Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:40:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử liên Trung đoàn 301-310-1945-1950  (Đọc 5992 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2019, 08:09:07 pm »

Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2007
Số hoá: ptlinh, quansuvn


Chỉ đạo nội dung:
- ĐẢNG ỦY - BỘ TƯ LỆNH QUÂN KHU 7
- TỈNH ỦY TỈNH BÌNH DƯƠNG
- TỈNH ỦY TỈNH BÌNH PHƯỚC
- TỈNH ỦY TỈNH ĐỒNG NAI

Tổ chức thực hiện:
   BAN LIÊN LẠC CỰU CHIẾN BINH LIÊN TRUNG ĐOÀN 301-310

Chủ biên:
   Đại tá TS. HỒ SƠN ĐÀI

Biên soạn:
- ĐOÀN TẤN DŨNG (Chương mở đầu)
- HỒ THỊ NAM (Chương một, A)
- ThS. TRẦN QUANG TOẠI (Chương một, B)
- NGUYỄN THANH DANH (Chương hai, A)
- HUỲNH TẤN BỬU (Chương hai, B)
- Đại tá TRẦN PHẤN CHẤN (Chương ba)
- Đại tá TS. HỒ SƠN ĐÀI (Kết luận)
- Thượng tá NGUYỄN VĂN HÙNG (Phụ lục)

Thư ký đề tài:
   NGUYỄN THỊ MINH TÂM

« Sửa lần cuối: 20 Tháng Sáu, 2020, 09:01:46 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #1 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2019, 08:11:29 pm »

LỜI GIỚI THIỆU


Liên Trung đoàn 301-310, trước đó là Chi đội 1, Chi đội 10, Trung đoàn 301, Trung đoàn 310 là đơn vị vũ trang tập trung của Khu 7 trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Hoạt động trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, thường xuyên trên địa bàn hai tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, được sự đùm bọc nuôi dưỡng của nhân dân địa phương, Liên Trung đoàn đã vừa xây dựng vừa chiến đấu, lập được nhiều thành tích xuất sắc, đặc biệt trên mặt trận đánh giao thông, chiến dấu chống càn bảo vệ căn cứ địa, xây dựng phong trào du kích chiến tranh. Hoạt động của Liên Trung đoàn đã góp phần xứng đáng cùng quân và dân Nam Bộ, quân và dân cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược; làm nên những sự kiện lịch sử và địa danh huyền thoại như chiến thắng Bến Ông Khương, Đồng Xoài, La Ngà, Bến Cát, rồi chiến khu Bình Đa, chiến khu Thuận An Hòa, chiến khu Long Nguyên, chiến khu Đ...


Thực hiện chỉ thị của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương về việc tổng kết biên soạn lịch sử các đơn vị vũ trang cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống xâm lược, trong nhiều năm qua, các cơ quan nghiệp vụ đã nỗ lực sưu tầm tư liệu biên soạn lịch sử các đơn vị vũ trang, kể cả những đơn vị nay không còn tổ chức phiên hiệu cũ. Dưới sự chỉ đạo của Đàng ủy Quân khu 7, Tỉnh ủy các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Ban liên lạc cựu chiến binh Liên Trung đoàn 301-310 đã phối hợp với Phòng Khoa học, công nghệ và môi trường Quân khu 7, Phòng Nghiên cứu lịch sử Đảng các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước biên soạn cuốn “Lịch sử Liên Trung đoàn 301-310 (1945-1950)’’.


Tái hiện lại một cách hệ thống và tương đối đầy đủ quá trình xây dựng, chiến đấu và công tác của Liên Trung đoàn 301-310, cuốn sách nhằm tôn vinh công lao to lớn của toàn thể cán bộ, chiến sĩ Liên Trung đoàn cùng vai trò đặc biệt quan trọng của nhân dân miền Đông Nam Bộ, trực tiếp là nhân dân hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa cũ trong giai đoạn lịch sử hết sức khó khăn từ năm 1945 đến 1950.


Mặc dù Ban biên soạn đã hết sức cố gắng, nhưng do tư liệu (cả tư liệu gốc và tư liệu trí nhớ) còn lại không nhiều, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi điểm này điểm khác cần phải bổ sung chỉnh sửa thêm. Mặc dù vậy, đây là một công trình khoa học được thực hiện công phu, nghiêm túc, phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu giáo dục lịch sử truyền thống và cung cắp nhiều bài học kinh nghiệm quí cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay!


Với ý nghĩa ấy, tôi trân trọng giới thiệu cuốn sách “Lịch sử Liên Trung đoàn 301-310 (1945-1950)” cùng toàn thể bạn đọc.


Thành phố Hồ Chí Minh, 9-2007
Thiếu tướng Nguyễn Thành Cung
Ủy viên Trung ương Đảng,
Chính ủy Quân khu 7
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #2 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2019, 08:14:42 pm »

Chương mở đầu
CHIẾN TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA LIÊN TRUNG ĐOÀN 301 - 310


Liên Trung đoàn 301-310, trước đó là Chi đội 1, Chi đội 10, rồi Trung đoàn 301, Trung đoàn 310 hoạt động chiến đấu và công tác trên khắp chiến trường miền Đông Nam Bộ, nhưng chủ yếu ở địa bàn tỉnh Biên Hòa và tỉnh Thủ Dầu Một.


Biên Hòa - Thủ Dầu Một là hai tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ. Miền Đông Nam Bộ là cụm danh từ chỉ vùng đất phía Đông của Nam Bộ, ở vào vị trí chuyển tiếp giữa cao nguyên miền Nam với đồng bằng sông Cửu Long, lưng dựa vào dải Trường Sơn và vùng rừng núi Nam Đông Dương, mặt hướng xuông đồng bằng và biển Đông. Miền Đông Nam Bộ gồm có Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh (theo sự phân chia địa lý hành chính năm 1945).


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), miền Đông Nam Bộ là chiến trường trọng điểm của Nam Bộ, được tổ chức thành hai khu: Khu 7 và Khu Sài Gòn - Chợ Lớn; từ năm 1951 gồm Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn và Phân liên khu miền Đông..


1. Tỉnh Biên Hòa

Tỉnh Biên Hòa ở vào vùng đất nối liền giữa Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên. Địa danh này đã nhiều lần thay đổi trong tiến trình lịch sử với các tên gọi: Trấn Biên (1698), Trấn Biên Hòa (1808), tỉnh Biên Hòa (1832). Sách Gia Định thành thông chí, tập Trung ghi “Năm 1698, Linh lược xứ Đàng Trong Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đặt một chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị”.


Tỉnh Biên Hoà có lịch sử hình thành trên 300 năm1 (Tính từ năm 1698 khi Lê Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh và kinh lược xứ Đàng Trong, lập phủ Gia Định gồm hai huyện Phước Long và Tân Bình). Đến sau cách mạng tháng Tám 1945, địa bàn tỉnh Biên Hoà rất rộng lớn với diện tích trên 11.000 ki-lô-mét vuông bao gồm toàn bộ tỉnh Đồng Nai hiện nay, toàn bộ tỉnh Bình Phước, huyện Tân Uyên, Dĩ An tỉnh Bình Dương, quận Thủ Đức - Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), tiếp giáp các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Bà Rịa (nay là tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu), Lâm Đồng, thành phố Sài Gòn; dân số trên 200.000 người bao gồm nhiều dân tộc: Kinh, Hoa, Ch’ro, Mạ, S’tiêng..., trong đó người dân tộc Ch’ro, Mạ, S’tiêng là những cư dân bản địa. Xã Bình Trước, quận Châu Thành (sau là thị xã Biên Hoà) là trung tâm của tỉnh Biên Hoà.


Tỉnh Biên Hoà có địa hình bán trung du, diện tích rừng chiếm đến 2/3 (kể cả rừng cao su), với các con sông lớn là sông Đồng Nai, La Ngà, Sông Bé, Lòng Tàu, cùng với hệ thống chi lưu, sông suối chằng chịt. Rừng Biên Hoà là loại rừng nguyên sinh kín, thường ẩm, cây hỗn giao nhiều tầng, đa dạng về chủng loại với nhiều loại gỗ quý như cẩm lai, gõ, bằng lăng, sao, dầu...; động vật rừng phong phú với các loại thú lớn như voi, tê giác, cọp, báo, nai, heo rừng, khỉ... và hàng chục loài bò sát, chim muông khác. Ngoài rừng vùng cao còn khu rừng cận biển ngập mặn là rừng Sác (khu vực Long Thành, Nhơn Trạch giáp với tỉnh Bà Rịa, Cần Giờ của Sài Gòn. Núi cao ở Biên Hoà có núi Bà Rá, Chứa Chan, xen lẫn với những vùng đồi đồng bằng. Đất Biên Hoà đa dạng với các loại đất phù sa, đất đen, đất đỏ (bazan) rất phù hợp với việc phát triển các loại cây lương thực và cây công nghiệp.


Tỉnh Biên Hoà có hệ thống đường giao thông khá phát triển: quốc lộ I nối liền Nam - Bắc; quốc lộ 151 (Quốc lộ 15 trước đây từ ngã ba vườn Mít chạy ra Tam Hiệp, thẳng ra cổng 11 Long Bình hiện nay, nay là quốc lộ 51) Sài Gòn - Biên Hoà - Bà Rịa, Vùng Tàu; quốc lộ 20 Biên Hoà đi Đà Lạt; quốc lộ 13 Sài Gòn - Bình Dương; quốc lộ 14 Bình Phước đi các tỉnh Tây Nguyên; các liên tỉnh lộ số 8, 16, 24, liên tỉnh lộ số 2... Ngoài ra Biên Hoà còn có trên 100 km đường sắt Nam - Bắc, đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh. Sông Đồng Nai thuận lợi cho việc lưu thông về miền Tây Nam Bộ, ra biển Đông...


Với một vị trí chiến lược quan trọng như vậy, khi tái chiếm Biên Hoà (25-10-1945), thực dân Pháp đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự, cơ quan đầu não chỉ huy ở Biên Hoà như sân bay, Nha hình cảnh miền Đông, bộ chỉ huy trung đoàn 22 thuộc địa, kho bom đạn Thành Tuy Hạ...


Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa, xây dựng các cơ sở hạ tầng để bóc lột tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực dồi dào và rẻ tiền ở Việt Nam. Ở Biên Hoà thực dân Pháp xây dựng nhà máy BIF (từ 1897, đến 1912 đưa vào hoạt động1 (Đây là nhà máy chế biến ván sàn xuất khẩu. Nhà máy xây dựng một tuyến đường sắt từ Tân Mai lên Trảng Bom, Cây Góa để khai thác vận chuyển gỗ)), Đề-pô xe lửa Dĩ An, mở đường sá, đồng thời xây dựng các công ty trồng khai thác mủ cao su2 (Như các công ty Đất Đỏ, Michelin, Đồng Nai, Xuân Lộc). Chính sách khai thác cao su của thực dân Pháp đã hình thành thành nên những “địa ngục trần gian”, đó là những đồn điền cao su, nơi mà bọn chủ người Pháp, bọn tay sai cai, xu có quyền sinh sát đốì với người phu Việt Nam. Chính sách khai thác thuộc địa của tư bản thực dân đã thúc đẩy quá trình hình thành đội ngũ giai cấp công nhân ở Biên Hoà (bao gồm công nhân công nghiệp và công nhân cao su).


Nhân dân Biên Hoà có truyền thống đấu tranh yêu nước và cách mạng. Ngay khi thực dân Pháp xâm lược lần thứ I (tháng 12-1861), nhân dân Biên Hoà đã bất hợp tác với giặc. Sách Đại Nam thực lục chính biên (tập XXVI) viết: “Dân cư ba huyện Nghĩa An, Bình An, Long Thành gần chỗ giặc Pháp đóng, bỏ trốn đến 74 thôn”1 (Sách đã dẫn. Nxb Khoa học xã hội. H.1974, tr.238). Đặc biệt trong cuộc kháng chiến, các lãnh tụ nghĩa quân đã thành công trong việc tập hợp các dân tộc tham gia. Thực dân Pháp thú nhận: “Quân khởi nghĩa đã thành công trong việc lôi kéo những bộ lạc người Thượng ở ven biên giới Biên Hoà - Bà Rịa; trước đó những bộ lạc này vẫn đứng ngoài cuộc chiến. Việc tham gia của những bộ lạc này chứng tỏ cuộc khởi nghĩa ở Biên Hoà đã có một trợ lực quan trọng”2 (Poyen: Notice sur l'artillerie de la marine en indochine. P 88, P 1893).


Tuy triều đình nhà Nguyễn hèn yếu đầu hàng, nhân dân các dân tộc ở tỉnh Biên Hoà đã không ngừng đứng lên kháng chiến, hình thành những căn cứ đánh Pháp như Bàu Cá, Giao Loan của nghĩa quân Trương Định; phong trào Thiên địa hội, Đoàn Văn Cự (1905), Trại Lâm Trung (1914-1916). Những năm đầu thế kỷ 20, phong trào công nhân cao su từ đấu tranh tự phát đã từng bước phát triển lên tự giác khi có các tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội, rồi Đông Dương Cộng sản Đảng. Tiêu biểu là các cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Cam Tiêm (Ông Quế), Phú Riềng đã liên tục diễn ra từ năm 1926 đến 1930. Đặc biệt cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân cao su Phú Riềng ngày 3 tháng 2 năm 1930 do chi bộ Đảng tại chỗ lãnh đạo gây tiếng vang lớn trong và ngoài nước, cổ vũ rất lớn phong trào đấu tranh trong cả nước.


Từ hạt giống đỏ Phú Riềng, các chi bộ Cộng sản hình thành cả ở khu vực các đồn điền, nông thôn, đô thị, trong đó có chi bộ Cộng sản Bình Phước - Tân Triều (huyện Vĩnh Cửu) thành lập tháng 2 năm 1935. Tháng 2 năm 1937, Tỉnh uỷ lâm thời tỉnh Biên Hoà được thành lập1 (Do đồng chí Trương Văn Bang (Ba Bang) làm Bí thư), lãnh đạo phát triển phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Tháng 7 năm 1940, Tỉnh uỷ lâm thời Biên Hoà đã xây dựng đội du kích (35 người) do đồng chí Trần Văn Quỳ làm đội trưởng tham gia cuộc khởi nghĩa Nam kỳ. Do tình hình chung cuộc khởi nghĩa thất bại, đội du kích chuyển vào rừng Tân Uyên hoạt động bí mật và bảo toàn lực lượng đến khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Biên Hoà cũng là nơi diễn ra sự kiện ngày 27 tháng 3 năm 1941, đồng bào dân tộc Ch’ro, S’tiêng ở Tài Lài đã giúp các đồng chí Trần Văn Giàu, Tô Ký, Dương Quang Đông, Tạ Tỵ... vượt ngục Tài Lài, tạo điều kiện xây dựng lại Xứ uỷ Nam Bộ, khôi phục phong trào, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng tháng Tám 1945 ở Sài Gòn và Nam Bộ.


Đội ngũ giai cấp công nhân cùng với nông dân tỉnh Biên Hoà là lực lượng nòng cốt làm nên cách mạng tháng Tám năm 1945 ở địa phương; đồng thời cũng là lực lượng chủ lực cùng với nòng cốt là đội du kích trong Nam Kỳ khởi nghĩa xây dựng các lực lượng vũ trang địa phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Tinh thần yêu nước, đấu tranh, sớm giác ngộ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của nhân dân tỉnh Biên Hoà chính là đặc điểm quan trọng và động lực thôi thúc nhân dân Biên Hoà gia nhập các lực lượng kháng chiến, trong đó, lực lượng vũ trang làm nòng cốt để thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #3 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2019, 08:15:41 pm »

2. Tỉnh Thủ Dầu Một

Thủ Dầu Một là tỉnh, thuộc miền Đông Nam Bộ, trải dài từ nam Tây Nguyên đến thành phố Sài Gòn, gồm cả phần đất thuộc tỉnh Bình Dương và một phần tỉnh Bình Phước ngày nay.


Dưới triều Nguyễn, Thủ Dầu Một là vùng đất thuộc tỉnh Biên Hòa. Đến giữa thế kỷ thứ XIX, sau khi thực dân Pháp đánh chiếm và đặt nền cai trị tại sáu tỉnh Nam Kỳ thì vùng đất này được đặt thành tiểu khu Thủ Dầu Một thuộc khu vực Sài Gòn1 (Sau khi đánh chiếm Nam Kỳ, Duy-pơ-rê (Dupré), đô đốc, tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ra nghị định chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát-Xắc. Mỗi khu vực hành chính lại chia thành nhiều tiểu khu. Khu vực Sài Gòn chia làm 5 tiểu khu: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa và Gia Định). Đến năm 1899, sau khi toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi các tiểu khu thành tỉnh thì Thủ Dầu một là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ.


Về sau, trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, vùng đất này nhiều lần bị chia cắt và sáp nhập theo yêu cầu cai trị của bọn thực dân đế quốc. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, do yêu cầu của sự phát triển, ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Quyết định sáp nhập các tỉnh Thủ Dầu Một, Bình Phước và các xã An Bình, Bình An, Đông Hòa (thuộc huyện Thủ Đức) thành tỉnh Sông Bé. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chia tỉnh Sông Bé thành hai tỉnh: Bình Dương, Bình Phước1 (Tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiên là 2.683,47 ki-lô-mét vuông, toàn tỉnh có 1 thị xã, 6 huyện, 5 phường, 8 thị trấn. Dân số của tỉnh 810,2 ngàn người (năm 2002). Trung tâm tỉnh Bình Dương đặt tại thị xã Thủ Dầu Một. Tỉnh Bình Phước có diện tích tự nhiên 6.831,72 ki-lô-mét vuông, toàn tỉnh có 1 thị xã, 7 huyện, 94 xã, phường, thị trấn. Dân số của tỉnh trên 800 ngàn người, có 41 thành phần dân tộc sinh sống. Trung tâm tỉnh lỵ Bình Phước đặt tại thị xã Đồng Xoài).


Đất Thủ Dầu Một ngày xưa, nay là Bình Dương, Bình Phước đã từng là địa bàn sinh tụ của con người từ thuở xa xưa. Điều này được minh chứng qua các di chỉ khảo cổ mà các nhà khoa học đã khai quật được.


Về hình thể tự nhiên, Thủ Dầu Một phân chia làm hai vùng lớn: 1- Vùng đất đỏ Ba-zan, đất đỏ trên đá phiến, đất xám và đất dốc trên địa bàn đồi núi. Vùng đất này chiếm khoảng 55 vạn héc-ta, nằm ở phía bắc và đông bắc của tỉnh. 2- Vùng đất xám, đất vàng nâu, đất dốc tụ rải rác, đất phù sa và đất phèn trên địa hình đồi thấp lượn sóng và đồng bằng, chiếm khoảng 40 vạn héc- ta nằm ở phía nam và tây nam của tỉnh.


Với vùng đất màu mỡ cùng với khí hậu nhiệt đới đã tạo điều kiện cho rừng phát triển, ở đây có những khu rừng liền khoảnh, bạt ngàn, trải dài từ bắc đến nam tỉnh. Vào những năm đầu thế kỷ XX, diện tích rừng của Thủ Dầu Một chiếm gần 40 phần trăm diện tích toàn tỉnh, trong đó có những khu rừng già, những khu rừng nguyên sinh. Với địa thế hiểm trở, trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, núi rừng Thủ Dầu Một là nơi xây dựng những căn cứ địa cách mạng, những chiến khu lớn nổi tiếng như chiến khu Đ, chiến khu Bù Gia Mập, chiến khu Long Nguyên, chiến khu An Thành, chiến khu Thuận An Hòa...


Rừng ở Thủ Dầu Một không chỉ có vị trí quan trọng về mặt quân sự trong kháng chiến mà còn có vị trí quan trọng về mặt kinh tế. Nó đã cung cấp cho các chiến sĩ cách mạng nhiều dược liệu quý dùng làm thuốc trị bệnh, nhiều loại dây, củ, rau rừng... thay cho lương thực trong những năm gian khổ ác liệt nhất.


Là tỉnh trung du, trên địa bàn Thủ Dầu Một có ba ngọn núi là: núi Bà Rá (ở thị trấn Thác Mơ, huyện Phước Long; nơi đây vào những năm 40 của thế kỷ trước, thực dân Pháp đã lập một nhà tù để giam cầm những chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước); núi Châu Thới (ở huyện Thuận An) và núi Cậu (ở Dầu Tiếng, Bến Cát). Ngoài ba ngọn núi đã nêu, Thủ Dầu Một còn có nhiều ngọn đồi nhấp nhô gợn sóng, cao thấp khác nhau tạo thành một cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp.


Thủ Dầu Một có hai trục đường giao thông chiến lược quan trọng là quốc lộ 13 và quốc lộ 14 chạy dài từ bắc chí nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trên hai quốc lộ này đã diễn ra những trận đánh đẫm máu, gây cho địch nhiều thiệt hại, lính Pháp gọi quốc lộ 13 là “con đường không vui”, còn đế quốc Mỹ thì gọi là “con đường máu và nước mắt”. Bên cạnh các con đường chiến lược đó, trên địa bàn tỉnh còn có đường liên tỉnh 1A (đi Biên Hòa), đường liên tỉnh 14 (đi Tây Ninh) và các tỉnh lộ 13, 14, 15, 16, 7, 8... nối liền với các huyện.


Thủ Dầu Một có 3 con sông chính chảy qua: sông Sài Gòn, sông Bé và sông Đồng Nai (phần hạ lưu). Sông Sài Gòn và phần hạ lưu sông Đồng Nai vừa là tuyến giao thông thủy, vừa là nguồn nước tưới cho đồng ruộng, vừa là ranh giới tự nhiên của tỉnh. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Nam Tây Nguyên, dòng sông trải dài gần 240 ki-lô-mét của tỉnh, có nhiều phụ lưu... trên dòng sông này còn ghi nhiều chiến công của quân giải phóng đã nhấn chìm nhiều tàu giặc trong hai cuộc kháng chiến.


Sông Bé là sông chảy bên trong lãnh thổ của tỉnh. Nó là phụ lưu của sông Đồng Nai, bắt nguồn từ vùng rừng núi của tỉnh Lâm Đồng, dài gần 200 ki-lô-mét, chảy quanh co qua nhiều địa hình khác nhau. Sau này, có một thời kỳ ông cha ta đã dùng tên Sông Bé để đặt tên cho tỉnh. Vào mùa khô, ở thượng lưu có chỗ mực nước hạ thấp xuống còn một mét có thể đi bộ qua được. Ở vùng hạ lưu dòng sông chảy lững lờ, ghe xuồng có thể đi lại được ở những chặng ngắn chừng vài cây số, nhưng nhìn chung sông Bé không thuận cho việc giao thông đường thủy. Đây là nhược điểm của sông Bé nhưng cũng nhờ vậy mà trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, con sông này trở thành chiến hào thiên nhiên góp phần chặn bớt mức càn quét đánh phá của giặc bằng đường thủy và đường bộ vào các căn cứ của cách mạng.


Nhân dân các dân tộc Thủ Dầu Một có truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng chống giặc ngoại xâm.
Ngày 31 tháng 7 năm 1861, 1.500 nghĩa quân từ căn cứ trong rừng đã tiến về Đồng Ván thuộc làng Tân Ba, đánh bọn lính Pháp đang làm cầu và kho ở An Thành, nghĩa quân làm chủ nhiều ngày và kiểm soát cả đường bộ và đường sông ở đây.


Tháng 10 năm 1861, quân dân Bình An ba lần bao vây tiến công đồn Phú Cường, An Thạnh, Hưng Định gây nhiều thiệt hại cho giặc. Ngày 23 tháng 11 năm 1861, quân Pháp và tay sai đánh vào vùng Bình Chuẩn, Tân Khánh nơi nghĩa quân trú đóng đã bị nghĩa quân đánh trả quyết liệt. Ngày 15 tháng 12 năm 1861, 1000 nghĩa quân phối hợp với 500 quân triều đình tấn công lần thứ hai vào thủ phủ Bình An. Năm 1870, khi nghĩa quân của Trương Quyền và nhà sư Pô Cum Pô từ Tây Ninh tấn công vào các đồn nhỏ của Pháp ở ven sông Thị Tính (nay thuộc huyện Bến Cát), Bình An và Tân Uyên, nhân dân nhiều làng ở đây đã hưởng ứng mạnh mẽ. Đồng bào đã ủng hộ lương thực, quà bánh, heo gà và dẫn đường cho nghĩa quân.


Từ năm 1912 trở đi, Nơ Trang Long lãnh đạo các dân tộc ở Tây Nguyên và Đông Nam Kỳ đứng lên chống Pháp. Dưới sự lãnh dạo của Nơ Trang Long, từ năm 1912-1914 là thời kỳ oanh liệt và hào hùng của các cuộc khởi nghĩa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung cũng như đồng bào ở Lộc Ninh, Hớn Quản của Thủ Dầu Một - Bình Dương - Bình Phước nói riêng. Cũng trên mảnh đất mà nhân dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất ấy, vào những năm 20 của thế kỷ XX, nhiều hạt giống Cộng sản đã phát triển, làm mọc lên phong trào cách mạng trước khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời.


Tháng 10 năm 1929, chi bộ đồn điền Phú Riềng được thành lập. Đây là một trong 19 chi bộ Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Nam Kỳ lúc bấy giờ. Ngày 20 tháng 10 năm 1929, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đã tổ chức cuộc bãi công lớn với 2.000 người tham gia đã nổ ra ở Phú Riềng.


Ngày 3 tháng 2 nâm 1930 (mùng 5 Tết), 5.000 công nhân thực hiện tổng bãi cộng đòi yêu sách, lúc đầu địch khủng bố nhưng trước sức mạnh của lực lượng công nhân, bọn chủ sở phải hạ bút “cam kết” thực hiện những yêu sách của công nhân. Có thể nói trên mảnh đất Thủ Dầu Một có sự lãnh đạo của Đảng sớm hơn một vài nơi khác ở Nam Bộ. Nhờ vậy mà nhân dân sớm giác ngộ cách mạng, sớm đi theo Đảng đấu tranh giành độc lập tự do. Ngay những năm 1932-1935 - thời kỳ thoái trào của cách mạng cả nước, ở Thủ Dầu Một phong trào vẫn đứng vững và phát triển. Nhất là sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23 tháng 11 năm 1940, nhiều nơi cán bộ bị địch bắt bớ, tra tấn, khủng bố ác liệt, riêng Thủ Dầu Một là nơi tạm lánh của một số cán bộ, đảng viên từ nơi khác chuyển đến và được sự đùm bọc, che chở của nhân dân ở địa phương, nhờ đó mà cách mạng đã hạn chế sự tổn thất để các thời kỳ sau lại phát triển mạnh mẽ hơn.


Cũng với truyền thông đó mà nhiều lớp thanh niên đã hăng hái tham gia vào tổ chức Thanh niên Tiền phong và các lực lượng vũ trang của tỉnh, tiến hành cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền từ tay Nhật và hỗ trợ cho Sài Gòn giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.


Biên Hòa, Thủ Dầu Một là hai tỉnh ở vào vị trí trung tâm của miền Đông Nam Bộ, áp sát thành phố Sài Gòn, trấn giữ nhiều tuyến đường giao thông thủy bộ quan trọng, có địa thế thuận lợi cho hoạt động xây dựng căn cứ địa và tác chiến quân sự với qui mô lớn. Nhân dân có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, tổ chức Đảng Cộng sản sớm ra đời, phong trào nông dân, công nhân công nghiệp, công nhân cao su diễn ra mạnh mẽ và liên tục. Đây là những yếu tố tự nhiên và nhân văn tác động tích cực đến quá trình hình thành, xây dựng, chiến đấu và công tác của Chi đội 1, Chi đội 10, Trung đoàn 301, Trung đoàn 310 và Liên Trung đoàn 301 - 310.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #4 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2019, 08:18:23 pm »

Chương một
CHI ĐỘI 1 VÀ CHI ĐỘI 10
(11-1945 - 3-1948)


A. CHI ĐỘI 1 TỈNH THỦ DẦU MỘT (11-1945 - 3-1948)


I. CÁC TỔ CHỨC TIỀN THÂN CỦA CHI ĐỘI 1


1. Những đội tự vệ đầu tiền của lực lượng vũ trang cách mạng Thủ Dầu Một (1930-1939)

Ngay khi mới thành lập, với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng đã phát động cuộc đấu tranh cách mạng trong công nhân và nông dân mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Trong cao trào cách mạng sôi nổi đó, các đội tự vệ công nông, mầm mống của các lực lượng vũ trang cách mạng đã ra đời.


Nối tiếp phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nam Kỳ, ngày 3 tháng 2 năm 1930, công nhân đồn điền cao su Phú Riềng đã nổ phát pháo đầu tiên về sự xuất hiện lực lượng quần chúng vũ trang và hình thức bạo lực vũ trang. Lần đầu tiên đội xích vệ xuất hiện, có nữ chiến sĩ với dao, búa xông lên cướp súng đuổi đánh địch chạy tán loạn; xu cai đầu hàng, chủ Tây run sợ nhận tại chỗ mọi yêu sách của công nhân. Phú Riềng đã tạo ra tiền đề ở Nam Kỳ về sự hình thành lực lượng quần chúng vũ trang do Đảng lãnh đạo.


Bên cạnh sự xuất hiện của đội xích vệ công nhân còn có sự ra đời những đội tự vệ nông dân để chống đàn áp, cứu viện khi có người bị thương trong các cuộc biểu tình đấu tranh hoặc biểu dương lực lượng.


Cùng với phong trào đấu tranh ở Phú Riềng, công nhân và nhân dân lao động Thủ Dầu Một cũng liên tiếp nổi dậy đấu tranh chống lại chế độ hà khắc của thực dân Pháp và tay sai như: lãng công, mít tinh, biểu tình ở các xã Thuận Giao, Tân Khánh, Bình Nhâm... Đặc biệt công nhân Đề-pô xe lửa Dĩ An, nông dân Thị trấn Uyên Hưng (quận Tân Uyên) tuy không có sự chỉ đạo của đảng viên cộng sản nhưng vẫn tổ chức các đội tự vệ bí mật rải truyền đơn, treo cờ Đảng ở các chợ trong dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn, trong đó có “Kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười” do Trung ương phát động.


Trong thời gian này, thực dân Pháp thi hành chính sách khủng bố trắng vô cùng tàn bạo. Nhiều cơ sở Đảng bị vỡ, nhiều đảng viên, quần chúng bị tàn sát. Trước tình hình đó ngày 3 tháng 1 năm 1931, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ra thông cáo cho các Xứ ủy vạch rõ: “Phải dựa vào sức mạnh của quần chúng mà chống khủng bố; đồng thời phải đẩy mạnh việc phát triển các đội tự vệ công nông để bảo vệ cho quần chúng đấu tranh. Thông cáo viết: "... Khi có đấu tranh thì đội tự vệ phải đi đầu, đi kèm quần chúng mà bảo vệ, còn lúc thường thì phải tập luyện riêng, phải bàn định những cách hộ vệ mà bênh vực tranh đấu”.


Ở Thủ Dầu Một, những đợt sóng đấu tranh của công nhân đồn điền cao su Dầu Tiếng, Đề pô xe lửa Dĩ An, của đồng bào ở cắc làng Bình Nhâm, An Sơn, An Thạnh, Tân Thới, Hưng Định, Thuận Giao (Thuận An) với nhiều hình thức quyết liệt trong những năm 1931- 1932, đã thu hút được đông đảo nhân dân tập hợp dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đấu tranh chống khủng bố trắng, chống cải cách trù dập của địch, đòi quyền lợi dân sinh dân chủ, tạo thành một “đội quân chính trị quần chúng” hùng mạnh làm cơ sở cho một giai đoạn cách mạng mới.


Cuối năm 1932 các cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân Thủ Dầu Một dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hình thành các nhóm tự vệ, làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho các cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền cao su, công nhân lò chén, công nhân lò đường cùng những cuộc nổi dậy của nông dân và đồng bào dân tộc.


Trong quá trình bảo vệ và chiến đấu, lực lượng tự vệ thường đối mặt với bọn chủ sở cấu kết với mật thám và tay sai, xử lý linh hoạt và mềm dẻo, lúc tấn công quyết liệt để đạt được thắng lợi như: Đội tự vệ của đồn điền cao su Dầu Tiếng bất chấp sự đàn áp dã man của địch, kiên cường bảo vệ hơn 2.000 công nhân đấu tranh ròng rã 15 ngày đòi chủ đồn điền thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ trong công nhân vào cuối tháng 12 năm 1932. Địch nổ súng đàn áp cuộc đấu tranh làm chết 23 người và bắt đi 21 người, nhưng đội tự vệ vẫn không chùn bước, quyết tâm bảo vệ đoàn biểu tình đến thắng lợi.


Trong những năm 1933, 1934, lực lượng tự vệ thị xã Thủ Dầu Một đã bảo vệ các cuộc rải truyền đơn, dán khẩu hiệu, mít tinh thành công mà bọn mật thám không truy tìm hay khám phá được những người tổ chức.


Tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng đã ra Nghị quyết về đội tự vệ. Nghị quyết đề ra những nguyên tắc xây dựng đội tự vệ: về mặt chính trị, đội tự vệ là một tổ chức nửa quân sự của quần chúng nhân dân lao động, chủ yếu là công - nông do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; thành phần gồm những đảng viên, đoàn viên và những người lao động nhiệt tình, cương quyết, không phân biệt gái trai, dân tộc, từ 18 tuổi trở lên, được giác ngộ về nhiệm vụ chính trị.


Đội tự vệ phải liên hệ mật thiết với quần chúng, phải chăm lo tranh đấu, ủng hộ và bảo vệ các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân. Về quân sự đội tự vệ được huấn luyện cách sử dụng các loại vũ khí, chiến thuật du kích, chiến thuật đánh trong thành phố...


Nghị quyết đội tự vệ là cơ sở lý luận đầu tiên cho công tác xây dựng và chiến đấu của các tổ, đội chiến đấu và công tác thành lập lực lượng vũ trang sau này.

Những năm 1936-1939, Đảng bộ Nam Kỳ đã lãnh đạo các cuộc vận động dân chủ chống phản động thuộc địa, tay sai, chống phát xít và chiến tranh xâm lược đòi tự do cơm áo hòa bình. Do tính chất, yêu cầu đấu tranh của thời kỳ này, nên các hình thức biểu tình có vũ trang như thời cao trào 1930-1931 ít xảy ra. Tuy vậy, nhiều hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh thích hợp, sáng tạo nảy sinh từ thực tiễn như: hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, vận động quần chúng hoặc kết hợp những hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp với những hoạt động bí mật để phát triển tổ chức Đảng và tổ chức Mặt trận dân chủ, đã đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, động viên, thu hút được đông đảo nhân dân tập hợp dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, hoạt động khá sồi nổi, tạo thành một “đội quân chính trị quần chúng” hùng mạnh.


Những diễn biến của các cuộc đấu tranh chính trị trong những năm 1936-1939 ở Thủ Dầu Một thực sự là ngày hội cách mạng của quần chúng trong tỉnh, làm tiền đề cho cao trào Cách mạng giải phóng dân tộc trong những năm tiếp theo.


Có thể nói, trong những năm 1936-1939, tuy chưa hình thành lực lượng vũ trang chính thức để đánh trả lại các cuộc bắt bớ, đàn áp của địch. Song trong tiềm thức của mỗi người dân đều nhen nhóm tư tưởng bạo động để chống lại sự đàn áp của kẻ thù. Trong những ngàỵ đầu cách mạng, tuy các hình thức đấu tranh còn hạn chế, nhưng các hoạt động hỗ trợ đấu tranh của các tổ “tự vệ” đã hình thành những mầm mcmg của lực lượng vũ trang.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #5 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2019, 08:20:50 pm »

2. Lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một ra đời trong tổng khởi nghĩa năm 1945

Mùa thu năm 1939, sau khi đế quốc Pháp tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới thứ II và phát xít hóa bộ máy cai trị ở Đông Dương, tình hình có nhiều thay đổi. Trong nước, Chính phủ phản động Pháp thi hành chính sách phát xít, giải tán Đảng Cộng sản và các tổ chức dân chủ tiến bộ ở chính quốc cũng như các nước thuộc địa.


Ở Đông Dương, thực dân Pháp ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của tại chỗ để cung cấp cho chiến tranh đế quốc của chúng; đồng thời ra tay đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo.


Hai tháng sau khi chiến tranh bùng nổ, hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương 3 ngày (6, 7, 8 ) tháng 11 năm 1939 tại Bà Điểm (Hóc Môn - Gia Định). Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ đánh đổ đế quốc Pháp lên hàng đầu, chống tất cả thế lực xâm lược, bất luận da trắng hay vàng để “tranh đấu giải phóng dân tộc”. Với mục tiêu đó, “Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương” ra đời.


Riêng về phương pháp đấu tranh, Hội nghị trên đã đề ra “dự bị những điều kiện bước tới bạo động, làm cách mạng giải phóng dân tộc, song phải hết sức tránh những cuộc tranh đấu non, tranh đấu không phương pháp, không chuẩn bị..”.


Tháng 3 năm 1940, đồng chí Võ Văn Tần - Ủy viên Trung ương Đảng kiêm Bí thứ Xứ ủy Nam Kỳ và các xứ ủy viên khác phổ biến Nghị quyết đến các Tỉnh ủy và Thành ủy. Lúc này, địch khủng bố rất ác liệt, nhiều đồng chí ủy viên Trung ương và Xứ ủy đã bị bắt, nhưng các tổ chức cơ sở Đảng, các Tỉnh ủy và Thành ủy vẫn tồn tại, trong đó có Tỉnh ủy Thủ Dầu Một.


Trên địa bàn Thủ Dầu Một, cũng như các tỉnh khác, sách báo và truyền đơn của Đảng vẫn bí mật lưu hành và phổ biến trong quần chúng, các đội tuyên truyền vẫn thâm nhập vào quần chúng giải thích tinh thần Nghị quyết VI của Trung ương. Nhiều nơi phong trào chống bắt lính diễn ra sồi nổi và rộng khắp trong các làng xã ở nông thôn, đặc biệt là trong các đồn điền cao su cùng với những dợt tuyên truyền cổ động binh lính chống chiến tranh và ủng hộ cách mạng.


Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, nhân dân Việt Nam bị hai kẻ thù Nhật - Pháp cùng thống trị. Lòng căm thù giặc sâu sắc và khí thế cách mạng của quần chúng đã thúc đẩy Đảng bộ miền Nam chủ trương khởi nghĩa. Trước ngày 3 tháng 11 Xứ ủy Nam Kỳ đã triệu tập nhiều cuộc họp bàn về khởi nghĩa.


Tại Hội nghị Xứ ủy mở rộng các Tỉnh ủy, Thành ủy tại xã Tân Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho từ ngày 21 đến 27 tháng 9 năm 1940, có 24 đại biểu của 19/21 tỉnh thành tới dự. Hội nghị đã ra Nghị quyết chuẩn bị khởi nghĩa toàn Xứ, Hội nghị đã thông qua kế hoạch khởi nghĩa và thành lập Ban khởi nghĩa của Xứ ủy và Ban quân sự các Đảng các tỉnh.


Thực hiện chủ trương của Xứ ủy, tỉnh Thủ Dầu Một thành lập Ban khởi nghĩa tỉnh, triển khai tổ chức các đội vũ trang, rèn đúc, mua sắm vũ khí, luyện tập võ nghệ và quân sự, đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch... Trưởng ban chỉ đạo khởi nghĩa của Tỉnh Thủ Dầu Một do đồng chí Hồ Văn Cống, Bí thư tỉnh uỷ phụ trách. Đồng chí Cao Thị Lình, đảng viên làng An Thạnh được giao nhiệm vụ liên lạc giữa Ban khởi nghĩa tỉnh với Liên Tỉnh uỷ miền Đông và các chi bộ Đảng... Toàn thể cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ đều nêu cao quyết tâm thực hiện những nhiệm vụ được phân công trên địa bàn các làng, thành lập các đội tự vệ vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ cơ sở, làm công tác binh vận.


Trong khi Xứ ủy Nam Kỳ đang ráo riết chuẩn bị tiến tới phát động khởi nghĩa thì Hội nghị lần thứ VII Trung ương Đảng (từ ngày 6 đến 9-11-1940) quyết định tạm hoãn. Đáng tiếc là lệnh tạm hoãn không đến được Xứ ủy Nam Kỳ một cách kịp thời. Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra trên 18 tỉnh thành trong tổng số 21 tỉnh Nam kỳ.


Khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị cho các Đảng bộ địa phương là: “Nơi nào có thể phát động du kích chiến tranh thì biến đội tự vệ thành đội du kích để tùy thời cơ đánh úp các trại, cướp khí giới, tiểu diệt bọn phản gián, tịch thu tài sản của chúng... Những nơi nào gần các đường giao thông vận tải quan trọng hay các kho tàng trọng yếu của đế quốc (như các đường xe lửa, đường nhựa, các kho súng đạn...) thì các Đảng bộ địa phương đó phải tổ chức ngay đội biệt động gồm những phần tử hăng hái, can đảm nhất trong đội tự vệ để thi hành những việc như sau: phá đường sắt, cầu cống, ngăn cản quân thù, đừng cho lính bắn quân cách mạng, cắt đường điện, cướp xe cộ chở lương thực, khí giới của đế quốc”1 (Thông báo khẩn cấp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Văn kiện quân sự Đảng 1930-1945-Nxb QĐND H.1976, tr.100).


Sau khi nhận được lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ, Ban chỉ đạo khởi nghĩa của Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một khẩn trương chấp hành theo phương án đã định: lấy quận Lái Thiêu làm trọng điểm, chọn làng Thuận Giao làm điểm mở đầu phát động cho các làng khác nối tiếp trong cuộc khởi nghĩa này. Từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 11 năm 1940, khởi nghĩa đã nổ ra ở các quận trong tỉnh như Lái Thiêu, Tân Uyên, Bến Cát. Tại Lái Thiêu, các tổ tự vệ vũ trang đã bảo vệ thành công cuộc mít tinh với hàng trăm người tham gia ở làng Thuận Giao. Chi bộ An Sơn còn tổ chức cho một bộ phận đồng bào trong làng kéo qua làng Bình Lý cùng nhân dân đi khởi nghĩa ở quận Hóc Môn. Ở làng Tân Khánh, ban đêm đội tự vệ đi lùng bắt bọn tề ác ôn. Ban ngày, hàng trăm nông dân trồng thuốc lá kéo đến trụ sở Ban hội tề đòi giảm thuế. Tại Kiến Điền (An Điền) Bến Cát, nhóm thanh niên cảm tử do anh Nguyễn Tấn Bộ tổ chức bí mật phá đứt đường dây thép (điện thoại) dọc lộ 14 từ thị trấn Bến Cát đến Bến Súc. Ở đồn điền cau su Dầu Tiếng, chi bộ đảng vận động công nhân bãi công 3 ngày liền. Nông dân làng Định Thành cử đại diện đến gặp Ban hội tề đòi giảm thuế, chống bắt lính, chống đàn áp. Ở Tân Uyên, Ban khởi nghĩa đã thành lập nhiều tổ chức như: Hội phản đế nông dân, thanh niên và đội vũ trang khoảng 35 người, được trang bị một số súng trường, súng ngắn, giáo mác, gậy tầm vông do đồng chí Huỳnh Liễng và đồng chí Trần Văn Quỳ chỉ huy. Lực lượng trên đã tích cực hỗ trợ, bảo vệ cho các làng, thị trấn của Tân Uyên nổi dậy khởi nghĩa suốt từ ngày 23 tháng 11 đến ngày 24 tháng 11 năm 1940 góp phần làm lung lay chính quyền địa phương lúc bấy giờ.


Như vậy, Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một đã lãnh đạo Đảng bộ, nhân dân 3 quận Lái Thiêu, Châu Thành, Bến Cát nổi dậy suốt 8 ngày đêm từ 23 đến ngày 30 tháng 11 năm 1941, còn lại hai quận Hớn Quản, Bù Đốp chưa có điều kiện thực hiện.


Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ nổ ra không đúng thời cơ và bị thất bại. Thực dân Pháp đã huy động tất cả lực lượng quân sự và toàn bộ bộ máy cai trị vào việc đàn áp. Xứ ủy và nhiều Đảng bộ địa phương bị địch bắt đến người cuối cùng. Ở Thủ Dầu Một, Tỉnh trưởng Vôn (Volf) đã thẳng tay bắn giết những người cộng sản và yêu nước ở các làng, đồn điền cao su có tham gia khởi nghĩa. Các xã ở Tân Uyên, Lái Thiêu, Thành Săn Đá (Thủ Dầu Một) là nơi có cuộc khởi nghĩa nổ ra do đó bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Số người bị giết, bị thương và bị bắt khoảng 50 người, ở Tân Uyên, chúng tàn sát 11 người ở cầu Ông Hựu làng Tân Hòa và bắt 30 người khác đày đi Côn Đảo. Ở các làng An Sơn, Bình Nhâm (Lái Thiêu), Tương Bình Hiệp (Châu Thành) rất nhiều đảng viên bị bắt và bị đày đi Côn Đảo. Trong đợt này, đồng chí Hồ Văn Cống - Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một cũng bị bắt và đưa về giam ở Sài Gòn. Sau Tết Nguyên đán 1941, đồng chí bị kết án làm chính trị, bị đi đày và hy sinh tại nhà tù Côn Đảo. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ “là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương”.


Với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, cùng với Đảng bộ và nhân dân Nam Kỳ, nhân dân Thủ Dầu Một dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm một cuộc diễn tập lớn về khởi nghĩa vũ trang. Tuy không thành công, nhưng cuộc khởi nghĩa đã để lại những bài học quý giá về tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân ta. Đặc biệt là sự ra đời của các đội tự vệ vũ trang có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển các lực lượng vũ trang sau này.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #6 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2019, 08:21:40 pm »

Bước sang năm 1941, phong trào cách mạng ở Nam Kỳ cũng như ở trong nước gặp khó khăn thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5 năm 1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, tại rừng Khuổi Nậm ở vùng Pắc Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941. Hội nghị đã phát triển, và hoàn chỉnh các nghị quyết của Hội nghị lần thứ 6 và Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương về vấn đề giải phóng dân tộc. Hội nghị xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định “chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng ta và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay”. Hội nghị đề ra những chủ trương và chính sách cụ thể nhằm tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm, trong đó quan trọng nhất là việc thành lập Mặt trận Việt Minh bao gồm các Hội cứu quốc của các tầng lớp nhân dân và áp dụng sách lược hết sức mềm dẻo để phân hóa cao độ kẻ thù, tranh thủ mọi lực lượng với mục tiêu giải phóng dân tộc. Hội nghị còn nhận định khi thời cơ đến, “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc Tổng khởi nghĩa to lớn”.


Từ sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5- 1941), mặc dù địch khủng bố ác liệt, nhưng từ giữa năm 1942 trở đi, cán bộ, đảng viên tỉnh Thủ Dầu Một trước đây đã lẩn tránh đi nơi khác, nay lần lượt trở về địa bàn cũ và bắt lên lạc với nhau. Từ đó, lập ra nhiều nhóm đảng viên ở các làng An Sơn, An Thạnh, Thuận Giao, Tân Khánh, Phú Cường trong đó có Chi bộ Bình Nhâm do đồng chí Lâm Văn Sáng làm bí thư. Khi đó, ở phía bắc tỉnh Thủ Dầu Một cũng hình thành các nhóm đảng viên ở Sở cao su Lộc Ninh, Hớn Quản, chi bộ đồn điền Dầu Tiếng. Các nhóm đảng viên trên đã bắt liên lạc với nhau để tổ chức lại Tỉnh ủy, phục hồi cơ sở quần chúng cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa khi thời cơ đến.


Sau một thời gian xây dựng, ngày 23 tháng 3 năm 1943, Hội nghị tái lập Tỉnh ủy Thủ Dầu Một tại làng 1 sở cao su Dầu Tiếng. Bí thư Tỉnh ủy là đồng chí Văn Công Khai. Các ủy viên gồm có Nguyễn Văn Thi, Nguyễn Văn Trung. Trong các nhiệm vụ đề ra nhằm đưa cách mạng Thủ Dầu Một tiến tới Tổng khởi nghĩa, Tỉnh ủy chủ trương xây dựng Đảng và cơ sở quần chúng cách mạng đặt lên hàng đầu. Trong đó Nghị quyết 8 (tháng 4-1943) của Trung ương đầu với Tỉnh ủy Lâm thời, qua sự truyền đạt của Xứ ủy Nam Kỳ và Thành ủy Sài Gòn là Nghị quyết chỉ đạo chiến lược, cách tổ chức Mặt trận Việt Minh, các đội cứu quốc, đội du kích và khẩn trương chuẩn bị các điều kiện tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tỉnh uỷ đã đề ra chủ trương xây dựng các đội vũ trang để hỗ trợ cho phong trào cách mạng tại địa phương. Đây là chủ trương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng làm cơ sở cho quá trình xây dựng lực lượng vũ trang sau này.


Sự kiện Tỉnh ủy Lâm thời ra đời và chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang đã đưa cách mạng tỉnh Thủ Dầu Một bước sang một thời kỳ mới.

Ngay sau đó, Tỉnh ủy phân công các đồng chí phụ trách từng vùng, nhằm phổ biến tinh thần Nghị quyết Tỉnh uỷ và trực tiếp chỉ đạo các mặt công tác của Đảng tại cơ sở. Chỉ sau một thời gian tuyên truyền, vận động, các phong trào yêu nước của nhân dân Thủ Dầu Một đã phát triển từ vùng nông thôn đến các đồn điền cao su, nhà máy. Trong các hoạt động đó, các đội tự vệ cũng được thành lập để bảo vệ cho các cuộc đấu tranh của quần chúng. Đặc biệt là hoạt động của chi bộ vũ trang Mỹ Lộc (Tân Uyên) do đồng chí Trần Văn Quỳ phụ trách, bám rừng hoạt động suốt 4 năm (1941-1944) được nhân dân nuôi dưỡng, che chở hoạt động ngày càng hiệu quả. Chính lực lượng này cùng với một số tự vệ ở các nơi khác trong tỉnh là nguồn lực cán bộ xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Lúc này, ở đồn điền cao su Dầu Tiếng, Hớn Quản và một số địa phương khác như Tân Uyên, Lái Thiêu, Châu Thành cũng lần lượt tổ chức các đội tự vệ vũ trang để bảo vệ nhân dân trong các cuộc đấu tranh chính trị chống lại chính sách đàn áp của thực dân Pháp.


Ở Thủ Dầu Một, cuôì năm 1944, Hội truyền bá Quốc ngữ ra đời tại Phú Cường, về sau phong trào lan rộng trong toàn tỉnh, sau đó lần lượt các huyện Bến Cát, Lái Thiêu, Tân Uyên và các làng nông thôn cũng thành lập Hội truyền bá quốc ngữ thu hút hàng ngàn quần chúng tham gia.


Hoạt động của Hội truyền bá Quốc ngữ ở Thủ Dầu Một ngay từ đầu đã xác định mục đích là giải quyết nạn mù chữ, đồng bào nghèo đều biết đọc, biết viết, biết tiếng Việt, mở rộng dân trí... nâng cao tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm và kêu gọi đồng bào tham gia công tác cứu quốc chuẩn bị khởi nghĩa. Kết quả của phong trào truyền bá Quốc ngữ ở Thủ Dầu Một còn là bài học kinh nghiệm thành công về công tác vận động trí thức của Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một.


Giữa lúc phong trào yêu nước của nhân dân Thủ Dầu Một cũng nhu nhiều nơi khác đang phát triển mạnh, thì tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến quan trọng. Trên thế giới, quân đội Xô viết đã giành thắng lợi quyết định bằng hàng loạt đòn phản công chiến lược, đua chiến tranh đến cửa ngõ sào huyệt phát xít Đức. Ở mặt trận châu Á và Thái BìnhDương, số phận của phát xít Nhật cũng đang lung lay tận gốc. Ở trong nước, tháng 8 năm 1944, Tổng bộ Việt Minh kêu gọi và phát động phong trào “sắm sửa vũ khí, đuổi thù chung”, xây dựng lực lượng vũ trang; đồng thời đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở nông thôn và thành thị lên cao. Trên phạm vi cả nước, không khí cách mạng sôi sục khắp nơi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #7 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2019, 08:22:19 pm »

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, cuộc xung đột vũ trang giữa Nhật và Pháp đã nổ ra, 10 vạn lính Nhật ở Đông Dương đã bất ngờ tấn công vào bộ máy chính quyền Pháp. Chưa đầy 2 giờ, phần lớn lực lượng vũ trang của Pháp đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh. Ở Thủ Dầu Một chỉ có 200 lính tại thành Săng Đá do tên quan tư Pháp chỉ huy, nổ súng lẻ tẻ, chống cự yếu ớt. Sau đó tất cả người Pháp ở Thủ Dầu Một đều bị bắt tập trung về Sài Gòn. Nhật thay quân Pháp đưa quân chiếm đóng hầu hết các vị trí quân sự quan trọng như thành Săng Đá, Dinh tỉnh trưởng và các vị trí quân sự khác.


Sau khi Nhật đảo chính, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, khẩu hiệu hành động của Đảng ta là “đánh đuổi Phát xít Nhật và tay sai, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân”; đồng thời phát động cao trào cứu nước chuẩn bị cho việc Tổng khởi nghĩa.


Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã họp và ra chủ trương chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1945, Tỉnh ủy chỉ đạo chuyển phong trào lập nhóm Cứu quốc lên Hội Cứu quốc trong nông dân, công nhân, phụ nữ, thanh niên. Một cao trào cách mạng mới diễn ra sôi nổi khắp nơi trong tỉnh, hàng loạt tổ chức đoàn thể Cứu quốc ra đời ở thị xã Thủ Dầu Một, Tân Uyên, Dĩ An. Cùng với Hội cứu quốc người Kinh, lại có Hội người Việt Nam mới ra đời ở Hớn Quản, Bù Đốp. Đây là đơn vị tự vệ bán vũ trang, chuẩn bị cho khởi nghĩa ở phía bắc của tỉnh, do đồng chí Lê Đức Anh thành lập.


Cùng với phong trào lập Hội cứu quôc còn có phong trào nhân dân sắm sửa vũ khí với nhiều biện pháp đem lại kết quả tốt.

Tháng 5 năm 1945, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một thực hiện chủ trương của Xứ ủy về việc thành lập Thanh niên Tiền phong, cử đồng chí Nguyễn Văn Đôi trước đây phụ trách Thanh Niên cứu quốc nay kiêm nhiệm Thanh niên Tiền phong. Sau ngày lễ ra mắt tại Sài Gòn, Thanh niên Tiền phong ở Thủ Dầu Một đựợc thành lập ở các quận, huyện trong tỉnh và hoạt động theo hệ thống tổ chức Thanh niên toàn Xứ và theo hướng dân của cán bộ Việt Minh cơ sở.


Ban qụản trị Thanh niên Tiền phong Thủ Dầu Một do nhà giáo Trịnh Kim Anh làm thủ lĩnh. Hoạt động của Thanh niên Tiền phong lúc bấy giờ rất phong phú như: diễn thuyết chính trị, biểu diễn văn nghệ, học tập quân sự... đã thu hút mạnh mẽ tầng lớp trẻ tham gia hoạt động. Ngay sau đó, lực lượng Thanh niên Tiền phong ở các thị trấn và làng xã ở đồn điền cao su Dầu Tiếng, Phước Hòa, công nhân Đề-pô xe lửa Dĩ An đều thành lập các đội tự vệ nhằm chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa sắp đến gần. Chính họ cũng là tiền thân của lực lượng vũ trang nhân dân Thủ Dầu Một, là những chiến sĩ đầu tiên trong hàng điệp trùng của những chiến sĩ Chi đội 1 sau này nối tiếp nhau chiến đấu giải phóng quê hương.


Đến đầu tháng 7 năm 1945, ở Thủ Dầu Một, khí thế cách mạng đã phát triển rất sôi nổi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh và Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể Cứu quốc ở các huyện, thị, lực lượng Thanh niên Tiền phong và quần chúng nhân dân đã sẵn sàng vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Gần giữa tháng 8 năm 1945 là thời điểm cuộc chiến tranh thê giới lần thứ 2 tiến dần đến thời kết thúc với thất bại hoàn toàn của trục phát xít.


Trong khí thế cách mạng đang dâng lên chưa từng thấy, việc chớp thời cơ phát động khởi nghĩa trở thành ý chí, quyết tâm của Đảng và cả dân tộc ta. Từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Thái Nguyên), phiên họp cuối cùng để quyết định những chủ trương lớn trong đối nội, đối ngoại của cách mạng Việt Nam. Thì trưa ngày 15 tháng 8 năm 1945 Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngày 16 tháng 8 năm 1945 Đại hội Quốc dân Tân Trào tán thành quyết định chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay trong ngày 16 tháng 8, Người gửi thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa cho Quốc dân Việt Nam. Bức thư nhấn mạnh “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc, đồng bào hãy đứng dậy đem sức mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ". Lệnh tổng khởi nghĩa đã phát. Lời hiệu triệu của lãnh tụ dân tộc đã gửi quốc dân. Toàn dân tộc nhất tề đứng dậy. Bão táp cách mạng cuồn cuộn dâng cao.


Từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 8 năm 1945, ta giành chính quyền ở Hà Nội, Huế, Long An càng làm cho cao trào cách mạng ở Thủ Dầu Một tiếp tục phát triển mạnh hơn và đẩy kẻ thù vào thế cô lập. Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ chỉ đạo cho cán bộ, đảng viên, và cán bộ Cứu quốc đẩy mạnh công tác binh vận trong cảnh sát và cộng hoà vệ binh để lôi kéo binh sĩ làm theo lời kêu gọi của Việt Minh ủng hộ nhân dân giành chính quyền.


Tỉnh ủy còn đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động toàn dân khởi nghĩa. Đêm 23 tháng 8 năm 1945, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng được tổ chức tại Bưng Cầu thuộc làng Tương Bình Hiệp, do đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì. Tham dự hội nghị có các đồng chí Tỉnh ủy viên như Nguyễn Văn Thi, Nguyễn Văn Trung và bí thư chi bộ các quận Lái Thiêu, Châu Thành, Bến Cát... Hội nghị quán triệt Nghị quyết của Xứ ủy về Tổng khởi nghĩa toàn Nam Kỳ. Hội nghị Tỉnh ủy kêu gọi cán bộ, đảng viên, các đoàn thể Cứu quốc, đơn vị tự vệ, đồng bào đoàn kết, nhất trí giành chính quyền trong ngày 25 tháng 8 năm 1945.


Ngày 24 tháng 8 năm 1945, tự vệ vũ trang Thanh niên Tiền phong, Thanh niên Cứu quốc cùng với các lực lượng quần chúng tự vệ vũ trang bằng những vũ khí thô sơ, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa địa phương đã khởi nghĩa giành thắng lợi ở Dầu Tiếng, Bến Cát, Lộc Ninh, Lái Thiêu. Sau khi giành chính quyền thắng lợi ở các quận trong tỉnh, đêm 24 tháng 8, theo lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh, lực lượng cách mạng ở các làng, các quận rầm rập kéo về thị xã, đơn vị vũ tranh tập trung của tỉnh cùng các đội tự vệ Bến Cát, Dầu Tiếng, Lộc Ninh, Lái Thiêu, Thị xã và đội Việt Nam mới của đồng bào dân tộc có tất thẩy mấy trăm cán bộ, chiến sĩ trang bị vũ khí thô sơ chiếm lĩnh các vị trí xung yếu trong thị xã hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy. Nhân dân tiến vào các trại lính, các trụ sở làm việc Tòa thị chính, Kho Bạc, Sở Bưu Điện... buộc bọn lính Nhật phải đầu hàng, nộp vũ khí.


Sáng ngày 25 tháng 8 năm 1945, ba vạn đồng bào từ các xã, thị trấn, đồn điền cao su hợp với hai vạn nhân dân thị xã biểu tình khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại toà thị chính tỉnh (Trước nhà làm việc của Ủy ban nhân dân Phú Cường), chứng kiến việc xoá bỏ chính quyền phát xít Nhật và tay sai, dựng lên một chính quyền mới - chính quyền cách mạng của nhân dân. Như vậy, trong ngày 25 tháng 8 năm 1945, nhân dân Thủ Dầu Một đã giành chính quyền thắng lợi cùng ngày với thành phố Sài Gòn và 15 tỉnh bạn ở Nam Kỳ.


Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, lực lượng vũ trang cũng được thành lập hỗ trợ cho chính quyền nhân dân. Đây là thắng lợi đầu tiên trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân địa phương do Đảng lãnh đạo, là kết quả của quá trình đấu tranh gian khổ, anh dũng, bất khuất của nhân dân ta. Được Đảng giáo dục, rèn luyện, được nhân dân che chở, đùm bọc. Trong quá trình chiến đấu, lực lượng vũ trang đã không ngừng lớn mạnh, hoàn thành xuất mọi nhiệm vụ.


Ra đời trong điều kiện phân tán nhỏ, lẻ, lực lượng non yếu, lại trong khoảng thời gian ngắn, nhưng các tổ chức vũ trang đầu tiên của Thủ Dầu Một đã đi từ không đến có và làm vai trò tiên phong trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trên quê hương.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #8 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 06:47:03 pm »

II. CHI ĐỘI GIẢI PHÓNG QUÂN THỦ DẦU MỘT RA ĐỜI CHIẾN ĐẤU VÀ CÔNG TÁC (25-11-1945-3-1948)

1. Quá trình hình thành Chi đội 1 - Giải phỏng quân Thủ Dầu Một

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời mở ra cho dân tộc ta một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.


Trong những ngày đầu xây dựng và củng cố chính tịuyền cách mạng, tình hình cả nước cũng như trong tỉnh đứng trước những khó khăn lớn. Để đối phó với thù trong, giặc ngoài, giữ vững chính quyền cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và chủ trương vũ trang toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh.


Ở Thủ Dầu Một, trong thời kỳ đầu bộn bề khó khăn cùng với việc xây dựng chính quyền còn quá mới mẻ, thiếu cán bộ và kinh nghiệm nhưng đã bắt tay ngay vào nhiệm vụ củng cố bộ máy hành chính các cấp, từng bước ổn định đời sống nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được.


Sau khi cướp chính quyền lực lượng vũ trang của Thủ Dầu Một gồm có:

- Ở tỉnh, đơn vị xung kích cách mạng sau này gọi là bộ đội giải phóng của tỉnh do đồng chí Nguyễn Văn Thi - Ủy viên Tỉnh ủy chỉ huy.

- Ở Lộc Ninh, Hớn Quản có “Bộ đội Áo nâu” và “Bộ đội Việt Nam mới” do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy.

- Ở Bến Cát có đơn vị cựu chiến binh, sau gọi là “Bộ đội Quang Trung” do đồng chí Nguyễn Văn Ngọ (Bảy Quỳ) chỉ huy.

- Ở Quận Châu Thành có đơn vị vũ trang của Thanh niên Tiền phong,-công chức Thủ Dầu Một do Kiều Đắc Thắng chỉ huy.


Bên cạnh lực lượng vũ trang trên còn có một số đơn vị vũ trang khác như:

- Lực lượng “Bộ đội cảnh sát” theo Việt Minh trước và sau Cách mạng tháng Tám ở Thủ Dầu Một do ông Huỳnh Kim Trương (Cò Trương) và ông Nguyễn Văn Sáng phụ trách.

- Bộ đội Bảo an binh còn có tên là “Cộng hoà vệ binh” theo Việt Minh trước và sau Cách mạng tháng Tám do ông Nguyễn Sơn Xuyên (Ánh Theo) và ông Bùi Khánh Ngươn phụ trách.

- Ở Phú Cường: có lực lượng Nghĩa dõng quân theo Việt Minh do ông Triệu chỉ huy; lực lượng công chức của ông Quách Văn Trỉ (Võ Sĩ) và lực lượng công nhân lò chén của ông Đoàn Văn Đức.

- Quận Châu Thành có lực lượng Thanh niên Tiền phong các xã Phú Hoà, Định Hoà, Chánh Hiệp, và một số người “Lục lâm Quân” của Tám Liễu do Đoàn Hữu Hoà chỉ huy.

- “Đội du kích Thái Nguyên” gồm công nhân xe lửa Dĩ An, thợ may, thợ giặt ủi hoạt động ở khu vực Dĩ An - Thủ Đức.


Ngoài ra, còn có một số binh lính Nhật, Pháp đầu hàng theo lời kêu gọi của Việt Minh đã đứng vào hàng ngũ những người kháng chiến, trở thành những chuyên gia huấn luyện cho lực lượng vũ trang cách mạng.


Về trang bị hầu hết là vũ khí thô sơ như: gậy gộc, dao mác, tầm vông vạt nhọn và một số vũ khí, đạn dược cướp được của Pháp - Nhật như: súng trường, súng máy... Đến 23 tháng 9 năm 1945, lực lượng vũ trang trên toàn tỉnh đã tự trang bị được trên 300 súng các loại, trong đó có 8 trung liên.


Cùng với lực lượng vũ trang tỉnh, ở huyện sau khi giành chính quyền, mỗi huyện cũng có một tiểu đội bảo vệ cơ quan chính quyền cơ sở và bảo vệ trật tự trị an, chống bọn phản động trên địa bàn huyện. Lực lượng này với nhiều tên gọi khác nhau ở từng địa phương như: bộ đội Bến Cát, bộ đội Bắc Hải, bộ đội Cao su, bộ đội Thiểu số...


Ở cấp xã, chính quyền các địa phương đã tổ chức các đội tự vệ vũ trang (sau gọi là đội du kích) trên cơ sở lực lượng Thanh niên Tiền phong trước Cách mạng tháng Tám như Bình Nhâm, An Thạnh, Tân Khánh, Thuận Giao, Chánh Phú Hoà, Phú Cường và Đề-pô xe lửa Dĩ An... Ngoài ra các xã chưa có chi bộ cũng tổ chức được các tổ tự vệ do thu lĩnh Thanh niên Tiền phong chỉ huy. Ở các đồn điền cao su cũng thành lập đội Thanh niên công nhân vũ trang, làm nhiệm vụ bảo vệ chính quyền ở cơ sở, tuần tra canh gác, giữ gìn trật tự trị an ở mỗi làng, xã.


Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng vũ trang lúc này là bảo vệ an toàn cho bộ máy chính quyền các cấp; tiến hành thu gom súng đạn, trang thiết bị quân sự để tự trang bị, đồng thời tiến hành phá các kho lương thực, thực phẩm của Pháp, Nhật chia cho dân nghèo.


Ra đời trong bão táp cách mạng, mặc dù thiếu kinh nghiệm chiến đấu, trang thiết bị thô sơ, thiếu thống nhất về tổ chức và chỉ huy, nhưng lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một thật sự là lực lượng quan trọng trong việc bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân trong những ngày đầu giành chính quyền; Đây là lực lượng tiền thân để xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và lực lượng Chi đội 1 Giải phóng quân tỉnh Thủ Dầu Một sau này.


Trong lúc nhân dân ta đang tập trung xây dựng và củng cô' chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới thì đêm 22 rạng ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp núp sau lưng quân Anh - An trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Cũng chính sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, Xứ ủy và Uy ban nhân dân Nam Bộ tổ chức Hội nghị liên tịch khẩn cấp tại Cây Mai - Chợ Lớn, phát động nhân dân đứng lên kháng chiến chống Pháp, đồng thời ra lời kêu gọi toàn dân kháng chiến:

"... Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp và tiểu diệt tay sai của chúng.
Hỡi anh chị em dân quân tự vệ! Hãy nắm chặt vũ khí trong tay, xông lên đánh đuổi thực dân Pháp cứu nước.”



Các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn trên toàn tỉnh Thủ Dầu Một sôi sục khí thế sẵn sàng chiến đấu. Một lần nữa thanh niên, học sinh, công nhân, nông dân Thủ Dầu Một rầm rập xuống đường. Những chiếc gậy tầm vông vạt nhọn, giáo mác, những câu ca tuyên truyền cho kháng chiến đã đi vào lịch sử như một biểu tượng về tinh thần quyết tử trong những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Bộ.


Hưởng ứng lời kêu gọi của Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương chi viện cho mặt trận Sài Gòn- Chợ Lớn để góp phần ngăn chặn sự lấn chiếm của giặc, chuẩn bị sẵn sàng đánh địch tại chỗ.


Lực lượng tham gia chiến đấu ở Mặt trận số 1 (còn gọi là mặt trận Tiền tuyến Sài Gòn - Chợ Lớn hay Mặt trận phía đông) gồm các đơn vị tự vệ phía bắc và một bộ phận công nhân của các đồn điền cao su Dầu Tiếng, Phước Hoà tham gia chặn đánh từng bước tấn công, phá vòng vây của giặc. Tại Mặt trận số 2, “Đội quân áo nâu”, “Bộ phận tên ná” từ các đồn điền Lộc Ninh, Hớn Quản do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy tiến về Sài Gòn, giúp kìm chân địch để các nơi khác ở Nam Bộ có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến.


Cùng với hoạt động đánh địch tại Mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn, công tác chuẩn bị đánh địch ngay trên địa phương cũng đươc xúc tiến mạnh mẽ. Tất cả các quận huyện Châu Thành, Bến Cát, Tân Uyên... lực lượng tự vệ cơ sở và bộ đội địa phương tích cực luyện tập quân sự, chuẩn bị vũ khí, phương án sẵn sàng phục kích chiến đấu ngăn chặn địch lấn chiếm. Các đơn vị Cộng hòa vệ binh, Quốc gia tự vệ Cuộc cùng các tổ tự vệ địa phương dùng bàn ghế, giường tủ, cây cối, gạch, đá... làm chướng ngại vật nhằm ngăn cản bước tiến của quân đội Pháp. Các lực lượng chiến đấu được phân công bám vùng ven thị xã tiếp tục diệt tề trừ gian.


Nhân dân được lệnh thực hiện kế hoạch “vườn không, nhà trống” và thực hiện khẩu hiệu bốn không: “không hợp tác với Pháp; không đi lính cho Pháp; không chí đường cho Pháp; không mua bán với Pháp”. Thị xã Thủ Dầu Một vắng lặng, chợ búa không họp, trường học, chùa chiền đóng cửa, không khí im ắng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #9 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 06:47:49 pm »

Ngày 23 tháng 10 năm 1945, binh đoàn kỵ binh thiết giáp do đại tá Massu chỉ huy đến Nam Bộ. Với lực lượng hùng hậu, tướng Leclerc thực hiện ngay kế hoạch phá vỡ vòng vây Sài Gòn và tiến chiếm các tỉnh Nam Bộ. Ngày 25 tháng 10 năm 1945, được quân Anh giúp sức, Pháp tiến đánh Thủ Dầu Một trên ba hướng. Hướng thứ nhất, Pháp kéo quân từ Biên Hòa theo đường Quản Hạt, tiến đánh Tân Khánh và thị xã Thủ Dầu Một, gồm lính bộ binh với 60 xe cơ giới yểm trợ, lực lượng vũ trang kháng chiến không đủ sức ngăn chặn. Do vậy, 9 giờ sáng ngày 25 tháng 10 năm 1945, thị xã Thủ Dầu Một thất thủ.


Cánh quân thứ hai và thứ ba của Pháp tiến quân từ Thủ Đức và Gò Vấp lên Lái Thiêu thì gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của lực lượng vũ trang địa phương. Các trận đánh diễn ra ác liệt tại Gò Dưa, cầu Bến Phân. Hai cánh quân của Pháp bị chặn đứng, không chiếm được Lái Thiêu, phải rút về vị trí xuất phát.


Sau khi chiếm được tỉnh lỵ, quân Pháp được quân đội Nhật giao lại những cứ điểm quân sự như thành Săng Đá (Thành Quan) và một số vị trí quan trọng. Địch chiếm cả khu vực Toà hành chánh tỉnh. Trong vòng một tháng sau đó chúng chiếm đóng tất cả 10 cứ điểm lớn nhỏ trong nội ô và vài nơi ngoại ô thị xã. Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1945, Pháp từng bước mở rộng cuộc lấn chiếm dần về các quận phía nam, phía bắc tỉnh và tiến sâu vào vùng rừng núi chiếm lại các đồn điền cao su tỉnh Thủ Dầu Một. Ở vùng đồn điền cao su, quân Pháp có quân Anh yểm trợ đã vấp phải sự chống trả mãnh liệt của các lực lượng vũ trang công nhân. Nhiều cuộc chiến đấu đã diễn ra ác liệt, nhiều chiến sĩ vũ trang và tự vệ công nhân đã anh dũng hy sinh trên từng bước tiến công của giặc. Do lực lượng địch quá đông, với vũ khí mạnh, nên các đồn điền cao su và các phòng tuyến chống Pháp trên địa bàn tỉnh đều bị quân Pháp chiếm đóng.


Quá trình tái chiếm Thủ Dầu Một là quá trình giao tranh đẫm máu giữa một bên là quân đội viễn chinh nhà nghề được trang bị vũ khí hiện đại và một bên là lực lượng vũ trang và du kích địa phương chỉ có lòng yêu nước với gậy gộc, giáo mác, tầm vông vạt nhọn. Nhưng đi đến đâu quân Pháp cũng đều bị bộ đội, du kích và tự vệ công nhân đánh trả quyết liệt đến đó. Do tương quan lực lượng không ngang sức, quân đội viễn chinh Pháp đã đánh chiếm toàn bộ tỉnh lỵ và thiết lập một nền cai trị như trước. Song lực lượng kháng chiến địa phương vẫn bảo tồn lực lượng. Nhiều hoạt động đánh địch vẫn diễn ra liên tục trên khắp địa bàn tỉnh, gây cho địch rất nhiều lúng túng.


Ở thị xã Thủ Dầu Một, sau ngày thất thủ lưc lượng vũ trang ban đêm vẫn đột nhập nội ô bắn phá các đồn bót địch, ban ngày rút ra phục kích bọn đi càn. Hai đội vũ trang hoạt động mạnh nhất là đội cảm tử do Nguyễn Văn Lộng (tự Chùa) và đội trinh thám do Đinh Quang Kỳ chỉ huy, diệt những tên điểm chỉ của địch mà ta phát hiện được.


Trong nội ô, tuy địch kiểm soát ban ngày, nhưng ở vùng Lò Chén, Phú Văn, Bà Lụa vẫn do chính quyền cách mạng làng Phú Cường và các lực lượng bán vũ trang kiểm soát. Tháng 10 năm 1945, một bộ phận thanh niên xung phong thị xã phóng hoả đốt kho chứa mủ cao su ở Phú Thọ (làng Phú Cường), đầu năm 1946 đốt lần thứ 2. Cả 29 nhà chứa mủ cao su chuyển từ Dầu Tiếng về dự trữ đã bị bốc cháy, làm cho dịch thiệt hại kinh tế rất nặng nề.


Tại Hớn Quản, tháng 10 năm 1945, đơn vị võ trang do Doanh Thắng Lung (Đoàn Tấn Long) chỉ huy đóng tại Chơn Thành, chặn đánh một đơn vị địch di chuyển trên đường 13, tại dốc cầu Cần Đâm thuộc ấp Tàu Ô xã Tân Khai (Hớn Quản), tiêu diệt một xe quân sự. Trong tháng 12, đơn vị vũ trang tập trung huyện Bến Cát đã chặn đánh môt toán địch hành quân trên đường gần ga Ông Khương, diệt 5 tên địch, thu 5 súng tiểu liên và súng trường, 2 súng phóng lựu đạn. Sau thắng lợi này, 10 lính Nhật trong một đơn vị gần đó chờ giải giáp đã tự nguyện mang 10 súng (có 1 trung liên) tìm đến xin gia nhập bộ đội ta đánh Pháp. Tiếp đó, bộ đội Hớn Quản đã phục kích một đơn vị địch đang di chuyển trên đường từ Lộc Ninh đi Bù Đốp, tiêu diệt và làm bị thương gần 60 lính, phá huỷ một số xe GMC.


Từ cuối năm 1945, tình hình chiến sự ở Nam Bộ càng thêm nóng bỏng sau khi giặc Pháp triển khai hoạt dộng và chiếm đóng một số tỉnh xung quanh Sài Gòn. Tình hình trên đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương đối với các tỉnh Nam Bộ, ngày 25 tháng 10 năm 1945, Trung ương tổ chúc Hội nghị quan trọng tại Cái Bè (Mỹ Tho) do đồng chí Hoàng Quốc Việt chủ trì. Hội nghị đã bàn và quyết định những nhiệm vụ cấp bách là chấn chỉnh tổ chức, tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong từng cấp uỷ Đảng. Trước hết là tăng cường sự lãnh đạo. chỉ đạo các lực lượng vũ trang, phát động quần chúng kiên quyết giữ vững và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, làm thất bại từng bước âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của địch.


Tại Thủ Dầu Một, mặc dù ta đã trực tiếp đánh địch nhưng do lực lượng vũ trang còn phân tán, chưa thống nhất về mặt tổ chức và chỉ huy nên kết quả hoạt động còn nhiều hạn chế. Ngoài các đơn vị do các đảng viên và một số cán bộ ngoài Đảng thực sự yêu nước, thực sự quyết tâm đánh địch giải phóng quê hương, còn một số đơn vị ô hợp, hữu danh vô thực chẳng những không dám đối đầu với địch mà còn nhũng nhiễu nhân dân, bắt nhân dân phải tiếp tế cho chúng, đồng thời gây nhiều khó khăn cho chính quyền địa phương. Đó là lực lượng Đệ tứ sư đoàn của Lý Hoa Vinh được giao nhiệm vụ chiến đấu tại mặt trận Tham Lương, nhưng Lý Hoa Vinh không chiến đấu mà chặn nguồn tiếp tế lương thực, thực phẩm chuyển từ Hóc Môn đến các mặt trận. Sau đó Lý Hoa Vinh chia quân thành 2 cánh, một đóng tại Lái Thiêu sau chuyển về Bến Cát; cánh thứ 2 đóng tại Núi Cậu (Dầu Tiếng), Lý Hoa Vinh cho quân cướp súng của tự vệ công nhân đồn điền Michelin, bắt công nhân chở của cải cướp được lên núi chôn cất, rồi giết luôn người vận chuyển để giữ bí mật. Khi Pháp đánh chiếm Dầu Tiếng, Lý Hoa Vinh liền ra đầu hàng Pháp. Một bộ phận của lực lượng Bình Xuyên do Ba Nhỏ cùng với Phan Tấn Đạt chỉ huy về xây dựng hậu cứ tại Bình An (Dĩ An), sau đó kéo về Thanh An (Bến Cát). Bộ đội HT 29 từ Sài Gòn rút chạy lên Bến Cát xây dựng căn cứ. Trên đường rút, chúng thổ phỉ hoá ra sức cướp bóc và giết chết những ai chống đối lại chúng bằng cách bỏ người vào bao bố rồi thả trôi sông. Sau đó, một bộ phận lớn bộ đội HT 29 ra đầu hàng Pháp.


Tình hình đó đặt ra cho miền Đông Nam Bộ nói chung và Thủ Dầu Một nói riêng về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, đưa lực lượng vũ trang từng bước hoàn thiện nhằm đảm nhiệm sứ mệnh làm nòng cốt trong cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp.


Tháng 11 năm 1945, đồng chí Nguyễn Bình, đặc phái viên của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà vào miền Nam để xây dựng, thống nhất các lực lượng vũ trang. Tại Thủ Dầu Một, được sự giúp đỡ của Tỉnh ủy, ngày 20 tháng 11 năm 1945 đồng chí Nguyễn Bình triệu tập một hội nghị gọi là “Hội nghị quân sự Nam Bộ” tại An Phú xã (quận Lái Thiêu) sau này thường gọi là “Hội nghị An Phú xã”. Tuy nhiên, Hội nghị chỉ có mặt trên 40 đại biểu các đơn vị miền Đông. Hội nghị bàn việc thống nhất lực lượng vũ trang ở Nam Bộ, thống nhất tên gọi, hình thức biên chế Chi đội (đối với lực lượng vũ trang tập trung), phân chia khu vực hoạt động, đề ra nghững giải pháp tiến hành chiến tranh du kích. Hội nghị nhất trí cử Nguyễn Bình làm Tổng Tư lệnh giải phóng quân Nam Bộ; Vũ Đức (Hoàng Đình Giong) làm chính ủy, Nguyễn Thành Phương (Cao Đài) làm phó Tư lệnh; đồng thời quyết định biên chế các lực lượng vũ trang Nam Bộ thành 25 chi đội. Mỗi chi đội chịu trách nhiệm một tỉnh. Trước mắt thành lập Chi đội 1 ở Thủ Dầu Một.


Hội nghị An Phú xã có ý nghĩa tác dụng là bước đầu thống nhất các lực lượng vũ trang tuy trên danh nghĩa, nhưng động viên được tinh thần kháng chiến, củng cố niềm tin của cán bộ, nhân dân Nam Bộ thấy sự quan tâm của Trung ương, của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM