Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 06:34:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13  (Đọc 46474 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #70 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 10:10:45 pm »

Ngày 19-5-1980, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị số 04/CT/QU về việc quán triệt đường lối quân sự của Đảng ta trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị nêu rõ: “Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, hùng mạnh, có trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa lao động sản xuất, góp phần xây dựng kinh tế đất nước”(1).

Thực hiện Chỉ thị của Quân ủy Trung ương, các lực lượng vũ trang đẩy mạnh huấn luyện, xây dựng chính quy, hiện đại. Xây dựng lực lượng chủ lực tinh nhuệ, có khả năng nhanh chóng xử trí các tình huống sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Chủ trương chung nhất quán của Đảng là xây dựng bộ đội chủ lực mạnh, chính quy, hiện đại thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với bộ đội chủ lực, chú trọng huấn luyện cơ bản, hệ thống, thống nhất, theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng, hiệp đồng các thứ quân, đẩy mạnh huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và chiến dịch gắn với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến.

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Thường trực Quân ủy Trung ương về cải cách giáo dục, Bộ Quốc phòng chỉ đạo nghiên cứu quy hoạch hệ thống nhà trường, tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu giảng dạy, cải tiến chương trình nội dung phương pháp dạy và học, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện. Bộ Quốc phòng thành lập các tổ nghiên cứu tiêu chuẩn hóa cán bộ và các tổ chỉ đạo biên soạn nội dung chương trình môn học. Các nhà trường quân đội đi sâu nghiên cứu từng mặt của nội dung cải cách giáo dục.

Ngày 17-9-1980, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị về nghiên cứu, biên soạn tài liệu giảng dạy ở các học viện, nhà trường quân đội phù hợp với yêu cầu cải cách giáo dục. Các học viện, nhà trường, đơn vị khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cán bộ, bảo đảm cho cán bộ cơ sở có đủ năng lực và trình độ tổ chức chỉ huy, huấn luyện và quản lý đơn vị theo chức trách từng cấp. Sau một thời gian thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Quân ủy Trung ương về cải cách giáo dục, các nhà trường quân đội đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Nội dung đào tạo đã hướng vào mục tiêu, nguyên lý giáo dục của Đảng, làm cho nhà trường đi sát chiến trường, sát với yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị.

Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Bộ trưởng, tháng 8-1982, Bộ Quốc phòng ra các chỉ thị về tổ chức và nhiệm vụ của Học viện Quân sự cấp cao, học viện Lục quân, Học viện Hậu cần, Học viện Quân y, Học viện Chính trị - Quân sự, Học viện Kỹ thuật quân sự, Trường Đại học ngoại ngữ quân sự; đồng thời duy trì hệ thống các trường bổ túc cán bộ ở cấp quân khu, quân đoàn, binh đoàn. Các trường sĩ quan tập trung đào tạo cơ bản dài hạn. Các trường quân chính, quân khu, quân đoàn đào tạo chủ yếu cán bộ trung đội trưởng và bổ túc ngắn hạn, đáp ứng yêu cầu của đơn vị. Bộ Quốc phòng quy định tuyển sinh và các học viện, trường đại học và cao đẳng quân sự bắt đầu thực hiện từ năm học 1982-1983.

Ngày 3-1-1984, Thường vụ Quân ủy Trung ương sơ kết 3 năm thực hiện công tác nhà trường quân đội (1981-1983), đánh giá: Hệ thống các học viện, trường đại học và trường sĩ quan quân đội hình thành tương đối hoàn chỉnh trong hệ thống các trường của Nhà nước. Hệ thống các trường quân đội đã được củng cố, kiện toàn một bước cơ bản, đồng bộ. Đội ngũ giáo viên được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu giảng dạy, học tập theo chương trình nội dung, phương pháp huấn luyện mới. Những nội dung cơ bản của đường lối chính trị, quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được vận dụng vào việc đào tạo, bồi dưỡng trong các nhà trường, góp phần nâng cao nhận thức về trình độ của đội ngũ cán bộ, đủ sức lãnh đạo, chỉ huy bộ đội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Quán triệt mệnh lệnh, chỉ thị huấn luyện của Bộ, các đơn vị toàn quân chú trọng huấn luyện cơ bản, hệ thống, thống nhất theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng, hiệp đồng các thứ quân, đẩy mạnh huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và chiến dịch, gắn với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến. Theo phương châm huấn luyện cơ bản, hệ thống, toàn diện, đồng bộ, các đơn vị tập trung huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ cả về kỹ thuật và chiến thuật, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, phương tiện được trang bị. Đồng thời tích cực giáo dục rèn luyện bộ đội chấp hành điều lệnh, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật.

Đối với bộ đội chủ lực, các đơn vị bộ binh huấn luyện thành thạo tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng trong tiến công, phòng ngự cả ban ngày và ban đêm trong mọi tình huống. Các đơn vị ở tuyến một và hải đảo huấn luyện có trọng tâm, trọng điểm, sát với thực tế chiến đấu, sát với chiến trường. Từng đơn vị coi trọng công tác huấn luyện dã ngoại, rèn luyện cho bộ đội có sức cơ động, sức bền bỉ, dẻo dai, có sức chịu đựng trong điều kiện chiến đấu khó khăn gian khổ ở khu vực địa hình phức tạp. Đội ngũ cán bộ cấp đại đội, tiểu đoàn được nghiên cứu kỹ địa hình, nắm được phương án và luyện tập nhiều lần trên khu vực địa hình sát với chiến trường. Kết thúc mỗi khoa mục của từng cấp từ đại đội trở lên có diễn tập thủ trưởng cơ quan hai cấp, ba cấp theo phương án tác chiến có một phần thực binh.

Về huấn luyện kỹ thuật, bảo đảm cho bộ đội sử dụng thành thạo các loại vũ khí, khí tài mới được trang bị. Mỗi chiến sĩ đều biết sử dụng các loại vũ khí và dùng được hai đến ba loại súng trong tiểu đội. Cán bộ phải nắm chắc và sử dụng tốt các loại vũ khí, khí tài, phương tiện trong biên chế. Các quân chủng, binh chủng chú trọng, nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng cho người chỉ huy, cơ quan và phân đội.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr. 408.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #71 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 10:11:44 pm »

Thực hiện chỉ thị của Bộ Quốc phòng, từ ngày 5 đến ngày 16-8-1981, Bộ Tổng tham mưu tổ chức lớp tập huấn cán bộ cao cấp scho các đơn vị ở phía Nam, nhằm quán triệt đường lối chính trị, quân sự của Đảng, bồi dưỡng cho cán bộ những vấn đề cơ bản về nghệ thuật các loại chiến dịch để nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng, hiệp đồng các thứ quân, bảo đảm cho cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Để có cơ sở hạ tầng bền vững cho nghiên cứu chiến dịch lâu dài, tiếp thu nền khoa học quân sự tiên tiến trên thế giới, Bộ Quốc phòng Liên Xô đã giúp Bộ Quốc phòng Việt Nam xây dựng một trung tâm nghiên cứu - huấn luyện chiến dịch T.83. Đây là nơi đã diễn ra các cuộc diễn tập chiến lược, cùng với nhiều cuộc diễn tập chiến dịch đều đạt kết quả tốt.

Trên cơ sở nắm vững nội dung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật của cá nhân và phân đội, huấn luyện hiệp đồng binh chủng, các đơn vị tiến hành diễn tập thực nghiệm và diễn tập kiểm tra sẵn sàng chiến đấu. Các Quân khu 2, 4, 7, các Quân chủng Phòng không, Không quân, Hải quân, Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 tổ chức nhiều cuộc diễn tập chiến đấu hiệp đồng binh chủng tiến công và phòng ngự trên địa hình đồng bằng, rừng núi, diễn tập chống địch đổ bộ đường không và đường biển. Kết thúc các đợt diễn tập, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh các quân khu, quân chủng, binh chủng và các sư đoàn tổ chức rút kinh nghiệm về tổ chức biên chế, trang bị, về cách đánh và mối quan hệ hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng; đồng thời rút kinh nghiệm về xây dựng pháo đài quân sự huyện biên giới và ven biển.

Sau một năm xây dựng đơn vị thành sư đoàn bộ binh cơ giới, Sư đoàn 308 tổ chức diễn tập chiến thuật thực nghiệm: chuyển quân hỗn hợp cửa sư đoàn bộ binh cơ giới và đánh phản đột kích trong hành tiến ở rừng núi trong đội hình quân đoàn nhằm tiêu diệt quân địch trong khu vực phòng ngự của quân khu. Đây là cuộc diễn tập thực nghiệm đầu tiên của sư đoàn bộ binh cơ giới và trang bị kỹ thuật hiện đại, nhiều xe cơ giới (hơn 1.000 xe chiến đấu, xe đặc chủng và ô tô) và nhiều quân binh chủng tham gia, hành quân trên địa hình đồng bằng, rừng núi phức tạp.

Qua diễn tập, trình độ và khả năng sử dụng binh khí chiến đấu hiện đại cửa cán bộ, chiến sĩ được nâng lên. Sư đoàn 308 có bước tiến bộ mới về tình độ chỉ huy và tác chiến của sư đoàn bộ binh cơ giới. Thành công của cuộc diễn tập đã khẳng định: “Chiến trường Việt Nam kể cả ở rừng núi, địa hình phức tạp, nếu được tổ chức chỉ huy vững chắc, hiệp đồng chặt chẽ thì sư đoàn bộ binh cơ giới hoàn toàn có thể phát huy đầy đủ khả năng, đầy đủ năng lực của nó để đánh cho quân địch những đòn tiêu diệt”(1).

Tháng 11-1981, Bộ Quốc phòng chỉ đạo diễn tập cơ quan tham mưu chiến lược MB-81: Diễn tập chỉ huy và cơ quan Bộ Tổng tham mưu tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng trong chiến dịch phòng ngự có ý nghĩa chiến lược ở phía Bắc Việt Nam và Bắc Lào, diễn tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến. Đây là cuộc diễn tập lớn của cơ quan cấp chiến lược về một loại hình chiến dịch mới trên phạm vi rộng lớn. Qua diễn tập, trình độ tổ chức của người chỉ huy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các đơn vị được nâng lên rõ rệt.

Trong hai năm 1981-1982, các đơn vị bộ đội chủ lực tổ chức 13.196 cuộc diễn tập gồm diễn tập cơ quan tham mưu chiến lược, diễn tập cơ quan tham mưu hai cấp, diễn tập chỉ huy và tham mưu ba cấp. Kết quả các cuộc diễn tập khẳng định sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị.

Nhằm đáp ứng yêu cầu chiến đấu trong tình hình mới, tháng 9-1983, Bộ Quốc phòng tổ chức cuộc diễn tập chỉ huy và cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân chủng, binh chủng và các quân khu, quân đoàn mang tên MB-83. Đây là cuộc diễn tập đầu tiên giữa một số đơn vị quân đội ta và quân đội Lào, do Bộ Quốc phòng tổ chức nhằm rút kinh nghiệm về tổ chức thực hành các cuộc diễn tập; nâng cao sự hiểu biết về cách đánh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghiên cứu cách đánh của quân đội ta phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước và nghiên cứu cách đánh của quân đội anh em, rèn luyện người chỉ huy và cơ quan về chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu; tổ chức và thực hành chiến dịch phòng ngự chiến lược. Việc tổ chức diễn tập với bạn Lào góp phần nâng cao trình độ công tác tham mưu chiến lược giữa hai Bộ Tổng tham mưu, tăng cường tình đoàn kết liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước trong bảo vệ biên giới, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của hai nước Việt Nam - Lào.

Trong thời gian này, các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng thực hành diễn tập hai loại hình chiến dịch, chiến đấu như: phòng ngự, phản công, tiến công, chống đổ bộ, phong tỏa đường biển của hải quân, tác chiến phòng thủ quân khu, chiến dịch phòng không và hoạt động tác chiến của không quân kết hợp với lực lượng của ba thứ quân với hai phương thức tác chiến chiến lược, trên các địa hình (chủ yếu là biên giới và ven biển) đạt kết quả tốt. Quá trình thực hiện một số tình huống hiệu quả chưa cao.


(1) Tổng kết diễn tập CĐ-30, Cục Huấn luyện chiến đấu (Bộ Tổng tham mưu), hồ sơ CT.2 (quyển 16), tr.67.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #72 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 10:12:24 pm »

Nhìn chung, nhờ tích cực đầy mạnh huấn luyện chính quy hiện đại, qua nhiều cuộc diễn tập chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, các lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng đã có bước trưởng thành về trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng hiện đại, trình độ tham mưu chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, sức mạnh chiến đấu của bộ đội được nâng lên một bước mới. Có thể nói, “từ nửa đầu thập kỷ 80, sức mạnh lực lượng vũ trang của ta đạt được sự hùng hậu, chất lượng tổng hợp, chính quy hiện đại nhất trong thế kỷ XX”(1).

Cùng với việc huấn luyện nâng cao trình độ cho bộ đội chủ lực, các lực lượng vũ trang địa phương tập trung huấn luyện nâng cao khả năng chiến đấu tiến công, phòng ngự trên các loại địa hình, thực hành đánh vừa, đánh nhỏ, đánh độc lập và đánh hiệp đồng với bộ đội chủ lực cơ động. Huấn luyện chương trình cơ bản cho dân quân tự vệ đảm bảo đủ sức hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ nhân dân, bảo vệ cơ quan, xí nghiệp.

Ngày 8-12-1980, Tổng Tham mưu trưởng ra Chỉ thị về công tác huấn luyện dân quân tự vệ năm 1981, nêu rõ: Phải đặc biệt chú trọng nội dung, mục tiêu, huấn luyện thiết thực nâng cao chất lượng dân quân tự vệ để có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ bản làng, bám trụ chiến đấu với địch trong địa bàn địa phương khi địch xâm chiếm. Huấn luyện dân quân ở rừng núi, trung du và đồng bằng. Phổ biến đánh địch ở cấp trung độ. Lực lượng cao xạ, pháo binh trong dân quân tự vệ phải chiến đấu giỏi ở khẩu đội. Công tác huấn luyện phải căn cứ vào nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội từng địa phương, từng vùng. Huấn luyện phải nắm vững khâu trung tâm là bồi dưỡng cán bộ chỉ huy ở cơ sở, cán bộ huân luyện dân quân tự vệ các cấp.

Đầu năm 1983, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo Quân khu 3 huấn luyện thí điểm chương trình quân sự cơ bản năm thứ nhất cho dân quân tự vệ để tút kinh nghiệm và triển khai thực hiện rộng rãi trong cả nước. Đây là chủ trương lớn trong công tác huấn luyện, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của dân quân tự vệ.

Từ tháng 4 đến cuối tháng 6-1983, Bộ Quốc phòng tổ chức hai lớp tập huấn cho cán bộ quân sự địa phương ở phía Bắc và phía Nam. Nội dung tập huấn gồm 24 bài về những vấn đề cơ bản của công tác quân sự địa phương, chiến tranh nhân dân địa phương trong giai đoạn mới.

Ngày 5-10-1983, Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị về công tác dân quân tự vệ. Hội nghị trao đổi một số kinh nghiệm về huấn luyện dân quân tự vệ tham gia đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch của các Quân khu 1, 2, 9 và Quân khu Thủ đô, huấn luyện dân quân tự vệ đánh bại Fulro của Quân khu 5, huấn luyện thử chương trình cơ bản và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân quân tự vệ của Quân khu 3; kinh nghiệm giải quyết lương thực và kinh phí vật chất huấn luyện cho dân quân tự vệ của các Quân khu 4, Quân khu 7, Đặc khu Quảng Ninh. Hội nghị rút ra nhiều kinh nghiệm thiết thực, góp phần giúp Bộ chuẩn bị ban hành chương trình xây dựng, hoạt động của dân quân tự vệ trong tình hình mới.

Thời gian này, việc huấn luyện quân dự bị cũng được chú trọng. Phương pháp tiến hành theo hai hình thức: Huấn luyện tại xã và huấn luyện tập trung tại khung thường trực. Giai đoạn huấn luyện từng người đến phân đội nhỏ, vận dụng cách “quân ăn tại xã, quân ngủ tại nhà”. Kể cả việc huấn luyện chuyển binh chủng như pháo binh, phòng không, trinh sát, hóa học, đặc công… Nội dung huấn luyện theo yêu cầu tác chiến hiệp đồng quân binh chủng, lấy huấn luyện tập trung làm hình thức chủ yếu, họp luyện chỉ huy cơ quan và phân đội, rèn luyện nâng cao trình độ tác chiến tập trung trong đội hình của các binh đoàn, hiệp đồng với các lực lượng, các thứ quân trên các hướng, các khu vực và các chiến dịch phòng thủ. Các quân khu và tỉnh củng cố tuyến phòng thủ biên giới, ven biển cả về thế trận và lực lượng. Kế hoạch chung bảo vệ Tổ quốc được quân và dân ta bước đầu xây dựng hoàn chỉnh thể hiện rõ quyết tâm đánh thắng ngay từ đầu.

Trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, chăm lo xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần trong nhân dân lao động, trong lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng hậu bị quân đội là một trong những nhân tố quan trọng. Chiến tranh càng hiện đại đòi hỏi nhân tố chính trị - tinh thần là xây dựng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, nắm chắc quan điểm đấu tranh giai cấp, xây dựng quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


(1) Lịch sử Cục Tác chiến, Sđd, tr.788.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #73 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 10:12:54 pm »

Xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần trước hết và thường xuyên là xây dựng nhận thức tư tưởng cho toàn Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang theo tinh thần Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng của Bộ Chính trị chỉ rõ: Quán triệt sâu sắc cho toàn Đảng, toàn dân làm nhiệm vụ quốc phòng, thấu suốt toàn dân xây dựng đất nước, toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Từ trung ương đến địa phương và các ngành vừa phải nâng cao kiến thức khoa học kỹ thuật và kinh tế, vừa phải quán triệt đường lối quân sự của Đảng và những kiến thức về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân theo quy định của từng cấp. Các tỉnh, thành phố tập trung giáo dục quán triệt sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đường lối quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân ở địa phương.

Ở các địa phương, công tác chính trị tư tưởng đã hướng vào việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí kiên cường bất khuất, lòng căm thù địch sâu sắc, xây dựng và củng cố khối đoàn kết trong nhân dân, xây dựng lòng tin tưởng vững chắc vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là sự lãnh đạo của tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy cơ sở. Đồng thời, giáo dục quán triệt cho các lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chính sách của Đảng tại địa phương, nhất là các chính sách hậu phương quân đội, dân tộc, tôn giáo, chống mọi thủ đoạn chia rẽ của địch. Các địa phương đã tổ chức quần chúng và vũ trang cho quần chúng biết cách đánh địch, từng bước thực hiện quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân theo yêu cầu của phòng thủ. Đó là cơ sở cho nhân tốt chính trị - tinh thần phát triển để biến nhận thức tư tưởng của từng người, từng nhà thành hành động bảo vệ Tổ quốc. Từng địa phương thông qua cơ sở, huấn luyện cho nhân dân những kiến thức quân sự phổ thông.

Vận dụng kinh nghiệm thực tiễn trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ và trong chiến tranh bảo vệ biên giới để hướng dẫn, huấn luyện cho nhân dân, trước hết là cho nhân dân ở biên giới, hải đảo, ven biển và các nơi trọng điểm những vấn đề cần thiết để chủ động và kịp thời ứng phó thắng lợi với các hành động, thủ đoạn tuyên truyền tâm lý, vu cáo xuyên tạc, dụ dỗ mua chuộc, khiêu khích của địch và những hiểu biết về phòng, tránh và khắc phục hậu quả chiến tranh. Đồng thời, các địa phương tổ chức huấn luyện cho từng người, từng nhà sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh; mặt khác huấn luyện cho mỗi người dân kiến thức phổ thông cần thiết để tiến hành chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của địch.

Các địa phương chú trọng việc giáo dục quốc phòng đối với thế hệ trẻ. Ở mỗi tỉnh, thành phố có khoảng hơn một phần tư dân số ở lứa tuổi học sinh đang theo học trong các nhà trường. Lực lượng đó đã được giáo dục, huấn luyện có đủ năng lực, bản lĩnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sẽ trở thành một lực lượng mạnh mẽ của địa phương trong lao động sản xuất và xây dựng kinh tế và trong quốc phòng an ninh. Vì vậy, thông qua hệ thống đoàn, đội, hệ thống trường học để giáo dục tri thức quốc phòng cho thanh niên, học sinh. Đây là công tác có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, trong đó nêu rõ: Việc huấn luyện quân sự phổ thông ở trường phổ thông trung học, trường dạy nghề, trường cao đẳng và trường đại học thuộc chương trình chính khóa, công tác giáo dục quốc phòng, huấn luyện quân sự phổ thông trong các trường học trong cả nước càng đi vào nền nếp và có chất lượng mới. Cùng thời gian này, việc huấn luyện sĩ quan dự bị cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng cũng được đẩy mạnh.

Ngày 12-5-1984, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 707/QĐ-QP ban hành Điều lệ nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp đó, tháng 10-1984, Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục - Đào tạo mở Hội nghị tổng kết 5 năm giáo dục quốc phòng, huấn luyện quân sự trong hệ thống nhà trường thuộc Bộ Giáo dục - Đào tạo. Hội nghị khẳng định: Để đào tạo thế hệ thanh niên, thiếu hiên hiểu rõ và sẵn sàng làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, công tác giáo dục quốc phòng, huấn luyện quân sự phải được quán triệt sâu sắc trong mục tiêu giáo dục và thể hiện rõ trong chương trình, nội dung học tập ở tất cả các trường thuộc ngành giáo dục trên phạm vi cả nước. Đây là một mặt công tác giáo dục quan trọng góp phần chuẩn bị cho thế hệ trẻ làm nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc.

Nhờ sự quan tâm của các ngành và địa phương, chất lượng giáo dục quốc phòng và huấn luyện quân sự trong các trường được nâng lên, góp phần quan trọng trong nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng toàn dân, xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần ở mỗi địa phương, thực hiện yêu cầu mỗi người dân là một lao động giỏi, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường, dũng cảm bảo vệ địa phương, sẵn sàng chi viện cho các chiến trường.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #74 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 10:13:15 pm »

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi tỉnh, thành phố, hệ thống làng xã tiếp tục phát triển, các nông trường, xí nghiệp được củng cố, xây dựng ngày càng nhiều, cùng với các thị trấn, thị xã, thành phố phát triển và mở rộng hình thành hệ thống liên hoàn, đó là cơ sở của nền quốc phòng toàn dân. Vì vậy, xã, phường, xí nghiệp, công, nông, lâm trường là đơn vị chiến đấu, đơn vị cơ sở của chiến tranh nhân dân, của thế trận quốc phòng toàn dân. Đó là nơi xây dựng, triển khai lực lượng, bố trí trận địa của bộ đội địa phương và binh đoàn chủ lực. Trong khi đó, các đơn vị bộ đội thường trực, thường xuyên chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đồng thời tham gia xây dựng đơn vị cơ sở tại địa phương nơi đóng quân, góp phần cùng các lực lượng vũ trang địa phương xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Ngày 27-10-1984, Hội đồng Nhà nước quyết định tặng thưởng Huân chương Sao vàng (lần thứ ba) cho các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nhân ngày kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là một vinh dự lớn, là nguồn động viên, cổ vũ lớn lao đối với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân.

Sau khi thất bại trên chiến trường Campuchia và bị thiệt hại nặng trong cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta (1979), quân Trung Quốc vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động gây tình hình căng thẳng trên tuyến biên giới nhằm làm cho ta phải thường xuyên tập trung sức người, sức của để bảo vệ vùng biên giới, hòng gây khó khăn và làm ta suy yếu.

Họ thường xuyên tung thám báo, biệt kích móc nối với bọn phản động địa phương, tranh chấp những điểm cao khống chế trên đường biên. Đặc biệt là dùng pháo binh bắn phá trên toàn tuyến biên giới, sau đó sử dụng lực lượng cấp trung đoàn, sư đoàn đánh chiếm một số điểm cao và khu vực trọng yếu trên đất ta như các điểm cao 1.992 (Yên Minh), 1.800, 1.888, 1.785 (Thanh Thủy) thuộc tỉnh Hà Tuyên (nay thuộc tỉnh Hà Giang), bình độ 400 (Lạng Sơn). Từ năm 1984, phía Trung Quốc tiến hành các đợt hoạt động quân sự mới, tạo nên không khí chiến tranh quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, trong đó tập trung một lực lượng lớn (lúc cao nhất là 6 sư đoàn cùng lực lượng tại chỗ mở các đợt tiến công lấn chiếm có nơi quy mô quân đoàn) đánh phá ác liệt khu vực Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà Giang. Vị Xuyên là địa bàn được quân Trung Quốc chọn làm chiến trường để rèn luyện thực tế cho các quân đoàn chủ lực (từ 6 tháng đến 1 năm thay phiên các quân đoàn, sư đoàn phía sau ra phía trước phòng ngự và tiến công ta). Đầu năm 1984, Trung Quốc điều động Quân đoàn 1 và Quân đoàn 14 đến sát biên giới đối diện với Quân khu 2, hòng buộc ta phải tập trung lực lượng đối phó.

Trước tình hình phía Trung Quốc gây căng thẳng, Quân khu 2 tăng cường lực lượng hình thành thế phòng thủ toàn mặt trận Vị Xuyên gồm hai hướng: Hướng Thanh Thủy (chủ yếu) do Sư đoàn 313 đảm nhiệm, hướng Pa Thán (thứ yếu) do Sư đoàn 326 (Quân khu 2) phụ trách. Mỗi sư đoàn phòng thủ trên hai hướng được tăng cường một tiểu đoàn pháo 74 mm. Các đơn vị làm nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu nhanh chóng xây dựng trận địa vững chắc, tăng cường nắm tình hình, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, nâng cao chất lượng bộ đội, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc vùng biên cương của Tổ quốc. Từ ngày 2 đến ngày 16-2-1984, phía Trung Quốc mở cuộc tập kích hỏa lực lớn vào toàn bộ 13/13 huyện biên giới (Quân khu 1), 6 đồn biên phòng, 20 xã thuộc 9 huyện (Quân khu 2). Ở Quảng Ninh, hai huyện Quảng Hà, Hải Ninh bị pháo bắn phá, chịu nhiều thiệt hại. Sau đợt pháo kích, cuối tháng 2-1984, phía Trung Quốc sử dụng bộ binh lấn chiếm các điểm cao 1.509, 1.542, 772, 685, 233, 226 (Vị Xuyên, Hà Tuyên), 1.200, 820, 626 (Tràng Định, Lạng Sơn).

Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, Quân khu 2 chủ trương tổ chức tiến công kết hợp bộ binh với đặc công có hỏa lực pháo binh chi viện. Ngày 12-7-1984, ba trung đoàn bộ binh thuộc các sư đoàn 312, 316, 456 được lệnh mở cuộc tiến công khôi phục lại các điểm cao 772, 1.030 (Vị Xuyên). Tiếp đó, bộ đội ta tiến công các điểm cao 233, 300, 400 (28-7), 685, 400 (18-11-1984).

Từ tháng 2 đến tháng 7-1985, phía Trung Quốc lần lượt huy động các Sư đoàn 1 (Quân đoàn 1), Sư đoàn 201 (Quân đoàn 67), Sư đoàn 127 (Quân đoàn 43) ra tác chiến ở Vị Xuyên, thay thế Quân đoàn 11 và Quân đoàn 14 lùi về phía sau củng cố. Đến tháng 7-1985, họ chuyển các Sư đoàn 201, 199 (Quân đoàn 67), Sư đoàn 138 (Quân đoàn 46) ra thay phiên các đơn vị tác chiến ở Vị Xuyên, chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới.

Trước hành động quân sự ngày càng tăng của phía Trung Quốc, các lực lượng vũ trang Quân khu 2 cùng với các lực lượng phối hợp, tăng cường lần lượt thay phiên nhau vào củng cố thế trận phòng ngự chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt tiến công, giữ vững trận địa. Đặc biệt là ta đã đánh bại cuộc tiến công lấn chiếm ở Vị Xuyên (Hà Tuyên) và nhiều điểm cao khác trên tuyến biên giới thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, Lai Châu. Sau một thời gian tác chiến, các đơn vị đã kịp thời rút kinh nghiệm, bổ sung phương án, điều chỉnh và củng cố xây dựng lực lượng, tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng vững chắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #75 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 10:14:53 pm »

Kinh nghiệm chiến đấu trên mặt trận Vị Xuyên được tổng kết kịp thời và phổ biến cho các lực lượng vũ trang trên tuyến một, góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đánh bại âm mưu, thủ đoạn lấn chiếm của quân Trung Quốc, đồng thời tự kìm chế, chủ động giảm dần cường độ tác chiến. Quân và dân ta đã đánh bại một bước âm mưu dùng sức mạnh quân sự phá hoại, lấn chiếm vùng biên giới của quân Trung Quốc, thu được thắng lợi bước đầu rất quan trọng. Thắng lợi này càng củng cố lòng tin vào khả năng đánh bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt, giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.

Sau hơn 4 năm thực hiện cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” được Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động từ tháng 11-1978, các lực lượng vũ trang ta đã có những chuyển biến sâu sắc về nhiều mặt. Tuy nhiên, sự chuyển biến ở một số mặt còn chậm, việc vi phạm kỷ luật quân đội và pháp luật của nhà nước vẫn xảy ra.

Trước tình hình đó, ngày 19-5-1983, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 20-CT/TW tiếp tục duy trì cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” trong 3 năm 1983-1985 với yêu cầu mới: Một là, xây dựng cơ bản vững chắc ý chí trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; xây dựng mối quan hệ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân đội nhân dân. Hai là, quản lý, giữ gìn và sử dụng có hiệu quả các loại vũ khí, trang bị. Ba là, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ.

Hưởng ứng cuộc vận động do Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động, các lực lượng vũ trang đã cụ thể hóa 3 yêu cầu trên thành chỉ tiêu, đề ra các biện pháp giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ hành động, hướng vào thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Khẩu hiệu hành động là: “Ý chí mạnh, trách nhiệm cao, đoàn kết tốt, giữ gìn và sử dụng vũ khí trang bị tốt, chăm lo cải thiện đời sống tốt”.

Tuy được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, nhất là ở đơn vị cơ sở, nhưng cuộc vận động tiến triển không mạnh, nhiều vấn đề tiêu cực vẫn tồn tại, trong đó có những vẫn đề nảy sinh và diễn biến phức tạp hơn(1). Trước hiện trạng đó, các lực lượng vũ trang dồn sức vào lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng về chính trị, tư tưởng và tổ chức với tinh thần vừa cấp bách vừa cơ bản, cố gắng hạn chế những tác động tiêu cực nảy sinh từ tổ chức và cơ chế 07 năm 1982.

Qua một năm thực hiện Nghị quyết 07 về thay đổi cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quân đội, ngày 25-12-1983, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 10/CT-H về công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội năm 1984, nêu rõ: “Trong cuộc đấu tranh cách mạng đang diễn ra quyết liệt, phức tạp và trước yêu cầu, nhiệm vụ quân đội, trình độ chính trị - tư tưởng của bộ đội còn nhiều mặt chưa đáp ứng, chuyển biến còn chậm. Nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với cuộc đấu tranh giữa hai con đường gắn với cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch chưa được sâu sắc, quan điểm chưa vững vàng, vẫn còn thiếu lòng tin vào khả năng làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình kinh tế - xã hội và đời sống. Hiện tượng giảm sút ý chí chiến đấu, kém nhiệt tình và trách nhiệm, kém kỷ luật, thiếu yên tâm gắn bó với quân đội, với chiến trường, thiếu gương mẫu và lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa có chuyển biến mạnh. Tình hình kỷ luật Đảng và trong nội bộ chuyển biến chậm, chưa vững chắc, hiện tượng vi phạm kỷ luật nghiêm trọng vẫn còn nhiều. Đời sống tinh thần bộ đội còn nhiều khó khăn. Tổ chức cơ sở Đảng vẫn là một khâu yếu, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu chưa phát huy được tốt. ngay cả ở nhiều tổ chức cơ sở trọng điểm”(2).

Qua thử thách trong cuộc sống, cơ chế lãnh đạo mới ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm, khuyết điểm đến suy yếu sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Từ thực tiễn đó, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có nhiều chỉ thị cho Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị tìm nguyên nhân, xác định chủ trương, biện pháp chỉ đạo toàn quân khắc phục, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân. Theo tinh thần đó, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị tập trung chỉ đạo các đơn vị toàn quân coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, chi bộ, xác định rõ trách nhiệm của người chỉ huy, của độ ngũ cán bộ, đảng viên trong thực hiện cơ chế lãnh đạo mới của Đảng.


(1) Theo Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Sđd, tr.717.
(2) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.III, q.1, tr.500.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #76 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 10:16:36 pm »

Mặc dù đã tìm mọi cách và nỗ lực rất cao, nhưng tình hình lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ chuyển biến về nhận thức, tư tưởng và hành động rất chậm, có những vấn đề còn nảy sinh thêm và diễn biến phức tạp hơn. Tình trạng lộng hành, dùng uy quyền cá nhân chỉ huy lấn át bộc lộ ngày càng rõ, gây căng thẳng, mất đoàn kết nội bộ kéo dài ở một số đơn vị; có nơi, có lúc nghiêm trọng đến mức mất tình nghĩa đồng chí, đồng đội, ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất, không có lợi đối với nhiệm vụ chung, gây cản trở đến xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Những biểu hiện ấy làm cho vai trò, vị trí của công tác đảng, công tác chính trị sút kém, ảnh hưởng không ít đến chất lượng công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ, nhất là sức chiến đấu và hiệu suất lao động công tác không cao.

Trước tình hình đó, ngày 21-3-1985, theo sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng à Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính tri ra Chỉ thị số 06/CT-H Về đợt sinh hoạt chính trị củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa đảng viên và quần chúng ở đơn vị cơ sở (gồm cả tổ chức cơ sở ở cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch). Chỉ thị nêu rõ: “Do tổ chức Đảng và người chỉ huy chưa nhận thức đầy dủ việc củng cố quan hệ giữa đảng viên và quần chúng là vấn đề thuộc quan điểm, nguyên tắc của Đảng, chưa coi đó là một nội dung lãnh đạo cơ bản và thường xuyên trong đơn vị, nên ở nhiều đơn vị hiện tượng tiêu cực trong mối quan hệ giữa đảng viên và quần chúng, giữa cán bộ và chiến sĩ không những không giảm đi mà có chiều hướng ngày càng tăng lên. Chỉ thống kê số vụ vi phạm đã phát hiện được và đến mức phải xử lý từ năm 1983 đến năm 1985, tỷ lệ người phạm các lỗi, năm cao nhất là 7%, năm thấp nhất là 4,5%, so với tổng số phạm lỗi. Đây là một trong những hiện tượng sai phạm nghiêm trọng có tỷ lệ cán bộ vi phạm cao nhất”(1).

Kết quả các đợt sinh hoạt chính trị trong toàn quân đầu năm 1985 đã tạo được sự chuyển biến trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, chiến sĩ, nhưng chuyển biến không nhiều, tình hình lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng vẫn chưa cải thiện được bao nhiêu, các hiện tượng tiêu cực vẫn tiếp diễn kín đáo, tinh vi hơn và vụ việc nghiêm trọng không giảm.

Ngày 9-6-1985, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TW về những vấn đề cơ bản của đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết chỉ rõ: Đường lối quân sự của Đảng ngày nay là đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của quân và dân ta là xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc, đánh bại chiến tranh lấn chiếm biên giới và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù dịch, tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết còn xác định những nguyên tắc chủ yếu trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng, chế độ một người chỉ huy, công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.

Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa V) về Đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối vói Quân đội nhân dân Việt Nam, mà nội dung quan trọng nhất là bỏ hệ thống tổ chức Đảng từ cấp sư đoàn và tương đương trở lên đến Quân ủy Trung ương, thay vào đó là Hội đồng quân sự và cơ quan chính trị là hai cơ quan lãnh đạo cao nhất về quân sự và về Đảng nhằm đảm bảo hiệu lực cho người chỉ huy ở mỗi cấp từ sư đoàn đến Bộ Quốc phòng. Song, thực tế những yêu cầu mà Nghị quyết 07 đặt ra là đổi mới và hoàn thiện cơ chế này nhằm “bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của Đảng trong mọi tình huống... nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội”(2) hiệu quả không cao, tình hình lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân không có sự chuyển biến, mà còn nảy sinh tiêu cực và diễn biến phức tạp. Biểu hiện rõ nhất là vấn đề tôn trọng nguyên tắc lãnh đạo, chỉ huy, đoàn kết của cán bộ và đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên giữ cương vị chủ trì các cấp sút kém. Không ít nơi đã phát sinh tư tưởng độc đoán gia trưởng, thiếu tình đồng chí thẳng thắn, chân thành, gây ra tiêu cực trì trệ trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực.

Những biểu hiện trên làm cho sức chiến đấu của lực lượng vũ trang sút kém, nhiều đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ được giao, nội bộ lủng củng, cán bộ với cán bộ và cán bộ với chiến sĩ không còn giữ được sự gắn bó, tin cậy, thương yêu như trước. Trong khi đó, các thế lực thù địch tăng cường âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt. Tình hình kinh tế - xã hội ngày càng khó khăn, đời sống bộ đội và hậu phương quân đội thiếu thốn, kham khổ. Nhưng nguyên nhân chủ quan chính là sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội bị buông lỏng và thiếu hệ thống chặt chẽ, chất lượng giáo dục và kiểm tra đảng viên (đặc biệt là đảng viên là cán bộ cao cấp, trung cấp, thủ trưởng đơn vị) không cao.


(1) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Sđd, tr.719-720.
(2) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.III, q.1, tr.258.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #77 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2016, 10:17:42 pm »

Nhận thấy tình hình nghiêm trọng, trong đó có tác động tiêu cực của Nghị quyết số 07-NQ/TW (ban hành tháng 12-1982), ngày 4-7-1985, Bộ Chính trị (khóa V) đã ra nghị quyết số 27-NQ/TW về Tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng. Nghị quyết xác định những nguyên tắc chủ yếu trong cơ chế lãnh đạo của Đảng, hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng, chế độ một người chỉ huy, công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.

Tiếp theo là Nghị quyết số 27-NQ/TW sửa chữa những sai lầm khuyết điểm chủ yếu của Nghị quyết số 07-NQ/TW năm 1982 là: Tổ chức Đảng trong quân đội nhân dân theo hệ thống dọc từ cơ sở đến toàn quân, ở mỗi cấp có ban chấp hành đảng bộ (gọi tắt là đảng ủy) do dân chủ bầu cử và được cấp trên chuẩn y. Toàn quân có Đảng ủy Quân sự Trung ương, gọi tắt là Quân ủy Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng công tác trong quân đội và một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng công tác ngoài quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng ủy các cấp có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện các đơn vị thuộc quyền, theo phạm vi chức năng và nội dung quy định của từng cấp.

Ở mối cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng trong quân đội. Cơ quan chính trị và cán bộ chính trị mỗi cấp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy cấp mình và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên. Nghị quyết khẳng định: công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội là một bộ phận rất quan trọng của những hoạt động của Đảng nhằm lãnh đạo các lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và xã hội chủ nghĩa, với nhân dân, với lý tưởng cách mạng của Đảng; tiến hành công tác đảng, công tác chính trị là một nguyên tắc. Nghị quyết quy định rõ về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ của cơ quan chính trị và cán bộ chính trị trong quân đội.

Quyết định trên đây của Bộ Chính trị là rất dúng đắn, có ý nghĩa quan trọng, bởi đã khôi phục lại một số vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc mà Đảng ta đã dày công xây dựng, bồi đắp và phát triển trong nửa thế kỷ lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sau khi có Nghị quyết số 27-NQ/TW, sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, cũng như quân đội và hoạt động công tác đảng, công tác chính trị được phục hồi, có hiệu lực và hiệu quả hơn. Song do cơ chế lãnh đạo vẫn chưa hoàn chỉnh nên tình trạng chung trong toàn quân chưa có chuyển biến mạnh mẽ, nhận thức tư tưởng và biểu hiện hành động của bộ đội vẫn còn nhiều tiêu cực, vi phạm kỷ luật. Những biểu hiện yếu kém về chính trị, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ chuyển biến chậm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên với mức độ khác nhau vẫn còn thiếu lòng tin, có người suy giảm lòng tin vào việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là khi tình hình diễn biến phức tạp, kinh tế đời sống khó khăn. Hiện tượng sa sút về phẩm chất, lối sống, vi phạm kỷ luật, pháp luật trong một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, kể cả cán bộ cao cấp, trung cấp chưa chuyển biến đáng kể. Quan hệ giữa đảng viên và quần chúng, cán bộ, chiến sĩ, đoàn kết dân chủ trong nội bộ, nhất là ở cơ sở vẫn còn nhiều hiện tượng không tốt, có nơi nghiêm trọng(1).

Mặc dù cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị gây tác động ảnh hưởng không lợi đến tình hình chính trị, tư tưởng cán bộ, chiến sĩ, song công tác xây dựng Đảng trong các lực lượng vũ trang, trong quân đội và các mặt công tác chính trị vẫn được giữ vững. Các cấp ủy Đảng và cơ quan chính trị các cấp thường xuyên xây dựng, nâng cao hiệu lực của tổ chức đảng làm nòng cốt xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Các cơ quan chính trị đã tập trung giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng và định hướng hành động cho bộ đội đã hạn chế bớt sự suy giảm chất lượng bộ đội và sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Như vậy, trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đất nước phải trải qua những khó khăn, biến động phức tạp. Các lực lượng vũ trang và nhân dân ta phải tiếp tục đương đầu với nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn và thường xuyên đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Nhờ những nỗ lực to lớn của quân và dân ta nền quốc phòng của đất nước được xây dựng, củng cố về mọi mặt. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân được tăng cường. Lực lượng vũ trang nhân dân có bước phát triển, bổ sung nhiều vũ khí trang bị kỹ thuật, nâng cao sức mạnh chiến đấu. Quân và dân ta luôn nêu cao cảnh giác, đấu tranh phòng chống, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.


(1) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Sđd, tr.723-724.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #78 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2016, 06:57:52 am »

3. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và Lào

Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp mình”, trong những năm đầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất, quân và dân Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào anh em, kiên quyết đoàn kết, liên minh chiến đấu để bảo vệ, vun đắp, xây dựng và phát triển tình hữu nghị truyền thống giữa ba nước Đông Dương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của mỗi dân tộc.

Đối với Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã từng phối hợp chiến đấu với bạn giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1970-1975), theo yêu cầu của cách mạng và nhân dân Campuchia. Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, tập đoàn cầm quyền Khơme Đỏ do Pôn Pốt - Iêng Xari nắm quyền ở Campuchia đã thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại cực kỳ phản động.

Trong hơn 3 năm cầm quyền (1975-1978), tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã thực hiện chính sách đối ngoại hiếu chiến, gây ra cuộc chiến tranh xâm lược biên giới chống Việt Nam, gây xung đột vũ trang đối với Lào; đồng thời thi hành chính sách đối nội hết sức hà khắc. Chúng thực hiện “chủ nghĩa cộng sản độc đáo” ở Campuchia bằng cách xóa bỏ thành thị, trường học, chợ búa, tiền tệ, chùa chiền, dồn dân vào các trại tập trung gọi là “công xã lớn”, thủ tiêu gần 3 triệu người. Đó là “tai họa khủng khiếp, là tội ác diệt chủng chưa từng có trong lịch sử loài người”(1).

Sống dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, nhân dân Campuchia liên tục vùng lên đấu tranh, từ các vụ chống đối lẻ tẻ ở các địa phương đã nhanh chóng la rộng ra khắp cả nước. Từ năm 1977, trước tình hình người Campuchia bị tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari truy bức phải bỏ quê hương sang Việt Nam lánh nạn ngày càng nhiều, theo yêu cầu của lực lượng cách mạng Campuchia, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng Việt Nam giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân khu 7 thành lập một đơn vị (tương đương cấp tiểu đoàn) làm nhiệm vụ giúp đỡ những người Campuchia lánh nạn sang Việt Nam.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 7-9-1977, Tư lệnh Quân khu 7 ra Quyết định số 113/QĐ-77, thành lập khung tiếp nhận cán bộ, chiến sĩ Campuchia, lấy phiên hiệu là Đoàn 977, trực thuộc Cục Chính trị Quân khu, có nhiệm vụ tiếp đón, giúp đỡ bạn về ăn, ở. Ban đầu, lực lượng bạn chỉ có hơn 50 người, sau phát triển lên đến hàng trăm người. Qua tuyểnchọn, huấn luyện, lực lượng bạn từng bước tổ chức thành các khung trung đội, đại đội. Trong những tháng cuối năm 1977, đầu năm 1978, cùng với việc tiếp tục thanh trừng nội bộ, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã mở nhiều cuộc tiến công sang biên giới Việt Nam.

Đáp ứng yêu cầu giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia ngày càng lớn, ngày 21-4-1978, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 34-QĐ/QU thành lập Ban 10 phụ trách công tác Z (Campuchia) do đồng chí Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng làm Trưởng ban, các đồng chí Trần Văn Phác, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Đan Thành, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Ủy viên, với nhiệm vụ:

1. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và của Thường vụ Quân ủy Trung ương về cong tác đối với cách mạng Campuchia, tiến hành tổ chức, quản lý, giáo dục những anh em Campuchia có điều kiện về chính trị, sức khỏe trở thành lực lượng vũ trang cách mạng và những có ích cho sự nghiệp cách mạng Campuchia và cho tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

2. Nghiên cứu đề xuất với Quân ủy Trung ương phương hướng, kế hoạch công tác giúp đỡ lực lượng Campuchia thực hiện nhiệm vụ.

Ban 10 được phép tổ chức một cơ quan giúp việc (với danh nghĩa là một đoàn mang phiêu hiệu là Đoàn 478), có cán bộ cao cấp, trung cấp phụ trách công tác huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị và bảo đảm hậu cần. Tổ chức những khung giúp bạn huấn luyện các đơn vị chiến đấu.

Được sự giúp đỡ của Việt Nam, ngày 12-5-1978, lực lượng vũ trang đoàn kết cứu nước Campuchia đã được thành lập, do đồng chí Hun Xen làm Chỉ huy trưởng. Đây là đơn vị vũ trang tiền thân đầu tiên của quân đội cách mạng Campuchia cùng sát cánh chiến đấu bên cạnh bộ đội Việt Nam chống quân Pôn Pốt đi ngược lại quyền lợi của dân tộc Campuchia.


(1) Trường Chinh: Vấn đề Campuchia, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 11.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #79 vào lúc: 17 Tháng Tư, 2016, 06:58:47 am »

Sau khi lực lượng vũ trang đoàn kết cứu nước Campuchia được thành lập, tình hình cách mạng Campuchia có bước phát triển nhanh chóng. Đáp ứng yêu cầu giúp bạn trên các lĩnh vực, ngày 16-6-1978, Bộ Chính trị ra Quyết định số 20/BCT thành lập Ban công tác Z Trung ương (B 68) do đồng chí Nguyễn Xuân Hoàng, Phó Viện trưởng Viện Khoa học quân sự Việt Nam làm Trưởng ban. Các đồng chí Trần Văn Phác, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Doãn Tuế, Tổng Tham mưu phó; Đan Thành, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; Nguyễn Hữu Tài, Vụ trưởng Ban Đối ngoại Trung ương làm Phó ban với nhiệm vụ chủ yếu là:

1- Theo dõi nghiên cứu tình hình Z (Campuchia) về mọi mặt, báo cáo và đề xuất với Bộ Chính trị trong việc quyết định đường lối, chủ trương, chính sách giúp đỡ cách mạng Campuchia.

2- Triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương giúp bạn xây dựng các lực lượng vũ trang Campuchia và đề xuất kiến nghị với trên về phương hướng kế hoạch công tác giúp đỡ các lực lượng Campuchia hoạt động.

3- Giúp bạn đào tạo cán bộ, thành lập các ban vận động cách mạng ở từng địa phương, từng địa bàn, tiến tới thống nhất dưới sự chỉ đạo của ban vận động cách mạng chung, đồng thời nghiên cứu đề xuất ý kiến giúp bạn xây dựng các tổ chức quần chúng, các tổ chức Đảng khi có điều kiện.

4- Thực hiện chi viện vật chất cho Campuchia theo chủ trương của Trung ương. Trước mắt bảo đảm việc quản lý, nuôi dưỡng, huấn luyện, trang bị và giúp bạn hoạt động.

Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, B68 được phép tổ chức một bộ máy gồm: Văn phòng, các cục (tham mưu, chính trị, hậu cần) và khung cán bộ huấn luyện quân sự, chính trị cho bạn.

Nhằm chủ động chuẩn bị kế hoạch chiến lược giúp bạn, từ tháng 8-1978, Thường vụ Quân ủy Trung ương và một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đã họp bàn, xác định nhiệm vụ giúp các lực lượng chân chính cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, giải phóng đất nước theo yêu cầu của bạn khi điều kiện thuận lợi. Tiếp đó, từ ngày 20 đến 23-10, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn những vấn đề chiến lược liên quan đến việc giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari. Kết luận Hội nghị, Tổng Bí thư Lê Duẩn nhấn mạnh: phải giương cao ngọn cờ của bạn, làm cho dư luận quốc tế, trong nước và nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ ta.

Cuối tháng 11 và đầu tháng 12-1978, kết hợp chặt chẽ với đòn tiến công của quân và ân Việt Nam trừng trị quân Pôn Pốt trên chiến trường biên giới Tây Nam, các lực lượng yêu nước Campuchia đã kịp thời phát động nhân dân đứng lên cứu nước, chuyển phong trào đấu tranh của quần chúng thành cao trào cách mạng sôi nổi từ thành thị đến nông thôn phát triển ngày càng mạnh mẽ và giành nhiều thắng lợi.

Đến thời điểm này, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Ta chẳng những đập tan các cuộc tấn công của địch, giữ vững địa bàn, mà còn giúp bạn phát tiển nhiều lực lượng, mở rộng địa bàn và các căn cứ trong nội địa Campuchia. Quân Pôn Pốt tiếp tục lâm vào thế bị động phải đối phó cả ở ngoài biên giới và ở trong nội địa. Nội bộ địch ngày càng mâu thuẫn sâu sắc, các cuộc thanh trừng ở các quân khu, sư đoàn tin cậy của Pôn Pốt ở Phnôm Pênh liên tiếp xảy ra.

Để tập hợp, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Campuchia đứng lên cứu đất nước thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, ta đã giúp bạn thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Ngày 2-12-1978, tại Snoul trong vùng giải phóng Campuchia, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập, do ông Hênh Xom Rin làm Chủ tịch. Sự ra đời của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đánh dấu bước phát triển vượt bậc của lực lượng cách mạng cứu nước Campuchia, mở ra một cục diện mới, đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước của nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt.

Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia công bố cương lĩnh 11 điểm, trong đó nêu rõ nhiệm vụ trước mắt: “Đoàn kết toàn dân nổi dậy đánh đổ tập đoàn phản động gia đình trị Pôn Pốt - Iêng Xari, bè lũ độc tài quân phiệt trong nước, làm tay sai cho lực lượng phản động nước ngoài, xóa bỏ chế độ tàn ác đẫm máu của chúng, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân… Mặt trận thiết tha kêu gọi nhân dân và chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức dân chủ thế giới đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội tích cực ủng hộ, giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân chúng tôi”(1). Bản tuyên bố của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân Campuchia, được nhân dân trong nước nhiệt tình hưởng ứng và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới đồng tình ủng hộ.


(1) Tuyên bố của Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, báo Nhân dân, ngày 8-1-1979.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM