Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Năm, 2024, 07:35:20 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến tranh Đông Dương  (Đọc 86297 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #110 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2018, 08:38:51 am »


Tổ chức “bốn bên” là sự kéo dài Đông Dương dưới một dạng gián tiếp. Đối với nước Pháp đấy cũng là cách hiện diện thực tế mặc dù có những nước độc lập: là sức mạnh bảo trợ, Pháp hình thành với ba lực lượng bản địa một liên hiệp vì lợi ích chung. Khoảng cách không thành vấn đề nữa. Tuy nước Pháp cách xa mười hai nghìn cây số nhưng là thành viên thứ tư, thành viên chính trong một loại liên bang Đông Dương.

Hiệu quả vô cùng rộng lớn. Người ta đặt ra một đồng tiền chung, không còn là đồng bạc Đông Dương bị phê phán quá “thực dân” mà một đồng bạc mới. Người ta cũng đặt ra những thuế quan chung, công trình công cộng chung. Mọi việc cần thiết được hùn vốn chung. Và để quản lý tất cả những cái đó, người ta tạo những cơ quan bốn bên có nước Pháp và ba quốc gia.

Không thể tả hết những bất bình và tiếng kêu la do hệ thống kỳ cục này gây ra. Người Việt Nam, Căm-bốt, Lào đều nổi giận đối với người Pháp. Tất cả đều lên án Pháp “gian lận”, mánh khoé giật nốt của họ những đặc quyền chính về chủ quyền. Họ nói: “Nước Pháp nắm giữ kinh tế. Những nước chúng tôi vẫn là những mầm non không bao giờ kết thúc”. Nhưng họ còn quá chán nản đối với nhau. Bao nhiêu tranh cãi để chia nhau chiến lợi phẩm - sự hoạt động của Ngân khố chung trước đây! Nhất là tranh cãi về phân phối trách nhiệm và tiền lãi những công trình mới. Người Việt Nam, với tầm quan trọng đất đai và dân số của họ, đòi hỏi phần lớn hơn. Người Căm-bốt và Lào dựa vào nguyên tắc đồng đều giữa các quốc gia, cũng muốn có phần như thế.

Một sự lộn xộn không gỡ nổi. Phải thương lượng nhiều tháng để biết sẽ đặt các cơ quan bốn bên ở đâu. Người ta phân phối: Viện Phát hành, công trình phức tạp trên thế giới được bố trí ở Pnôm Pênh, thủ đô Căm-bôt. Vì đây là những cơ quan có máy móc đồ sộ. Nơi trước kia chỉ vài công chức của Sở Quản lý Đông Dương, người ta bố trí những ban tham mưu về kỹ thuật, được đối xử tuyệt vời, xây dựng cho họ những lâu đài, nơi họ chỉ việc giết thì giờ. Không có gì hoạt động lâu và biến mất nhanh như thế.

Những khó khăn của “bốn bên” càng nặng nề vì tăng thêm số nhân viên nhàn rỗi. Quý ông người Pháp “có tư thế’ đến từ Paris để giữ những vị trí quan trọng. Nhưng cũng còn nhiều chỗ cho các vị da vàng. Họ nhận thấy việc phân chia “bánh” đúng mức là một bước tiến lớn đến nền độc lập.

Vả lại những đối xử tương tự dẫn các quốc gia Đông Dương vào khối “Liên hiệp Pháp” không mấy nhăn nhó. Nhiều nhân vật Châu Á của Sài Gòn, Pnôm Pênh và Viên Chăn muốn sang Paris làm thành viên Hội đồng hoặc Hội đồng cấp cao, sống giữa nước Pháp với những thú vui và vinh dự, kinh phí của “nữ hoàng”. Những nhà “quốc gia” nghiêm khắc lên tiếng phản đối theo lý luận nhưng những người biết điều cho rằng tham gia vào một công việc vô hại như thế không phải là phản bội. Miễn rằng trong các diễn văn, nói về nền “độc lập trong khối Liên hiệp Pháp” không nhấn mạnh, tránh cho từ ngữ này có thể chứa đựng những mâu thuẫn. Đấy là một lối hành văn.

Tất cả những cái đó - những hiệp ước tay đôi với ba quốc gia, hiệp ước bốn bên, khối Liên hiệp Pháp - Pignon và Bonfils xây dựng với Bảo Đại, gặp trở ngại. Vì nếu Hoàng đế không trở về ngay họ sẽ có một cảnh trí trống rỗng. Sihanouk hoặc nước của họ quá nhỏ, chỉ đóng vai phụ. Trong việc xây dựng mới mọi việc tùy thuộc vào Việt Nam và do đó vào con người họ đã chọn. Trước đó, ngay trước khi trở về, Bảo Đại đã không thay thế được.

Tất cả vấn đề là nắm gấp lấy ông ta nhưng họ đã gặp phải một vòng luẩn quẩn. Phải hoàn thành các văn bản để Bảo Đại chịu về nước. Thế mà chỉ có sự hiện diện của ông ta mới bảo tồn được văn bản, làm cho chúng có giá trị. Người ta ở trong một tình thế mà không có ông, tất cả đều hư không.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #111 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2018, 08:41:49 am »


Mùa xuân 1949, Paris nổi nóng, đòi Pignon giải thích. Bảo Đại tiếp tục nghỉ ngơi thoải mái ở Bờ biển Xanh, chơi những canh bạc lớn ở các sòng bạc. Ở Sài Gòn các quan chức hành chính giận điên người. Họ “cẩu thả” trong nhiệm vụ, dùng mưu kế trốn tránh. Vì những thỏa thuận với Việt Nam đặt điều kiện cho tất cả, những ký kết với Căm-bôt, Lào và bốn bên. Vì Bảo Đại vẫn không có mặt và phải có một đối tượng để điều đình và ký, người ta lấy Chính phủ Nam Kỳ làm Chính phủ lâm thời của Việt Nam. Thậm chí để đánh dấu sự thay đổi người ta đưa lên một người lãnh đạo mới. Tướng Xuân thay thế Hữu. Việc ấy lại thêm một phức tạp - viên tướng thấy Hoàng đế trở về cũng chẳng còn lợi ích gì và nghĩ đến một nền cộng hòa do ông lãnh đạo.

Cuối cùng Phái đoàn dân sự kết thúc nỗi thống khổ dai dẳng, hoàn thành những hiệp ước với Việt Nam, chỉ còn việc ký. Việc ấy tiến hành trong một loạt lễ tiết trong tòa Thị chính Sài Gòn - một chiếc bánh ngọt bằng đá trắng, một bánh, có kem, lối kiến trúc gô-tích với họa tiết trang trí vây quanh của năm 1900. Chính trong sản phẩm kỳ cục này của chế độ thực dân “thời kỳ hoàng kim” nền độc lập được sản sinh.

Một nghi lễ ngoại giao giả tạo càng in đậm sự khốn khổ của những “giờ lịch sử” này. Đấy là việc treo cờ tưng bừng; ngôi nhà như bao bọc bởi những lá cờ Pháp và Việt Nam to tướng. Đấy là vẻ huy hoàng quân sự: quảng trường thành phố đầy nhân viên thắt đai khắp mình, tay cầm tiểu liên, những đội kèn đồng mặc lễ phục, những phân đội danh dự bồng súng chào. Nhưng bên trong ngôi nhà, ở gian phòng lớn tầng một chỉ khoảng một trăm người da trắng hoặc da vàng, vẫn là những người ấy - các nhân vật chính quyền. Thế giới này tẻ nhạt. Những người Pháp, các nhà cai trị hoặc các tướng mặc lễ phục, dân sự mặc áo quần trắng thêu cành nguyệt quế, quân sự là cây sồi. Họ chúc mừng nhau rất khiêm tốn. Pignon mệt mỏi, Bonfils cáu kỉnh. Những người Việt Nam, tất cả là bộ trưởng hoặc nhân viên cao cấp, mặc quần áo comple. Họ nhiệt tình giả dối, đầy ẩn ý. Phần lớn đứng tách riêng, đứng đắn và bối rối; họ chẳng hào hứng gì về nền độc lập hạn chế cũng như về Hoàng đế được chờ đợi.

Vài tiếng cọ xát nữa trên giấy, những lần đóng dấu những đợt vỗ tay rời rạc: đấy là độc lập. Pignon nói mấy lời hài lòng. Các diễn giả Việt Nam thể hiện những bài nói có những từ tối nghĩa, được tính toán kỹ. Thay vì ca ngợi sự “hoàn hảo” của các hiệp ước, họ nói về sự “có thể hoàn hảo”. Như vậy có nghĩa, với lễ phép Phương Đông, họ đã ký vì sức mạnh chứ không vì tinh thần tự nguyện. Và đó là quan điểm của “những người hợp tác”!

Nhưng nhất là sự thờ ơ của thành phố, của toàn dân chúng Sài Gòn. Nhân dân không biết, không muốn biết việc gì đang xảy ra trong tòa thị chính, như nền độc lập theo lối Bảo Đại không liên quan gì đến họ, họ tiếp tục cuộc sống như mọi ngày - thậm chí Việt Minh cũng không có chỉ thị quấy rối. Chẳng có gì xảy ra. Một người Việt Nam nói với tôi: “Biểu tình chống hư không làm gì?”

Ít nhất Pignon cũng sắp “sờ đến” Bảo Đại. Đã định được một ngày nắm ông ta. Đến giờ chót một khó khăn bất ngờ thiếu chút nữa làm hỏng cả kịch bản. Thật ái ngại!

Bảo Đại đã chuẩn bị hành lý ở Bờ biển Xanh. Ở Sài Gòn chỉ còn một thể thức cần hoàn thành bãi bỏ quy chế thuộc địa của Nam Kỳ. Các nhà cai trị phát hiện ra rằng, theo Hiến pháp nước Pháp, một Hội đồng Nam Kỳ được bầu dân chủ phải tuyên bố nguyện vọng của xứ Nam Kỳ không muốn là một lãnh thổ Pháp nữa qua một cuộc bỏ phiếu long trọng. Hội đồng ấy không có. Pignon vội vã tạo ra từ một mớ tạp nham. Cuối cùng cũng bỏ phiếu, ngay trong ngày Hoàng đế chuẩn bị lên máy bay. Lúc đó một luật sư láu cá, người xứ Corse, một người cũ của thuộc địa, thông báo ông sẽ kiện lên Thượng viện: Cơ quan xác nhận sự chia tay của xứ Nam Kỳ không có thường xuyên. Nếu người ấy thực hiện lời đe dọa thì sẽ là một vụ bê bối và Bảo Đại thu xếp vali sẽ không trở về nữa.

Pignon triệu tập viên luật sư xảo quyệt. Ông cho ông kia một triệu đồng đổi lấy cái đơn kiện. Người kia chỉ chờ có thế, chấp nhận. Nhưng không có đủ tiền để tranh thủ mối lợi bất ngờ. Trong lúc Bảo Đại bay về mảnh đất của tổ tiên, ông đưa bán tại Sài Gòn những cước phí vận chuyển cho những người trả giá cao nhất. Bảo Đại đã có thể trở về như thế đấy!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #112 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2018, 08:42:36 am »


Cuộc trở về kỳ lạ! Tác động đầu tiên là mở ra niềm say mê cuộc chơi. Nhân dân Sài Gòn bỗng nhiên quan tâm đến Hoàng đế của mình; ông tạo cho họ có dịp cá độ. Có những người bỏ ra hàng chục triệu đồng đánh cuộc về những điểm bí mật, ngày, giờ, phút Hoàng đế sẽ đến, nơi ông hạ cánh, phương tiện xe cộ ông sẽ dùng. Những người hiếm hoi dự kiến Bảo Đại sẽ đi máy bay Dakota ngày 27 tháng tư năm 1949, hạ cánh lúc mười một giờ ba mươi phút sáng, tại sân bay Đà Lạt, đã thắng được những số tiền khổng lồ. Thực vậy, có ai nghĩ thay vì long trọng bước vào thành phố sang trọng Sài Gòn của mình, Bảo Đại có thể “mưu toan” một cuộc trở về gần như bí mật? Thế mà bỏ chuyến bay thường lệ ở Singapore, ông thuê một máy bay đặc biệt đưa ông tới vùng núi, giữa miền vắng lặng Cao Nguyên, xa tất cả.

Việc đó bắt đầu không hay. Đối với toàn Việt Nam cách lựa chọn Đà Lạt có nghĩa: “Tôi rửa tay về những gì đã qua.” Việc cách ly bản thân mình, xa những thành phố lớn, xa những đám đông, xa nhân dân là công khai từ chối trước vai trò người Pháp chờ đợi ở ông. Họ những muốn một Bảo Đại hoàn toàn hợp tác, hạ cánh ở Sài Gòn, bố trí ở đó và làm việc tay trong tay với Pignon và phái đoàn của ông này. Nhưng Bảo Đại thoát khỏi họ với lời nói đơn giản: “Tôi không bao giờ ở Sài Gòn chừng nào tôi chưa có lâu đài Norodom. Không phải cao uỷ mà tôi ở đó. Tôi không muốn là người chủ thứ hai ở nước tôi, trong thủ đô của tôi”. Đấy là một tiếng “không” không thể bác bỏ. Vì hơn bao giờ hết ngôi nhà cũ huy hoàng đối với toàn Việt Nam, là biểu tượng thực sự của Chủ quyền: người ở đấy là người chủ đất nước.

Điều đó kéo dài mãi. Cho đến khi cuộc chiến tranh kết thúc, hàng năm những người Việt Nam đều đòi lại lâu đài Norodom luôn luôn quyết liệt, nhưng người Pháp không nhường bước. Lá cờ tam tài phất phới bay ở đó cho đến khi thất bại ở Điện Biên Phủ. Nếu đấy là lá cờ Việt Nam, tiến trình chiến tranh có thể đã thay đổi. Nhưng năm 1949, Bảo Đại rất hài lòng có cớ tránh né.

Dù sao chưa bao giờ có một người tỏ ra khó chịu đến thế. Như Bảo Đại, khi bước xuống từ chiếc Dakota ở sân bay Đà Lạt - một khoảng rừng thưa ở miền núi. Ông Bảo Đại này ngay trước khi đặt chân xuống đất, còn trên những bậc thang đã là hiện thân của sự chán nản. Tôi chỉ trông thấy đôi kính râm to lớn và chiếc mũ thực dân, vẻ ngoài phù hợp hoàn toàn với một hình ảnh thời thượng của cuộc săn bắn thuộc địa. Sau đó tôi nhận ra một mẫu khuôn mặt béo và tròn đôi môi dày, mũi tẹt như được tạc vào một củ khoai tây. Thế thôi.

Những bước đi đầu tiên trên quê hương, Bảo Đại tiến lên một cách máy móc, thậm chí không thèm nhìn. Ông không thấy lá cờ hoàng gia giống như mấy nét hoàng đới, cũng không thấy những toán cứng đờ “bồng súng chào”, hàng “chức sắc” áo dài, khúm núm cúi người và nhóm nhỏ bạn bè thân tín như Giáo, người quản gia, đều ăn mặc theo lối quan lại. Ông càng không thấy, bên trong nhà ga, cao uỷ Pháp đọc một diễn văn chào mừng. Ông trả lời với giọng nói mất tiếng, vẻ uể oải chính là sự ngạo mạn.

Trong mấy phút mọi việc kết thúc. Hoàng đế chui vào một chiếc li-mu-din lớn đưa ông về biệt thự của mình, cách xa núi rừng. Như là ông đến để rồi biến mất.

Tất cả diễn biến như không “thật”. Và tôi giữ cảm giác không thật ấy rất lâu.

Hôm ấy tôi hỏi Faugère và Cousseau liệu họ còn hy vọng không. Họ mỉm cười bực mình trả lời:

- Rồi sẽ khó đấy.

Vậy là phải chơi “lá bài Bảo Đại” với một ông vua không thích. Và việc đó ngay vào lúc tướng Revers sang Đông Dương để chứng tỏ lá bài đó chẳng có giá trị gì. Phần lớn tỏ ra phức tạp nhưng Pignon luôn quyết tâm, thậm chí say mê chiến thắng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #113 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2018, 06:54:53 pm »


Chương II
CUỘC CHIẾN TRANH DU KÍCH



Những cuộc chiến tranh du kích ở Đông Dương kéo dài tám năm, không có những trận đánh lớn, không mặt trận, không mục tiêu quyết định, không tất cả những gì thường có của một cuộc chiến tranh. Đây là cốt lõi của Đông Dương cho đến Điện Biên Phủ. Nhưng qua thời gian người ta dần dần ít nói đến, gần như quên đi; trên báo chí thường dành chỗ cho cuộc chiến tranh nói chung.

Vì từ năm 1950 khi những sư đoàn của ông Giáp xuất hiện từ “khu tứ giác” phá vỡ đường Quốc lộ 4 tràn về Hà Nội, về châu thổ Bắc Kỳ, về phía Nam thì cũng bắt đầu có cuộc chiến tranh thực sự. Cuộc chiến tranh này có mặt trận, những trận đánh, những cuộc tấn công, một hậu cần, một chiến lược vận dụng cho rừng núi và đồng bằng. Rồi sẽ là Vĩnh Yên, Sông Đáy, Sông Đà, Na Sầm, Luang Prabang và Điện Biên Phủ.

Nhưng cuộc chiến tranh này chỉ thêm vào những cuộc chiến du kích vẫn tiếp tục ở khắp nơi. Cho đến thời kỳ cuối người Pháp phải dành bốn phần trăm quân số để giữ đất chống du kích. Đội quân viễn chinh bị nghiền nhuyễn rải ra trên Đông Dương, phân huỷ thành những cục nhỏ tản mác trong lòng chiến tranh du kích.

Vận mệnh của Đông Dương do sự bất lực của người Pháp trong cuộc chiến tranh chống du kích, sẽ kéo theo phần còn lại. Sa lầy khắp nơi, họ không “giải thoát” được một lực lượng tấn công cần thiết; chỉ mấy trăm tiểu đoàn và đội cơ động chống chọi với quân đội ông Giáp mỗi lẫn càng mạnh hơn và đánh vào chỗ họ muốn. Nhờ “phép lạ” quân Pháp còn trụ thêm được mấy năm rồi sẽ là thảm họa không tránh khỏi.

Chưa đến lúc đó. Các sư đoàn của ông Giáp vẫn chưa ra khỏi căn cứ. Trung Quốc đỏ chưa áp sát Bắc Kỳ. Những năm 1948 và 1949 thậm chí còn là những năm may mắn cuối cùng. Đội quân viễn chinh trong một nỗ lực rất lớn được sử dụng để thanh toán quân du kích trước khi đã quá chậm.

Người ta có thể nghĩ người Pháp sắp thành công nhưng rốt cuộc họ thất bại. Họ buộc phải thất bại. Điều bây giờ tôi muốn chỉ rõ, qua những câu chuyện sống, một cuộc chiến tranh du kích là bất diệt khi nó nằm giữa nhân dân như một con cá trong nước. Tôi miêu tả cuộc “chiến tranh cách mạng”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #114 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2018, 06:56:23 pm »


Về sự tàn bạo

Chiến tranh du kích không chỉ là nghệ thuật đánh nhau. Phải từ những lập luận biện chứng đi đến những “giải pháp đúng đắn” nhằm thống trị toàn bộ, tạo ra khối quần chúng có ý thức chính trị phục vụ lợi ích cách mạng, là chỗ dựa của cuộc chiến tranh du kích.

Kỹ thuật ấy dựa vào cơ sở tàn bạo lạnh lùng, từ nay là cuộc sống bình thường trên toàn Đông Dương. Người ta không thoát khỏi, nó ở trên không, lan rộng cả trong những người Pháp. Để chống du kích quân Pháp cũng áp dụng những quy luật này. Hạ bỏ là cần thiết và nó đúng một phần. Nhưng cũng có sự thích thú lây nhiễm. Cuối cùng là một căn bệnh tâm thần, những người bình thường nhất cũng có thể bị mắc phải.

Tôi đã sống trong lề thói chiến tranh du kích ở Hóc Môn. Thật kinh khủng nhưng có vẻ bình thường đối với mọi người, ở đây tôi quen biết một cặp vợ chồng người Pháp, đã quện với nỗi kinh hoàng, thành thói quen, sở thích, tuy vẫn là cặp vợ chồng mẫu mực những “người tử tế của phía chúng ta”.

Điều này xảy ra gần như trong một vùng ngoại ô Sài Gòn, cách thủ đô đúng mười sáu cây số, ở Hóc Môn. Nhìn bề ngoài đây là một thị trấn thuộc địa của Nam Kỳ như bao thị trấn khác, ngủ trong nóng nực và buồn chán. Thực ra đây là địa ngục của chiến tranh du kích và chống du kích. Gần như bị bao vây. Xung quanh lởn vởn những chi đội của Nguyễn Bình. Đã hai năm nay nửa lữ đoàn thứ 13 lê dương cố gắng đẩy lùi họ không được. Các chi đội này hầu như không thể nắm bắt, họ có những chỗ ẩn náu ngay gần đấy nhưng không chiếm được. Một phía Đồng Tháp Mười vươn tận đó. Phía khác núi rừng tiến đến Thủ Dầu Một, cách mấy cây số. Sát nách là Sài Gòn, nơi các nhà lãnh đạo Việt Minh bị săn đuổi, cải trang đủ cách.

Cuộc chiến ở Hóc Môn rất quyết liệt, vì thế thị trấn này chiếm một vị trí chiến lược sống còn, khống chế con đường lớn đi PnômPênh nằm trên một dải đất hẹp giữa vùng đầm lầy và rừng núi.

Tôi là khách của vợ chồng ông C... đại diện thống trị, hai mươi sáu tuổi, người rắn chắc, nhỏ và gân guốc, khuôn mặt hơi tròn có đôi mắt sắc, đa nghi. Muốn tỏ ra khắc nghiệt ông mặc thế nào cũng được, áo quần kaki, hét lên nhưng giọng vẫn mang dáng dấp của khu Latinh (Pháp) và lịch sự. Chàng trai trẻ này chỉ huy cuộc chiến với nhiều trăm binh lính nguỵ, bên cạnh đội lê dương.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #115 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2018, 06:57:02 pm »


C... ở trong ngôi nhà một tầng ở rìa thành phố. Súng đạn rải khắp đồ đạc bụi bậm. Trong phòng ăn, bàn được bố trí rất tốt, đầy đủ cốc chén bát đĩa nhưng sứt mẻ. Bữa ăn thịnh soạn, nhiều thức uống. Nhưng tay chân những người hầu khá bẩn.

Bà C... thanh minh:

- Đây là những tù binh Việt Minh. Chồng tôi muốn thí nghiệm, lấy họ làm người hầu. Lúc đầu tôi sợ, hình dung không biết lúc nào họ sẽ bóp cổ hoặc đầu độc chúng tôi. Họ có thể dễ dàng làm việc ấy vì chẳng ai canh chừng. Bây giờ   thậm chí tôi không nghĩ họ là ai nữa. Nhưng tôi không bao giờ đưa họ vào nề nếp được.

- Vậy là tôi dự một bữa ăn do lính của Nguyễn Bình chuẩn bị và phục vụ?

Bà C... trả lời “đúng” vừa mỉm cười.

Người quản lý đã đứng tuổi, khuôn mặt xương, thay các món ăn với những cử chỉ tôn kính. Ông ta nguyên là một cán bộ chính trị. Tôi hỏi C... trước đây ông ta đã giết hay sai giết bao nhiêu người Pháp. C... nhún vai:

- Tôi chẳng biết. Điều đó không quan trọng.

Ra phòng khách tôi suýt ngồi lên những quả lựu đạn bỏ quên trên ghế phô tơi. C... phá lên cười:

- Không sao, lựu đạn chưa rút chốt.

Vợ ông lại rất bối rối kêu lên:

- Những anh bồi Việt Minh này thật lơ là; ít nhất họ cũng có thể thu xếp trật tự trong nhà.

Cuộc sống gia đình ở Hóc Môn là như vậy đấy! Vợ chồng C... tiếp tục sống kiểu “tiểu tư sản” trong khu vườn khổ hình của họ. Một sự gộp đôi kỳ lạ! Vợ chồng C... vẫn giữ những nguyên tắc của nước Pháp bảo thủ nhưng đồng thời họ hoàn toàn hòa nhập với kinh hoàng. Đối với họ sự tàn bạo là chuyện vặt.

Họ đã thay đổi qua một thời gian ngắn! Mới cách đấy ba năm C... tốt nghiệp Trường Thuộc địa và là anh chồng trẻ đi sang Đông Dương. Người ta bổ nhiệm anh về bốt Hóc Môn; anh nhận nhưng chẳng biết gì nơi đó, anh ở trong thị trấn với vợ và con. Nhìn ra thì có vẻ đơn giản. Nhưng không hoàn toàn thế. Có một sự khác biệt nhỏ giữa hai vợ chồng, C... hoàn toàn hạnh phúc nhưng vợ thì không, C... yêu thích Hóc Môn, vợ anh không thế; nhưng chị yêu anh, thế là chị cố gắng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #116 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2018, 06:58:21 pm »


Bà C... đẹp và bình tĩnh, hơi mập, có những nét đều đặn, da rất trắng. Ở Sài Gòn người ta nói đấy là một “bà thực sự’. Người ta kể cho tôi nghe về cuộc sống của bà, luôn luôn chờ chồng đang đi chém giết. Người ta nói:

- Bà hao mòn đi trong những giờ vô tận ấy. Bà biết C... thiếu khôn ngoan, quá hăng say - có ngày Việt Minh sẽ lột da ông. Bà khắc khoải về những tin chẳng lành nhưng không để lộ ra, thậm chí vẫn tỏ ra không run sợ trong những đêm Việt Minh tấn công Hóc Môn. Không bao giờ bà sợ cho bà, mà chỉ lo cho ông.

Một lần vào lúc hoàng hôn, Việt Minh tấn công vào ngôi nhà họ. C... chưa về, bà tập hợp lính nguỵ đang sợ hãi chỉ huy họ chiến đấu. Việt Minh bắn đại liên và súng cối. Bà C... chỉ huy chiến đấu cho đến lúc ông chồng nghe tiếng nổ, từ xa chạy về nhà tổ chức phản công.

Người ta khuyên tôi không nên nói những chiến công của bà C... với ông chồng; ông không thích một người đàn bà được chú ý. Tôi chỉ hỏi bà chủ nhà:

- Nhưng làm sao bà chịu đựng được không khí Hóc Môn?

- Tôi phải quen thôi. Người ta quen với tất cả, thậm chí như tôi, chưa bao giờ rời khỏi người Pháp. Tôi dành cho cuộc sống này nhưng không say mê như chồng tôi. Tôi không thích sự tàn bạo.

- Đúng là Hóc Môn hơi lạ lùng, C... nói. Dân chúng không chỉ hốt hoảng vì sợ hãi. Qua quá nhiều sự kiện, họ bao giờ cũng căng thẳng, một cuộc sống điên tiết về mọi mặt. Tôi đã hiểu phải là người mạnh nhất, phải ghê gớm với tất cả, ngay trong sự tàn bạo. Nhưng tôi đã mất nhiều thì giờ hơn vào bài học thứ hai: sự tàn bạo ấy phải đúng như một phương trình. Tàn bạo lung tung cũng nguy hại. Phải tính toán.

Trong lúc nói, bà C... đăm đăm nhìn chồng. Rồi không nén được bà cũng nói lên sự thật:

- Anh muốn nói mình bị đầu độc vì môi trường nguy hiểm và điên loạn này. Anh là một người nghiện. Bây giờ những cái đó là sự cần thiết đối với anh.

Bà lấy tôi làm chứng:

- Ngay phía bên kia khu vườn có một vạt đất có rất nhiều bụi cây. Việt Minh luồn vào đấy thả sức bắn vào nhà. Đã bao nhiêu lần tôi đề nghị chồng tôi cho chặt quang cây cối đi. Anh ấy từ chối. Anh cần những loạt đạn của Việt Minh.

C... không bằng lòng, cản lại:

- Vợ tôi sẽ không bao giờ hiểu vấn đề “thể diện”. Tôi không muốn mất cái ít ỏi mà nhiều năm tôi mới đạt được. Tôi mà cho phá những bụi cây, dân chúng ở Hóc Môn sẽ nói ông đại diện sợ và nếu ông ấy đề phòng có nghĩa Việt Minh rất mạnh. Ngược lại, coi khinh những bụi cây ấy, tôi cũng khinh thường Việt Minh, chỉ cho cả thị trấn biết tôi coi họ không ra gì.

Bà C... yên lặng rút lui, để đàn ông lại với nhau. Thế mà C... sắp nói với tôi về một người đàn bà, Thị Bé, trưởng một chi đội, gần như ngang hàng với ông.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #117 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2018, 06:59:26 pm »


Chi đội 12 của Thị Bé

Trong mấy tiếng đồng hồ tôi phát hiện ra thế giới hư ảo của Hóc Môn, những chi đội 6 và 12, bà Thị Bé, nửa lữ đoàn thứ 13, những lính lê dương đào ngũ, lính Nhật đánh thuê cho Việt Minh, ông Xích một người ám sát chuyên nghiệp, ông Thuần, con người bình lặng, cả một trò múa rối lớn.

Buổi chiều nóng như lửa đốt. Tiếng rít của những chiếc quạt là máy đo thời gian đều đều. C... đưa tôi vào cơn ác mộng của ông.

Hóc Môn đã luôn luôn đỏ. Chính ở đây, năm 1940 nổ ra cuộc nổi dậy đầu tiên kiểu “quần chúng” ở Đông Dương. Người đại diện Nhà nước thuộc địa lúc ấy lẩn trốn trên tháp nước, dùng chân tay đẩy những chiếc thang tre của dân quê đang trèo lên vung tay phạt. Ông sắp bị băm thành khúc thì đội hiến binh Sài Gòn đến.

Bây giờ là vùng du kích lớn. Xung quanh Hóc Môn, những chi đội 6 và 12 đã có nhiều cộng sản hơn người quốc gia.Chi đội 12 do Hồ Thị Hào, thân mật gọi là Thị Bé chỉ huy, một người bồi cũ khoảng 30 tuổi. Vị nữ tướng vững chắc này ra khỏi hàng quân là một người mập béo. Bó người trong bộ đồng phục màu đen, súng colt dắt thắt lưng và một súng các-bin trên vai, bà bất ngờ xuất hiện trong các làng với đội quân bảo vệ là lính lê dương đào ngũ. Bà cũng xây dựng những đội ám sát để tiến hành những đợt tấn công biệt kích vào ngoại ô Sài Gòn.

Chi đội 12 là một tập đoàn dân lao động hoàn toàn đỏ. Có ban tham mưu, toà án, một đội tuyên truyền, đội chính trị, đội kinh tế, đội an ninh và kèm theo một loạt đại biểu nhân dân. Ở đấy áp dụng một trật tự chặt chẽ mác-xít. Quân lính dù là dân quê buộc phải nhập ngũ hoặc tình nguyện từ giới trí thức, đều do điều lệnh chi phối, tạo họ thành những “người mới” qua tập luyện, những bài hát yêu nước, những mít tinh chiến thắng, sự kiêng nhịn vật chất, nhất là sự giáo dục. Ngày này qua ngày khác các chiến sĩ du kích đỏ lặp lại mười điều lệnh. Hàng ngày họ phải viết vào hai cuốn sổ khác nhau. Cuốn kia họ thú nhận những việc làm trong cuộc sống. Tối đến một “cán bộ” đọc những gì họ viết và ghi nhận xét. Cũng hàng ngày những người trong chi đội họp thành tổ ba người tự phê bình. Một người mới được tuyển quân đến không sờ vào một vũ khí nào, kể cả khẩu súng gỗ trong ba tháng, dành thời gian ấy cho việc giáo dục chính trị. Lòng nhiệt tình ấy lan ra đến những người dân làng bình thường. Họ cũng buộc phải làm điều tốt, chứng cứ là những quyết định của Thị Bé ghi nhận chém đầu những dân quê không biết đọc trong một thời hạn sáu tháng: mù chữ thực ra cũng là một dạng của điều xấu.

Quân đội lê dương không bao giờ biết chắc được chi đội 12. Những sự đề phòng vô biên; tất cả đều quy định thời gian chính xác. Phân tán nhỏ và di chuyển là quy luật an toàn của đơn vị hai nghìn người này. Cứ bốn, năm đêm lại một lần chuyển động. Phía trước, đàn bà, người già và trẻ em “soi đường”, báo hiệu có người nghi vấn và cạm bẫy. Sau lớp vỏ bọc ấy là các hàng quân đi vào đồng ruộng hoặc rừng núi. Đêm tối có tiếng còi hoặc kèn, được chiếu sáng bằng đèn điện thậm chí hỏa tiễn: những tiếng và ánh sáng ấy là dấu hiệu, tất cả thể hiện bằng ngôn ngữ mật với quy ước luôn luôn đổi mới. Thiên nhiên rộn ràng, lúc nhúc như trốn tìm của những trinh sát và lính canh dưới ánh trăng. Đôi khi có những loạt súng nổ, có nghĩa là lính lê dương phục kích tấn công nhưng thường cũng chính họ bị phát hiện và bị tấn công bất ngờ. Hai bên bắn nhau không bao giờ kéo dài. Tất cả lại rơi vào im lặng không hoàn toàn của miền nhiệt đới.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #118 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2018, 07:00:17 pm »


Những ngày sau đó quân lính chi đội mặc quần áo thường trở thành những dân quê vô sự, phân tán từng nhóm nhỏ vào các xóm. Mỗi gia đình cung cấp “phần yêu nước”, nghĩa là chiếu và bát gạo họ luôn luôn sẵn sàng cho chiến binh có thể đến. Nhân dân nuôi và cho các “anh hùng” của họ trú ngụ theo hệ thống. Như vậy thì không cần có bộ phận hậu cần. Tuy vậy chi đội vẫn có những kho dự trữ đề phòng bất trắc trong rừng và một căn cứ hậu phương ở vùng đầm lầy. Việc tập luyện quân sự chính quy, những “diễn tập” tấn công đồn bốt và phục kích thực hiện trong một trại ở Đồng Tháp Mười. Vì người ta chết nhiều trong các bệnh xá của đơn vị, những người bị thương quan trọng - những người mạng sống quý giá đối với lợi ích nhân dân như các cán bộ và uỷ viên chính trị - thường được đưa lên Sài Gòn nhờ những thầy thuốc bạn bè chữa trị. Một số còn được đưa vào các bệnh viện Pháp nhờ sự mập mờ khéo léo với danh nghĩa lính nguỵ. Trên tất cả là vũ khí. Việt Minh tự trang bị súng đạn bằng buôn lậu, dựa vào sự tha hoá và giết quân lính địch.

Việc lưu thông vũ khí gần như theo một hướng độc nhất từ người Pháp đến người Việt. Thậm chí Việt Minh có chỉ thị những biện pháp chính để có vũ khí:

Giết lính Pháp để lấy vũ khí: Thường là mục tiêu của những cuộc phục kích, hầu như luôn luôn rất “lãi”. Mới đây việc tiêu diệt một đoàn xe gần Rạch Giá đưa lại cho người Việt một ca-nông, năm đại liên, khoảng năm chục súng trường. Họ cũng thực hiện với mức khiêm tốn hơn. Có những đợt giết lính riêng lẻ để chiếm một khẩu súng ngắn.

- Vận động binh lính địch đào ngũ mang theo súng đạn: Có những đợt truyền đơn vẽ hình hấp dẫn Đội quân viễn chinh: Những binh lính đào ngũ sung sướng nằm nghỉ trên đi văng miệng ngậm xì gà. Bên dưới là ghi chú giải thích: “Chúng tôi tiếp đón các bạn như anh em nếu các bạn mang theo vũ khí”.

- Mua vũ khí và đạn dược với bất cứ giá nào: Chắc chắn lính nguỵ và có lẽ cả một số lính Pháp - muốn có tiền, bán vũ khí của họ. Có một chợ đen ở Sài Gòn chuyên mua bán theo yêu cầu. Một súng tiểu liên được định giá năm nghìn đồng (tám mươi nghìn phrăng Pháp).

- Làm việc với địch để lấy cắp súng đạn: Mọi tầng lớp xã hội được kêu gọi đóng góp phần mình, các hội sinh viên, thư ký đánh máy, những cô gái nhẹ dạ, trẻ em bán rong (bán báo, đánh giầy) đặc biệt đối với những người làm bồi, bếp, lựa chọn họ trong số “tinh ranh và thông minh”. Ở Sài Gòn, “bếp trưởng” một viên chức cao cấp vừa bị bắt đúng lúc bắt đầu một buổi tiệc lớn: ông ta chỉ đạo cả một ban ám sát dưới sự bảo vệ của các đầu bếp trong chính quyền cai trị.

Trong cuộc chiến về vũ khí này Đội quân viễn chinh làm theo khả năng mình. Họ cũng định giá vũ khí mua được, với giá cao hơn giá của Việt Minh. Mọi binh lính nguỵ lấy được một khẩu súng của Việt Minh được một phần thưởng rất lớn. Kết quả của việc ‘thu thập lại” ấy không đạt được gì. Gần đây người Pháp quan tâm nhất là nếu không thể lấy vũ khí của Việt Minh thì đừng đánh mất vũ khí của mình. Bộ tổng tham mưu thường xuyên “đẻ ra” những chỉ thị nhắc nhở nghiêm khắc việc này. Có cả một quy chế rõ ràng, trong một đội, để mất chỉ một tiểu liên sẽ bị điều tra, khiển trách, rất phiền phức. Điều đó làm tê liệt không ít sĩ quan, họ không đưa người đi hành quân nữa, sợ mất vũ khí. Tuy vậy phần lớn các đơn vị có kế hoạch D. Nếu ở chiến trường họ bắt được súng cối hay súng trường của quân đỏ, họ chỉ báo cáo lên trên một phần, còn thì bí mật dự trữ lại. Trước hết là có nhiều vũ khí sử dụng và nhất là có thể thay thế “nhẹ nhàng” những gì biến mất sau này. Tất cả trong cuộc chiến tranh Đông Dương này đều gian lận, kể cả điều tốt cho công việc.

“Mặc dù thế Việt Minh vẫn tiếp tục tự cung cấp vũ khí từ chúng ta. Chúng ta là xưởng sản xuất của họ...”
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #119 vào lúc: 18 Tháng Giêng, 2018, 06:38:03 pm »


Những kẻ đào ngũ không có tương lai

- Sáng nay chúng tôi tóm được Pierre rồi.

Một trung uý lê dương hét lên như thế. Ông vừa qua thềm bước vào nhà. Một người to cao còn trẻ tóc hung, mắt ngả màu xanh. Với vẻ hiền từ hoạt bát, thậm chí hảo tâm, viên sĩ quan kể cho chúng tôi nghe hai người trong đại đội ông giết nhau như thế nào: Anh người Đức trung thành thắng anh người Pháp đào ngũ.

Cách đây một tháng Pierre mang theo vũ khí về với Việt Minh. Chúng tôi đuổi theo không được. Sáng nay tôi và quân lính đi cả đoàn xe trên đường Thủ Dầu Một. Hans, bắn súng F.M ngồi trên mái một chiếc xe, thấy lá sen rung rinh ở con lạch gần đấy. Lúc đầu anh tưởng là một con trâu đầm bùn. Bỗng thấy ánh kim khí một khẩu súng trên mặt nước lăn tăn, anh bắn. Một xác chết nổi lên. Đấy là Pierre, đang chuẩn bị “đốt” chúng tôi bằng khẩu tiểu liên mang theo. Chúng tôi thu lại được khẩu súng trong bùn láng của con lạch.

Viên trung uý ra ngoài đi báo với các nhân vật khác của Hóc Môn về tin vui lấy lại danh dự của ông và đại đội.

Nhưng C... không choáng ngợp. Đối với ông đấy chỉ là một việc bình thường trong cuộc chiến tranh ở Hóc Môn. Ông giải thích cho tôi:

- Ông nên biết thực ra ở chi đội 12, các thiện xạ - những người sử dụng súng máy - nói chung là người nước ngoài.

Đầu tiên là thế hệ người Nhật. Vùng này có một trung đội thép Nhật liên minh với Thị Bé lúc Đế quốc Mặt trời mọc sụp đổ. Khi có một khẩu đại liên nguỵ trang dưới những cây dừa bắn vào một đoàn tuần tra Pháp, người ta thấy một sĩ quan của Quân đội Thiên hoàng đứng bên họng súng, đội mũ cứng, đi bốt đen, đang ra lệnh bắn. Hầu hết những người sẵn sàng hung bạo ấy đã chết, tuy rất khác nhau: trên chiến trường, tự sát, cũng có cả bị ám sát nữa.

Những người khác, khoảng ba trăm, được phái đoàn đại uý Becque thu gom lại. Phái đoàn này phái gấp một số sĩ quan Nhật đi kêu gọi những người nổi dậy theo lệnh Nhật hoàng: “Thiên hoàng muốn các anh thôi đánh nhau”.

Bây giờ các “kỹ thuật viên” của chi đội là lính lê dương đào ngũ. Có khoảng mười lăm người, Pháp và Đức. Người Pháp chủ yếu là thợ thủ công. Một người quản lý bệnh viện, một người khác đúc móc-chi-ê, một Marcel Maux nào đó làm bếp trưởng. Người Đức thì làm giáo viên hoặc xạ thủ.

Trong nông thôn Annam lan rộng truyền thuyết về người Âu nổi dậy chống người Âu. Để tác động dân chúng, Việt Minh giới thiệu những kẻ đào ngũ ở những buổi lễ long trọng trong các làng. Sự thật là họ thất vọng cay đắng, sự huỷ hoại, cái chết.

Có những vụ đào ngũ khác “không vụ lợi”, lý tưởng nếu muốn nói. Một số người Đức do căm hận nước Pháp và người Pháp. Một trong bọn họ trong một đêm trở về đến hàng rào bốt anh ở cũ để găm tấm danh thiếp ghi tên thật của anh, nguyên chuẩn uý quân đội Đức.

Nói chung thì đơn giản hơn nhiều. Chỉ là thói thường của sự phiên lưu với nỗi buồn chán, quán rượu, một người vợ và mọi hấp dẫn của Châu Á xa lạ.

Một số đào ngũ “cứng rỏi” chịu đựng được khí hậu, được người Việt tiếp nhận. Một trong bọn họ trở thành con nuôi của Hồ Chí Minh, lấy tên là Hồ Chí Long. Nhưng hầu hết đều là gánh nặng của người sử dụng họ và họ kết thúc khổ sở. Người Việt giữ họ lại cho đến khi chết. Họ không thoát qua rừng sang Thái Lan, xa quá. Cũng không có đường rút lui, để trở về với đội lê dương vì đội quân này xử không thương xót binh lính bỏ sang hàng ngũ địch.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM