Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:25:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ tham mưu PK-KQ trong chiến tranh  (Đọc 29809 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 07:22:37 am »

       
CHỈ HUY THAM MƯU KHÔNG QUÂN
       
Đại tá Hà Văn Chấp                         
Nguyên Phó tham mưu trưởng Quân chủng       
       
        Không quân Việt Nam sớm được Đảng, Nhà nước, Quân đội tổ chức, xây dựng. Đến năm 1964, đế quốc Mỹ dùng lực lượng không quân nhà nghề đánh ra miền Bắc nước ta, cuộc chiến tranh phá hoại bắt đầu. Lực lượng không quân non trẻ của ta cùng với lực lượng cao xạ tên lửa phòng không đánh trả ngay từ đầu và giành thắng lợi.
       
        Không quân Việt Nam được trang bị máy bay chiến đấu của Liên Xô và một số máy bay của Trung Quốc như:
       
        Không quân tiêm kích: MIG-17, MIG-19, MiG-21.
       
        Không quân vận tải, trực thăng các loại đều lần lượt đưa vào chiến đấu. Đội ngũ phi công và sĩ quan chỉ huy tham mưu các cấp được đào tạo cơ bản qua các học viện không quân Liên Xô, Trung Quốc. Cơ sở vật chất kỹ thuật, hậu cần, hệ thống sân bay được bảo đảm cho không quân hoạt động. Qua 15 năm chiến đấu với không quân nhà nghề của Mỹ, Không quân Việt Nam đã trưởng thành và lớn mạnh không ngừng mặc dù trong chiến đấu đã tổn thất rất lớn.
       
        Sau giải phóng miền Nam, đất nước được hoàn toàn thống nhất, Không quân Việt Nam được tiếp quản số lượng lớn máy bay của Mỹ và hệ thống kỹ thuật, căn cứ không quân của ngụy Sài Gòn. Lực lượng không quân Việt Nam được tổ chức thành Quân chủng Không quân gồm 3 sư đoàn không quân chiến đấu, lữ đoàn không quân vận tải, có đủ không quân tiêm kích, ném bom hiện đại, như F5, A37 lực lượng không quân vận tải nhiều loại như C-130, C-123 và nhiều trực thăng cơ động chiến đấu.
       
        Không quân Việt Nam trong cuộc chiến tranh phá hoại đã thực hiện không chiến với không quân Mỹ, tấn công vào đội hình ném bom của không quân Mỹ, bắn rơi và bắt sống nhiều giặc lái Mỹ. Không quân Việt Nam đã thực hiện ném bom vào tàu chiến Mỹ, ném bom vào trận địa ra đa Mỹ, ném bom vào hang ổ Sảm Thông, Long Chẹng của ngụy Lào, ném bom vào Dinh Độc Lập ngụy Sài Gòn.
       
        Không quân Việt Nam đã tham gia tác chiến trong các chiến dịch binh chủng hợp thành, chi viện cho bộ đội lục quân, hải quân tấn công địch trong các chiến dịch tấn công, phản công và phòng ngự.
       
        Không quân Việt Nam đã thực hiện cơ động lực lượng, vận chuyển trang bị vũ khí cho các chiến trường, kể cả chiến trường sâu trong lòng địch, không có lực lượng yểm trợ.
       
        Không quân Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào, Campuchia có hiệu quả.
       
        Không quân Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ cứu trợ, cứu nạn đối với nhân dân trên nhiều lĩnh vực nhất là vào mùa mưa bão, lũ lụt.
       
        Không quân Việt Nam đã phát triển lớn mạnh, thực hiện nhiều chức năng nhiệm vụ chiến đấu cơ động có hiệu quả cao. Hiệp đồng chiến đấu với nhiều đối tượng khác nhau, trên nhiều khu vực và chiến trường khác nhau.
       
        Qua quá trình hoạt động, chiến đấu của không quân trên đây đã nói rõ vai trò, tổ chức chỉ huy của cơ quan tham mưu không quân để ôn lại những năm tháng không thể nào quên được.
       
        Trước hết nói về sở chỉ huy, Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân rất coi trọng tổ chức sở chỉ huy, từ sở chỉ huy cơ bản đến sở chỉ huy phía trước, sở chỉ huy cơ động. Tại các sở chỉ huy đều có 3 thành phần chủ yếu tham gia: Trung tâm chỉ huy của Tư lệnh, sở chỉ huy của không quân và tổng trạm ra đa của Binh chủng Ra đa. Mỗi cơ sở đều có người chỉ huy và các sĩ quan tham mưu đủ sức điều hành bộ đội chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ hiệp đồng chiến đấu của các lực lượng hỏa lực trong Quân chủng, tổ chức hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng lục quân, hải quân trong các chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng của bộ chỉ huy mặt trận...
       
        Bộ Tham mưu Quân chủng và lớp lớp sĩ quan tham mưu của Quân chủng Phòng không - Không quân qua cuộc chiến tranh đã trở thành lớp sĩ quan chỉ huy tham mưu lành nghề, có trình độ tổ chức chỉ huy và điều hành bộ đội chiến đấu với hiệu quả cao, góp phần hoàn thành nhiệm vụ đánh bại không quân nhà nghề của Mỹ.
       
        Hệ thống chỉ huy tham mưu không quân được hình thành từ trung đoàn, sư đoàn đến Quân chủng Không quân; trưởng thành cùng nhịp điệu với Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân. Sĩ quan tham mưu không quân hầu hết đã được đào tạo ở các Học viện Không quân Liên Xô cũ, Trung Quốc. Các đoàn đào tạo phi công được trưởng thành song song. Từ trung đoàn đến sư đoàn, cơ quan tham mưu không quân được tổ chức hoàn chỉnh; đủ năng lực điều hành chỉ huy chiến đấu trên không, chỉ huy các nhiệm vụ ném bom và tham gia chiến đấu trong các chiến dịch lớn của binh chủng hợp thành.
       
        Sở chỉ huy không quân ở mặt đất là trung tâm chỉ huy chủ yếu của không quân tham gia chiến đấu và thực hiện hiệp đồng chiến đấu.
       
        Thiết bị chỉ huy chủ yếu trong sở chỉ huy là các đài ra đa dẫn đường không quân và đặc chủng thông tin đối không và ra đa hạ cánh, bảo đảm trực tiếp đối thoại với biên đội chiến đấu trên không. Sở chỉ huy không quân được thu tình báo liên lạc của tổng trạm ra đa và các đài ra đa khu vực. Do đó chỉ huy không quân trong quá trình xuất kích chiến đấu đến kết thúc trận đánh, trong dẫn đường máy bay ta chiến đấu, dẫn đường trên màn hiện sóng ra đa là tính chính xác cao, phi công tiếp cận, cơ động chiến đấu có hiệu quả.
       
        Cơ quan tham mưu không quân đã tổ chức sở chỉ huy cơ động rộng ở các chiến trường - Từ sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy cơ động vào Khu 4, đầu tiên ở Nghi Lộc, Yên Thành, Diễn Châu, Đô Lương (Nghệ An), Cẩm Quang, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Lệ Thủy (Quảng Bình). Các đại diện không quân có mặt ở các mặt trận và cơ động suốt chiến trường miền Nam đến chiến dịch Hồ Chí Minh, ở chiến trường Campuchia...
       
        Nhân kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống Bộ Tham mưu Quân chủng. Tôi viết mấy nét hồi ký ở sở chỉ huy tham mưu làm kỷ niệm.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 07:29:41 am »

       
KÝ ỨC THAM MƯU
       
Đại tá Nguyễn Bắc                         
Nguyên Phó Tham mưu trường Quân chủng       
       
        Giữa năm 1951, khóa 6 Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn bế mạc tại Trung Quốc. Theo chỉ thị của Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, trường tổ chức tiếp một lớp học về tham mưu.
       
        Tôi là một trong số 120 học viên được tuyển chọn vào học khoa Tham mưu này. Nội dung học tập là công tác tham mưu cấp chiến dịch - chiến lược và chiến đấu trong binh chủng hợp thành, chủ yếu là công tác tham mưu lục quân.
       
        Tháng 11 năm 1951, học xong phần lý thuyết tại trường, đại bộ phận học viên về nước, thực tập trên chiến trường, với cương vị tham mưu cấp trung đoàn, đại đoàn và Bộ tổng tham mưu. Từng tổ học viên xuống các đại đoàn 308, 312, 316 tham gia chiến dịch Hòa bình. Trong chiến đấu, một số học viên đã bị thương vong, ở trận đánh Tu Vũ, anh Trung Chính phải cưa chân (sau này, anh Chính được phong giáo sư, tiến sĩ sinh hóa, thầy thuốc ưu tú năm 1990 và là phó chủ tịch Hội sinh hóa Việt Nam); anh Trần Sinh đã hy sinh trong trận đánh Pheo - Hòa Bình trước tết năm 1952...
       
        Sau chiến dịch, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trực tiếp tổng kết công tác tham mưu với khoa Tham mưu; sau đó, quyết định điều động các học viên xuống các đơn vị và về cơ quan.
       
        Riêng bản thân tôi, ngoài những bài học thiết thực về công tác tham mưu, tôi còn tiếp thu được những bài học kinh nghiệm quý báu ở đồng chí Đặng Tính, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân trong những năm 1967 - 1970.
       
        - Tác phong sâu sát của Tư lệnh: Mặc dầu một chân bị tật, đi lại rất khó khăn, đồng chí vẫn thường xuyên xuống kiểm tra đơn vị, trận địa, dù ở trên cao hoặc xa đường cái lớn. Khi bị nhiễu vô tuyến tích cực QRC-160 của máy bay Mỹ làm trắng xóa màn hiện sóng, đài điều khiển, tên lửa không đánh được, một cán bộ lãnh đạo Quân chủng nhận xét: "Các anh bị nhiễu nặng tư tưởng, nên không dám đánh". Tuy có chỉ thị của Bộ, cấm cán bộ cấp cao vào trận địa khi đang chiến đấu nhưng Tư lệnh Đặng Tính vẫn xuống một tiểu đoàn tên lửa và ở hẳn một ngày, đêm trên xe chỉ huy cùng đơn vị và cơ quan tham mưu, cuối cùng đã tìm ra cách đánh hiệu quả. Lúc đó đồng chí mới rời trận địa, về Quân chủng để phổ biến và chỉ huy các đơn vị theo cách đánh mới.
       
        - Một trong những đức tính cần thiết của cán bộ tham mưu:

        Trong cuốn hồi ký "Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh" Stê-men-cô đã viết "Công tác tham mưu, cái nghề bạc bẽo". Stê-men-cô là một sĩ quan tham mưu chuyên nghiệp của Hồng quân Liên Xô, trưởng thành từ thiếu tá xe tăng lên tới Đại tướng chỉ trong một thời gian ngắn mà vẫn phải than thở: "công việc vất vả thuộc anh tham mưu, còn chiến thắng vinh quang thuộc người chỉ huy". Anh lính tham mưu Việt Nam cũng như vậy. Và còn hơn thế, khi giao ban hoặc trong hội nghị, nhiều thủ trưởng hay "quạt" cơ quan, thì Chính ủy Đặng Tính lại động viên chúng tôi "phàm là cán bộ tham mưu, thì phải lấy chữ nhẫn làm đầu". Nhẫn là kiên nhẫn, nhẫn nại, nghiên cứu sách vở tài liệu, sâu sát với đơn vị tìm hiểu địch, ta và mọi điều kiện khác, tổng hợp tình hình, đề xuất các cách đánh hay, phương pháp huấn luyện đạt hiệu quả cao.
       
        Nhẫn cũng có nghĩa là nhẫn nhịn, chịu đựng mọi ý kiến nhận xét của thủ trưởng, đơn vị, cơ quan bạn để "lọc thô, lấy tinh", cải tiến lề lối, tác phong làm việc được tốt hơn. Chính ủy còn "lẩy Kiều", an ủi chúng tôi:
       
"Đã mang lây nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần, trời xa"
       
        - Viết theo khẩu khí của Tư lệnh: Khi tôi làm trợ lý tổng hợp của Quân chủng, đồng chí Đặng Tính đã nhắc nhở "Với trình độ văn hóa thì cậu hơn tôi. Nhưng viết các mệnh lệnh, chỉ thị, cậu phải bám sát ý định của Tư lệnh và viết theo khẩu khí của Tư lệnh. Trong công văn, không có từ "yêu cầu', "đề nghị", chỉ có Tư lệnh "quyết định", Tư lệnh "ra lệnh". Tất nhiên đã có đề xuất ý kiến kịp thời, chính xác của cơ quan và tư duy độc lập của Tư lệnh thì chỉ thị, mệnh lệnh mới "thiêng", đơn vị mới chấp hành nghiêm chỉnh.
       
        Tư lệnh lại tế nhị dặn tôi: "Mình sẽ chữa các bản viết của cậu, cứ từng lỗi, mình gạch 1 gạch ra ngoài lề, để cậu biết mà sửa lại". Dần dần, lỗi sửa ít đi, đến khi Tư lệnh xem mà không sửa; lúc đó, đưa công văn lên, Tư lệnh ký ngay, yên tâm với nội dung do tôi chấp bút...
       
        Tiếc thay! Đồng chí Đặng Tính, một con người "văn võ song toàn" lại hy sinh quá sớm, khi còn nhiều triển vọng phát triển hơn nữa. Trước khi chuyển công tác làm chính ủy Bộ tư lệnh Trường Sơn, đồng chí đã trồng một cây nho trước nơi làm việc của Bộ tư lệnh Quân chủng. Khi đồng chí hy sinh, giàn nho che mát con đường vào nhà Bộ tư lệnh.
       
        Hàng năm, khi những lứa nho đầu mùa chín đỏ, chúng tôi hái vài chùm, đưa sang nhà đồng chí Tính, đặt lên bàn thờ thắp nén nhang, bày tỏ lòng biết ơn của những người "ăn quả nhớ người trồng cây" và kính phục công đức của đồng chí Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân chủng đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của Quân chủng Phòng không - Không quân giành thắng lợi vẻ vang...
       
        Trở về đời thường, cán bộ Bộ Tham mưu vẫn thường xuyên gặp nhau; như bác Võ Nguyên Giáp đã nói: "gặp được nhau bây giờ là quý lắm rồi", chúng tôi thăm hỏi nhau khi ốm đau, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, phúng viếng nhau khi qua đời.
       
        Hàng năm, cựu chiến binh Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân lại tổ chức họp mặt truyền thống, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân chủng và Bộ Tham mưu Quân chủng (22-10-1963), ôn lại một thời để nhớ; nhớ về thời chiến tranh đất đối không oanh liệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Quân chủng và Bộ Tham mưu Phòng không - Không quân và cũng là thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời của từng cán bộ, chiến sĩ, nhân viên Bộ Tham mưu Quân chủng trong chiến tranh...
       
        Bây giờ, nếu có người hỏi: "được trở lại thời trai trẻ, anh sẽ làm gì?". Tôi sẽ trả lời không một chút suy nghĩ, như một nhà thơ đã viết.

Nếu phải quay trở lại
Tôi vẫn đi đường này
       
        Đường này, nghĩa là con đường tiếp tục làm công tác tham mưu, cái nghề, muôn vàn thân thiết, đã gắn bó cả cuộc đời binh nghiệp của chúng tôi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 07:38:58 am »

       
ĐỒNG CHÍ NGUYỄN QUANG TUYÊN
VỚI BỘ ĐỘI TÊN LỬA PHÒNG KHÔNG
       
Đại tá Nguyễn Tiến Thu                           
Nguyên Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Phòng không       
       
        Đồng chí Nguyễn Quang Tuyến quê ở Hải Dương, hoạt động Cách mạng từ thời kỳ Tiền khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí làm huyện đội trưởng huyện Gia Lộc, sau chuyển sang bộ đội chủ lực làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 53 thuộc Trung đoàn 42, chiến đấu chống Pháp ở khu Tả Ngạn sông Hồng.
       
        Khi quân đội ta tiến hành xây dựng các đại đoàn chủ lực trực thuộc Bộ, đồng chí được điều động về làm trung đoàn trưởng e165 - Đại đoàn 312.
       
        Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ đánh thắng trận đầu tiên mở màn Chiến dịch tiêu diệt cứ điểm Him Lam, án ngữ phía Đông Điện Biên Phủ.
       
        Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Bộ Quốc phòng chủ trương điều động một số cán bộ ưu tú của các Đại đoàn chủ lực sang xây dựng các Quân, Binh chủng kỹ thuật.
       
        Các đồng chí Nguyễn Quang Tuyến - Trung đoàn trưởng 141, Trần Nhẫn - Tham mưu phó Trung đoàn 209 về Phòng không, đồng chí Đào Đình Luyện - Chủ nhiệm chính trị đại đoàn 312, đi xây dựng Trung đoàn không quân tiêm kích MIG-17.
       
        Khi Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Đại đoàn pháo cao xạ hỗn hợp 367 gồm 3 trung đoàn 681 - 685 - 689, đồng chí Nguyễn Quang Tuyến được cử làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Mậu là Chính ủy Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 681.
       
        Năm 1956, đồng chí Nguyễn Quang Tuyến cùng các đồng chí Lê Văn Tri, Lê Mạnh Phổ là ba cán bộ Việt Nam đầu tiên được cử đi Liên Xô học tập về tên lửa phòng không tại Học viện Pháo binh Lê-nin-grát. Do có tư chất thông minh và biết tiếng Pháp, đồng chí Tuyến tiếp thu nhanh tiếng Nga và học tập giỏi về chuyên môn kỹ thuật tên lửa. Đồng chí còn học tập được tác phong công tác Tham mưu khoa học của các sĩ quan Quân đội Xô viết.
       
        Năm 1960 tốt nghiệp khóa học, về nước, đồng chí được cử làm Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không - Không quân.
       
        Đồng chí Tuyến là một cán bộ chỉ huy và tham mưu trưởng có tài, một cán bộ có đầu óc xây dựng và tổ chức giỏi. Đồng chí luôn hết lòng vì nhiệm vụ, lúc nào cũng say mê với công việc.
       
        Năm 1963, Quân chủng Phòng không cho xây dựng một khung cán bộ, chiến sĩ trung đoàn lấy bí danh là Đoàn 228B để chuẩn bị đi Liên Xô đào tạo thành trung đoàn tên lửa đầu tiên của Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Quang Tuyến được cử làm đoàn trưởng, đồng chí Phạm Đăng Ty làm chính ủy 228B.
       
        Cán bộ chiến sĩ của Đoàn 228B được chọn lọc kỹ lưỡng, nhiều đồng chí được điều động từ trường Đại học Bách Khoa và các cơ quan nhà nước sang. Cán bộ, chiến sĩ của đoàn được học tập về quân sự, chính trị, văn hóa, ngoại ngữ, rèn luyện về thể lực, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
       
        Nhưng do những điều kiện chủ quan, khách quan lúc bấy giờ Đoàn 228B không đi Liên Xô nữa.
       
        Đầu năm 1965, Liên Xô viện trợ Tên lửa Phòng không CA-75 cho Việt Nam. Đây là loại tên lửa Quân đội Xô Viết đã bắn rơi máy bay trinh sát U2 của Mỹ.
       
        Quân chủng Phòng không - Không quân được giao nhận số vũ khí và điều động số cán bộ đã học tập về tên lửa phòng không ở Lê-nin-grát, Ka-li-nin, Ki-ép cùng số cán bộ chiến sĩ của Đoàn 228B và một số đơn vị khác tổ chức thành Trung đoàn 236 tên lửa đầu tiên, tiếp theo là Trung đoàn 238 và nhiều Trung đoàn khác.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 07:40:15 am »

        Đồng chí Nguyễn Quang Tuyến được cử làm Trung đoàn trưởng e236, đồng chí Phạm Đăng Ty được cử làm chính ủy trung đoàn. Năm 1965, cả hai đồng chí đều được phong quân hàm Thượng tá.
       
        Sau khi nhận nhiệm vụ, đồng chí Nguyễn Quang Tuyến đôn đốc toàn trung đoàn phối hợp với các cơ quan cấp trên chuẩn bị cơ sở vật chất và làm việc với chuyên gia bạn nhanh chóng tổ chức các lớp huấn luyện cho các thành phần chỉ huy và chuyên môn kỹ thuật.
       
        Ngày 01/5/1965, tất cả các lớp đồng loạt ra quân bước vào huấn luyện với khí thế sôi nổi.
       
        Cán bộ, chiến sĩ toàn trung đoàn rất phấn khởi, hăng say học tập không quản ngày đêm. Bạn cũng nhiệt tình và tận tâm giúp đỡ ổn định. Khi mọi việc tổ chức của trung đoàn đã ổn định và các lớp huấn luyện do chuyên gia phụ trách đã đi vào nền nếp, Quân chủng lại điều động đồng chí Tuyến về làm Tham mưu phó Quân chủng kiêm trưởng phòng tác huấn tên lửa, còn gọi là Phòng 22, để lo việc tác chiến, huấn luyện và xây dựng các đơn vị tên lửa mới khác. Về quan hệ đối ngoại: Đồng chí được Bộ giao nhiệm vụ thay mặt Bộ làm việc với các chuyên gia Liên Xô về tên lửa.
       
        Đồng chí Tuyến cũng quan tâm xây dựng tổ chức Phòng 22. Số lượng cán bộ không nhiều nhưng đồng chí chọn những cán bộ có hiểu biết chung, hiểu biết về phòng không và tên lửa. Nhiều đồng chí giỏi tiếng Nga có thể trực tiếp làm việc với chuyên gia Liên Xô. Đồng chí còn chú ý xây dựng nề nếp công tác tham mưu của cơ quan, cho dịch các tài liệu: "Quy tắc bắn tên lửa CA-75" và "Giải thích quy tắc bắn tên lửa CA-75". Cơ cấu thành phần tổ chức cán bộ Phòng 22 có tính chất cơ bản là một cơ quan tham mưu thu nhỏ của Binh chủng tên tên được thành lập sau này cho thấy tầm nhìn xa của đồng chí Nguyễn Quang Tuyến.
       
        Khi Trung đoàn 236 ra quân chiến đấu, trong trận đánh đầu tiên ngày 24/7/1965, đồng chí Tuyến đi sát theo dõi, đôn đốc, chỉ đạo mọi công tác chuyển binh chủng xong ra quân chiến đấu, đồng chí Tuyến luôn đi sát các đơn vị đến tận những nơi chiến đấu quyết liệt. Đồng chí luôn suy nghĩ tìm tòi cách đánh có hiệu suất chiến đấu cao nhất.
       
        Trong cuộc sống đồng chí rất giản dị, chan hòa với đồng chí, đồng đội, hướng dẫn tận tình cho trợ lý nhưng cũng rất khắc nghiêm khắc đòi hỏi nhân viên mỗi người phải hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mỗi khi chúng tôi cùng đồng chí đi khảo sát địa hình, xác định trận địa, bố trí tên lửa đánh chặn các đường bay của địch, đến địa phương nào trợ lý phải có sẵn bản đồ, còn trong sắc cốt, phải thường xuyên có la bàn, thước chỉ huy, bút chì màu... để đến nơi tác nghiệp được ngay.
       
        Đồng chí xuất thân từ cán bộ Bộ binh, được rèn luyện nhiều, leo đồi, lội suối rất giỏi. Những anh em trợ lý tuy trẻ hơn cả chục tuổi vẫn phải cố gắng hết sức mới theo kịp được đồng chí trong các chuyến đi công tác.
       
        Ngày 02/10/1966, đồng chí Nguyễn Quang Tuyến cùng với cán bộ Phòng 22 gồm các đồng chí Đại úy Nguyễn Như Sơn, Thượng úy Nguyễn Danh Mậu, Trung úy Nguyễn Xuân Minh, Trung úy Nguyễn Văn Đeng đi kiểm tra triển khai chiến đấu của Tiểu đoàn 92, Trung đoàn 278 tên lửa mới ra quân tại trận địa Mãn Đức - Hòa Bình. Khi đoàn cán bộ vừa xuống xe đi lên trận địa trên đồi thì tên lửa Sơ-rai của địch bắn xuống.
       
        Hai đồng chí Sơn và Đeng hy sinh tại chỗ. Đồng chí Tuyến bị một mảnh đạn tên lửa bắn vào đầu làm đồng chí không nói được và hầu như mất trí nhớ. Chúng tôi đến thăm đồng chí điều trị tại bệnh viện Phòng không - Không quân, hỏi đồng chí có biết ai không, đồng chí rơm rớm nước mắt cầm viên phấn viết tên chúng tôi lên mặt bàn.
       
        Anh chị em y tá ở bệnh viện kể rằng: Khi Đài tiếng nói Việt Nam phát thanh tin Bác Hồ mất, đồng chí ngồi khóc, nước mắt lã chã rơi.
       
        Sức khỏe đồng chí ngày cảng giảm dần sau gần hai chục năm bị thương tật nặng. Đồng chí đã ra đi vào cõi vĩnh hằng ngày 01/4/1985.
       
        Chúng tôi thương tiếc đồng chí, một con người có tài năng, đức độ, sống thanh bạch, suốt đời hy sinh tận tụy phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ của quân đội giao cho. Cả cuộc đời binh nghiệp xông pha trận mạc, vào sinh ra tử, đến cuối đời vẫn sống độc thân.         
        Chúng tôi, những cán bộ của Trung đoàn 236, của Phòng 22 đã từng công tác với đồng chí, tuy thời gian không nhiều đều mến phục tài đức của đồng chí, coi đồng chí là người anh cả đáng kính của mình.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 07:47:59 am »

          
SỞ CHỈ HUY TIỀN PHƯƠNG QUÂN CHỦNG
TRONG CHIẾN DỊCH TRỊ - THIÊN NĂM 1972
       
Đại tá Phạm Sơn                          
Nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng        
       
        Bước vào không khí chung của toàn quân hướng vào chiến trường miền Nam, tháng 11-1971 Quân chủng đã tổ chức tập huấn quán triệt nhiệm vụ, động viên quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ tiến công chiến lược 1972 cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ đơn vị, cơ quan trong Quân chủng - phổ biến kinh nghiệm chiến đấu phòng không ở Nam Quân khu 4 và chiến dịch đường 9 Nam Lào.
        
        Đảng ủy Quân chủng đã quyết định đưa vào Nam Quân khu 4 và tham gia cuộc tiến công, 4 sư đoàn phòng không 363, 365, 367, 377 (14 trung đoàn cao xạ, 4 trung đoàn tên lửa, 2 đại đội tên lửa A72) một số đơn vị không quân, một số trạm đưa hậu cần, phương tiện kỹ thuật bảo đảm cho các lực lượng phòng không.
        
        Quân chủng cũng quyết định tổ chức sở chỉ huy tiền phương (TP) Quân chủng gồm:
        
        Tư lệnh TP: Hoàng Văn Khánh.

        Chính ủy TP: Nguyễn Xuân Mậu.

        Tham mưu trưởng TP: Dương Hán.

        Phó Tham mưu trưởng: Lê Huy Vinh
        
        Các cán bộ trợ lý của Bộ Tham mưu và các Cục trực tiếp giúp Đảng ủy Bộ Tư lệnh tiền phương nắm và chỉ huy kịp thời các lực lượng phòng không trực tiếp tham gia chiến dịch với quân số tinh biên chế, gọn nhẹ, có kinh nghiệm, hiểu chiến trường.
        
        11 giờ 30 phút ngày 30-3-1972 chiến dịch tiến công Trị - Thiên mở màn, các lực lượng phòng không tham gia đánh mạnh, đánh tốt, yểm hộ cho lực lượng tiến công quân binh chủng hợp thành. Từ 11 giờ 30 phút đến 14h các đại đội 1 2, đại đội 26, đại đội 27 (A72) đã bắn rơi 4 máy bay trên bầu trời chiến dịch. 18h30' tiểu đoàn 64 Trung đoàn 263 đã bắn rơi 1 máy bay trên Cam Lộ, động viên khí thế quân dân Quảng Trị mở màn tiến công chiến dịch. Các ngày tiếp theo, tên lửa, cao xạ, A72 đã kịp thời cơ động bám sát, bảo vệ các mũi tiến công đánh chiếm các khu vực (Mai Lộc, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Đông Toàn v.v...). Chiều ngày 2 tháng 4 Tiểu đoàn 64 lập công xuất sắc đánh 3 trận bắn rơi 2 F4 và 1 B-52, Trung đoàn 274 đánh 7 trận, và ngày 4 tháng 4 Trung đoàn 236, Trung đoàn 274 đã đánh 9 trận bắn rơi 2 máy bay (có 1 B-52).
        
        Ngày 9 tháng 4 kết thúc đợt 1 chiến dịch. Ta đã giải phóng 2 huyện Cam Lộ, Gia Linh, diệt nhiều trung, lữ đoàn địch; lực lượng phòng không toàn mặt trận bắn rơi 86 máy bay, trong đó có 2 B-52. Không quân địch phản ứng quyết liệt, nhằm chặn các mũi tiến công của ta. Địch cũng tập trung đánh quyết liệt vào các trận địa phòng không, nhất là các trận địa tên lửa. Ngày 7 tháng 4 không quân địch đánh vào 7 trận địa tên lửa, làm 5 tiểu đoàn bị hỏng khí tài và một tiểu đoàn kỹ thuật bị hỏng một số đạn.
        
        Ngày 11 và 12 tháng 4 tiền phương Quân chủng tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm, tìm nguyên nhân tổn thất và hướng khắc phục, chuẩn bị cho đợt 2 của chiến dịch.
        
        Nguyên nhân tổn thất:
        
        * Chủ quan, không dự kiến địch tập trung đánh trả mạnh vào lực lượng phòng không với nhiều thủ đoạn kỹ thuật, chiến thuật phức tạp.
        
        * Địa bàn hẹp, đơn vị tập trung lớn, nhiều trận địa cao xạ tên lửa đã bị lộ, không giữ được kín đáo, bí mật, đơn vị A rút ra thì đơn vị B lại vào. Các trận địa tên lửa lại bố trí giãn cách quá gần nhau (có khi 2 - 3km) khó chi viện cho nhau, lúng túng trong cách đánh.
        
        * Có một số đạn phóng lên bị mất điều khiển chưa tìm ra nguyên nhân, hiệu quả thấp, lỡ thời cơ, bị địch đánh vào trận địa...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 07:52:00 am »

        Hội nghị cũng đề ra các biện pháp khắc phục, cơ động, bí mật, bố trí đội hình, cách đánh xạ kích để đối phó với các thủ đoạn kỹ chiến thuật của địch. Hội nghị thấy rõ thắng lợi to lớn của đợt 1 chiến dịch và chiến công của lực lượng phòng không trong chiến dịch, động viên mọi người quyết tâm chuẩn bị tốt để bước vào đợt 2 chiến dịch. Tiền phương Quân chủng quyết định kiện toàn củng cố lực lượng, bổ sung sửa chữa khí tài đạn, điều chỉnh lại lực lượng và đội hình phòng không trong chiến dịch, lập kế hoạch đưa tên lửa vượt sông sang Cam Lộ "vùng mới giải phóng". Việc bảo đảm cho tên lửa vượt cát ngầm, lầy lội, vượt sông trong lúc địch đánh phá khống chế gây khó khăn, ác liệt. Các trợ lý tiền phương Quân chủng cùng với đơn vị đến trước liên hệ tìm trận địa. Đồng chí Nguyễn Đức Định cán bộ phòng Khoa học Quân chủng đã hy sinh khi vượt sông.
       
        Đến trung tuần tháng 4 năm 1972, các lực lượng phòng không của chiến dịch đã được củng cố và điều chỉnh. Các cụm hỏa lực tập trung nhiều tầng, yểm hộ các mũi tiến công chiến dịch. Các cụm hỏa lực bảo vệ hậu phương chiến dịch cũng đã triển khai. Tất cả đã sẵn sàng bước vào đợt 2 chiến dịch.
       
        Ngày 27 tháng 4 toàn mặt trận đồng loạt nổ súng bước vào đợt 2. Không quân địch cũng tăng cường hoạt động, dùng nhiều thủ đoạn bắn phá kể cả sử dụng B-52 đánh phá ác liệt vào lực lượng tiến công, đồng thời tập trung lực lượng đánh vào lực lượng phòng không. Các lực lượng phòng không đã dũng cảm, ngoan cường chiến đấu, cản phá các đợt bắn phá của không quân địch.
       
        11 giờ 20 phút 27 tháng 4 Trung đoàn 267 bắn rơi 1 F4, 1 trực thăng. Trung đoàn 236 bắn rơi 1 F4, cao xạ bắn rơi 12 máy bay. Ngày 28 tháng 4 các lực lượng cao xạ đánh liên tục bắn rơi 5 máy bay.
       
        Ngày 30 tháng 4 Tiểu đoàn 64, tiểu đoàn 84 Trung đoàn 238 bắn rơi 2 F4 (d86 bắn chi viện d64).
       
        Các tiểu đoàn 8, 62, 64, đánh liên tục vào đội hình B-52, được công nhận bắn rơi 1 chiếc B-52, bảo vệ cho đội hình tiến công của các sư đoàn bộ binh 304, 308, 325. Trong khi đó Tiểu đoàn 68, 69 từ hướng Tây đường 9 phối hợp bắn rơi 1 B-52, Trung đoàn 267 bắn rơi 3 máy bay.
       
        18 giờ ngày 2 tháng 5, Quảng Trị hoàn toàn giải phóng, kết thúc đợt 2 chiến dịch. Ta đã tiêu diệt tập đoàn phòng ngự mạnh của địch, giải phóng Quảng Trị với 30 vạn dân. Các lực lượng phòng không ta trong chiến dịch đã bắn rơi 59 máy bay các loại (có 2 B-52), bảo vệ an toàn các hướng tấn công và bảo vệ an toàn hậu phương chiến dịch. Ngày 5 tháng 5 trong SCH tiền phương Quân chủng đã tổ chức rút kinh nghiệm cả 2 đợt chiến đấu của lực lượng phòng không trong chiến dịch. Hội nghị biểu dương sự dũng cảm, kiên cường của các đơn vị tên lửa, cao xạ, nêu rõ hướng khắc phục về mọi mặt và chuẩn bị tốt hơn cho đợt 3 chiến dịch.
       
        Trong chiến dịch Trị - Thiên, lần đầu tiên Quân chủng Phòng không đã sử dụng một lực lượng lớn gồm 4 sư đoàn phòng không tham gia tác chiến quân binh chủng hợp thành trong một chiến dịch - chiến lược quy mô lớn, thời gian dài, đã bắn rơi nhiều máy bay địch bảo vệ đắc lực cho quân binh chủng hợp thành bảo vệ giao thông hậu phương chiến dịch vững chắc, bảo vệ cả vùng mới giải phóng. Đặc biệt 16 giờ ngày 16 tháng 4, biên đội MIG-17 không quân ta từ sân bay dã chiến xuất kích đã đánh tàu chiến Mỹ ở Đông Quảng Bình thắng lợi. Các cơ quan tiền phương Quân chủng đã thực hiện bám sát đơn vị trong mọi tình huống, mọi thời gian, đôn đốc giúp đỡ hướng dẫn kịp thời cho đơn vị và giúp bộ Tư lệnh tiền phương Quân chủng chỉ đạo, chỉ huy kịp thời trong các giai đoạn chiến dịch. Cơ quan và SCH tiền phương Quân chủng chỉ huy, chỉ đạo kịp thời trong các giai đoạn chiến địch. Cơ quan và SCH tiền phương Quân chủng đã hoàn thành nhiệm vụ và góp phần vào kết quả chiến đấu của các đơn vị phòng không chiến dịch.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 08:33:09 pm »

       
MẨU CHUYỆN QUANH SỞ CHỈ HUY QUÂN CHỦNG
       
Đại tá Nguyễn Văn Thân                     
Nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân chủng       
       
        Tình huống trên không rất phức tạp, lại đột biến, rất khó phân biệt thật giả, địch ta. Điều tâm niệm lớn nhất của chúng tôi khi được tham gia vào kíp trực ban sở chỉ huy Quân chủng là phải rất cẩn trọng khi làm việc, chỉ sơ xẩy một chút thôi là có thể gây ra tai họa khôn lường. Có đồng chí nhiều năm lăn lộn trên chiến trường mà phải ngậm ngùi kết thúc cả cuộc đời binh nghiệp ở đây. Xin kể một câu chuyện.
       
        THẬT HAY GIẢ? ĐỊCH HAY TA?

        Sở chỉ huy K18 là sở chỉ huy Quân chủng được sử dụng nhiều nhất trong chiến tranh, đã được xếp hạng là di tích lịch sử. Đó là một hầm bê tông rất kiên cố, đã bị trúng bom vào nóc mà không hề suy chuyển. Nó gồm có hai phần: Một phần là sở chỉ huy Quân chủng, có một gian để chỉ huy không quân, phần kia là tổng trạm ra đa. Thuở ấy, trực sở chỉ huy là một đồng chí trong Bộ Tư lệnh hoặc Bộ Tổng tham mưu. Tổng trực ban do cán bộ cấp phòng của phòng Tác chiến và phòng Quân huấn đảm nhiệm, mỗi cặp hai người trực liền một tuần.
       
        18-12-1970, đêm đã khuya, cuối năm, trời rét đậm.
       
        Tôi làm tổng trực ban, vừa mới ở dưới hầm ngoi lên, chưa kịp mắc màn thì đồng chí trợ lý truyền lệnh đã chạy lên:
       
        - Thủ trưởng xuống ngay. Biệt kích tập kích vào CR38. (CR38 ở Cô Nội nay thuộc huyện Mai Châu, Sơn La).
       
        Vừa chạy vội xuống, tôi vừa hỏi:
       
        - Ai báo cáo?
       
        - Trực chỉ huy ra đa.
       
        - Mời sang đây gặp tôi ngay?
       
        Tôi thấy phân vân. Đêm 21-11-1970 bọn Mỹ dùng biệt kích đi máy bay trực thăng đổ bộ xuống ngoại vi thị xã Sơn Tây định cứu giặc lái. Từ đó đến nay mới có mấy ngày, đã xuất hiện một tình trạng xao xuyến. Đêm nào, sở chỉ huy cũng nhận được báo cáo: "Có tiếng trực thăng" từ khắp các nơi như Sơn La, Hòa Bình, Quảng Bình v.v... gọi về.
       
        Đồng chí trực sở chỉ huy ra đa sang đưa cho tôi bức điện cơ yếu của Trung đoàn ra đa 292. Xem điện, tôi phát hiện vấn đề và nói:
       
        - Điện đánh từ 5 giờ chiều, đến bây giờ đã qua 6, 7 tiếng đồng hồ, Trung đoàn ra đa 292 chưa có báo cáo gì thêm, chắc tình hình chưa có gì nghiêm trọng.
       
        Chợt nhìn lên bảng hoạt động ra đa, thấy đèn tín hiệu CR38 vẫn hoạt động đang nhấp nháy chứng tỏ đại đội này đang mở máy cảnh giới. Chúng tôi trao đổi và thống nhất với nhau chưa báo động sở chỉ huy và cũng chưa báo cáo lên Bộ vội, đồng chí trực chỉ huy ra đa tổ chức liên lạc vượt cấp trực tiếp xuống thẳng CR38 để thẩm định tình hình.
       
        Tôi gọi điện báo cáo với đồng chí H. Phó tham mưu trưởng, trực chỉ huy, rồi gọi tới đồng chí Tư lệnh. Tư lệnh chỉ thị:
       
        - Báo cho trực chỉ huy giải quyết.
       
        Tiếp đó tôi báo cáo với chính ủy, đồng chí hỏi ngay:
       
        - Quân số, vũ khí CR38 bao nhiêu?
       
        Vì đã biết tính của chính ủy, tôi đã có dự phòng nên vừa lấy số liệu ở đồng chí trực chỉ huy ra đa xong. Tôi báo cáo quân số, trang bị CR38 đến từng số lẻ. Chính ủy lệnh:
       
        - Cho anh em xông ra, bắt sống mấy tên biệt kích, lập công mới.
       
        Anh H xuống lệnh cho tôi:
       
        - Báo cáo ngay lên Bộ ?
       
        Vì chưa rõ ý định của thủ trưởng thế nào, tôi gọi sở chỉ huy Bộ, rồi đưa máy để thủ trưởng làm việc và giở sổ ra ghi chép.
       
        Một lát sau, sở chỉ huy ra đa gọi sang:
       
        - CR36 báo cáo: Buổi chiều có hai người dân đi săn, nghi là biệt kích giữ lại xác minh và đã thả họ ngay từ chiều rồi.
       
        Đây chỉ là một trong vô số tình huống mà kíp trực ban chúng tôi gặp, phải xử trí.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 08:35:42 pm »

        
CÔNG TÁC THAM MƯU RAĐA
TRONG CHIẾN TRANH
       
Đại tá Trần Liên                                      
Nguyên Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Binh chủng Ra đa        

        1. Xây dựng và triển khai mạng ra đa trinh sát trên không để quản lý vùng trời miền Bắc vừa được giải phóng.
        
        Năm 1954  kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nửa nước được giải phóng, cuộc cách mạng của dân tộc ta đứng trước 2 nhiệm vụ chiến lược là củng cố xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
        
        Về phía lực lượng vũ trang là tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính qui ngày càng hiện đại, trong đó có việc xây dựng bộ đội ra đa trong Quân chủng Phòng không để bảo vệ chủ quyền trên không của miền Bắc vừa được giải phóng.
        
        Sau hơn 2 năm, gần 2.000 cán bộ được chọn từ các đơn vị trong toàn quân về bồi dưỡng văn hóa và huấn luyện chuyển binh chủng. Ngày 21-3-1958, Bộ Tổng tư lệnh quyết định tổ chức trung đoàn ra đa đầu tiên gọi là Trung đoàn Cần vụ đối không phiên hiệu là Trung đoàn 260 với biên chế 7 đại đội, trang bị mỗi đại đội một đài ra đa P8 và 3 đại đội quan sát mắt với 45 vọng. Trước mắt, đội hình bố trí cả ra đa và quan sát mắt là bao quanh Hà Nội với nhiệm vụ bảo đảm tình báo trên không cho các lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội - Hải Phòng và cho phòng không nhân dân các địa phương miền Bắc tổ chức phòng tránh. 0 giờ ngày 1-3-1959 các trạm ra đa được lệnh phát sóng làm nhiệm vụ.
        
        Từ đây, Quân đội nhân dân Việt Nam ta có mạng ra đa cảnh giới trên không để quản lý, bảo vệ vùng trời Tổ quốc Bộ đội ra đa lấy ngày 1-3 này làm ngày kỷ niệm truyền thống hàng năm của Binh chủng Ra đa Việt Nam.
        
        Với phương châm vừa xây dựng vừa chiến đấu, từ năm 1959 đến năm 1963, trên cơ sở các khí tài được Liên Xô và Trung Quốc chi viện, chúng ta tiếp tục xây dựng và triển khai thêm 2 Trung đoàn 290 và 292. Trung đoàn Cần vụ đối không 260 sau đổi thành Trung đoàn ra đa 291 lấy bí danh là Đoàn Ba Bể đảm nhiệm vùng trời trung tâm Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ. Trung đoàn 290 triển khai tháng 7-1960 biên chế 6 đại đội ra đa, lấy bí danh là Đoàn Sông Mã đảm nhiệm vùng trời phía Nam từ Thanh Hóa trở vào. Trung đoàn 292 ra đời tháng 7-1961 với bí danh Đoàn Tô Hiệu biên chế 4 đại đội ra đa đảm nhiệm vùng trời phía Tây và Tây Bắc Hà Nội.
        
        Thời kỳ này đế quốc Mỹ thực hiện kế hoạch 34A hoạt động quấy phá miền Bắc, sử dụng máy bay vận tải cánh quạt C47, C123 ban đêm bay vào vùng rừng núi của ta ở độ cao 2000 - 4000m để thả dù biệt kích. Trang bị khí tài ra đa của chúng ta lúc này mới chỉ có loại ra đa cảnh giới tầng trung sóng mét (P-8, P-10, 513K, 406...) và một số đài sóng dm (P-15 ) bắt thấp, do Liên Xô và Trung Quốc viện trợ. Các đài ra đa này thuộc hệ đèn điện tử, chưa có thiết bị chống sóng về địa vật cũng như chống nhiễu tích cực và tiêu cực; tầm phát hiện chủ yếu là mục tiêu tầng trung ở cự ly gần; đội hình bố trí thưa; trang bị mỗi đại đội mới chỉ có một đài ra đa. Trong điều kiện địa hình nước ta vừa dài vừa hẹp, rừng núi nhiều nên khả năng cảnh giới, quản lý vùng trời lúc này còn nhiều hạn chế. Chúng ta đã tập trung nghiên cứu nguyên lý truyền sóng điện từ, đi sâu tìm trận địa khắc phục góc che khuất và mở rộng mặt phản xạ để cánh sóng vươn xa hơn và thấp hơn. Chúng ta đã đưa đài ra đa 406 của Đại đội ra đa 21 lên núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc) ở độ cao trên 1.000m, đưa ra đa ra Đồ Sơn, Sầm Sơn, lấy biển làm mặt phản xạ nhưng lại gặp khó khăn mới là sóng về địa vật nhiễu cả 360 độ. Để phân biệt sóng địa vật với mục tiêu, trắc thủ Đặng Quang Đại đã phải học thuộc tới gần 200 sóng về địa vật để phân biệt với sóng về máy bay, thật là gian khổ, khó khăn. Để bảo đảm thông tin thông báo nhanh trong điều kiện trang bị thông tin còn rất thô sơ và hạn chế, ta đã phải đào tạo báo vụ kiêm đánh dấu đường bay do ra đa truyền về để rút ngắn thời gian giữ chậm tình báo.
        
        0 giờ ngày 01-3-1959 ra đa của ta bắt đầu phát sóng làm nhiệm vụ thì 0 giờ ngày 03-3-1959, Đại đội 4 phát hiện được chiếc C-47 của địch từ biên giới Việt - Lào bay vào vùng rừng núi tây Thanh Hóa - Ninh Bình thả biệt kích, ra đa đã kịp thời phát hiện, thông báo nên toán biệt kích này đã bị quân dân Ninh Bình bắt gọn. Thời kỳ này, hệ thống ra đa đã cảnh giới chặt chẽ vùng trời, phát hiện máy bay địch xâm phạm, phục vụ cho các lực lượng cao xạ và dân quân tự vệ các địa phương phục kích bắn máy bay và tiêu diệt gọn các toán biệt kích địch thả ban đêm xuống miền Bắc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 08:39:17 pm »

        Nhận rõ âm mưu đế quốc Mỹ, đi đôi với mở rộng chiến tranh xâm lược ở miền Nam, chúng sẽ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Ngày 22-10-1963, Bộ Quốc phòng ra quyết định hợp nhất bộ Tư lệnh Phòng không với Cục Không quân thành Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân bao gồm 3 binh chủng: Cao xạ, Ra đa, Không quân. Được bạn bổ sung thêm một số đài ra đa trong đó có loại sóng cm như 403, 843, P30, ta đã tổ chức thêm một số đại đội ra đa mới và bổ sung khí tài cho một số đại đội ra đa chốt. Trung đoàn ra đa 291 lúc này đã có 11 đại đội với 15 đài ra đa đã tăng cường và mở rộng thêm trường ra đa, bảo đảm cho các lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội - Hải Phòng. Mặc dù lúc này, không quân chiến đấu của ta chưa về nước, trang bị ra đa của ta chưa đảm bảo được nhiệm vụ dẫn đường cho máy bay nhưng với tinh thần tích cực tiêu diệt địch, Bộ Tư lệnh đã quyết đinh sử dụng chiếc máy bay T-28 của ngụy Lào sang hàng tháng 9-1963 (lấy bí danh là chiếc 963) cất cánh đánh chặn máy bay chở biệt kích của địch bị ra đa ta phát hiện ở Hòa Bình đêm 24 rạng sáng 25 tháng 5 năm 1964. Thời kỳ này Bộ Tổng tham mưu đã lệnh cho không quân không bay đêm để các lực lượng PK chủ động bắn khi phát hiện máy bay bay đêm. Bộ đội ra đa lúc này có hai nhiệm vụ: Là làm sao thông báo ngay cho các lực lượng PK không bắn máy bay đêm nay để khỏi bắn nhầm chiếc 963 lại phải bảo đảm ra đa dẫn đường chiếc 963 cất cánh an toàn và bắn hạ chiếc C123 địch đang bay vào. Ra đa bảo đảm dẫn đường lúc này chỉ có 1 đài ra đa P10 sóng mét và 1 ra đa P15 sóng dm của Đại đội ra đa 28, chưa có ra đa sóng cm và đo cao. Máy bay 963 lại không có máy trả lời địch - ta nên chỉ huy ra đa và sĩ quan dẫn đường KQ phải bàn cách bất ngờ cho 963 cất cánh, vừa lấy độ cao vừa bay thẳng tới mục tiêu và chỉ huy 963 thay đổi độ cao và phương vị để có thể phân biệt địch ta trên hiện sóng và dẫn 963 vào thế có lợi để phát hiện và công kích C123 hiệu quả. Chiếc 963 cất cánh vượt qua hỏa lực phòng không Hà Nội tới 60km rồi mới nghe tiếng pháo cao xạ nổ. Hai phi công Ba và Phước đã bắn hạ C123, thực hiện quyết tâm "dùng máy bay địch để đánh địch" trong trận này.
       
        Đầu năm 1966, được bạn chi viện thêm vũ khí, trang thiết bị như máy bay MiG-21, ra đa P30.35, PPB1 1 sóng cm... Quân chủng đã tổ chức Tiểu đoàn 300 huấn luyện sử dụng các khí tài mới và phát triển thêm các trung đoàn không quân và ra đa. Ngày 9-4-1966, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập thêm Trung đoàn ra đa dẫn đường 293 trang bị các loại đài P35, PPB11 đặc trách nhiệm vụ dẫn đường cho không quân, biên chế 7 đại đội ra đa. Qua thực tế chiến đấu, với địa hình đất nước ta hẹp, dài, rừng núi nhiều, trang bị của ta có hạn nên đội hình ra đa không thể bố trí có chiều sâu mà chỉ có thể bố trí theo tuyến và hướng. Mỗi trung đoàn ra đa phụ trách một hướng kiêm 2 nhiệm vụ, cả cảnh giới và dẫn đường. Ngay từng đại đội ra đa cũng phải kiêm nhiệm cả 2 nhiệm vụ cảnh giới và dẫn đường, tùy theo trang bị mà xác định nhiệm vụ chủ yếu và thứ yếu. Do đó, đến tháng 8-1966, lại phải chuyển trung đoàn ra đa dẫn đường 293 trở về nhiệm vụ vừa cảnh giới vừa dẫn đường; chuyển một số đại đội ra đa dẫn đường của Trung đoàn 293 về cho Trung đoàn 291 và nhận về 2 đại đội cảnh giới và một cụm quan sát mắt để phụ trách vùng trời phía Bắc và Đông Bắc Hà Nội. Từ đấy đến khi kết thúc chiến tranh ta đã trang bị cho các trung đoàn ra đa có cả đại đội ra đa cảnh giới và đại đội ra đa dẫn đường để kiêm nhiệm cả cảnh giới và dẫn đường. Mỗi trung đoàn ra đa đảm nhiệm một hướng như Trung đoàn ra đa 291 đảm nhiệm hướng Đông Nam (Nam đến Đông), Trung đoàn ra đa 293 đảm nhiệm hướng Đông Bắc (Đông đến Bắc), Trung đoàn ra đa 292 đảm nhiệm hướng Tây Nam (Nam đến Bắc), Trung đoàn ra đa 290 đảm nhiệm tuyến trước ở phía Nam.
       
        Thực tiễn tổ chức, bố trí đội hình và sử dụng lực lượng ra đa như trên đã đảm bảo cho bộ đội ra đa hoàn thành được nhiệm vụ cảnh giới bảo đảm cho các lực lượng phòng không ba thứ quân chủ động đánh địch cũng như cho lực lượng PKND tổ chức phòng tránh có kết quả suốt cuộc chiến tranh, đặc biệt là đảm bảo tình báo trên không cho các binh chủng Cao xạ, Tên lửa, Không quân thắng địch ngay từ trận đầu ra quân.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2016, 08:41:40 pm »

       
        2. Quán triệt tư tưởng tác chiến phòng không: "Tích cực tiêu diệt địch, giữ gìn bồi dưỡng lực lượng ta, càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành" Binh chủng Ra đa đã bảo đảm cho các lực lượng phòng không ba thứ quân thực hiện thắng lợi cả hai phương thức tác chiến; tác chiến tại chỗ rộng khắp của các lực lượng phòng không địa phương, dân quân tự vệ và tác chiến tập trung của các binh chủng chủ lực Cao xạ, Tên lửa, Không quân (Quân chủng PK-KQ), đánh thắng mọi thủ đoạn kỹ thuật, chiến thuật, chiến dịch, chiến lược của không quân đế quốc Mỹ, tiêu diệt nhiều sinh lực địch cũng như bảo đảm tình báo trên không cho phòng không nhân dân tổ chức báo động phòng tránh và sản xuất thực hiện thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không của nhân dân ta chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.
       
        Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" đưa quân Mỹ và chư hầu (Nam Hàn, Úc,...) vào tham chiến ở miền Nam đi đôi với "Chiến tranh cục bộ", ở miền Nam, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ngăn chặn chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam.
       
        Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất: Từ ngày 7-2-1965 địch liên tiếp tổ chức các bước leo thang đánh phá ra miền Bắc ép dần vào trung tâm Thủ đô Hà Nội với các chiến dịch gọi là: "Mũi tên xuyên" rồi các đợt "Sấm rền". Chủ yếu Mỹ sử dụng máy bay chiến thuật của hai sư đoàn không quân chiến thuật bố trí ở Thái Lan và máy bay của hải quân trên các tàu sân bay dẫn từ ngoài biển Đông để đánh phá miền Bắc.
         
        Nổi bật nhất là cuối năm 1966 đầu năm 1967, để hỗ trợ cho hai cuộc phản công mà địch gọi là hai cuộc phản công chiến lược quy mô lớn để thực hiện chiến lược "Tìm diệt" ở miền Nam, đồng thời leo thang, mở rộng diện đánh phá ác liệt bằng không quân dọc tuyến hành lang miền Bắc nhằm vào trung tâm 6 hệ thống mục tiêu (điện lực, quân sự, giao thông, công nghiệp, nhiên liệu và giao thông vận tải với cường độ và quy mô lớn). Địch hoạt động cả ban ngày và ban đêm với nhiều thủ đoạn kỹ chiến thuật phức tạp như bay cơ động, bay nhiều tầng (thấp 200m - 500m), lẫn sau địa hình (147JSC không người lái), bay trinh sát cao 10.000m bằng U2, không người lái BQM 34, cao trên 20.000m tốc độ lớn 2M của SR71, cường kích bay độ cao 4000m - 6000m của không quân chiến thuật, bay cơ động và thấp 3000 - 4000m của máy bay hải quân, tập kích từ nhiều hướng, nhiều tầng, đánh nhiều mục tiêu cùng một lúc, nhưng nổi bật nhất là gây nhiễu điện tử trong và ngoài đội hình, cường kích đi đôi với phóng tên lửa tự dẫn thụ động (Shrike AGM 45A) đánh phá trận địa ra đa các loại của ta.
       
        Không quân địch đã leo thang đánh phá ra hầu như toàn miền Bắc, không chỉ mục tiêu giao thông vận chuyển mà cả các khu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp. Lực lượng phòng không - không quân ta cũng đã phát triển mạnh và triển khai trên toàn miền Bắc. Bộ tư lệnh Quân chủng không thể chỉ huy trực tiếp đến các trung đoàn hỏa lực trên các khu vực được nên đầu năm 1967, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập các Bộ tư lệnh Binh chủng Ra đa, Không quân, Tên lửa với các phiên hiệu là Sư đoàn 373, 371, 369 (24-3-1967) và các sư đoàn PK hỗn hợp. Từ đây, các binh chủng được tổ chức và lãnh đạo, chỉ huy, sát hợp với đặc thù của binh chủng mình. Để phát huy tính chủ động và nâng cao chất lượng chiến đấu trong chiến tranh. Bộ tư lệnh ra đa cũng gấp rút điều chỉnh đội hình, tổ chức mạng ra đa theo từng hướng bảo đảm cả nhiệm vụ cảnh giới và dẫn đường đưa các cụm quan sát mắt biên chế trực tiếp vào các trung đoàn ra đa, Bộ tư lệnh ra đa, tổ chức hệ thống thông báo tình báo tập trung (tổng trạm) nhất là hệ thống thông báo tình báo phân tán của từng trạm ra đa và trạm quan sát mắt đến đơn vị hỏa lực bố trí trong cùng khu vực.
       
        Năm 1967, địch mở liên tiếp các đợt đánh tập trung (tháng 8, 10, 11, 12) vào Hà Nội, Hải Phòng. Mỗi đợt kéo dài 4 đến 5 ngày liền với cường độ xuất kích cao nhất là tháng 10 năm 1967 tới 200 - 300 lần/chiếc/ngày phối hợp cả không quân chiến thuật, không quân hải quân và thủy quân lục chiến với các thủ đoạn chiến tranh điện tử phức tạp, kỹ thuật cao như:
       
        Gây nhiễu ngoài đội hình cường kích bằng EB-66 B/C, có trận tới 6 chiếc bay chế áp khu vực bao quanh Hà Nội, Hải Phòng (D = 100 - 150km). EB66 đến trước, phát nhiễu cùng một lúc tất cả các dải sóng "m, dm, cm" của ra đa và cả rãnh siêu cao tần VHF thông tin.
       
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM