Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 05:52:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký Winston Spencer Churchill  (Đọc 53183 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #380 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 10:55:53 pm »


19

ĐUỐC ĐÃ THẮP SÁNG

        Thành kiến của Tổng thống Roosevelt đối với tướng De Gaulle, những mối liên hệ của ông ta với Vichy thông qua đố đốc Leahy và hồi ức của chúng tôi về vụ lộ thông tin về Dakar hai năm trước đây đã đưa tới quyết định giữ gìn, không để lộ các thông tin về "Torch" (Ngọn đuốc) cho những người Pháp tự do. Tôi không hề bác bỏ quyết định nay. Dù sao thì tôi cũng nhận thức  được những mối quan hệ giữa ngươi Anh chúng tôi đối với De Gaulle và tính nghiêm trọng của sự nhục mạ mà ông ta phải chịu đựng khi dứt khoát bị bỏ hoàn toàn khỏi việc góp phần của mình vào hoạch định kế hoạch chung. Tôi đã dự định nói cho ông ta biết trước khi sự việc này xảy ra. Để làm dịu bớt xúc phạm nay đối với ông ta và phong trào của ông, tôi đã sắp xếp việc giao phó cho ông ta quyền ủy trị Madagascar. Mọi việc trước mắt chúng tôi trong những tháng chuẩn bị và những gì chúng tôi rút ra từ đó đã làm sáng tỏ quan điểm cho là giao cho De Gaulle công việc này sẽ gây hại lớn đến những phản ứng của Pháp ở Bắc Phi. Nhưng sự cần thiết phải kiếm cho được một nhân vật Pháp nổi bật nào đó là rõ ràng, và trong con mắt người Anh và người Mỹ, thì dường như chẳng có ai thích hợp hơn tướng Giraud, viên tướng chiến đấu cao cấp mà cuộc tẩu thoát táo bạo khỏi nhà tù Đức vẫn còn là huyền thoại. Tôi đã đề cập đến việc gặp mặt với Giraud tại Metz năm 1937 khi tôi đến thăm chiến tuyến Maginot, nơi ông nắm quyền chỉ huy khu vực chính. Ông ta kể cho tôi nghe về những cuộc phiêu lưu của mình trong chiến tranh thế giới I như là tên tù đào tẩu đằng sau chiến tuyến của quân Đức. Cũng là người đã vượt ngục nên giữa tôi và ông ta có một cái chung gì đó. Bây giờ, với tư cách là một người chỉ huy quân đoàn, ông ta kể lại những chiến công thời trai trẻ của mình vói điệu bộ thậm chí còn sôi động hơn. Người Mỹ đi vào những cuộc đàm phán bí mật với viên tướng này và kế hoạch đã được dự trù để đưa ông ta từ Riviera đến Gibraltar vào thời điểm quyết định. Nhiều hy vọng được đặt vào "King-pin" (Trụ cột) như mật mã chúng tôi dùng để chỉ ông ta và trải qua ít nhiều nguy hiểm trong chuyến đi, Giraud và hai đứa con trai đã được chuyển đến nơi an toàn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #381 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 10:56:33 pm »


*

        Trong lúc đó hạm đội lớn của chúng tôi đang tiến gần vào cuộc. Phần lớn những đoàn tàu nhổ neo từ cảng nước Anh đã phải đi ngang qua vịnh Biscay, luồn lách qua khắp các tuyến đường có tàu ngầm Đức. Phải cần đến lực lượng hộ tống mạnh và chúng tôi đã phần nào phải giữ bí mật che giấu không chỉ đối với sự tập trung các tàu chiến vốn đã bắt đầu tụ tập đông đúc từ đầu tháng 10 tại Clyde và những cảng phía Tây khác, mà còn giấu cả việc di chuyển thực sự của các đoàn tàu. Chúng tôi đã hoàn toàn thành công. Tình báo Đức đã làm cho người Đúc tin rằng Dakar một lần nữa lại là mục tiêu của chúng tôi. Vào cuối tháng, khoảng 40 tàu ngầm Đức và Ý được đưa đến tập kết ở phía Đông và Nam quần đảo Azores. Chúng đã nghiến nát một hạm đội lớn đang trên đường trở về Sierra Leone và đánh chìm 13 tàu. Trong hoàn cảnh này, thì điều này có thể chấp nhận được.

        Đoàn đầu tiên của "Torch" ròi Clyde vào ngày 22/10. Trong ngày 26, tất cả các tàu cao tốc chở lính đã vào cuộc và lực lượng Mỹ xuất phát từ Mỹ đang tiến thẳng về phía Casablanca. Toàn bộ chuyến đi gồm khoảng 650 tàu chiến lúc này đã được đưa vào cuộc, đoàn đi qua vịnh Biscay hay Đại Tây Duong mà không bị tàu ngầm Đức hay Luftwaffe (không quân Đức) phát hiện.

        Tất cả nguồn lực của chúng tôi đã được sử dụng hết mức. Xa hơn về phía Bắc thì các tuần dương hạm của chúng tôi đã canh gác eo biển Đan Mạch và những lối ra từ biển Bắc để đề phòng sự xâm nhập của tàu nổi địch. Những chiếc khác yểm trợ cho việc tiến quân của quân Mỹ gần vùng Azores và máy bay oanh tạc Anh - Mỹ tấn công căn cứ tàu ngầm Đức dọc theo vùng ven bờ biển Đại Tây Dương của Pháp.

        Những con tàu dẫn đầu bắt đầu tiến vào Địa Trung Hải đêm 5 - 6/11 mà không bị phát hiện. Mãi cho đến trước ngày 7, khi hạm đoàn Algiers cbn cách điểm đến chưa đầy 24 giơ đồng hồ thì bị phát hiện, nhưng ngay khi đó, chỉ có một con tàu bị tấn công.

        Ngày mồng 5 tháng 11, Eisenhower trong một chuyến bay đầy hiểm nguy đã đến Gibraltar. Tôi đã đặt pháo đài trong phạm vi chỉ huy của ông ta như là Tổng hành dinh tạm thời, người lãnh đạo công trình Mỹ - Anh thứ nhất có qui mô lớn. Ở đây đã diễn ra sự tập trung lớn các máy bay chiến đấu dùng cho "Torch".

        Toàn bộ eo đất dầy đặc những máy móc và 14 liên đội chiến đấu cơ được tập trung lúc 0 giơ. Tất cả những hoạt động này diễn ra nhất thiết không qua được con mắt của các nhà quan sát Đức và chúng tôi chỉ có thể hy vọng họ sẽ nghĩ đó là sự tăng cường cho Malta. Chúng tôi đã cố gắng hết sức để khiến họ tin như vậy. Rõ ràng là họ đã tin như thế.

        Tướng Eisenhower, trong hồi ký của mình, đã kể lại một cách sống động những kinh nghiệm về lo âu suốt đêm 7-8/11 và một vài ngày tiếp theo. Ông ta luôn giỏi chịu đựng sự căng thẳng kiểu này. Việc đánh cược vào một ván bài quá lớn đang diễn ra sự bất ổn định của thời tiết có thể làm hỏng mọi việc, tin tức vụn vặt được đưa đến, sự phức tạp kỳ quặc trong thái độ của Pháp, mối hiểm họa từ Tây Ban Nha - tât cả, ngoại trừ tác chiến thực sự, đã là một sự thách thức lớn đội với vị Chỉ huy, người có trách nhiệm cao nhất. Trong tình hình này tướng Giraud xuất hiện. Ông ta đến với ý nghĩ rằng ông ta sẽ được chỉ định làm Tổng tư lệnh ở Bắc Phi và rằng quân đội Anh - Mỹ, mà thực lực của họ ông ta lại chưa biết trước, sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy của ông ta. Tự ông ta thúc giục mạnh mẽ việc đổ bộ lên đất Pháp thay vì Châu Phi hoặc ngoài châu Phi, có lúc dường như tưởng tượng rằng hình ảnh đó là hiện thực. Việc tranh cãi kéo dài trên 48 tiếng đồng hồ đã xảy ra giữa ông ta và tướng Eisenhower trước khi người đàn ông Pháp dũng cảm này có thể bị thuyết phục bởi quy mô của các công việc. Chúng tôi đã trông chờ quá nhiều vào "King-pin” (Trụ cột) và chẳng có ai phải hiểu hơn ông ta về ảnh hưởng của mình đối với các viên Toàn quyền và các tướng lĩnh, và thực tế là đoàn sĩ quan Pháp Bắc Phi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #382 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 10:56:57 pm »


        Kết quả cuối cùng là một sự rắc rối kỳ cục nhưng đầy may mắn đã xảy ra. Đô đốc Darlan sau khi hoàn thành chuyến đi thị sát của ông ở Bắc Phi, đã quay lại Pháp. Con trai ông ta mắc phải chứng bệnh liệt ở trẻ con và được đưa đến bệnh viện ở Algiers. Tin về tình trạng nguy hiểm của con trai đã khiến đô đốc phải đi máy bay quay về ngày 5/11. Ồng ta vì vậy tình cờ có mặt ở Algiers vào lúc trước cuộc tấn công của liên quân Anh - Mỹ. Đây là một sự trùng hợp kỳ lạ và gây ấn tượng mạnh. Ông Robert Murphy, đại diện chính trị của Mỹ ở Bắc Phi, hy vọng rằng ông ta sẽ ra đi trước khi xảy ra cuộc tấn công vào bờ biển. Nhưng Darlan, quá lo lắng cho bệnh tình của con trai, đã nấn ná thêm một ngày, nghỉ tại dinh thự của một quan chức Pháp, đô đốc Fénard.

        Hy vọng chính của chúng tôi ở Algiers trong những tuần gần đây là tướng Juin, chỉ huy quân, đội Pháp. Ông ta có mối quan hệ thân tình với Murphy, cho dù cuộc hẹn ngày khỏi sự thực tế lại không được thông báo cho ông ta. Một lúc sau nửa đêm ngày mồng 7, Murphy đến thăm Juin để thông báo cho ông ta biết rằng giờ G đã đến. Một liên quân Mỹ - Anh hùng mạnh được yểm trợ bởi lực lượng hải quân và không quân vượt trội, đang tiến đến và sẽ đổ bộ xuống Châu Phi trong một vài giờ nữa. Tướng Juin, cho dù sự cam kết sâu sắc và trung thành với kế hoạch, vẫn bị choáng bởi tin này. Ông ta đã tự cho rằng mình sẽ hoàn toàn làm chủ tình hình ở Algiers. Nhưng ông ta biết rằng sự có mặt của Darlan đã hoàn toàn phủ lên trên quyền hành của ông ta. Dưới quyền ông ta là vai trăm trai tráng Pháp hăng hái nhiệt tình. Ông ta chỉ biết quá rõ rằng toàn bộ quyền điều khiển quân đội và chính trị đã tuột khỏi tay mình và chuyển sang tay Đô đốc. Bây giờ chắc chắn ông ta sẽ không chỉ huy được ai cả. Tại sao, ông ta tự hỏi, ông ta đã không được biết đến điều đó trước giơ 0? Lý do đã rõ ràng va sự thật thì cũng sẽ chẳng làm thay đổi được gì cho quyền hành của ông ta. Darlan đang có mặt tại đây và Darlan là thống soái của mọi sự trung thành với nước Pháp Vichy. Murphy và Juin đã quyết định gọi điện thoại mời ông ta đến ngay trước 2 giờ sáng, đang ngủ thì điện khẩn làm ông ta bật dậy và đến ngay. Khi được thông báo sự kiện sắp xảy ra, ông ta đỏ mặt tía tai và nói "Tôi đã biết lâu rồi, người Anh ngốc lắm, nhưng tôi luôn luôn tin rằng: người Mỹ thông minh hơn. Tôi bắt đầu tin rằng các ông cũng đã mắc sai lầm như họ vậy".

        Darlan, người mà sự ác cảm với Anh đã quá nổi tiếng, trong một thời gian dài đã cam kết với phe Trục. Vào tháng 5/1941, ông ta đã đồng ý giành những thuận lợi cho quân Đức ở Dakar, cũng như để đồ cung cấp tiếp tế cho quân đội của Rommel được chuyển qua Tunisia. Vào lúc đó, việc làm phản bội đó đã bị chặn bởi tướng Weygand, người chỉ huy ở Bắc Phi và người đã thành công trong việc thuyết phục Pétain từ chối lời đòi hỏi này của Đức. Hitler lúc đó hoàn toàn bận rộn với chiến dịch đánh chiếm Nga sắp xảy ra đã không thúc ép vấn đề bất chấp những lời khuyên ngược lại từ ban tham mưu hải quân của ông ta. Vào tháng 11 năm đó, Weygand không còn được Đức tin tưởng nữa, đã bị rút khỏi nhiệm vụ chỉ huy. Cho dù không có tin thêm gì nữa về kế hoạch của phe Trục dùng Dakar chống lại chúng tôi, các cảng ở Tunisia được mở sau đó dành cho tàu bề phe Trục và đóng một vai trò trong việc tiếp tế cho quân đội của Rommel trong suốt mùa hè năm 1942. Giơ đây, tình thế đã thay đổi kéo theo sự thay đổi thái độ của Darlan, nhưng bất chấp những ý nghĩ ông ta có thể có về việc ủng hộ sự chiếm đóng ở Bắc Phi của quân Anh - Mỹ, bên ngoài ông ta vẫn con bị ràng buộc với Pétain trên cả thực tế lẫn hình thức. Ông ta biết rằng nếu như ông ta chạy sang hàng ngũ quân đồng minh, cá nhân ông ta sẽ chịu trách nhiệm về việc Đúc xâm lăng nước Pháp. Vì vậy điều mà ông ta có thể có ưu thế để làm là điều yêu cầu Pétain cho phép ông ta hành động. Trong cái số phận kinh khủng mà ông ta bị lôi cuốn vào bởi hàng loạt sự kiện vô lương tâm thì đây là lối thoát duy nhất cho ông ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #383 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 10:57:16 pm »


        Ngay sau một giờ sáng 8/11, việc đổ bộ quân của Anh - Mỹ bắt đầu tại nhiều nơi ở các phía Đông và Tây Algiers dưới sự điều khiển của Phó Đô đốc Burrough. Nhiều sự chuẩn bị chu đáo đã được tiến hành để hướng dẫn tàu đổ bộ quân tại những bờ biển đã được chọn sẵn. Ở phía Tây, những đơn vị dẫn đầu của lữ đoàn 11 Anh đã hoàn toàn thành công, nhưng xa hơn về phía Đông thì tàu vận tải và tàu đổ bộ chở lính Mỹ lại chệch vị trí đã định sẵn một vài dặm bởi một đợt thủy triều bất ngờ và trong bóng tối thì đã có phần nào sự hỗn loạn và chậm trễ. May thay, chúng tôi giành được thế chủ động và không có nơi nào có sự chống đối nghiêm trọng dọc theo bờ biển. Việc làm chủ tình thế sớm được hoàn tất. Một phi cơ thám thính của toán không quân quan sát dùng các tín hiệu từ mặt đất, đã hạ cánh tại phi trường Blida và với sự họp tác của chỉ huy quân Pháp ở địa phương giữ được sân bay cho đến khi quân Đồng minh đến từ các bãi biển.

        Cuộc chiến ác liệt nhất xảy ra ngay tại cảng Algiers. Ở đây, 2 tàu khu trục Anh Broke và Malcolm đã cố gắng mở lối để bộ lính biệt kích Mỹ lên để chắn sóng nhằm tiếp quản cảng, chiếm các cụm pháo và ngăn cản việc đắm tàu. Điều này đã khiến họ nằm trong tầm ngắm trục diện của các đơn vị pháo phòng ngự và đã kết thúc trong tai họa. Chiếc Malcom đã sớm bị đánh hỏng nhưng chiếc Broke vẫn tiến vào cảng trong nỗ lục lần thứ 4 và đổ bộ được sô quân của mình. Sau đó, trong khi rút lui, nó đã bị hỏng nặng và cuối cùng bị đắm. Nhiều quân lính bị kẹt trên bờ và phải đầu hàng.

        Vào lúc 5 giơ chiều, Darlan điện cho chỉ huy của mình thông báo rằng "Quân Mỹ đã tiến vào thành phố bất chấp việc chúng tôi làm chậm bước tiến của họ. Tôi đã ủy quyền cho tướng Juin, tổng chỉ huy chỉ để thương lượng duy nhất về việc đầu hàng của riêng thành phố Algiers". Việc đầu hàng của Algiers có hiệu lực từ 7 giờ tối. Từ lúc đó, đô đốc Darlan nằm trong tay người Mỹ và tướng Juin lại nắm quyền dưới sự chỉ huy của quân Đồng minh.

        Tại Oran đã có sự chống đối mạnh hơn. Những đơn vị chính qui Pháp, những người đã giao chiến với quân Anh ở Syria và nhũng người dưới sự chỉ huy hải quân với những hồi ức cay đắng về cuộc tấn công của chúng tôi vào hạm đội Pháp năm 1940, đã giao tranh với lực lượng "đặc nhiệm" Mỹ. Một tiểu đoàn lính nhảy dù Mỹ khỏi hành từ Anh để chiếm lấy sân bay đã bị phân tán trên đất Tây Ban Nha trong tiết trời giông bão. Lực lượng đi đầu vẫn tiếp tục nhung bộ phận hoa tiêu đã nhầm lẫn và họ phải hạ cánh cách mục tiêu của mình vài dặm.

        Hai tàu chiến nhỏ của Anh cố gắng đưa một nhóm lính Mỹ vào cảng Oran. Mục tiêu của họ, cũng như tại Algiers, là ngăn chặn không cho quân Pháp phá hỏng các phương tiện của cảng hoặc phá hoại các tàu và sớm biến nó thành căn cứ của Đồng minh vào thời điểm sớm nhất. Lãnh đạo bởi Đại tá F.T Peters, tàu Walney và Hartland nguyên là hai tàu bảo vệ bờ biển trước đây của Mỹ đã được chuyển cho chúng tôi theo thỏa thuận cho mượn đã gặp phải hỏa lực dữ dội của pháo bắn thẳng và đã bị phá hủy với phần đông người còn lại trên tàu. Đô đốc Peters đã thoát chết một cách thần kỳ, nhưng cũng chỉ để gặp tử thần sau đó vài ngày trong một tai nạn máy bay lúc ông đang quay trở về Anh. Sau đó ông đã được truy tặng huân chương Victoria và huân chương cống hiến đặc biệt của Mỹ.

        Vào lúc bình minh, các tàu khu trục và tàu ngầm Pháp hoạt động ở vịnh Oran nhưng cũng đã bị đánh đắm hay bị phân tán. Các cỗ pháo ở bờ biển bị đánh bom và oanh tạc bởi lực lượng hải quân Anh trong đó có cả chiếc Rodney. Cuộc giao chiến tiếp tục cho đến sáng mồng 10 khi quân Mỹ mở đợt tấn công cuối cùng vào thành phố. Đến chiều thì quân Pháp đầu hàng. Chiếc "Western Task Force" đến bờ biển Maroc trước buổi bình minh ngày 8/11. Trận đột kích chính xảy ra gần Casablanca với những đợt tấn công vào các sườn phía Bắc và phía Nam. Trời đẹp nhưng hơi mù sương và sóng ở bãi biển cũng không nghiêm trọng như e ngại. Sau đó thì tình hình có tệ đi, nhưng vào lúc đó thì đã có một vị trí trụ vững chắc. Có lúc đã có giao chiến dữ dội. Trên biển xảy ra một trận ác liệt. Nằm ở Casablanca là một tàu chiến mới chưa hoàn thành tên là Jean Bart, chưa chạy được nhưng lại có thể sử dụng được các pháo 14 inch. Con tàu này sớm phải đụng độ với chiến đấu hạm Massachussets của Mỹ trong khi đội tàu nhỏ của Pháp, được yểm trợ bởi chiếc Primauguet tiến ra ngăn chặn việc đổ bộ. Chúng gặp phải toàn bộ hạm đội Mỹ. Bảy tàu bay và ba tàu ngầm bị Pháp phá hủy với một ngàn lính thương vong. Chiếc Jean Bart bốc cháy dữ dội và được đưa vào bờ, và mãi cho đến lúc trời chưa sáng ngày 11/11 thì Nogues, viên Thống sứ Pháp, theo lệnh của Darlan, đã đầu hàng. "Tôi đã đánh mất" ông ta kể lại "toàn bộ tàu chiến và máy bay chiến đấu sau 3 ngày giao tranh ác liệt". Đại tá Mercier chỉ huy chiếc Primauguet khao khát chiến thắng của quân Đồng minh nhưng ông ta lại chết trên boong tàu khi mệnh lệnh của ông đang được thi hành. Tất cả chúng tôi có thể rất cảm kích nếu cuộc sống của chúng tôi không bị lấy đi bởi những chuyện đáng kinh sợ và những sự trung thành đối lập nhau như vậy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #384 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 10:57:36 pm »


*

        Những tin tức vụn vặt của tất cả các sự kiện này bắt đầu đến tổng hành dinh của tướng Eisenhower ở Gibraltar và bây giờ ông ta phải đương đầu với một tình thế chính trị nghiêm trọng. Ông ta đã đồng ý với Giraud là trao cho ông này quyền chỉ huy các lực lượng Pháp có thể theo phe Đồng minh. Bây giờ đột nhiên lại xuất hiện ở trung tâm các sự việc một nhân vật có quyền quyết định xem ai trong số họ sẽ chạy sang phía Đồng minh theo một cách có trật tự. Sự hy vọng rằng họ sẽ theo Giraud lại chưa được kiểm tra và những phản ứng đầu tiên không mấy khích lệ. Vì vậy vào sáng 9 tháng 11, tướng Giraud, và một lúc sau là tướng Clark, với tư cách là đại diện cho cá nhân của tướng Eisenhower đã bay đến Algiers.

        Việc tiếp đón Giraud của những viên chỉ huy hàng đầu Pháp thật lạnh nhạt. Tổ chức Kháng chiến địa phương, được sự hỗ trợ của các nhân viên Anh và Mỹ đã sụp đổ hoàn toàn. Cuộc hội đàm đầu tiên của Clark với Darlan không mang lại một thỏa thuận nào. Rõ ràng là chẳng có nhân vật quan trọng nào sẽ thừa nhận Giraud là Tổng chỉ huy tối cao của quân đội Pháp. Sáng hôm sau tướng Clark sắp xếp cuộc gặp gỡ thứ hai với đô đốc. Ông ta nói chuyện qua máy vô tuyến với Eisenhower rằng giải pháp duy nhất là phải giải quyết với Darlan. Cũng chẳng có thời gian để đi vào việc trao đổi bằng điện thoại với Luân Đôn và Washington nữa. Giraud đã không có mặt. Darlan do dự với lý do là không có chỉ thị của Wichy. Clark dành cho ông ta nửa giờ để quyết định. Cuối cùng viên đô đốc đã đồng ý ra một lệnh "ngừng bắn" chung trên khắp Bắc Phi "nhân danh Thống chế" ông ta nắm toàn bộ quyền hành trên toàn lãnh thổ Bắc Phi thuộc Pháp và ra lệnh cho tất cả các viên chức vẫn tiếp tục làm việc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #385 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 11:00:53 pm »


20

HỘI NGHỊ CASABLANCA

        Dư luận về quân sự ở Mỹ, không riêng gì trong giói quan chức cao cấp, đều tin rằng quyết định đối với "Torch" (Ngọn đuốc) đã loại trừ mọi khả năng trong năm 1943 có một cuộc hành quân lớn vượt biển Manche vào nước Pháp bị chiếm đóng. Bản thân tôi vẫn chưa chấp nhận quan điểm nay. Tôi vẫn cồn hy vọng khu vực Bắc phi của Pháp gồm cả mũi Tunis sẽ rơi vào tay chúng tôi sau vài tháng giao tranh. Trong trường họp này, việc tiến hành một cuộc đưa quân lớn vào nước Pháp bị chiếm đóng xuất phát từ Anh vẫn có thể thực hiện được vào tháng 7 hay tháng 8 năm 1943. Vì vậy, tôi rất lo lắng là việc tập trung sức mạnh nhất của Mỹ trên đất ở Anh mà tầu bè của chúng tôi có thể cho phép phải được diễn ra cùng lúc với chiến dịch "Ngọn đuốc". Ý tưởng dùng cả 2 tay của chúng tôi; và kẻ thù phải đối phó với những cú đấm từ cả 2 phía có vẻ phù hợp hoàn toàn với kiểu tiến hành chiến tranh tiết kiệm nhất. Chính tình hình sẽ quyết định liệu chúng tôi nên tiến công qua biển Manche hay làm theo sự may mắn của chúng tôi ở Địa Trung Hải, hoặc là làm cả 2. Vì lợi ích của toàn bộ cuộc chiến và trợ giúp cho nước Nga, hình như vấn đề cấp bách là liên quân Anh - Mỹ nên tiến vào Châu Âu hoặc là từ phía Đông hoặc là từ phía Tây trong năm tói. Tuy nhiên có một nguy cơ là chúng tôi không thể làm được điều này. Dù cho chiến dịch chúng tôi ở Algiers và Tunisia phát triển thắng lợi nhanh chóng, thì chúng tôi vẫn phải bằng lòng với việc chiếm Sardinia hay Sicily hoặc cả 2 và hoãn vượt biển Manche cho đến 1944. Điều này có nghĩa là một năm lãng phí cho phe đồng minh với kết quả không chỉ đe dọa thực sự sự sống còn của chúng tôi mà đến cả một chiến thắng quyết định. Chúng tôi không thể đánh mất 5 hay 6 trăm nghìn tấn hàng một tháng mãi được. Sự bế tắc chính là hy vọng cuối cùng của Đúc.

        Trước khi người ta biết điều gì sẽ xảy ra ở Alamein hay với "Torch" và trong khi cuộc chiến kinh khủng ở vùng Caucase chưa phân thắng bại, thì các Tham mưu trưởng Anh đang cân nhắc tất cả những vấn đề nay. Các nhân viên làm kế hoạch cấp dưới của họ cũng rất bận rộn. Theo tôi các báo cáo của họ không quá tiêu cục, và từ 2 bờ Đại Tây Duong, chúng tôi đi đến một loạt bế tắc kết hợp. Các ban tham mưu Anh thiên về phía Địa Trung Hải và sự tấn công vào Sardinia và Sicily với mục tiêu là Italy. Các chuyên gia Mỹ đã mất mọi hy vọng vượt kênh đào năm 43 nhưng rất lo lắng không để bị dính líu vào Địa Trung Hải đến mức cản trở những thiết kế lớn năm 1944 của họ. Tháng 11 tôi viết "Dường như là tổng số sự sợ hãi của Mỹ được nhân lên với tổng số sự sợ hãi của Anh, xuất phát một cách trung thực từ mỗi quân chủng".

        Có thể nói rằng diễn biến của các sự kiện cho thấy tôi đã quá lạc quan về triển vọng ở Bắc Phi va các ban tham mưu Mỹ đã đúng khi cho rằng quyết định về "Torch" mà chúng tôi đưa ra hồi tháng 7 đã làm tiêu tan khả năng vượt biển Manche vào năm 1943. Rõ ràng là việc đã xảy ra như thế. Không ai có thể dự đoán vào thời điểm này là liệu Hitler sẽ có một nỗ lực lớn lao tăng viện cho mũi Tunis bằng cách phái đến đó bằng đường hàng không và đường biển 100.000 quân thiện chiến bất kể những tổn thất nặng nề. Đối với Hitler đây là một sai lầm nghiêm trọng về chiến lược. Dĩ nhiên điều này đã làm chậm lại thắng lợi của chúng tôi ở Châu Phi trong nhiều tháng. Giá như ông ta giữ lại lục lượng thay vì bị bắt hoặc bị tiêu diệt ở đó trong tháng 5, thì hoặc là ông ta có thể tăng cường cho mặt trận Nga đang bị đẩy lùi, hoặc cũng có thể tập hợp lực lượng ở Normandy để cản trở cố gắng đổ bộ của chúng tôi năm 43 dù cho chúng tôi có quyết tâm làm như vậy. Đến nay hầu như chẳng ai tranh cãi về sự đúng đắn của quyết định mà phải cho tới 1944. Trong lương tâm tôi, rõ ràng là tôi không đánh lừa Staline hoặc làm cho ông ta hiểu sai. Tôi đã làm hết sức mình. Mặt khác, để xâm nhập lục địa châu Âu từ phía Địa Trung Hải trong chiến dịch sắp tới, để liên quân Anh Mỹ tiếp cận hoàn toàn với địch thì tôi vẫn hài lòng với quyết định mà định mệnh và các sự kiện phải áp đặt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #386 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 11:01:11 pm »


        Quả thực hiện thời chúng tôi đã thất bại và bị động rõ ràng ở Bắc Phi. Dù cho chúng tôi ở thế chủ động và lợi thế gây bất ngờ, nhưng việc tăng tiến của chúng tôi nhất thiết là chậm. Chuyên chở đường thủy có những giới hạn nghiệt ngã của nó. Việc xếp dỡ hàng ở Algiers và Roma bị phi cơ địch cản trở. Vận tải bộ không có. Đường sắt độc tuyến ven biển dài 500 dặm ở trong tình trạng xấu với hàng trăm cầu cống đều có thể bị phá hoại. Khi một số lượng lớn quân Đức được không vận tới Tunis, thì một sự kháng cự bậc cao, ngoan cường và dữ dội bắt đầu. Các lực lượng Pháp giơ đây đã đi với chính nghĩa của chúng tôi có trên 1.000 nguời. Đại bộ phận là quân đội bản xứ chất lượng tốt, nhung trang bị nghèo nàn và thiếu tổ chức. Tướng Eisenhower tung ra phía trước những đơn vị Mỹ mà ông có trong tay. Chúng tôi cũng tung vào tất cả cái mà chúng tôi có thế làm được.

        Ngày 28/11 một lữ đoàn bộ binh của Anh với 1 phần của sư đoàn thiết giáp số một của Mỹ tiến gần tới Djedeida chỉ cách Tunis 12 dặm. Đây là cao điểm của đợt giao tranh mùa đông.

        Rồi bây giơ đến mùa mưa. Trời mưa rất to. Sân bay được tạo dựng mà không có sự chuẩn bị trước của chúng tôi trở thành nhũng bãi lầy. Không lực Đức tuy không nhiều về số lượng nhưng lại xuất kích từ các sân bay có thời tiết tốt. Ngày 1/12 Đức phản công, đẩy lùi đợt tiến công theo kế hoạch của chúng tôi và trong vài ngày chúng tôi buộc phải lùi về Medjez. Chi viện cho quân tiền phương chỉ có thể qua đường biển trên quy mô nhỏ. Quả thực là khó có thể cung cấp lương thục cho đoàn quân chứ đùng nói là lập các kho lương thực. Mãi cho đến trước khuya đêm 22/12 chúng tôi mới lại có thể mở một đợt tấn công mới với một vài thắng lợi ban đầu, nhung từ rạng sáng là bắt đầu mưa suốt 3 ngay như trút nước. Sân bay chúng tôi trở nên vô dụng và xe cộ chỉ có thể đi dọc theo các đường chất lượng tồi.

        Tại một hội nghị vào ngày trước đêm Noel, tướng Eisenhower quyết định bỏ kế hoạch chiếm ngay Tunis cho đến khi chiến dịch lại bắt đầu nhằm bảo vệ các sân bay tiền phương trên toàn tuyến đã chiếm được. Dù quân Đức có chịu thiệt hại lớn trên biển, nhung lực lượng họ ở Tunisie vẫn mạnh lên. Cuối tháng 12 quân số lên gần tới 50.000.

        Trong khi đó quân đoàn 8 dàn ra trên những khoảng cách rất lớn. Rommel thành công trong việc rút lục lượng tan rã từ Alamein về. Cánh quân đoạn hậu bị ép mạnh nhưng một cố gắng vượt lên phía trước ông ta về phía Nam Bengazhi để đánh vu hồi đã bị thất bại. Ông dừng nghỉ ở Agheila trong khi Montgomery, sau đợt tiến quân dài, cũng gặp phải khó khăn tương tự về vận chuyển và chi viện mà các người tiền nhiệm đã thất bại không giải quyết được. Ngày 13/12, Rommel bị đánh bật và hầu như bị cô lập tiếp theo 1 trận vận động chiến theo đường vòng của Sư đoàn 2 Tân Tây Lan. Ông chịu tổn thất và Không lực Sa mạc phá hoại nặng nề việc vận tải trên tuyến đường ven biển. Thoạt tiên Montgomery chỉ có thể truy kích với lực lượng nhỏ. Quân đoàn thứ 8 đã tiến 1200 dặm kể từ trận Alamein. Sau khi chiếm Sirte và các bãi đáp ở đó vào ngày Giáng sinh, quân chúng tôi tiến gần tới căn cứ chính tiếp theo của Rommel gần Buerat vào cuối năm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #387 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 11:01:34 pm »


*

        Trong khi đó các thủ trướng trong ủy ban tham mưu trình bày hai báo cáo cho Nội các Chiến tranh tóm lược quan điểm của mình về chiến lược sắp tói sau khi đã xem xét kỹ. Trong phần kết luận, họ nhấn mạnh sự khác biệt nghiêm trọng về quan điểm giũa họ và đồng nghiệp phía Mỹ. Đó là sự khác biệt về trọng tâm và ưu tiên chứ không phải về nguyên tắc. Các Tham mưu trưỏng Anh cho rằng chính sách tốt nhất là nên bám chặt "Torch" (Ngọn đuốc) theo sau đó là sự chuẩn bị rộng lớn tói mức có thể được, để vượt biển Manche vào năm 43, trong khi đó các Tham mưu trưởng Mỹ lại thiên về tập trung sự cố gắng chính cho châu Âu, vào việc vượt biển Manche, và trụ vững ở Bắc Phi. Đây là vấn đề then chốt. Điều này chỉ có Tổng thống Mỹ và tôi mới giải quyết được, và sau khi thảo luận kỹ, chúng tôi quyết định họp giải quyết vấn đề này ở Casablanca.

        Tôi bay đến Casablanca ngày 12/1/1943. Chuyến bay của tôi có chút lo ngại. Để làm nóng máy chiếc máy bay "Cammando", họ đã gắn một động cơ xăng ở bên trong, nhằm tạo khói và làm tăng cao nhiệt độ ở các điểm phát nhiệt. Tôi bị đánh thức lúc 2 giơ sáng khi đang bay trên Đại Tây Dương, một trong các điểm phát nhiệt làm bỏng các ngón chân tôi, và nó có vẻ như sắp đỏ rực lên và làm cháy các tấm chăn. Do đó tôi leo ra khỏi khoang và đánh thức Peter Portal ở tầng dưới và lưu ý anh ta về điểm phát nhiệt rất nóng này. Chúng tôi nhìn quanh cabin và phát hiện 2 điểm khác cũng sắp sửa đỏ rực. Sau đó chúng tôi đi xuống khoang chứa bom (đây là máy bay ném bom được cải tạo) và phát hiện 2 người đang mải mê điều khiển máy sưởi chạy bằng xăng này. Dĩ nhiên, về mọi mặt, tôi cho hiện tượng này là rất nguy hiểm. Các điểm phát nhiệt có thể gây ra đám cháy lớn và hơi xăng sẽ gây nổ. Portal cũng đồng ý với tôi. Tôi quyết định tốt hơn là chịu lạnh thay vì nóng và tôi ra lệnh tắt tất cả các máy sưởi. Chúng tôi trở lại nằm nghỉ, người run lên trong cái lạnh mùa đông băng giá ở độ cao 8.000 bộ, tức là bay ở trên mây. Tôi phải nói điều này thực sự là khó chịu đối với tôi.

        Khi chúng tôi đến Casablanca, sự sắp xếp nơi ăn chốn ở thật là tuyệt vời. Một khách sạn lớn ở ngoại ô Anfa với chỗ ở rộng rãi cho tất cả các ban tham mưu Anh. Mỹ và các phòng hội nghị lớn. Xung quanh khách sạn có nhiều biệt thự cực kỳ thuận tiện dành cho Tổng thống, cho tôi, tướng Giraud, và cả tướng De Gaulle, nếu ông ấy đến. Toàn bộ khuôn viên được bao bọc dây thép gai và quân Mỹ canh gác cẩn mật. Tôi và ban tham mưu có mặt ở đó 2 ngày trước khi Tổng thống đến. Tôi có những cuộc đi dạo thú vị với Pound và các Tham mưu trưởng khác trên những mỏm đá và bãi biển. Những con sóng kỳ lạ cuồn cuộn xô bờ với những đám mây bọt lớn đã tạo ra điều kỳ diệu là ai cũng có thể đặt chân được lên bờ biển khi đổ bộ. Không có ngày biển lặng. Những con sóng cao 15 bộ luôn gầm thét trên những mỏm đá. Không lạ gì khi có nhiều tàu bè bị lật. Con trai tôi Randolph từ mặt trận Tunisia đi ngang tới. Có nhiều thứ phải nghĩ tói và 2 ngày trôi qua nhanh. Trong khi đó, các ban tham mưu hằng ngày họp bàn với nhau trong nhiều giờ liền.

        Tổng thống đến chiều ngày 14. Chúng tôi có một cuộc họp mặt thân mật và nó làm tôi rất vui khi gặp gỡ người đồng nghiệp lớn của tôi trên mảnh đất bị chinh phục, được giải phóng này, mà tôi và ông đã giành được bất chấp lời khuyên của các chuyên gia quân sự của ông. Hôm sau, tướng Eisenhower đến sau một chuyến bay nguy hiểm. Ông rất nóng lòng muốn biết đường lối của các Tham mưu trưởng liên quân sẽ chọn mặt trận nào và muốn liên lạc với họ. Máy bay chỉ huy của họ hoàn toàn thuộc tiêu chuẩn cao hơn máy bay của Eisenhower. Một hoặc hai ngày sau đó thì Alexander đến báo cáo với tôi và Tổng thống về sự tiến bộ của quân đoàn thứ 8. Alexander đã tạo ấn tượng tốt đẹp với Tổng thống. Tổng thống bị ông ta hấp dẫn do ông báo tin quân đoan 8 sắp sửa chiếm Tunis. Ông giải thích việc Montgomery với 2 quân đoàn hùng hậu đã dồn tất cả xe cộ vào 1 quân đoàn, sẽ giúp cho việc đẩy lùi Rommel chạy từ Tripoli về mặt trận Mareth - một vật cản rất lớn. Mọi người rất vui mừng về tin đó và khuôn mặt tươi cười đầy thiện cảm của Alexander đã chiếm được cảm tình của mọi ngươi. Niềm tin thầm kín trong ông đang lan tỏa ra xung quanh. Sau 10 ngày thảo luận về các vấn đề mấu chốt, các Tham mưu trưởng liên quân đi đến thỏa thuận, cả tôi và Tổng thống liên lạc hàng ngày với nhóm này và nhất trí với nhau về công việc của họ. Chúng tôi đã thống nhất là nên tập trung toàn bộ vào việc chiếm Tunis bằng cả quân đoàn Sa mạc và tất cả lực lượng mà Anh có thể có được, cùng với quân của tướng Eisenhower. Alexander sẽ làm đại diện cho Eisenhower và sau cùng tiến tới chịu trách nhiệm hoàn toàn các chiến dịch, về bước khác, trước mắt cụ thể là chúng tôi sẽ tấn công Sicily hay Sardinia. Việc này cũng được nhất trí. Những bất đồng không phải do các đường lối của mỗi nước mà chủ yếu là giữa các Tham mưu trưởng và các nhà làm kế hoạch của liên quân. Tôi tin chắc rằng Sicily sẽ là mục tiêu tiếp theo và các Tham mưu trưởng chỉ huy liên quân cũng nhất trí. Trong khi đó các nhà làm kế hoạch của liên quân cùng Huân tước Mountbatten lại cho rằng chúng tôi nên tấn công Sardinia hơn là Sicily, vì theo họ điều này có thế làm được sớm hơn 3 tháng. Mountbatten còn nhấn mạnh quan điểm của mình với Hopkins va một số người khác. Tôi vẫn giữ ý kiến đánh Sicily với sự hậu thuẫn của các Tham mưu trưởng liên quân. Các nhà làm kế hoạch liên quân tuy cũng tôn trọng nhưng vẫn một mực cho là không thể đánh trước 30/8. Đến đây bản thân tôi cùng với họ xem xét rất kỹ các số liệu và sau đó Tổng thống và tôi ra lệnh lấy Ngày D vào thời kỳ thuận lợi có trăng của tháng 7 hoặc tháng 6 nếu có thể. Trong trường hợp đó quân đội được không vận vào cuộc đêm 9/7. Các cuộc đổ bộ bắt đầu vào sáng 10/7.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #388 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2019, 11:02:07 pm »


*

        Trong khi đó vấn đề về De Gaulle đã được đưa ra. Quyền hành của ông được chuyển giao êm thấm cho một tổ chức lập ra theo sự nhất trí của Mỹ, từ tháng 11 đến tháng 12. Giraud lấp khoảng trống đó bằng con đường đã được mở ra cho các lực lượng Pháp hiện đang tập kết ở Bắc và Tây Bắc Phi Châu liên minh với Phong trào Tự do Pháp của De Gaulle và tất cả những người Pháp trên khắp thế giới sống ngoài vòng kiểm soát của quân Đức. Lúc này tôi rất sốt ruột chờ De Gaulle tới và Tổng thống nói chung cũng như vậy. Tôi yêu cầu ông Roosevelt điện mời ông ta tới. Vị tướng này rất cao ngạo và từ chối nhiều lần. Sau đó tôi nhờ Eden gây áp lực mạnh với ông ta, thậm chí tới mức nói rằng nếu ông ta (De Gaulle) không tới, chúng tôi vẫn sẽ khăng khăng yêu cầu có người thay thế lãnh đạo của ủy ban Giải phóng Pháp ở Luân Đôn. Rốt cuộc ngày 22/1 De Gaulle tới và được ở biệt thự gần biệt thự của Giraud. Ông chẳng muốn đến gặp Giraud và phải mất vài giờ thuyết phục, cuộc gặp mới diễn ra. Cuộc nói chuyện rất căng thẳng, tôi nói rõ với De Gaulle rằng nếu ông ta tiếp tục là vật cản thì cuối cùng chúng tôi chẳng ngại ngần cắt quan hệ với ông ta. De Gaulle rất coi trọng nghi thức, khệnh khạng bước ra khỏi biệt thự đi xuống khu vườn nhỏ, đầu ngẩng cao. Rốt cuộc ông cũng buộc phải nói chuyện với Giraud trong 2, 3 giờ đồng hồ, đó là một cuộc tọa đàm mà cả 2 coi là cực kỳ thú vị. Buổi chiều ông ta đi gặp Tổng thống và   tôi thấy nhẹ cả người   khi không ngờ là cuộc gặp nhau đã diễn ra suôn sẻ. Tổng thống rất thích "cái vẻ nội tâm" ở trong mắt De Gaulle nhưng chẳng có thể làm gì được nhiều để đưa họ đến với nhau.

        Những lơi phát biểu gay gắt xuất phát từ tình hình lúc bấy giờ nhằm vào tướng De Gaulle và dĩ nhiên tôi cũng liên tục gặp nhiều rắc rối và có nhiều mâu thuẫn sâu sắc với ông ta. Tuy nhiên có một nhân tố bao trùm trong mối quan hệ của chúng tôi. Tôi không thể coi ông là đại diện của một nước Pháp bị mất tự do và qui phục, và nước Pháp, một nước có quyền tự quyết định tương lai của mình cũng vậy. Tôi biết ông ta không phải là người bạn của nước Anh. Nhưng tôi luôn công nhận là ở con người này tinh thần và khái niệm của 2 tiếng "nước Pháp" theo chiều dài của lịch sử luôn luôn được nêu lên. Tôi hiểu và khâm phục, mặt khác cũng phẫn nộ về thái độ cao ngạo của ông. Đây là một người lưu vong bị khép án tử hình và ở một vị trí hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của chính phủ Anh và giơ đây của cả Mỹ. Người Đức đã chiếm đóng đất nước ông. Ông chẳng còn chỗ bám chân thực sự ở bất cứ đâu. Không sao, ông thách thức tất cả. Bất cứ lúc nào, kể cả khi ông cư xử tồi nhất cũng toát lên ở ông tính cách "Pháp" - một dân tộc vĩ đại với tất cả niềm kiêu hãnh, quyền uy và kỳ vọng. Người ta thường chế giễu rằng ông tự cho mình là sứ giả của Thánh Jeanne d’Arc, mà một trong những cụ tổ của ông từng trung thành phục vụ. Điều này đối với tôi chẳng có gì là vô lý cả. Clemenceau, người mà ông cũng tự so sánh là một chính khách khôn ngoan và có kinh nghiệm hơn nhiều. Nhưng cả hai đều tạo cảm giác họ là những con người Pháp không bao giơ bị khuất phục.

        Một vấn đề khác cũng cần phải lưu ý. Trong một bản báo cáo gửi Nội các chiến tranh tôi đua ra đề nghị sau: "Chúng tôi đề nghị cần phải đưa ra một thông cáo báo chí vào thời gian thích họp về công việc của hội nghị. Tôi rất vui khi biết Nội các Chiến tranh sẽ đánh giá như thế nào về việc chúng tôi kèm theo thông cáo một tuyên bố về ý định kiên quyết của Hoa Kỳ và Anh sẽ tiếp tục chiến đấu cho đến khi Đức và Nhật đầu hàng vô điều kiện. Việc gạt bỏ Ý sẽ khuyến khích thêm sự đổ vỡ ở đó. Tổng thống tán thành ý tưởng này và ý tưởng đó sẽ động viên bè bạn chúng tôi ở tất cả các nước...

        Độc giả nên chú ý trong bức điện này cũng như trong buổi họp báo sau đó Tổng thống đã sử dụng từ "đầu hàng vô điều kiện" và từ này đã tạo ra nhũng vấn đề gây tranh cãi nhiều. Một trường phái tư tưởng ở Anh và Mỹ cho rằng cụm từ nay đã kéo dài cuộc chiên và khiến cho tên độc tài đẩy nhân dân và binh lính vào cảnh tuyệt vọng. Bản thân tôi không đồng tình với ý tương này vì những lý do sẽ được trình bày trong cuốn sách này. Tuy nhiên do trí nhớ của tôi có thể thiếu sót ở một số điểm nên kể ra những sự kiện được ghi trong tài liệu lưu trữ của tôi cũng là điều tốt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #389 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2019, 09:29:28 pm »


        Tài liệu của Nội các Chiến tranh cho thấy vấn đề này được đưa ra trong cuộc họp chiều 20/1. Cuộc thảo luận hình như không phải về nguyên tắc "đầu hàng vô điều kiện" mà chuyến sang việc đưa ra trường hợp ngoại lệ có lợi cho Ý. Do đó ngày 21/1, ông Attlee và Eden gửi cho chúng tôi thông điệp sau: "Nội các nhất trí với ý kiến cho rằng việc cân bằng những thuận lợi đã không cho phép để Ý ra một bên vì sự nghi ngờ nhất định sẽ nẩy sinh ở Thổ Nhĩ Kỳ, Balkan hay nơi nào khác. Chúng tôi cũng không tin chắc rằng tác động đối với người Ý là tốt. Việc nắm bắt được tất cả những vấn đề khó khăn xảy ra với mình chắc chắn sẽ có tác động mong muốn đối với tinh thần của người Ý.

        Do đó, rõ ràng là cụm từ "đầu hàng vô điều kiện" trong bản tuyên bố chung đang được soạn thảo va do tôi trình lên Nội các Chiến tranh sẽ không bị bác bỏ bằng bất cứ cách nào. Ngược lại mong muốn duy nhất của Nội các là không nên bỏ qua nước Ý. Tôi không nhớ và cũng không có bất cứ tài liệu về bất cứ cái gì đã diễn ra giữa tôi và Tổng thống về chủ đề này sau khi tôi nhận bức điện của Nội các, và rất có thể do áp lục công việc, đặc biệt là những cuộc thảo luận về mối quan hệ của Giraud và De Gaulle và những cuộc phỏng vấn họ, vấn đề không được chúng tôi đề cập thêm nữa. Trong khi đó bản tuyên bố chung chính thức đang được cố vấn của chúng tôi và các Tham mưu trưởng soạn thảo. Đây là một văn kiện được thảo chính thúc và cân nhắc từng câu, từng chữ mà tôi và Tổng thống đã xem xét và duyệt. Có lẽ đúng là do tôi không thích áp dụng "đầu hàng vô điều kiện" cho Ý nên tôi không nêu lại điểm này với Tổng thống và rõ ràng là hai chúng tôi đều chấp nhận bản thông cáo được sự thống nhất giữa chúng tôi và các cố vấn của mình, trong bản thông cáo không đề cập đến "đầu hàng vô điều kiện". Bản này được trình lên Nội các Chiến tranh va sau đó được thông qua về hình thúc của nó.

        Tôi hơi ngạc nhiên khi nghe Tổng thống nói tại cuộc họp báo 24/1 rằng chúng tôi sẽ áp dụng "đầu hàng vô điều kiện" với mọi kẻ thù của mình. Thật bình thường khi cho rằng bản thông cáo đã thay thế cho tất cả mọi lời nói về những điều đã được nói trong khi hội thoại. Tướng Ismay vốn biết rất rõ suy nghĩ hàng ngày của tôi và có mặt tại tất cả các buổi thảo luận của các Tham mưu trưởng khi soạn thảo thông cáo cũng rất ngạc nhiên. Trong bài diễn văn của tôi sau bài của Tổng thống, dĩ nhiên tôi ủng hộ ý kiến của ông và đồng tình với những gì ông đã nói. Bất cứ sự khác biệt nào giữa chúng tôi hay thậm chí do có sự bỏ sót trong một dịp như vậy, một thời điểm như vậy, cũng sẽ có hại, thậm chí nguy hiểm tới nỗ lực chiến tranh của chúng tôi. Chắc chắn tôi cũng chịu một phần trách nhiệm cùng với Nội các Chiến tranh Anh.

        Tuy nhiên những gì Tổng thống nói với Hopkins có vẻ xác thực: "Chúng tôi gặp quá nhiều khó khăn khi làm cho 2 vị tướng Pháp sáp lại với nhau đến nỗi tôi tự nghĩ khó chẳng khác gì sắp xếp 1 cuộc họp cho Grant và Lee, và rồi đột nhiên có họp báo, tôi và Winston không có thì giờ để chuẩn bị và trong đầu tôi nảy ra ý nghĩ người ta đã gọi Grant là "Sự đầu hàng vô điều kiện thủa trước" và điều tiếp theo mà tôi biết là tôi đã nói điều đó ra"1.

        Tôi không cảm thấy là lời tự bạch này dù sao cũng không kém phần thuyết phục, bởi thực tế là cụm từ đã có trong các điều ghi nhớ xuất phát từ đó mà ông nói.

        Hồi ức về chiến tranh có thể sống động va thực nhưng không bao giờ được tin mà không có kiểm chứng, đặc biệt là khi có liên quan đến một chuỗi sự kiện. Chắc chắn tôi có nhiều lời nói sai về việc "đầu hàng vô điều kiện" vì tôi nói những gì mình nghĩ và không xem tài liệu lưu trữ. Không chỉ trí nhớ của tôi bị nhầm lẫn mà cả ông Ernest Bevin tại Hạ viện ngày 21/7/1949 cũng đưa ra một bản tường trình khủng khiếp kể lại những khó khăn gặp phải khi tái thiết nước Đức sau chiến tranh thông qua chính sách "đầu hàng vô điều kiện" trong đó ông cũng như Nội các Chiến tranh đều không bao giờ được tham khảo ý kiến vào thời điểm đó. Lập tức tôi có phản ứng vào lúc đó và đáp lại, cũng với sự thiếu chính xác không kém và do lòng trung thực, rằng đó là lần đầu tiên tôi nghe những lời của chính Tổng thống phát ra tại cuộc họp báo ở Casablanca. Chỉ khi tôi về nhà và lục tìm hồ sơ lưu trữ của mình tôi mói phát hiện ra là mọi việc đều đúng như đã ghi. Tôi nhớ lại vị giáo sư trong giờ phút lâm chung được các học trò cưng tôn sư trọng đạo xin lời khuyên cuối cùng. Ông ta trả lời "Hãy kiểm tra lại những trích dẫn của các em".

--------------------
        1. Robert Sherwood - Roosevelt và Hopkins trang 696.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM