Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 04:12:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký Winston Spencer Churchill  (Đọc 53176 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #270 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:50:41 pm »


        Theo tôi thì quan niệm sai lầm thứ ba có vẻ là chúng tôi đã không quan tâm đúng mức đến tuyến sườn phía Bắc. Tuyến này thực ra yêu cầu phải có một tinh thần cảnh giác cao độ và minh chứng cho sự chuẩn bị phòng thủ về việc xây dựng các tuyến công sự mạnh ở Palestine và Syri. Tuy nhiên tình hình ở khu vực này nhanh chóng trở nên sáng sửa nhiều hơn so với tháng 6, đã chiếm được Syri và cuộc nổi loạn ở Irắc đã bị dập tắt. Tất cả các vị trí quan trọng trên sa mạc đều do quân chúng tôi kiểm soát, trên hết là cuộc chiến giữa Nga và Đức đem lại lòng tin mới cho Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi tình hình này đang đến giới hạn của nó thì sẽ không có khả năng Đức có yêu cầu được đưa quân qua Thổ Nhĩ Kỳ. Do vậy hành động của Anh và Nga đã đẩy Ba Tư vao phe Đồng minh. Tình hình này sẽ giúp chúng tôi vượt qua được nơi trú quân mùa đông. Đồng thời, tình thế chung cũng thuận lợi cho những hành động mang tính quyết định ở miền Tây sa mạc.

        Tôi không thể không cảm thấy một sự cứng rắn trong thái độ của tướng Auchinleck nó phương hại đến các lợi ích mà chúng tôi phục vụ. Những cuốn sách viết từ hồi chiến tranh để lại đều cho thấy các tướng lĩnh cấp dưới có ảnh hưởng trong ban tham mưu tác chiến Cairo đều phàn nàn như thế nào về quyết định điều quân đến Hy Lạp của vị tướng này. Họ không biết được tướng Wavell đã chấp hành mệnh lệnh này một cách đầy đủ và sẵn sáng như thế nào, họ lại càng không rõ việc Nội các chiến tranh và các tham mưu trưởng đã tìm cách nêu việc này với ông ta như thế nào, gần như là mời một lời từ chối. Có ý kiến cho là tướng Wavell đã bị các nhà chính trị làm lạc hướng và do đó toàn bộ cả dãy tai họa đều xảy ra sau việc ông lam theo ý muốn của các chính trị gia. Giờ đây, - như một phần thương cho bản chất tốt - tướng Wavell, sau tất cả những chiến thắng, bị điều đi nơi khác trong khoảnh khắc thua trận. Tôi không thể hoài nghi việc các giới nói trên của ban tham mưu tác chiến đều cảm thấy vị chỉ huy mới không nên tự bị ép vào những cuộc phiêu lưu mạo hiểm mà nên dành thời gian để làm việc trên cơ sở chắc chắn cũng có thể nói cho tướng Auchinleck biết phong cách này. Rõ ràng là trao đổi qua thư không đạt mấy hiệu quả nên vào tháng bảy, tôi đã mời ông ta đến Luân Đôn.

        Cuộc viếng thăm ngắn này của ông ta - nhìn từ nhiều góc độ là rất có ích. Ông ta tự đặt mình trong các mối quan hệ hài hòa với các thành viên của Nội các Chiến tranh, các tham mưu trung ương và Bộ Chiến tranh. Tướng Auchinleck đi nghỉ cuối tuần với tôi ở Chequers. Sự tin tưởng lẫn nhau giữa chúng tôi được củng cố do mọi người hiểu rõ hơn về viên tướng lỗi lạc này - một người mà các phẩm chất và vận hội có ảnh hưởng lớn đến chúng tôi và do ông ta trở nên quen với giới cao cấp của bộ máy chiến tranh Anh, cũng như thấy được bộ máy đó hoạt động dễ dàng và trôi chảy như thế nào. Mặt khác, chúng tôi cũng không thể thuyết phục được tướng Auchinleck từ bỏ quyết định kéo dài việc án binh bất động để chuẩn bị cho một cuộc phản công tiêu biểu vào ngày 1 tháng 11. Cuộc phản công này có tên là "Thập tự quân" và có lẽ là cuộc tấn công rộng lớn nhất của chúng tôi. Ồng ta chắc đã làm các cố vấn quân sự của tôi sửng sốt trước những lời tranh luận chi tiết của ông ta. Bản thân tôi không bị thuyết phục. Nhưng việc khó mà bác bỏ được năng lực trình diễn, phẩm chất cao quý và nhân cách chỉ huy của ông ta, đã khiến tôi cảm giác rằng rốt cục ông ta có thể đúng và nếu có sai lầm thì con người này vẫn là ngươi tốt nhất. Bải vậy tôi đã ngả theo việc chọn tháng 11 là tháng phản công và chuyển toàn bộ tâm trí vào việc đưa cuộc phản công đến thắng lợi. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy tiếc vì đã không thể thuyết phục được vị tướng này giao phó cuộc phản công khi nó xảy ra cho tướng Maitland Wilson, bởi ông ta thích thay tướng Wilson bằng tướng Alan Cunningham - người có tiếng sau những chiến thắng ở Abyssini. Chúng tôi phải tận dụng việc này và không bao giờ làm một cách nửa vời. Như vậy chúng tôi san sẻ trách nhiệm với ông Auchinleck bằng cách ủng hộ những quyết định của ông ta. Tuy vậy, tôi vẫn phải ghi lại lòng tin chắc của mình là sự trì hoãn 4 tháng ruỡi không giáp mặt với địch trên sa mạc của ông là một sai lầm và một vận rủi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #271 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:52:15 pm »


        Giờ đây, chúng tôi đã biết đầy đủ những gì mà Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức suy nghĩ về tình hình của tướng Rommel. Họ rất thán phục sự táo bạo của con người này đã đem lại những thành công khó mà tin được, nhưng vẫn cho rằng Rommel đang trong tình trạng rất nguy hiểm. Họ đã cấm ông ta không được tiếp tục phiêu lưu nữa cho đến khi nhận được thêm tiếp viện. Có lẽ với uy tín của mình, ông ta có thể che dấu tình hình nguy hiểm của mình cho đến khi nhận được thêm tiếp viện tối đa có thể có được. Đường vận chuyển của ông kéo dài 1.000 dặm ngược về phía Tripoli. Benghazi là tuyến đường tắt để chuyên chở với bất cứ giá nào một phần đồ tiếp tế và quân bổ sung cho tướng Rommel, nhưng vận chuyển đường biển tới cả hai vị trí này đều rất khó khăn. Quân Anh đã hơn nhiều về số lượng và số lượng lại càng ngày càng tăng. Sự vượt trội của xe tăng Đức chỉ có trên mặt chất lượng và tổ chức, nhưng họ yếu hơn trên không. Đức rất thiếu đạn pháo nên ngại phải sử dụng đạn. Tobruk dường như là mối đe dọa chết người đối với hậu phương của Rommel bởi từ đó vào bất cứ lúc nào cũng có thế xảy ra một cuộc xuất kích, đe dọa cắt đút các đường giao thông của ông ta. Tuy nhiên trong khi chúng tôi nằm bất động thì quân Đức vẫn có thể cảm ơn từng ngày im tiếng súng.

        Cả 2 bên đều sử dụng mùa hè để củng cố lực lượng. Đối với chúng tôi việc bổ sung lại cho Malta mang ý nghĩa sống còn. Mất Crete đã làm mất 1 cơ sở tiếp tế nhiên liệu cho hạm đội của Đô đốc Cunningham đủ gần để đảm bảo cho lực lượng bảo vệ thủy quân chúng tôi tham chiến. Đây là một địa điểm khá gần biển. Các khả năng về một cuộc cường kích trên biển bằng hải quân từ Ý hoặc Malta đã phát triển (mặc dù đến bây giờ, như chúng ta đã biết, không phải đến năm 1942, Hitler và Mussolini mới phê chuẩn một kế hoạch như vậy. Các căn cứ không quân của địch ở cả Crete và Cyrenaica đều đe dọa nghiêm trọng đường tiếp tế từ Alexandria đến Malta đến mức chúng tôi phải dựa hoàn toàn vào phía Tây để có đường vận chuyển hàng tiếp tế. Trong nhiệm vụ này, Đô đốc Somerville cùng cánh quân H từ Gibraltar đã cung cấp 1 dịch vụ xuất sắc. Tuyến đường mà Bộ chỉ huy Hải quân cho là nguy hiểm hơn đã trở thành con đường duy nhất. Thật may là đúng lúc này, nhu cầu kéo quân vào Nga của Hitler đã buộc ông ta phải rút lực lượng không quân Đức khỏi Sicily tạo cho Malta có thời gian nghỉ ngơi và giúp chúng tôi khôi phục lại việc kiểm soát bầu trời trên kênh đào Malta. Điều này không chỉ giúp các đoàn tầu có từ phía Tây có lối đi tới mà còn cho phép tấn công mạnh hơn vào các tàu chở quân và tầu vận chuyển quân dụng tăng cường cho tướng Rommel.

        Chúng tôi đã đánh phá thành công hai đoàn tàu có quy mô đáng kể của địch. Hành trình đi qua của mỗi đoàn là một cuộc hành quân lớn. Trong tháng 10, có tới trên 60% số tiếp viện cho tướng Rommel đã bị đánh chìm trên đường vận chuyển. Nhưng lo lắng của tôi không hề giảm bớt. Bởi vậy, tôi thậm chí đã yêu cầu Ban Chỉ huy Hải quân phải cố gắng hơn nữa và đặc biệt mong muốn có một lực lượng tàu nổi mới đóng tại Malta. Ý kiến này đã được chấp thuận mặc dù cần phải có thời gian để chuẩn bị việc này. Vào tháng 10, lực lượng mũi nhọn được gọi là "Lực lượng K" gồm 2 tàu tuần dương Aurora và Penelope và hai tàu khu trục Lance và Lively đã được hình thành ở Malta. Tất cả những biện pháp này đều có vai trò trong cuộc chiến mà giờ đây sẽ bắt đầu.

        Việc mô tả các trận đánh hiện đại mất đi kịch tính do trận địa trải rộng trên một địa bàn lớn và thường phải mất nhiều tuần mới đi đến chỗ quyết định trong khi trên những chiến trường nổi tiếng trong lịch sử, số phận của cả một dân tộc và của các đế chế được quyết định chỉ trong phạm vi một vài dặm và vài giờ. Những cuộc đụng độ của những đạo quân thiết giáp và cơ giới di chuyển nhanh trên sa mạc đưa lại một hình ảnh cực kỳ tương phản với quá khứ.

        Xe tăng đã thay thế cho ky binh trong các cuộc chiến tranh ngày trước với các loại vũ khí có tầm xa và mạnh hơn nhiều. Nhìn từ nhiều góc độ, những cuộc thao diễn xe tăng cũng giống hệt như các trận thủy chiến trên sa mạc với cát thay cho nước mặn. Giống như một liên đội khu trục hạm, chất lượng chiến đấu của một binh đoàn thiết giáp là nét quyết định chứ không phải nơi nó gặp địch hoặc phần chân trời mà địch xuất hiện. Các lữ đoàn hoặc sư đoàn tăng và các đơn vị nhỏ hơn có thể hình thành ở bất cứ hướng nào cho mặt trận với tốc độ nhanh, đánh khác nhau, do đó nguy cơ bị đánh tập hậu, bị tấn công từ bên sườn hoặc bị chia cắt đã giảm đi đáng kể. Mặt khác, tất cả các yếu tố này luôn phải phụ thuộc vào nhiên liệu và đạn dược. Hơn nữa, việc cung cấp cả hai nguồn này cho xe tăng lại phức tạp hơn nhiều so với khi cung cấp cho tàu chiến lớn và các hạm đội tàu biển. Bởi vậy các quy tắc hình thành nên chiến thuật đều được diễn đạt một cách rất hoa mĩ. Mỗi trận đánh đều để lại bài học kinh nghiệm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #272 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:54:51 pm »


        Mọi cố gắng của các bên liên quan đến các trận đánh trên sa mạc không thể bị coi nhẹ. Mặc dù mỗi bên chỉ tham gia khoảng 90 - 100 nghìn khẩu đội nhưng số quân này lại cần đến một lượng người và của gấp 2 hoặc 3 lần so với thời kỳ luyện tập. Trận đánh quyết liệt ở Sidi Rezegh, mơ màn cho đợt tấn công của tướng Auchinleck, nhìn chung, đã thể hiện phần lớn những đặc trưng của cuộc chiến. Sự can thiệp của hai vị tổng chỉ huy đều mang tính quyết định và chủ đạo. Tương quan lực lượng của hai bên trong cuộc chiến này cũng tương đương như trong thời cổ.

        Nhiệm vụ đầu tiên của tướng Auchinleck là chiếm lại Cyrenaica, đồng thời phá hủy xe tăng địch, và nếu mọi chuyện trôi chảy thì sẽ chiếm lấy Tripolitania. Để thực hiện được những mục tiêu này, tướng Cunningham đã được lệnh chỉ huy quân đoàn mới tên là "quân đoàn 8" gồm quân đoàn 13 và 30 cùng khoảng 6 sư đoàn ở Tobruk và 3 lữ đoàn dự trữ, 724 xe tăng. Lực lượng không quân Tây sa mạc đã lên tới 1072 máy bay hiện đại sẵn sàng chiến đấu cộng thêm 10 phi đội hoạt động ở vùng Malta. Cách mặt trận của tướng Rommel 70 dặm về phía sau là cánh quân của đồn Tubruk gồm 5 lữ đoàn bộ binh và 1 lữ đoàn thiết giáp. Pháo đài này trước kia do tướng Cunningham giữ và cho đến nay, nó đã chặn đứng mọi cuộc tấn công của Đức vào Ai Cập bởi vị trí chiến lược của nó. Loại bỏ đồn Tobruk là mục tiêu đã được Tổng chỉ huy Đức quyết định chọn và Đức đang chuẩn bị mọi mặt để tấn công vào đồn này vào ngày 23 tháng 11. Đội quân của tướng Rommel tập hợp binh lính của Afrika Korps (Quân đoàn châu Phi) thiện chiến gồm sư đoàn xe tăng Panzer số 15 và 21 và sư đoàn Ánh sáng 90 cùng 7 sư đoàn của Ý, trong đó có 1 sư đoàn thiết giáp. Địch có 558 xe tăng. Hai phần ba số xe này thuộc hạng trung và nặng của Đức có pháo bắn đạn nặng hơn hai cân Anh so với đạn pháo của chúng tôi. Địch có lợi thế hơn chúng tôi nhiều về vũ khí chống tăng. Lực lượng không quân xích đạo gồm 120 máy bay Đức và 200 máy bay Ý đã sẵn sàng tấn công.

        Sáng ngày 18 tháng 11, quân đoàn 8 tiến vượt trong mưa to và trong 3 ngày liền, mọi việc đều tiến triển tốt đẹp.. Một bộ phận của Sư đoan tăng số 7 của Anh thuộc quân đoàn 30 đã chiếm được Sidi Rezegh nhưng sau đó đã bị Afrika Korps với mức tập trung xe tăng cao hơn tấn công lại. Trong suốt 2 ngày 21 và 22 đã diễn ra một cuộc giao tranh ác liệt diễn ra trên không và xung quanh sân bay chủ yếu bằng không quân. Cuối cùng thì tất cả xe tăng của hai bên đều bị cuốn vào cuộc chiến dữ dội chồm lên rồi lùi lại dưới làn đạn pháo và phản pháo của đối phương. Quân Đức có được lợi thế hơn chúng tôi do xe tăng của họ, vũ khí được trang bị mạnh hơn và tập trung nhiều xe tăng hơn tại những điểm đọ súng. Mặc dù chúng tôi dưới sự lãnh đạo anh dũng và sáng suốt của Thiếu tướng Jock Campbell, quân Đức vẫn thắng và chúng tôi bị thiệt hại về xe tăng nhiều hơn. Đức đã chiếm lại Side Rezegh vào đêm ngày 22. Chúng tôi bị thiệt hại hai phần ba số xe tăng và được lệnh rút lui khoảng 20 dặm để tổ chức lại. Đây là một sự thất bại nặng nề.

        Trong khi đó, vào ngày 21 tháng 11, khi xe tăng địch đang làm nhiệm vụ tác chiến thì tướng Cunningham đã lệnh cho quân đoàn 30 tiến quân. Họ đã chiếm được sở chỉ huy của Afrika Korps, và ngày 23 đã gần chiếm lại được Sidi Rezegh, nơi mà các đồng đội của họ thuộc sư đoàn tăng 7 của Anh đã bị đánh lui. Ngày 24 tháng 11 tướng Freyberg tập trung đại bộ phận quân Tân Tây Lan tại địa điểm cách sân bay 5 dặm về phía Đông. Từ Tobruk, một cuộc xuất kích được thực hiện và giao tranh quyết liệt với Đức, nhưng đã không thành công. Sư đoàn Tân Tây Lan đã tiến đến trước mặt Sidi Rezegh sau một trận đánh thắng. Chúng tôi đã đánh bại được các đồn tiền tuyến của địch nhưng xe tăng Đức lại thắng trong trận đánh với Sư đoàn 30 của chúng tôi. Những cú đánh dữ dội và những thiệt hại nặng nề đã diễn ra ở cả hai bên và trận chiến đang ở vào giai đoạn quyết định.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #273 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:55:59 pm »


*

        Giờ đây là thời kỳ gây ấn tượng, nó gọi nhớ đến "Jeb” Stuart Clellan trên bán đảo Yorktown trong cuộc nội chiến Mỹ. Tuy nhiên nó được thực hiện bởi một lực lượng thiết giáp có quy mô của cả một đạo quân mà nếu bị tiêu diệt, sẽ kéo theo sự sụp đố của phần còn lại của quân đội phe Trục. Tướng Rommel đã quyết định nắm lấy sáng kiến chiến thuật dùng tăng theo hướng Đông mở đường về biên giới với hy vọng sẽ tạo ra nhiều hỗn loạn và sự sợ hãi khiến bộ chỉ huy của chúng tôi phải bỏ cuộc và rút lui. Ông ta đã có thể tính đến những may mắn mà cuộc tấn công bằng xe tăng của Đức giành được trong trận đánh trước trên sa mạc ngày 15 tháng 1 đã khiến quân chúng tôi phải rút lui và đúng thời điểm quan trọng. Chúng tôi sẽ được biết Rommel hầu như thành công như thế nào trong phần tiếp sau của câu chuyện.

        Ông ta thu thập phần lớn lực lượng của Afrika Korps. Tuy vậy đây vẫn là một đội quân rất tinh nhuệ trên chiến trường. Bỏ qua sở chỉ huy của Quân đoàn 30 và hai bãi lớn hàng tiếp tế mà thiếu nó chúng tôi khó có thể tiếp tục chiến đấu, Rommel đã tiến tới giới tuyến. Tại đây ông ta chia quân ra làm nhiều binh đoàn. Một số tiến về hai hướng Bắc Nam, số khác thì tiến sâu vào lãnh thổ Ai Cập 20 dặm. Quân Đức đã tàn phá mọi vùng hậu phương của chúng tôi và bắt được nhiều tù binh. Tuy nhiên, những binh đoàn của tướng Rommel đã không gây được ấn tượng với sư đoàn 4 Ấn Độ và bị những cánh quân biệt phái được tổ chức vội vã truy kích. Lực lượng không quân của chúng tôi trên hết đã làm chủ ở mức độ cao vùng trời trên đầu các bên đấu tranh giành chiến thắng, làm cho Rommel bị rối rắm ở mọi nơi, mọi lúc. Các binh đoàn của tướng Rommel hầu như không được không quân yểm trợ nên phải lâm vào tình trạng tương tự như quân chúng tôi khi Đức làm chủ bầu trời. Ngày 26 tháng 11, toàn bộ xe tăng địch đều bỏ chạy về phía Bắc và tìm nơi ẩn trú ở Bardia và gần nơi này. Ngay hôm sau, chứng vội vã rút về phía Tây và quay lại Sidi Rezegh và gần nơi mà chúng được khẩn cấp gọi tới. Cú đánh táo bạo của tướng Rommel đã hoàn toàn thất bại, nhưng như ta sẽ thấy, chỉ duy nhất có một người, vị Tổng chỉ huy đối phương đã chặn ông ta lại.

        Những tổn thất nặng nề cùng cảm giác về sự lộn xộn ở phía sau mặt trận do cuộc tập kích của tướng Rommel gây ra, đã buộc tướng Cunningham phải đề xuất với Tổng chỉ huy trương rằng: nếu tiếp tục tấn công thì lực lượng xe tăng sẽ bị tiêu diệt nhiều và do đó đe dọa đến sự an toàn của Ai Cập. Điều này có nghĩa là thừa nhận thua trận và sự thất bại của toàn bộ cuộc hành quân này. Vào chính thời điếm mang tính chất quyết định này, tướng Auchinleck, đã đích thân can thiệp. Theo đề xuất của tướng Cunningham ngày 23 tháng 11, ông đã bay cùng nguyên soái không quân Tedder tới sơ chỉ huy sa mạc. Và hiểu rất rõ mọi hiểm họa có thể xảy ra, ông lệnh cho tướng Cunningham "tiếp tục tấn công ép mạnh địch". Với hành động cá nhân này, ông đã cứu được cả trận đánh và chứng tỏ khả năng tuyệt vời của mình với tư cách là một người chỉ huy trên chiến trường.

        Trong chuyến trở về Cairo ngay 25, ông đã quyết định tạm thời thay tướng Cunningham bằng tướng Ritchie - phó Tham mưu trưởng của mình. "Tôi miễn cuỡng phải kết luận rằng cho đến nay Cunningham là người đáng kính phục, nhưng giờ đây đã bắt đầu có tư duy phòng thủ - chủ yếu do những tổn thất xe tăng nặng nề". Quốc vụ khanh Oliver Lyttelton đã giải thích và rất ủng hộ quyết định này của ông Tổng Tư lệnh. Ngay lập tức tôi cũng đã điện bày tỏ sự tán thành của mình đến ông Auchinleck.

        Tôi đặc biệt kính phục quyết định của ông Auchinleck bởi đã dám vượt lên mọi tính toán cá nhân và mọi ý định thỏa hiệp hay hoãn binh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #274 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:57:15 pm »


*

        Trong lúc đó, tương Freyberg cùng cánh quân New Zealand của mình được Lữ đoàn tăng quân đoàn 1 yểm trợ đã tấn công dữ dội vào Sidi Rezegh và đã chiếm lại được sau 2 ngày chiến đấu quyết liệt. Cùng lúc đó, đơn vị đồn trú ở đồn Tobruk tiếp tục xuất kích và đến ngày 26 đã liên lạc được với đội quân thay thế. Một số đơn vị đã vào được trong đồn Tobruk bị vây. Tình thế này buộc tướng Rommel phải từ Bacdia quay lại. Ông ta mở đường về Sidi Rezegh và bị đánh bọc sườn bơi sư đoàn tăng 7 hiện có 120 xe tăng. Ông chiếm lại Sidi Rezegh và đẩy lùi lữ đoàn Tân Tây Lan với những tổn thất to lớn. Phần lớn còn lại đã rút theo huống Đông - Nam về giới tuyến, nơi đó sư đoàn anh hùng này chấn chỉnh lại đội ngũ sau khi bị thiệt hại hơn 3.000 lính. Đồn Tobruk một lần nữa lại bị cô lập, nhưng nhơ một quyết định táo bạo đã giữ được toàn bộ trận địa mà chúng tôi đã chiếm lĩnh.

        Trong lức này, tướng Ritchie đã tập hợp lại quân của mình. Còn Rommel mở cuộc tấn công dữ dội cuối cùng để cứu những đơn vị đồn tiền tuyến nhưng đã bị quân chúng tôi đẩy lùi. Toàn bộ lực lượng phe Trục bắt đầu rút về tuyến Gaza.

        Ngày 1/12, tướng Auchinleck đích thân tới các sở chỉ huy tiền phương và ở lại đó với tướng Ritchie 10 ngày. Dù không nhận trách nhiệm chỉ huy, ông ta vẫn theo dõi chặt chẽ người trợ tá của mình. Theo tôi thì đó không phải là cách thu xếp ổn thỏa nhất cho cả hai người. Tuy nhiên, Quân đoàn 8 đang rất sung súc. Ngày 10/12, ông Tổng tư lệnh đã có thể tuyên bố với tôi rằng: "Địch rõ ràng là đã rút hoàn toàn về phía Tây... Tôi cho rằng nhiệm vụ ở Tobruk đã kết thúc, chúng ta đã quyết định đánh đến cùng và phối hợp chặt chẽ với không lực Hoàng gia". Bây giờ khi đọc lại những tài liệu của Đức, chúng tôi đã có thể biết chính xác trong trận này địch đã tổn thất 33 nghìn lính cùng 300 xe tăng. Cồn tổn thất quân đội Hoàng gia Anh bằng khoảng một nửa số đó với 287 xe tăng - trong đó có chín phần mười là tổn thất trong tháng phản công đầu tiên. Đến lúc này chúng tôi đã hoàn toàn cất được gánh nặng và thực sự vui mừng trước kết quả của cuộc chiến Sa mạc.

        Nhưng vào đúng giây phút quyết định này thì lực lượng hải quân của ta ở phía Đông Địa Trung Hải đã bị suy giảm bởi một loạt thảm họa. Thơi gian an toàn và những lợi thế không còn nữa. Trên trận chiến đã xuất hiện thêm tàu ngầm Đức. Ngày 12/12, con tàu Arch Royal đã gặp phải ngư lôi phóng từ một tàu ngầm của Đức. Mọi cố gắng để cứu con tàu đều không đạt kết quả gì và "vị cựu chiến binh" nổi tiếng này - con tàu từng đóng một phần quan trọng trong nhiều trận đánh của chúng tôi - đã chìm khi chỉ con cách Gibraltar 25 dặm. Chỉ 2 tuần sau, con tàu Barham bị trúng 3 quả ngư lôi của Đức và bị lật úp làm thiệt hại hơn 500 quân. Tiếp theo đó là những thảm họa khác. Vao đêm 18/12, một tàu ngầm của Ý đã cập bến Alexandria và phóng 3 quả "thủy lôi người" mỗi quả do 2 người điều khiển. Chúng đã đột nhập vào cảng trong khi rào chắn đang mở cho tàu ra vào cảng và đặt bom hẹn giờ cho nổ 2 tàu chiến Nữ hoàng Elizabeth và Valiant (Dũng cảm) vào sáng sớm hôm sau. cả hai tàu này đều đã bị hư hỏng nặng và không sử dụng được trong nhiều tháng sau đó. Mặc dù chúng tôi đã có lúc giấu được tổn thất này, nhưng "lực lượng K" cũng bị tổn thất nặng - Vào đúng ngày mà tin túc về tổn thất ở Alexandria bay tới Malta thì tin về một đoàn tàu hộ tống quan trọng của địch đang tiến về Tripoli cũng đến Malta. Ngay lập tức 3 tàu chiến và 4 tàu ngư lôi đã rơi bến đuổi theo địch. Khi đến Tripoli, tàu của chúng tôi gặp phải một bãi mìn mới. 2 trong số 3 tàu chiến bị hư hỏng nhưng vẫn có thể chạy bằng hơi nước thoát khỏi bãi mìn. Còn chiếc thứ 3 đã va phải 2 quả mìn và chìm trong khi đang trôi dạt trong bãi mìn. Chỉ duy nhất một trong số 700 người sống sót là thuộc chiến hạm này. Anh ta đã bị bắt làm tù binh sau 4 ngày trôi dạt trên một mảnh thuyền vỡ, còn thuyền trưởng O’ Conoror và 13 thủy thủ khác đã chết. Tất cả những gì còn lại của Hạm đội Đông Địa Trung Hải của Anh chỉ là một số ít tàu khu trục và ba tuần dương hạm trong hạm đội của Đô đốc Vian.

        Cuối cùng, nhận thấy mối nguy hiểm chết người đối với tướng Rommel, ngày 5/10, Hitler đã lệnh cho chuyển toàn bộ quân đoàn không quân từ Nga đến Sicily và Bắc Phi. Một cuộc tấn công mới bằng không quân được triển khai dưới sự chỉ đạo của tướng Kesselring. Các cuộc tấn công của địch vào đảo đã lên đến đỉnh cao mới và Malta không còn cách nào khác ngoài chiến đấu để tồn tại. Cho đến cuối năm, chính không lực Luftwaffe của Đức - Kẻ kiểm soát các tuyến đường biển tới Tripoli - đã giúp thực hiện việc chỉnh trang phục hồi lại các đội quân của tướng Rommel sau thất bại. Hiếm khi sự tương tác giữa chiến tranh trên biển, trên không và đất liền lại được minh họa nổi bật như trong các sự kiện của mấy tháng này.

        Nhưng giờ đây tất cả đều mờ đi trước những sự kiện nổi bật của thế giới.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #275 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 09:31:15 am »

   
4

TRÂN CHÂU CẢNG!

        Đó là tối chủ nhật ngay 7/12/1941, chỉ có hai ông Winant, Averell Harriman và tôi ngồi quanh một chiếc bàn tại dinh Thủ tướng ở Chequers. Tôi bật máy thu thanh lên khi bản tin 9 giờ mới bắt đầu. Có nhiều tin về giao chiến trên mặt trận của Nga và Anh ở Libya. Cuối phần tin này là vài câu về vụ tấn công của Nhật vào hạm đội Mỹ ở Hawaii và các cuộc tập kích vào tàu chiến Anh ở Đông Ân thuộc Hà Lan. Tiếp theo là lời thông báo là sau phần tin túc có lời bình luận của một "Ông nào đó" và sau đó là chương trình "Brains Trust" hoặc cái gì đó đại loại như vậy. Bản thân tôi không có ấn tượng gì về bản tin này nhưng ông Harriman cho rằng có tin gì đó về việc Nhật tấn công Mỹ. Mặc dù rất mệt mời và đang nằm nghỉ, nhưng tất cả chúng tôi đều ngồi bật dậy. Lúc đó, Sawyers - ngươi cần vụ của tôi - người đã nghe tất cả những tin tức này - bước vào nói: "Thưa các ngài, điều đó hoàn toàn đúng. Bản thân tất cả chúng tôi ở bên ngoài đều nghe thấy tin này. Nhật đã tấn công Mỹ". Căn phòng bỗng lặng đi. Trong bữa tiệc trưa ngày 11/11 tại Lâu đài Mansion House của Thị trưởng Luân Đôn, tôi đã nói rằng nếu Nhật tấn công Mỹ thì chỉ trong một giờ, Anh sẽ tuyên chiến với Nhật. Tôi rời khỏi bàn và đi qua phòng họp đến văn phòng - nơi luôn có người làm việc. Tôi yêu cầu được nói chuyện với Tổng thống qua điện thoại. Ngài đại sứ ra ngoài cùng tôi, cho rằng tôi đang chuẩn bị làm một việc không thể làm khác được nên đã khuyên: "Ngài không cho là trước tiên ngài nên xác định lại nguồn tin này?"

        Chừng hai, ba phút sau, đã nối được máy với Tổng thống Roosevelt: "Thưa Tổng thống, có tin gì về Nhật vậy?". "Điều đó hoàn toàn đúng" - Ông ta trả lời - "Họ đã tấn công chúng tôi ở Trân Châu cảng. Tất cả chúng ta giờ đây đều đang ngồi chung trên một con thuyền". Tôi chuyển máy cho ông Winant để trao đổi với Tổng thống. Lúc đầu tôi thấy ông Đại sứ nói "Vâng, "Vâng", sau đó là một tiếng "A" với giọng rất nghiêm trọng. Tôi tiếp máy và nói: "Điều này chắc chắn sẽ làm mọi thứ trở nên đơn giản hơn. Cầu Chúa phù hộ cho Ngài" hoặc một câu gì đó tương tự như vậy. Sau đó cả hai chúng tôi đều quay trở lại phòng họp và cố gắng điều chỉnh ý nghĩ của mình theo sự kiện thế giới đã xảy ra này - một sự kiện mà tính chất gây sửng sốt đã khiến cho ngay cả các quan chức cao cấp cũng bị sốc. Hai người bạn Mỹ của tôi tiếp nhận cú sốc này với sự chịu đựng đáng khâm phục - chúng tôi không hề có ý nghĩ là Hải quân Mỹ đã bị bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào. Họ không than vãn gì về việc chiến tranh với nước Mỹ, họ không phí lời oán trách hoặc than vãn. Thực ra thì hầu như người ta đều có thể cho rằng hai người nay đã được giải thoát khỏi một nỗi đau kéo dài.

*

        Phải đến thứ ba mới diễn ra cuộc họp ở Nghị viện và các thành viên hiện đang rải rác ở nhiều nơi khác nhau trên cả nước với những khó khăn hiện hữu về liên lạc. Tôi lệnh cho cơ quan phải làm việc và gọi điện cho các nhân viên phải gọi điện cho Chủ tịch Hạ nghị viện, các quan chức của các đảng và mọi người có liên quan khác, để triệu tập Hạ viện và Thượng Nghị viện vào hôm sau. Tôi có gọi tới Bộ Ngoại giao để chuẩn bị nhanh chóng đưa ra lời tuyên chiến với Nhật bởi việc này đòi hỏi phải hoàn tất một số thủ tục cũng như thời gian cho cuộc họp Quốc hội để đảm bảo cho mọi thành viên của Nội các Chiến tranh bao gồm cả các Tham mưu trưởng, các Bộ trưởng Quân chủng - những người mà tôi chắc rằng đều đã nắm được tin này đều được tham dự và thông báo tin này. Chắc hẳn không một người Mỹ nào nghĩ rằng tôi đã sai lầm khi tuyên bố rằng có được Hoa Kỳ bên cạnh chúng tôi là niềm vui lớn nhất của tôi. Tôi không cho là mình đã đánh giá chính xác sức mạnh quân sự của Nhật. Nhưng giờ đây tại thời điểm này, tôi biết rằng nước Mỹ đã đi rất sâu vào cuộc chiến và sẽ đánh đến cùng. Và như vậy, cuối cùng thì chúng tôi chiến thắng. Đúng vậy, sau Dunkirk, sau khi nước Pháp sụp đổ; sau sự kiện khủng khiếp ở Oran; sau sự đe dọa xâm lược - khi mà ngoài hải quân và không quân ra, chúng tôi hầu như là những người không được trang bị vũ khí; sau trận đánh khủng khiếp bằng tàu ngầm - trận đánh đầu tiên trên Đại Tây Dương - sau 17 tháng chiến đấu đơn độc và 19 tháng tôi gánh trách nhiệm trong sự căng thẳng khủng khiếp, chúng tôi đã có cơ may chiến thắng. Nước Anh sẽ sống; Vương quốc Anh sẽ sống, khối liên hiệp Anh sẽ sống, đế chế Anh sẽ sống. Không ai có thể biết được cuộc chiến này sẽ kéo dài bao lâu và nó kết thúc cách nào, mà tôi lúc này cũng không quan tâm. Thêm một lần nữa trong lịch sử lâu dài của nước Anh, chúng tôi phải trỗi dậy an toàn và thắng lợi, cho dù có bị xé da, cắt thịt hay què cụt. Chúng tôi không phải bị tiêu diệt. Lịch sử nước Anh sẽ không thể chấm dứt. Chúng tôi, thậm chí sẽ không phải chết như là những cá thể. Số phận của Hitler và Mussolini đã được quyết định, người Nhật sẽ bị nghiền nát. Các nước còn lại hầu hết đều là những nước mạnh. Theo sự hiểu biết của tôi, nếu cả Anh, Liên Xô và giờ đây có thêm Mỹ mà gắn bó máu thịt với nhau thì sức mạnh sẽ gấp 2 hoặc thậm chí 3 lần địch. Không nghi ngờ gì, việc này phải mất nhiều thời gian. Tôi đã chờ đợi những tổn thất nặng nề ở mặt trận phía Đông nhưng rồi tất cả những thất bại này đơn thuần là một giai đoạn đã qua. Một khi đã thống nhất nhau lại, chúng tôi có thể chinh phục được thế giới. Còn nhiều thảm họa, khổ đau cùng những khoản chi phí khổng lồ đang chờ đợi ở phía trước, nhưng không ai con nghi ngờ gì thêm về sự kết thúc.

        Nhiều kẻ ngu ngốc và có rất nhiều kẻ thuộc loại này, không chỉ ở đất nước của kẻ thù, đã có thể coi thường sức mạnh của Mỹ. Một số cho rằng người Mỹ rất mềm yếu, số khác lại nghĩ người Mỹ sẽ không bao giờ thống nhất với nhau. Họ sẽ chỉ đánh lừa đây đó ở cự ly xa, Mỹ sẽ không bao giờ bám địch mà đánh và không bao giờ dám đổ máu hy sinh. Nền dân chủ Mỹ cùng hệ thống bầu cử tái diễn đều đặn sẽ làm tê liệt những cố gắng chiến đấu của họ. Đối với bề bạn cũng như kẻ thù, họ chỉ được xem như một chấm mờ đằng chân trời. Bây giờ chúng tôi phải xem xét nhược điểm của dân Mỹ đông người giàu có, xa xôi và ưa tán chuyện này. Nhưng tôi đã nghiên cứu cuộc nội chiến, người Mỹ chiến đấu cho đến tấc đất cuối cùng. Dòng máu Mỹ đang chảy trong tôi. Tôi nghĩ đến một nhận xét mà Edward Grey đưa ra với tôi 30 năm trước đây: "Nước Mỹ giống như một nồi nước khổng lồ, một khi nhen ngọn lửa dưới đáy nó có thể tạo ra một sức mạnh vô biên". Tôi lên giường trong lòng tràn trề đến bão hòa cảm xúc và ngủ giấc ngủ của người được giải thoát và mang ơn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #276 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 09:36:21 am »


*

        Khi thức dậy, tôi quyết định đi gặp ngay Tổng thống Roosevelt. Trong cuộc họp nội các vào trưa hôm đó, tôi đã đưa vấn đề này ra. Khi đạt được sự tán thành, tôi đã viết một bức thư trình lên Nhà vua và được Người đồng ý.

        Nội các Chiến tranh đã đồng ý cho phép tuyên bố ngay lời tuyên chiến với Nhật trên cơ sở đã hoàn tất mọi sự sắp xếp chính thức. Vì ngài Eden bắt đầu chuyến đi tới Mátxcova, và tôi, phụ trách Bộ Ngoại giao, tôi đã gửi bức thư sau tới Tòa đại sứ Nhật Bản.

        Bộ Ngoại giao, ngày 8 tháng 12

        Thưa Ngài,

        Vào tối ngày mùng 7 tháng 12, Chính phú Hoàng gia Anh được biết Quân đội Nhật Bán, khống hề cảnh báo trước dưới dạng tuyên chiến hay tối hậu thư bao hàm một sự oanh tạc tuyên chiến, đã cố gắng để đổ bộ vào bờ biến Malaysia và ném bom Singapore và Hồng Kông.

        Vì những hành động cố tình của sự xâm lăng vô cớ vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế và dặc biệt là điều 1 của công ước Hague thứ 3 về sự triển khai các hành dộng thù dịch mà Nhật và Anh đều là thành viên tham gia ký kết, Đại sứ của chúng tôi ở Tokyo đã được chỉ thị nhân danh chính phủ Hoàng gia Anh thông báo với Chính phủ Hoàng gia Nhật Bản rằng: giữa hai nước bắt đầu có chiến tranh.

        Rất hân hạnh.

        Kính thư


Winston s.Churchill       

        Một số người không thích kiểu nghi lễ như thế này, nhưng rốt cục thì trước khi phải giết một ai đó, lịch sự với họ cũng chẳng mất gì.

        Nghị viện họp vào 3 giờ chiều, và dù chỉ được báo rất gấp nhưng mọi thành viên đều tới dự đông đủ. Căn cứ vào Hiến pháp nước Anh, thì theo lời khuyên cáo của Bộ trưởng Hoàng gia, đã tuyên bố chiến tranh, và quốc hội phải đương đầu với vấn đề này. Như vậy là chúng tôi đã có thể làm nhiều hơn cả những gì đã nói với nước Mỹ và đã tuyên chiến với Nhật trước khi Quốc hội có thể hành động. Chính phủ Hoàng gia Hà Lan cũng ra thông báo tuyên bố chiến tranh với Nhật và cả hai Nghị viện đều bỏ phiếu tán thanh quyết định này.

        Dù chúng tôi có lúc đã không được thông báo bất cứ chi tiết nào về sự kiện Trân Châu cảng nhưng giờ đây toàn bộ câu chuyện này đã được ghi lại đầy đủ. Cho đến đầu năm 1941 thì kế hoạch tấn công Mỹ của Hải quân Nhật vẫn chỉ là cho hạm đội chủ lực đánh ở vùng biển gần Philippines khi người Mỹ, như đã có thể dự đoán được, đánh mở đường máu qua Thái Bình Dương để giải cứu đồn này của họ. Ý kiến bất ngờ tấn công vào Trân Châu cảng là của Thủy sư đô đốc Tổng tư lệnh quân đội Nhật - Yamamoto. Toàn bộ công việc chuẩn bị cho cú đánh xảo trá này trước khi có bất cứ tuyên chiến nào được Nhật tiến hành một cách tuyệt mật. Cho đến ngày 22 tháng 11 thì lực lượng chủ công - gồm 6 tàu sân bay được yểm trợ bởi tàu chiến và tàu khu trục - đã tập kết tại một địa điểm không có tàu ra vào thuộc quần đảo Kurile, phía Bắc Nhật Bản. Ngày tấn công đã được ấn định vào chủ nhật 7 tháng 12 và đoàn thuyền đã nhổ neo lên đường ngày 26 tháng 11 (tính theo giờ kinh độ Đông) dưới sự chỉ huy của Thủy sư Đô đốc Nagumo. Bằng cách dừng lại khá xa ở phía Bắc Hawaii theo lệnh của ông Nagumo, nấp giữa sương mù và gió lớn ở những vĩ độ Bắc này, Nagumo tiến tới đích của mình mà không hề bị phát hiện. Rạng sáng ngày bất hạnh này, Nhật Bản bắt đầu tấn công từ vị trí cách Bắc Trân Châu cảng 275 dặm. 360 máy bay đồng loạt cất cánh mang theo bom đủ các loại có máy bay chiến đấu yểm trợ. Vào đúng 7 giờ 55 phút sáng, quả bom đầu tiên được thả xuống cảng. Lúc đó đang có 94 tàu chiến Mỹ trong cảng. Trong số đó, 8 chiếc tàu chiến của Hạm đội 7 Thái Bình Dương là những mục tiêu chính. Các tàu   sân bay có các tàu ngầm mạnh rất may mắn đã thoát nạn vì lúc đó đang làm nhiệm vụ ở nơi khác. Cuộc tấn công kết thúc vào 10 giờ sáng. Địch rút quân và để lại sau lưng một hạm đội tàu Mỹ bị đánh tan tác đang chìm trong khói lửa và sục sôi trả thù. Tàu Arizona bị nổ tung. Tàu Oklahoma bị lật úp. Tàu West Virginia và California chìm ngay tại chỗ thả neo. Tất cả những chiếc tàu khác (trừ tàu Pennsylvania lúc đó đang trong ụ chữa tàu) đều bị hư hỏng nặng. Hơn 2000 lính Mỹ bị chết và gần 2000 người khác bị thương. Quyền kiểm soát Thái Bình Dương chuyển sang tay Nhật. Thế cân bằng chiến lược lúc này trên thế giới cơ bản đã thay đổi.

        Ở Philippines, dưới sự chỉ huy của tướng Mac Arthur, đồng minh Mỹ của chúng tôi lại gặp phải một loạt những bất hạnh khác. Ngày 20 tháng 11, họ đã nhận được lời cảnh báo về một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ ngoại giao. Đô đốc Hart, chỉ huy hạm đội châu Á của Mỹ, sau khi tham khảo ý kiến các cấp lãnh đạo kề cận của Hải quân Anh và Hà Lan, theo kế hoạch của mình, bắt đầu phân tán lực lượng về hướng Nam - nơi ông ta dự định tập hợp một lực lượng chủ công ở vùng biển Hà Lan cùng các lực lượng đồng minh. Ngoài 12 tàu ngư lôi cũ và nhiều tàu phụ trợ ra, ông ta chỉ có trong tay 1 tàu tuần dương loại nặng và 2 chiếc loại nhẹ. Sức mạnh của ông hầu như hoan toàn tập trung vào tàu ngầm, trong đó ông có 28 chiếc; 3 giờ sáng ngày 8 tháng 12, ông ta buộc phải dừng kế hoạch của mình khi bắt được bức điện báo tin choáng váng về trận tấn công vào Trân Châu cảng của Nhật. Ngay lập tức, ông ta cảnh báo với tất cả các bên có liên quan rằng chiến tranh đã bùng nổ mà không hề đợi lời xác nhận từ Washington. Vào rạng sáng, máy bay ném bom kiểu bổ nhào của Nhật tập kích và trong suốt mấy ngày sau, những cuộc không kích tiếp tục diễn ra ngày càng quyết liệt. Toàn bộ căn cứ Hải quân Cavite bị đốt phá hoàn toàn chỉ trong ngày mùng 10 tháng 12. Và cùng ngày Nhật đổ bộ lần đầu tiên lên phía Bắc Luzon. Thảm họa đã nhanh chóng tăng lên. Phần lớn lực lượng không quân Mỹ đều bị tiêu diệt trên không hoặc dưới mặt đất. Cho đến ngày 20, số còn lại đều đã rút về cảng Darwin, Úc. Trước đó vài ngày, hạm đội của Đô đốc Hart đã bắt đầu tản ra theo hướng Nam. Chỉ duy nhất có đội tàu ngầm vẫn ở lại chiến đấu giành giật biển với địch. Ngày 21 tháng 12, lực lượng xâm lăng chủ lực của Nhật đã đặt chân lên Vịnh Lingayen, đe dọa cả Manila, nhưng sự diễn tiến của các sự kiện sau đó có vẻ như không giống với những gì đã phát triển ở Malaysia, nhưng việc phòng thủ được kéo dài hơn. Như vậy là các kế hoạch ấp ủ từ bấy lâu của Nhật đã bùng ra trong ánh hào quang của chiến thắng.

        Cả Hitler và bộ tham mưu Đức đều rất sửng sốt. Ông Jodi đã kể lại trước phiên toa xét xử rằng: "Lúc đó chúng tôi đang ở Prussia (nước Phổ). Nửa đêm, Hitler bước vào phòng đồ bản của tôi (ở Đông Phổ) để thông báo tin này cho nguyên soái Keitel và tôi. Ông ta hoàn toàn bị bất ngờ". Tuy nhiên, sáng 8 tháng 12 Hitler đã lệnh cho Hải quân Đức tấn công các tàu Mỹ phát hiện được ở bất cứ đâu. Lệnh này được phát ra 3 ngày trước khi Đức chính thức tuyên chiến với Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #277 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 09:39:58 am »


*

        Tôi đã triệu tập một cuộc họp, chủ yếu là Bộ chỉ huy hải quân, tại phòng họp của Nội các Chiến tranh vào mười giờ đêm ngày mùng 9 để xem vị thế của hải quân. Tất cả gồm khoảng 12 người tham dự. Chúng tôi đã cố ước lượng những hệ lụy do sự thay đổi cơ bản trong vị thế hải quân chúng tôi đối với Nhật. Ta đã mất quyền kiểm soát hầu hết các biển trừ có Atlantic. Úc, New Zealand và tất cả các đảo quan trọng khác trong vùng ảnh hưởng của họ đều đã phơi mình cho sự tấn công. Ta chỉ còn duy nhất một vũ khí chủ lục trong tay là hai chiến hạm "Hoàng tử xứ Wales" và "Đẩy lui", cả hai tàu này đều đã đến Singapore. Chúng được phái đến các vùng hải phận này để thao diễn cái kiểu vu vơ mà những con tàu vào loại tốt nhất có hành tung bí mật có thể áp đặt đối với mọi tính toán của hải quân kẻ thù. Vậy lúc này chúng tôi sẽ sử dụng chúng như thế nào đây? Rõ ràng hai con tàu này sẽ phải đi ra biển và phải biến vào giữa vô số những hòn đảo. Ý kiên này đều được mọi ngươi tán thành.

        Bản thân tôi cho rằng hai con tàu nên đi qua Thái Bình Dương để nhập vào những tàu còn sót lại của hạm đội Mỹ. Vào lúc này, đây sẽ là một hành động đáng tự hào và nó càng thắt chặt thêm mối quan hệ giữa các nước trong thế giới nói tiếng Anh. Chúng tôi đã chân thành tán thành việc Bộ Hải quân Mỹ rút tàu của họ khỏi Đại Tây Dương. Như vậy, nếu cần thì chỉ sau vài tháng nữa sẽ có thể có một hạm đội ở bờ tây nước Mỹ đủ khả năng đánh một trận quyết định với địch. Sự tồn tại của một hạm đội như vậy cũng như của sự kiện này sẽ là tấm lá chắn tốt nhất cho lực lượng của tôi ở Úc. Tất cả chúng tôi đều bị cuốn hút vào dòng suy nghĩ này. Bởi đã muộn, nên chúng tôi đi ngủ không nghĩ thêm và sẽ quyết định làm gì với hai con tàu này vào sáng hôm sau.

        Nhưng chỉ 2 tiếng đồng hồ sau đó, cả hai con tàu này đều đã chìm sâu dưới đáy đại dương.

        Ngày mồng 10, khi tôi đang mở các hộp thư của tôi thì điện thoại cạnh giường đổ chuông. Đó là ông Chủ tịch hội đồng Đô đốc gọi đến. Giọng ông ta nghe bất thường. Ông ta vừa ho, vừa thở nhẹ và ban đầu tôi nghe không rõ. "Thưa Thủ tướng, tôi phải thông báo với ngài rằng cả hai con tàu "Hoàng tử xứ Wales" và "Đẩy lùi" đã bị Nhật đánh chìm - chúng tôi cho rằng là do máy bay ném bom. ông Tom Philipp đã chết". "Ông chắc chắn là đúng chứ?". "Không còn nghi ngờ gì nữa". Tôi đặt máy và thầm cám ơn vì tôi chỉ có một mình trong phòng. Trong suốt cuộc chiến này, chưa bao giờ tôi lại trực tiếp nhận một cú sốc như vậy. Người đọc những trang này sẽ thấy bao nhiêu cố gắng, hy vọng, kế hoạch đã tiêu tan cùng với hai con tàu này. Mỗi khi trở mình hay vặn mình trên giương, cả tâm trí tôi chìm trong nỗi kinh hoàng này. Không còn tàu Anh hay tàu Mỹ quan trọng nào trên Ấn Độ Dương hay Thái Bình Dương nữa, trừ những người Mỹ còn sống sót ở Cảng Trân Châu đang vội vã quay về California. Nhật là người làm chủ tối cao trong các vùng biển rộng lớn trong khi chúng tôi ở mọi nơi đều yếu và trần trụi.

        Tôi tới Hạ Nghị viện ngay khi cuộc họp diễn ra vào 11 giờ sáng hôm đó đế đích thân thông báo cho các thành viên biết sự việc đã diễn ra. Ngay ngày hôm sau tôi đã đưa ra một bản báo cáo đầy đủ về tình hình mới. Về cuộc chiến đã kéo dài từ lâu ở Libya mà rõ ràng đã tới giới hạn của nó, thì lo âu rất nhiều và không có qua chút bất mãn nào. Tôi đã không hề giấu giếm khả năng về sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhật đang chờ chúng tôi. Mặt khác, chiến thắng của Liên Xô đã chỉ ra sai lầm chết người của chiến dịch Đông Tiến của Hitler.

        Với mùa đông, Nga vẫn khẳng định sức mạnh của mình. Giờ đây chúng tôi đã kiểm soát được cuộc chiến tranh bằng tàu ngầm, nên tổn thất đã giảm đi rất nhiều. Cuối cùng thì 4 phần 5 thế giới đang chiến đấu bên cạnh chúng tôi. Tôi đã phát biểu, trên tinh thần này, phần thắng nhất định sẽ thuộc về chúng tôi.

        Tôi đã dùng cái hình thức lạnh lùng nhất của việc tường thuật sự việc và tránh hứa hẹn về sự thành công sớm. cả nghị viện đều rất yên lặng và dường như chưa đưa ra phán quyết. Tôi đã không hề tìm kiếm hay mong đợi gì hơn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #278 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 09:44:25 am »


5

MỘT CHUYẾN ĐI GIỮA LÒNG CUỘC CHIẾN THẾ GIỚI

        Rất nhiều lý do quan trọng buộc tôi phải có mặt tại Luân Đôn vào lúc này, khi mà tình hình đang thật nóng bỏng. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ rằng một sự hiểu biết hoàn toàn giữa Anh và Mỹ sẽ là quan trọng hơn tất cả, và rằng tôi phải tới Washington ngay lập tức với một đội ngũ cố vấn gồm các chuyên gia mạnh nhất có thể sắp xếp được. Người ta cho rằng nếu chúng tôi đi bằng máy bay vào mùa này và theo hướng không thuận lợi thì thật quá nguy hiểm. Vì vậy, ngày 12 chúng tôi đi đến Clyde. Không còn tàu "Hoàng tử xứ Wales" nữa. Còn tàu King George V thì đang theo dõi tàu Tirpitz. Tàu Duke of York mới ra đời có thể chở chúng tôi đi và cùng lúc đã đạt đến độ hiệu quả cao nhất. Những người trụ cột của đoàn chúng tôi là Huân tước Lord Beaverbrook - một thành viên của Nội các Chiến tranh; tướng Pound - đô đốc thứ nhất trong Hội đồng đô đốc; Nguyên soái không quân Portal, Tham mưu trưởng phụ trách không quân và nguyên soái bộ binh Dill - người mà tướng Brooke đã thay thế với chức danh Tổng Tham mưu trưởng Bộ TTM Hoàng gia. Tôi lo cho việc Brooke phải ở lại Luân Đôn để nắm bắt các vấn đề to lớn đang đợi chờ ông ta. Vì vậy, thay vào đó tôi mời Dill - người mà vẫn có vai trò quan trọng trong công việc của chúng tôi và được mọi người rất tin tưởng và kính trọng - cùng tôi tới Washington. Nơi đây, một bầu không khí mới mẻ đang chờ đón ông ta.

        Trong đoàn còn có Huân tước Lord Moran, người đã trở thành cố vấn y tế thường trực của tôi trong năm 1941. Đây là lần đầu tiên ông đi với tôi, nhưng từ sau này trở đi thì không có chuyến đi nào của tôi mà ông lại vắng mặt. Có lẽ nhờ vào sự chăm sóc bền bỉ của ông ấy mà tôi mới không phải đối mặt với tử thần. Mặc dầu tôi không thể thuyết phục ông nghe lời khuyên của mình mỗi khi ông ốm, cũng như ông ấy cũng không thể trông cậy vào việc tôi ngấm ngầm tuân thủ mọi chỉ dẫn của ông, song chúng tôi đã thực sự trở thành đôi bạn thân thiết. Hơn nũa, cả hai chúng tôi đều đã sống sót.

        Chúng tôi hy vọng thực hiện cuộc hành trình với tốc độ trung bình 20 hải lý trong vòng 7 ngày có tính đến đường vòng, đường quanh co để tránh các tầu ngầm Đức được đánh dấu trên hải đồ. Bộ chỉ huy hải quân chuyển chúng tôi từ biển Alien xuống vịnh Biscay. Thơi tiết thật bất lợi: gió to và biển động. Bầu trời mù mịt những đám mây dầy. Chúng tôi phải vượt qua dòng tàu ngầm xuất kích và trở về căn cứ từ các cảng phía Tây nước Pháp tới các "khu vực săn lùng tàu địch" trên Đại Tây Dương. Có nhiều tàu ngầm địch đến nỗi Bộ chỉ huy hải quân phải ra lệnh cho thuyền trưởng tàu chúng tôi không được bỏ xa đội tàu nhỏ ở lại phía sau, nhưng đội tàu không thế vượt được tốc độ 6 hải lý trên biển động và chúng tôi giữ vận tốc ấy đi vòng quanh phía Nam Alien trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Chúng tôi đi qua Brest trong phạm vi 400 dặm, và tôi không thể không nhớ lại diễn biến của việc các chiến hạm "Hoàng tử xứ Wales" và "Repulse" bị máy bay có căn cứ từ các bờ biển phóng ngư lôi phá hủy. Mây che kín bầu trời làm cho một trong các máy bay hộ tống duy nhất của chúng tôi không bắt kịp đoàn: nhưng khi tôi ra boong tàu, tôi thấy xuât hiện nhiều khoảng trời xanh mà mình không mong muốn. Tuy nhiên không xảy ra chuyện gì nên mọi việc đều ổn. Chiếc tàu lớn cùng các tàu khu trục đi kèm vẫn tiếp tục đi. Nhưng chúng tôi bắt đầu thấy sốt ruột với tốc độ chậm chạp của nó. Đêm thứ hai, chúng tôi tiến gần đến dòng tàu ngầm. Tướng Pound - người đưa ra quyết định - nói chúng tôi chắc sẽ phải đánh chìm tàu ngầm Đức hơn là để bị trúng ngư lôi của nó. Trời tối đen như mực. Bởi vậy chúng tôi bỏ lại tàu khu trục và lao đi một mình với vận tốc tối đa có thể được trong khi thời tiết vẫn tiếp tục xấu đi. Chúng tôi đóng nắp hầm tàu lại và sóng biển gào thét trên boong tàu. Huân tước Lord Beaverbrook phàn nàn rằng ông cũng có thể đã đi bằng tàu ngầm. Bộ phận giải mã rất lớn của chúng tôi tất nhiên là nhận được nhiều tin tức. Qua vô tuyến điện, chúng tôi có thể trả lời ở một chừng mực nào đó. Khi đoàn hộ tống mới từ Azores đến, thì ban ngày họ có thể tiếp nhận được mật mã bằng tín hiệu morse của chúng tôi, sau đó di chuyển khoảng 100 dặm và có thể chuyển tiếp tin mà không tiết lộ vị trí của chúng tôi. Tuy vậy vẫn có một sự lo sợ không bình thường trong một không gian đóng kín - và chúng tôi lại đang ở trong cuộc Đại chiến thế giới.

        Chiến tranh diễn tiến trên mọi chiến trường. Hồng Kông đã bị Nhật tấn công gần cùng lúc với Trân Châu cảng. Tôi chẳng có ảo tưởng gì về số phận của Hồng Kông trước sức mạnh vượt trội của Nhật. Mười hai tháng trước đây, tôi đã phản đối việc củng cố lực lượng đồn trú ở các đồn bốt của chúng tôi. Thất bại của họ là đương nhiên và đã được giảm thiểu tới mức tượng trưng, nhưng tôi đã tự cho phép mình rút lui khỏi tình thế này và quân cứu viện được cử tới. Ngay từ lúc xuất phát, họ đã phải đối mặt với một nhiệm vụ vượt quá khả năng của mình. Họ đã trụ giữ được trong một tuần lễ. Tất cả những người có thể cầm vũ khí đã tham gia cuộc kháng cự tuyệt vọng. Sự kiên trì của họ được đáp ứng bằng sự ngoan cường của cộng đồng người dân Anh. Vào ngày lễ Giáng sinh, sự chịu đựng đã hết mức và đầu hàng là không tránh được. Và một loạt tai họa khác lại đe dọa chúng tôi ở Malaysia. Bộ binh Nhật đổ bộ lên bán đảo này cùng với những trận đột kích lớn vào các sân bay của chúng tôi gây tổn thất lớn cho lực lượng không quân vốn đã yếu của chúng tôi và nhanh chóng làm các sân bay ở phía Bắc trở nên vô dụng. Đến cuối tháng, lực lượng của chúng tôi nhiều lần ác chiến với địch, hoạt động ở cách vị trí lúc đầu của họ đúng 150 dặm, và Nhật đã cho đổ bộ ít nhất 3 sư đoàn hoàn chỉnh, trong đó có cả Quân cảnh vệ Hoàng gia. Chất lượng của máy bay địch được triển khai rất nhanh trên các sân bay đã giành được, vượt xa mọi dự đoán. Chúng tôi đã bị dồn vào thế phòng thủ và tổn thất rất nặng nề.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #279 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 09:45:48 am »


*

        Mọi thành viên trong đoàn chúng tôi đã làm việc không nghỉ trong khi chiếc Duke of York chậm chạp tiến về phía Tây, và chúng tôi tập trung mọi ý nghĩ vào những vấn đề mới mà chúng tôi phải đương đầu. Chúng tôi nóng lòng chờ đợi, xen lẫn đôi chút lo âu, cuộc tiếp xúc trực tiếp đầu tiên với ngài Tổng thống và các cố vấn chính trị quân sự của ông ta. Trước khi ra đi, chúng tôi đã biết rằng sự xâm phạm trắng trợn Trân Châu Cảng đã làm người dân Mỹ bàng hoang cao độ. Qua những báo cáo chính thức và tóm tắt tin tức báo chí nhận được, chúng tôi có cảm giác là rằng toàn bộ cơn thịnh nộ của quốc gia này sẽ đổ lên đầu Nhật Bản. Chúng tôi sợ rằng người ta không thể hiểu rõ được quy mô của toàn cục cuộc chiến tranh. Chúng tôi nhận thức được một mối nguy hiểm lớn là Hoa Kỳ có thể theo đuổi cuộc chiến với Nhật ở Thái Bình Dương và để chúng tôi chống cự lại Đức và Ý ở châu Âu, châu Phi và Trung Đông.

        Cuộc chiến đầu tiên ở Đại Tây Dương chống lại tàu ngầm Đức đã nghiêng hẳn về phía có lợi cho chúng tôi. Chúng tôi không nghi ngờ việc chúng tôi có đủ sức mạnh để giữ các tuyến đường biển luôn được khai thông. Chúng tôi cảm thấy chắc chắn rằng chúng tôi có thể đánh bại Hitler nếu hắn kéo vào hòn đảo này. Súc mạnh đề kháng của quân đội Nga đã khích lệ chúng tôi. Chúng tôi không hy vọng quá đáng vào chiến dịch Libi của chúng tôi. Nhưng tất cả những kế hoạch tương lai của chúng tôi phụ thuộc vào nguồn cung cấp lớn lao các loại từ Mỹ, như hiện đang được chuyển ngang qua Đại Tây Dương. Đặc biệt chúng tôi trông cậy vào máy bay và xe tăng cũng như dựa vào công nghiệp đóng tàu buôn to lớn của Mỹ. Cho đến nay, ngài Tổng thống với tư cách là bên không tham chiến, có khả năng và sẵn sàng trích ra cho chúng tôi một số lượng lớn trang thiết bị của các lực lượng vũ trang Mỹ, vì quân đội Mỹ không tham chiến. Quá trình này sẽ bị hạn chế bởi vì giờ đây Mỹ đang trong tình trạng chiến tranh với Đức, Ý và trên hết là với Nhật. Các nhu cầu quốc gia chắc được đặt lên hàng đầu chăng? Sau khi Nga bị tấn công, chúng tôi đã hi sinh để viện trợ cho quân đội Xô Viết một phần lớn trang thiết bị và các đồ tiếp tế đang tới từ các nhà máy của chúng tôi. Mỹ đã chuyển cho Nga một lượng hàng cung cấp thậm chí lớn hơn cả phần mà chúng tôi đã có thể nhận được. Chúng tôi hoàn toàn tán thành điều này vì sự chống trả anh hùng của Nga đối với những tên xâm lược Đức Quốc Xã.

        Tuy nhiên cũng khó có thể trì hoãn việc tiếp tế cho các lực lượng của chính chúng tôi, đặc biệt là giữ lại những vũ khí cực kỳ  cần thiết đối với đội quân đang chiến đấu quyết liệt ở Libia. Chúng tôi đành phải cho rằng "Nước Mỹ là trước hết" sẽ trở thanh nguyên tắc bao trùm trong quan hệ với Đồng Minh của chúng tôi. Chúng tôi sợ rằng phải mất một thời gian dài trước khi quân Mỹ đi vào hoạt động ở quy mô lớn, và trong suốt giai đoạn chuẩn bị này chúng tôi nhất thiết sẽ bị thiếu thốn lớn. Điều này sẽ cá thể xảy ra vào thời điểm chính chúng tôi phải đối mặt với những đối thủ mới ở Malaysia, ở Ấn Độ Dương, ở Miến Điện và ở Ấn Độ. Rõ ràng là việc phân chia các nguồn cung cấp sẽ cần đến một sự chú ý đặc biệt và sẽ đầy dãy những khó khăn và các khía cạnh khó xử. Chúng tôi đã được thông báo rằng lịch trình vận chuyển theo hiệp ước thuê muốn vũ khí đã bị đình hoãn cho đến khi được điều chỉnh lại. Một điều đáng mừng là các nhà máy sản xuất đạn dược, máy bay của Anh hiện đang và sẽ phát triển về điện và xung lực và sớm đạt quy mô rất lớn. Tuy nhiên, một loạt "các điểm tắc nghẽn" và khả năng không được cung cấp những mặt hàng quan trọng sẽ có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền sản xuất của chúng tôi đã dần hiện ra trước mắt chúng tôi khi con tàu tiếp tục đi xuyên qua bão gió. Như thường lệ, Beaverbrook trong lúc nguy biến vẫn giữ được cái nhìn lạc quan. Ông tuyên bố rằng các nguồn lực ở Mỹ chưa bị xây xước, rằng các nguồn này là không thể đo đếm được và một khi dân tộc Mỹ dồn hết sức lực vào cuộc chiến thì sẽ đạt được kết quả vượt xa mọi sự tưởng tượng hoặc dự kiến. Hơn nữa, ông ta nghĩ rằng người Mỹ chưa tự nhận thấy được sức mạnh của họ, trong lĩnh vục sản xuất. Sự cố gắng của Mỹ có thể vượt xa mọi con số thống kế hiện nay. Có thể có đủ mọi thứ cho tất cả mọi người. Và về điều này thì lời nhận xét của ông ta là đúng.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM