - Trình ông, lệnh trên: phải mở bằng được một hành lang để tiếp tế cho H1. H1 chỉ còn đủ đạn cho một ngày đêm chiến đấu. Còn sân bay thì chưa rõ là đã có lực lượng mạnh của các ông vào như thế này...

     - Vậy có nghĩa là sẽ còn tiếp tục tấn công để mở hành lang?

     Tên tù binh sợ hãi:

     - Trình ông, con không thể biết rõ điều ấy. Tất cả là do chỉ huy.

    Không có thì giờ nhiều nữa, Dũng phất tay ra hiệu dẫn chúng đi. Dẫu sao thế là đã rõ: mọi việc đúng như đại đoàn đã thông báo.

    Đã 9 giờ. Sương mù đã tan hết. Máy bay địch bắt đầu xuất hiện trên bầu trời chao chát. Dũng thầm lo: máy bay lên chắc địch sẽ lại tấn công. Anh đã không nhầm. Đợt tấn công thứ ba của lực lượng Kubiak đã được tiếp tục tung ra trong tiếng gào rú của máy bay trên không và bom nổ vang rền khắp bốn chung quanh trận địa.

    Lanh lại báo cáo về: công sự lại bị trúng đạn pháo và sụt lở rất nhiều. Một số ụ trung liên đã bị phá sập hoàn toàn. Đã có thêm một số chiến sĩ vừa hy sinh vừa bị thương.

    Ruột gan Dũng như cồn lên:

    - Liệu có giữ được không?

    - Báo cáo, tinh thần anh em vẫn tốt. Nhưng cần bổ sung thêm ba trung liên và thêm nhiều lựu đạn nữa, càng nhiều càng tốt. Còn hai cây trung liên, tôi đang chỉ huy đây. Ha, ha, chúng nó chết như ngả rạ... Chúng nó đã bị chặn lại... Pháo ta đã bắn cháy một tăng! Còn một chiếc đang lui, dang lui. Phải, phải, nó đang...

    Tiếng nói sôi nổi mạnh mẽ của Lanh bỗng vụt tắt. Dũng quay máy, thấy nhẹ tênh. Đường dây đứt mất rồi! Anh vội lệnh cho chiến sĩ thông tin đi nối ngay. Anh chiến sĩ thông tin vừa khom mình nhao ra khỏi hầm một lúc thì một chiến sĩ khác từ phía trước xồng xộc chạy về. Anh lảo đảo vịn vào cửa hầm, như không đứng vững nổi nữa. Hơi thở đứt khúc, anh nói không thành câu:

     - Báo cáo... Lanh... anh Lanh... hy sinh rồi. Nó bắn... bắn... quăng ra... Khẩu trung liên cũng... cũng...

     - Hả? - Dũng như thét lên. Anh chồm ra, cầm chặt lấy hai vai anh chiến sĩ. Nhưng, anh ta đã rũ xuống dưới chân Dũng. Trời ơi, Lanh! Lanh! Thế là Lanh chết mất rồi! Dũng nhắm mắt lại. Cả khuôn mặt anh như tan ra trong một nỗi đau thương tới cùng cực. Nhưng anh không thể khóc. Tám năm rồi, làm gì còn nước mắt! Trái tim anh chỉ còn biết gào lên thảm thiết: Lanh! Ôi, mới đêm qua còn chia nhau nắm cơm và nói tới ngày về...

     Nhưng anh chiến sĩ từ sân bay chạy về báo cáo tin dữ đã tỉnh lại, lắp bắp tiếp:

     - Địch... địch đã chiếm... mất... mất chiến hào...

     - Sao? Nói lại đi em! - Dũng lại như giật mình - Anh em ta thế nào?

     - Báo cáo... rút lui... trở ra mương rồi...

     Dũng buông xuôi hai tay, thở hắt. Tình hình thế là nghiêm trọng. Đã tới lúc phải tung đại đội Niên vào chiến đấu. Dây điện thoại với Niên may vẫn chưa đứt. Khi nhận được lệnh của Dũng, Niên đáp lanh lảnh, đầy khí thế:

     - Chúng tôi lên ngay! Tiểu đoàn hãy tin tưởng ở chúng tôi!

     - Pháo sẽ chế áp mạnh thẳng vào chiến hào cũ của Lanh, đè đầu chúng nó xuống cho các anh lên. Thật nhanh, nghe không! Quyết không cho chúng nó củng cố...

     - Rõ! Chúng tôi xuất phát đây!

     Đại đội của Niên, cái đại đội đã bị tiêu hao khá nặng trong trận Pe Luông giờ đây đã được hổ sung quân số khá đầy đủ, toàn là tân binh Thanh - Nghệ được huấn luyện tốt, bắt đầu từ chiến hào phía sau ào ạt tiến lên, dưới những làn trọng pháo của Mặt trận và các trận địa hỏa lực của trung đoàn, tiểu đoàn, che chở ở bên trên. Khí thế thật mạnh mẽ.

     Quả nhiên, chỉ hơn 30 phút sau Niên đã báo về: đoạn hào trong sân bay đã được khôi phục. Bắt được hai tù binh, toàn là lính dù lê dương.

     Nhưng cũng lại gần như lúc trước, Dũng chưa kịp mừng thì tin dữ lại báo về: Niên cũng đã hy sinh. Một chiếc xe tăng quái ác ẩn nấp bên cứ điểm H2 bất ngờ xuất hiện đã bắn hết sức ác liệt vào sườn đại đội 2...

     Hai mắt anh Dũng lại tối sầm. Anh hạ lệnh: trung đội trưởng Thầm lên thay thế Niên và phải kiên quyết giữ vững bờ mương đến cùng, chờ tiếp viện...

     12 giờ trưa. Đã tới lúc đại đội 3 bước vào chiến đấu. Đại đội 1, đại đội 2 được lệnh dạt sang cánh trái và cánh phải ở bờ mương, đánh vào sườn địch, để cho quân của Thìn lên được thuận lợi.

     Thìn và Hào cùng lên hầm tiểu đoàn để nhận lệnh cụ thể. Thủy cũng được mời từ phía dưới lên, cùng tham gia chỉ đạo. Mấy người cùng ngồi nhồi nhét trong căn hầm nhỏ bé. Dũng trình bày ý đồ thay đổi cách đánh: không ồ ạt xung phong như trước, sẽ tiến lên một cách vững chắc hơn: Đại đội 3 sẽ chia thành từng tổ ba người, mỗi tổ trang bị: một trung liên, một tiểu liên, và một chiến sĩ đi sau chuyên ném lựu đạn và quan sát địch. Đánh tới đâu, đào ngay công sự tới đó. Tổ trước vượt lên, tổ sau tiến theo, đào tiếp công sự cho sâu hơn rộng hơn. Và cứ thế, mũi tiến công không như những làn sóng lớn mà sẽ như một mũi khoan dài, khoan dần lên. Sẽ chậm, nhưng vững chắc, đỡ tốn máu... Tất cả mọi người cùng tán thành cách đánh như vậy.

     Cuộc họp rất chớp nhoáng. Như tất cả mọi khi, Thìn vẫn im lặng và cuối cùng chỉ “rõ” một tiếng cụt lủn, rồi phủi đít quần đứng dậy. Chính trị viên Hào hoạt bát hơn và lúc nào cũng như cười được. Anh nhe cả cái răng sứt ở cửa miệng. Nhưng lúc này, anh cũng chỉ viết cho chính trị viên Thủy được mấy câu vắn tắt:

     “Các anh cứ yên trí. Tôi sẽ hội ý chi ủy ngay. Tất cả các đảng viên sẽ được phân đều cho các bộ phận. Tất cả các đảng viên sẽ đi hàng đầu”.

     Phía trước, tiếng súng hai bên vẫn lai rai. Dũng hiểu: địch vẫn chưa tràn ra được bờ mương. Chúng đang đánh cầm chừng để chuẩn bị cho một đợt tấn công mới.

     Máy bay vẫn gầm rú trên bầu trời. Bom vẫn nổ rung chuyển ở các cửa rừng và khu vực của trung đoàn 3, nơi mà chúng hẳn đã thấy hệ thống chiến hào của quân ta đã trở nên cực kỳ nguy hiểm cho H1.

     Dũng gọi Bổng, cán bộ tác huấn tới để giao nhiệm vụ trở lại phía sau tổ chức tất cả lực lượng còn lại của tiểu đoàn làm lực lượng dự bị cho đại đội 3, đồng thời thu vét tất cả lựu đạn thủ pháo dồn lên phía trước. Bổng ngồi ở một góc hầm. Mặt mét xanh, anh lắp bắp:

     - Báo cáo anh, máy bay còn đang bắn phá, xin để để...

     Dũng nhíu lông mày:

     - Anh không thấy máy bay nó đang đánh ở đâu ư? Lúc này quân ta quân nó đang cài nhau. Nó không dám ném thẳng vào đây đâu mà sợ.

     - Nhưng... nhưng...

     Dũng quắc mắt:

     - Anh đi ngay đi. Không có nhưng gì hết.

     - Báo cáo, báo cáo... - Bổng vẫn không đứng dậy được. Mặt anh từ mét xanh trở nên trắng bệch. Mồ hôi chảy dài trên trán và hai thái dương, Dũng không kìm được mình nữa, anh nhào tới, giáng một cái tát thật mạnh vào giữa mặt Bổng. Ôm chầm lấy mặt, Bổng lảo đảo đứng dậy.

     - Đi đi! - Dũng thét lên.

     - Vâng, báo cáo, tôi đi đây...

     Bổng liêu xiêu bước ra khỏi hầm. Dũng nhìn theo thở dốc. Cơn điên giận của anh vẫn chưa nguôi. Đúng là cái đồ thân lừa ưa nặng...

     Phía trên sân bay, đại đội Thìn theo cách đánh mới đã tiến lên được dần dần, tuy khá chậm. Vừa tiến vừa đào công sự. Mũi khoan cứ khoan mãi, khoan không ngừng.

     Trời đã xế chiều. Dũng cầm ống nhòm nhìn lên. Anh bỗng thấy sau những làn khói trắng, khói đen bóng một chiếc xe tăng đen sì đang khặc khừ và như lùi dần. Đằng sau nó là những bóng đen li ti cũng đang như nhớn nhác. Dũng quay vào hầm phôn ngay cho Thìn:

    - Quan sát đi. Địch đang có dấu hiệu gì lạ! Chúng đang muốn lật cách đánh, hay có ý đồ gì? Hãy cảnh giác đấy, Thìn!

    Tiếng Thìn cũng đã khê đặc vì thuốc súng và khói pháo:

    - Báo cáo, hình như chúng muốn lui xuống thì phải. Chúng đã không cản được chúng tôi đang lấn vào.

    Một cái gì đó chợt như chớp lòe trong đầu óc Dũng. Anh nói rất nhanh, giọng rung lên:

    - Chuẩn bị xung phong ngay, Thìn! Tôi sẽ xin pháo dập cho các anh thật mạnh trong mười lăm phút.

    Tiếng Thìn đầy vẻ ngạc nhiên:

    - Thế không vừa đào vừa tiến nữa à?

    - Không! Lúc này thì lại phải rất nhanh. Nhanh chóng và mãnh liệt! Nhanh chóng thoát ly công sự, đánh ngay, tiến ngay vào đường băng. Chúng nó rút đấy! Đánh đi!

    - Rõ! - Tiếng Thìn đáp rất to, như chưa bao giờ từng thấy.

    Dũng càng vững dạ và rất mừng khi nghe ông Thâu gọi điện xuống rối rít: “Đài quan sát đại đoàn và trung đoàn báo về: địch có triệu chứng rút. Phải hành động tức thì! Hành động ngay đi, Dũng!”.

    Trong khoảnh khắc, một trận pháo, cối của ta lại nhấn chìm cả nửa sân bay phía nam trong lửa khói.

     Pháo vừa dứt. Dũng lập tức phát lệnh xung phong, chiến sĩ đang cùng một loạt hiện lên, nổi bật trên màn khói dầy đặc. Tám năm chiến đấu có lẽ chưa lần nào Dũng dược chứng kiến một trận xung phong giữa ban ngày tuyệt vời đến thế. Các chiến sĩ ta vừa cong người lao lên, vừa hò reo à à, như triều dâng thác đổ.

     ... Chỉ mười lăm phút sau, đã nghe thấy Thìn hổn hển báo về:

     - Đã tới được đường băng! Địch chết nhiều lắm. Đã chiếm được đường băng. Vâng, đường băng...

     - Vậy cho dùng bộc phá cắt ngay các phên sắt và đào công sự ngay, Thìn! Hoan hô c3!

     Vui quá và mừng quá, Dũng vừa như ra lệnh mà củng vừa như động viên, không còn ra khẩu ngữ chiến đấu có quy cách gì nữa. Thủy đã đến bên anh, ngơ ngác khi nhìn thấy gương mặt Dũng đỏ rực. Dũng vội móc túi. Không còn vỏ bao thuốc lá nữa, anh lấy ngón tay viết luôn lên vách hào: “Chiếm được đường băng rồi! Cắt được sân bay rồi!”.

     Thủy ôm chầm lấy Dũng. Anh cười lên ha ha và nước mắt bỗng bật trào ra ràn rụa. Cả hai như điên lên vì sung sướng, mừng rỡ.

     Trời vừa sẩm tối, Dũng ra hiệu đề nghị Thủy ở lại sở chỉ huy để cho anh lại lên sân bay. Giao thông hào, chiến hào vẫn còn đầy lính và thương binh, tử sĩ. Anh lại phải nhảy lên mặt ruộng mà chạy. Đã tới bờ mương. Người đầu tiên anh gặp khi nhảy xuống chiến hào là Tuynh, người đang thay Lanh chỉ huy đại đội. Dũng chỉ còn biết nắm chặt lấy tay Tuynh. Giây phút này dường như anh không có thể tìm được lời nói nào để bày tỏ được tất cả niềm thương yêu, quý trọng và cả biết ơn của anh đối với Tuynh, và tất cả anh em chiến sĩ. Dường như Tuynh hiểu. Trên khuôn mặt đầy bùn đất và nhem nhuốc thuốc đạn của Tuynh sáng lên một nụ cười:

    - Tiểu đoàn ạ, thế là tất cả chúng ta...

    Dũng gật đầu. Anh lại siết chặt tay Tuynh rồi đi thẳng vào sân bay. Anh đã đi nhầm vào đoạn giao thông hào đã đầy kín xác lính dù và lính Ma-rốc. Không thể không kinh hãi trước cảnh tượng ghê gớm đó, anh lùi lại tìm con hào mới. Trong hào mới cũng có xác địch, tuy không nhiều bằng đoạn kia. Những cái xác to chình ình, cái úp sấp, cái nằm vật ngửa. Dũng luôn luôn phải nhảy lên để vượt qua. Thìn đã biết tin từ lúc nào, đang đứng đón anh. Trời tối mờ nhưng vẫn còn nhìn thấy đôi mắt đỏ cá chày của anh. Vẫn ít nói và ít bộc lộ như mọi khi, anh đón Dũng không một nụ cười, cũng không một lời kể lể hoặc khoe khoang.

    Sân bay mênh mông. Vào đây mới biết, địch đã cho nối thêm đường băng dài ra tới 1.500 mét. Trên sân bay, dù trắng, dù đỏ la liệt, gần như phủ kín, và tràn cả ra khắp cánh đồng. Cũng thấy đủ các thứ hòm, hòm đạn, hòm đồ hộp, hòm dụng cụ y tế, và các thứ hòm khác nữa, không hiểu là hòm gì, nằm lăn lóc khắp nơi. Xác bốn chiếc máy bay bị bắn hỏng ngay từ màn 1 chiến dịch vẫn còn nằm rải rác đó. Đặc biệt xác chiếc máy bay thứ tư, vật chuẩn của tiểu đoàn đã gần như không còn một mảnh tôn, sắt nào cả. Chỉ còn trơ lại một bộ khung đã gãy nát, nom tựa như bộ xương của một con cá khổng lồ thời tiền sử. Dũng bước nhanh tới gần chiếc máy bay. Anh quỳ xuống dang cả hai tay mà xoa xoa mãi, ve vuốt mãi trên các phên sắt lạnh giá và đã bị phá tung lên từng mảnh. Nó đây rồi! Sân bay đây rồi! Trái tim anh lại như rung lên. Sân bay, cái mục tiêu đánh chiếm mà tất cả bọn anh đã mong đợi từ bao lâu, đã phải đánh đổi nó bằng Lanh, bằng Niên, bằng Noãn và biết bao nhiêu chiến sĩ khác nữa, nay nó đã ở dưới chân anh. Nó đã trở nên vô giá. Thật vậy, không có vàng nào đổi được cuộc sống của chiến sĩ... Và cũng không có bất cứ thứ lao động nào ở trên đời này có thể sánh được với lao động máu của chiến sĩ.

    Sân bay.

    Sân bay đây rồi! Ôi! Lanh ơi, Niên ơi, tất cả các chiến sĩ đã bỏ mình trên từng tấc đất theo đúng nghĩa đen trên cái chiến trường ghê gớm, tàn khốc này. Các anh đã trở về với cát bụi, nhưng đời đời đất nước sẽ không quên các anh, sẽ không quên Điện Biên Phủ.

    Nửa đêm hôm đó, thêm một tin vui nữa được truyền đi trên khắp mặt trận: cứ điểm H1 đã hoàn toàn bị tiêu diệt trong một trận đánh rất gọn của tiểu đoàn Lê Phong thuộc trung đoàn 3.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #33 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2023, 10:00:20 am »

13


    Sáng ra rồi. Cha Tuyên úy Trinquard mệt mỏi trỗi dậy. Mọi đêm trước, ông thường ngủ cùng hầm với bạn thân là bác sĩ Grawin ở khu quân y, nhưng nay ở đó thương binh đã quá nhiều, hôi thối nồng nặc, không chịu nổi, nên đêm qua đã phải sang ngủ nhờ bên các sĩ quan truyền tin.

    Ra khỏi hầm, sương mù còn như khói tỏa trong khắp các chiến hào, ông đã nghe thấy tiếng lao xao:

    - Một đêm ba mất. Đúng là một đêm ba mất!

    - Chúa có lẽ bỏ rơi chúng ta chăng?

    Không hiểu chuyện gì, ông nắm lấy một viên thiếu úy truyền tin vừa đi tới:

    - Cái gì thế anh bạn? Cái gì mà ba mất? Mất những gì?

    Anh thiếu úy nhìn cha như nhìn một người từ hành tinh khác đến.

    - Vậy cha không biết chuyện gì sao?

    - Thật không anh bạn trẻ ạ.

    - Cha ơi, chỉ trong một đêm qua, ở đây có ba cái mất: một là mất H1, hai là mất sân bay, và ba là mất thùng đồ của Hà Nội gửi lên, trong đó có lon thiếu tướng của ngài De Castries. Nó rơi cha nó sang bên quân Việt rồi!

     Trinquard đứng ngẩn. Ông thở dài. Lạy Chúa, vậy đúng là ba mất, đúng là những chuyện chẳng lành...

     Viên thiếu úy đi khỏi, Trinquard cũng trở lại phía hầm quân y. Giao thông hào đầy binh sĩ, sĩ quan đi ngược đi xuôi. Tất cả đều câm lặng. Những khuôn mặt nặng nề, buồn bã. Một người cao cao, xương xương bỗng hiện ra ở một ngã ba giao thông hào: Langlais. Vốn khá thân nhau, Trinquard vội tóm anh ta lại:

     - Đại tá, có phải chỉ một đêm qua mà ta có ba cái mất?

      Langlais nhún vai. Bộ mặt lưỡi cày như đá đẽo, cứng cỏi và tàn bạo của anh ta không còn như mọi ngày, đã như phủ một làn khói xám. Cái nhún vai là một lời khẳng định. Anh ta nói thêm, không giấu được vẻ rầu rĩ:

     - Cha ạ, chúng ta đang đi tới thảm họa. Thật đấy! Phải nhận lấy điểu đó thôi, và đấy cũng là để đền bù vào những tội lỗi và những sai lầm mà chúng ta đã phạm phải...

      Trinquard bỗng có cảm tưởng như đây là những lời xưng tội của Langlais trong một buổi lễ. Langlais chào cha tuyên úy rồi đi thẳng tới hầm De Castries. Đầu óc anh ta vẫn đang trĩu nặng, mặc dầu chiều hôm qua các sĩ quan chóp bu của tập đoàn cứ điểm vừa nhận được tin vui: Hà Nội điện báo đã có quyết định của chính phủ Pháp thăng quân hàm của De Castries lên thiếu tướng, và Navarre đã cho Langlais lên đại tá, Bigeard lên trung tá. Hà Nội còn cho hay đến đêm sẽ thả dù các bộ lon mới xuống cho cả ba, kể cả rượu mừng của riêng tướng Cogni. Nhưng, chiếc dù đã bay sang trận địa đối phương, vì khu vực thả dù đã quá hẹp. Các cuộc lục soát, kiểm tra dù thu được trong buổi sáng nay đã thất lạc ấy là hoàn toàn đúng. Langlais hiểu: người ta đã muốn khích lệ tinh thần chiến đấu của “những con sư tử” ở đây, nhưng rõ ràng niềm vui chẳng đi đến đâu. Việc thất lạc các bộ lon dường như đã thầm báo ý Chúa không muốn thế, hoặc Chúa nhắn bảo trước về những điều thê thảm.

     Bước vào hầm, Langlais đã thấy Bigeard ngồi đó mặt nặng trịch. Chào hỏi nhau qua loa, ba người vào việc luôn. Thiếu tướng De Castries hôm nay đã vứt bỏ cặp lon đại tá trên ve áo, nhưng cũng không có gì để thay thế vào đó. Khuôn mặt ngựa vốn đã dài của ông hôm nay càng như dài thêm, và không còn một chút hồng hào. Ông nói chậm rãi, đều đều:

     - ...Các ông ạ, H1 mất, sân bay bị cắt, toàn bộ khu vực của chúng ta đã bị thu hẹp lại, chỉ còn trong phạm vi một cây số vuông. Việc tiếp tế, tiếp viện rõ ràng đã trở nên xấu, cực kỳ xấu. Chỉ may là Eliane (đồi Al) vẫn còn đang cầm cự được. Tôi mời các ông làm việc phản kích giải tỏa lại sân bay, gắn liền với việc đó là tái chiếm H1. Phải! Tái chiếm lại sân bay và H1. Có như thế chúng ta mới khỏi chết vì nghẹt thở. Bây giờ Bruno cho ý kiến đi. Ông là người chịu trách nhiệm về tất cả các cuộc phản kích mà! Mà hơn nữa vừa qua ông đã chỉ huy phản kích liên tục trên Eliane một cách thật dũng cảm và có hiệu lực...

     Bigeard ở vào thế không thể không phát biểu. Anh ta khoanh hai tay trước ngực, ngồi ngửa người, dạng hai chân, bặm môi suy nghĩ. Anh ta cảm thấy có lẽ tốt nhất là phải nói lên sự thật, cái sự thật đang cưa xẻ ruột gan anh ta.

     - Trình thiếu tướng, tôi rất hiểu ý đồ của thiếu tướng. Tôi có nhiệm vụ phải tuân lệnh. Nhưng cũng phải xin phép nói rằng: muốn phản kích phải có lực lượng mạnh. Có nghĩa là phải dùng tới 2e BEP (tiểu đoàn dù người ngoại quốc số 2, đơn vị đã nổi tiếng thiện chiến của Pháp). Nhưng, trình thiếu tướng: 2e BEP đang phải bám lấy Eliane để thường trực phản kích. Cũng cần nói rõ thêm: nó, cái 2e BEP ấy mới được ném xuống đây ngày 9 tháng 4 (sau những trận ác liệt ở khu đông), nay cũng đã hao mòn, chỉ còn có ba trăm tay súng, lại rất mệt mỏi. Vậy, nếu điều nó đi, để lấy H1 và sân bay, thì ai sẽ thay thế nó ở Eliane?

     De Castries gật đầu:

     - Tôi đã tính, Bruno ạ, sẽ gom quân còn lại của các đơn vị: 2/1REI, 6e BEP, 1/2 REI (tiểu đoàn 2 trung đoàn 1 lê dương, tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 và tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 2 lê dương) Bruno ạ, ta sẽ gom tất cả lại và đưa vào thay thế nó ở Eliane (A1).

     Bigeard nhếch mép cười, cái cười ít lễ độ:

     - Trình thiếu tướng, cứ cho là có thể như vậy. Nhưng vẫn còn một vấn đề nữa: giả sử tung 2e BEP sang cánh tây lấy lại được sân hay: nhưng sẽ có đơn vị nào để giữ?

     De Castries còn đang tìm lời để đáp lại, Langlais đã lên tiếng:

     - Trình thiếu tướng, đúng là phải quan tâm đến điều Bruno vừa nói: nếu lấy lại được liệu có giữ lại được không? Lực lượng đâu? Tung 2e BEP ra là coi như ta dốc túi.

     De Castries liếc nhìn Langlais bằng đuôi con mắt. Cái thằng có tiếng ngổ ngáo và sắt đá ấy không hiểu ngổ ngáo sắt đá ở đâu, nhưng chính hắn là tên đã ngần ngại tung quân ra phản kích mạnh ở Gabrielle (Độc Lập) và Beatries (Him Lam). Bây giờ hắn lại ngần ngại nữa. Nghiêm mặt lại, với giọng đúng là của thiếu tướng, De Castri tuyên bố:

     - Thôi, không bàn nữa. chúng ta phải tiến hành phản kích ở sân bay! Phản kích với tinh thần như ở Eliane (A1).

     Bigeard và Langlais cùng lặng lẽ đứng dậy.

     Bigeard trở về hầm của mình. Anh ta quay radio gọi Lisenfelt - thiếu tá - chỉ huy tiểu đoàn 2 dù đang ở đồi A1.

     - Anh hãy về ngay gặp tôi! Có nhiệm vụ mới cấp bách cho anh.

     - Trung tá có thể vui lòng cho tôi biết hơn một chút được không?

     - Các anh sẽ chuyển hết sang cánh tây.

     - Ủa! Ai sẽ thay thế chúng tôi ở đây?

     - Các anh cứ chấp hành mệnh lệnh.

     Không nghe thấy Lisenfelt nói hoặc hỏi gì nữa, chỉ thấy tiếng dập máy đánh bộp. Bigeard hiểu: Lisenfelt vốn nổi tiếng kiêu căng, hắn đã nổi cáu.

     Một lúc sau, “người hùng” của e2 BEP tới, phanh áo ngực, bê-rê lệch bên tai, bước đi nghênh ngang. Ai cũng biết ở đây Lisenfelt chỉ còn nể mặt có một Bigeard. Các sĩ quan phụ trách xe tăng và pháo binh lần lượt kéo đến. Cuộc hội ý tác chiến đã diễn ra hết sức nhanh gọn. Bigeard lấy lại dáng vẻ oai dũng vốn có, đôi mắt cọp lại long lanh dữ tợn. Kế hoạch được ấn định như sau: trước hết yêu cầu đại tá Guérin ở Hà Nội tập trung cho 12 máy bay ở khu trục cường kích và bốn oanh tạc cỡ lớn B26 tiến hành một trận giội bom và bắn phá quyết liệt vào ngay trận địa quân Việt Nam trên sân bay. Sau đó đến lượt pháo Mường Thanh bắn dồn dập 1.200 quả, trong đó có một số đạn khói nhằm tạo một màn che không cho pháo Việt Nam thấy được mục tiêu quân phản kích. Liền ngay đó, cối của các cứ điểm H2, H3 bắn tiếp... Cuộc hỏa pháo bắt đầu từ 13 giờ 30 phút. Hỏa pháo chấm dứt, các đơn vị dù bắt đầu tiến ra. Có thêm hai đại đội dù ngụy tăng cường. Xe tăng gồm 4 chiếc do trung úy Mengel sẽ yểm trợ cho mũi tiến công chính diện ở hướng đường băng. Cuộc phản kích lớn này sẽ do Lisenfelt chỉ huy chung... Nghe tới đó, Lisenfelt trợn mắt hỏi lại:

     - Tôi?

     Bigeard gật đầu:

     - Thay mặt chỉ huy trưởng toàn căn cứ, tôi trao cho thiếu tá nhiệm vụ dó. Thiếu tá hoàn toàn có đủ vinh dự đảm nhận trọng trách này, hơn nữa lực lượng phản kích chủ yếu là 2e BEP.

       Lisenfelt nín thinh. Các sĩ quan khác cùng đưa mắt nhìn nhau. Họ đều không thật hiểu vì sao Bigeard không trực tiếp chỉ huy trận này. Lý do mà anh ta nêu lên chưa đủ thuyết phục. Chẳng lẽ nào con người vốn khá gan dạ, xông xáo đã từng chỉ huy phản kích liên tục và có hiệu quả trên Eliane (A1) lúc này đã thoái chí? Không có lẽ! Thật khó hiểu! Nhưng không một ai lên tiếng. Cũng như Lisenfelt, tất cả đều nín thinh.

       Ngoài xa xa, ở sân bay, lực lượng còn lại ở tiểu đoàn dù ngoại quốc số 1 chưa nhận được lệnh rút vẫn đang tiếp tục đánh một cách tuyệt vọng. Tiếng súng lai rai vọng về.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #34 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2023, 10:01:07 am »

*


       Sau mấy ngày mưa, hôm nay trời nắng, không khí oi ả. Đúng như kế hoạch mà Bigeard đã vạch ra: 13 giờ 30 phút các máy bay khu trục và oanh tạc của quân Pháp bắt đầu ồ ạt xuất hiện trên bầu trời Điện Biên Phủ. Mặc cho các lưới cao xạ của quân ta từ bốn chung quanh cánh đồng bắn lên dày đặc, những trái bom cỡ lớn. Bom nổ suốt dọc đường băng. Bom trùm cả lên cứ điểm H1 đã bị đánh chiếm. Chỉ trong khoảng khắc, không riêng sân bay và căn cứ H1 mà dường như cả cánh đồng phía tây ngùn ngụt lửa khói. Những chiếc khu trục cường kích Hen-cát nối đuôi nhau như thoi xuyên qua các màn khói, lao xuống ném bom, xả đạn 20 lỵ điên cuồng. Những chiếc B26 chia thành tốp 2 chiếc một đan đi đan lại trên tầng cao. Cứ mỗi lần một tốp lướt qua sân bay là có bốn quả bom lớn đen sì cùng vùn vụt lao xuống, rít như quỷ hú. Một chiếc Hen-cát đang lập bằng đôi cánh để bổ nhào, chợt nổ tung thành một bó đuốc khổng lổ. Quân ta reo hò vang dậy, rất ít khi được nom thấy một cảnh tượng vô cùng đẹp mắt đến như thế. Bó đuốc mỗi lúc một to, quay đảo trên bầu trời, rồi dần dần rơi chéo về phía Hồng Cúm. Tiếp theo đó là một tiếng nổ lớn, rất nặng ở xa xa cùng cột khói đen bốc lên cao ngất.

     Những chiếc máy bay đã rút hết. Đến lượt pháo, cối của Mường Thanh. Màn khói đen dày đặc trên sân bay chưa tan đi đã có một lượt khói pháo, cối bồi đắp, càng thêm dày đặc, vần vụ, tạo thành những hình thù quái gở dữ tợn như những mặt quỷ đang nhe nanh, há miệng ở trên cao. Trong lúc đó, dưới bức thành khói, là những chớp lửa thi nhau giật liên hồi như có hàng trăm ma quỷ đang cắn xé, vật lộn nhau cuồng nộ.

     Rồi các loại cối và súng máy, có cả một cỗ trọng liên 4 nòng vừa được Bigeard tăng cường kéo ra cùng lên tiếng phối hợp. Nghe khẩu 4 nòng như buốt cả xương sống. Đạn nhanh và dày đặc đến nỗi không còn phân biệt từng tiếng nổ. Đạn như mưa sa...

     Đã tới lúc các đại đội dù được lệnh Lisenfelt tiên ra khỏi cứ điểm H2. Chỉ có một lối nhỏ. Phải dùng thuốc nổ để phá các hàng rào dây thép gai và các bãi mìn để tiến ra cho nhanh. Nhưng cũng không phải dễ. Cuộc phá dỡ các bãi chướng ngại vật đã khá mất thì giờ. Quân địch đã bị vây bủa bởi chính những gì chúng đã rào dựng lên. Trong khi đó, hai đại đội dù ngụy ở phía sau cũng được lệnh bọc vào cánh trái trận địa quân Việt Nam. Nhưng chúng cứ loanh quanh mãi trong các hệ thống chiến hào cũng chính của bọn chúng đào từ mấy tuần nay. Chúng như lạc vào một mê cung. Thêm nữa, tinh thần chúng đã trở nên mê hoảng ngay từ giờ phút đầu của trận đánh mà chúng đã có thể hiểu là không mấy dễ dàng...

     Mãi hơn 60 phút sau, 2e BEP mới ra khỏi H2 và tỏa ra thành hai mũi, tiến lên nửa sân bay phía bắc đã bị đánh chiếm. Mũi chính gồm hai đại đội, một do trung úy Biré chỉ huy, một do đại úy Lecour Grandmaison. Những tên lính 2e BEP nói chung đều cao lớn. Chúng mặc những bộ đồ kiểu Mỹ bó sát lấy người, càng có vẻ lực lưỡng, mạnh mẽ. Chúng dùng toàn tiểu liên Mỹ, những tiểu liên cho quân dù loại cực nhẹ và cực nhanh. Tên nào cũng đầy đủ dao găm, thuốc nổ, lựu đạn. Tiểu đội nào cũng có trung liên, đại đội nào cũng có đại liên và súng cối, đều là cực nhẹ và cực tốt. Hoàn toàn là một đội quân mạnh và thiện chiến. Nhưng cũng ngay tức khắc, khi chúng vừa tiến lên, được một đoạn ngắn, từ phía trước, nơi đường băng đã bị đánh chiếm và cắt đôi, nơi có xác chiếc máy bay số 4, súng trung liên của quân Việt Nam đột ngột xuất hiện. Đạn cắt reo réo là là trên đường băng và khắp mặt đất sân bay. Bắn ác nhất là ở trung liên đặt dưới bụng xác chiếc máy bay. Hai đại đội của Biré và Lecour Grandmaison phải dán bụng xuống đường băng, không sao ngóc đầu lên dược. Trời vẫn nắng gắt. Các phên sắt nóng như nung. Bụng rát bỏng, nhưng tất cả những tên lính dù vẫn cứ như bị đóng đinh tại chỗ. Dần dần đã có thương vong. Những tiếng kêu vang lên chỗ này chỗ khác. Những viên sĩ quan chốc chốc lại phải rống lên, hò hét thúc giục. Nhưng tất cả vẫn như cá phơi trên sàn tàu. Cánh quân do đại úy Boulinguez chỉ huy cũng không may mắn gì hơn hai đại đội ở chính diện tấn công.

    Từ cứ điểm H2, Lisenfelt không một phút rời khỏi chiếc máy truyền tin. Một sĩ quan nào đó của đại đội 5 đã réo lên: Biré bị thương nặng. Đến lượt Lecour Grandmaison cho biết đại đội hắn thương binh khá nhiều... Và cả máy đơn vị đều báo cáo: Khẩu trung liên ở dưới bụng xác chiếc máy bay vẫn bắn ra ác liệt, ác liệt nhất...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #35 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2023, 10:03:40 am »

*


    Khẩu trung liên ấy chính là của Lẫm, anh chàng cao lêu đêu, có nụ cười nghịch ngợm, của đại đội Thìn. Khi trận bom và cối lớn của dịch vừa dứt, Lẫm đã kéo anh tân binh có nhiệm vụ tiếp đạn giũ đất cát, chui ra khỏi hàm ếch, nhào lên, trước mặt hai anh em cảnh tượng như vừa có một trận động đất lớn xảy ra. Mặt đất biến dạng. Hơn một chục chiếc hố bom lớn như những chiếc ao làng trải dài, đỏ rực. Những mảnh phên sắt dường băng tan tác khắp nơi, cắm như chông như mác trên các miệng công sự hoặc chiến hào. Nhiều mảnh đã bay cả về phía sau bọn Lẫm, phá tung những nắp hầm cá nhân, hoặc ụ súng. Xác chiếc máy bay không còn nguyên vẹn. Bom pháo đã bắn bay mất hẳn nửa đầu, chỉ còn lại nửa cuối với cái đuôi cũng đã cong queo, gãy nát từng đoạn. Ghê gớm hơn nữa: hai công sự của hai tổ súng máy bên trái Lẫm đã như trở thành bình địa. Không thấy người, cũng không thấy súng đâu nữa, chỉ còn lại một vài đoạn gỗ nóc hầm đã bị xé nát, quăng ra bốn chung quanh. Lẫm gào lên gọi mãi. Không một tiếng trả lời. Chỉ có tiếng đại liên, trung liên của địch ở phía trước choang choác. Anh tân binh đờ dẫn. Hồn vía như đã lên mây xanh. Lẫm tức, quát to:

       - Đưa đạn dây! Sợ đéo gì chúng nó! Ngồi vãi đái ra đấy hả?

       Anh tân binh làm theo Lẫm như một cái máy.

       Khi đặt được vững khẩu trung liên, Lẫm vừa vặn trông thấy ở phía trước quân dù đang bò trườn lên như cả một bầy cá đang rạch cạn. Nghiến răng lại. Lẫm nổ từng nhịp... Dưới ánh nắng chói chang, những “con cá rạch cạn” bỗng như bị giội nước sôi, cùng giẫy lên một loạt. Lẫm sướng quá, vừa bắn vừa reo: “Chết mày! Chết mày!”. Anh tân binh cũng đã bớt sợ, tiếp đạn mỗi lúc một thêm nhanh nhẹn. Cứ như thế, nhịp ngắn, nhịp dài, Lẫm bắn hết băng này đến băng khác...

       Bỗng có người nào đó từ phía sau lao tới, nằm phịch ngay xuống bên cạnh Lẫm. Quay mặt lại, Lẫm trợn mắt:

     - Ôi, tiểu đoàn trưởng!

     Đúng là Dũng. Toàn thân anh từ mặt mũi tới áo quần đều đỏ kè đất bụi như vừa dưới hầm lò chui lên. Cũng như Lẫm, đợt bom pháo của địch vừa dứt, anh đã nhoài ra khỏi căn hầm bị sụp đổ quá nửa. Trong đầu óc anh không còn một ý nghĩ nào khác là phải lên tuyến đầu xem có còn ai không? Trận bom quả là chưa từng có trên cánh đồng phía tây này. Từ trưa đã nhận được thông báo của mặt trận và của đại đoàn cho biết: ta bắt được điện của Mường Thanh yêu cầu Hà Nội tập trung ném bom cỡ lớn vào trận địa ta ở dọc sân bay. Trung đoàn trưởng Thâu đã chỉ thị cho Dũng phải gấp rút củng cố hầm hố và cho lính tản rộng đội hình. Nhưng tới lúc này Dũng vẫn còn thực sự choáng váng đến mức như không tin là còn có người sống sót. Anh chạy, như chạy trên mặt trăng, lúc chồm lên vượt qua đống đất cồn cồn, lúc tụt xuống những đoạn hào đã bị bom đạn địch đào sâu gần lút đầu. Đất sân bay rắn như đá, nay cũng vụn ra như cám.

     Cũng còn nhớ thêm nữa: đêm qua đại đoàn trưởng Vũ Hùng đã ra tận trận địa dể quan sát xem tại sao cứ mất đi mất lại mãi. Ông đã cười: “trận địa chỉ có một tuyến thế này, nó lấy dễ là đúng. Phải đào vòng thành hình cái vợt, rồi đào các tuyến ngang, tạo thành các chiều sâu phòng ngự mới được!...”. Suốt đêm qua, Dũng đã cho anh em kiến thiết lại trận địa theo kiểu ấy...

     Dần dần anh đã nhìn thấy các chiến sĩ nối tiếp nhau giũ bụi, chui lên từ các hầm hố, các đống đất. Mỗi lúc một đông. Dũng mừng quá.

    Anh vượt lên chỗ Thìn. Anh đại đội trưởng này bị bom vùi, đang được chính trị viên Hào và y tá vực dậy, tiêm thuốc và làm hô hấp nhấn tạo. Dừng lại đó một chút, Dũng lại chạy lên. Nom thấy các khẩu trung liên vẫn đang bắn ra rất mạnh, anh lao thẳng tới đó, nằm xoài xuồng bên xạ thủ. Tưởng ai, té ra là Lẫm...

    - Tốt lắm! Bắn mạnh nữa đi em!

    - Báo cáo, anh cho thêm đạn. Sắp hết đạn rồi.

    - Được, sẽ có ngay! Hai khẩu bên kia không còn nữa hả?

    - Vâng. Sạch rồi!

    - Tôi sẽ nói anh Thìn bổ sung ngay, để bảo vệ sườn cho cậu.

    - Hay quá, em cám ơn tiểu đoàn trưởng.

    Dũng quay trở lại. Thìn đã tỉnh. Anh đang nhổ phì phì đất cát từ trong miệng. Hai mắt anh đã trở thành hai cục tiết, vì đất cát nhét đầy.
    Hội ý với Thìn về việc tăng cường hỏa lực lên phía trước cho Lẫm xong, Dũng quay trở lại vị trí của tiểu đoàn. Anh gọi điện về trung đoàn báo cáo ông Thâu về tình hình trận địa.

    Chưa nói được hết mọi điều, Dũng dã nghe thấy ở phía trước súng và lựu đạn lại nổ dồn dập. Anh vội quay máy gọi Thìn. Tay quay nhẹ bẫng. Đường dây lại dứt mất rồi! Báu lập tức được tung đi. Tiếng súng, nhất là tiếng tiểu liên Thompson của địch rất gay gắt. Thoáng nghe có cả tiếng hò hét. Dũng lại như ngồi trên lửa. Một lát sau, Báu hộc tốc quay lại, báo: địch có một mũi vòng cánh trái, bất ngờ xuất hiện. Nơi đó hai khẩu trung liên của ta bị bọn địch hủy diệt chưa kịp thay thế. Địch đã tràn được vào năm sáu hố bom ngay sát trận địa ta. Hai bên bấy giờ chỉ còn có cách nhau vài chục mét. Bên này nói hơi to, bên kia đã nghe thấy.

     Dũng quay lại phía Bổng.

     Anh lại vét lựu đạn ở phía sau đưa lên cho Thìn.

     Lần này, Bổng vội vã đi luôn. Dũng nói với Báu:

     - Em lên báo cho anh Thìn: tình hình này, phải dùng lối bắn tỉa đã, không cho một tên nào ló đầu lên dược. Cố kìm chân chúng lại! Chờ tiểu đoàn tổ chức lại hỏa lực...

     Báu lại vọt lên phía trước. Dũng lại gọi điện về ông Thâu. Anh yêu cầu pháo cối của trung đoàn bắn cắt sau lưng địch, và pháo mặt trận bắn ngay vào những hố bom mà địch đang chiếm làm công sự để tấn công lên.

     - ... Thế nào, hả? - Tiếng ông Thâu vang lên - Anh xin pháo mặt trận bắn thẳng vào các hố bom hả?

     - Vâng.

     - Trời ơi, anh điên ư? Như anh nói, hai bên đã gần nhau đến như thế, pháo ta bắn thì sẽ trùm cả lên các anh.

     - Xin cứ bắn. Chúng tôi sẵn sàng chịu đựng mọi nguy hiểm.

     - Không được! Không được!

     - Đề nghị anh cứ hỏi lại pháo binh cho!

     Chỉ mấy phút sau, đã có trả lời: pháo cho biết có thể bắn trúng dãy hố bom. Tuy nhiên phải có một vật chuẩn cho đài quan sát của pháo nom rõ chỉ thị mục tiêu, và tính toán các phần tử bắn cho chính xác. Pháo không thể bắn tràn lan...

     - Vậy tôi lên xem lại có gì làm mục tiêu, làm vật chuẩn được không.

     - Cậu đi đi! Nhất định phải có một vật chuẩn đấy nhé!

     Dũng và Báu lại chạy lên phía trước.

     Các chiến sĩ đại đội 3 đang liên tục di chuyển vị trí để bắn tỉa. Đúng như yêu cầu của Dũng, chỗ này chợt dùng một phát súng trường, chỗ kia bỗng rẹt một tiểu liên. Cứ như thế, quả nhiên bọn dù vẫn chưa sao ngóc đầu khỏi các hố bom... Dũng đến bên Thìn, trong một đoạn hào đã được cấp tốc sửa lại. Anh nhìn lên chỉ thấy toàn một màu đất đỏ rực.

     Một vật chuẩn? Làm gì còn một vật chuẩn nào trên vùng đất bị tàn phá này? Chiếc cột đèn mọi ngày trước vẫn còn cong queo đó, nay đã biến mất, không còn một dấu vết nhỏ. Ngay cả đoạn còn lại của xác chiếc máy bay cũng vừa đổ sụp hoàn toàn, chỉ còn lại những thanh sắt tơi bời...

     Dũng đứng lặng. Đầu óc anh như nứt ra. Vật chuẩn! Lấy đâu ra? Tìm đâu ra bây giờ? Một vật chuẩn...

     Báu bỗng cầm tay anh lắc lắc khẽ:

     - Báo cáo anh, hay là ta... cắm một chiếc sào hoặc một thanh sắt lên rồi buộc vào mảnh dù đỏ vào đấy...

     - Cái gì? - Dũng mở to mắt, anh vô cùng ngạc nhiên, dường như nghe không rõ nữa. Báu rụt rè nhắc lại. Bấy giờ mới thật tin là mình đã không nghe nhầm, Dũng đập mạnh vào vai Báu reo lên:

     - Hay! Trời ơi, ai xui cho cậu lại nghĩ ra được ý nghĩ này? Đúng! Hay quá Báu ơi!

     Thìn cũng như ngớ ra rồi gật đầu:

     - Phải! Phải! Ta phải tạo ra vật chuẩn anh ạ.

     Một cây sào ở đây hoàn toàn không khó. Những thanh sắt máy bay kia, bom pháo địch hất vào tận trong trận địa của ta khá nhiều.

     Như vậy vật chuẩn có thể tạo được. Tuy nhiên, ai sẽ lên, dám lên cắm cái vật chuẩn ấy? Ai sẽ lên, dám lên trước các mũi súng của địch đã gần kề? Đó vẫn là vấn đề hóc búa nhất. Dũng và Thìn nhìn nhau. Báu lại đột ngột cất tiếng:

     - Em! Các anh để em lên cho!

     Trời ơi Báu! Dũng muốn kêu lên một tiếng đầy xúc động. Thìn thì lắc đầu:

     - Để tôi cử một chiến sĩ khác.

     Báu cứng cỏi đáp lại anh “mắt cá chày”:

     - Lính anh bây giờ nhiều tân binh. Cựu binh cũng chưa quen bom pháo bằng em. Chả gì em cũng đã chịu pháo Sông Đà, Nà Sản rồi. Cứ để em lên cho. Em lên được mà!

       Dũng chỉ còn biết siết chặt lấy bàn tay anh chiến sĩ liên lạc thân thiết, yêu quý của mình. Báu đã nói đúng, lúc này chỉ có Báu là người có thể đảm nhiệm việc này tốt nhất.

       Thế là mọi việc được quyết định, và triển khai ngay. Thìn cấp tốc tập trung các tay súng giỏi, cùng những tay chuyên ném lựu đạn để tạo thành một lưới lửa có thể trong một thời gian ngắn đè đầu bọn địch trong các hố bom, tạo thành một cái ô che cho Báu tiến lên. Trong khi đó, Báu đi nhặt các thanh sắt rồi dây lưng của mình và các đồng đội cột, nối lại thành một đoạn dài. Một chiến sĩ khác đi nhặt về một chiếc dù đỏ thắm. Dù địch không thiếu ở đây. Dù đỏ, dù trắng, dù hoa... rơi khắp sân bay, địch không sao thu về kịp.

       Một lúc sau, tuyến hỏa lực để yểm trợ đã dàn ra. Báu đã tạo ra một cây cờ dặc biệt. Báu ôm cây cờ đứng trước mặt Dũng và Thìn trong chiến hào, nghiêm trang nói:

       - Tôi, chiến sĩ Nguyễn Văn Báu, xin lên cắm lá cờ này. Chết thì thôi, sống nhất định tôi sẽ cắm bằng được!

       Dũng một lần nữa siết chặt tay Báu. Anh không nói được lời nào nữa. Nhưng ngước nhìn đôi mắt long lanh như có ngấn lệ của tiểu đoàn trưởng, Báu đã hiểu Dũng muốn nói với mình với tất cả những gì trân trọng và thiêng liêng nhất của lòng anh...

       Thìn lật đật bước lại. Anh ôm ghì lấy Báu. Rồi mặt vụt đỏ gắt, anh giơ cao nắm đấm hô đanh:

       - Bắn!

     Tuyến hỏa lực yểm trợ bắt đầu nhả đạn. Đến lượt Báu, ôm chiếc cột sắt có buộc mảnh vải dù đỏ, bắt đầu nhảy lên khỏi chiến hào.

     Dũng, Thìn và tất cả các chiến sĩ ở phía sau cùng nín thở nhìn theo. Trong khói đạn và bụi mù, Báu thoăn thoắt trườn lên như một con rắn mối. Nhưng bọn Pháp cũng đã kịp phản ứng, dù đang bị bắn ghìm đầu xuống những quả đạn Pa-tat phóng ra như búa bổ. Lựu đạn của chúng cũng tung ra tới tấp. Khói càng mù lên. Không trông thấy Báu đâu nữa. Thìn càng cuống lên, càng thét anh em bắn mạnh. Khói bỗng loãng ra. Lại trông thấy Báu với lá cờ đặc biệt. Nhưng, kìa sao Báu không trườn lên nữa? Các khẩu trung liên ở phía sau cùng rồ lên trút đạn. Khói và bụi. Bụi và khói. Báu lại biến mất. Nhưng rồi bỗng một chiến sĩ la to:

     - Ô, kia rồi! Kia rồi!

     Quả nhiên, lại thấy Báu. Anh đang tiếp tục lết mình trên mặt đất, nhích dần lên. Đạn địch lại xả ra chiu chiu. Đất chung quanh Báu sủi lên từng vệt dài. Anh lại như chết lịm, khói bụi lại một lần nữa lại trùm lấy người chiến sĩ bé nhỏ.

     - Chuẩn bị cho người lên thay, và đưa Báu về!

     Nhưng cũng đúng lúc ấy bỗng nghe thấy hai ba tiếng lựu đạn nổ như dính vào nhau, rồi trên nền khói bụi phía trước bỗng bùng lên một ngọn cờ đỏ rực.

     - Ôi, được rồi! Kia rồi! Kia rồi!

     - Báu! Báu đã cắm được cờ kia rồi!

       Tiếng các chiến sĩ khắp chiến hào, bên tả, hên hữu cùng như thét lên, reo lên vang dậy. Chỉ có Dũng không reo không hét; anh ra lệnh:

       - Tất cả lui lại phía sau hai mươi mét! cho pháo ta bắn! Mau!

       Và, thế là chỉ không đầy mười phút sau, trong lúc bọn Pháp ở trong các hố bom còn đang kinh ngạc chưa hiểu đối phương dựng lên một cây dù đỏ để làm gì và chúng bắn ra cũng chưa làm gãy đổ được thì pháo của mặt trận ta đã nã tới. Cũng trong lúc đó, như có một phép lạ không sao tin nổi, Báu lăn tròn và lao trở về được trận địa. Anh ngã nhào xuống trúng một tổ trung liên. Anh em cùng ôm chầm lấy anh. Một bên chân Báu đẫm máu.

       ... Pháo mặt trận chỉ dập có năm phút. Tiếng pháo vừa ngừng, đại đội trưởng Thìn đã ôm một cây tiểu liên, vươn mình dậy hét vang:

       - Xung phong... o... o... ong!

       Một loạt những chiếc mũ nan và những chiếc áo trấn thủ bạc phếch từ dưới các chiến hào cùng bay lên khỏi mặt đất. Lưỡi lê sáng lòe trên đầu súng...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #36 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2023, 10:06:26 am »

*


       Ngồi trong hầm của mình, De Castries cũng thấy dược sự ghê gớm của đợt oanh tạc ngoài sân bay với 12 chiếc khu trục cường kích cùng 4 chiếc B26 và hàng ngàn quả cối 120 ly của Mường Thanh. Căn hầm của ông ta chao đi chao lại như đưa võng. Tách cà phê do tên lính cần vụ đặt trên bàn sóng sánh trào cả ra ngoài. Nhưng De Castries không mừng. Ông ta biết dù có lấy được sân bay, thì cũng còn rất lâu mới có thể sửa chữa được đường băng đã bị cày xới đến như thế. Chỉ có thể giữ vững được diện tích thả dù mà thôi. Nhưng sau khi trận oanh tạc chấm dứt, chỉ khoảnh khắc sau ông ta đã nghe thấy, qua làn sóng đài, tiếng các viên sĩ quan chỉ huy các đại đội dù liên tiếp báo về cho Lisenfelt những tin thất thiệt và kêu gào chi viện. “... Chúng tôi đang bị đóng đinh trên đường băng, chưa sao lên được!...” -”... Biré đã bị thương nặng...” - “... Làm sao cố dập cho được những khẩu trung liên chó chết ở xác chiếc máy bay đi!...” - “... Pháo! Yêu cầu pháo bắn tiếp! Bắn mạnh nữa!...” - De Castries hiểu: tình hình đã rất xấu. Cho tới khi nghe thấy pháo cối của quân Việt Nam bắn rất dữ vào sân bay, ông ta không thể ngồi yên được nữa. Ông đứng dậy, cho gọi Bigeard. Một viên sĩ quan báo cáo: Bigeard đang ngủ. Trợn mắt, nhún vai, ông ta hỏi lại:

     - Ngủ? Sao lại ngủ vào lúc này? Dựng ông ta dậy!

     Như điên lên, ông ta gạt tung tách cà phê xuống đất. Nước đổ chan hòa trên mặt bàn.

     Một lúc sau mới thấy tiếng Bigeard làu bàu đáp lại trong máy. Cố nén cơn tức giận, De Castries nói, hình như đang thiếu một quả đấm quyết định.

         Bigeard mặt mũi tối sầm, bước ra khỏi hầm, nhảy lên chiếc xe Jeep cuối cùng của Điện Biên Phủ còn có thể chạy dược nhưng đã lỗ chỗ đầy vết dạn. Tên lái xe người da đen mở to cặp mắt đầy lo sợ nhìn Bigeard.

         - Ra H2! - Bigeard quát to.

         Không dám hỏi gì thêm, tên lái xe rạp mình xuống tay lái mở máy, vào số, rồi đạp mạnh ga. Chiếc xe lao vút đi như tên bắn. Càng tới gần sân bay, đạn bắn thẳng từ phía trước càng như mưa. Tên lái xe càng cúi rạp. Chiếc xe lồng lên trong bụi đỏ mù mù.

         Bigeard đã vào được cứ điểm H2, nơi Lisenfelt đặt sở chỉ huy phản kích. Anh ta đi thẳng tới hầm của Lisenfelt. Căn hầm ngột ngạt, đầy mùi thuốc súng, mùi mồ hôi người và cả mùi nước hoa và thuốc lá. Lisenfelt đang ngồi đó, ngay trên chiếc radio, mắt mở trừng trừng, mồm há ra thở, như con cá trên cạn.

         - Thế nào? Anh vẫn ở đây ư? - Bigeard xẵng giọng như quở trách.

         Nhưng Lisenfelt dã nhướng đôi lông mày chổi sể lên, và cũng gần như quát lại:

         - Phải ở đây thôi!

         Bigeard hiểu lúc này không thể nổi xung với Lisenfelt. Anh ta dịu giọng xuống:

         - Tình hình ra sao, thiếu tá?

     - Mất mẹ nó liên lạc với các đại đội rồi. Tôi không cần biết chúng nó đang làm gì nữa. Các ông đã ném chúng tôi một cách vô tội vạ vào một lò lửa mà chúng tôi chưa hề được biết mảy may, chưa chuẩn bị được một tí gì hết...

     - Lisenfelt, anh hãy bình tĩnh! Còn mấy thằng dù Việt Nam (ngụy) thế nào?

     - Tụi lợn ấy ngay từ đầu đã lạc lung tung trong các giao thông hào. Đến giờ tấn công vẫn chưa thấy chúng đâu. Mãi sau mới liên lạc được. Tôi cho chúng nó vòng sang trái yểm trợ cho e2 BEP ở chính diện. Nhưng chỉ một lúc sau chúng đã kêu ầm ĩ: có lực lượng quân Việt ở dọc bờ mương đánh rất mạnh. Chúng nó thương vong quá nhiều không sao tiến lên được...

     - Còn xe tăng?

     - Tụi khốn kiếp này cũng không hơn. Vừa ló đầu ra, chúng nó đã la lối: bị bắn chặn rất mạnh. Không có bộ binh, chúng nó không tiến lên độc lập.

     Bigeard, mặt càng tối tăm, quay lại chiếc radio. Nhưng chiếc radio hoàn toàn hỏng. Anh ta không nén được nữa, bật lên một tiếng chửi thề hết sức tục tĩu. Rồi, ngồi phịch xuống. Anh ta lắc đầu:

     - Thiếu tá, tình hình này có lẽ phải cho rút thỏi. Nếu không sẽ tiêu hết binh sĩ.

     - Tùy trung tá.

     - Vậy anh hãy thi hành đi! Cho người đi bắt liên lạc ngay với các đại đội và truyền lệnh, còn tôi, sẽ quay trở lại, qua điện đài sẽ yêu cầu Hà Nội lại cho một đợt máy bay lên chi viện, để bảo vệ cho các anh triệt thoái được an toàn.

        Lisenfelt chui ra khỏi hầm. Bigeard cũng bước ra theo, lòng nặng trĩu, nói với Lisenfelt vậy, nhưng thực ra Bigeard không tin là Hà Nội sẽ kịp tung máy bay lên chi viện. Chiều muộn mất rồi. Không quân đâu có những bộ binh bảo một cái là đi ngay được?

        Bigeard đã không nhầm. Hà Nội không thể cho máy bay lên tức khắc. Trong khi đó, các đơn vị dù và ngụy cùng xe tăng đã bắt đầu rút. Chúng rút trong sự rối loạn. Lính bò, lính chạy, tung tóe như kiến vỡ tổ trên nửa phía nam sân bay còn bằng phẳng. Và đó cũng là lúc các cỡ hỏa lực của chúng ta được thả sức bắn quét.

        Trên cao, trước khi chìm xuống những chỏm núi phía tây nam, mặt trời còn như cố nán lại, giương con mắt chột kinh hoàng nhìn xuống cánh đồng, cái cánh đồng trước kia mướt xanh như một giấc mơ nay đã trở thành cánh đồng địa ngục.


*


        Trời vừa tối dã có điện từ trung đoàn gọi Dũng sáng mai phải về ngay sở chỉ huy có việc khẩn.

        - Việc khẩn là việc gì?

       Dũng đã mệt rũ. Toàn thân anh như một cây ngô sau trận bão: xác xơ, úa héo, mềm oặt, không ăn nổi một miếng. Chỉ thấy khát. Đầu óc mụ mị, nhờ nhờ. Không còn nghĩ được việc gì xa nữa, mọi cảm giác vui, buồn, mừng, giận... dường như chẳng còn. Con người rơi vào trầm lặng, và như khô lạnh. Đêm qua, sau khi tổ chức, đôn đốc các đơn vị cấp tốc sửa sang lại hầm hố đã bị đánh phá trong ngày, đồng thời đào thêm trận địa tiền duyên cho vòng rộng thêm ra, rồi nối lại phía sau thành một tầng phòng ngự mới vào một ngách hầm, lăn ra ngủ được một giấc con. Giấc ngủ mê mệt. Đến sáng bạch, Thủy lay gọi mãi anh mới trỗi dậy được. Người đau như dần. Đầu óc vẫn chưa hết nhờ nhờ, mụ mị. Anh nuôi đã đem cơm ra. Ưu tiên ban chỉ huy một bi đông nước suối để rửa mặt và súc miệng. Dũng không ăn gì hết, chỉ ngửa cổ hợp một ngụm nước rồi nhổ ra, rồi nhảy lên mặt đất, vạch quần đái một bãi khá dài. Bấy giờ mới như tỉnh ra được một chút. Anh dặn dò công việc với Thủy, rồi quay trở lại trung đoàn. Lần này không có Báu. Báu được đưa về trạm phẫu thuật từ đêm. Lúc này mới càng thấy nhớ Báu da diết. Anh cảm thấy mình hết sức cô đơn và cả yếu đuối nữa vì thiếu Báu. Anh đi thất thểu, áo quần tơi tả. Máy bay dịch đã lên, rung chuyển trên bầu trời. Nhưng anh dường như đã hoàn toàn quên trận bom hộc máu ở cửa rừng cách đây hơn nửa tháng. Không thấy sợ. Cũng chẳng thấy khó chịu. Anh cứ bình thản đi. Chỉ những tầng cây xanh của rừng hiện ra trước mắt là làm cho anh bỗng như ngỡ ngàng, tưởng chừng đã lâu, lâu lắm rồi, đi đâu đấy nay mới trở về, mới nhìn lại thấy màu xanh này. Anh ngắm từng chùm lá bên đường, từng sợi dây leo quấn quýt trên những thân cây đã bị mảnh pháo, mảnh bom găm lỗ chỗ hoặc xé rách... Tâm hồn anh như một chiếc chảo gang nung đỏ đang nguội lại dần dần.

        Anh đã tới khu hầm của ông Thâu. Một anh chiến sĩ cho biết ông Thâu chạy di đâu đó, lát nữa mới về. Anh rẽ sang hầm ông Quý. Một dáng người cao cao với chiếc blouson Mỹ và khẩu côn trễ bên hông từ phía hầm ông Quý đi ra, vẻ rất hấp tấp. Dũng đã nhận ra: Hồng Đăng. Nhưng hôm nay mặt mũi Hồng Đăng không được hồng hào cường tráng như mọi khi. Anh xanh ra, cặp mắt trũng sâu, buồn bã. Hai người giáp mặt nhau. Hồng Đăng nhận ra Dũng. Anh có vẻ sững sờ. Đứng dừng lại, bắt tay Dũng, anh cất tiếng hỏi:

        - Tôi tưởng anh vẫn ở ngoài ấy?

        - Tôi được gọi về có việc. Anh khỏe chứ?

        - Cám ơn anh. Vẫn bình thường.

        Trên gương mặt Hồng Đăng càng như gì đó khác lạ. Hình như anh định hỏi, hoặc nói điều gì đó với Dũng nhưng lại thôi. Đôi mắt anh mấp máy mãi rồi anh lại hấp tấp đi tiếp. Dũng cũng cắm đầu bước thẳng, không nhìn lại. Với người này, Dũng đã hết oán ghét. Anh đã hoàn toàn là một người xa lạ, chí ít cũng chẳng có quan hệ tốt hoặc xấu, vui hoặc buồn nào với anh ta, Dũng hiểu con người đó vẫn luôn coi Dũng như một phần tử nguy hiểm đáng căm thù, ít ra cũng là kẻ đáng ghét.

      Dũng vừa bước vào căn hầm, ông Quý đã vui vẻ cất tiếng trước:

      - Chào chiến sĩ sân bay!

      Ông thân mật kéo anh ngồi xuống. Trên chiếc bàn nứa vẫn còn đó những phong bánh chocolat, bicscuit và cả cà phê bột đã pha. Dũng hiểu Hồng Đăng vừa ở đây đi ra. Ông Quý mời anh. Dũng từ chối. Anh chỉ thấy khát. Ông Quý đưa chai bia ra. Dũng nhận ngay. Chà, bao lâu nay mới lại nom thấy chai bia, cứ như người nguyên thủy mới được đưa về thành phố. Cầm cả chai anh tu một hơi liền hết sạch. Đưa cùi tay lên chùi bọt trên mép, anh hỏi vào công việc:

      - Báo cáo, tôi có nhiệm vụ gì gấp vậy?

      Ông Quý nhìn anh trang trọng:

      - Bộ chỉ huy mặt trận đánh giá khá cao trận sân bay của chúng ta và trung đoàn 3. Đồng chí Ngọc (Võ Nguyên Giáp) vừa có điện triệu tập trung đoàn trưởng trung đoàn 3, anh Thâu và cả cậu nữa ngay hôm nay lên báo cáo, để đồng chí Tổng chỉ huy Mặt trận nghe.

      Ông vừa nói vừa để ý xem phản ứng của Dũng. Nhưng gương mặt của Dũng vẫn bình thường, chỉ bắt đầu thoáng đỏ mặt lên vì bia. Ông Quý thầm nhủ: Hắn vẫn y như vậy. Vẫn rất kiêu, cho dù là kiêu ngầm... Tuy nhiên, như tất cả các nhà chính trị khác, ông không bao giờ bộc lộ ý nghĩ của mình một cách thiếu cân nhắc. Ông vẫn giữ thái độ vui vẻ, cởi mở. Ông hỏi vắn tắt về trận đánh trên các hố bom. Rồi ông nói cho Dũng biết: Báu sẽ được khen thưởng xứng đáng. Thìn sẽ được đề bạt lên tiểu đoàn phó cho Dũng. Tới lúc đó ông Quý mới thấy Dũng tỏ rất mừng. Mắt long lanh, anh hỏi lại xem đây mới là dự định hay đã có quyết định? Anh hoàn toàn đồng ý với quyết định ấy. Ông Quý vui vẻ, như tiện thể nói sang chuyện khác:

       - À này, còn cái việc... cậu đánh cậu Bổng ở trận địa thế nào thế? Anh em có xì xào. Bổng nó cũng có thư khiếu nại đấy.

       Gương mặt đang tươi tắn, vẻ tươi tắn rất hiếm thấy của Dũng, bỗng như đanh cứng lại. Đôi mắt anh nhìn thẳng ông Quý:

       - Tôi đánh nó thế còn là quá nhẹ.

       Ông Quý ngồi im. Dũng tiếp:

       -  Để rõ việc này hơn, tôi sẽ triệu tập tiểu đoàn ủy, rồi mời anh xuống nghe. Và nếu các đồng chí cho phép, tôi sẽ còn cho nó cái tát tai nữa.

       “Hắn lại nổi khùng rồi. Hỏng! Thái độ thế là không được. Nhưng, thôi khoan, mình cũng hơi vội. Còn phải tác chiến nhiều, không nên làm cho hắn bực bội...”. Ông Quý lại tươi cười, thân mật và dịu dàng:

       - Thôi, nói qua vậy thôi. Chuyện ấy ta sẽ rút kinh nghiệm sau. Mà thằng Bổng cũng dáng phê phán...

        Xem đồng hồ, có vẻ sốt ruột, ông Quý ngoái cổ ra bảo một chiến sĩ liên lạc chạy sang bên, xem ông Thâu đã về chưa. Ông lại quay về với Dũng:

        - Nhân tiện báo cho cậu vài tin vui vui: anh Hồng Đăng vừa ngồi đây xong. Anh ấy cho biết tối qua ta bắt được điện của tụi De Castries báo về Hà Nội là tiểu đoàn dù số 2 đã bị 150 tên, coi như quỵ liệt. Không còn lực lượng dự trữ nữa. Cogni ở Hà Nội cũng điện lên nhận định đây là thất bại nghiêm trọng nhất kể từ các trận chiến đấu bên khu đông... Còn đài Mỹ thì bình luận: Điện Biên Phủ từ sau trận sân bay này sẽ bắt đầu đi vào cơn hấp hối.

        Ông Quý vừa nói vừa cười, vui hể hả. Một người từ bên ngoài xồng xộc bước vào. Tham mưu phó Hà Giao. Nom thấy Dũng, Giao mỉm cười, bắt tay:

        - Chúc mừng chiến thắng nhé!

        Anh ta nói chúc mừng như mặt lạnh tanh và bàn tay như trơn tuột. Anh ta quay lại với ông Quý, có vẻ bực dọc:

        - Báo cáo anh, theo lệnh anh tôi phải cử liên lạc dẫn ông Hồng Đăng xuống trạm phẫu trung đoàn ngay, mặc dầu hết sạch cả người. Đang bao nhiêu là việc! Nhưng, báo cáo anh, té ra ông ta chẳng phải thăm thương binh gì hết. Một anh vừa ở trên quân y mặt trận cho biết: ông ta có cô vợ làm hộ lý trên đó, cái nhà cô xinh xinh ở phái đoàn phụ nữ ấy anh ạ. Không hiểu vì sao cô ta bỗng bỏ viện trốn đi đâu mất, không ai biết. Đang nhao cả lên. Ông Hồng Đăng thì sùng sục xuống trạm phẫu đại đoàn nay lại xuống trạm phẫu trung đoàn ta để tìm. Ông ấy muốn xuống trạm phẫu e ta tìm vợ đấy!

      Ông Quý ngẩn người. Nhưng Dũng còn bàng hoàng hơn. Anh như bị một cơn gió độc quất mạnh làm cho choáng váng.

      - ... Người thì bảo cô ta vất vả quá không chịu nổi, bỏ về hậu phương - Hà Giao tiếp - Người lại nói, theo các cô hộ lý, thì hình như có chuyện gì đó không vui giữa hai vợ chồng, nên cô ta tránh mặt không muốn gặp nữa...

      Lại một người nữa chạy vào báo cáo: ông Thâu đã về, mời Dũng cùng đi luôn: Ông Quý đứng dậy, siết chặt tay Dũng, nụ cười rạng rỡ. Ông không kịp nhận thấy vẻ khác thường trên mặt Dũng.

      - Vậy đi nhé! Lên đó liệu mà báo cáo với anh Ngọc. Anh ấy hay hỏi tỉ mỉ và cụ thể lắm đấy. Chúc mừng cậu!

      Dũng quay ra. Trong đầu óc anh lúc này không còn bất cứ một điều gì nữa ngoài những câu hỏi đang cháy bỏng: Nguyệt Lệ đi đâu? Vì sao em lại phải hành động như vậy? Em trốn ai? Trốn Hồng Đăng hay trốn anh? Nhưng Nguyệt Lệ ơi, thật ra em không cần phải làm như thế. Em đi đâu? Em đang trốn ở nơi đâu? Hoặc có thể em củng gặp một tai nạn bất ngờ nào đó mà không một ai biết rõ?...

      Đầu óc anh mỗi lúc một thêm như có bão nổi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #37 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2023, 10:10:39 am »

14


    Chỉ mấy ngày sau trận sân bay, đến lượt đồi A1 bị đánh chiếm. Khối bộc phá rất lớn nổ giữa ruột quả đồi như nát ấy đã được dùng làm tín hiệu chung cho đợt tổng công kích cuối cùng.

    Trận Điện Biên Phủ toàn thắng. Toàn bộ bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm địch cùng trên một nghìn sĩ quan, binh lính còn lại đầu hàng. Cờ trắng mọc khắp khu trung tâm, mảnh đất đẫm máu, cuối cùng Bộ chỉ huy Mặt trận của chúng ta đã trao cho trung đoàn 3 và trung đoàn 2 nhiệm vụ vào tiếp thu trận địa địch.

    Đã hai ngày trôi qua mà công việc vẫn ngập đầu. Dũng hết sức mệt mỏi. Tiểu đoàn của anh đã được phân công đảm trách mọi việc ở khu đề kháng Huygette, nơi mà tiểu đoàn cùng trung đoàn và cả đại đoàn cùng lăn lộn chiến đấu ròng rã 55 ngày đêm liên tục. Nào thu bắt tù binh, nào thu gom và cứu chữa thương binh địch, nào tập trung các loại vũ khí lớn nhỏ và đủ các thứ quân trang quân dụng cùng lương thực... Đó là chưa kể tới nhiệm vụ cấp tốc san sửa lại sân bay cho máy bay địch hạ cánh đón nhận thương binh của  chúng. Hội nghị Giơ-ne-vơ đang họp. Tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã long trọng tuyên bố: “Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho phép chính phủ Pháp được nhận thương binh tại Điện Biên Phủ...”.

        Sáng nay, trỗi dậy sau có mấy tiếng đồng hồ chợp mắt dưới một chiếc dù được dựng, căng lên làm mái che. Đây là sở chỉ huy tiểu đoàn. Dũng cho mời cán bộ lên hội ý triển khai công việc trong ngày. Dưới chiếc dù đỏ, mọi người ngồi quây quần chung quanh một chiếc bàn xếp lấy được của dịch, cùng hút thuốc, trò chuyện râm ran, tựa như một đám khách du lịch đang ngồi uống nước trong một chợ phiên kỳ lạ. Bốn chung quanh, đầy dù, dù đỏ, dù xanh, dù trắng, dù vàng... Hầu hết là dù của quân y. Hàng trăm bác sĩ của mặt trận cùng một lực lượng hộ lý, y tá hùng hậu đã được lệnh vào cứu chữa cho thương binh địch để rồi sẽ trao trả. Đúng là một chợ phiên kỳ lạ có một không hai trên một vùng đất mênh mông tàn phá. Tất cả các hầm hố đều đã bị bắn phá sụt lở hoặc san bằng. Dường như không nắp hầm nào còn nguyên vẹn. Ngay cả nóc hầm của De Castries cũng dã bung lên từng mảng. Súng đạn ngổn ngang. Súng trong công sự, súng đầy các chiến hào, súng rơi tung tóe trên khắp mặt đường ngang dọc. Những khẩu 105 ly, 155 ly cái đổ chổng càng, cái vỡ nòng như cuống rau muống chẻ... xe cộ cũng tơi bời. Chỗ này mấy chiếc camion bị đạn nằm gục ngay bên lề đường, chỗ kia một chiếc Jeep tan hết mõm chỉ còn cái khung sau nằm lật ngửa bên những ụ pháo, chỗ nọ một chiếc xe tăng cháy đen như một con voi đồ sộ chết gục cạnh một hàng rào dây thép gai... Quân trang cũng vô kể: Mũ sắt, áo quần, chăn màn, giầy tất... cùng đầy đủ giấy tờ như bươm bướm, tràn ngập khắp nơi. Bước đi một bước là đụng phải không một chiếc ba lô thì cũng một thùng đồ hộp, hoặc một xác lính... Sự bề bộn thật kinh khủng. Nhưng, đối với Dũng và các chiến sĩ, kinh khủng hơn hết là những hố chôn lính tập thể và khu hầm với mấy trăm thương binh nặng, nhẹ. Vừa bước xuống giao thông hào, chưa nói tới chui vào hầm của quân y địch đã muốn lộn mửa vì mùi hôi thối, tanh tưởi. Mùi máu, mùi các vết thương lên mủ thối rữa, mùi cứt đái... Viên Bác sĩ Grawin phụ trách khu quân y địch đã thường xuyên phải cho thắp hương để đỡ mùi uế tạp, nhưng cũng không khắc phục được. Cho tới khi quân ta vào, mùi hương vẫn còn phảng phất, hòa quyện với các mùi xú uế, càng làm cho khu quân y đúng là một địa ngục trần gian...

     Cho tới hôm nay việc thu gom thương binh tạm xong, đã chuyển hết bọn chúng vào khu trung tâm để cho các lực lượng quân y ta cứu chữa. Hôm nay, tiểu đoàn bắt đầu bàn tới việc tiếp tục thu gom vũ khí, lương thực địch mà những thứ này còn như núi, có lẽ phải hàng tuần mới có thể tạm vãn.

     Mở đầu cuộc hội ý, Dũng mỉm cười tuyên bố:

     - Mới cách đây có ít ngày chúng ta có nhiệm vụ phải kiên quyết bằng mọi giá đánh cắt được sân bay. Nhưng hôm nay, đảo ngược lại, chúng ta có nhiệm vụ phải cấp tốc san sửa lại nó để có thể nhanh chóng sử dụng được.

     Tất cả các cán bộ cùng vỗ tay ran. Dũng tiếp:

     - Phải cật lực! Cật lực đấy nhá!

     - Cật lực! Cật lực!

     Các cán bộ lại cùng hô vang. Không khí đầy hào hứng, Dũng chẳng cần phải nói nhiều, ai ai cũng hiểu công việc hôm nay đã khác hôm qua, với một ý nghĩa cao đẹp như thế nào.

     Chỉ trong chốc lát, cả tiểu đoàn đã dàn ra trên sân bay. Sau nhiều ngày mưa liên miên, mấy hôm nay nắng ráo. Trời như cũng chiều người. Cánh đồng chan hòa ánh nắng vàng tươi, lấp lánh. Dũng cùng đi với anh em. Ngắm nhìn những người lính cầm xẻng cuốc, giữa ban ngày, dưới nắng ấm, hì hục xúc, đào trên những lớp sóng đất hoặc dưới các hố bom đỏ rực, Dũng không khỏi nhớ tới những đêm đào trận địa vừa qua dưới mưa rơi, pháo sáng và pháo bầy, bom trũi. Cái lao động trong hòa bình khác với cái lao động trong chiến tranh biết bao, như mặt phải khác với mặt trái của một tấm huân chương. Dũng chỉ dẫn cho các đơn vị xong đi ra con mương bên sân bay, nơi cả tiểu đoàn đã mấy ngày đêm giành giật với địch. Anh ngồi bệt xuống những tảng đất lớn. Lại không khỏi nhớ tới Lanh, Niên, Noãn, Quýnh... và tất cả những chiến sỹ mà anh đã quen biết cũng như tất cả những tân binh bổ sung chiều hôm trước mới chỉ kịp nhận rõ mặt, chứ chưa thuộc được tên, tới đêm sau họ đã trở thành tử sĩ. Bây giờ tất cả chỉ còn có mặt đất tan nát, câm lặng. Sự im lặng thật nặng nề. Hồn thiêng có còn ở đây không? Anh em đang thấy gì trong những ngày chiến thắng này? Trước mắt Dũng như hiện ra từng khuôn mặt. Tất cả như đang đứng thành hàng dài, mình mẩy máu me... Họ đang hỏi anh: “Bây giờ anh và đồng đội đang làm gì và mai sau sẽ làm gì trên cánh đồng này, trên đất nước này?...”. Dũng đốt hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác. Miệng anh đắng chát...

     Thủy đã ra. Anh đã khỏi hẳn ù tai, con người mảnh mai tươi tắn ấy bây giờ lại như càng tươi tắn hơn. Thủy cho Dũng biết đoàn tù binh sắp bắt đầu rời Mường Thanh. Một sự ham thích tò mò nổi lên, Dũng nói với Thủy:

     - Vậy anh ở đây nhá! Tôi chạy vào xem một tí.

     Thủy sốt sắng:

     - Đi đi.

     Dũng chạy như bay vào khu trung tâm. Đoàn tù binh đang bắt đầu lên đường. Ôi chao, sao mà nhiều đến thế! Nhiều quá! Phải tới hàng nghìn. Thành hàng đôi, chúng kéo đi dài dặc, bụi mù. Đủ các sắc lính. Hầu hết là Âu Phi. Suốt tám năm chiến trận, cũng đã từng bắt được tù binh, nhưng quả thật chưa bao giờ Dũng dược chứng kiến một quang cảnh như thế này. Cả một đoàn quân lớn như thế kia mà lại là tù binh! Chúng tiếp tục kéo đi ngang qua trước mặt Dũng, bụi càng bốc cao mù mịt. Không nhìn rõ từng đứa nữa, chỉ còn thấy một hình ảnh như hoàn toàn giống nhau: Mặt mũi võ vàng, râu ria lởm chởm, mệt mỏi, kiệt quệ trong những bộ đồ trận loang lổ dù hoa hoặc vàng khè màu đất, nhàu nát và bẩn thỉu. Đó có lẽ cũng là hình ảnh của chủ nghĩa thực dân già cỗi bại trận.

     Một bàn tay nào bỗng đập mạnh vào vai Dũng. Anh quay lại: Hà Giao. Hôm nay Giao mặc một chiếc blouson Mỹ gần như mới nguyên, mang một chiếc dây lưng và một khẩu súng sáu của Mỹ. Thêm một đôi giày da cao cổ có ghệt cũng của Mỹ nốt 1.

     - Chào ông! Mình về xuôi đây! - Hà Giao vui vẻ nói, điếu thuốc ngậm lệch ở bên mép.

     Dũng nhìn Giao từ đầu tới chân, như chưa hết lạ, Hà Giao đã tiếp:

     - Mình được trên cho tham gia ban chỉ huy áp giải tù binh, đưa chúng về Thái Nguyên, Phú Thọ...

     À ra thế. Hà Giao chỉ còn thiếu tự giới thiệu thêm: Anh ta đã được dự kiến đưa lên làm tham mưu trưởng trung đoàn, thay cho anh tham mưu trưởng cũ sẽ lên đại đoàn nhận công tác mới.

     - Cậu có nhắn gì về dưới ấy không? - Hà Giao vừa hỏi vừa liếc về phía một chiếc Jeep mới được sửa lại, đang đỗ bên đường chờ Giao. Trên xe có hai cán bộ đang ngồi ở băng sau.

    Một người lạ mặt, còn một người là Bổng. Anh ta đã được trưng dụng lên ban chỉ huy tiếp quản làm trợ lý. Thì ra bây giờ anh ta cũng sắp về xuôi với Hà Giao. Trên xe, chất đầy những két bia rượu và cả những hòm đồ hộp. Bổng quay mặt đi, vờ như không thấy Dũng.

     - Mà này, mình báo cho ông biết một chuyện...

     Dũng không khỏi chăm chú:

     - Gì vậy?

     Hà Giao càng hạ thấp giọng hơn và cũng như càng thân mật hơn:

     - Mình báo cho ông biết để mà cảnh giác...

     - Nhưng mà sao?

     Hà Giao gần như ghé hẳn miệng vào tai Dũng:

     - Mình vừa được nghe người ta nói là tay Hồng Đăng...

     - Hồng Đăng sao?

     - Tay ấy đang nói là ông quyến rũ vợ tay ấy và tổ chức cho cô ta đi trốn.

     Như có một loạt đạn bắn thẳng vào tai mình, đầu óc Dũng vừa choáng đi vừa như bật bốc lửa. Nhưng anh đã kịp kìm mình, để hỏi lại:

     - Nhưng sao có chuyện ấy?

     - Nào mình có biết! Chỉ nghe người ta nói vậy.

     Rồi có vẻ như đầy cảm thông hoặc độ lượng, Hà Giao lắc đầu:

     - Nhưng mình không tin. Vô lý! Phải không ông? Nhưng mà thôi, nói để biết thế, còn vứt cha nó cái chuyện vớ vẩn ấy đi! Bận tâm làm quái gì! Mình đi đây. Hẹn gặp lại ở Thái Nguyên nhé! Sẽ có những “chầu” túy lúy để “báo thù” nhũng ngày vừa qua đấy! Chào!

     Nói xong Hà Giao chạy ra xe, nhảy phóc lên, vắt chân, hất hàm với anh chiến sĩ lái:

     - Tiến!

     Chiếc xe vụt đi, để lại một đám bụi mù. Dũng vẫn đứng đấy như hóa đá. Câu chuyện Hà Giao vừa cho biết có thể là bịa đặt, nhưng có thể là có. Nhưng cơn điên giận đã qua đi khá mau. Anh đã hoàn toàn trở lại bình tĩnh. Lại chỉ thấy thương Nguyệt Lệ. Nguyệt Lệ, em đang ở đâu? Sao em lại hành động như thế? Em còn sống hay không? Cầu mong sao em đừng gặp tai nạn....

     Ăn cơm chiều xong, toàn tiểu đoàn chuẩn bị đi xem phim. Đội chiếu phim của Bộ tối nay sẽ chiếu một phim Liên Xô: “Công phá Bá Linh”. Lính hớn hở, nao nức như trẻ em sắp được đi xem hội. Giữa lúc đó, Thủy từ trên trung đoàn trở về, đưa cho Dũng một tấm sơ đồ khái lược có vẽ hai vạch chì đỏ từ khu trung tâm tỏa rộng ra phía Him Lam, bắt vào đường Tuần Giáo - Điện Biên.

     - Lệnh: tiểu đoàn ta phải mở thêm hai con đường này, để quân xa của ta vận chuyển các thứ ra được nhanh chóng. Chỉ có một con đường cũ của tụi Pháp, chậm quá - Thủy nói.

    Dũng đỡ lấy tấm sơ đồ, xem xong ngẩng lên:

    - Chỉ có thế này thôi sao?

    Thủy có vẻ không hiểu Dũng định hỏi gì. Dũng tiếp:

    - Chỉ có trao nhiệm vụ mà không cho ta một cái gì khác ư? Nhất là bản đồ các bãi mìn. Sau nữa là công binh kỹ thuật tăng cường.

    Bấy giờ Thủy mới vỡ nhẽ. Anh lắc đầu:

    - Không, thấy chỉ giao có thế.

    - Anh có đồng ý với tôi cánh đồng hiện còn đầy mìn không? Chúng ta lại là bộ binh. Nếu không có phương tiện, bản đồ, thì sẽ phải rất lâu đã đành, mà sẽ có thương vong nữa.

    Thủy ngẩn người. Dũng quay máy lên trung đoàn. Ông Thâu trực tiếp nói chuyện với anh.

    - Báo cáo, tôi đã nhận được nhiệm vụ. Chúng tôi làm sân bay vẫn chưa xong. Anh em rất vất vả. Nhưng cũng không sao. Lính mà! Tuy vậy chúng tôi yêu cầu trung đoàn cho chúng tôi bản đồ bãi mìn của địch....

    - Làm gì có!

    - Trời, tôi tưởng các anh phải bắt tụi sĩ quan nộp ngay cái ấy rồi chứ?

    - Có hỏi. Nhưng tài liệu đã mất sạch vì đạn pháo của ta. Chúng nó không một đứa nào nhớ. Chúng nó xin chịu bắn chết chứ không sao nhớ nổi.

    Dũng cắn môi suy nghĩ, rồi lại nói:

    - Vậy xin các anh điều cho một chiếc xe tăng còn chạy được xuống chỗ chúng tôi. Phải phá mở các bãi mìn bằng cách ấy mới nhanh và an toàn được.

    - Đúng là còn một chiếc xe tăng chạy được. Nhưng đã có kế hoạch ngày mai phải phục vụ quay phim và chụp ảnh.

    - Tôi đề nghị hoãn việc ấy lại đã.

    - Không được đâu, đã bảo là có kế hoạch rồi.

    - Báo cáo, kế hoạch cũng có thể thay đổi chứ!

    - Đã bảo không được là không được.

    Giọng Dũng bỗng rung lên:

    - Hoãn một, hai buổi quay phim, tôi nghĩ sẽ không chết ai. Nhưng không hoãn, không có xe tăng, thì lính sẽ chết.

    - Anh nói cái gì vậy?

    - Tôi nói là lính sẽ chết thêm. Tôi không muốn lính tôi chết thêm nữa.

    - Anh có chấp hành mệnh lệnh hay không đấy? - Ông Thâu như quát lên.

    Dũng vẫn không nao núng:

    - Chúng tôi chấp hành mệnh lệnh, nhưng chúng tôi cũng được phép yêu cầu cấp trên một số điều tối cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.

    Thủy lắng nghe cuộc đối thoại dần dần trở thành tranh cãi gay gắt mà thấy ớn lạnh. Anh không nén được tiếng thở dài. Anh đã quá hiểu: như một đôi vợ chồng xung khắc, giữa hai con người này khó có thể chấm dứt hoàn toàn được những cuộc va chạm như thế.

    Nhưng rồi Dũng bỏ ống nghe xuống.

    - Thế nào? Ý kiến cuối cùng? - Thủy hỏi.

    - Ông ấy đã chịu nhận là sẽ báo cáo, thỉnh thị lại cấp trên, sáng mai sẽ trả lời.

    Thủy cười nhẹ nhõm:

    - Thôi được, vậy ta chờ một tí. Bây giờ đi xem phim đi anh.

    Dũng lắc đầu. Anh mệt, không muốn đi. Rủ mãi không được, Thủy đành đưa tiểu đoàn đi.




----------------------------------------------------------------
1. Hồi đó quân Pháp ở Việt Nam dùng hầu hết vũ khí và quân trang do Mỹ viện trợ.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #38 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2023, 10:12:17 am »

    Chỉ còn mình Dũng ở lại lều dù. Trời cũng đã tối. Ánh đèn điện của khu chiếu bóng và ánh các đèn măng sông ở các dù quân y sáng trưng từ xa xa hắt tới. Lại nhớ đến pháo sáng đèn dù... Đầu óc anh vẫn luôn bị ám ảnh, ám ảnh đến mức như khắc vào, không sao xóa đi được hình ảnh của chiến trận. Tháo bỏ dây lưng và bao súng, cuốn lại, đặt lên chiếc giường khung thu được của địch, rồi tụt đôi giày vải đã gần rách mướp, anh từ từ ngả lưng xuống, đầu gối lên bao súng. Anh kéo mảnh vải dù hoa thường ngày quấn ngang cổ, hoặc trùm sau lưng thay lá ngụy trang, đắp ngang bụng cho đỡ lạnh. Anh mệt mỏi thực sự. Chỉ nằm một lúc, anh đã thiếp đi trong một giấc ngủ mê mệt đầy mộng mị mà hẩu hết lại chỉ thấy những xác chết, và máu me...

    Chợt cảm thấy có gì buồn buồn trên mặt, anh choàng tỉnh dậy, vồ vội lấy khẩu súng. Nhưng anh bỗng sững người. Ngồi ở bên mép chiếc giường khung là một cô gái tóc xõa trên vai. Ánh đèn từ xa xa hắt lại, nom rõ một đôi mắt đen lung linh, sâu thẳm.

     - Ôi, Nguyệt Lệ!

     Không đáp lại tiếng kêu ngạc nhiên và hốt hoảng của Dũng, Nguyệt Lệ sà tới, vươn đôi cánh tay tròn, ấm áp ôm lấy cổ Dũng, rồi đặt lên mặt, lên trán, lên môi anh những nụ hôn như mưa.

     Lúng túng mãi Dũng mới gỡ ra được. Anh ngồi dậy. Toàn thân và đầu óc anh vẫn còn bồng bềnh như một con tàu say.

     - Nguyệt Lệ sao em lại ở đây?

     Ánh đèn xa vẫn chiếu lại. Một hàm răng đều tăm tắp, trắng như ngà hé ra:

     - Sao anh lại hỏi vậy? Em đến với anh thế là đủ.

     - Nguyệt Lệ, người ta bảo rằng em đã bỏ viện....

     - Vâng, em đã bỏ đi.

     - Vì sao vậy?

     - Thì ra anh vẫn chưa hiểu gì ư? Cũng thật đáng buồn, anh vẫn không thèm hỏi gì dù chỉ một chi tiết nhỏ nhất về em từ khi anh còn nằm điều trị ở viện. Nhưng thôi, không nhắc lại nữa. Rồi anh có dịp hiểu.

     - Em bỏ đấy rồi đi đâu?

     Nụ cười lại sáng ngời:

    - Em tìm đến một kho vũ khí. Ở đó có một vị chỉ huy là dân Tuyên Quang, có biết em. May quá. Em được nhận ở đó, chuyên lau đạn để gửi ra cho các đơn vị...

    - Và bây giờ?

    - Điện Biên được giải phóng, em tìm về Cục Chính trị Mặt trận. Các anh ấy cho em và hai chị phụ nữ nữa vào đây để làm công tác tiếp nhận... giới đàn bà. Anh buồn cười ư? Nhưng mà có đấy! Một cô y tá: Geveviève De Gala, một số vợ lính Mẹo, một số gái điếm người Việt và Bắc Phi... Sáng nay, cô Geveviève De Gala đã làm đơn gửi qua tụi em lên Bác Hồ xin ân xá. Tin buổi trưa, Bác đã chấp nhận ngày mai hoặc ngày kia nếu sân bay xong, cô ấy sẽ là một trong những người được phóng thích đầu tiên...

    Dũng ngắt lời Nguyệt Lệ, dù anh nhận thấy cô rất vui, gương mặt hồng hào, tươi tắn như chưa từng thấy:

    - Thôi được, công việc hãy gác đó. Bây giờ muốn hỏi em: bao giờ sẽ gặp lại anh Hồng Đăng? Em không thể xử sự như vậy mãi, cho dù là chuyện gì đi chăng nữa đã xảy ra. Em là vợ anh ấy. Mà là em chắc hiểu: những người vợ Việt Nam...

    Có cái gì như vụt tối sầm lại trên gương mặt cô:

    - Không! Em không còn là vợ anh ấy nữa.

    - Trời! Em nói gì lạ vậy?

    - Thật vậy. Pháp luật cũng không cản được em nữa. Mà em tin là pháp luật rồi cũng sẽ ủng hộ em..

    Dũng nhìn thẳng vào mắt Lệ:

    - Em khác trước nhiều quá. Không thể hiểu nổi nữa...

        - Em biết đây chỉ là một cách nói của anh. Em không có gì thay đổi cả. Em chỉ là người không còn cam chịu... nhưng hiểu nghĩa sự đổi thay là như thế, thì đúng như vậy...

        - Nguyệt Lệ, liệu anh có thể tin đây là những điều lớn lao, nghiêm chỉnh đã được suy ngẫm thật đầy đủ?...

        - Anh hãy tin đi, anh yêu. Anh hãy tin đi! Cuộc đời đã có nhiều thử thách, kể cả khắt khe với anh đã làm cho lòng anh đầy những hoài nghi và chán nản. Nhưng anh hãy tin đi. Vẫn còn ánh sáng trong cuộc sống này, vẫn còn con người để anh tin, yêu, và cả tha thứ. Anh hãy tin, hãy tin em...

        Hai cánh tay của cô lại ôm vòng lấy cổ anh, gương mặt cô lại xáp vào mặt anh. Dũng bỗng cảm thấy má mình ướt đẫm. Cô đang khóc. Nước mắt cô trào ra, nóng hổi. Anh hiểu đây có lẽ đây không còn là những giọt nước mắt cay đắng.

        - Anh yêu! Em là của anh! Đấy là định mệnh và cũng là chân lý. Em là của anh, của anh. Cho dù Hồng Đăng không một chút xấu xa, em vẫn không còn của anh ấy nữa. Vì cả cuộc đời em chỉ có tình yêu duy nhất, tình yêu mà em từng lầm tưởng là đã bị chôn vùi cùng anh trong lửa đạn...

*


        Chiều hôm sau, Dũng ở lại lều một mình. Anh đang lau lại khẩu súng ngắn. Nguyệt Lệ lại bỗng xuất hiện. Dường như vừa chạy một đoạn đường dài, cô thở hổn hển mặt đẫm mồ hôi...

        Dũng đứng bật, ngạc nhiên:

        - Nguyệt Lệ! Em đi đâu thế này?

    - Em đang muốn tránh mặt ông ta.

    - Ai? Anh Hồng Đăng ư?

    - Vâng. Ông ta đã nom thấy em. Ông ta đang đi tìm...

    Dũng lắc đầu.

    - Trời ơi, sao lại như vậy? Sao lại như vậy? Sao em lại như vậy? Em nên...

    - Không, em không hề sợ gặp ông ta. Em chỉ chán ngấy. Em không muốn gặp lại con người ấy ở đây. Em sẽ chỉ gặp lại ông ấy trước mặt những nhà chức trách lo việc ly hôn. Và khi ấy em sẽ nói tất cả...

    - Ông ấy đang tìm?

    - Vâng! Nhưng nói rõ hơn ông ấy vừa đi tìm cô Kim Oanh, vừa đi tìm em.

    - Em nói sao anh không hiểu?

    - Mấy chị cùng đi với em đã gặp ông ta đi tìm Kim Oanh, sau đó lại đi tìm em. Các chị ấy đã gặp ông ta và Kim Oanh trong một căn hầm gần khu quân y...

    Dũng lại lắc đầu. Anh càng không thể hiểu ra sao nữa.

    - Ông ta sẽ có thể qua đây. Em phải lánh đi đã. Anh hãy đợi em.

    Nói đoạn, cô thoắt chạy ra phía sau lều, nơi có những hòm đồ, hòm đạn vứt lổng chổng khá cao, đằng sau đó là một căn hầm nhỏ của địch sụt lở đã bung hết nóc.

       Cũng vừa lúc đó, đúng như Nguyệt Lệ đã nói, Hồng Đăng từ phía khu trung tâm chạy lại. Nom thấy Dũng, anh hết sức kinh ngạc. Sững lại trong mấy phút, anh mới tiến lại được, mặt đỏ văng, nước bọt trắng hai bên mép. Dũng sẵn sàng chờ đợi một cơn bão lốc trút xuống. Nhưng, không ngờ, Hồng Đăng lại đưa tay ra bắt tay anh và cất tiếng chào khá tử tế:

       - Anh ở đây ư? Anh khỏe chứ anh Dũng?

       Dũng nhún mày khẽ gật đầu. Anh chưa thật hiểu con người này đang định làm gì hoặc giở ngón gì đây? Hồng Đăng rụt rè cất tiếng hỏi:

       - Xin lỗi, anh có trông thấy... người đàn bà nào chạy qua đây?

       Dũng lạnh lùng hỏi lại:

       - Anh định hỏi thế nào?

       Gương mặt Hồng Đăng trở nên ảo não. Trong ánh mắt của anh ta, Dũng không thể nghi ngờ đó là một sự giả dối.

       - Anh Dũng ạ, đó là vợ tôi. Tôi đang tìm cô ấy, thấy đi về phía này. Anh có thấy, làm ơn chỉ giúp.

       Rồi như chỉ còn thiếu quỳ xuống, Hồng Đăng tiếp tục hổn hển:

       - Anh có thấy, làm ơn chỉ giúp. Tôi thành thật van anh...

       Dũng sững sờ. Anh hoàn toàn không ngờ con người đầy kiêu hãnh bây giờ lại thảm hại đến như thế. Anh ta đã như hoàn toàn gục ngã, hoặc đầu hàng. Nhưng thái độ ấy không hề làm cho Dũng cảm thấy kiêu hãnh, cũng không cả ái ngại. Anh chỉ thấy ngạc nhiên. Anh bước ra khỏi lều dù. Không nói gì, cũng chẳng cần hỏi gì thêm, anh giơ tay chỉ về phía những hòm đồ, hòm đạn lổng chổng... Ngón tay anh như tê buốt. Toàn thân anh củng thoắt như tê buốt. Phải chi anh ta nổi xung, tuôn ra những lời thô lỗ, vô lễ, thì có lẽ anh đã xử sự khác, và giây phút này anh đã không đau đớn đến như thế. Nhưng thôi, cũng không sao. Dũng vốn luôn luôn muốn mọi việc trên đời phải sòng phẳng. Anh chịu đau để cho anh ta một cơ hội cuối cùng thử đem hết sức mình níu kéo lại những gì mà anh ta đã mất. Và cũng dành cho cả Nguyệt Lệ một cơ hội, có lẽ cũng cuối cùng, kiểm tra lại chính mình để xem rồi có đứng vững hay không đứng vững, một khi nàng đã muốn đứng dậy...

     Anh đi thẳng, không ngoảnh lại. Trên cao, trời Điện Biên đang trong xanh vời vợi. Một vài cụm mây ở các đỉnh núi xa trắng ngần, cao quý.



HẾT
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #39 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2024, 02:01:07 pm »

Nhà văn Hồ Phương qua đời


HÀ NỘI Nhà văn - thiếu tướng Hồ Phương, tác giả truyện ngắn "Cỏ non" đi vào sách giáo khoa, qua đời ở tuổi 94.

Gia đình cho biết ông qua đời sáng 2/1 tại nhà riêng. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam - viết trên trang cá nhân: "Khi nghe họa sĩ Nguyễn Thu Thủy, cháu của nhà văn, thông báo tin buồn, tự nhiên trong tôi hiện lên một vùng cỏ non mênh mông. Có lẽ, bởi tác phẩm đầu tiên của ông đã hằn sâu trong ký ức tôi là tác phẩm Cỏ non được trích trong sách giáo khoa hồi tôi còn đi học. Với tôi, ông không bay về trời mà vẫn ở lại mặt đất trong màu cỏ xanh mãi tận chân trời ấy. Xin cúi đầu tiễn biệt ông: Người lính Hồ Phương, nhà văn Hồ Phương".




Nhà văn Hồ Phương. Ảnh: Thông Tấn Xã Việt Nam


Nhà văn Hồ Phương tên khai sinh là Nguyễn Thế Xương, là một trong những nhà văn có quân hàm tướng hiếm hoi ở Việt Nam. Sinh tại thị xã Hà Đông (nay là quận Hà Đông, Hà Nội), năm 16 tuổi, Hồ Phương đứng trong hàng ngũ những người tự vệ có mặt trên các chiến lũy ở Hà Nội để đánh giặc Pháp. Ông là một trong những chính trị viên xuất sắc thuộc Đại đoàn 308 trong chống Pháp.

Hồ Phương bắt đầu viết truyện ngắn đầu tay về bộ đội từ khi mới 17 tuổi. Năm 1949, ông phụ trách một trong những tờ báo đầu tiên của quân đội là báo Quân Tiên phong của Đại đoàn 308.

Ông nổi tiếng sớm với tác phẩm Cỏ non - được đưa vào sách giáo khoa phổ thông. Truyện ngắn gây xúc động khi xây dựng nhân vật Nhẫn - anh chăn bò với hình ảnh giản dị, giàu tình cảm. Hồ Phương từng cho biết lấy cảm hứng viết tác phẩm khi đi công tác ngang qua một cánh đồng ngang, chứng kiến một anh bộ đội ra khẩu lệnh tập hợp đàn bò như những người bạn thân thiết. Qua vài lần bắt chuyện, ông và người đó thành bạn của nhau.

"Làm bạn với anh bộ đội chăn bò đó, tôi mới thấy hết được giá trị con người và công việc mà những người như anh ở đâu đó trên đất nước mình ngày đó là như thế nào. Đó có thể là những con người rất nghèo khổ, vất vả nhưng tiềm ẩn trong con người họ là sự giàu có về lòng yêu nước, tận tâm với công việc mình đang làm", ông từng nói.

Các tác phẩm khác - như Thư nhà - ông viết năm 1948, đi vào ký ức nhiều thế hệ độc giả. Qua trang sách của ông, hơi thở cuộc sống toát lên nét hào hùng với tiểu thuyết Những tiếng súng đầu tiên (1955), Xóm mới (tập truyện ngắn, 1963), Chúng tôi ở Cồn Cỏ (ký sự dài, 1966), Khi có một mặt trời (truyện ký 1972).

Năm 1954, Hồ Phương được điều về Tổng cục Chính trị với nhiệm vụ được giao là viết văn và làm Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông được trao các giải thưởng văn học của báo Văn nghệ (năm 1958, truyện ngắn Cỏ non), Bộ Quốc phòng (năm 1994, tiểu thuyết Cánh đồng phía Tây), Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (năm 2003, tiểu thuyết Ngàn dâu), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam - Bộ công an với tác phẩm Yêu tinh (2001). Ông được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho các tác phẩm Ngàn dâu, Những cánh rừng lá đỏ.

Mai Nhật


Nguồn: https://vnexpress.net/nha-van-ho-phuong-qua-doi-4696460.html
Logged
Trang: « 1 2 3 4   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM