Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:34:29 am



Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:34:29 am
Lịch sử quân sự Việt Nam - tập 13
Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000)
Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia - Sự thật
Năm xuất bản: 2014
Người số hóa: macbupda

BAN CHỈ ĐẠO NỘI DUNG

                        - Thiếu tướng, PGS. TS. VŨ QUANG ĐẠO
                        - Đại tá, PGS. TS. TRẦN NGỌC LONG
                        - Đại tá, PGS. TS. HỒ KHANG

CHỦ BIÊN

                        Thiếu tướng, PGS. TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG

TÁC GIẢ

                        - Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP
                        - Đại tá NGUYỄN TRỌNG DINH
                        - Đại tá TRẦN MINH CAO
                        - Đại tá VŨ TRONG HOAN
                        - Thượng tá TS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG

HOÀN THIỆN BẢN THẢO

                        Thượng tá, TS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Với thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc, thực dân trên đất nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Hoạt động quân sự Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới, với những thuận lợi và khó khăn mới, trong bối cảnh khu vực và quốc tế hết sức phức tạp, đầy thử thách và biến động.

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy kinh nghiệm đấu tranh giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, đặc biệt là kinh nghiệm của 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối cách mạng, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn đất nước và yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới, mà trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn với thế trận an ninh nhân dân, kết hợp xây dựng, phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, củng cố quốc phòng với xây dựng, phát triển kinh tế.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân đã được xây dựng ngày càng hùng mạnh. Tuy có biến động về quân số, tổ chức nhưng Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn không ngừng phát triển theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế và tham gia xây dựng, phát triển kinh tế đất nước.

Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 13 phản ánh hoạt động quân sự của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từ 1975 đến năm 2000. Đây là thời kỳ đất nước trong nhiều năm vừa có hòa bình vừa có chiến tranh. Dân tộc ta vừa phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, vừa phải chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, chống lại âm mưu, thủ đoạn đánh chiếm biển đảo trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế với hai nước bạn Lào và Campuchia, đồng thời phản ánh quá trình xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân trên những phương diện chủ yếu trong giai đoạn lịch sử đầy thử thách, biến động này của đất nước.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 12 năm 2014
                                                                                         
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:36:45 am
MỞ ĐẦU

Lịch sử quân sự Việt Nam giai đoạn 1975-2000 là bước kế thừa và phát triển truyền thống quân sự dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, đặc biệt là truyền thống quân sự trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975) do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo trong thời kỳ mới: Tổ quốc độc lập, thống nhất, cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đây là giai đoạn hoạt động quân sự kế tiếp trong tiến trình hoạt động quân sự của dân tộc Việt Nam, kể từ buổi đầu dựng và giữ nước - thời Hùng Vương - An Dương Vương (thế kỷ II trước Công nguyên), cho đến thời hiện đại - xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (thế kỷ XX) thuộc nội dung của bộ Lịch sử quân sự Việt Nam (gồm 14 tập). Trong 25 năm (1975-2000), quân và dân ta thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những chuyển biến hết sức sâu sắc và phức tạp.

Sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954-1975), đế quốc Mỹ điều chỉnh một bước về chiến lược quân sự toàn cầu, đẩy mạnh cuộc chạy đua vũ trang và chiến tranh lạnh, nhằm giành ưu thế quân sự đối đầu với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại các quốc gia độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, phá hoại công cuộc xây dựng và phát triển hòa bình của các nước, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, đế quốc Mỹ câu kết chặt chẽ với các thế lực phản động quốc tế, thực hiện chính sách thù địch, bao vây kinh tế, cấm vận, hòng làm suy yếu, giảm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đặc bệt là hai cuộc chiến tranh xâm lược diễn ra ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc Việt Nam. Tiếp đó, các thế lực thù địch thực hiện kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt và thường xuyên đe dọa sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn.

Từ sau khi Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, cục diện thế gới có những biến đổi sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, làm cho tương quan lực lượng thay đổi, bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới. Trong bối cảnh đó, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch tập trung chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là trọng điểm. Chúng thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, hòng phá hoại, gây mất ổn định công cuộc xây dựng đất nước hòa bình, với các thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc và phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng với đất nước, quân đội, nhân dân; kích động gây chia rẽ Đảng với lực lượng vũ trang nhân dân, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh và cách mạng; kế thừa, vận dụng những kinh nghiệm quân sự của dân tộc trong hàng nghìn ănm đấu tranh dựng nước và giữ nước, nhất là kinh nghiệm của 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Đảng và Nhà nước ta đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, phân tích, đánh giá sát tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, trên cơ sở đó đề ra đường lối cách mạng, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Qua thực tiễn 25 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta từng bước xây dựng một hệ thống những luận điểm quân sự mang tính rất ưu việt, đến nay có nhiều điểm vẫn còn nguyên giá trị. Đó là “Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước”, xây dựng và không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân theo phương hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; kết hợp xây dựng kinh tế với quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận chiến tranh nhân dân và an ninh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc... Trên cơ sở những luận điểm chính trị, quân sự cơ bản đó, Đảng và Nhà nước ta đã hình thành một nền tảng tư tưởng, khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của các lực lượng vũ trang nhân dân và cả dân tộc để xây dựng tiềm lực quân sự, quốc phòng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là một trong những nội dung cơ bản trong đường lối quân sự của Đảng thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên và lâu dài của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chinh trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân là nòng cốt. Nều quốc phòng toàn dân được xây dựng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh, đủ sức ngăn chặn, làm thất bại âm mưu xâm lược và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, góp phần xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tuy có những biến động về tổ chức biên chế, quân số và tác động của tình hình thế giới sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu tan rã, nhưng luôn vững vàng về chính trị, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Các lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng, trong đó quân đội nhân dân có trình độ chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại và lực lượng vũ trang quần chúng ngày càng đông đảo, rộng khắp, làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với hai nước Lào và Campuchia anh em; đồng thời tham gia xây dựng kinh tế đất nước.

Trong những năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng, quân và dân ta thực hiện xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố ở từng địa phương trong thế phòng thủ chung của cả nước. đây là một trong những nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, gồm xây dựng cả về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Những thành tựu bước đầu về xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố đạt được đã góp phần tạo ra thế trận quốc phòng, an ninh ngày càng vững chắc ở từng địa phương trong thé trận chung của cả nước.

Trên cơ sở điều chỉnh thế bố trí phòng thủ cả nước, Bộ Quốc phòng tiến hành rút gọn và giảm bớt một mức đáng kể lực lượng thường trực, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, vững vàng trong mọi tình huống, nỗ lực phấn đấu làm tròn chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, góp phần cùng toàn dân làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch quốc tế, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong khuôn khổ tập sách này, chúng tôi cố gắng trình bày toàn bộ những hoạt động quân sự của quân và dân ta thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2010), trong đó chủ yếu về xây dựng tiềm lực quân sự, thế trận quốc phòng toàn dân, tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Campuchia và Lào; một số vấn đề củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố cùng những hoạt động quân sự theo đường lối đổi mới của Đảng. Đồng thời, trình bày một số nét đặc sắc về quan điểm chỉ đạo vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:38:16 am
Chương I

ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT
CẢ NƯỚC XÂY DỰNG VẢ CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ
TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975-1979)

1. Khôi phục kinh tế miền Bắc, nhanh chóng ổn định tình hình miền Nam sau giải phóng, hoàn thành thống nhất đất nước

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau 30 năm (1945-1975) đã giành thắng lợi trọn vẹn. Từ đây, cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới: Đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, cả nước tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bước sang thời kỳ mới, quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng tiếp tục phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, ra sức đẩy mạnh công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong cả nước. Tiến hành xây dựng, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, đất nước ta có ba đặc điểm lớn:

Một là, cả nước hòa bình, độc lập và thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có nền chuyên chính vô sản đã được thử thách, có khối liên minh công nông vững chắc làm nền tảng cho Mặt trận Dân tộc thống nhất và chính quyền cách mạng của nhân dân. Nhân dân ta có truyền thống cách mạng, thiết tha với độc lập và chủ nghĩa xã hội, lại rất cần cù, thông minh và sáng tạo trong lao động, sản xuất, xây dựng kinh tế đất nước.

Hai là, cả nước trong quá trình tổ chức nền sản xuất xã hội, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Ở miền Bắc, các giai cấp bóc lột bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập, tạo cơ sở xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Miền Nam vừa thoát ra từ một xã hội thuộc địa kiểu mới, tuy đã có sự phát triển nhất định của mầm mống tư bản, song về cơ bản vẫn còn là sản xuất nhỏ. Nhìn chung, nền kinh tế nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ, bị chiến tranh tàn phá nặng nề.

Ba là, nước ta tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh quốc tế và khu vực có nhiều thuận lợi. Cách mạng Lào và cách mạng Campuchia đã giành được thắng lợi, hệ thống xã hội chủ nghĩa và các lực lượng độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới ngày càng lớn mạnh, ba dòng thác cách mạng ngày càng phát triển, uy tín và vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, chủ nghĩa đế quốc trong cơn khủng hoảng tiếp tục chạy đua vũ trang, đặt thế giới căng thẳng trong tình trạng chiến tranh lạnh. Tình hình khu vực Đông Nam Á và Đông Dương vẫn tiềm ẩn yếu tố bất ổn, khó lường.

Những đặc điểm trên đây ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình Việt Nam xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới. Đảng và Nhà nước ta đã nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ; đồng thời căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước để định ra đường lối cách mạng trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam được xác định: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1).

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hết sức thuận lợi, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ một nửa nước bị chủ nghĩa thực dân mới chia cắt và thống trị sang cả nước độc lập và thống nhất, từ hai nhiệm vụ chiến lược, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa sang một nhiệm vụ chiến lược làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong phạm vi cả nước; nhưng cũng gặp không ít khó khăn và phức tạp. Trước mắt, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tập trung khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh trên hai miền Nam - Bắc, nhất là phải nhanh chóng khôi phục kinh tế, ổn định tình hình miền Nam sau giải phóng, thống nhất đất nước để tạo đà cho cả nước phát triển mọi mặt trong những năm tiếp theo.

Ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên hai miền Nam - Bắc đã diễn ra một cuộc phấn đấu mới của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tạo ra những biến đổi cách mạng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao… Quá trình khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh trên hai miền Nam - Bắc trong 2 năm 1975-1976 đã thu được những thành tựu đáng kể.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. t.36, tr.397.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:41:23 am
Miền Bắc đã trải qua 21 năm (1954-1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng chỉ gần 10 năm xây dựng tương đối hòa bình, còn đều trong tình trạng chiến tranh diễn ra ác liệt, phải hai lần đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân quy mô lớn của đế quốc Mỹ (2-1965 – 11-1968; 4-1972 – 1-1973). Miền Bắc xã hội chủ nghĩa được xây dựng và không ngừng củng cố vững mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội trờ thành hậu phương vững chắc của cách mạng cả nước. đó là thành quả to lớn của tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng, kiên cường của quân và dân cả nước, trực tiếp là quân và dân miền Bắc anh hùng. Thế nhưng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ kéo dài, trong đó tập trung cả hai lần là 5 năm, hết sức ác liệt “đã phá hủy gần hết những cái mà nhân dân đã tốn biết bao công sức để xây dựng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại đến vài ba kế hoạch 5 năm và làm đảo lộn cả nền quản lý kinh tế”(1).

Hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn đều bị chiến tranh tàn phá, trong đó 12 thị xã, 51 thị trấn bị phá hủy hoàn toàn; 4.000 trong tổng số 5.788 xã bị đánh phá, trong đó 20 xã bị phá hủy hoàn toàn. Phần lớn các khu công nghiệp bị chiến tranh tàn phá, nhiều khu bị đánh đi đánh lại nhiều lần với mức độ hủy diệt. Tất cả các nhà máy điện đều bị đánh hư hỏng, 5 triệu mét vuông nhà ở (chưa kể số nhà ở vùng nông thôn) bị bom đạn kẻ thù phá hủy. Tất cả các tuyến đường sắt, đường bộ, 100% cầu, toàn bộ hệ thống bến cảng, đường biển, đường sông và kho tàng đều bị bắn phá. Đế quốc Mỹ đã gây tổn thất cho 1.600 công trình thủy lợi, hầu hết các nông trường và hàng trăm nghìn hécta ruộng vườn bị đánh phá, hơn 40.000 trâu bò bị bom đạn giết hại. Chúng đã đánh phá 3.000 trường học, 350 bệnh viên, trong đó có 10 bệnh viện bị san bằng(2).

Trước tình hình đó, nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế của miền Bắc hết sức nặng nề, phải kéo dài nhiều năm. Ngay sau khi Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết (27-1-1973), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã khẩn trương khôi phục nền kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh phá hoại do không quân và hải quân của đế quốc Mỹ gây ra. Trên miền Bắc, quân và dân ta đã khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu rất to lớn.

Trên mặt trận nông nghiệp, trong năm 1975, miền Bắc củng cố và xây dựng 115 nông trường, gồm 102.700 hécta đất nông nghiệp, trong đó có 22.000 hécta đất canh tác, 23.900 hécta đất trồng cây lâu năm, thu hút 92.000 công nhân viên chức tham gia lao động sản xuất. Trong thực hiện kế hoạch nhà nước sáu tháng cuối năm 1975 và sáu tháng đầu năm 1976, các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp miền Bắc đã đạt được thành tựu quan trọng. mặc dù thời tiết rất khắc nghiệt, lũ lụt lớn luôn tàn phá, miền Bắc vẫn đạt kết quả khá tốt trong vụ đông xuân 1975-1976. Tổng diện tích trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp năm 1976 tăng hơn năm 1975. Hệ thống công trình thủy nông được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh với số lượng trong sáu tháng đầu năm 1976 tăng gấp ba lần năm 1975. Nhiều công trình, nhà máy được xây dựng, mở rộng. Trong một số xí nghiệp đã bắt đầu có sự chuyển biến về quản lý lao động, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn. Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật được đào tạo tăng nhanh. Năm 1975, cứ một vạn người lao động có 1.040 lao động kỹ thuật, trong đó gồm 600 công nhân kỹ thuật, 260 cán bộ trung cấp, 120 cán bộ đại học và trên đại học. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật được chú trọng từng bước phát triển mạnh, tạo sự chuyển biến sâu sắc, toàn diện trên nhiều mặt với nội dung lành mạnh, có tác dụng động viên tinh thần quần chúng đấu tranh và tích cực sản xuất, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới.

Sau một thời gian cải tạo và xây dựng, đến giữa năm 1976, miền Bắc đã bước đầu kiến lập được một hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và những cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội, với một nhà nước chuyên chính vô sản được củng cố với hệ tư tưởng và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được đặt trên những nền móng vững chắc, đem lại sự thay đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Đó là cơ sở bảo đảm cho miền Bắc không ngừng phát huy vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng cả nước, góp phần nhanh chóng hoàn thành thống nhất đất nước.

Trong khi tập trung khôi phục, phát triển kinh tế, miền Bắc tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời ra sức làm tròn nhiệm vụ là hậu phương lớn đối với các vùng mới giải phóng ở miền Nam. Miền Bắc đã huy động một khối lượng lớn vật chất và điều động nhiều cán bộ của Đảng, Nhà nước, quân đội, công an, các đoàn thể quần chúng, trong đó có hàng vạn cán bộ, công nhân kỹ thuật, tăng cường cho các cơ quan, đơn vị, địa phương; các cơ sở sản xuất, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế… góp phần tăng cường lực lượng làm nhiệm vụ tiếp quản các vùng mới giải phóng, nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, tạo cơ sở vững chắc để thực hiện tốt những nhiệm vụ cấp bách trước mắt, làm chuyển biến sâu sắc tình hình cách mạng miền Nam sau đại thắng mùa Xuân năm 1975.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.498.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:42:02 am
Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, cơ đồ chủ nghĩa thực dân kiểu mới cùng bộ máy ngụy quyền tay sai ở trung ương bị quân và dân ta đánh sụp đổ, cơ sở ngụy quân, ngụy quyền tay sai ở nhiều địa phương, do chúng tốn nhiều tiền của và dày công xây dựng trong hơn 20 năm đã tan rã, nhưng vẫn tồn tại khoảng một triệu tàn quân. Chỉ có số ít tướng lĩnh, nhân viên ngụy quyền cao cấp chạy trốn ra nước ngoài, còn số đông ở lại các địa phương. Phần lớn sĩ quan, binh lính, nhân viên chính quyền Sài Gòn nhận thấy không có con đường nào khác là phải đứng về phía cách mạng, nên họ chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thế nhưng không phải tất cả sĩ quan, binh lính và những nhân viên ngụy quân, ngụy quyền cũ đều ủng hộ chính quyền cách mạng. Một số lẩn trốn, nằm im chờ các thế lực thù địch nước ngoài giúp sức để âm mưu phá hoại chính quyền cách mạng. Một số lợi dụng những khó khăn của ta chưa được khắc phục, giải quyết sau chiến tranh để ngấm ngầm tuyên truyền, kích động thù hằn dân tộc, lôi kéo quần chúng nhẹ dạ, tìm cách móc nối dựa vào bọn phản động ở nước ngoài hỗ trợ để tìm cách gây rối ở các vùng mới giải phóng, hòng phá hoại những thành quả mà nhân dân và chính quyền cách mạng vừa giành được, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Chúng tìm mọi cách chống đối cách mạng và chờ cơ hội phục hồi chế độ cũ đã bị quân và dân ta đập tan và xóa bỏ hoàn toàn

Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9-1975) ra Nghị quyết về Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó nêu rõ: “Tiếp tục truy quét tàn quân địch, các lực lượng phản cách mạng hiện hành, sẵn sàng đập tan mọi hành động bạo loạn, phá hoại chống đối của chúng, giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ chính quyền cách mạng”(1).

Chế độ thực dân kiểu mới do đế quốc Mỹ dựng lên ở miền Nam đã bị đánh đổ, nhưng hậu hậu quả của các tệ nạn xã hội như ma túy, lưu manh, trộm cắp…, để lại vẫn rất nặng nề. Nền kinh tế miền Nam được Mỹ viện trợ(2) trong chừng mực đã có bước phát triển nhất định theo hướng tư bản chủ nghĩa, song vẫn mang tính chất của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, phát triển mất cân đối và lệ thuộc nhiều vào sự viện trợ từ bên ngoài. Việc dựa vào khoản viện trợ không hoàn lại hết sức to lớn đã làm cho nền kinh tế miền Nam những năm 1954-1975 lệ thuộc hoàn toàn vào Mỹ.

Nhờ có nguồn nhập khẩu máy móc, nguyên liệu, nhiên liệu, công nghệ của nước ngoài, nền công nghiệp miền Nam có bước phát triển so với trước. Hàng chục xí nghiệp lớn được xây dựng, trong đó tập trung ở Biên Hòa. Tuy nhiên, vốn đầu tư vào công nghiệp không nhiều, lại phân tán, nên giá trị sản phẩm đạt được hàng năm không cao. Nông nghiệp vẫn là nền sản xuất nhỏ, lao động thủ công, năng suất thấp. Nhìn chung, dưới chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ, ở miền Nam đã hình thành một cơ cấu kinh tế bị tư bản nước ngoài khống chế, lũng đoạn. Một số lĩnh vực trong nền kinh tế có phát triển, nhưng không cân đối, không phải dựa vào sức mình, mà dựa vào viện trợ nước ngoài. Có thể nói, kinh tế miền Nam vẫn là kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ, còn công nghiệp giữ vị trí thứ yếu và chỉ phát triển một số ngành không cơ bản, vốn ít và không đồng bộ.

Trong quá trình quân và dân ta lần lượt giải phóng các tỉnh, thành phố ở miền Nam, tiếp quản vùng mới giải phóng là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Từ giữa tháng 3-1957, khi quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi ở một số địa phương, thì tiếp quản vùng mới giải phóng là công việc thường xuyên do từng địa phương tiến hành trên cơ sở vận dụng chính sách Mười điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố năm 1973 (trước khi Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết). Đến ngày 1-4-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố chính sách Mười điểm đối với vùng giải phóng miền Nam.

Theo chủ trương của Chính phủ cách mạng lâm thời, tại các vùng mới giải phóng, các ban tiếp quản của các địa phương triển khai tiếp nhận các cơ sở vật chất kỹ thuật (căn cứ quân sự, cơ sở sản xuất, kho tàng…), cơ sở kinh tế, văn hóa của chế độ cũ. Nhờ có ý thức trách nhiệm cao, công tác tiếp quản vùng mới giải phóng từ thành thị đến nông thôn, từ đất liền đến hải đảo đều được tiến hành khẩn trương, chu đáo và kết quả tiếp nhận của 40 tỉnh, thành phố ở miền Nam gần như nguyên vẹn. Chỉ có một số ít cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật bị hư hại, một phần do địch phá hoại trước khi chúng rút chạy, một phần do bom đạn hai bên tàn phá, phần khác do bọn xấu lợi dụng cướp phá lúc chiến tranh sắp kết thúc.

Trong khi tiến hành tiếp quản, tại những vùng mới giải phóng, chính quyền cách mạng và các tổ chức quần chúng được hình thành, ở các thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, chính quyền cách mạng chính thức tuyên bố thành lập ngay sau khi giải phóng hoàn toàn. Đến những ngày đầu tháng 5-1975, hệ thống chính quyền cách mạng được hình thành từ trung ương đến các tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, ấp và nằm quyền kiểm soát toàn bộ chủ quyền lãnh thổ đất liền cũng như vùng biển, hải đảo, thềm lục địa của miền Nam.

Thành phần của chính quyền cách mạng, do cơ quan chính quyền cấp trên chỉ định, hoặc tổ chức Đảng, đoàn thể cùng cấp cử ra. Tại các thành phố lớn, lúc đầu, chính quyền cách mạng duy trì chế độ quân quản, do đại diện quân nhân nắm giữ, thực hiện “quân sự hóa” trong các hoạt động xã hội. Ngày 7-5-1975, Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định, do Thượng tướng Trần Văn Trà làm Chủ tịch và Thiếu tướng Hoàng Cầm làm Phó Chủ tịch ra mắt nhân dân. Tại các tỉnh, thành, ủy ban quân quản các cấp được thành lập làm nhiệm vụ quân quản vùng mới giải phóng. Tại các xã thôn, chính quyền cách mạng được thành lập dưới hình thức các ban tự quản. Những đơn vị làm nhiệm vụ quân quản đã phối hợp với các lực lượng khác, dựa vào nhân dân, nhanh chóng xây dựng chính quyền cách mạng cơ sở, giữ gìn trật tự trị an; xây dựng lực lượng chính trị và quân sự địa phương, tổ chức quản huấn nhân viên, binh lính, cảnh sát của chế độ cũ, trấn áp các phần tử và tổ chức phản động; thu hồi, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự của địch; rà phá bom mìn, phục hồi sản xuất, góp phần ổn định đời sống nhân dân.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.400.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:43:03 am
Sau một thời gian hoạt động, tình hình chính trị, an ninh, trật tự an toàn xã hội tương đối ổn định, đời sống của nhân dân trở lại bình thường, các ủy ban quân quản và ủy ban tự quản được thay thế bằng các ủy ban nhân dân cách mạng. Ngày 21-1-1976, Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định kết thúc nhiệm vụ bàn giao việc quản lý thành phố cho Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố, do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Chủ tịch. Tiếp đó, đến tháng 2-1976, ủy ban quân quản các tỉnh, thành miền Nam cũng kết thúc nhiệm vụ. Ủy ban nhân dân các địa phương đảm nhiệm chức năng quản lý điều hành xã hội.

Cùng với chính quyền cách mạng được xây dựng, các đoàn thể quần chúng cũng được thành lập và phát triển ở các vùng giải phóng. Tại những địa phương trước đây đã có các đoàn thể hoạt động bí mật, nay chuyển sang hoạt động công khai, được củng cố, mở rộng về tổ chức và thành phần đội ngũ cán bộ. Ở những nơi chưa có cơ sở cách mạng, sau ngày giải phóng, nhân dân ta nô nức gia nhập các đoàn thể cách mạng, tham gia các hoạt động xây dựng quê hương. Sau khi được thành lập, các đoàn thể quần chúng tự nguyên gia nhập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và nhanh chóng mở rộng, phát triển tới các cấp, các ngành trên toàn miền Nam.

Thực hiện chủ trương, chính sách của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền cách mạng các cấp và đoàn thể quần chúng đã đề ra nhiều biện pháp để nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, giữ vững và phát huy những thành tựu cách mạng vừa giành được; đồng thời tuyên truyền, giác ngộ những người từng làm việc dưới chế độ Mỹ - ngụy, ủng hộ chính quyền cách mạng, tham gia xây dựng cuộc sống mới. Vì quyền lợi dân tộc, ngay từ tháng 5-1975, chính quyền cách mạng các cấp đã kêu gọi tất cả những người làm việc trong bộ máy ngụy quân, ngụy quyền không phân biệt đối xử khi ra trình diện, hoặc đăng ký trình diện sẽ được tạo mọi điều kiện để họ tự giác thực hiện xây dựng lại cuộc sống. Đại bộ phận những người tham gia trong bộ máy ngụy quyền đã ra trình diện, trong số đó, phần lớn được bố trí trở lại làm việc theo ngành nghề, nghiệp vụ trước đây. Chỉ có một bộ phận nhỏ cố tình lẩn trốn, tìm cách chống lại nhân dân. Chính quyền cách mạng kiên trì thuyết phục họ, mặt khác kiên quyết truy tìm, trừng trị những kẻ ngoan cố lẩn trốn, chống phá cách mạng.

Ngày 28-1-1976, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố chính sách khoan hồng, độ lượng đối với những binh sĩ ngụy quân, nhân viên ngụy quyền và đảng viên các đảng phái phản động đã đăng ký trình diện và học tập cải tạo tốt. Tiếp đó, ngày 25-5-1976, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam công bố toàn bộ chính sách đối với những người làm việc trong chính quyền, các đảng phái, quân đội và tổ chức chính trị chế độ cũ. Nội dung chính sách khẳng định những điều đã công bố trước đây; đồng thời bổ sung thêm những điều quy định mới về việc khôi phục quyền công dân đối với những người không phải diện ác ôn nguy hiểm đã học tập, cải tạo, hoặc hưởng chế độ quản thúc được cơ quan hoặc gia đình bảo lãnh. Những thành quả bước đầu này đã giúp cho nhiều sĩ quan và binh lính ngụy quân và gia đình thân nhân của họ tin tưởng vào cách mạng, góp phần giảm bớt khó khăn, phức tạp và tăng thêm uy tín của Đảng, Nhà nước ở các vùng mới giải phóng miền Nam.

Đối với những trường hợp xử lý theo pháp luật, họ phải cải tạo tập trung trong 3 năm. Dưới sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân, chính quyền cách mạng các cấp đã tiến hành các biện pháp kiên quyết, hiệu quả, truy quét, trấn áp bọn phản cách mạng, đập tan âm mưu gây bạo loạn của chúng; đồng thời thực hiện chính sách cải tạo đối với tư sản mại bản đầu cơ tích trữ, lũng đoạn thị trường. Nhờ vậy, tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các vùng mới giải phóng được giữ vững, mọi sinh hoạt của nhân dân nhanh chóng được ổn định.

Trong những năm chiến tranh, hàng triệu nhân dân đã bị địch dồn vào các “ấp chiến lược”, hoặc phải chạy trốn vào các thành phố không có việc làm, hàng chục vạn đồng bào bị địch cưỡng ép từ vùng này sang vùng khác. Sau ngày miền Nam được giải phóng, số dân trước đây bị địch dồn ép buộc phải rời bỏ làng xã, quê hương về Sài Gòn và các thành phố phía Nam rất đông. Họ lâm vào cảnh sống tha phương cơ cực. Trước cảnh sống bơ vơ, khổ cực của đồng bào từ các vùng di tản đến chống thành thị phồn hoa, không nhà, sống cảnh “màn trời, chiếu đất”, chính quyền cách mạng đã huy động các phương tiện vận tải đưa nhân dân trở về quê hương, tạo mọi điều kiện cho dân nhanh chóng ổn định nơi ở để họ tham gia sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Đến tháng 7-1976, Ủy ban nhân dân cách mạng thành phố Sài Gòn đã giúp đỡ khoảng 50 vạn dân trở về quê cũ. Tại các vùng mới giải phóng, hàng chục vạn người bị thất nghiệp cùng hàng vạn nạn nhân của lối sống văn hóa dưới chế độ cũ được phục hồi nhân phẩm, giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống.

Nhằm từng bước giải quyết những người chưa có việc làm, chính quyền cách mạng tổ chức nhân dân, chủ yếu là ở thành thị, chuyển đến những vùng đất mới xây dựng kinh tế. Ủy ban nhân dân thành phố Sài Gòn đã xây dựng kế hoạch đưa hơn một triệu người không trực tiếp lao động sản xuất đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Đến tháng 6-1976, Sài Gòn đã tổ chức gần 30 vạn dân đến các vùng kinh tế, ổn định nơi ở, lập 94 xã, trong đó có 82 xã ổn định về canh tác và thổ cư(1). Đảng và Nhà nước ta còn chủ trương đưa cả một bộ phận dân cư miền Bắc vào khai phá một số vùng đất ở miền Nam chưa được khai phá để canh tác. Đây là chủ trương đúng đắn nhằm phân bố lại lực lượng lao động sản xuất, tạo sự kết hợp giữa lao động và đất đai hợp lý. Sau hơn một năm, chúng ta đã đưa gần 1.300.000 người từ các nơi trong cả nước đến xây dựng các vùng kinh tế mới, khai hoang, phục hóa được gần một triệu hécta đất hoang đưa vào canh tác.

Cùng thời gian này, hàng vạn thanh niên ở nhiều nơi cũng tình nguyện vào các đội thanh niên xung phong làm nòng cốt giúp đỡ nhân dân nhanh chóng ổn định nơi ăn ở, sinh hoạt, góp phần khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả năng nề sau khi chiến tranh kết thúc.


(1) Xem Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 15.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:44:21 am
Một trong những nhiệm vụ quan trong sau ngày miền Nam giải phóng là chính quyền cách mạng đã thực hiện một loạt biện pháp nhằm khuyến khích sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa, ổn định đời sống của nhân dân Toàn bộ tài sản của bọn phản động và tư sản mại bản, bọn cầm đầu các tổ chức ngụy quân, ngụy quyền và những phần tử chạy trốn ra nước ngoài bị tịch thu, thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Ngày 10-9-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt nam ra tuyên bố về một số chính sách khôi phục và phát triển công thương nghiệp, bài trừ hành động lũng đoạn đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường của tư sản mại bản.

Ngày 25-9-1976, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Tuyên bố về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam. Đây là một chính sách lớn của Nhà nước nhằm hướng dẫn và cải tạo kinh tế tư bản tư doanh đi dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội thông qua con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa. Theo chủ trương đó, chính quyền cách mạng tuyên bố quốc hữu hóa ngân hàng, giải thể tất cả các nhân hàng tư nhân, tập trung toàn bộ tín dụng do Nhà nước nắm; xóa bỏ hẳn tiền tệ của chính quyền cũ, thay bằng đồng tiền mới của cách mạng (tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kể từ ngày 22-9-1975) lưu hành trên toàn miền Nam.

Cùng ngày 25-9, Hội đồng Chính phủ ra quyết định về chính sách xóa bỏ triệt để tình trạng chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột thực dân, phong kiến ở miền Nam Việt Nam. Thực hiện chính sách đó, chính quyền cách mạng đã tuyên bố xóa bỏ chế độ bóc lột phong kiến, tiến hành điều chỉnh lại ruộng đất hợp lý trong nông dân, phân chia ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước cho nông dân thiếu ruộng và các tập đoàn sản xuất nông nghiệp mới thành lập. Bước đầu, chính quyền cách mạng nắm giữ, quản lý chặt chẽ vật tư (xăng dầu, sắt thép, phân bón…), giữ độc quyền các hệ thống đường biển, đường bộ, đường sắt và đường không.

Trong khôi phục sản xuất nông nghiệp, hầu hết các vùng nông thôn miền Nam đều dấy lên phong trào quần chúng tháo gỡ bom mìn, tích cực khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi, đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ. Lúc này, nông dân ở các địa phương được tổ chức thành các tổ đổi công, vần công; một số nơi tổ chức được các tập đoàn sản xuất. Phong trào khôi phục sản xuất ở một số vùng mới giải phóng đạt được một số thành tựu đáng kể. Tại thành phố Sài Gòn, trong năm 1976, nhân dân tổ chức được 200 tổ đổi công, vần công, 500 tập đoàn sản xuất, thu hút 9.000 hộ gia đình tham gia với 18.000 lao động chính, 20.000 lao động phụ, khai phá được 10.000 hécta, đưa diện tích gieo trồng tăng 17.000 hécta so với năm 1975. Ở tỉnh Kon Tum, chỉ vài tháng sau khi giải phóng, nhân dân khai hoang, phục được hơn 7.000 hécta, đào đắp gần 300 đập; nạo vét, tu sửa hơn 100 km mương máng. Tại tỉnh Đắc Lắc, nhân dân khôi phục tăng diện tích trồng trọt lên một phần ba lần so với trước năm 1975. Sau hơn hai tháng giải phóng, tỉnh Quảng Đà cũng khai phá được hơn 2.000 hécta, góp phần tăng diện tích sản xuất nông nghiệp. Nhờ đẩy mạnh khai hoang, phục hóa và tăng cường thâm canh sản xuất, sản lượng lương thực miền Nam đã đạt được cao hơn những năm chiến tranh. Thành quả bước đầu sau năm đầu giải phóng, chứng tỏ “từ chỗ miền Nam có năm nhập tới 800.000 tấn lương thực đã có thể vươn lên bảo đảm lương thực, đủ ăn cho số dân đã tăng lên 24 triệu người”(1).

Các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp của Nhà nước và tư nhân được tạo mọi điều kiện thuận lợi về nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, nhanh chóng hoạt động trở lại. Đến năm 1976, tại Sài Gòn có gần 400 xí nghiệp lớn nhỏ trở lại sản xuất bình thường. Các ngành sản xuất khác cũng từng bước hoạt động trở lại.

Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế và xã hội được tập trung khôi phục hoạt động trở lại. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được sử dụng tuyên truyền cổ động kịp thời cho nhiệm vụ xây dựng chính quyền cách mạng, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống. Những tàn dư của văn hóa phản động, đồi trụy bị lên án; các tệ nạn mê tín dị đoan, gái điếm, nghiện ma túy bị nghiêm cấm, bài trừ. Những hoạt động văn hóa lành mạng từng bước được đẩy mạnh, mở rộng.

Ngành giáo dục phổ thông, giáo dục và đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp được chấn chỉnh, tổ chức lại phù hợp và bước vào năm học mới theo chương trình thống nhất. Hệ thống trường tư trước đây bị xóa bỏ, chuyển thành trường công của Nhà nước. Các trường phổ thông cấp 1, 2, 3 trên toàn miền Nam lần lượt mở cửa cho học sinh học tập. Phong trào bình dân học vụ được phát động, các lớp bổ túc văn hóa được mở ở nhiều nơi, góp phần xóa nạn mù chữ. Tính đến tháng 4-1976, riêng thành phố Sài Gòn có hơn 80.000 người tham gia học văn hóa đã thoát nạn mù chữ.

Công tác y tế cộng đồng được chấn chỉnh và đẩy mạnh hoạt động. Nhiều đội y tế lưu động được tổ chức xuống các thôn, xã khám chữa bệnh, tiêm phòng dịch cho nhân dân và phát động dân tổng vệ sinh nơi ở đề phòng dịch bệnh phát sinh. Các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, thể dục thể thao được phát động thu hút đông đảo quần chúng tham gia, góp phần ngăn chặn kịp thời các ổ dịch bệnh, nâng cao sức khỏe cho nhân dân.

Như vậy, từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, trên đất nước ta đã diễn ra một cuộc phấn đấu mới rất khẩn trương của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh và tạo ra những biến đổi cách mạng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc thực hiện kế hoạch nhà nước trong những năm 1975-1976 về khôi phục kinh tế phát triển văn hóa, xã hội sau chiến tranh đã thu được những thành tựu đáng phấn khởi trên hai miền Nam - Bắc, song đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Nhiệm vụ khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại còn phải thực hiện nhiều năm. Thế nhưng, kết quả bước đầu này đã góp phần quan trọng sớm ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội miền Nam, tạo niềm tiên cho nhân dân vùng mới giải phóng, cũng như toàn miền nam và cả nước đối với chính quyền cách mạng; đồng thời là cơ sở quan trọng để sớm hoàn thành thống nhất đất nước về mọi mặt.


(1) Tạp chí Quân đội nhân dân (nay là Tạp chí Quốc phòng toàn dân), số 7-1976, tr. 59.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:48:46 am
*
*   *

Từ buổi đầu dựng nước thời Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ đấu tranh rất oanh liệt để giữ gìn độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Hoàn thành thống nhất đất nước, trước hết là thống nhất về mặt Nhà nước, đã được đặt ra ngay sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nỗ lực phấn đấu để giành cho được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chấm dứt tình trạng chia cắt hai miền Nam - Bắc. Với thắng lợi to lớn “đánh cho Mỹ cút” (29-3-1973), tiến lên “đánh cho ngụy nhào” (30-4-1975), âm mưu và thủ đoạn chia cắt lâu dài đất nước của Mỹ - ngụy đã bị đánh bại hoàn toàn. Thực tế, từ ngày 30-4-1975, Tổ quốc Việt Nam đã được thống nhất về mặt lãnh thổ từ Móng Cái đến Cà Mau.

Song, do đế quốc Mỹ và tay sai cố tình chia cắt lâu dài đất nước ta thành hai miền Nam - Bắc trong hơn 30 năm, nên mỗi miền tồn tại một chế độ xã hội khác nhau. Quốc hội và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là kết quả cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu của nhân dân miền Bắc, còn ở miền Nam, thay thế chế độ Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã bị đánh đổ là những ủy ban cách mạng, sau đó là những ủy ban nhân dân cách mạng lại không do nhân dân miền Nam quyết định thông qua phổ thông đầu phiếu. Chính vì thế, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, một trong những nguyện vọng tha thiết nhất; đồng thời cũng là tình cảm thiêng liêng nhất của nhân dân cả nước là hai miền Nam - Bắc sớm được sum họp trong đại gia đình, có Quốc hội, Nhà nước và Chính phủ đại diện cho quyền lợi của toàn thể dân tộc Việt Nam. Nghĩa là lúc này, nhân dân cả nước mong muốn việc thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ đã được khẳng định cùng với việc đất nước giành được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ phải được khẳng định rõ ràng về mặt pháp lý, được thể chế hóa về mặt chính trị, tức là thống nhất về mặt Nhà nước. Sự thống nhất đất nước Việt Nam không phải thực hiện bằng cách áp đặt, mà theo sự lựa chọn của nhân dân hai miền Nam - Bắc thông qua sử dụng quyền dân chủ, quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh tương lai của dân tộc.

Thể theo nguyện vọng của nhân dân cả nước, đồng thời cũng phù hợp với thực tế lịch sử của dân tộc “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9-1975) đã đề ra nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh trước mắt phải hoàn thành nhiệm vụ thống nhất đất nước. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của đồng bào cả nước, vừa là quy định khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam… Thống nhất đất nước tạo ra sức mạnh mới, những thuận lợi mới để phát triển kinh tế, văn hóa và củng cố quốc phòng. Thống nhất đất nước càng tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Vì vậy, thống nhất càng sớm thì càng phát huy sức mạnh toàn diện của Tổ quốc(1).

 Về nhiệm vụ cụ thể, Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ: “Ngay từ bây giờ, Chính phủ Trung ương và từng ngành ở trung ương phải quản lý công việc của cả nước, tổ chức tốt việc giao lưu kinh tế giữa hai nước… Chuẩn bị kế hoạch hoàn thành thống nhất nước nhà, chuẩn bị tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung của cả nước và Quốc hội đó sẽ cử ra Thành phố trung ương của nước Việt Nam thống nhất”(2). Từ đây, mọi công việc tập trung chuẩn bị hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được khẩn trương triển khai.

Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn độc lập, trên thực tế hai miền Nam - Bắc đã thống nhất và giống nhau về nhiều mặt. Thế nhưng, giữa hai miền vẫn còn những điểm khác nhau cần phải xóa bỏ từng bước trong quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói “thực hiện thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước là khâu then chốt, nó tạo điều kiện để hoàn thành thống nhất nước nhà về các mặt khác một cách thuận lợi. Thực hiện thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước tức là chính thức hóa sự nghiệp thống nhất Tổ quốc”(3). Thực hiện nhiệm vụ thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã bàn bạc và thống nhất với các cơ quan có trách nhiệm ở miền Nam chương trình hành động theo ba điểm:

1- Tổ chức Hội nghị hiệp thương chính trị giữa đại biểu hai miền Nam - Bắc nhằm thống nhất nội dung thống nhất nước nhà, bước đi và biện pháp thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước.

2- Tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam thống nhất trên cả nước cùng một ngày trong thời gian nửa đầu năm 1976.

3- Triệu tập kỳ họp đầu tiên Quốc hội chung để bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và quyết định một số vấn đề quan trọng khác.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.395.
(2), (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.395.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:49:36 am
Thực hiện chương trình nêu trên, ngày 27-10-1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa họp thảo luận và thông qua đề án về thực hiện thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước và cử đoàn đại biểu miền Bắc tham dự Hội nghị hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam.

Trong khi đó, ở miền Nam, trong hai ngày 5 và 6-11-1975, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hội đồng cố vấn của Chính phủ và đại diện các nhân sĩ, trí thức yêu nước, dân chủ họp Hội nghị liên tục (mở rộng) tại thành phố Sài Gòn. Hội nghị tập trung thảo luận dân chủ, thống nhất đất nước, trước hết là về mặt Nhà nước. Hội nghị đề xuất những nguyên tắc, biện pháp tiến hành hiệp thương giữa hai miền Nam - Bắc và cử đoàn đại biểu miền Nam tham dự Hội nghị hiệp thương với đoàn đại biểu miền Bắc.

Thực hiện chủ trương thống nhất đất nước, từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước giữa hai đoàn đại biểu đại diện cho hai miền Nam - Bắc họp tại thành phố Sài Gòn. Đoàn đại biểu miền Bắc gồm 25 người, do đồng chí Trường chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, làm Trưởng đoàn. Đoàn đại biểu miền Nam gồm 25 đại biểu, do đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Bí thư Đảng bộ miền Nam, đại diện Đảng trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, làm Trưởng đoàn. Hội nghị thảo luận một cách dân chủ, sôi nổi, thẳng thắn, đi đến thống nhất hoàn toàn với tất cả các vấn đề về chủ trương, bước đi và biện pháp thực hiện thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, thể hiện ý chí sắt đá và nguyện vọng tha thiết của toàn thể các dân tộc Việt Nam.

Hội nghị khẳng định: “Nước Việt Nam ta, dân tộc Việt Nam ta vốn thống nhất. Từ đời Hùng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh quang vinh, dân tộc Việt Nam ta đã trải qua những thời kỳ đấu tranh oanh liệt để giữ gìn độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc”. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình cách mạng cả nước sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hội nghị nhận định: “Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước cùng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thống nhất trọn vẹn và vững chắc nhất… Trong toàn bộ quá trình hoàn thành thống nhất Tổ quốc, khâu chính là thực hiện sự thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước. Đó là điều kiện cơ bản để đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.

Về biện pháp và thời gian tiến hành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, Hội nghị nhấn mạnh: “Cần tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và chủ nghĩa xã hội, Quốc hội đó sẽ xác định thể chế nhà nước, bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và quy định Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất.

Cuộc Tổng tuyển cử sẽ tiến hành trong nửa đầu năm 1976, theo đúng nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.

Hội nghị hiệp thương chính trị đề ra chủ trương, nghị quyết và được nhất trí thông qua, là thắng lợi lớn trên con đường tiến lên hoàn thành thống nhất đất nước. Hội nghị biểu thị sự nhất trí cao về chủ trương, phương hướng và đề ra những biện pháp cụ thể sớm thống nhất đất nước, nhằm phát huy sức mạnh của cả dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước nhanh chóng được hai miền Nam - Bắc triển khai thực hiện. Từ ngày 20 đến 22-2-1975, tại Sài Gòn, Hội nghị đại biển nhân dân miền Nam được triệu tập để nghe báo cáo và phê chuẩn kết quả Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc. Tiếp đó, từ ngày 22 đến ngày 27-12, kỳ họp thứ hai (Quốc hội khóa V) đã phê chuẩn kết quả của Hội nghị hiệp thương thống nhất Tổ quốc.

Tại kỳ họp này, Quốc hội ra nghị quyết về bãi bỏ cấp khu trong hệ thống các đơn vị hành chính của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bãi bỏ những quy định trong Hiến pháp về cấp khu tự trị và quyết định hợp nhất các tỉnh: Cao Bằng và Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng, Tuyên Quang và Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên, Hà Tây và Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình, Nam Hà và Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh, Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh, ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ (trừ huyện Bắc Yên và huyện Phù Yên) thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, sáp nhập hai huyện Bắc Yên và Phù Yên (tỉnh Nghĩa Lộ cũ) vào tỉnh Sơn La.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:50:58 am
Đối với miền Nam, tháng 2-1976, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất các tỉnh ở miền Nam. Theo nghị định này, ở miền Nam có thành phố Sài Gòn và 20 tỉnh gồm: Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, thành phố Huế), Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng), Nghĩa Bình (Quảng Ngãi, Bình Định), Phú Khánh (Phú Yên, Khánh Hòa), Gia Lai - Kon Tum (Gia Lai, Kon Tum), Đắk Lắk (Đắk Lắk, Quảng Đức), Thuận Hải (Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy), Lâm Đồng (Tuyên Đức, Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt), Đồng Nai (Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa), Sông Bé (Thủ Dầu Một, Bình Phước), Long An (Long An, Kiến Tường), Tiền Giang (Mỹ Tho, Gò Công, thành phố Mỹ Tho), Cửu Long (Vĩnh Long, Trà Vinh), Hậu Giang (Cần Thơ, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ), An Giang (gồm một số huyện của tỉnh Long Châu Hà, hai huyện của tỉnh Long Châu Tiền, một huyện của tỉnh Sa Đéc và toàn bộ tỉnh An Giang cũ), Minh Hải (Cà Mau, Bạc Liêu), Tây Ninh, Bến Tre, Kiên Giang, Đồng Tháp.

Thực hiện nghị quyết của Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước, từ cuối năm 1975 và những tháng đầu năm 1976, Đảng và Nhà nước ta đã khẩn trương đẩy mạnh các hoạt động cần thiết để sớm hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tiến hành cuộc Tổng tuyển cử được triển khai sâu rộng trên phạm vi cả nước. Tất cả các đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được huy động phục vụ cuộc Tổng tuyển cử và coi đây là công tác trọng tâm của mình. Các cấp, các địa phương trong cả nước, đặc biệt là ở miền Nam, lần đầu tiên sau 30 năm nhân dân được hưởng chế độ bầu cử mới đã tổ chức các lớp tập huấn về công tác bầu cử dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của Ủy ban bầu cử Quốc hội toàn quốc.

Ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trong cả nước. Đây là lần thứ hai cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức trong cả nước (sau lần đầu tổ chức ngày 6-1-1946). Đây thật sự là biểu thị hùng hồn về ý chí của toàn dân tộc đối với việc xây dựng một nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Hơn 23 triệu cử tri, chiếm 98,8% tổng số cử tri cả nước đã đi bầu và bầu 492 đại biểu. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử ngày 25-4-1976 thể hiện ý chí của toàn dân đối với việc xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Trước mắt là đẩy mạnh hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, với 492 đại biểu, được gọi là Quốc hội khóa VI với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của Quốc hội Việt Nam dân chủ cộng hòa từ khóa I đến khóa V, kể từ Cách mạng tháng Tám 1945, họp kỳ thứ nhất ở Hà Nội. Đây là kỳ họp Quốc hội bàn về thống nhất đất nước Việt Nam về mặt Nhà nước.

Tại kỳ họp này, Quốc hội thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất, về nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Quốc hội nêu rõ: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1).

Quốc hội long trọng tuyên bố thống nhất nước nhà và quyết định đặt tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất, thành phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.

Quốc hội bầu các cơ quan cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, trong đó Chủ tịch nước là Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội là Trường Chinh, Thủ tướng Chính phủ là Phạm Văn Đồng. ở các địa phương trong cả nước, Quốc hội quyết định tổ chức ba cấp chính quyền: cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, cấp huyện và tương đương, cấp xã và tương đương. Ở ba cấp chính quyền này có hội đồng nhân dân được bầu theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín và ban chấp hành của Hội đồng nhân dân tức ủy ban nhân dân.

Quốc hội còn bầu Ủy ban dự thảo Hiến pháp và quyết định trong khi chưa có Hiến pháp mới thì nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa(2). Kỳ họp thứ nhất (Quốc hội khóa VI) thành công, công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước Việt Nam đã hoàn thành. Đây là cơ sở quan trọng tạo tiền đề để tiếp tục thống nhất đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, gắn liền với việc thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn quốc.


(1) Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay, Sđd, tr.22.
(2) Ngày 18-12-1980, Quốc hội chính thức thông qua Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:55:20 am
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan của sự phát triển đất nước ta, thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất của nhân dân cả nước, đồng thời tạo điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, góp phần vào sự ổn định, phát triển của khu vực và trên thế giới.

Việc Quốc hội tuyên bố thống nhất nước nhà và quyết định đặt tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đánh dấu bước phát triển mới của dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam đã thống nhất nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam châu Á, phía đông và phía nam giáp biển Đông, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, phía tây nam giáp Campuchia. Lãnh thổ nước Việt Nam thống nhất bao gồm vùng đất liền rộng lớn và vùng biển rộng bao la. Diện tích đất liền rộng hơn 331 nghìn kilômét vuông, trải dài hơn 15 vĩ tuyến từ Lũng Cũ (Hà Giang) đến mũi Cà Mau (Hà Tiên), với các vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long màu mỡ, hơn 16 triệu hécta rừng và đất rừng, gần 3.000 hòn đảo, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; các đảo Bạch Long Vĩ, Thổ Chu, Côn Sơn, Nam Du, Cù Lao Thu, Phú Quốc… tạo thành bức tường lũy thiên nhiên thuận lợi bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo của Tổ quốc. Đất nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, đa dạng phân bố ở các miền Bắc, Trung, Nam có thể hỗ trợ cho nhau phát triển các ngành kinh tế quốc dân. Đáng quý hơn cả là nguồn nhân lực, đến giữa năm 1976, dân số Việt Nam là 52 triệu người, từng dũng cảm chiến đấu đánh bại quân xâm lược, tiếp tục phát huy truyền thống cần cù, sáng tạo, hăng say lao động, sản xuất, xây dựng đất nước thống nhất trong hòa bình.

Về mặt hành chính, đất nước thống nhất, cả nước chia thành 35 tỉnh gồm: Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Cao Lạng (Cao Bằng, Lạng Sơn), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu (Điện Biên, Lai Châu), Bắc Thái (Bắc Kạn, Thái Nguyên), Sơn La, Quảng Ninh, Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Hà Bắc (Bắc Giang, Bắc Ninh), Hà Sơn Bình (Hà Tây, Hòa Bình), Hải Hưng (Hải Dương, Hưng Yên), Thái Bình, Hà Nam Ninh (Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định), Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh), Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế), Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng), Phú Khánh (Phú Yên, Khánh Hòa), Nghĩa Bình (Quảng Ngãi, Bình Định), Gia Lai - Kon Tum (Gia Lai, Kon Tum), Đắk Lắk (Đắk Lắk, Đắk Nông), Thuận Hải (Ninh Thuận, Bình Thuận), Lâm Đồng, Đồng Nai, Sông Bé (Bình Dương, Bình Phước), Long An, Tiền Giang, Cửu Long (Vĩnh Long, Trà Vinh), Hậu Giang (Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ), Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải (Cà Mau, Bạc Liêu), Tây Ninh, Bến Tre và ba thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh. Việc thống nhất địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trong cả nước (gồm 35 tỉnh, 3 thành phố trực thuộc trung ương), đặc biệt là thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện để tiếp tục hoàn thành thống nhất cả nước về mọi mặt.

Nước Việt Nam độc lập, thống nhất là điều kiện tiên quyết để đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước sẽ đảm bảo cho độc lập và thống nhất của nước Việt Nam ngày càng bền vững. Ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã nêu rõ: toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải thực hiện “một nhiệm vụ chiến lược là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1).

Trong những năm đầu thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi Đảng ta phải xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa khoa học, phù hợp với tình hình đất nước để lãnh đạo quân và dân cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong những tháng cuối năm 1976, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tập trung đẩy mạnh hoạt động có ý nghĩa chính trị to lớn, sâu rộng. Đó là đại hội Đảng các cấp, tạo nên khí thế mới, quyết tâm mới góp phần vào thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.

Từ ngày 14 đến ngày 20-2-1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Đây là đại hội đánh dấu bước ngoặt lịch sử của Đảng và sự nghiệp cách mạng Việt Nam: Đại hội toàn thắng của công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc; Đại hội đưa cả nước tiến vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhiều vấn đề trọng đại của cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quyết, trong đó có những nội dung hết sức mới mẻ, đòi hỏi Đảng ta phải nghiên cứu, tiếp tục hoàn chỉnh về mặt lý luận để vận dụng phù hợp với điều kiện đất nước độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội khẳng định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới là thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd. t.36, tr.394.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 07:58:59 am
Đại hội nêu rõ tính tất yếu và tầm quan trọng của việc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Ngày nay, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một”, bởi vì “chỉ có chủ nghĩa xã hội mới ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời no cơm, ấm áo, ngày mai được bảo đảm, một cuộc đời văn minh, hạnh phúc… Có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh; do đó bảo đảm cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập, tự do và ngày càng phát triển phồn vinh”(1).

Trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong 21 năm (1954-1975), nhất là xuất phát từ đặc điểm tình hình đất nước và trên thế giới trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội phân tích, nêu rõ trong những năm đầu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thống nhất có ba đặc điểm: Một là, đất nước ta vẫn trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Hai là, nhân dân ta có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Ba là, cuộc đấu tranh trên thế giới giữa một bên là chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình với một bên là chủ nghĩa đế quốc vá các thế lực phản động, hiếu chiến diễn ra quyết liệt và phức tạp.

Căn cứ vào ba đặc điểm trên đây, Đại hội đề ra đường lối chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: ”Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội”(2).

Đối với nhiệm vụ quốc phòng, Đại hội xác định: “Để bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của Tổ quốc trong giai đoạn mới của cách mạng, chúng ta phải tích cực xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng dự bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết; có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương; có lực lượng dân quân hùng hậu”3.

Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư. Về tổ chức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội lần thứ IV của Đảng thông qua, quy định. Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc từ cơ sở trở lên, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hoạt động theo Điều lệ Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV của Đảng là cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam, là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Từ đây, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Những thành tựu đạt được trong 2 năm 1975-1976, trong đó nổi bật là thống nhất đất nước về mặt nhà nước, cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, tạo cơ sở tiếp tục thống nhất về chính trị, tư tưởng, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước. Phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những khó khăn khách quan và chủ quan, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức đẩy mạnh xây dựng về mọi mặt, góp phần xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd. t.37, tr.501.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd. t.36, tr.523-524.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:00:58 am
2. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân những năm đầu đất nước thống nhất

Đất nước thống nhất tạo ra sức mạnh mới, những thuận lợi mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào khôi phục, xây dựng về mọi mặt, trong đó có điều kiện tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng tình hình mới. Song, công cuộc xây dựng đất nước nói chung, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp.

Sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ thực hiện điều chỉnh một bước về chiến lược quân sự toàn cầu “Ngăn đe thực tế”. Với “Kế hoạch tiến công hạt nhân” (ký hiệp SIOP-5) và “Phương án chuẩn bị lực lượng một cuộc chiến tranh mới” (1-1976), Mỹ chủ trương chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân, chủ yếu chống Liên Xô, cùng đồng minh chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh thông thường lớn (phi hạt nhân) trên một trong hai chiến trường lớn (Trung Âu hoặc Đông Bắc Á); đồng thời sẵn sàng lực lượng tiến hành chiến tranh quy mô nhỏ ở những điểm nóng đột xuất; tiếp tục duy trì 49 vạn quân (trong tổng số hơn 2 triệu quân thường trực của nước Mỹ) đóng tại các căn cứ nước ngoài, đổi mới vũ khí tiến công chiến lược, củng cố các khối liên minh quân sự trên toàn cầu.

Ở Đông Nam Á, lực lượng quân sự Mỹ đã buộc phải rút khỏi nhiều vị trí quan trọng, vai trò và ảnh hưởng của Mỹ suy giảm. Không đặt Đông Nam Á quan trọng trong chiến lược toàn cầu, nhưng Mỹ toan tính khôi phục lại vị trí vai trò và uy tín ở khu vực này. Các liên minh “tay đôi”, “tay ba” do Mỹ dựng lên, lôi kéo các thế lực phản động, các nước đồng minh thân Mỹ vào cuộc tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Mỹ lợi dụng sự bất đồng giữa một số nước xã hội chủ nghĩa và mâu thuẫn giữa hai nước Liên Xô - Trung Quốc để ngăn chặn và đẩy lùi ảnh hưởng của “làn sóng cộng sản” trong khu vực. Mặt khác, Mỹ thực hiện ý đồ áp đặt cho Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)(1) đóng vai trò đồng minh chính trị, quân sự thay thế khối SEATO chống lại các nước Đông Dương.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước năm 1975 của nhân dân các nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã tạo nên một cục diện mới trên bán đảo Đông Dương, cả ba nước hoàn toàn độc lập, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân mỗi nước tiếp tục tiến lên. Riêng với Campuchia, thành quả cách mạng vừa giành được (4-1975) bị tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary nắm giữ. Chúng đã biến mình thành công cụ của các thế lực phản động quốc tế đưa dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt chủng và thi hành chính sách đối ngoại thù địch với nước láng giềng Việt Nam.

Nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp. Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, vẫn câu kết chặt chẽ với các thế lực phản động quốc tế thực hiện chính sách thù địch, cấm vận, bao vây kinh tế, hòng kìm hãm sự phát triển mọi mặt, làm suy yếu và giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam và chỉ rõ muốn xây dựng đất nước có tiềm lực quân sự - quốc phòng mạnh, trước hết phải có nền kinh tế mạnh; cần phải kiên quyết khắc phục sự chậm trễ do 30 năm chiến tranh tàn phá, kìm hãm nhịp độ phát triển kinh tế của đất nước; tập trung lãnh đạo, huy động sức người, sức của của toàn dân xây dựng kinh tế; giảm quân số lực lượng vũ trang, giảm ngân sách quốc phòng, điều động một bộ phận quân đội tham gia xây dựng kinh tế đất nước; đồng thời huy động quân và dân cả nước chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu, đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu cùng với Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Kỹ thuật tập trung nghiên cứu quán triệt những quan điểm tư tưởng và định hướng lớn về cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, đề xuất những vấn đề về quân sự - quốc phòng, trước mắt tập trung xây dựng kế hoạch phòng thủ đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân và huy động quân đội tham gia xây dựng kinh tế đất nước, góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh.

Ngày 21-7-1975, Quân ủy Trung ương xác định: “Đi đôi với nhiệm vụ cách mạng mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta còn có nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(2)]


(1) Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) thành lập ngày 8-8-1967 tại Thái Lan, gồm 5 nước (Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Xingapo và Thái Lan). Đến nay, Hiệp hội gồm 10 nước ở vùng Đông Nam Á (thêm các nước Brunây, Việt Nam, Lào, Mianma, Campuchia). Trụ sở tại Giacácta (Inđônêxia).
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.485.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:03:39 am
Để đáp ứng với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ an ninh đất nước trong giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa III (9-19750, nêu rõ: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất, luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm phạm lãnh thổ của nước ta”(1).

Về nhiệm vụ xây dựng nề quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Hội nghị khẳng định: “Trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước về mọi mặt, ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng các khu vực chiến lược quan trọng, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho đất nước có lực lượng ngày càng mạnh, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc tiến công của bọn xâm lược. Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng hùng hậu, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị to lớn được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, có lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp và vững chắc. Xây dựng lực lượng công an nhân dân vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học, kỹ thuật khá, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, có lực lượng chuyên trách chính quy và cơ sở quần chúng vững mạnh”(2).

Quán triệt Nghị quyết lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, ngày 3-10-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ quân sự trong giai đoạn mới”, nêu rõ: Vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện đại, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không chỉ là vấn đề đơn thuần quân sự mà còn là vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật. Nó đòi hỏi sự cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, tổ chức nghiên cứu phương hướng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, củng cố thế chiến lược phòng thủ đất nước; đồng thời khẩn trương kiện toàn tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, điều chỉnh quân số phù hợp với chức năng nhiệm vụ thời bình, đẩy mạnh xây dựng chính quy, hiện đại trên phạm vi cả nước.

Trải qua 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta đã xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân và một lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh đủ sức đánh bại hai đội quân viễn chinh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng đội quân tay sai của chúng.

Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trong cuộc chiến tranh lâu dài biểu hiện tập trung ở tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội rất cao trong nhân dân lao động cả nước. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi đường phố là một trận địa, mỗi thôn xóm là một pháo đài. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, toàn bộ nền quốc phòng miền Bắc chuyển vào trạng thái chiến tranh với khẩu hiệu: ”Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng thời hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia.

Tuy nhiên, nền quốc phòng của đất nước ta có những nhược điểm rất lớn, chủ yếu do tình trạng chậm phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân ta tiến hành chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần tự lực rất cao, nhưng chủ yếu là về sức người, còn hơn 95% vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật phải dựa vào sự chi viện to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh kết thúc, Tổ quốc độc lập và thống nhất, nền quốc phòng toàn dân bắt đầu bộc lộ sự mất cân đối giữa hai miền đất nước.

Ở miền Bắc, các hệ thống đường giao thông, sân bay, hải cảng, kho, xưởng, thông tin đã có bước phát triển rất quan trọng trong chiến tranh, nhưng về lâu dài vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ tác chiến hiện đại, vũ khí công nghệ cao. ở miền Nam, hệ thống công trình quân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự thu được của Mỹ - ngụy tuy khá hiện đại, nhưng tập trung phần lớn dọc ven biển, thiếu chiều sâu, chưa đáp ứng được yêu cầu phòng thủ đất nước trong tình hình mới.

Lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân, đóng vai trò trụ cột của nền quốc phòng toàn dân trong hoàn cảnh vừa chiến đấu, vừa xây dựng, đã tiến bộ nhanh chóng về mọi mặt. Quân đội nhân dân phát triển nhanh với tổng quân số khá lớn, tập trung thành nhiều quân đoàn, sư đoàn, trung đoàn, có đủ các quân chủng, binh chủng được trang bị hiện đại và tương đối hiện đại. Lực lượng dự bị và lực lượng vũ trang quần chúng (du kích, dân quân, tự vệ) rất hùng hậu (2 triệu ở miền Bắc và hơn 10 vạn ở miền Nam). Đội ngũ cán bộ được tôi luyện, có nhiều kinh nghiệm, trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn. Khối lượng binh khí kỹ thuật thu được của địch tạo điều kiện để phát triển các thành phần binh chủng của lực lượng vũ trang lớn một bước. Mặt khác, do điều kiện chiến tranh kéo dài, một số chế độ quy định chưa được thực hiện thống nhất trong toàn quân, thể hiện trình độ chính quy của quân đội nhân dân còn có điểm hạn chế.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd. t.36, tr.400, 400-401.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:04:46 am
Mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có những điểm khác biệt so với thời kỳ cách mạng và chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc trước đây. Tiến hành sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân lúc này là bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc đã giành được, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, phòng ngừa, ngăn chặn mọi hành động xâm lược từ bên ngoài.

Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, là nhân tố hàng đầu trong suốt tiến trình của cách mạng, nhằm phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa vừa là mục đích, vừa là động lực của chuyên chính vô sản, của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng, tính tổ chức và sáng tạo của toàn dân, tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn cách mạng mới, làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa trở thành yêu cầu tất yếu của nhiệm vụ xây dựng đất nước, đồng thời nó cũng dặt ra một cách khách quan nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với xây dựng đất nước. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên lĩnh vực quân sự - quốc phòng, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang, quân đội nhân dân, chính là sự kế thừa, phát triển lên một trình độ mới truyền thống giữ nước độc đáo của dân tộc, toàn dân đánh giặc, “tận dân vi binh”(1), xây dựng thế trận làng nước để thực hiện cả nước đánh giặc,đồng thời đó cũng chính là sự phát triển những quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nội dung cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nhiệm vụ trước mắt là tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu của nhiệm vụ quân sự - quốc phòng cần kíp đã đề ra, trong đó trọng tâm là triển khai đồng bộ các mặt điều chỉnh, xây dựng thế bố trí chiến lược phòng thủ đất nước, kiện toàn cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân dân theo hướng tiến lên chính quy, hiện đại, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, đóng vai trò nòng cốt trong nền quốc phòng toàn dân; đồng thời triển khai một bộ phận lực lượng quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương phân tích, đánh giá và chỉ rõ một trong những đặc điểm của nền quốc phòng toàn dân sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tổ quốc độc lập và thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự mất cân đối giữa hai miền đất nước. Vì thế, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã sớm đề ra những chủ trương khắc phục tình trạng này của nền quốc phòng toàn dân từ những tháng cuối năm 1975.

Để thống nhất quản lý, điều hành đất nước và thực hiện hiệu quả kế hoạch nhà nước trong 5 năm đầu đất nước thống nhất, đồng thời để tiến hành triển khai thế chiến lược phòng thủ đất nước, tháng 10-1975, Bộ Chính trị quyết định bỏ cấp khu và điều chỉnh quy hoạch lại địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trên phạm vi toàn quốc gồm 35 tỉnh, 3 thành phố. Trên cơ sở đó, tháng 11-1975, Bộ Chính trị quyết định điều chỉnh tổ chức các quân khu trong cả nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy thống nhất nhiệm vụ phòng thủ đất nước trên các hướng chiến lược.

Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo Bộ Quốc phòng tổ chức các cơ quan chức năng do Bộ Tổng tham mưu chủ trì hiệp đồng nghiên cứu và triển khai điều chỉnh, sắp xếp, tổ chức lại các quân khu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước theo địa giới hành chính mới của các tỉnh, thành phố, bảo đảm yêu cầu phòng thủ cả đất nước, nhất là các hướng chiến lược trọng điểm (biên giới, biển đảo); đồng thời bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân kết hợp triển khai thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tham gia xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng đất nước trên quy mô toàn quốc cũng như trên mỗi khu vực, hay vùng lãnh thổ, địa phương của cả nước.


(1) Mọi người dân đều là lính.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:07:27 am
Cho đến cuối năm 1975 và đầu năm 1976, trên cơ sở các quân khu (cũ) cả nước được tổ chức lại thành 6 quân khu (1, 3, 4, 5, 7, 9) và Bộ Tư lệnh Thủ đô theo vùng lãnh thổ, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, quân sự, quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội, từ Bắc vào Nam. Mỗi quân khu là một tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ (thường gồm một số tỉnh, thành phố giáp nhau, có liên quan với nhau về quân sự - quốc phòng) trực thuộc Bộ Quốc phòng, đảm nhiệm phòng thủ trên một hướng chiến lược của đất nước. Bộ tư lệnh quân khu là cơ quan chỉ huy có chức năng cơ bản là chỉ đạo công tác quốc phòng và xây dựng tiềm lực quân sự thời bình; chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang quân khu chiến đấu bảo vệ lãnh thổ của quân khu thời chiến.

Quân khu 1 năm ở phía Bắc miền Bắc Việt Nam (trên cơ sở hợp nhất Quân khu Việt Bắc và Quân khu Tây Bắc cũ) gồm các tỉnh: Cao Lạng (Lạng Sơn, Cao Bằng), Bắc Thái (Bắc Cạn, Thái Nguyên), Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Sơn La, Lai Châu (Điện Biên, Lai Châu).

Quân khu 3 nằm ở đồng bằng Bắc Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn cũ) gồm các tỉnh: Hà Nam Ninh (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình), Hà Sơn Bình (Hà Tây, Hòa Bình)(1), Hải Hưng (Hải Dương, Hưng Yên), Thái Bình và thành phố Hải Phòng.

Quân khu 4 ở Bắc Trung Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu 4, Quân khu Trị Thiên cũ và tỉnh Thanh Hóa thuộc Quân khu 3) gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh), Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế).

Quân khu 5 ở miền Nam Trung Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu 5, Quân khu 6 và Mặt trận Tây Nguyện) gồm các tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng), Nghĩa Bình (Quảng Ngãi, Bình Định), Phú Khánh (Phú Yên, Khánh Hòa), Gia Lai - Kon Tum (Gia Lai, Kon Tum), Đắk Lắk (Đắk Lắk, Đắk Nông), Thuận Hải (Ninh Thuận, Bình Thuận), Lâm Đồng(2).

Quân khu 7 ở miền Đông Nam Bộ (trên cơ sở Quân khu 7 và một số tỉnh Quân khu 8 cũ) gồm các tỉnh: Đồng Nai, Sông Bé (Bình Dương, Bình Phước), Long An, Tây Ninh, Bến Tre và thành phố Sài Gòn - Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh).

Quân khu 9 ở miền Tây Nam Bộ (trên cơ sở Quân khu 9 và một số tỉnh Quân khu 8 giải thể) gồm các tỉnh: Tiền Giang, Cửu Long (Vĩnh Long, Trà Vinh), Hậu Giang (Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ), Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải (Bạc Liêu, Cà Mau).

Bộ Tư lệnh Thủ đô (thành phố Hà Nội) giữ nguyên không thay đổi. Toàn bộ vùng lãnh thổ đất liền cả nước ta được phân chia lại thành 6 quân khu và Bộ Tư lệnh Thủ đô theo địa giới hành chính mới của các tỉnh, thành phố đã khắc phục được một bước tình trạng mất cân đối của nền quốc phòng toàn dân; đồng thời cũng hình thành một thế chiến lược phòng thủ chung trong thế trận đất nước thống nhất, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Đi đôi với việc điều chỉnh tổ chức các quân khu trong cả nước, nhiệm vụ củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được triển khai thực hiện, đáp ứng tình hình mới. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, các lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã thực hiện điều chỉnh về tổ chức biên chế, giảm tổng quân số, bố trí sắp xếp lại lực lượng, giải quyết nhiều vấn đề sau chiến tranh.

Ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định trước mắt: Tập trung chỉ đạo các đơn vị quân đội tham gia quản lý, ổn định các vùng mới giải phóng; kiện toàn một bước các đơn vị chiến đấu và xác định phương hướng xây dựng và nhiệm vụ của lực lượng vũ trang thời gian tới. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (9-1975) nhấn mạnh: “Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng hùng hậu, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị to lớn được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, có lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp và vững chắc”(3).

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trên hai miền Nam - Bắc khẩn trương chuyển từ thời chiến sang thời bình, thực hiện chức năng đội quân công tác trên cả nước, trong đó tập trung vào nhiệm vụ tiếp quản, quản lý ổn định các vùng mới giải phóng ở miền Nam, tiến hành chấn chỉnh kiện toàn tổ chức biên chế lực lượng, tiếp tục xây dựng chính quy, hiện đại, sắp xếp và cơ động lực lượng về các địa bàn chiến lược, đóng quân theo kế hoạch phòng thủ đất nước, đồng thời triển khai kế hoạch sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng triệt để. Bước ngoặt của cách mạng sau đại thắng mùa Xuân 1975 với những biến đổi nhanh chóng sâu sắc trên mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống xã hội, cùng những thuận lợi và khó khăn đã tác động đến tâm lý, nhận thức, hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ, đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân. Những tác động đó cộng với âm mưu chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước ảnh hưởng đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng trong và ngoài lực lượng vũ trang làm nảy sinh tư tưởng lệch lạc, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của quân đội, vi phạm pháp luật nhà nước làm giảm sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang.

Đánh giá thực trạng tình hình đó, Quân ủy Trung ương nhận định: “Một bộ phận cán bộ và chiến sĩ, nhất là các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng ở miền Nam, có sự diễn biến tâm lý, tư tưởng và biểu hiện hành động ngày càng phức tạp, do chịu tác động khách quan của lối sống thực dụng, coi đồng tiền vật chất là trên hết. Nhưng chủ yếu là do sự chủ quan trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các đơn vị toàn quân từ cấp cơ sở đến cấp cao, đã say sưa với thắng lợi quá nhanh, quá lớn và cũng “xả hơi”; không còn tích cực chủ động tiến công sắc bén kịp thời như trong chiến tranh nữa. Do chủ quan lỏng lẻo trong lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục, quản lý bộ đội, nên tuy đã có nghị quyết, chỉ thị đúng nhưng quan liêu hời hợt thiếu đôn đốc khẩn trương nên không nắm được tình hình đầy đủ chính xác, không kịp thời uốn nắn chấn chỉnh”(4).

Những trì trệ trong công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị dẫn tới nhiều tâm tư nguyện vọng đúng đắn của bộ đội chậm được giải quyết, những biểu hiện sai trái không được đấu tranh ngăn chặn kịp thời. Vì thế, ở các đơn vị ngày càng tăng số quân nhân băn khoăn, kém phấn khởi, không yên tâm làm nhiệm vụ… Số quân nhân sa sút phẩm chất cách mạng, tha hóa về đạo đức lối sống, vụ lợi thu vén cá nhân, buôn bán đổi chác, chiếm tài sản chung làm của riêng, giao du vô nguyên rắc, vi phạm kỷ luật và pháp luật, ngày càng nhiều trong đó có cả cán bộ và đảng viên ở các cấp. Những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa đó đã làm phai nhạt tình đồng chí, đồng đội; làm hoen ố bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội, gây ảnh hưởng xấu về chính trị trong quần chúng”(5).


(1) Năm 1999, tỉnh Hà Tây chuyển thuộc Quân khu Thủ đô (năm 2008 đổi thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội).
(2) Năm 1999, hai tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng chuyển về thuộc Quân khu 7.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.401.
(4) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, tr.628-629.
(5) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Sđd, tr.629.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:39:12 am
Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng chủ động đề ra nhiều biện pháp thực hiện công tác tư tưởng trong giai đoạn cách mạng mới, nâng cao quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội, ý thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tăng cường sức mạnh lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành các đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, quán triệt các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, quốc phòng, an ninh được đề ra trong các chỉ thị, nghị quyết, trọng tâm là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (9-1975).

Trong quân đội, ngay sau khi đất nước thống nhất, Tổng cục Chính trị đã điện gửi bí thư đảng ủy, chính ủy và chủ nhiệm chính trị các đơn vị trực thuộc Quân ủy Trung ương, nêu rõ: Cần tiến hành giáo dục chính trị, làm chuyển biến một bước nhận thức cơ bản của bộ đội trước tình hình mới. Nhanh chóng điều chỉnh sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức, cải tiến phương pháp và hình thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới, bảo đảm làm tròn nhiệm vụ được giao.

Tháng 10-1975, Quân ủy Trung ương tổ chức Hội nghị cán bộ cao cấp của toàn quân quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới” đồng thời thống nhất những vấn đề lớn của kế hoạch quân sự 5 năm (1976-1980). Tiếp đó, ngày 24-10-1975, Quân ủy Trung ương chỉ thị tiến hành sinh hoạt chính trị ở tất cả các cấp trong quân đội, học tập quán triệt tình hình nhiệm vụ của các mạng cả nước, nhiệm vụ quân sự trong thời kỳ mới.

Tháng 12-1975, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị Về nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong quân đội, trong đó nhấn mạnh: Cần tăng cường giáo dục và quản lý chặt chẽ hơn nữa việc chấp hành kỷ luật của bộ đội, có biện pháp hiệu quả, phù hợp với từng địa phương, từng đơn vị, từng đối tượng, tránh chủ quan đơn giản trong tổ chức biên chế và giảm quân số.

Đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn quán triệt Nghị quyết lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các nghị quyết của Bộ Chính trị đã góp phần quan trọng tạo sự chuyển biến về nhận thức tư tưởng, ý thức trách nhiệm và hành động trong mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng trên các lĩnh vực, đặc biệt đã làm chuyển biến, thống nhất và đề cao ý thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, quân đội nhân dân trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất.

Đến cuối năm 1975, nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, trong đó có nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu, điều chỉnh một bước về thế chiến lược phòng thủ đất nước, tạo cơ sở quan trọng để tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ trong những năm tiếp theo.

Sang năm 1976, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh hoạt động về mọi mặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân”. Đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh với khí thế mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân một di sản tư tưởng cách mạng to lớn. học tập, vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quân sự của Đảng, kế thừa và phát triển tư tưởng quân sự dân tộc, cùng những tác phẩm lý luận của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dồn sức nghiên cứu, phấn đấu trong bước ngoặt cách mạng chuyển sang giai đoạn mới.

Đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư đã viết tác phẩm chọn lọc Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam(1) phẩm này là cơ sở lý luận quan trọng làm căn cứ cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách cách mạng, để cán bộ, đảng viên, toàn dân và toàn quân học tập, nâng cao nhận thức và quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng, an ninh.


(1) Tác phẩm Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, gồm 4 tập, tập hợp những bài viết trong các giai đoạn của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn. Năm 1976, Nhà xuất bản Sự thật xuất bản tập I và tập II, năm 1980 xuất bản tập III và năm 1984 xuất bản tập IV.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:40:50 am
Ngày 15-1-1976, Quốc hội, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa công bố Lệnh tuyên dương danh hiệu lực lượng vũ trang nhân dân cho 54 đơn vị và 42 cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam lập nhiều thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Tháng 4-1976, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng viết bài: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa(1). Đại tướng tập trung luận giải, làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toan dân trong giai đoạn mới ở nước ta, nhằm góp phân giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn của sự nghiệp củng cố quốc phòng, đồng thời góp phần chuẩn bị bước đầu cho việc giải quyết những nhiệm vụ lâu dài của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đại tướng nêu rõ: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là một nhiệm vụ rất quan trọng trong giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Đó là một vấn đề cơ bản thuộc về đường lối và nhiệm vụ quân sự của Đảng trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước.

Sau khi phân tích sâu sắc các vấn đề về mục đích, bản chất, sức mạnh, ý nghĩa của nền quốc phòng, Đại tướng nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng lực lượng thường trực với xây dựng lực lượng hậu bị, giữa xây dựng lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình với xây dựng lực lượng tiềm tàng về mọi mặt của đất nước, sẵn sàng được động viên trong thời chiến; phải kết hợp chặt chẽ yêu cầu thời bình và yêu cầu thời chiến”. “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là phải xây dựng cả tiềm lực chính trị và tinh thần, tiểm lực kinh tế và khoa học, tiềm lực quân sự, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự… Những tiềm lực đó đều có vai trò hết sức quan trọng, có mối quan hệ mật thiết với nhau và tác động qua lại lẫn nhau”(2).

Tiếp đó, bài nói chuyện của đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 7-1976 tại Hội nghị cán bộ, học tập Nghị quyết bộ Chính trị về những công tác trước mắt ở miền Nam, nêu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới, chỉ rõ: “Tuy đất nước đã hòa bình, nhưng chúng ta phải luôn luôn coi trọng sự nghiệp củng cố quốc phòng, phải duy trì đội quân thường trực mạnh để sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ củng cố quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ trung tâm của cả nước là ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, quân đội ta phải làm hai nhiệm vụ. Một là, xây dựng quân đội chính quy, hiện đại và tiến hành phòng thủ đất nước vững chắc. Hai là, xây dựng kinh tế để góp phần nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước phồn vinh”(3).

Tác phẩm Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cùng nhiều tác phẩm khác của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được cuối năm 1975, trong những tháng đầu năm 1976, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân giữ vai trò lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tiếp tục đẩy mạnh chấn chỉnh lực lượng, kiện toàn tổ chức biên chế, xây dựng chính quy, hiện đại, tăng cường phòng thủ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.

Để thống nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân toàn quốc, tháng 7-1976, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tư lệnh Miền. Cùng thời gian này, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc trở lại với tên gọi Quân đội nhân dân Việt Nam. Lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân thực hiện các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành thống nhất trên toàn quốc.

Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ năm 1976, Quân ủy Trung ương báo cáo Bộ Chính trị “Về tình hình nhiệm vụ quân sự và một số công tác quân sự cần kíp trong giai đoạn mới”, trong đó nêu rõ: “Hiện nay hòa bình đã lập lại trên toàn bộ đất nước, giảm tổng quân số bộ đội thường trực là vấn đề cần thiết nhằm giảm kinh phí quốc phòng, tăng lực lượng sản xuất và kinh tế, cần đưa tổng số quân từ 123 vạn xuống 80 vạn (50 vạn chiến đấu, 10 vạn sản xuất quốc phòng, 20 vạn xây dựng kinh tế)”(4).


(1) “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” in trong sách Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1979, tr.78.
(2) “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” in trong sách Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới, Sđd, tr.78.
(3) Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.523.
(4) Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 204, t.II (1975-2004), tr.18.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:41:37 am
Theo phương hướng đó, Bộ Quốc phòng chỉ đạo thực hiện giảm tổng quân số, kiện toàn quy mô cơ cấu tổ chức quân đội theo nghị quyết của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cho phù hợp với yêu cầu xây dựng trong thời bình, với yêu cầu giảm ngân sách quốc phòng, đáp ứng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng bảo vệ Tổ quốc và các nhiệm vụ khác của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân.

Cơ cấu tổ chức quân đội nhân dân gồm 3 quân chủng: Quân chủng Lục quân, Quân chủng Phòng không - Không quân và Quân chủng Hải quân. Lục quân gồm các binh chủng hợp thành: Bộ binh, Pháo binh, Công binh, Tăng - Thiết giáp, Đặc công, Hóa học, Thông tin liên lạc.

Binh chủng Bộ binh được tổ chức thành 4 binh đoàn chủ lực cơ động (Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4) và các sư đoàn, trung đoàn trực thuộc Bộ và quân khu; các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương tỉnh, thành phố, huyện, quận. Mỗi quân đoàn biên chế thống nhất 3 sư đoàn bộ binh, các lữ đoàn, trung đoàn binh chủng, các đơn vị bảo đảm, phục vụ và cơ quan trực thuộc.

Binh chủng Pháo binh được kiện toàn gồm 4 lữ đoàn pháo binh trực thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh và các đơn vị pháo binh trực thuộc các quân khu, quân đoàn, sư đoàn.

Binh chủng Công binh kiện toàn thống nhất lực lượng thành các lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các quân khu, quân đoàn, quân chủng.

Binh chủng Tăng - Thiết giáp tổ chức lực lượng thành các lữ đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và lực lượng trực thuộc các quân đoàn, quân khu.

Binh chủng Đặc công kiện toàn tổ chức thành các trung đoàn và tiểu đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các quân khu, quân đoàn.

Binh chủng Hóa học tổ chức lực lượng theo quyết định của Bộ Quốc phòng chuyển Cục Hóa học trực thuộc Bộ Tổng tham mưu thành Bộ Tư lệnh Hóa học (6-1976), gồm Viện Hóa học quân sự, Xưởng khí tài hóa học, Kho khí tài hóa học, Trường đào tạo bổ túc sĩ quan, 3 tiểu đoàn hóa học và các phân đội thông tin, vận tải, xây dựng.

Binh chủng Thông tin liên lạc kiện toàn lực lượng thành 3 trung đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các trung đoàn, tiểu đoàn thông tin trực thuộc các quân khu, quân đoàn, quân chủng.

Nhìn chung, khối các binh chủng hợp thành lục quân được tăng cường vũ khí, phương tiện, trang bị kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức cơ động, khả năng chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Quân chủng Phòng không - Không quân, lực lượng nòng cốt trong chiến tranh nhân dân đất đối không, không đối không, bảo vệ chủ quyền vùng trời Tổ quốc, được chấn chỉnh về tổ chức biên chế, bố trí lực lượng hợp lý trên các địa bàn chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Quân chủng Hải quân, lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển, bảo vệ chủ quyền vùng biển và hải đảo của Tổ quốc được tổ chức lực lượng thành 5 bộ tư lệnh vùng hải quân duyên hải, sau đó được điều chỉnh lại thành 4 vùng (mỗi vùng tương đương sư đoàn) và 1 khu duyên hải, 2 hạm đội (tương đương trung đoàn và lữ đoàn), 1 lữ đoàn thủy quân lục chiến (sau đổi thành hải quân đánh bộ), các trung đoàn và tiểu đoàn hỗn hợp phòng thủ đảo, 1 tiểu đoàn máy bay trinh sát và trực thăng, 1 trung đoàn công binh, 1 tiểu đoàn vận tải thủy bộ, các kho, xưởng, bệnh viện.

Vũ khí, trang bị kỹ thuật của Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân được tăng cường một bước so với thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhờ có thêm một phần nguồn tiếp quản của địch ở miền Nam.

Khối các cơ quan, đơn vị đầu mỗi trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật à các ngành, hệ thống học viện, viện, nhà trường quân đội; hệ thống nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất và sửa chữa quốc phòng được điều chỉnh về tổ chức biên chế cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mỗi cơ quan, đơn vị trong tình hình mới.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:42:12 am
Chất lượng chính trị là một trong những yếu tố bảo đảm cho các lực lượng vũ trang xây dựng chính quy, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và tham gia xây dựng kinh tế của đất nước theo yêu cầu mới. Đến năm 1976, toàn Đảng bộ quân đội có hơn 3.650 đảng ủy các cấp, trong đó có đảng ủy cơ quan chiếm 15,3%; tổ chức cơ sở đảng có hơn 24.240 chi bộ, riêng số chi bộ ở đơn vị chiến đấu chiếm 46,3%, đảng viên chiếm tỷ lệ 33% tổng quân số. Toàn quân có 2.400 liên chi đoàn và 23.500 chi đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh (sau đổi là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), tỷ lệ đoàn viên và thanh niên chiếm 75% quân số, là nguồn bổ sung dồi dào vào đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ của Đảng từ cơ sở.

Đội ngũ cán bộ quân đội phát triển lên 194.259 người (chiếm 16,3% tổng quân số), trong đó số còn điều kiện để bồi dưỡng sắp xếp công tác là 52.700 đồng chí. Đây là đội ngũ cán bộ luôn tuyệt đối trung thành với Đảng và nhân dân, có kinh nghiệm trên các lĩnh vực công tác, nhất là kinh nghiệm chiến đấu, là nhân tố quan trọng để xây dựng quân đội về mọi mặt, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Những tháng cuối năm 1976, đội ngũ cán bộ toàn quân, trong đó các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng và cơ quan quân sự địa phương (tỉnh, huyện) được kiện toàn xong. Số cán bộ còn đủ điều kiện phục vụ quân đội được điều chỉnh lại, thay phiên nhau về các học viện, nhà trường trong nước và đi học tập ở nước ngoài. Các học viện, nhà trường quân đội mới thành lập năm 1976 được bố trí khung cán bộ quản lý, giáo viên đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trong thời bình. Đội ngũ cán bộ quân đội được điều chỉnh đã đáp ứng việc xây dựng quân đội từ thời chiến chuyển sang thời bình, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Hệ thống cơ quan chính trị các cấp trong toàn quân được kiện toàn tổ chức biên chế đáp ứng với chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tiếp đó, Tổng cục Chính trị kiện toàn tổ chức biên chế Cục Văn hóa, Phòng Quản lý giáo dục, Tòa soạn Tạp chí Quân đội nhân dân (nay là Tạp chí Quốc phòng toàn dân), Ban Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị, Ban biên soạn giáo khoa chính trị. Đến thời điểm này, toàn quân có 18 cục chính trị, 116 phòng chính trị, 556 ban chính trị, biên chế 12.942 sĩ quan, hạ sĩ quan chiến sĩ, công nhân viên. Được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương phê chuẩn, Tổng cục Chính trị ban hành Quy định nhiệm vụ, chức trách của thủ trưởng chính trị và cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam (gồm 4 tập) thực hiện thống nhất trong toàn quân.

Hưởng ứng phong trào thi đua quyết thắng với khẩu hiệu: “Toàn quân hăng hái thi đua quyết thắng, ra sức xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, xây dựng đất nước, vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân”, do Quân ủy Trung ương phát động, toàn quân tiến hành huấn luyện theo phương châm: Cơ bản, hệ thống, thống nhất, toàn diện nhằm rèn luyện cho bộ đội bản lĩnh chiến đấu vững vàng, sử dụng thành thạo các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại và tương đối hiện đại của ta cũng như mới thu được của địch, đồng thời huấn luyện bảo đảm sẵn sàng chiến đấu thường xuyên đối với các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, nhất là đơn vị ở khu vực trọng điểm. Công tác chuẩn bị huấn luyện được triển khai trong toàn quân.

Cùng thời gian này, Bộ Quốc phòng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh công tác tổng kết kinh nghiệm huấn luyện, chiến đấu trong 30 năm chiến tranh giải phóng chống Pháp và chống Mỹ, sơ kết khóa huấn luyện đầu tiên trong thời bình những tháng cuối năm 1975, đồng thời tập trung biên soạn, chỉnh lý hệ thống tài liệu huấn luyện quân sự thống nhất toàn quân.

Các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, các học viện, nhà trường tiến hành tổng kết ở từng cấp. Tổng cục Chính trị hoàn thành tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chuẩn bị tổng kết công tác quan trọng này trong kháng chiến chống Mỹ. Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị sau khi hoàn thành tập I, triển khai nghiên cứu biên soạn Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam tập II trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Bộ Tổng tham mưu triển khai nhiều đề tài khoa học về các ngành tham mưu tác chiến, huấn luyện, tổ chức lực lượng, cơ yếu, bản đồ quân sự. Tổng cục Hậu cần tổ chức hội nghị hậu cần toàn quân (2-1976), quán triệt chỉ thị của Quân ủy Trung ương về quản lý vật tư, tài sản, chiến lợi phẩm; đánh giá thành tích của ngành trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bàn phương hướng công tác hậu cần 5 năm (1976-1980).

Bộ Quốc phòng chỉ đạo Cục Tài chính tổ chức hội nghị tài chính toàn quân (3-1976) tổng kết kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ và bàn công tác tài chính trong tình hình mới với phương hướng nhiệm vụ của ngành phải bảo đảm tốt nhất cho quân đội thực hiện các nhiệm vụ củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, giải quyết hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng kinh tế. Tổng cục Kỹ thuật lập đề án Khai thác sử dụng trang bị kỹ thuật của quân đội đáp ứng cho những nhu cầu trước mắt và lâu dài của quân đội. Các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, các học viện, viện, nhà trường quân đội tiến hành thực hiện nhiều đề tài khoa học các cấp phục vụ công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng kinh tế.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:44:07 am
Các học viện, nhà trường, quân đội kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, cơ sở vật chất, tiếp nhận học viên, chuẩn bị tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo kế hoạch được giao. Các học viện, nhà tường đang huấn luyện theo kế hoạch trước đây tiếp tục huấn luyện hết chương trình, không tổ chức cho học viên ra trường sớm như dự định trong chiến tranh. Hệ thống nhà trường ngoài quân đội tiếp nhận học viên do quân đội cử đi học.

Tháng 6-1976, tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, Bộ Tổng tham mưu mở lớp tập huấn cho cán bộ cao cấp, trung cấp toàn quân về tổ chức, phương pháp huấn luyện một số vấn đề về điều lệnh, chiến thuật, kỹ thuật, binh chủng, thể dục thể thao.

Đối với các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu tiến hành huấn luyện theo các nội dung quy định của Bộ, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của đơn vị, huấn luyện bổ sung những nội dung kỹ thuật, chiến thuật cá nhân và phân đội nhỏ, đẩy mạnh giáo dục chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, tư thế, lễ tiết, tác phong quân nhân. Các đơn vị chuyên làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế tổ chức huấn luyện theo đặc điểm nhiệm vụ của đơn vị, chú trọng huấn luyện chấp hành điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân đội.

Chiến sĩ mới các đơn vị được huấn luyện theo chỉ thị (11-8-1976) của Bộ Tổng tham mưu. Đây là lần đầu tiên quân đội tuyển quân và huấn luyện một số quân lớn trên phạm vi cả nước và tất cả các đơn vị được huấn luyện theo chương trình thống nhất gồm cả chính trị, quân sự và hậu cần. Cán bộ các cấp chú trọng huấn luyện tại trường kết hợp với huấn luyện tại chức, học tập bồi dưỡng văn hóa đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý, chỉ huy bộ đội.

Mùa huấn luyện quân sự năm 1976 kết thúc. Toàn quân cơ bản hoàn thành chương trình, nội dung huấn luyện do Bộ đề ra. Một trong những kết quả nổi bật của công tác huấn luyện là hiện tượng vi phạm kỷ luật quân đội, nhất là những vi phạm nghiêm trọng đã giảm rõ rệt. Bản lĩnh chính trị, trình độ chính quy, hiện đại, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu được nâng cao, bảo đảm cho quân đội hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, từ tháng 12-1975, Quốc hội và Chủ tịch nước quyết định bãi bỏ Lệnh tổng động viên cục bộ (ban hành ngày 21-4-1965) để thực hiện tuyển quân thời bình; sửa đổi, bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự (ban hành ngày 10-4-1965). Nhà nước quy định quân nhân dự bị loại 1 (18 đến 35 tuổi) và loại 2 (18 đến 25 tuổi). Lực lượng dự bị động viên được đăng ký, quản lý, huấn luyện và tuyển quân thực hiện theo chế độ thời bình thống nhất trên cả nước. Chế độ phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành của quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ phục vụ trong quân đội được thực hiện thống nhất theo luật định hiện hành.

Lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính sự nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học. Dân quân tự vệ vừa sản xuất vừa tham gia công tác quốc phòng, an ninh ở địa phương. Đến cuối năm 1976, hầu hết các phường, khóm ở miền Nam có từ 1 tổ đến 1 tiểu đội du kích, tự vệ. Ở miền Bắc, các huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), Nam Ninh (Nam Định), Tiền Hải (Thái Bình), Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên được chọn làm thí điểm nghiên cứu xây dựng tổ chức lực lượng dân quân, tự vệ phù hợp với quy mô sản xuất công nghiệp và nông nghiệp theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Lực lượng dân quân tự vệ biển được xúc tiến xây dựng ở các địa phương ven biển, trong những ngành và đơn vị hoạt động, sản xuất trên biển.

Trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng kinh tế đất nước trong điều kiện mới, Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một bộ phận lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân tham gia xây dựng kinh tế, góp phần khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, tạo cơ sở để tiếp tục phát triển kinh tế những năm tiếp theo. Lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế đã hình thành từ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau chiến tranh, Bộ Quốc phòng căn cứ vào quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, căn cứ vào kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980) và những đề xuất của các cơ quan chức năng, chủ yếu của Tổng cục Hậu cần để tổ chức và triển khai lực lượng quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Đến cuối năm 1975, Bộ Quốc phòng đã ấn định 250.000 quân là lực lượng chuyên làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế của quân đội. Các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu cũng tham gia lao động sản xuất phù hợp với đặc điểm từng cơ quan, đơn vị.

Ngày 31-3-1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xác định: Đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ đất nước, nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước là một nhiệm vụ chính trị to lớn hiện nay của quân đội ta; đó là nhiệm vụ của toàn quân. “Cùng với việc thực hiện đầy đủ yêu cầu xây dựng quân đội chính quy, hiện đại và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước, phải huy động mọi khả năng về lực lượng, thời gian, vật tư, thiết bị, v.v., của quân đội có thể huy động để làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế”(1). Để phát huy mức cao nhất khả năng lao động sáng tạo của toàn quân trong điều kiện cụ thể hiện nay, “quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế theo các quy mô lớn, vừa và nhỏ, phấn đấu theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp cơ giới, nửa cơ giới với thủ công, phấn đấu theo hướng đẩy mạnh cơ giới hóa; làm ở tất cả các vùng, chú trọng những vùng chiến lược quan trọng có nhiều khó khăn trong việc điều động lực lượng lao động tới; tập trung làm những việc lớn có yêu cầu chuyên môn kỹ thuật để có điều kiện nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế và kỹ thuật của cán bộ, chiến sĩ”(2).


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37, tr.68-69.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:45:35 am
Quân ủy Trung ương xác định: Các cấp Đảng phải tích cực lãnh đạo quân đội tham gia xây dựng kinh tế trên quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; trên cơ sở đó mà xây dựng một nền công nghiệp quốc phòng lớn mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang hiện đại. Đây vừa là một nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu dài của quân đội ta, vừa là một nhiệm vụ thuộc về bản chất của quân đội cách mạng, của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tháng 4-1976, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị cán bộ cao ấp toàn quân nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Bộ chính trị Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Tại hội nghị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nêu rõ vị trí, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, quân đội trong thời kỳ mới: Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, quan trọng bậc nhất. Xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ chiến lược cơ bản, rất quan trọng của quân đội. Đại tướng nhấn mạnh: Cán bộ chủ trì, chỉ huy, lãnh đạo và các cấp phải thông suốt nhiệm vụ cán bộ toàn quân đi đôi với học tập quân sự, nhất thiết phải học tập kinh tế, cán bộ cao cấp mà không hiểu kinh tế thì không bao giờ làm nhiệm vụ của mình tốt được. Nên bản thân quân đội phải mở trường bồi dưỡng, đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và gửi một số sang đào tạo ở các trường của Nhà nước(1).

Thực hiện chủ trương của Đảng, các lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế triển khai xây dựng trên các lĩnh vực, khắp mọi miền và ở hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của đất nước (nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi, xây dựng cầu, đường, xây dựng cơ bản công nghiệp và dân dụng…). Các nhà máy, xí nghiệp quốc phòng do Tổng cục Kỹ thuật quản lý tập trung bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang và dành một phần năng lực để làm một số mặt hàng dân dụng do Nhà nước đặt hàng, góp phần giải quyết khó khăn đời sống của nhân dân và lực lượng vũ trang. Các đơn vị sẵn sàng chiến đấu tận dụng đất đai thuộc diện đơn vị quản lý, đồng thời quan hệ với chính quyền địa phương nơi đóng quân để xin đất tăng gia (trồng trọt, chăn nuôi), tự túc một phần lương thực, thực phẩm cho đơn vị, góp phần cải thiện một bước đời sống của bộ đội.

Ngày 4-3-1976, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 59/CP thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng, có chức năng, nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng lập kế hoạch và chỉ đạo lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế; xây dựng các đơn vị chuyên làm kinh tế; thay mặt Bộ Quốc phòng quan hệ với các cơ quan ngoài quân đội; chấp hành các chế độ kinh doanh hoạch toán kinh tế, các chính sách của Nhà nước và quân đội.

Cơ cấu tổ chức cơ quan Tổng cục Xây dựng kinh tế và các đầu mối trực thuộc Tổng cục được xây dựng trên cơ sở cơ quan và đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh 559, một số đơn vị thuộc Tổng cục Hậu cần và Bộ Tư lệnh Công binh.

Bộ Quốc phòng quy định cấp quân khu được tổ chức cục xây dựng kinh tế; các quân chủng, binh chủng và tỉnh có lực lượng chuyên trách xây dựng kinh tế được tổ chức phòng hoặc ban xây dựng kinh tế.

Lực lượng chuyên trách xây dựng kinh tế của toàn quân đến cuối năm 1976 được tổ chức thành 30 đoàn tương đương sư đoàn và 241 đoàn tương đương trung đoàn trực thuộc các quân khu, Quân chủng Hải quân, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Xây dựng kinh tế.

Các đơn vị xây dựng kinh tế của quân đội khẩn trương và đẩy mạnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng kinh tế do Chính phủ giao trong kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980):

1- Xây dựng các khu kinh tế nông nghiệp với diện tích 40 vạn hécta gồm các khu chuyên canh cây công nghiệp, cây lương thực ở Hà Tiên, Đồng Tháp Mười, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Thuận Hải.

2- Trồng rừng, khai thác gỗ, kinh doanh tổng hợp về lâm nghiệp ở Gia Nghĩa, Koong Hà Nừng, nam Long Đại, tây Nghệ An, sông Đà, khu nguyên liệu giấy Hàm Yên - Bắc Quang, khu lâm nghiệp Hắc Xam ở miền núi Tây Bắc.

3- Làm đường sắt Thống nhất đoạn từ Minh Cầm đến Tiên An thuộc Quảng Bình - Quảng Trị, tiếp tục làm đường ở phía nam Trường Sơn và giúp Lào làm các đường số 7, 8, 9.

4- Xây dựng công trình công nghiệp và dân dụng ở mỏ apatít Lào Cai, khu mỏ Quảng Ninh, thủy điện Hòa Bình, khu nhà ở tại Xuân Mai và Hà Nội.

5- Sản xuất vật liệu xây dựng.

6- Đánh bắt và nuôi trồng hải sản kết hợp với bảo vệ vùng biển, nuôi tôm xuất khẩu ở Năm Căn.

Để duy trì một đội quân thường trực mạnh thời bình, phù hợp với khả năng kinh tế và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, Bộ Quốc phòng chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu và lực lượng dân quân, du kích, tự vệ rộng rãi.


(1) Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.II (1975-2004), tr.40.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:46:59 am
Như vậy, cùng với việc xây dựng về mặt chính trị, việc chấn chỉnh kiện toàn cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, một trong những công tác quân sự sau Đại thắng mùa Xuân 1975, từ thời chiến chuyển sang thời bình đã tạo ra những nhân tố quan trọng để tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Quân và dân cả nước nỗ lực phấn đấu thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng, các chỉ tiêu trong năm đầu (1976) của kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980), tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng(1), kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng ở mỗi địa phương và trên quy mô toàn quốc. Các lực lượng vũ trang, quân đội nhân dân tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ quân sự cần kíp trước mắt do Quân ủy Trung ương đề ra, đẩy mạnh giáo dục, huấn luyện chính trị, quân sự, nâng cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, khẩn trương triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, góp phần tăng cường tiềm lực mọi mặt của đất nước, của chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Trong kế hoạch nhà nước 5 năm 19760-1980 có nhiệm vụ phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhằm xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. Trên cơ sở đó xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang và quân đội nhân dân. Nhiệm vụ hàng đầu trong 5 năm là tập trung cao độ sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về công nghiệp, đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (cả tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp) nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng, cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo tích lũy cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân.

Thực hiện quyết định của Đảng và Nhà nước, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã từng bước được quy hoạch lại đáp ứng cho yêu cầu xây dựng bộ máy nhà nước từ trung ương xuống các địa phương phù hợp với phương hướng xây dựng phát triển cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kinh tế với quốc phòng, với phương châm xây dựng tỉnh, thành phố thành đơn vị chiến lược về kinh tế và quốc phòng, xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp và pháo đài quân sự.

Các cấp, các ngành trung ương và địa phương nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại trên cả nước, trên địa bàn tỉnh và cơ cấu công nghiệp trên địa bàn huyện đã làm biến đổi quan trọng cơ cấu giai cấp trên cả nước cũng như trên mỗi vùng miền, địa phương. Bên cạnh giai cấp nông dân tập thể, giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển. Tỷ lệ thành phần giai cấp công nhân trong cả nước và ở các địa phương tỉnh, thành phố đều tăng cường với sự phát triển của các ngành công nghiệp. Đội ngũ công nhân kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật trung cấp, cán bộ tốt nghiệp đại học tăng nhanh, nhất là ở các trung tâm công nghiệp, các tỉnh và thành phố lớn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,… Sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp, với sự phát triển nhanh của giai cấp công nhân đã tác động lớn đến chất lượng của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đáp ứng cho nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế và củng cố quốc phòng.

Nền kinh tế cả nước và từng địa phương tuy còn rất khó khăn do điểm xuất phát và trình độ phát triển thấp, nhưng bước đầu đã có những cơ sở vật chất nhất định, gồm những cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải xây dựng cơ bản, truyền thanh, y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học. Sự phân bố dân cư, các cơ sở kinh tế ở từng địa phương cũng như trên cả nước cho phép xây dựng hậu phương tại chỗ và hậu phương quốc gia, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, tăng cường tiềm lực mọi mặt của đất nước, của mỗi địa phương, của nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân.

Phương châm xây dựng huyện vững mạnh, thật sự trở thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp; lấy huyện làm địa bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động một cách cụ thể và kết hợp công nghiệp và nông nghiệp, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể, công nhân với nông dân trở thành điều kiện cơ bản để kết họp kinh tế với quốc phòng, xây dựng huyện thành pháo đài quân sự trong nền quốc phòng toàn dân.

Mỗi huyện (quận, thị xã) với trình độ phát triển khác nhau, nhưng đều có những điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng. Với quy hoạch mới, huyện có số dân và diện tích thích hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở cấp huyện chưa nhiều và có nơi còn yếu, nhưng huyện nào cũng có những khả năng về thông tin, y tế, giao thông, sửa chữa trang bị, phương tiện, về lương thực, thực phẩm để tạo ra những điều kiện, khả năng mới để giải quyết những nhiệm vụ kinh tế, xã hội và đáp ứng những nhu cầu của quốc phòng, của lực lượng vũ trang tại chỗ, của tỉnh và cả nước.

Bộ máy lãnh đạo, chính quyền, tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang, cơ cấu kinh tế bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp, cơ cấu cơ sở vật chất của sản xuất, y tế, giáo dục, văn hóa, quốc phòng trên địa bàn huyện, bảo đảm cho huyện có đủ khả năng và điều kiện thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Thực hiện sự kết hợp đó, các huyện đều chú trọng chỉ đạo, quản lý thống nhất và tập trung, thực hiện ngay từ khi xác định kế hoạch xây dựng huyện về mọi mặt, bao gồm cả lĩnh vực quân sự, quốc phòng trong việc phân bố lao động và tổ chức lực lượng vũ trang, trong tổ chức bố trí các cơ sở sản xuất và quân sự. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trên địa bàn huyện trở thành một biện pháp chiến lược để vừa đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng, “xây dựng huyện thành pháo đài quân sự”.


(1) Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật đóng vai trò then chốt.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:48:08 am
Các địa phương (tỉnh, thành phố, huyện) đẩy mạnh xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội kết hợp củng cố quốc phòng - an ninh. Theo kế hoạch chiến lược thống nhất. Những tiềm năng mới của nền quốc phòng toàn dân từng bước được tạo ra theo mô hình xây dựng của mỗi địa phương trong quy hoạch tổng thể của cả nước. Thế chiến lược phòng thủ đất nước tiếp tục được điều chỉnh, tăng cường, trong đó hệ thống bố trí của quân đội nhân dân trên cả nước được kết hợp chặt chẽ với hệ thống bố trí của mỗi địa phương. Mỗi địa phương (tỉnh, thành phố, huyện) trong nền quốc phòng toàn dân trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ của quân khu và cả nước. Xây dựng tỉnh với cơ cấu công - nông nghiệp thành đơn vị chiến lược về kinh tế quốc phòng, xây dựng huyện với cơ cấu nông - công nghiệp thành pháo đài quân sự chính là biểu hiện tập trung của sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, tạo nên một trong những tiềm lực hàng đầu của nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nhằm đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), nêu rõ: “tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Sức mạnh quốc phòng của nhân dân ta là sức mạnh của đường lối chính trị, quân sự của Đảng, là sức mạnh tổng hợp toàn diện của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, có lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu”(1).

Đại hội đã quyết nghị những vấn đề cơ bản về đường lối quốc phòng và đường lối chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc do Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo, do các ban ngành của Đảng và Nhà nước, nòng cốt do các cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng nghiên cứu và đề xuất từ sau Đại thắng mùa Xuân 1975. Những vấn đề quân sự - quốc phòng được thể hiện nổi bật với các quan điểm: Xây dựng đất nước, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, coi đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.

Có thể thấy, sức mạnh quốc phòng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sức mạnh toàn diện, sức mạnh toàn diện, sức mạnh tổng hợp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân, có lực lượng thường trực mạnh và lực lượng hậu bị rộng rãi. Lực lượng vũ trang có hai nhiệm vụ là luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tích cực tham gia xây dựng kinh tế góp phần xây dựng đất nước. Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự và chế độ quân đội xây dựng kinh tế. Ra sức phát triển công nghiệp quốc phòng, chú trọng hiện đại hóa lực lượng quốc phòng và khả năng phòng thủ của đất nước.

Sang năm 1977, cùng với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, quân và dân ta đẩy mạnh công cuộc củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng chính quy, hiện đại. Nội dung chủ yếu là: Cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng chiến đấu, xây dựng quân đội theo hướng chính quy, hiện đại, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất, xây dựng kinh tế; tích cực tham gia xây dựng lực lượng sản xuất theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.

Những tháng đầu năm 1977, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh. Các lực lượng vũ trang được chấn chỉnh về tổ chức biên chế, điều chỉnh quân số, triển khai thế bố trí trên các địa bàn chiến lược, phù hợp với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đối với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, các lực lượng vũ trang nhân dân đã đạt được những kết quả khích lệ trên mặt trận xây dựng kinh tế. Các đơn vị chuyên trách xây dựng kinh tế của quân đội nỗ lực lao động sản xuất, đã hình thành 8 vùng chuyên canh nông nghiệp, 4 vùng lâm nghiệp, 2 cơ sở đánh bắt hải sản; đồng thời huy động một bộ phận lực lượng tham gia xây dựng các công trình công nghiệp trọng điểm (Nhà máy thủy điện Hòa Bình, Khu mỏ Quảng Ninh, phục vụ khai thác dầu khí ở vùng biển phía Nam, làm đường bộ và đường sắt Thống nhất Bắc - Nam, đường Trường Sơn, giúp bạn Lào xây dựng đường số 7…).

Những nỗ lực của các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế đã cùng cả nước khắc phục hậu quả chiến tranh, giảm ngân sách quốc phòng, đặc biệt là góp phần thực hiện chủ trương phân bố lại lực lượng sản xuất, phân bố dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên quy mô cả nước và ở mỗi địa phương, đặc biệt trên các vùng, miền, địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo, tăng cường thế chiến lược phòng thủ đất nước, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Nhưng thành tựu bước đầu về xây dựng kinh tế của các lực lượng vũ trang nhân dân đã góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước so với những năm kháng chiến chống Mỹ.

Ngày 21 tháng 2 năm 1977, Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc: “Tăng cường lãnh đạo công tác quân sự địa phương trong giai đoạn mới”. Tiếp theo, ngày 6 tháng 3 năm 1977, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết “Về phương hướng nhiệm vụ quân sự năm 1977”. Đánh giá thành tựu bước đầu đạt được về củng cố quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang, Quân ủy Trung ương nêu rõ: Thực hiện nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình, các lực lượng vũ trang đã bước đầu tăng cường phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu ở các khu vực trọng điểm, bắt đầu chuyển hướng các mặt công tác và xây dựng lực lượng, huấn luyện bộ đội và bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu và tổng kết, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bảo đảm hậu cần và tích cực giải quyết các vấn đề sau chiến tranh. Nhiệm vụ xây dựng kinh tế được nhanh chóng quán triệt và triển khai thực hiện trong toàn quân.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.587.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:49:17 am
*
*   *

Trong những năm đầu Tổ quốc thống nhất, trên cơ sở phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khẩn trương chấn chỉnh tổ chức biên chế, triển khai thế bố trí lực lượng trên các địa bàn chiến lược, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân; đồng thời tham gia xây dựng kinh tế đất nước, kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo cơ sở để tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang và quân đội nhân dân trong bước khởi đầu sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước đã đạt được những kết quả quan trọng. Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trên cơ sở nền tảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Toàn dân, toàn quân phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, không ngừng khắc phục khó khăn, nâng cao ý thức trách nhiệm và nỗ lực xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân. Thành tựu của đất nước trong những năm đầu đất nước thống nhất đã đạt được trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh đã tạo nên những tiềm năng mới cho đất nước. Tiềm lực quân sự, quốc phòng, sức mạnh tổng hợp, toàn diện của nền quốc phòng toàn dân được nâng cao gắn liền với sự phát triển của đất nước.

Chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân được nâng cao, đáp ứng vai trò làm lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Quân đội nhân dân đã tiến hành kiện toàn, củng cố tổ chức, biên chế, điều chỉnh thế bố trí chiến lược, tăng cường phòng thủ đất nước, xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, hiện đại, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quân sự cần kíp trước mắt, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời tham gia xây dựng kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm đầu đất nước thống nhất đã để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc. Trên lĩnh vực quân sự - quốc phòng, việc quán triệt đường lối và nhiệm vụ cách mạng, đường lối và nhiệm vụ quân sự, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang còn chưa sâu sắc, chưa theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của tình hình cách mạng. Sự chuyển hướng nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân của các cấp, các bộ, ban, ngành có mặt còn chậm. Sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên quy mô cả nước và trên mỗi vùng miền, địa phương theo kế hoạch thống nhất còn gặp nhiều khó khăn, chưa tạo được sự phát triển đồng đều trong toàn quốc. Nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân từ trạng thái thời chiến chuyển sang thời bình còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết mới đáp ứng kịp thời yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy những thành tựu bước đầu đạt được, quân và dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh xây dựng đất nước về mọi mặt, trong đó tiếp tục củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng chính quy, hiện đại; đồng thời tạo ra thế và lực mới cho quân và dân ta tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:51:16 am
3. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc

Nằm ở phía tây nam Việt Nam (đông nam Campuchia), biên giới Việt Nam - Campuchia có chiều dài hơn 1.214 km, tiếp giáp giữa 8 tỉnh của Việt Nam(1) (Gia Lai - Kon Tum, Đắk Lắk, Sông Bé, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang) với 9 tỉnh của Campuchia (Ratamakiri, Mônđônkiri, Krachiê, Kôngpông Chàm, Svâyriêng, Prâyveng, Kanđan, Takeo, Kam Pốt). Từ lâu, nhân dân Việt Nam - Campuchia ở hai bên biên giới Tây Nam đã xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho mỗi dân tộc.

Tuy nhiên, do bị các thế lực phản động, thủ địch nước ngoài kích động, lợi dụng những vấn đề còn tồn tại trong lịch sử, từ những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970-1975), lực lượng Khơme Đỏ, do Pôn Pốt - Iêng Xari cầm đầu đã tiến hành một số vụ tiến công, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến trường Campuchia(2), gây chia rẽ trong nội bộ những người cộng sản Campuchia, làm tổn hại đến tình đoàn kết hữu nghị giữa hai dân tộc. Tiếp tục theo đuổi chính sách đối ngoại hiếu chiến, tháng 4-1975, sau khi nắm quyền lãnh đạo đất nước Campuchia, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn, khẩn trương xây dựng lực lượng quân sự, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược vùng biên giới phía Tây Nam của Việt Nam, hòng hoạch định lại biên giới có lợi cho phía Campuchia và làm cho Việt Nam mất ổn định, không thể tập trung phát triển kinh tế, xây dựng đất nước sau chiến tranh.

Với dã tâm đó, ngay sau khi miền Nam Việt Nam vừa được giải phóng, ngày 3-5-1975, Pôn Pốt đã cho quân đánh chiếm đảo Phú Quốc. Tiếp đó, ngày 10-5, chúng đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt và giết hơn 500 đồng bào ta. Trên đất liền, quân Pôn Pốt khiêu khích bộ đội biên phòng ta, cho dân di dời cột mốc biên giới ở một số điểm thuộc tỉnh Tây Ninh, Kom Tum, Đắc Lắc.

Sau 30 năm liên tục chiến đấu giành được độc lập, tự do của Tổ quốc, khát vọng của nhân dân Việt Nam là hòa bình để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình hữu nghị, sau khi đánh đuổi quân lấn chiếm, thu hồi các đảo bị quân Pôn Pốt chiếm đóng trái phép, ta đã trao trả hơn 600 quân Pôn Pốt bị bắt trong các cuộc tiến công xâm lấn trái phép lãnh thổ Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta cử đồng chí Nguyễn Văn Linh, đại diện Đảng Cộng sản Việt Nam sang gặp đại diện Đảng Cộng sản Campuchia để giải quyết vấn đề xung đột biên giới do phía Pôn Pốt - Iêng Xari gây ra. Trước thiện chí đó của ta, phía Campuchia thỏa thuận sẽ có cuộc gặp giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề kỳ hiệp ước về biên giới giữa hai Nhà nước vào tháng 6-1976.

Tuy đã thỏa thuận nhưng phía Campuchia vẫn tiếp tục cho quân gây ra nhiều vụ lấn chiếm trái phép biên giới, di dời các cột mốc vào sâu trong đất Việt Nam từ Cần Đường, gò Dâu Bầu, Kon Tum, đột nhập cướp kho vũ khí của ta ở Đồi Thơ (Tây Ninh).Tháng 10-1975, quân Pôn Pốt xâm nhập khu vực Pa Chàm (Lồ Cồ), xâm canh các khu vực Mộc Bài, Khuốc, Vạt Sa, Tà Nốt, Tà Bạt. Cuối năm 1975 đầu năm 1976, quân Pôn Pốt bất ngờ tiến hành một số vụ xâm nhập vào sâu lãnh thổ Việt Nam trên 10 km ở vùng sông Sa Thầy (Gia Lai - Kon Tum), gây ra tội ác đối với nhân dân ta.

Tháng 1-1976, Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Campuchia (do Pôn Pốt làm Bí thư) xác định:”Tai họa nhất cần phải chú ý là Việt Nam...”(3). Cùng thời gian này, dưới danh nghĩa giúp Campuchia xây dựng lại đất nước, nhiều cố vấn quân sự nước ngoài cùng vũ khí, phương tiện quân sự hiện đại được đưa vào Campuchia. Dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài, Pôn Pốt càng đẩy mạnh các hoạt động quân sự phá hoại ta ở vùng biên giới Tây Nam. Cuối tháng 2, đầu tháng 3-1976, quân Pôn Pốt khiêu khích hai đồn biên phòng số 7 và số 8 ở Bu Prăng (Đắk Lắk). Tiếp đó, chúng liên tục cho quân xâm nhập gài mìn, lựu đạn, phục kích bộ đội biên phòng ta ở các khu vực Phum Tua, đông Bồ Lô Sâm, Cây Me, Khuốc, Vạt Sa (Tây Ninh), Hà Tiên (Kiên Giang), Châu Phú (An Giang), Mộc Hóa, Đức Huệ (Long An).


(1) Số tỉnh ở vào thời điểm xảy ra chiến tranh.
(2) Sáu tháng đầu năm 1972, riêng Quân khu 203 (Quân khu Đông Nam của Campuchia) đã xảy ra 26 vụ giết bộ đội Việt Nam, 17 vụ vào kho cướp vũ khí, 385 vụ bắt cóc, 413 vụ tịch thu hàng hóa. Sáu tháng đầu năm 1973, quân Pôn Pốt gây ra 102 vụ, giết và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực, vũ khí.
(3) Tài liệu thu được của địch, hồ sơ số KC 559, tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:53:17 am
Nhằm kịp thời ngăn chặn những hành động quân sự do phía Pôn Pốt gây ra ở lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam và chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao của lãnh đạo hai nước, tháng 4-1976, đại diện Việt Nam và Campuchia đã có cuộc gặp tại Phnôm Pênh. Cuộc họp đã bàn bạc, thống nhất ba biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn các hành động gây xung đột quân sự ở vùng biên giới Việt Nam - Campuchia.

1- Hai bên ra sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân mình ở vùng biên giới tăng cường đoàn kết, tránh va chạm.

2- Mọi va chạm phải được giải quyết trên tinh thần đoàn kết hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau.

3- Ban liên lạc hai bên tiến hành điều tra các vụ va chạm và gặp nhau để giải quyết.

Chấp hành chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị với Campuchia, các đơn vị công an vũ trang (nay là bộ đội biên phòng) làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước ta để giải quyết tranh chấp, tránh khiêu khích, không nổ súng trước, ở những nơi quân Pôn Pốt xâm canh, xâm cư di dời cột mốc vào trong đất ta, khi bắt được ta đã giáo dục giải thích rồi trao trả ngay cho chính quyền địa phương của Campuchia. Các đơn vị chủ lực và địa phương ta ở phía sau tiếp tục giảm biên chế, đẩy mạnh sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh.

Trong khi ta thực hiện nghiêm chỉnh các thỏa thuận thì chính quyền Campuchia dân chủ được các thế lực nước ngoài viện trợ về quân sự và cử chuyên gia, cố vấn đến giúp đỡ, tiếp tục phát triển quân đội, chuẩn bị chiến tranh chống Việt Nam. Trong hai năm (1976-1977), Pôn Pốt phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn. Quân địa phương mỗi tỉnh, huyện thành lập thêm 2 đến 3 trung đoàn. Các đơn vị xe tăng, thiết giáp, pháo binh, không quân, hải quân (tương đương trung đoàn, sư đoàn) được trang bị tương đối hiện đại cũng lần lượt được thành lập.

Ở các địa phương, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari thực hiện chính sách huấn luyện quân sự bắt buộc. Đặc biệt, trên tuyến biên giới tiếp giáp với Việt Nam, Pôn Pốt cho xây dựng nhiều hầm hào, công sự dã chiến, hình thành các cụm chiến đấu, làm căn cứ xuất phát cho các cuộc xâm lấn sang lãnh thổ nước ta quy mô ngày càng lớn. Các đơn vị hành chính huyện, tỉnh, khu, vùng được xếp lại theo kiểu quân sự hóa.

Cùng với các hoạt động chuẩn bị cho chiến tranh, chính quyền Pôn Pốt ra sức tuyên truyền, kích động tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”. Lấy cớ làm trong sạch nội bộ, chúng tiến hành phân loại dân, thực hiện nhiều cuộc thanh trừng đẫm máu, trong đó, tập trung vào bộ phận cán bộ trước đây được đào tạo ở Việt Nam, những người kháng chiến cũ mà chúng cho là có tư tưởng chống đối(1).

Năm 1976, chính quyền Pôn Pốt tăng cường các hoạt động khiêu khích, lấn chiếm ở vùng biên giới Tây Nam nước ta. Trên địa bàn Quân khu 7, quân Pôn Pốt gây ra 280 vụ khiêu khích, lấn chiếm 20 điểm trên biên giới (tăng 2,7 lần so với các vụ năm 1975). ở địa bàn các Quân khu 5 và 9, các vụ xâm phạm đều tăng với tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn.

Kiên trì chủ trương xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị với Campuchia, Quân ủy Trung ương và Đảng ta chỉ thị cho các quân khu, tỉnh có đường biên giới với Campuchia tăng cường đoàn kết với nhân dân bạn, tránh mọi sự khiêu khích. Tháng 12-1976, Đại hội lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trường của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước”(2).


(1) Ở Sư đoàn 3 chủ lực, cán bộ từ cấp đại đội đến sư đoàn đều bị gọi lên thẩm vấn, trong đó có 60% cán bộ chủ chốt trong sư đoàn bị đưa đi cải tạo, hoặc thủ tiêu. Tại Vùng 24 Quân khu 23 có tới 90% cán bộ cấp xã bị thanh trừng. Sư đoàn 4 trong 1 đợt thẩm vấn đã có 10 cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn bị bắt. Dẫn theo lời kể của Hun Xen, Trung đoàn phó Vùng 1 Quân khu 203. Tư liệu số KC/604 lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.81.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:55:17 am
Trước yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh, ta tiếp tục thực hiện chủ trương giảm quân thường trực kể cả các quân khu ở phía Nam. Năm 1976, Quân khu 9 cho ra quân 3 vạn cán bộ, chiến sĩ. Các Sư đoàn 4 và 8 chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Quân khu 7 chuyển 26.303 người sang xây dựng các nông, lâm trường quốc doanh. Quân khu 5 cho ra quân 28.000 cán bộ, chiến sĩ, chuyển một số lớn đơn vị sang làm kinh tế(1). Một số đơn vị thường trực của Bộ và các Quân khu 5, 1, 9 đều đóng xa biên giới làm nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng theo hướng chính quy, hiện đại. Trên tuyến biên giới Tây Nam tiếp giáp với Campuchia, chỉ có lực lượng bộ đội biên phòng làm nhiệm vụ tuần tra vùng biên cương của Tổ quốc. Lực lượng dân quân du kích mỗi xã biên giới có 1 đến 2 tiểu đội trang bị súng trường làm nhiệm vụ bảo vệ sản xuất, giữ gìn an ninh trật tự địa phương.

Trong khi ta giảm quân thường trực và tập trung xây dựng, phát triển kinh tế đất nước thì trong 2 năm (30-4-1975 đến 30-4-1977) với mục đích gây chiến tranh chống Việt Nam, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Chúng phân chia lại các đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy chính quyền thôn, xã, huyện, tỉnh theo kiểu quân sự, thanh trừng những người chống đối, kích động tâm lý chống Việt Nam, đặc biệt là xây dựng một lực lượng quân sự lớn gồm 12 sư đoàn chính quy với đầy đủ thành phần binh chủng, hàng vạn quân địa phương, trong đó điều động 41% quân số và trang bị áp sát biên giới Việt Nam.

Trong hai tháng 3 và 4-1977, quân Pôn Pốt liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân diễn tập dọc biên giới. Dưới danh nghĩa “phòng thủ khu vực”, “bảo đảm an ninh nội địa”, nhưng thực chất đó là các cuộc điều quân ra biên giới. Pôn Pốt tuyên bố: “Mâu thuẫn Việt Nam - Campuchia là mâu thuẫn chiến lược sống còn, không thể điều hòa được, cũng không thể giải quyết bằng thương lượng mà phải dùng biện pháp quân sự”(2). Cuối tháng 4-1977, Pôn Pốt điều động 5 sư đoàn (2, 3, 203, 801, 920) và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam.

Như vậy, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã khước từ mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Việt Nam, tích cực xây dựng lực lượng quân sự chuẩn bị chiến tranh, từ chủ động gây ra các vụ xung đột, lấn chiếm rồi điều động một lực lượng lớn quân đội cùng vũ khí, trang bị kỹ thuật, áp sát vùng biên giới Tây Nam Việt Nam, gây tình hình ngày càng căng thẳng dẫn tới bùng nổ chiến tranh. Đây là một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào toàn bộ lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam, có chuẩn bị với nhiều tham vọng của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari được các thế lực phản động nước ngoài giúp sức gây ra.

Đêm 30-4-1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm hai năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari sử dụng Sư đoàn bộ binh 2 và lực lượng vũ trang địa phương hai tỉnh Takeo, Canđan bất ngờ mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương (bao gồm 13 đồn biên phòng, 14 xã dọc biên giới), tàn phá các bản làng, trường học, cơ sở sản xuất của ta.

Đi đôi với hành động xâm lược, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, kích động tư tưởng hằn thù dân tộc và đòi sửa lại đường biên giới giữa hai nước do lịch sử để lại theo ý chúng. Để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân, quân và dân ta buộc phải đứng lên giành quyền chiến đấu tự vệ chính đáng. Nhưng do ta chưa nhận thức đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn phát động chiến tranh của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, việc bố trí lực lượng phòng thủ biên giới của các địa phương còn sơ sài, nên những ngày đầu chiến tranh ta bị thiệt hại nhiều về người và của(3).

Trước hành động xâm lược trắng trợn của quân Pôn Pốt, các lực lượng biên phòng và dân quân, du kích các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Gia, Nhân Hưng đã chiến đấu anh dũng ngăn chặn địch. Bộ Tư lệnh Quân khu lệnh báo động chiến đấu các đơn vị thường trực và lệnh cho Tỉnh đội An Giang điều động 2 tiểu đoàn đang làm nhiệm vụ sản xuất ở Tri Tôn lên phối hợp với bộ đội biên phòng và dân quân, du kích đánh địch ở hướng Vĩnh Ngươn, Châu Đốc. Trung đoàn 962 dùng 4 tàu PCF đưa lực lượng lên đánh địch ở tuyến Phú Châu.

Sáng ngày 1-5-1977, Bộ Tư lệnh Quân khu họp khẩn cấp với chỉ huy các đơn vị và các tỉnh có biên giới tiếp giáp Campuchia (An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp). Sau khi phân tích âm mưu, thủ đoạn của địch, Bộ Tư lệnh nhận định: Có thể đây là màn mở đầu cho một cuộc chiến tranh lớn đã được tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari chuẩn bị. Bộ Tư lệnh quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương quân khu tại Châu Đốc do Đại tá Trần Văn Nghiêm, Phó Tư lệnh quân khu làm Tư lệnh để chỉ huy các lực lượng quân khu chiến đấu ở phía trước và chỉ thị cho các đơn vị phải kiên quyết giáng trả đẩy lùi bọn xâm lấn, gây cho chúng nhiều tổn thất, bảo vệ đất đai, tài sản của nhân dân ta ở vùng biên giới Tây Nam.


(1) Năm 1977, toàn quân có kế hoạch chuyển tiếp 10 sư đoàn, 89 trung đoàn (khoảng 20-30 vạn người) sang các ngành nghề xây dựng, phát triển phục vụ kinh tế quốc dân.
(2) Tài liệu thu được tại Sở chỉ huy Sư đoàn 4 quân Pôn Pốt (căn cứ Krếch) ngày 22-12-1977, số 990, tài liệu lưu tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 7.
(3) Trên địa bàn 14 xã biên giới, địch giết hại 578 đồng bào ta, đốt 10 nóc nhà, 6.000 giạ lúa, tàn phá hàng nghìn hécta hoa màu, cướp hàng trăm trâu, bò.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 08:58:43 am
Cũng trong ngày 1-5-1977, sau khi tàn phá 14 xã thuộc các huyện Bảy Nùi, Phú Châu, quân Pôn Pốt rút về bên kia biên giới, chúng chỉ để lại một bộ phận lực lượng chốt ở khu vực vàm Chai Kri, Tịnh Biên và bắc sông Bình Di. Kiên quyết trừng trị quân Pôn Pốt lấn chiếm trái phép, đêm 1-5, Tiểu đoàn 1 bộ đội tỉnh An Giang phối hợp với du kích xã Vĩnh Ngươn tập kích cụm quân địch tại vàm Chai Kri, diệt 18 tên, thu 16 súng, buộc bọn còn lại tháo chạy về bên kia biên giới.

Ở hướng Phú Châu, trong hai ngày 1 và 2-5, lực lượng biên phòng cùng 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh An Giang và du kích tiến công tiêu diệt một số tên, buộc chúng phải cụm lại ở phía bắc sông Bình Di. Trên hướng Tịnh Biên, Tiểu đoàn 309 Trung đoàn 1 Sư đoàn 303 và 2 tiểu đoàn sản xuất của Tỉnh đội An Giang do đường hành quân xa, ngày 2-5 đến được địa bàn tác chiến thì địch đã rút hết.

Kịp thời nắm tình hình địch và triển khai lực lượng chiến đấu của ta trên các hướng, đêm 2-5, Sở chỉ huy Tiền phương Quân khu 9 họp quyết định sử dụng Trung đoàn 1 (thiếu 1 tiểu đoàn) và 4 tàu CPF của Trung đoàn 962 phản công khôi phục lại tuyến Phú Châu. Tỉnh đội An Giang sử dụng 2 tiểu đoàn tập kích các chốt quân địch ở bắc sông Bình Di.

Ở phía sau, Sư đoàn 330 điều động một bộ phận lực lượng lên biên giới sẵn sàng chi viện các đơn vị phía trước và bảo vệ hậu phương chiến dịch; đồng thời giúp các địa phương khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Từ ngày 7 đến ngày 9-5-1977, Trung đoàn 1 (thiếu 1 tiểu đoàn) và lực lượng bộ đội địa phương tỉnh An Giang được không quân và pháo binh chi viện, mở đợt phản công khôi phục lại toàn bộ vùng biên giới từ Bắc Dai đến Long Bình dài 11 km. Ta diệt hơn 300 tên địch, thu nhiều vũ khí trang bị, sau đó Trung đoàn 1 cơ động về đứng chân ở vùng Bảy Núi.

Ngay sau khi quân Pôn Pốt đồng loạt đánh phá nhiều thôn xã, đồn biên phòng của ta ở biên giới tỉnh An Giang, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã họp sơ bộ nhận định, đánh giá tình hình. Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục kiên trì xây dựng đường biên giới hòa bình hữu nghị với Campuchia và giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng. Theo tinh thần đó, ngày 7-5-1977, đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã điện chỉ thị cho các tỉnh phía Nam nhấn mạnh: “Lập trường căn bản lâu dài của ta là ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau”(1).

Kiên trì thực hiện chủ trương giải quyết vấn đề biên giới bằng đàm phán hòa bình, ta chưa đưa tin về nhưng vụ tàn sát của quân Pôn Pốt - Iêng Xari ở biên giới tỉnh An Giang. Các lực lượng vũ trang Quân khu 9 sau khi đánh đuổi quân địch về bên kia biên giới, thu hồi phần đất bị địch lấn chiếm được lệnh rút về phía sau tiếp tục làm nhiệm vụ lao động sản xuất, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên, ta càng kiềm chế, nhân nhượng, tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari càng lấn tới. Họ cho rằng: “Duôn (Việt Nam) đang gặp trở ngại mọi mặt… Duôn mãi mãi không đánh nổi Campuchia”(2) và Chỉ thị: “Toàn quân và dân Campuchia nhất quyết phải chiến đấu cho đến khi giành được thắng lợi”(3). Thực hiện âm mưu đó, ngày 17-5, quân Pôn Pốt dùng pháo binh bắn phá thị xã Châu Đốc, làm chết và bị thương hơn 100 đồng bào ta, tiếp đó chúng bắn phá thị xã Hà Tiên và sử dụng lực lượng lấn chiếm nhiều điểm ở biên giới tỉnh An Giang.

Trước hành động gây chiến tranh xâm lược mới của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, ngày 23-5-1977, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho các lực lượng vũ trang ở phía Nam: “Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng thời tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia. Tìm mọi cách làm nhụt tinh thần của bọn khiêu khích. Tuyên truyền vận động nhân dân bạn và tranh thủ sự đồng tình của dư luận, tạo điều kiện ổn định một bước biên giới với Campuchia. Đập tan âm mưu chia rẽ các nước anh em trên bán đảo Đông Dương”(4).

Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Quân khu 7 tổ chức lại 3 trung đoàn biên phòng (201, 205, 5), đồng thời chuyển 3 trung đoàn pháo 105 ly (11, 19, 22) từ nhiệm vụ xây dựng kinh tế sang huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, Quân đoàn 4 điều 2 tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo (Sư đoàn 9) tăng cường cho Quân khu 7, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới. Trên hướng biên giới Quân khu 5, các lực lượng biên phòng và lực lượng cơ động triển khai sẵn sàng chiến đấu.


(1) Tư liệu của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2), (3) Tài liệu thu được tại Sở chỉ huy Sư đoàn 4 địch (căn cứ Đăngrếch) ngày 22-12-1977 - số 990, lưu tại Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 7.
(4) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.532.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:01:27 am
Sáng ngày 22-5-1977, Bộ Tổng tham mưu ra chỉ thị (số 122) tăng cường 4.000 quân cho Quân khu 5 làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới. Trung đoàn 66 Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) được lệnh hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương đánh đuổi quân lấn chiếm đồn biên phòng Bu Pờ Răng (Đắk Lắk). Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 kiện toàn Sư đoàn 10 làm lực lượng cơ động chiến đấu chủ yếu của Bộ trên địa bàn Tây Nguyên. Tổng cục Hậu cần triển khai một số kho, bảo đảm yêu cầu chiến đấu. Các binh chủng Công binh, Pháo binh triển khai một số đơn vị sẵn sàng đánh địch ở các hướng. Mạng thông tin liên lạc từ quân khu tới các đồn, chốt biên phòng được tăng cường thêm lực lượng và phương tiện.

Mặc dù triển khai một bộ phận lực lượng bảo vệ biên giới trên địa bàn các Quân khu 5, 7, 9, nhưng do nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari chưa đầy đủ, có biểu hiện chủ quan nên ở nhiều nơi, ta chưa kịp thời tổ chức lực lượng. Chất lượng huấn luyện, sức cơ động và khả năng chiến đấu các đơn vị làm nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu thấp, việc canh gác, bố phỏng trên tuyến biên giới còn bộc lộ nhiều sơ hở.

Cuối tháng 5, đầu tháng 6-1977, phía Campuchia dùng pháo bắn vào thị xã Hà Tiên. Ngày 4-6, chúng sử dụng 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 2 biên phòng và trung đoàn quân địa phương tỉnh Cam Pốt đánh vào khu vực bắc Hà Tiên và tuyến Giang Thành - Vĩnh Điều. Quân khu 9 sử dụng Tiểu đoàn 207 bộ đội địa phương tỉnh Kiên Giang và tiểu đoàn trinh sát quân khu đánh chặn quyết liệt, diệt hơn 100 tên, đập tan âm mưu lấn chiếm các điểm cao bắc Hà Tiên của địch.

Ngày 7-6-1977, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia dân chủ, tố cáo hành động xâm chiếm lãnh thổ, tàn sát đồng bào ta ở biên giới hai tỉnh An Giang, Kiên Giang. Trung ương Đảng và Chính phủ ta khẳng định: “Việc sử dụng một lực lượng vũ trang rất lớn để đồng thời tiến hành hoạt động trên một khu vực rất rộng và trong một thời gian dài như vậy không thể là việc làm riêng biệt của các địa phương Campuchia”(1) đồng thời nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn đề biên giới là tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Ta đề nghị có cuộc gặp càng sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng và hai Chính phủ để giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia.

Trước thiện chí của ta, phía Campuchia gửi thư trả lời: “Campuchia không hề có mục đích bành trướng, xâm lấn đất đai của bất cứ nước nào dù chỉ gang tấc...”(2). Họ đưa ra đề nghị: “Đề nghị thời gian cho tình hình trở lại bình thường, không có những vụ va chạm về biên giới trên đất liền cũng như trên biển rồi hai bên sẽ gặp nhau để cho việc gặp gỡ đạt kết quả tốt”(3).

Thế nhưng, trong thời gian chờ đợi bàn bạc, phía Campuchia liên tiếp cho quân xâm phạm khu vực Vĩnh Điều - Đầm Chích và một số nơi khác. Quân khu 9 sử dụng Trung đoàn 20, Sư đoàn 4 đánh địch khôi phục địa bàn. Do địa hình phức tạp, bộ đội ta chưa có kinh nghiệm đối phó với lối đánh luồn lách, phân tán tập kích nhanh, rút lui nhanh của địch, nên các trận đánh kéo dài, hiệu quả diệt địch thấp mà tiêu tốn đạn dược và thương vong của ta lại cao. Đến cuối tháng 6-1977, địch vẫn chiếm giữ một khu vực dài hơn 5 km trên tuyến Vĩnh Điều - Đầm Chích và thường xuyên dùng pháo cối bắn phá gây nhiều thiệt hại cho nhân dân ta.

Trước tình hình đó, ngày 13-7-1977, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 330, một số phân đội xe bọc thép M.113, được không quân và pháo binh chi viện mở đợt tiến công quân địch ở khu vực Vĩnh Điều - Đầm Chích, tiêu diệt hơn 200 tên, thu nhiều súng đạn, khôi phục toàn bộ vùng lãnh thổ bị lấn chiếm trái phép.

Ngày 15-7-1977, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam gửi điện khen Sư đoàn 330 và các lực lượng phối thuộc đã đánh thắng giòn giã trong trận Vĩnh Điều - Đầm Chích. Đại tướng nhắc các đơn vị:

1- Cần tiếp tục nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu cao tiêu diệt các lực lượng phản động xâm lược.

2- Không được chủ quan thỏa mãn, phải nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến của cán bộ, chiến sĩ. Cần rút kinh nghiệm về mặt sử dụng vũ khí, phương tiện trang bị sao cho tiết kiệm nhất mà vẫn đạt hiệu suất cao.

3- Tập trung giải quyết thật tốt mọi chính sách, nhất là chính sách đối với thương binh, liệt sĩ.

4- Quán triệt chủ trương của ta là kiên trì bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời tôn trọng độc lập chủ quyền của nước bạn. Trong lúc kiên quyết trừng trị bọn phản động xâm lược vẫn chủ trương thực hiện đoàn kết tốt giữa hai nước. Cần nói rõ chủ trương đó cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân ta và tìm cách tuyên truyền cho nhân dân nước bạn(4).


(1) Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia và Chính phủ Campuchia dân chủ, báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.
(2), (3) Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia và Chính phủ Campuchia dân chủ, báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.
(4) Điện số 158-QU/TW ngày 15-7-1977, hồ sơ 964, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:03:42 am
Sau khi bị trừng trị ở Vĩnh Điều - Đầm Chích, địch sử dụng pháo tầm xa ở Cả Hàng bắn phá ác liệt thị xã Châu Đốc, làm chết 12 người, bị thương 110 người dân của ta. Ngày 18-7, Quân khu 9 sử dụng phân đội không quân (Bộ phối thuộc), tiêu diệt hoàn toàn trận địa pháo địch đã gây nhiều tội ác đối với đồng bào ta ở vùng biên giới.

Để rút kinh nghiệm chỉ đạo các đơn vị, địa phương làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới, trong hai ngày 27 và 28-7-1977, Thường trực Quân ủy Trung ương triệu tập hội nghị bàn về xây dựng và bảo vệ biên giới. Hội nghị đánh giá: “Thời gian qua, công tác biên giới đã được triển khai khẩn trương. Bộ Tổng tham mưu, các tổng cục, các quân chủng, quân khu, quân đoàn đã cố gắng triển khai các kế hoạch phòng thủ biên giới và hải đảo; đồng thời chuyển một bộ phận lực lượng xây dựng kinh tế sang làm nhiệm vụ chiến đấu, điều động một bộ phận chủ lực lên tuyến biên giới, đáp ứng yêu cầu chiến đấu trước mắt. Nhờ đó mà tuyến biên giới vẫn được giữ vững. Nhưng do không lường hết những thủ đoạn dã man tàn bạo của đối phương, nên đã có trường hợp mất cảnh giác, để xảy ra những thiệt hại rất lớn về tính mạng và tài sản của nhân dân mà không đối phó được kịp thời có hiệu quả”(1).

Trên cơ sở đó, hội nghị nhấn mạnh: “Cần phải đặt vấn đề biên giới trong vấn đề chiến lược chung của cả nước, chủ trương chiến lược đối với biên giới nằm trong chủ trương chiến lược chung để từ đó đề ra phương hướng và biện pháp cụ thể. Bộ Tổng tham mưu, các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân binh chủng cần nghiên cứu kỹ đề ra một kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ biên giới theo hướng cơ bản lâu dài”(2).

Hội nghị xác định các biện pháp xây dựng tuyến phòng thủ biên giới và cách bố trí sử dụng lực lượng khi cần thiết, về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, Hội nghị chủ trương: “Sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hiện nay, vì vậy phải kết hợp giữa hai nhiệm vụ cho hợp lý... Công tác sản xuất ở vùng sát địch phải đi vào tổ chức bằng hình thức thích hợp”(3).

Sau khi các đợt tiến công trên tuyến biên giới giữa hai tỉnh An Giang và Kiên Giang bị ta đánh bại, tháng 8-1977, địch chuyển hướng tiến công sang khu vực biên giới hai tỉnh Long An, Đồng Tháp. Đồng thời, chúng sử dụng lực lượng cấp đại đội, tiểu đoàn phối hợp cả quân chủ lực và quân địa phương đánh vào khu vực Mỹ Quý Tây, Sông Trăng. Bộ đội địa phương hai tỉnh Long An và Đồng Tháp tổ chức đánh bại các cuộc tiến công của địch, khôi phục địa bàn bị lấn chiếm. Do các trận đánh thường kéo dài, nên hiệu quả chiến đấu thấp, thương vong cao. Địch chủ động mở các cuộc luồn sâu tập kích đánh phá ta dọc biên giới. Mặc dù đã tăng cường phòng thủ, nhưng ta chưa thể ngăn chặn được kịp thời các cuộc tiến công của địch khi chúng vừa vượt qua biên giới.

Để nâng cao khả năng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang ba thứ quân trên tuyến biên giới, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định ba biện pháp cấp bách: Một là, nhanh chóng kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị. Hai là, hoàn thiện các phương án chiến đấu bảo vệ các khu vực trọng điểm và kế hoạch hiệp đồng tác chiến, sử dụng lực lượng giữa các đơn vị. Ba là, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng chủ lực cơ động, trước mắt củng cố tuyến phòng ngự, đánh trả kịp thời lực lượng địch lấn chiếm trái phép.

Theo sự chỉ đạo chung của Bộ, tháng 8-1977, Quân khu 9 xây dựng thêm 5 trung đoàn biên phòng gồm Trung đoàn 162 (Kiên Giang), hai Trung đoàn 152 và 24 (An Giang), Trung đoàn 502 và Trung đoàn Vàm Cỏ (Đồng Tháp), 1 tiểu đoàn pháo 105 và 1 tiểu đoàn pháo cao xạ trực thuộc quân khu. Sư đoàn 4 và Sư đoàn 8 chủ lực của quân khu được lệnh chuyển một bộ phận (trước mắt mỗi sư đoàn có 1 trung đoàn bộ binh và các đơn vị bảo đảm) sang làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam.

Quân đoàn 3 đứng chân trên địa bàn Tây Nguyên, ngoài việc sử dụng các đơn vị luân phiên truy quét Fulro, theo nhiệm vụ mới của Bộ giao, tập trung xây dựng Sư đoàn 10 thành sư đoàn chủ lực mạnh, sẵn sàng cơ động chiến đấu trên các chiến trường; đồng thời chuyển 50% lực lượng Sư đoàn 320 đang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế sang làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.

Quân đoàn 4 theo kế hoạch trước đây đã chuyển Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) thành khung huấn luyện chiến sĩ mới và chuẩn bị bàn giao Sư đoàn 341 sang Tổng cục Xây dựng kinh tế, nay theo mệnh lệnh mới của Bộ, Quân đoàn 4 kiện toàn hai Sư đoàn 7 và 9 đủ quân số, sẵn sàng chiến đấu. Quân đoàn 4 đẩy mạnh huấn luyện, nâng cao sức chiến đấu, đặc biệt là chú trọng rèn luyện khả năng cơ động nhanh bằng cơ giới. Cuối tháng 8, đầu tháng 9-1977, chấp hành mệnh lệnh của bộ Tổng tham mưu, Quân đoàn 4 lần lượt điều động các Trung đoàn 141 và 209 (Sư đoàn 7), Trung đoàn 270 (Sư đoàn 341), 1 đại đội thiết giáp của Lữ đoàn 22 phối hợp với lực lượng vũ trang Quân khu 9 chiến đấu, bảo vệ chủ quyền biên giới Tây Nam.


(1), (2) Kết luận của đồng chí Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị bàn về xây dựng và bảo vệ biên giới, hồ sơ 973, tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.
(3) Kết luận của đồng chí Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị bàn về xây dựng và bảo vệ biên giới, hồ sơ 973, tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:06:03 am
Tháng 9-1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tổ chức lại chiến trường, hình thành 7 quân khu và 3 vùng đặc biệt, về lực lượng. chúng xây dựng thêm 2 sư đoàn chủ lực đưa tổng số lên 14 sư đoàn và 12 trung đoàn vùng. Đối diện với Quân khu 7 của Việt Nam là Quân khu 203 (Quân khu Đông), địch tổ chức thành năm vùng(1). Tháng 7-1977, tại Quân khu 203, địch mới bố trí 2 sư đoàn (3 và 4), 1 trung đoàn pháo, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn thông tin và lực lượng bảo đảm do Xô Đăn làm Tư lệnh. Tháng 8-1977, lực lượng Quân khu 203 tăng lên 5 sư đoàn. Sang tháng 9, chúng tăng thêm 2 sư đoàn, đưa tổng số lên 7 sư đoàn (3, 4, 5, 117, 203, 290, 310), chiếm 48% quân chủ lực.

Về phía ta, chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Quân khu 7 tăng cường lực lượng chuẩn bị chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu theo 2 phương án: Một là, dùng lực lượng địa phương phòng thủ chiến đấu tại chỗ, bảo vệ nhân dân, bảo vệ biên giới. Hai là, huy động chủ lực quân khu kết hợp lực lượng địa phương và Quân đoàn 4 đánh vừa, đánh lớn tiêu diệt địch.

Trên địa bàn Quân khu 7, các biện pháp phòng thủ đã được triển khai, nhưng do nhận thức của một số địa phương, đơn vị chưa đúng mức, nên việc tổ chức thực hiện bị xem nhẹ. Kế hoạch xây dựng lực lượng, xây dựng một số đồn dọc biên giới, củng cố chính quyền cơ sở, phòng tránh sơ tán nhân dân ở các xã biên giới khi có chiến tranh xúc tiến chậm, chất lượng thấp. Đến tháng 9-1977, ngoài 3 trung đoàn biên phòng và một số đơn vị bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, lực lượng cơ động sẵn sàng chiến đấu của quân khu có một sư đoàn loại 3 (Sư đoàn 5). Các đơn vị còn lại tuy đã chuyển một phần lực lượng sang nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, nhưng quân số, trang bị, phương tiện cơ động của các đơn vị này còn thiếu. Các đơn vị binh chủng kỹ thuật thiếu đồng bộ, đặc biệt là thiếu cán bộ kỹ thuật. Đó là những khó khăn của hầu hết các đơn vị khi chuyển từ sản xuất xây dựng kinh tế sang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Thực hiện kế hoạch tiến công qua biên giới Quân khu 9 bị thất bại, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tiếp tục chuẩn bị lực lượng quy mô lớn để mở cuộc tiến công mới vào toàn tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh (Quân khu 7). Vùng tây nam tỉnh Tây Ninh tiếp giáp với tỉnh Xoàiriêng của Campuchia là địa bàn có vị trí quan trọng về quân sự, chính trị và kinh tế. Nơi đây có đường giao thông chiến lược số 1 và các đường liên tỉnh số 13, 22, 7, 24 nối liền giao thông giữa hai nước Việt Nam - Campuchia. Lợi dụng dải đất mỏ vẹt nhô về phía Việt Nam, quân Pôn Pốt đã xây dựng nhiều căn cứ, tập kết lực lượng cùng vũ khí trang bị kỹ thuật, làm bàn đạp xuất phát tiến công nhằm uy hiếp thị xã Tây Ninh, thị xã Gò Dầu, một trong những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng của ta ở gần biên giới Tây Nam.

Sau khi tiến công hai vị trí Tầm Beo, Châu Ó thăm dò phản ứng của ta, đêm 24 rạng ngày 25-9-1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari sử dụng 2 sư đoàn bộ binh 3 và 4, 2 trung đoàn (306, 304) và 7 tiểu đoàn địa phương các vùng 20, 21, 23 tiến công đồng loạt vào tuyến biên giới thuộc hai huyện Tân Biên, Châu Thành, Bến Cầu (Tây Ninh).

Trên hướng bắc (Tân Biên), địch dùng Sư đoàn bộ binh 4 và quân địa phương vùng 20, 21 đánh vào Khuốc, Bãi Bầu, Xa Mát, Đập Đá, Tà Đạt trên một đoạn biên giới dài 35 km; đồng thời chúng cho một bộ phận luồn sâu vào chốt chặn trên đường 22. Tiểu đoàn 1 và Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 201 (Tây Ninh) phối hợp với bộ đội biên phòng Tà Nốt, Chàng Riệc, Xa Mát và dân quân địa phương đánh chặn nhiều đợt tiến công của địch. Riêng ở Tân Thành, Tân Khánh, Tân Khai, ta chưa chặn được địch để cho chúng vào đốt phá nhà cửa và tàn sát 280 đồng bào ta.

Ở hướng tây (Bến Cầu, Châu Thành), địch dùng Trung đoàn 182 (Sư đoàn 3) và lực lượng địa phương đánh vào các chốt của ta ở Long Khánh, Cây Me, Thúc Múc, Long Phước, sâu vào trong đất ta từ 5 đến 6 km, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản(2). Tiểu đoàn 14 Tây Ninh và phân đội xe thiết giáp đẩy lùi cuộc tiến công của địch ở Long Phi (Chợ Cầu), ở các nơi khác, lực lượng của ta mỏng không đủ sức càn phá các cuộc tiến công của địch. Chiều 25-9, địch chiếm được các khu vực đồn Cây Me, Thúc Múc, Long Khánh.

Trước tình hình lực lượng vũ trang tại chỗ không đủ sức đẩy lùi địch, việc điều động các đơn vị dự bị của Quân khu 7 gặp khó khăn, chiều 25-9-1977, tiền phương Bộ Tổng tham mưu lệnh cho Quân đoàn 4: “gấp rút điều động lực lượng cơ động của quân đoàn hành quân lên biên giới Tây Ninh thực hiện nhiệm vụ nhanh chóng giải vây cho các đồn công an biên phòng và khu vực đông dân đang bị địch bao vây, tiêu diệt các cụm quân địch trên đất ta, khôi phục lại biên giới”(3). Đồng thời ra lệnh cho lực lượng không quân sẵn sàng hoạt động ngăn chặn địch.


(1) Năm vùng đó là: Vùng 20 (Crak), Vùng 21 (Minốt), Vùng 22 (Đông sông mê Công), Vùng 23 (Xoàiriêng) và Vùng 24 (Prâyveng).
(2) Trận này, địch tàn sát 380 dân, đốt 271 ngôi nhà, bắt và giết hơn 300 trâu, bò của ta.
(3) Lịch sử Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II,, tr.14.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:08:40 am
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ và quân đoàn, với tinh thần “đi nhanh nhất, đến đủ nhất, đến nơi chiến đấu được ngay”, suốt đêm 25-9, cán bộ và chiến sĩ các Trung đoàn 1, 2 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) hành quân ra mặt trận. Trưa ngày 26-9, Quân đoàn 4 triển khai Sở chỉ huy tiền phương ở Bến Cầu trực tiếp chỉ huy các đơn vị đánh địch. Trung đoàn 2 và Trung đoàn 209 triển khai chiến đấu ở Bến Cầu, Trung đoàn 1 tăng cường cho Quân khu 7, giải vây khu vực Xa Mát (Tân Biên).

Trong thời gian này, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 điều động Sư đoàn bộ binh 5 và một số đơn vị pháo cao xạ hành quân lên biên giới tỉnh Tây Ninh, đồng thời triển khai Sở chỉ huy tiền phương ở Thiện Ngôn (Tân Biên, Tây Ninh), do Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu làm Tư lệnh để chỉ huy các đơn vị chiến đấu. Trước yêu cầu cấp bác phải giải vây đồn Xa Mát, ngày 27-9-1977, Trung đoàn 4, Sư đoàn 5 sử dụng một tiểu đoàn phối hợp với Trung đoàn 201 tỉnh Tây Ninh tiến công cụm quân địch ở nam Xa Mát. Mặc dù được hỏa lực pháo binh, không quân chi viện mạnh, nhưng do nắm địch chưa chắc, hiệp đồng giữa các đơn vị thiếu chặt chẽ, nên trận đánh không thành công.

Tại huyện Bến Cầu, khi hai trung đoàn của Quân đoàn 4 đến địa bàn tác chiến thì Trung đoàn 182 (Sư đoàn 3), 1 tiểu đoàn và 4 đại đội địa phương địch đã chiếm các ấp Cây Me, Bến Trại, khu vực rừng Long Khánh, cầu Thúc Múc. Dựa vào địa hình, chúng xây dựng các trận địa phòng ngự lâm thời, hình thành khu chiếm đóng liên hoàn với sự yểm trợ mạnh của hỏa lực và lực lượng địch đóng ở bên kia biên giới.

Trước cơ sở phân tích tình hình địch, ngày 29-9, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tham mưu điều tiếp Sư đoàn 341 (thiếu một trung đoàn) tăng cường lực lượng chiến đấu cho Quân đoàn 4. Ta sử dụng trung đoàn 201 (thiếu một tiểu đoàn), Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5), Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) thực hành phản kích giải vây đồn Xa Mát. Sau hai giờ chiến đấu, ta đánh thiệt hại nặng 2 đại đội địch, diệt gần 200 tên, đẩy địch ra khỏi đồn biên phòng Xa Mát, Khu ủy ban quốc tế và Đập Đá.

Theo yêu cầu mới về chính trị và ngoại giao, 16 giờ ngày 29-9-1977, Sở chỉ huy Tiền phương Bộ Tổng tham mưu điện cho Quân đoàn 4 tạm hoãn kế hoạch tiến công theo dự kiến ban đầu và chỉ thị: “Trước mắt dùng lực lượng 2 sư đoàn thiếu tiến công địch ở Long Khánh - Cây Me, giải phóng khu vực bị lấn chiếm, giúp nhân dân khắc phục hậu quả do địch gây ra”(1). Thực hiện mệnh lệnh của Bộ, Quân đoàn 4 sử dụng Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) và Tiểu đoàn 14 Tây Ninh, đại đội xe M.113 (8 chiếc) tiến công địch ở ấp Cây me và Long Thuận. Sư đoàn 341 sử dụng một trung đoàn tiêu diệt địch ở Xóm Trại, khu vực kinh tế mới, cầu Thúc Múc, rừng Long Khánh. Lực lượng còn lại đứng chân ở Mộc Bài, sẵn sàng đánh địch từ hướng Bà Vét 2 nống ra Mộc Bài, An Thuận.

Để chuẩn bị cho bộ binh tiến công, chiều ngày 1-10 năm 1977, ta sử dụng 8 máy bay A.37 đánh 2 đợt bom vào các khu tập kết lực lượng địch ở khu vực Cây Me - Bến Trại. 5 giờ sáng ngày 2-10, pháo binh ta dồn dập nã đạn vào các vị trí địch, sau đó bộ binh trên các hướng nổ súng tiến công. Hướng chủ yếu, Trung đoàn 2 chiếm được khu vực Mả Đá rồi phối hợp cùng các mũi tiến công của Trung đoàn 209 đánh chiếm ấp Cây Me. Tiếp đó, Trung đoàn sử dụng Tiểu đoàn 8 truy kích địch ở phía nam cầu Thúc Múc. Trên hướng Sư đoàn 341, sau khi tiêu diệt quân địch ở ấp Bến Trại, quân ta phát triển đánh chiếm sở chỉ huy địch ở cầu Thúc Múc và truy kích địch ở đông nam rừng Long Khánh. Trong trận này, các đơn vị của Quân đoàn 4 khôi phục được vùng biên giới bị lấn chiếm nhưng chưa thực hiện được yêu cầu tiêu diệt lớn sinh lực địch.

 Ngày 26-10-1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị số 238-QU/TW về Nâng cao chất lượng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang bảo vệ vững chắc vùng biên giới, bờ biển và hải đảo thuộc các quân khu phía Nam. Thường vụ Quân ủy Trung ương biểu dương: “Các lực lượng vũ trang ta đã có nhiều cố gắng phối hợp với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương kiên quyết đánh trả và đẩy lùi bọn xâm lấn, gây cho chúng nhiều tổn thất, về căn bản bảo vệ được đất đai vùng biên giới”(1). Đồng thời chỉ rõ thiếu sót: Việc nâng cao sức chiến đấu đơn vị cơ sở còn chậm, bố trí lực lượng phân tán, tổ chức chỉ huy nhiều nơi lỏng lẻo. Chưa nắm chắc tình hình địch, chưa có những cách đánh thích hợp.

Thường vụ Quân ủy Trung ương chỉ rõ: “Khuyết điểm lớn cần được lập tức khắc phục là tinh thần trách nhiệm của các cấp đối với nhiệm vụ bảo vệ từng tấc đất của nước nhà, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân còn chưa đầy đủ. Chất lượng bộ đội cũng như trình độ sẵn sàng chiến đấu chưa đáp ứng yêu cầu. Tổ chức chỉ huy thống nhất, tập trung, do đó việc bảo vệ biên giới chưa được tiến hành một cách chủ động và có hiệu quả theo một kế hoạch thống nhất chặt chẽ. Sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang và của nhân dân địa phương chưa được phát huy mạnh mẽ”(3).

Về nhiệm vụ trong thời gian tới, Thường vụ Quân ủy Trung ương nhấn mạnh: “Nhiệm vụ hàng đầu của các lực lượng vũ trang là bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và hải đảo, từng tấc đất của Tổ quốc, tính mạng và tài sản của đồng bào. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng phải làm tròn với một tinh thần trách nhiệm thật cao và một quyết tâm thật lớn”(4). Đề cập đến các biện pháp bảo vệ biên giới, Chỉ thị xác định những nhiệm vụ cụ thể về tác chiến, xây dựng và củng cố tuyến biên giới, xây dựng lực lượng đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trước mắt và lâu dài.


(1) Lịch sử Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), Sđd, t.II,, tr.14.
(2), (3), (4) Chỉ thị số 238-QU-TW ngày 6-10-1977, hồ sơ 970, tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 2, 3.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:11:41 am
Từ ngày 5 đến ngày 10-10-1977, trên địa bàn biên giới Quân khu 7, địch tiếp tục lấn chiếm một số địa bàn quan trọng của ta. Chúng tích cực xây dựng công sự trận địa phòng thủ ở các vị trí đã chiếm được; đồng thời điều động một số sư đoàn ở phía sau ra sát biên giới. Trên hướng đường số 1, ngoài Sư đoàn 3 và các đơn vị địa phương bố trí ở khu vực Bà Vét - rừng Long Khánh, địch đưa thêm Sư đoàn 290 lên chiếm các bàn đạp hòng phát triển tiến công theo trục đường số 1, đánh chiếm các xã biên giới huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.

Thực hiện quyết tâm đánh bại bước phiêu lưu quân sự mới của địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của nhân dân Campuchia, từ ngày 10 đến 20-10-1977, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu, Quân đoàn 3 điều động các Trung đoàn 28, 66 (Sư đoàn 10), Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320), do đồng chí Nguyễn Quốc Thước - Phó Tham mưu trưởng quân đoàn chỉ huy lên hướng Tân Biên (Tây Ninh), mở đợt hoạt động đánh địch từ nam Krek đến Xa Mát, Tà Nốt. Cùng thời gian này, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 điều Trung đoàn 1 (Gia Định), Trung đoàn 16 (La Ngà) tăng cường cho Sư đoàn 5. Đến ngày 22-10, mọi công tác chuẩn bị chiến đấu của các quân khu, quân đoàn cơ bản đã hoàn thành.

Ngày 23-10, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tham mưu quyết định mở chiến dịch trừng trị quân Pôn Pốt lấn chiếm vùng biên giới Tây Nam. Trên hướng Quân đoàn 3, sau khi pháo binh bắn chuẩn bị, bộ binh trên các tuyến đồng loạt nổ súng tiến công địch. Xe tăng ta đột kích mãnh liệt vào cụm quân địch ở cầu O Rung, mở đường cho bộ binh tiến công vào Sở chỉ huy Trung đoàn 55 địch. Chỉ trong một ngày, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 đã làm chủ các mục tiêu quy định, đẩy Sư đoàn 4 quân Pôn Pốt sang biên giới.

Ở hướng Quân đoàn 4, Sư đoàn 9 dùng pháo yểm trợ cho Trung đoàn 209 vượt đường số 1 vào chiếm lĩnh trận địa ở tây và tây nam Bà Vét 1. Do thời gian kéo dài, địch cơ động lực lượng đối phó, gây cho ta nhiều thương vong. Trong khi đó, trên hướng chủ yếu, Sư đoàn 341 vào chiếm lĩnh gặp khó khăn. Hiệp đồng giữa pháo binh, xe tăng và bộ binh chưa nhịp nhàng nên nhịp đổ tiến công chậm. Địch có điều kiện tổ chức lực lượng chống trả. 8 giờ 30 ngày 23-10, các đơn vị của Quân đoàn 4 đánh tan các đơn vị chủ lực và địa phương của địch, diệt 110 tên, bắt 25 tên, thu 11 súng, giải thoát cho 310 dân Campuchia bị quân Pôn Pốt giam giữ. Trong trận này, lúc đầu các đơn vị của Quân đoàn 4 hình thành được thế bao vây chiến dịch, nhưng trong quá trình chuyển sang tiến công các đơn vị đột phá chính diện chưa mạnh, thiếu thọc sâu chia cắt, các đơn vị vu hồi chưa thực hiện được ý đình luồn sâu đánh hiểm. Hiệp đồng giữa các mũi, các hướng, giữa bộ binh, pháo binh và xe tăng còn thiếu sót nên hiệu quả chiến đấu thấp. Quân đoàn 4 làm chủ được các mục tiêu, nhưng chưa thực hiện được yêu cầu tiêu diệt lớn sinh lực địch.

Trong các ngày từ 24 đến 26-10-1977, các đơn vị tiếp tục đánh địch ở khu vực Bà Vét 1 và 2, chùa Píc Pột, chùa Prey Pok, cầu Phum Đa. Trong đợt hoạt động này, các Quân đoàn 3, 4 và Quân khu 7 đã đánh chiếm lại các vị trí chiếm đóng của địch, khôi phục chủ quyền của trên toàn tuyến biên giới từ bắc Phum Soa đến Tà Mốc. Thắng lợi này có ý nghĩa cả về quân sự và chính trị; đồng thời khẳng định quân và dân ta quyết tâm chiên đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Hoàn thành nhiệm vụ đánh địch lấn chiếm, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và Quân khu 7 tiếp tục đứng chân trên các địa bàn được phân công, củng cố lực lượng, sẵn sàng chiến đấu, đồng thời giúp nhân dân vùng biên giới khôi phục sản xuất, ổn định đời sống.

Song song với nhiệm vụ đánh địch bảo vệ biên giới phía Tây Nam, các lực lượng vũ trang ta làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, các hải đảo hoặc làm nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, hướng vào thực hiện các nhiệm vụ công tác lớn đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng xác định.

Để đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, kế hoạch huấn luyện giai đoạn 2 năm (1976-1977) của các đơn vị trong toàn quân có bước điều chỉnh bổ sung lớn. Phương châm huấn luyện sát thực tế chiến trường. Các nội dung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật cá nhân, phân đội nhỏ được chú trọng. Việc đào tạo cán bộ phân đội (tiểu đội, khẩu đội, trung đội, cán bộ chuyên môn kỹ thuật được giao cho các nhà trường, các quân khu, quân đoàn (Quân đoàn 1 trong hai tháng 10 và 11-1977 được giao huấn luyện 1.000 quân, trong đó có hơn 500 tiểu đội trưởng, nhân viên kỹ thuật để giao cho Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4). Nội dung huấn luyện thay đổi, cơ sở vật chất phục vụ huấn luyện ở một số đơn vị chưa được chuẩn bị chu đáo, thời gian chuẩn bị ngắn nên chất lượng giai đoạn huấn luyện 2 bị hạn chế. Ở các đơn vị làm nhiệm vụ sản xuất nhanh chóng chuyển sang nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu có đơn vị chỉ bảo đảm được 50 đến 60% nội dung huấn luyện đề ra.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:16:22 am
Cùng với việc tăng cường lực lượng cho các đơn vị bảo vệ biên giới Tây Nam, ta đã tăng cường lực lượng và triển khai một số công trình phòng thủ ở biên giới phía Bắc và các hải đảo. Nhiệm vụ bảo vệ vùng trời, vùng biển với các nội dung sẵn sàng chiến đấu cao được quán triệt sâu sắc trong các đơn vị Quân chủng Phòng không, Không quân(1) và Hải quân.

Sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích bảo vệ biên giới có bước phát triển mới, nhất là ở 8 tỉnh biên giới Tây Nam. Tuy vậy, do việc giáo dục nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, xác định đối tượng tác chiến chưa kịp thời, nên ở một số đơn vị có biểu hiện tư tưởng chủ quan, lơ là thiếu cảnh giác, chất lượng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu thấp.

Đối với nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, các đơn vị phía Bắc và đơn vị sản xuất tập trung của Bộ ở xa biên giới hoàn thành các chỉ tiêu đề ra. Các Quân khu 5, 7, 9, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 chuyển sang chiến đấu và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Các nông trường, lâm trường xây dựng dọc biên giới Tây Nam bị địch tàn phá, một số phải thu hẹp phạm vi, kế hoạch sản xuất nên chỉ tiêu chỉ đạt từ 30 đến 40%. Khả năng cung cấp, bảo đảm hậu cần tại chỗ phục vụ chiến đấu gặp nhiều khó khăn.

Cùng với các quân khu, quân đoàn; các quân chủng, binh chủng thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và lao động xây dựng kinh tế. Đối với công tác hậu cần đã hoàn thành hệ thống bảo đảm phục vụ chiến đấu cho các đơn vị ở biên giới Tây Nam. Sáu tháng cuối năm 1977, Tổng cục Hậu cần tổ chức thêm một tiểu đoàn vận tải thủy, một phân đội ô tô tiếp phẩm đường dài, điều một bộ phận ô tô vận tải Sư đoàn 572, 4 đội điều trị, một số tổ vệ sinh phòng dịch từ phía Bắc vào phía Nam. Đồng thời triển khai Binh trạm 18 ở Quy Nhơn để tiếp nhận và vận chuyển giao hàng cho hậu cần Quân khu 5 tại Plâyku và Đức Cơ.

Cụ thể, về công tác bảo đảm hậu cần, Quân khu 5 tổ chức thêm một tiểu đoàn vận tải ô tô, một bệnh viện và hai đội điều trị. Hậu cần Quân khu 7 tổ chức thêm một tiểu đoàn vận tải ô tô, 3 bệnh viện, 3 đội điều trị và 2 bệnh viện trung chuyển. Hậu cần Quân khu 9 tổ chức thêm hai tiểu đoàn vận tải ô tô, một bệnh viện và 2 đội điều trị. Ở Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4, ta đều tổ chức thêm các trạm hậu cần, bệnh viện dã chiến phục vụ yêu cầu chiến đấu. Tháng 9-1977, hậu cần các đơn vị phải bảo đảm nhu cầu cho 50.000 quân, đến tháng 12-1977, quân số này tăng lên đến 80.000 người chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên toàn tuyến biên giới Tây Nam.

Bị thất bại liên tiếp trong các cuộc xâm lấn biên giới Tây Nam nước ta, phải co lực lượng phòng ngự, nhưng với bản chất phản động, ngoan cố, quân Pôn Pốt vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu lấn chiếm. Chúng tiếp tục bắt lính, tăng quân, ráo riết xây dựng công sự trận địa và điều động một lực lượng lớn bổ sung cho các đơn vị phía trước, áp sát biên giới Việt Nam, chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới.

Về phía ta, theo chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, các đơn vị nhanh chóng tổ chức rút kinh nghiệm chiến đấu. Từ ngày 3 đến ngày 5-11-1977, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị sơ kết tác chiến trên toàn tuyến biên giới Tây Nam do đồng chí Tổng Tham mưu trưởng chủ trì. Sau khi đánh giá hoạt động tác chiến của các đơn vị trên toàn tuyến biên giới Tây Nam thời gian qua, phân tích âm mưu và dự kiến hoạt động của địch trong thời gian tới, Hội nghị đã đề ra phương châm tác chiến là: “Đánh có chuẩn bị tốt, nắm chắc địch, đánh chắc thắng, bất ngờ, chủ động linh hoạt”(2).

Hội nghị nhấn mạnh: “Đối với các hình thức tác chiến có sử dụng binh chủng hợp thành thì nên sử dụng trong phạm vi chiến dịch hoặc sử dụng chiến thuật trong điều kiện đánh với quy mô sư đoàn thiếu đến sư đoàn tăng cường. Cần chú ý vận dụng linh hoạt không rập khuôn như đánh với Mỹ - ngụy trước đây. Nếu vì sử dụng nhiều binh chủng kỹ thuật mà ảnh hưởng đến hành động của bộ binh thì kiên quyết không dùng. Với đối tượng quân Campuchia hiện nay thì dù vận dụng hình thức chiến thật nào cũng phải quán triệt tinh thần nhanh chóng hình thành thế bao vây nhiều tầng, kết hợp đón lõng nhiều hướng. Trên cơ sở đã vây chặt mới tổ chức thực hành đột phá một cách mãnh liệt, phát triển tiến công liên tục, truy quét triệt để”(3). Những kinh nghiệm được rút ra qua các trận chiến đấu vừa qua tuy chưa được hoàn chỉnh, nhưng đã góp phần giúp lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị xác định cách đánh phù hợp; đồng thời gợi mở những ý tưởng mới, giúp cấp trên có phương hướng lãnh đạo, chỉ đạo cuộc chiến đấu giành thắng lợi to lớn hơn nữa.


(1) Từ tháng 5-1977, Quân chủng Phòng không - Không quân được tách thành 2 quân chủng.
(2), (3) Hồ sơ tổng kết TK-2984, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.5, 7.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:17:22 am
Sau một số trận tiến công thăm dò lực lượng ta, đêm 16 ngày 17-11-1977, địch dùng Sư đoàn 3, Sư đoàn 290 và lực lượng vùng 23 mở cuộc tiến công mới vào nam bắc đường liên tỉnh số 13 từ Lồ Cồ đến bắc Sà Ney dài 25 km. Hướng chủ yếu tập trung vào khu vực đền Phúc Tân, Phum Soài, có nơi lực lượng của Sư đoàn 290 thọc sâu vào đất ta từ 5 đến 7 km. Chúng đốt hàng trăm nóc nhà, phá hoại hàng ngàn hécta màu của dân.

Sáng 17-1, Quân đoàn 4 điều Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) lên chi viện cho bộ đội địa phương tỉnh Tây Ninh đang chiến đấu cầm chân địch trên đường số 12. Tiếp đó, hai trung đoàn còn lại của Sư đoàn 9 cũng được điều động lên ngăn chặn địch. Bằng các trận phản kích quyết liệt, Sư đoàn 9 đã chặn được các mũi tiến công của địch cách Bến Sủi 3 km. Trong các ngày từ 18 đến 27-11-1977, hai Trung đoàn 1 và 6, bộ đội biên phòng và Sư đoàn 9, Quân đoàn 4 liên tục đánh địch ở khu vực Phước Tân, Côngpông Trạch (tây Lò Gò), Tà Nông, khu vực Bầu On. Do chiến đấu liên tục, lực lượng bị tiêu hao, Sư đoàn 9 và các lực lượng vũ trang địa phương phải tạm thời chuyển sang phòng ngự ngăn chặn địch.

Trước tình hình địch liên tục tiến công lấn chiếm và bắn pháo sang đất ta, Bộ chủ trương mở đợt phản công trừng trị quân lấn chiếm, khôi phục địa bàn bị chiếm đóng trái phép trên đất ta, đồng thời luồn qua biên giới đánh sâu vào các bàn đạp xuất phát tiến công của địch. Sau khi chỉ thị cho Quân đoàn 4 chủ động tổ chức lực lượng tiến công địch ở hướng đường số 1, lập các chốt dụ địch và đánh vào phía sau các sư đoàn địch đang lấn chiếm khu vực đường số 13, đầu tháng 12-1977, Bộ ra lệnh cho Quân đoàn 3 điều tiếp Sư đoàn 320 và các lữ đoàn binh chủng còn lại lên Tân Biên. Ngày 8-12-1977, Quân đoàn 3 thiết lập sở chỉ huy cơ bản tại khu vực đường 20 cách sân bay Thiện Ngôn 5 km về nam để chỉ huy các lực lượng của quân đoàn tham gia chiến dịch.

Vừa chiến đấu, Quân đoàn 4 vừa xây dựng bổ sung thêm lực lượng Sư đoàn 7 nhận lại Trung đoàn 14 từ Châu Đốc về và Trung đoàn 12 vừa được khôi phục. Các Trung đoàn 1, 3 (Sư đoàn 9), 2 đại đội pháo binh của Sư đoàn 341 được bổ sung thêm quân số và vũ khí trang bị. Lực lượng vũ trang hai Quân khu 7 và 9 cũng được bổ sung lực lượng, tích cực chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới.

Đầu tháng 12-1977, trên tuyến biên giới Quân khu 7, địch tăng cường lực lượng lên 7 sư đoàn chủ lực, 4 trung đoàn và 8 tiểu đoàn địa phương. Chúng bố trí ba hướng: Đường số 1 và đường liên tỉnh 13 gồm 4 sư đoàn chủ lực (3, 170, 290, 703), 1 trung đoàn và 5 tiểu đoàn địa phương. Đường số 7 và đường số 22: bố trí 3 sư đoàn chủ lực (4, 5 và Sư đoàn 117 thiếu 1 trung đoàn), 1 trung đoàn địa phương vùng 21 và 3 tiểu đoàn quân địa phương. Đường số 13 và Sông Bé: bố trí 2 trung đoàn bộ binh.

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ là phá tan âm mưu tập trung lực lượng chuẩn bị đánh lớn của địch, Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 9 đánh địch ở khu vực từ đường tỉnh số 13 đến ngã tư nhà thương. Sư đoàn 341 đánh địch ở Tuyên, Kêkixom, Sangkum, Miêngchay. Trung đoàn 14 (Sư đoàn 7) đánh địch ở đường Mộc Bài, Chiphu và Prasốt. Ngày 6-12-1977, Quân đoàn 4 nổ súng mở màn chiến dịch. Trong 8 ngày (từ 6 đến 14 tháng 12), Quân đoàn 4 đã đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 290 địch, loại sư đoàn 3 khỏi vòng chiến đấu, làm tan rã các đơn vị quân địa phương, đẩy địch sang bên kia biên giới.

Trên hướng Minốt - Snun, Quân khu 7 sử dụng Sư đoàn 5, Sư đoàn 2, Trung đoàn 2 biên phòng và Trung đoàn 75 pháo binh đánh địch lấn chiếm ở Phum Đa, cao điểm 52, khu vực từ đông cầu 15 đến bắc Roudou 1, Khumkhuốc, Vạtsa, Chiraây, đẩy địch ra khỏi biên giới.

Phối hợp hoạt động với các đơn vị bạn, từ ngày 14 đến ngày 18-12, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đánh địch ở khu vực Giồng Bà Ca, núi Tham Dung, ngã ba Tà Lập, ngã ba Konpon Chey, điểm cao Lục Sơn, Núi Đất, truy quét địch ở khu vực Rê Minh. Trên hướng Đồng Tháp - Long An, các lực lượng vũ trang địa phương được chủ lực quân khu hỗ trợ đánh chiếm Sầmrông, Bathu, Sócchêk, Tàđiều, ngã ba Sócmới, Tàmốc, Lộ Quẹo, Bungchung, Sócri, đánh thiệt hại nặng 1 sư đoàn, 2 lữ đoàn, 3 tiểu đoàn của quân Pôn Pốt.

Những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên biên giới Tây Nam đã giáng một đòn mạnh vào âm mưu tập trung lực lượng, chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, góp phần phục vụ đấu tranh chính trị, ngoại giao nhằm giải quyết bằng thương lượng hòa bình vấn đề xung đột biên giới giữa hai nước Việt Nam - Campuchia, do phía Campuchia dân chủ gây ra.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:26:04 am
*
*   *

Bị tổn thất nặng nề, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari không thể che giấu mãi cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam nước ta. Ngày 31-12-1977, chúng công khai đưa vấn đề biên giới giữa hai nước ra trước dư luận thế giới.

Trước hành động vu cáo hòng cô lập Việt Nam trên tường quốc tế của tập đoàn Pôn Pốt Iêng Xari, ngày 31-12-1977, Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia nêu rõ lập trường và nguyên tắc của ta là: “Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình, đồng thời luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, làm hết sức mình để bảo vệ tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị vĩ đại Việt Nam - Campuchia”(1); đồng thời vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác man rợ của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đối với đồng bào ta ở các tỉnh vùng biên giới Tây Nam.

Tinh thần xây dựng, lập trường chính nghĩa của Đảng và Nhà nước ta mong muốn giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước Việt Nam - Campuchia thông qua đàm phán hòa bình, tôn trọng lẫn nhau được dư luận thế giới đồng tình ủng hộ(2). Cùng với hoạt động ngoại giao, đòn tiến công quân sự của các lực lượng vũ trang ta cũng thu được thắng lợi quan trọng. Ngày 5-1-1978, các đơn vị tham gia đánh địch lấn chiếm cơ bản hoàn thành nhiệm vụ trở về đứng chân trên các địa bàn trọng yếu ở biên giới Tây Nam, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất, nhanh chóng ổn định đời sống.

Trước tình hình mới, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ công tác năm 1978, xác định: “Đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao và chiến đấu thắng lợi, xây dựng lực lượng, nâng cao chất lượng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu. Xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc ở các hướng biên giới của nước ta, trước hết là biên giới Tây Nam, bảo vệ có hiệu quả vùng biển và vùng trời là nhiệm vụ trung tâm trước mắt của các lực lượng vũ trang. Phấn đấu đến cuối năm 1978, các lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng cơ động của các quân khu phía Nam đảm đương được phần chủ yếu trong nhiệm vụ đánh địch bảo vệ dân, bảo vệ biên giới”(3).

Quán triệt Nghị quyết Thường vụ Quân ủy Trung ương, ngày 12-1-1978, Bộ Tổng tham mưu ra Mệnh lệnh số 04/ML Về chủ trương của ta đối với vấn đề biên giới Campuchia. Trên cơ sở xác định mục tiêu và nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường biên giới Tây Nam, Bộ Tổng tham mưu quy định các đơn vị tham gia chiến đấu phải luân phiên tác chiến; đồng thời tập trung củng cố xây dựng lực lượng, huấn luyện, nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo đảm yêu cầu trước mắt và lâu dài.

Những ngày đầu tháng 1-1978, các hoạt động lấn chiếm của địch sang đất ta giảm dần. Địch không tổ chức những đợt lấn chiếm quy mô trung đoàn, sư đoàn nhưng chúng tăng cường các hoạt động tập kích, phục kích, quấy rối tiêu hao sinh lực ta. Ở phía sau, địch đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, tiếp tục đôn quân bắt lính xây dựng thêm các sư đoàn mới đưa ra phía trước.

Ngày 13-1-1978, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia ra Chỉ thị về đường lối tiến hành chiến tranh toàn diện chống Việt Nam. Tiếp đó, ngày 15-1, Chính phủ Campuchia dân chủ tuyên bố mở rộng hải phận tiếp giáp rộng 24 hải lý, vùng kinh tế đặc quyền rộng 200 hải lý và ra lệnh cho hải quân hoạt động đánh phá ta trên biển.

Theo dõi nắm bắt tình hình địch, Quân ủy Trung ương ta chỉ rõ: “Âm mưu cơ bản của chúng là dùng hành động quân sự để phá hoại, tiêu hao lực lượng ta lâu dài, tạo nên tình hình chính trị không ổn định, buộc ta phải bị động đối phó không thể tập trung sức lực xây dựng đất nước, do đó làm chậm công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam đối với khu vực Đông Nam Á và thế giới”(4).

Sau khi củng cố, đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, nâng tổng số các đơn vị phía trước lên 11 sư đoàn, ngày 19-1-1978, địch dùng pháo 130 và Đ74 bắn sang thị xã Châu Đốc và khu vực núi Sam làm chết 27 người, bị thương 46 người, sập 32 ngôi nhà dân của ta. Tiếp đó, chúng bắn phá ngoại vi thị xã Tây Ninh, gây nhiều tội ác với đồng bào ta. Trên hướng Quân khu 7, địch tăng cường lực lượng áp sát đường số 1, đường liên tỉnh số 13 và đường 22, gây căng thẳng ở vùng biên giới thuộc các tỉnh Hà Tiên, An Giang và Đồng Tháp.


(1) Báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.
(2) Ngay sau khi Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn  đề biên giới Việt Nam - Campuchia; Chính phủ các nước Cuba, Tiệp Khắc, Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Đảng Cộng sản Pháp, Liên Xô, Bungari, Mêhicô, Ấn Độ, Mianma đã lên tiếng ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
(3) Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.2 (1975-2004), tr.87.
(4) Báo cáo của Thường vụ Quân ủy Trung ương tại cuộc họp Bộ Chính trị số 38-QU/TW ngày 27-1-1978 - Phần nhận định âm mưu địch chủ trương của ta, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:33:05 am
Trước tình hình đó, ngày 19-1-1978, Bộ Tổng tham mưu điều động Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) tăng cường cho Quân khu 9, sẵn sàng chiến đấu; đồng thời ra lệnh cho các đơn vị ta trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nâng cao cảnh giác, thực hiện phòng ngự tích cực để hỗ trợ cho Đảng và Nhà nước ta thực hiện đấu tranh chính trị và ngoại giao.

Ngày 5-2-1978, Bộ Ngoại giao ta ra tuyên bố lập trước 3 điểm để giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia(1). Nhưng Pôn Pốt chẳng những không đáp lại thiện chí của ta mà còn huy động lực lượng áp sát biên giới. Ngày 7-2, chúng cho quân xâm nhập khu vực Bắc Kà Tum, ta đánh trả kịp thời, diệt và bắt 50 tên, thu 38 súng. Những ngày tiếp theo, địch tiến công Bắc Đai, Khánh Bình, Khánh An, Thường Phước (Hồng Ngự - Đồng Tháp), Lạc Quới, Võ Đá Biu (huyện Bảy Núi). Lực lượng tại chỗ của ta kiên quyết đánh trả địch, diệt nhiều tên. Ngày 25-2, địch huy động lực lượng lớn đánh vào rạch Nàng Đinh, nam Bến Sỏi và bắc Tà Nông thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Do lực lượng tại chỗ không đủ sức ngăn chặn các cuộc tiến công của địch, Bộ giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 4 phối hợp với lực lượng địa phương đánh chặn cuộc tiến công của địch, chiếm lại khu vực bị lấn chiếm.

Từ ngày 27-2 đến 1-3-1978, Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị sơ kết nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam lần thứ hai. Tham dự Hội nghị có chỉ huy các quân khu, quân đoàn, sư đoàn, ban chỉ huy quân sự các tỉnh phía Tây Nam, đại diện các binh chủng, một số quân khu, quân đoàn phía Bắc. Đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Văn Tiến Dũng thay mặt Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương dự, chỉ đạo Hội nghị. Hội nghị đánh giá: “Các đơn vị đã có tiến bộ và trưởng thành trên nhiều mặt, trong xây dựng và chiến đấu, cả bộ đội chủ lực của Bộ, quân khu và dân quân du kích địa phương”(2). Nhưng trong xây dựng và tác chiến, ta còn bộc lộ một số hạn chế: “Chưa đánh tiêu diệt gọn địch, bộ đội chủ lực yếu trong đánh nhỏ, thương vong cao, tiêu thụ đạn nhiều. Dân quân, du kích xã ấp còn ít chưa hình thành được thế chiến tranh nhân dân ở địa phương”(3). Phân tích âm mưu, thủ đoạn của địch, khả năng tác chiến của ta, Bộ chủ trương: “Các đơn vị, địa phương phải chủ động đánh địch ngay khi địch mới bước chân sang đất ta và chủ động tích cực đánh địch ngay trên đất địch”(4).

Sau Hội nghị, để kịp thời chỉ đạo nghiên cứu đối tượng tác chiến mới, ngày 7-3-1978, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 191-QU/TW thành lập tổ nghiên cứu đường lối quân sự, nhiệm vụ quân sự của Đảng trong giai đoạn mới. Biên chế của tổ gồm 5 đồng chí: Hoàng Minh Thảo, Lê Hai, Nguyễn Xuân Hoàng, Võ Quang Hồ, Đỗ Trình (Tổ trưởng).

Theo chỉ đạo của Bộ, Quân đoàn 4 tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc phản công khôi phục khu vực Nàng Đinh, các Quân khu 5, 7 và 9 tích cực củng cố lực lượng sẵn sàng các hoạt động phối hợp toàn mặt trận. Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị, ngày 11-3, Sư đoàn 9 được tăng cường Trung đoàn 201 (Quân khu 7), Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7), một số đơn vị thiết giáp được không quân chi viện mở cuộc tiến công địch ở khu vực Nàng Đinh. Sau khi vượt sông Vàm Cỏ, Trung đoàn 201 và Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 209) nhanh chóng tiến công khu vực bắc Tà Nông chiếm xóm Cây Xoài, ấp Bến Cầu, Xóm Mới, hình thành thế bao vây tây bắc rạch Nàng Đinh.

Cùng thời gian này, trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 209 được tăng cường 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 1 và đại đội xe thiết giáp đánh chiếm Bến Chàu, Phra Ha Miệt. Trong 3 ngày (từ 12 đến 15-3), Sư đoàn 9 đánh chiếm Tà Lọt, Phước Thới, Bến Chùa, Tà Hét, Phra Ha Miệt và ấp Bến Cầu, khôi phục khu vực rạch Nàng Đinh, đẩy địch ra khỏi biên giới. Bị đánh mạnh ở khu vực rạch Nàng Đinh, địch điều chỉnh lực lượng tập trung chủ yếu vào hướng bắc Tây Ninh (bao gồm tuyến sông Vàm Cỏ Đông, đường số 22 và đường số 7).

Cuối tháng 3-1978, tình hình biên giới Việt Nam - Campuchia tiếp tục căng thẳng. Ở địa bàn Quân khu 7, địch tập trung 5 sư đoàn chủ lực và 5 trung đoàn địa phương ở Lò Gò (tây đường số 22 và đường số 7) được pháo binh chi viện lấn chiếm nam bắc đường số 22, tuyến đường Ủi (Romdoud - Xayta - Bắc Cà Tum, Bắc Lộc Ninh). Ở Quân khu 9, địch đánh phá khu vực Khánh Bình, Khánh An, nhiều đoạn thuộc huyện Bảy Núi và Hồng Ngự.


(1) Lập trường ba điểm: Một là, chấm dứt ngay mọi hành động thù địch ở vùng biên giới. Lực lượng vũ trang mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ của mình cách đường biên giới 5 km. Hai là, hai bên gặp nhau ngay tại Hà Nội, Phnôm Pênh, hoặc một địa điểm nào trên biên giới giữa hai nước để bàn bạc và ký một hiệp ước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ với nhau. Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Không tiến hành hoạt động lật đổ chống đối nhau, đối xử bình đẳng, sống hòa bình hữu nghị trong quan hệ láng giềng tốt. Hai bên sẽ ký một hiệp ước về biên giới giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau trong đường biên giới hiện tại. Ba là, sẽ thỏa thuận một hình thức thích hợp bảo đảm quốc tế và giám sát quốc tế.
(2) Kết luận Hội nghị sơ kết biên giới Tây Nam lần thứ hai, từ ngày 27-2 đến 1-3-1978, hồ sơ tổng kết TK 2984, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 12.
(3), (4) Kết luận Hội nghị sơ kết biên giới Tây Nam lần thứ hai, từ ngày 27-2 đến 1-3-1978, hồ sơ tổng kết TK 2984, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 15, 17.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:33:59 am
Để hạn chế sự xâm nhập qua biên giới của địch, buộc chúng phải xâm nhập theo một số tuyến nhất định, tạo điều kiện để ta tiêu diệt, theo chỉ thị của bộ, các Quân khu 5, 7, 9 xây dựng tuyến phòng thủ biên giới trên địa bàn thuộc phạm vi mình quản lý. Sau một thời gian tổ chức phòng ngự (từ tháng 1 đến tháng 3-1978), các đơn vị ta được lệnh rút bớt lực lượng từ các đơn vị phòng thủ để tổ chức các đơn vị tác chiến cơ động chuyển sang tiến công khôi phục lại các địa bàn bị địch lấn chiếm trái phép.

Từ ngày 5 đến 25-4-1978, Quân khu 9 mở chiến dịch phản công khôi phục các địa bàn bị địch lấn chiếm. Sư đoàn 330 cơ động diệt một bộ phận địch đang lấn chiếm khu vực rừng tràm Hà Tiên (đoạn Phú Mỹ). Sư đoàn 341 tiến công vào Lục Sơn, Cúp Pô. Trong khi ta đang tiến hành chiến dịch thì ngày 20-4, địch dùng 3 trung đoàn: Trung đoàn 12, 14 - Sư đoàn 2 và Trung đoàn 13 (Takeo) mở đợt tiến công lớn vào Tịnh Biên, Phú Cường, Ba Chúc, Núi Rồ, Thuyết Nạp, Lệ Trì, Yên Cư. Chúng dồn một số dân của ta về giam ở Núi Tượng. Trước tình hình đó, sau khi khôi phục đoạn Phú Mỹ, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 330 đánh địch bảo vệ vùng Bảy Núi, giải tỏa số dân bị địch dồn về giam ở Núi Tượng. Do thời gian gấp, chuẩn bị chưa đầy đủ, phải đánh theo yêu cầu giải phóng dân, nên Sư đoàn 330 đánh Núi Tượng chỉ diệt và bắt được 700 tên địch, giải phóng được gần 600 dân.

Ngày 24-4, địch tập trung lực lượng cấp trung đoàn đánh Sa kỳ, Thị Vạn. Trung đoàn 3 (sư đoàn 341), bộ đội địa phương Kiên Giang và một số phân đội của Quân khu 9 phối hợp chiến đấu đẩy lùi các đợt tiến công của địch. Ngày 25-4, các đơn vị của Quân khu 9 hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi địch ra khỏi biên giới, khôi phục các khu vực bị địch lấn chiếm trái phép.

Trên hướng Quân khu 7, từ ngày 6 đến ngày 9-4, ta đẩy địch ra khỏi khu vực Lộc Hòa và đường 13B, sau đó phát triển chiến đấu đánh chiếm các điểm cao 102, 82, 100, 94, 95, 107, 117. Theo yêu cầu của lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, Quân khu 7 thành lập Đoàn 977 làm nhiệm vụ giúp những người dân Campuchia chạy trốn tập đoàn Pôn Pốt sang Việt Nam lánh nạn.

Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 26-4-1978, Quân đoàn 4 mở chiến dịch tiến công đánh chiếm dải địa hình ven biên giới tỉnh Soàiriêng. Trong khi đó, Quân đoàn 3 bảo vệ địa phương bàn huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được tăng cường hai trung đoàn (113, 126) và Sư đoàn 31 tổ chức nhiều trận đánh địch lấn chiếm. Tuy đã được Bộ tăng cùng lực lượng, nhưng tác chiến trên địa bàn rộng, địch thường xuyên có 5 sư đoàn chủ lực, có pháo binh, xe tăng yểm trợ đánh phá, nên các đơn vị của Quân đoàn 3 phải liên tục bám đánh địch. Chiến đấu dài ngày, bộ đội mỏi mệt, nhiều cán bộ, chiến sĩ ngại giữ chốt, có nơi chiến sĩ cáo ốm bỏ nhiệm vụ. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tổ chức học tập, nâng cao nhận thức chính trị cho bộ đội. Do tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị, nên các đơn vị đã khắc phục được nhưng biểu hiện tiêu cực, sức chiến đấu được nâng cao.

Kịp thời rút kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị ở Quân đoàn 3, đầu tháng 4-1978, Tổng cục Chính trị chỉ đạo các đơn vị chiến đấu trên biên giới Tây Nam tiến hành đợt sinh hoạt chính trị, làm cho bộ đội xác định rõ nhiệm vụ, kiên trì giữ chốt, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu sắp tới.

Đến ngày 30-4-1978, cuộc chiến đấu của quân dân ta trên biên giới Tây Nam đã diễn ra được một năm. Quá trình tác chiến của quân Khơme đỏ trên chiến trường và những tin tức thu được của địch giúp ta hiểu được nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh, âm mưu thủ đoạn và tiềm lực chiến tranh của kẻ thù. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra yêu cầu tích cực lãnh đạo, chuẩn bị mọi mặt quân sự, chính trị, ngoại giao, tạo thế và lực cho cách mạng Campuchia, sẵn sàng các điều kiện để giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng sớm càng tốt.

Thực hiện chủ trương đó, Bộ chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh hoạt động chuẩn bị chiến trường. Để mở rộng địa bàn, cải tạo thế đứng chân của các binh đoàn chủ lực, sau khi Quân đoàn 4 mở chiến dịch tiến công đánh chiếm dải địa hình có lợi ven biên giới tỉnh Xoàiriêng, đầu tháng 5-1978, Bộ tiếp tục sử dụng Quân đoàn 3 mở đợt hoạt động mới trên hướng đường số 7. Ngày 1-5, Sư đoàn 10 (Quân đoàn 3) sử dụng 4 tiểu đoàn luồn sâu vào đường số 7, đánh chiếm Khđar, sau đó phát triển tiến công Phsaâm và điểm cao 62 Quân khu 203 vội vã điều Sư đoàn 450 từ Minốt ra chặn ở Khđar, nhưng bị quân ta đánh tan.

Trên hướng phối hợp, Sư đoàn 31 chốt giữ Đập Đá - Sa Mát tiến đánh Phum Soa và Bầu Cây Sai, thu hồi địa bàn bị địch lấn chiếm, đẩy chúng ra xa biên giới ta. Sư đoàn 320 tổ chức vây lấn, mở rộng tuyến biên giới Lògò - Đàha, bẻ gãy các đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa. Thắng lợi của Quân đoàn 3 tạo đà thuận lợi cho cuộc chiến đấu tiếp theo của toàn mặt trận.

Ở hướng Quân đoàn 4, từ ngày 7-5-1978, các đơn vị ta chuyển sang đánh địch bảo vệ địa bàn. Trước những đoàn tiến công mạnh mẽ của quân ta, nội bộ địch có nhiều biến động, phân hóa sâu sắc. Lực lượng quân sự kết hợp với phong trào yêu nước của quần chúng cách mạng Campuchia nổi dậy chống chính quyền Pôn Pốt nổ ra ở nhiều nơi. Địch phải rút bớt lực lượng từ biên giới về đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ở các địa phương.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:35:16 am
Trước yêu cầu giải phóng dân tộc Campuchia khỏi họa diệt chủng của Pôn Pốt, ngày 12-5-1978, lực lượng vũ trang đoàn kết Campuchia được thành lập do đồng chí Hun Xen làm Chỉ huy trưởng, cùng sát cánh chiến đấu bên cạnh bộ đội Việt Nam. Đây là đơn vị tiền thân của Quân đội nhân dân cách mạng Campuchia, đánh dấu bước phát triển mới của các lực lượng cách mạng Campuchia. Đến đây, phong trào cách mạng Campuchia đã xuất hiện những nhân tố mới.

Để hỗ trợ lực lượng yêu nước Campuchia, các lực lượng vũ trang ta trên biên giới Tây Nam tích cực đẩy mạnh các hoạt động, buộc địch phải đối phó ở phía trước; đồng thời điều động các đội trinh sát luồn sâu vào trong lòng địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng, giúp lực lượng kháng chiến bạn mở rộng vùng giải phóng làm chuyển biến tình hình, chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho những hoạt động hiệu quả tiếp theo.

Xác định Quân khu 7 là một địa bàn trọng điểm trong công tác xây dựng lực lượng giúp bạn, sau khi kiện toàn Bộ Tư lệnh Quân khu, ngày 22-5-1978, Quân ủy Trung ương cử đồng chí Trần Văn Quang vào trực tiếp truyền đạt chủ trương giúp bạn: Theo yêu cầu của Bộ, đến tháng 10-1978, Quân khu 7 phải giúp bạn xây dựng từ 1.000 đến 2.000 quân bao gồm các đội vũ trang tuyên truyền, các đội tinh nhuệ, các phân đội phục vụ và trợ chiến từ 1 đến 2 tiểu đoàn bộ binh để tham gia tác chiến(1). Cuối tháng 5-1978, Bộ chỉ đạo Quân khu 9 tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm chiến đấu của du kích và bộ đội địa phương các tỉnh biên giới. Từ kinh nghiệm của Quân khu 9, các Quân khu 5, 7 cũng tổ chức rút kinh nghiệm, đẩy mạnh phong trào xây dựng lực lượng dân quân, du kích của địa phương lên một bước mới.

Bị thất bại trên các chiến trường, bị quần chúng cách mạng khắp nơi trong nước nổi dậy phản đối, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari càng điên cuồng đàn áp dã man phong trào cách mạng trong nước. Để hỗ trợ phong trào cách mạng của nhân dân Campuchia, mặc dù mùa mưa ta gặp nhiều khó khăn nhưng Bộ vẫn quyết định mở đợt tiến công mới trên các hướng đường số 1, đường số 7, vùng giáp biên giới Tây Ninh và đường số 19.

Đầu tháng 9-1978, Sở chỉ huy tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 3: Tích cực phản công và tiến công địch, đưa chiến tranh sang đất địch, tạo thời cơ làm thất bại âm mưu chiến lược của địch trong cuộc tiến công của chúng. Phối hợp toàn bộ chiến trường, làm chủ và tích cực mở rộng địa bàn khu vực đường số 7.

Chấp hành mệnh lệnh của bộ, Quân đoàn 3 sử dụng 3 sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng của quân đoàn tiến công địch. Phối hợp với Quân đoàn 3, Quân khu 7 sử dụng 2 sư đoàn (5 và 302) đánh chiếm đường số 7, đoạn từ sông Chiêm đến Phumđa, sau đó phát triển lên hướng Snoul, Đầm Be. Ngày 10-6, các đơn vị của Quân khu 7 đánh chiếm các mục tiêu được giao.

Trên hướng Quân đoàn 4, ngày 15-6-1978, các đơn vị đánh chiếm các mục tiêu quan trọng là Chấk, Săngke, tiếp đó phát triển mở rộng phạm vi đánh chiếm khu vực Prêytoey, Prêytaoăng, Svey, Chêk, ngã ba Kâk. Cùng thời gian này, Quân khu 5 sử dụng 2 sư đoàn đánh địch ở nam bắc đường số 19. Bị đánh bất ngờ từ nhiều hướng, địch đối phó lúng túng bị động. Ngày 30-6, tiền phương Bộ Quốc phòng thông báo tình hình chiến sự trên chiến trường và nêu rõ các đơn vị phải cố gắng thực hiện tiêu diệt gọn từng đơn vị địch để làm chuyển hóa so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo thời cơ để lực lượng nổi dậy của cách mạng Campuchia phát triển nhanh. Tháng 7-1978, Quân đoàn 3 được Bộ giao nhiệm vụ đã đưa lực lượng thọc sâu vào hướng Krêk và hướng tây đường số 7, làm chủ các điểm cao 200, 202, 135, 153, 141, 119, 94, 50, Samakôm, Mênây, Chfeang.

Để đối phó với cuộc tiến công của ta, địch thành lập Bộ chỉ huy mặt trận đường số 7, sử dụng 3 sư đoàn (310, 174, 450) mở các đợt phản kích dữ dội vào các vị trí đứng chân của quân ta. Trong các ngày từ 6 đến 10 tháng 7-1978, địch liên tục tổ chức các cuộc phản kích, có xe tăng và pháo binh yểm trợ vào khu vực Châk. Để bảo vệ lực lượng, tạo thế đánh vận động tiêu diệt địch, ta chủ động rút lui khỏi Châk.

Sau khi tăng cường lực lượng cơ động cho Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341, từ ngày 12 đến ngày 18-7, Quân đoàn 4 mở đợt tiến công tiêu diệt địch ở khu vực Châk và Săng ke. Trong 12 ngày chiến đấu (từ ngày 6 đến 18-7), Quân đoàn 4 đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn của 3 sư đoàn chủ lực địch, diệt và bắt hơn 1.000 tên, thu nhiều súng đạn và đồ dùng quân sự. Do mưa kéo dài, dải đồng bằng duyên hải tiếp giáp với Campuchia bị ngập úng nhiều vùng, cuối tháng 7-1978, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 chuyển sang phòng ngự giữ đất đánh địch bảo vệ địa bàn.

Trước những diễn biến mới ở biên giới Tây Nam và trên các hướng khác, tháng 6-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp đánh giá toàn bộ tình hình địch, ta; dự đoán khả năng phát triển của tình hình và xác định những chủ trương, biện pháp chiến lược của ta. Bộ Chính trị nêu quyết tâm: “Kiên quyết phấn đấu giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng sớm càng tốt, phối hợp tác chiến quân sự, chính trị, ngoại giao, ra sức giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia chân chính đánh đổ tập đoàn phản động Campuchia”(2).


(1) Sau này, Bộ chính thức giao cho Quân khu 7 giúp bạn xây dựng 12 tiểu đoàn bộ binh, 20 đội vũ trang tuyên truyền.
(2) Báo cáo chuyên đề về chiến tranh biên giới Tây Nam, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, phòng Quân ủy Trung ương, hồ sơ 75, tr.30-31.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:37:34 am
Tiếp đó, ngày 27-7-1978, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ mới, xác định tình trạng vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh trên một bộ phận đất nước và đề ra yêu cầu: “Khẩn trương xây dựng rèn luyện bộ đội chủ lực tinh nhuệ và cơ động tăng cường trang bị và năng lực chỉ huy cho bộ đội địa phương, chuẩn bị lực lượng dự bị hùng hậu. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp có chất lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu cao. Ở những nơi chưa có chiến sự, quân đội phải sẵn sàng chiến đấu và tích cực làm tốt nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Tổ chức lãnh đạo và chỉ huy thống nhất công tác quốc phòng và an ninh trên từng địa bàn huyện, tỉnh và từng mặt trận”(1).

Tháng 8-1978, toàn quân bước vào thực hiện nhiệm vụ huấn luyện giai đoạn 2, nâng cao sức mạnh chiến đấu và chiến đấu trong tình thế mới. 100% đơn vị quân binh chủng ở phía bắc hoàn thành các chỉ tiêu huấn luyện đề ra với hơn 80% các khoa mục kiểm tra đạt khá và giỏi. Ở phía Nam, các đơn vị vừa chiến đấu bảo vệ biên giới vá luân phiên huấn luyện bộ đội, cũng cơ bản hoàn thành các nội dung huấn luyện đề ra.

Về xây dựng lực lượng, Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4 chuyển toàn bộ lực lượng sang làm nhiệm vụ chiến đấu. Các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương các Quân khu 5, 7, 9 xây dựng thêm các sư đoàn, trung đoàn chiến đấu mới, biên chế đủ quân cho các đơn vị sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu ở phía trước. Các quân binh chủng đều có bước phát triển mới về lực lượng. Một số binh chủng tiếp nhận thêm trang bị mới. Đặc biệt lực lượng dân quân, du kích các xã biên giới phát triển khá mạnh. Các xã dọc biên giới Tây Nam đều xây dựng được đại đội du kích (các xã trọng điểm có từ 2 đến 3 đại đội du kích).

Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các đơn vị tổ chức nhiều cuộc hội thao, diễn tập, kiểm tra kết quả huấn luyện. Chưa mùa huấn luyện nào kể từ sau ngày đất nước thống nhất, bộ đội được huấn luyện nhiều thời gian, huấn luyện kỹ và diễn tập với nhiều hình thức tác chiến phong phú: Đánh địch tiến công bằng đường bộ, đánh địch đổ bộ đường không, đường biển, chống bọn phản động gây bạo loạn trong nội địa… Qua huấn luyện, diễn tập, nhiều đơn vị rút ra được những bài học bổ ích.

Trong khi toàn quân bước vào huấn luyện giai đoạn 2 thì trên chiến trường biên giới Tây Nam, lực lượng chiến đấu của các Quân khu 5, 7, 9, Quân đoàn 3, 4 tích cực tổ chức phòng ngự đánh địch cải tạo địa bàn, xây dựng phòng tuyến biên giới theo chủ trương của Bộ. Phòng ngự trong mùa mưa, khó khăn đặt ra đối với các đơn vị là làm thế nào để vận chuyển gạo, đạn đáp ứng yêu cầu chiến đấu của các đơn vị phía trước. Hàng nghìn tấn lương thực, đạn dược được chuyển đến các trận địa chốt phía trước là cố gắng lớn của ngành hậu cần các đơn vị. Đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, trên các trận địa phòng ngự, bộ đội ta ngày đêm vừa đánh địch bảo vệ trận địa, vừa luân phiêu củng cố hầm hào công sự. Những hôm trời mưa to, anh em phải thay nhau tát nước, giữ cho hầm hố khỏi ngập nước. Trong thời gian phòng ngự, các đơn vị tổ chức tốt các đợt thay quân, tăng cường đảm bảo đời sống và tổ chức nhiều tổ quân y điều trị tại chỗ, bảo đảm sức chiến đấu cho bộ đội.

Lợi dụng mùa mưa, địch tổ chức nhiều cuộc tập kích đánh phá các các trận địa của ta, nhằm đánh bật các đơn vị ta ra khỏi chốt trong mùa mưa, phá thế chuẩn bị của ta, chiếm các địa bàn có lợi, chuẩn bị cho những âm mưu quân sự mới trong mùa khô sắp tới.

Thực hiện nhiệm vụ Bộ giao phòng ngự ở vùng đông, đông bắc Soài Riêng, ngăn chặn một hướng tiến công quan trọng của địch vào Tây Ninh, cửa ngõ bảo vệ Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 8-1978, Quân đoàn 4 triển khai các trận địa phòng ngự sẵn sàng đánh địch. Để đánh bại tất cả các đợt tiến công của địch (lúc cao nhất 7 sư đoàn), trong suốt 4 tháng, Quân đoàn 4 và các đơn vị tăng cường (Sư đoàn 2 bộ binh Quân khu 5, một số đơn vị pháo binh, xe tăng) đã kiên trì bám trận địa. Trong 143 ngày đêm phòng ngự kiên cường, Quân đoàn 4 đánh 597 trận lớn nhỏ, gây cho địch nhiều thiệt hại(2).

Cùng thời gian này, Sư đoàn 5 (Quân khu 7) và lực lượng bộ đội tỉnh Sông Bé đảm nhiệm phòng ngự từ ngã ba Snoul đến nam dốc Lu. Bộ đội tỉnh Sông Bé và các đơn vị binh chủng của quân khu phòng ngự từ dốc Lu về phía sau (đường số 13) đã tích cực chủ động đánh địch, giữ vững địa bàn, đảm bảo an toàn vận chuyển của ta trên đường số 13.

Trong suốt mấy tháng phòng ngự mùa mưa, cán bộ, chiến sĩ quân đoàn liên tục đánh địch giữ vững địa bàn, luân phiên nhau củng cố xây dựng lực lượng. Tháng 8-1978, Quân đoàn 3 mở hai đợt tiến công. Đợt 1 từ ngày 12 đến 19-8 vào tuyến phòng ngự ngăn chặn của địch trên trục đường 701 (phía tây đường số 7). Đợt 2 từ ngày 20 đến ngày 30-8-1978. Sau hai đợt tiến công, Quân đoàn 3 làm chủ tuyến phòng ngự từ Pheang đến Phsaâm, loại khỏi vòng chiến đấu 3 sư đoàn địch.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr.543.
(2) Trong đợt hoạt động này, Quân đoàn 4 đánh thiệt hại 2 trung đoàn, 6 tiểu đoàn, 5 đại đội và nhiều trung đội địch, diệt và bắt gần 8.000 tên, phá hủy 13 xe tăng, thu 1 xe M113 và nhiều đồ dùng quân sự của địch.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:38:26 am
Trên địa bàn Quân khu 9, Quân khu 5, do những nét đặc thù riêng về địa hình, trong suốt thời kỳ tác chiến phòng ngự từ tháng 11-1978, các hoạt động tác chiến của ta và địch diễn ra ở mức hạn chế. Tranh thủ thời gian vừa đánh địch bảo vệ địa bàn, các đơn vị vừa tích cực củng cố lực lượng, xây dựng phòng tuyến biên giới, chuẩn bị tác chiến trong mùa khô.

Trong 4 tháng phòng ngự mùa mưa (từ tháng 8 đến tháng 11-1978) trên biên giới Tây Nam là thời gian thử thách rèn luyện ý chí chiến đấu, tinh thần chịu đựng gian khổ hy sinh của bộ đội; đồng thời cũng là thời gian ta tích cực phát triển lực lượng, chuẩn bị chiến trường cho hoạt động tác chiến mùa khô. Vượt qua mọi khó khăn gian khổ ác liệt, bộ đội ta trên các tuyến phòng ngự đã thực hiện tốt nhiệm vụ đánh địch bảo vệ địa bàn. Thực hiện tốt phương châm: tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng phát triển lực lượng ta, cải tạo địa bàn, tạo thế tiến công, giúp đỡ các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phát triển, tích cực làm tốt mọi mặt công tác chuẩn bị cho trận quyết chiến cuối cùng, đó là cơ sở để ta bước vào thực hiện kế hoạch tác chiến mùa khô giành thắng lợi lớn.

Tháng 12-1978, các đơn vị toàn quân hoàn thành kế hoạch huấn luyện giai đoạn 2 với chất lượng cao. Sức mạnh chiến đấu của các quân khu, quân đoàn chủ lực (nhất là các quân khu phía Nam) được nâng lên một bước rõ rệt. Trong thời gian này, trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, so sánh lực lượng và thế trận trên chiến trường đang phát triển thuận lợi cho ta. Kẻ thù đang lâm vào thế bị động phải đối phó ở ngoài biên giới và nội địa. Nội bộ địch ngày càng mâu thuẫn sâu sắc, các cuộc thanh trừng ở các quân khu, sư đoàn tin cậy của Pôn Pốt ở xung quanh Phnôm Pênh liên tiếp xảy ra. Phong trào yêu nước của quần chúng nổi dậy ở nhiều nơi chuyển thành cao trào với sự ra đời của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia vào đầu tháng 12-1978(1).

Trước bước phát triển mới của phong trào cách mạng Campuchia và so sánh lực lượng trên toàn tuyến biên giới hoàn toàn có lợi cho ta, ngày 6 và 7 tháng 12-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới Tây Nam, đồng thời sẵn sàng hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia nổi dậy đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 17-12-1978, tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ và thông qua quyết tâm chiến đấu của các đơn vị. để tập trung lực lượng cho cuộc tổng tiến công, Bộ quyết định tăng cường Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 306) trên hướng tiến công của Quân khu 9 và huy động một lực lượng lớn các phương tiện chiến đấu của các quân chủng, binh chủng ở phía Nam vào cuộc tổng tiến công này.

Phát hiện sự chuẩn bị của ta, ngày 23-12-1978, địch huy động 10 trong số 19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta, trong đó chúng dùng 3 sư đoàn bộ binh đánh vào Bến Sỏi, Bến Cầu (Tây Ninh). Trước tình hình hậu phương chiến dịch bị uy hiếp, Bộ ra lệnh cho Quân đoàn 4 phản công tiêu diệt quân địch mở màn cuộc tổng tiến công trên toàn tuyến biên giới. Ngày 24-12-1978, Quân đoàn 4 sử dụng 2 sư đoàn (341 và 2), 1 trung đoàn thuộc Sư đoàn 7, 2 trung đoàn địa phương (Quân khu 7) và một số đơn vị pháo binh, xe tăng, thiết giáp thực hành phản công địch trên hai hướng, ta hình thành thế bao vây chặt 3 sư đoàn địch ở khu vực Bến Sỏi. Ngày 24-12, địch cho một trung đoàn bộ binh và 15 xe tăng ra phản kích bị ta chặn đánh quyết liệt phải co lại. Đến ngày 28-12, ta mở đợt tiến công quyết định diệt và bắt toàn bộ quân địch xâm lấn khu vực tây bắc Bến Sỏi.

Trong lúc Quân đoàn 4 đánh địch ở Bến Sỏi, Quân đoàn 3 tổ chức thành 11 khối hành quân vào tập kết ở khu vực Bảy Núi (An Giang), Quân khu 9 phản kích địch ở nhiều nơi. Sư đoàn 339 tổ chức nhiều trận đánh ở khu vực Gò Rượi, Gò Viết Thuộc, Gò Châu Giang, Đứt Gò Suông, đuổi địch về bên kia biên giới. Sư đoàn 4, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 8) và Trung đoàn 2 (Sư đoàn 320 phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tập trung đánh địch, khôi phục toàn bộ khu vực Rộc Xây, Sư đoàn 8 (thiếu Trung đoàn 2) mở cuộc phản công khôi phục khu vực bắc Hà Tiên.

Trên hướng Quân khu 7, từ ngày 28 đến ngày 30-12-1978, Quân khu 5 phối hợp chặt chẽ với Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4 cơ bản hoàn thành nhiệm vụ đánh địch lấn chiếm, thu hồi đất đai, gấp rút chuẩn bị chuyển sang truy kích địch theo yêu cầu của bạn.

Ngày 31-12-1978, Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang Quân khu 9 nổ súng đánh địch ở khu vực kênh Vĩnh Tế, thu hồi phần đất cuối cùng của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm. Tiếp đó, các cánh quân của ta phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia mở cuộc tiến công giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh (7-1-1979), kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Đây là cuộc chiến tranh nằm trong ý đồ chiến lược chung của các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ, do tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tiến hành nhằm thực hiện hiến tranh phá hoại nhiều mặt làm cho Việt Nam mất ổn định không thể tập trung phát triển kinh tế, xây dựng đất nước sau chiến tranh và cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.


(1) Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia thành lập ngày 2-12-1978 do đồng chí Hêng Xom Rin làm Chủ tịch. Mặt trận đã công bố Cương lĩnh 11 điểm để đoàn kết toàn dân nổi dậy đánh đổ chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân. Mặt trận kêu gọi chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:41:10 am
Để tiến hành chiến tranh chống Việt Nam, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn đã tích cực chuẩn bị từ sớm. Vừa tạo dư luận kích động hận thù giữa hai dân tộc coi “Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù số 1”, chúng vừa tổ chức xây dựng hệ thống chính quyền theo kiểu quân sự hóa, phát triển nhanh chóng lực lượng quân sự. Từ 7 sư đoàn (năm 1975) lên 14 sư đoàn (30-4-1977), rồi 23 sư đoàn với hàng trăm khẩu pháo tầm xa và xe tăng vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh (12-1978). Như vậy, đây là cuộc chiến tranh được lực lượng phản động Campuchia và các thế lực thù địch chuẩn bị rất kỹ càng với nhiều tham vọng đen tối.

Trong chỉ đạo tiến hành chiến tranh, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã tận dụng mọi thời cơ, thủ đoạn để tiến hành chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam Việt Nam, trong đó tác chiến chủ yếu vào ban đêm với quy mô từ trung đội, đại đội đến trung đoàn (có một số trận cấp sư đoàn). Chúng thường nhằm vào các mục tiêu quan trọng ở gân biên giới, thực hiện đánh nhanh, rút nhanh. Khi gặp chủ lực ta thì phân tán luồn lách để bảo toàn lực lượng rồi tổ chức tập kích, phục kích đánh tiêu hao lực lượng ta.

Giao đoạn đầu của cuộc chiến tranh (từ 30-4 đến 25-9-1977), chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari triệt để lợi dụng chủ trương giải quyết mọi xung đột biên giới bằng đàm phán hòa] bình của Chính phủ ta để triển khai lực lượng tiến công ta, gây cho ta nhiều tổn thất. Khi bị ta giáng trả, thiệt hại nặng, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari buộc phải đưa cuộc chiến tranh ra công khai trước dự luận quốc tế (từ ngày 31-12-1978) nhằm lợi dụng các diễn đàn quốc tế để xuyên tạc, vu cáo hòng cô lập ta về mặt ngoại giao. Bằng việc xuyên tạc vu váo rồi đưa cuộc chiến tranh ra công khai, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari muốn làm cho cuộc chiến tranh biên giới trở thành điểm nóng trong khu vực, thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế, đặc biệt tạo cớ để các thế lực thù địch đưa quân vào can thiệt, giúp đỡ có lợi cho chúng.

Về phía Việt Nam, đây là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chính nghĩa vì hòa bình, vì tình hữu nghị lâu đời đối với nhân dân Campuchia anh em. Sau 30 năm kháng chiến, quân và dân ta không có nguyện vọng nào lớn hơn là hòa bình, nhằm tái thiết đất nước, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, góp phần vào sự ổn định của khu vực và củng cố tình đoàn kết gắn bó giữa ba nước trên bán đảo Đông Dương. Nhưng được sự trợ giúp, tiếp tay của các thế lực phản động quốc tế, bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari đã phát động chiến tranh ở biên giới Tây Nam. Chúng ta phải đứng lên bảo vệ Tổ quốc, không còn con đường nào khác.

Tuy nhiên, “khuyết điểm rất lớn về chiến lược của ta trong cuộc chiến tranh biên giới trên hướng Tây Nam là ta mất cảnh giác nghiêm trọng, không kịp thời xác định kẻ thù. Không thấy sớm K (Campuchia) đã chuyển thành thù… Việc chậm xác định kẻ thù một cách rành mạch dứt khoát đã đặt chúng ta ngay từ đầu trong tình thế không có chuẩn bị, bị bất ngờ trong việc đối phó với cuộc chiến tranh xâm phạm biên giới”(1), nên trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh “việc bảo vệ biên giới chưa được tiến hành một cách chủ động và có hiệu lực theo một kế hoạch thống nhất, chặt chẽ, sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang và của nhân dân địa phương chưa được phát huy mạnh mẽ”(2), do đó “đã để xảy ra những thiệt hại lớn về tính mạng và tài sản của nhân dân mà không đối phó được kịp thời và có hiệu quả”(3).

Ta sử dụng lực lượng và vận dung các thủ đoạn tác chiến để đánh trả lại các cuộc tiến công của địch trong giai đoạn đầu còn bộc lộ nhiều hạn chế. “Bố trí lực lượng còn phân tán, tổ chức chỉ huy nhiều nơi còn lỏng lẻo, chưa nắm chắc tình hình địch, chưa có những cách đánh thích hợp, chưa đánh trả thật đích đáng, chưa thực hiện được tiêu diệt gọn địch”(4).

Sau khi địch mở rộng và đưa cuộc chiến tranh ra công khai, ta đã phát động chiến tranh nhân dân tại chỗ rộng khắp, tích cực củng cố tuyến phòng thủ biên giới, tập trung lực lượng hợp lý trên các khu vực trọng điểm. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, giữa tác chiến và vận động binh lính địch. Thực hiện tốt ba biện pháp chiến lược (xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc, xây dựng thế trận có lợi, khẩn trương củng cố các lực lượng vũ trang kể cả số lượng và chất lượng. Kiên quyết tiến công và phản công địch một cách chủ động bằng lực lượng ba thứ quân. Tích cực tiêu hao sinh lực địch, đánh địch cả ở trong và ngoài biên giới, giữ vững thế chủ động chiến lược), tạo thế và lực có hợi cho ta, nên từng bước giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Khi thời cơ xuất hiện (nhân dân Campuchia nổi dậy đấu tranh ở nhiều nơi, quân Pôn Pốt phải co về đối phó), ta đã nhanh chóng tập trung lực lượng mở các đợt phản công quy mô lớn, tiêu diệt nhiều sinh, phương tiện chiến tranh của địch, đẩy chúng ra khỏi biên giới nước ta và tiến công vào tận nơi trung tâm đầu não, giúp cách mạng và nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt, kết thúc chiến tranh một cách nhanh gọn, không để các thế lực thù địch có thời gian tạo cớ can thiệp.

Thắng lợi của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam đã đẩy lùi, đập tan cuộc chiến tranh xâm lược lãnh thổ Việt Nam của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, tạo điều kiện để quân và dân ta tiếp tục hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia giải phóng đất nước, giữ vững thành quả của cách mạng, đồng thời chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc.


(1), (2) Mấy nhận xét lớn về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và báo cáo việc lực lượng vũ trang Campuchia tấn công ta ở biên giới Tây Nam, Báo cáo số 26-QU/TW ngày 22-7-1978, Văn phòng Quân ủy Trung ương, hồ sơ 1022, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 1, 2.
(3) Kết luận của đồng chí Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị bàn về việc xây dựng và bảo vệ biên giới ngày 27 và 28-7-1977, hồ sơ 973, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr.2.
(4) Chỉ thị số 238-QU/TW ngày 6-101978 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, hồ sơ số 970, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr.2.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:42:35 am
*
*   *

Vừa kết thúc cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân lại phải đương đầu với những khó khăn và thử thách lớn, do các thế lực phản động quốc tế gây ra, đặc biệt là nguy cơ xảy ra một cuộc tiến công quy mô lớn của quân Trung Quốc từ phía Bắc.

Ngay từ những năm đầu Việt Nam thống nhất đất nước, Trung Quốc đã tăng cường hoạt động quân sự, khiêu khích vũ trang, xâm lấn đất đai (từ 234 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, tăng lên 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978), gây tình hình căng thẳng, phức tạp trên vùng biên giới phía Bắc Việt Nam.

Từ tháng 5-1978, Trung Quốc vô cớ dựng lên “sự kiện nạn kiều”, thực chất là dụ dỗ, đe dọa, lần lượt cưỡng ép gần 20 vạn dân nước họ đang sống yên ổn ở Việt Nam phải về nước. Tiếp đó, họ trắng trợn vu cáo Việt Nam ngược đãi, khủng bố xua đổi nhân dân nước họ, rút chuyên gia, gây tình hình hết sức căng thẳng.

Trước diễn biến tình hình căng thẳng trên vùng biên giới phía Bắc, Đảng và Nhà nước ta kiên trì chủ trương giải quyết bằng con đường hòa bình; đồng thời khẩn trương tăng cường lực lượng, đẩy mạnh xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước, nhất là ở Quân khu 1 và Quân khu 2. Đây là một địa bàn chiến lược rất quan trọng, án ngữ toàn bộ vùng biên giới phía bắc, tây bắc và đông bắc của Tổ quốc, có chung đường biên giới với Trung Quốc dài hơn 1.400 km, chạy qua 145 xã, 19 thị trấn thuộc 27 huyện của 6 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu.

Công an nhân dân vũ trang (nay là bộ đội biên phòng)(1) Việt Nam làm nhiệm vụ ở các đồn và cửa khẩu vùng biên giới các tỉnh phía Bắc thường xuyên tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của những người Hoa trở về nước theo yêu cầu của họ(2).

Quán triệt nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (7-1978), Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo chấn chỉnh lại tổ chức, chuyển một bộ phận lực lượng quân đội sang xây dựng kinh tế và triển khai bố trí lại lực lượng cho phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Nhận thấy vị trí, vai trò chiến lược của vùng biên giới phía Bắc, từ những năm 1976,-1977, Bộ Tổng tham mưu đã điều động hai sư đoàn bộ binh (Sư đoàn 316 tách khỏi Quân đoàn 3 và Sư đoàn 3 tách khỏi Quân khu 5) từ phía Nam ra, củng cố và huấn luyện tăng cường cho các hướng Lào Cai và Lạng Sơn. Tiếp đó, Bộ Tổng tham mưu điều động một số sư đoàn, trung đoàn lên xây dựng kinh tế, kết hợp với phòng thủ trên một số trọng điểm vùng biên giới phía Bắc.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc, tháng 6-1978, Hội đồng Chính phủ quyết định tách tỉnh thuộc Quân khu Tây Bắc cũ và ba tỉnh Vĩnh Phú (Phú Thọ, Vĩnh Phúc), Hoàng Liên Sơn (Yên Bái, Lào Cai), Hà Tuyên (Tuyên Quang, Hà Giang) khỏi Quân khu 1 để thành lập Quân khu 2 (gồm các tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Sơn La, Lai Châu), do Thiếu tướng Vũ Lập làm Tư lệnh kiêm Chính ủy; đồng thời sáp nhập hai tỉnh Hà Bắc (Bắc Giang, Bắc Ninh) và Quảng Ninh vào Quân khu 1 để thành lập Quân khu 1 (gồm các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Hà Bắc, Quảng Ninh) do Thượng tướng Đàm Quang Trung làm Tư lệnh và Thiếu tướng Hoàng Phương làm Chính ủy.

Trước những diễn biến ngày càng phức tạp trên tuyến biên giới phía Bắc, Bộ Tổng tham mưu ra chỉ thị: “Tổ chức xây dựng thế trận phòng thủ ở các tỉnh biên giới và quần đảo Đông Bắc thuộc Quân khu 1 và Quân khu 2”, trong đó chỉ rõ một số công việc cần làm ngay là: Tăng cường củng cố bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, triển khai lực lượng phòng thủ và cơ động xây dựng công trình chiến đấu, tổ chức hệ thống kho trạm, củng cố hệ thống chỉ huy, thông tin liên lạc.


(1) Ngày 10-10-1978, Bộ chính trị ra Nghị quyết số 92-NQ/TW chuyển giao nhiệm vụ và lực lượng công an nhân dân vũ trang từ Bộ Nội vụ sang Bộ Quốc phòng. Ngày 11-12-1978, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển lực lượng công an nhân dân vũ trang thành bộ đội biên phòng, một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam.
(2) Trong cuộc đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép người Hoa về nước, đồng chí Lê Đình Chính, tiểu đội trưởng thuộc Đại đội 6 (Trung đoàn 12) bộ đội biên phòng đã nêu tấm gương dũng cảm, hy sinh vì nhiệm vụ ở khu vực cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn). Ngày 31-10-1978, Đảng và Nhà nước quyết định truy tặng liệt sĩ lê Đình Chính danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:43:32 am
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu, các lực lượng vũ trang Quân khu 1 và Quân khu 2 gấp rút được chấn chỉnh về tổ chức biên chế, phát triển lực lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu. Lúc này, bộ đội chủ lực Quân khu 1 có 5 sư đoàn bộ binh (3, 338, 346, 325B, 432), Lữ đoàn 575 công binh, Trung đoàn 243 phòng không, Trung đoàn 38 pháo binh và một số phân đội binh chủng. Quân khu 2 có 3 sư đoàn bộ binh (316, 345, 411), Trung đoàn bộ binh 82, các trung đoàn phòng không 297, pháo binh 168, công binh 98, hai tiểu đoàn thông tin và một số đại đội độc lập. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện trên địa bàn Quân khu 1, Quân khu 2 cũng được mở rộng, phát triển cả về số lượng và tổ chức biên chế. Mỗi tỉnh biên giới có 2 trung đoàn (Lạng Sơn có 3 trung đoàn), tỉnh tuyến hai 1 trung đoàn. Mỗi huyện biên giới có 1 tiểu đoàn, huyện ké cận tuyến sau có 1 tiểu đoàn, hoặc 2, 3 đại đội.

Lực lượng công an nhân dân vũ trang trên tuyến biên giới Quân khu 1 và Quân khu 2 được tăng cường gồm 63 đồn biên phòng và 36 trạm kiểm soát cửa khẩu thuộc đồn. Mỗi tỉnh biên giới tổ chức 3 đại đội cơ động. Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ Tư lệnh Biên phòng) tổ chức Trung đoàn cơ động 12 trên hướng Lạng Sơn và Trung đoàn 26 trên hướng Lào Cai. Dân quân tự vệ trên địa bàn các Quân khu 1, 2 được củng cố về tổ chức biên chế và tăng cường vũ khí trang bị.

Căn cứ vào vị trí chiến lược của từng địa bàn, Quân khu 1 bố trí lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ trên các hướng Lạng Sơn (trọng điểm là Đồng Đăng, Cao Lộc, Lộc Bình), hướng Cao Bằng (trọng điểm là Hà Quảng, Trà Lĩnh, Hòa An), và hướng Quảng Ninh.

Quân khu 2 bố trí lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ trên các hướng Hoàng Liên Sơn (trọng điểm là thị xã Lào Cai), hướng Lai Châu (trọng điểm là thị trấn Phong Thổ) và hướng Hà Giang. Quân khu 2 triển khai Sở chỉ huy phía trước trên hướng phòng ngự chủ yếu của quân khu (hướng Hoàng Liên Sơn) và tăng cường chỉ huy cho hướng Phong Thổ (Lai Châu). Ở từng hướng va khu vực trọng điểm, bên cạnh các đơn vị bộ đội chủ lực quân khu, có bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân du kích bố trí ở phía trước. Hệ thống kho trạm, căn cứ hậu cần cũng được xác lập và triển khai trên tất cả các hướng biên giới phía Bắc.

 Nằm tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu, Bộ Tổng tham mưu cử Thiếu tướng Đặng Kinh, Phó Tổng tham mưu trưởng lên biên giới kiểm tra, đôn đốc các lực lượng vũ trang địa phương về công tác phòng thủ. Trên từng hướng, hệ thống phòng thủ gồm các công sự phòng ngự bằng gỗ đất, hình thành khu vực phòng ngự từng trung đoàn kết hợp với lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và dân quân, du kích trên tuyến một. Bên cạnh tuyến phòng thủ gồm các trận địa chiến đấu của bộ đội tập trung, hệ thống làng xã chiến đấu, khu chiến đấu của các cơ sở quốc doanh cho lực lượng dân quân tự vệ ở một số khu vực trọng điểm trên các hướng Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Quảng Ninh cũng được xây dựng; đồng thời hệ thống vật cản sát đường biên giới Việt - Trung được chú trọng xây dựng, nhằm ngăn cản phía Trung Quốc tung trinh sát, thám báo đột nhập sang đất ta, giữ vững an ninh vùng biên giới.

Cùng với việc gấp rút tăng cường lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ trên các hướng quân khu, tỉnh phía Bắc, ở tuyến sau, lực lượng vũ trang và thế trận phòng thủ các quân khu, tỉnh cũng được tăng cường xây dựng. Quân khu 3, Quân khu 4 củng cố các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, chuyển một số đơn vị xây dựng kinh tế sang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu chống địch đổ bộ đường không và đường biển, bảo vệ vững chắc hậu phương; đồng thời sẵn sàng phương án chi viện lực lượng và vật chất cho các quân khu, tỉnh phía Bắc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng biên cương của Tổ quốc.

Trong điều kiện vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh trên một bộ phận đất nước ở biên giới Tây Nam, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chỉ đạo tăng cường xây dựng các binh đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ mạnh để làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Quân đoàn 1, binh đoàn chủ lực cơ động chiến lược của Bộ đứng chân trên địa bàn phía bức được tăng cường về biên chế tổ chức, trang bị vũ khí đảm nhiệm bảo vệ Thủ đô Hà Nội và một số mục tiêu chủ yếu ở vùng lân cận.

Quân chủng Phòng không và Quân chủng Không quân thực hiện chấn chỉnh về tổ chức biên chế, bổ sung quân số, vũ khí trang bị theo quy định của Bộ, nâng cao sức mạnh chiến đấu, đồng thời xây dựng một số đơn vị mới, bố trí trên các địa bàn chiến lược, sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu quân binh chủng và với các quân khu, bảo vệ những mục tiêu được giao. Quân chủng Hải quân chỉ đạo lực lượng hải quân làm nhiệm vụ phòng thủ ven biển và hải đảo vùng Đông Bắc kiện toàn về tổ chức, trang bị và chỉ huy, đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu trong tình hình mới.

Các binh chủng Pháo binh, Công binh, Đặc công, Tăng - Thiết giáp, Hóa học và Thông tin liên lạc cũng được tăng cường về lực lượng và bổ sung trang bị kỹ thuật theo phương án tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn trước đối tượng tác chiến mới, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao phó.

Ngày 3-1-1978, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, đánh dấu bước phát triển mới của tình đoàn kết và hợp tác toàn diện giữa hai nước và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với Việt Nam. Cùng với những điền khoản về họp tác phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, Hiệp ước còn đề cập đến vấn đề quốc phòng - an ninh, quy định: Hai bên sẽ trao đổi ý kiến với nhau về tất cả các vấn đề quan trọng có liên quan đến lợi ích hai nước; trong trường hợp một trong hai bên bị đe dọa tiến công thì hai bên sẽ lập tức trao đổi với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực đảm bảo hòa bình và an ninh của hai nước.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:44:42 am
Đầu tháng 12-1978, Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ của quân và dân ta trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh: Tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ cấp bách, sẵn sàng mọi mặt công tác chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh quy mô lớn có thể xảy ra.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ năm, ngày 6-1-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tăng cường chiến đấu ở các tỉnh phía Bắc, nêu rõ: “Phải theo dõi nắm chắc tình hình địch, kịp thời phát hiện âm mưu và hành động tiến công phá hoại của chúng, quyết không để bị bất ngờ, không mắc mưu khiêu khích của chúng… Gấp rút đẩy mạnh công tác sẵn sàng chiến đấu ở các địa phương của toàn biên giới, bảo đảm sẵn sàng đánh bại địch ngay từ đầu trong bất kỳ tình huống nào”(1).

Thực hiện Nghị quyết của ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 8-1-1989, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị Sẵn sàng chiến đấu, Chỉ thị nhấn mạnh: “Tất cả các quân khu, quân chủng, binh chủng, đặc biệt là Quân khu 1, Quân khu 2 và các tỉnh biên giới phía Bắc, các quân chủng Phòng không, Không quân, Hải quân phải ở trong tư thế sẵn sàng chiến đâu cao nhất. Các sư đoàn, các đơn vị trực thuộc của quân khu và quân chủng, các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội bộ đội địa phương tỉnh và huyện phải bảo đảm từ 1/3 đến 1/2 quân số luôn luôn tại trận địa, chiến hào. Các trận địa pháo mặt đất, pháo phòng không phải bố trí sẵn ở trận địa để nếu có địch là nổ súng được ngay”(2). Tiếp đó, ngày 11-1, Bộ Tổng tham mưu ra mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất cho các lực lượng vũ trang, đặc biệt là các đơn vị làm nhiệm vụ trên toàn tuyến biên giới phía Bắc.

Thực hiện chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương vá mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu, toàn quân, đặc biệt là các lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc gấp rút củng cố thế trận phòng thủ, thực hiện chấn chỉnh tổ chức biên chế, bổ sung quân số và trang bị kỹ thuật, tăng cường huấn luyện, hoàn chỉnh phương án tác chiến, sẵn sàng chiến đấu cao.

Đối với các cơ quan, ban ngành của Nhà nước và các tỉnh (thành), huyện (quận) ở tuyến sau), Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị nêu rõ: Cần dự kiến kế hoạch chuẩn bị lực lượng, chủ động hiệp đồng giữa các ngành và địa phương, khi cần kịp thời cơ động lực lượng chiến đấu chi viện các tỉnh, huyện phía trước; đồng thời có kế hoạch sơ tán và tổ chức lực lượng tại chỗ, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ hậu phương. Theo chủ trương đó, Hà Nội và các thành phố, thị xã lớn; các sân bay, bến cảng, kho tàng, xí nghiệp, nhà trường trên cả nước, nhất là ở phái Bắc chuẩn bị kế hoạch sẵn sàng chiến đấu và sơ tán về các vùng nông thôn và miền núi khi cần thiết.

Như vậy, từ tháng 7-1978 đến giữa tháng 2-1979, quân và dân cả nước, đặc biệt là các lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2; nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc đã nhanh chóng chuyển địa bàn rộng lớn, vốn là hậu phương trước đây thành tiền tuyến của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Từ chỗ chưa chuẩn bị dễ bị bất ngờ khi quân Trung Quốc tiến công, quân và dân ta đã nhận thức đối tượng tác chiến mới, nhanh chóng hình thành 3 hướng chiến lược (Quân khu 1, Quân khu 2, Quảng Ninh); bố trí trên mỗi hướng lực lượng tương đương một quân đoàn và tổ chức tuyến phòng thủ bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Đồng thời, xây dựng kế hoạch hiệp đồng tác chiến giữa các Quân khu 1, 2, 3 và các quân chủng Phòng không, Không quân, Hải quân.

Thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc được tăng cường, lực lượng vũ trang ba thứ quân phát triển cả về số lượng và chất lượng, bố trí hợp lý trên các hướng, các khu vực trọng điểm, kết hợp giữa lực lượng của tỉnh, huyện với chủ lực cơ động của quân khu và Bộ. Tuyến phòng thủ biên giới được xây dựng tương đối liên hoàn, gồm các công sự phòng ngự (công sự, hào hầm, vật cản, hệ thống quan sát, trinh sát… chủ yếu bằng gỗ, đất), hình thành các điểm tựa trung đội, đại đội, cụm điểm tựa tiểu đoàn, khu vực phòng ngự của tiểu đoàn và sư đoàn kết hợp với các chốt, các cụm bản - căn cứ liên hoàn của bộ đội địa phương và dân quân trên tuyến một. Hệ thống tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy từ quân khu đến các tỉnh, huyện bảo đảm thống nhất, phương án tác chiến được bổ sung hoàn chỉnh, dự trữ vật chất, kỹ thuật được bổ sung. Kế hoạch hậu phương chi viện tiền tuyến, tỉnh phía sau chi viện tỉnh phía trước được chuẩn bị chu đáo.


(1) Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Chỉ thị Về việc tăng cường sẵn sàng chiến đấu ở các tỉnh phía Bắc, ngày 6-1-1979, hồ sơ số 411, tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
(2) Quân ủy Trung ương: Chỉ thị sẵn sàng chiến đấu gửi các quân khu, quân đoàn (ngày 8-1-1979), tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:46:18 am
Tuy nhiên, quá trình chuẩn bị của ta mới là bước đầu, một số mặt công tác chuẩn bị triển khai chậm, thiếu biện pháp thực hiện cụ thể. Công sự xây dựng trên các tuyến phòng thủ biên giới chủ yếu dã chiến, chưa tạo thành thế liên hoàn giữa trận địa phòng thủ của bộ đội làng xã chiến đấu; lực lượng vũ trang phát triển nhanh, phần lớn là những đơn vị làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế chuyển sang làm nhiệm vụ chiến đấu, hoặc có đơn vị mới xây dựng, nhiều tân binh. Vũ khí trang bị không đồng bộ, dự trữ lương thực, đạn dược tại chỗ ít… Nhận xét về vấn đề này, Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ rõ: Trên tuyến biên giới phía Bắc, từ chỗ chưa có chuẩn bị, dễ bị bất ngờ khi bị tiến công, đã chuyển sang trạng thái có chuẩn bị một bước tương đối cơ bản, đảm bảo ngăn chặn tiến công quy mô nhỏ, gây bạo loạn, nhưng khi quân Trung Quốc tiến công quy mô cỡ 3 đến 4 quân đoàn thì lúng túng, bị động, không đủ lực lượng. Nhưng nhờ những nỗ lực to lớn, nhất là sự chi viện của cả nước, chúng ta đã xây dựng được một thế trận chiến tranh nhân dân trên biên giới phía Bắc, hạn chế được khả năng bị bất ngờ, khắc phục được tình trạng sơ hở về chiến lược. Quân và dân ta chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao, quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.

Từ cuối năm 1978, Trung Quốc tăng cường làm đường cơ động, xây dựng căn cứ, hệ thống kho trạm, vận chuyển tập kết vật chất, sơ tán nhân dân về phía sau. Đồng thời, thực hiện các hoạt động nghi binh, đề ra kế hoạch “dạy cho Việt Nam một bài học” và chuẩn bị chiến tranh “trừng phạt Việt Nam”. Họ tuyên bố lừa mị dư luận trong nước và quốc tế rằng chỉ sử dụng lực lượng “bộ đội biên phòng” để thực hiện “phản kích tự vệ”, bởi Việt Nam gây ra xung đột, “lấn chiếm đất đai”, “quấy rối biên cương” phía nam. Thực tế trên các vùng biên giới Việt - Trung không có lực lượng vũ trang nào của Việt Nam được triển khai gây sức ép, buộc Trung Quốc phải “tự vệ”, phải “trừng phạt Việt Nam”. Chỉ có phía Trung Quốc chuẩn bị lực lượng quy mô lớn chống Việt Nam. Từ tháng 8-1978, phía Trung Quốc điều động lực lượng từ phía sau ra biên giới gồm 32 sư đoàn bộ binh (9 quân đoàn và 5 sư đoàn độc lập), cùng 550 xe tăng, xe bọc thép, 2.558 pháo, có 1.092 pháo xe kéo, 676 máy bay… Trên hướng biển có hàng chục tàu chiến thuộc hạm đội Nam Hải hỗ trợ. Ngoài ra, phía Trung Quốc còn bố trí nhiều trận địa pháo, trạm ra đa, trang bị vũ khí cho dân binh các công xã ở vùng biên giới, tổ chức nhiều cuộc diễn tập, gây căng thẳng trên vùng biên giới phía Bắc.

Đêm 16 rạng ngày 17-2-1979 (đêm thứ bảy rạng ngày chủ nhật), lợi dụng trời tối, sương mù, phía Trung Quốc bí mật đưa lực lượng lớn vượt biên, luồn sâu, ém sẵn ở nhiều khu vực trên toàn tuyến biên giới, từ Pò Hèn (Quảng Ninh) đến Pa Nậm Cúm (Lai Châu). Đồng thời, triển khai đội hình gồm một lực lượng lớn áp sát biên giới chuẩn bị tiến công. Từ 3 giờ 30 phút ngày 17-2-1979, quân Trung Quốc sử dụng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ nước ta, sau đó huy động lực lượng lớn tiến công sang lãnh thổ Việt Nam.

Mở cuộc chiến tranh trên biên giới phía Bắc, đối phương kỳ vọng thực hiện được 5 mục tiêu:

Một là, cứu bọn Pôn Pốt, giữ Campuchia trong quỹ đạo của họ (mục tiêu chủ yếu).. Ý đồ chiếm một số khu vực đất đai của ta ở gần biên giới, nếu ta sơ hở sẽ tiến vào sâu, buộc ta đàm phán, đòi ta rút quân khỏi Campuchia để đánh đổi việc họ rút quân. Mức thấp nhất là đánh để buộc ta vì lo bảo vệ miền Bắc phải rút quân khỏi Campuchia, tạo điều kiện cho quân Pôn Pốt bảo toàn được lực lượng, giữ được các căn cứ, đẩy mạnh hoạt động, tiến tới khôi phục lại vị trí của chúng.

Hai là, tranh thủ Mỹ và các nước đế quốc giúp họ xây dựng “bốn hiện đại hóa”(1).

Ba là, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế của ta, làm ta suy yếu. Ý đồ của họ là tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang ta, nhất là khối bộ đội chủ lực, phá hoại các cơ sở kinh tế, tàn sát gây tâm lý khủng khiếp trong nhân dân ta, kích động bạo loạn, hạ uy thế quân sự, chính trị to lớn của ta sau chiến thắng 1975.

Bốn là, uy hiếp Lào từ phía Bắc, làm suy yếu liên minh chiến đấu Việt - Lào, buộc Lào “trung lập” trong cuộc chiến tranh giữa ta và họ; phá hoại Lào toàn diện, buộc Lào theo họ chống lại ta, uy hiếp ta từ phía tây. Đồng thời thị uy các nước Đông Nam Á, gỡ thể diện cho họ sau thất bại nặng nề ở Campuchia.

Năm là, thăm dò phản ứng của Liên Xô và dự luận thế giới để chuẩn bị những bước phiêu lưu sau này(2).

Chọn thời điểm này tiến công, phía Trung Quốc cho rằng phần lớn quân chủ lực chính quy của ta đang thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, do đó lực lượng phòng thủ của ta ở biên giới phía Bắc sẽ khó đương đầu nổi với lực lượng quân sự áp đảo của họ. Mặt khác, chọn tiến công vào sáng chủ nhật, phía Trung Quốc hy vọng nếu giành được thắng lợi trong ngày thì sẽ tạo nên “việc đã rồi” khi thế giới chưa kịp lên án.


(1) Bốn hiện đại hóa gồm: Trong nông nghiệp, công nghiệp, quân đội và khoa học - kỹ thuật.
(2) Bộ Tổng tham mưu: Tổng kết công tác chỉ huy tham mưu chiến lược trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.42-43.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:49:19 am
Lợi dụng ưu thế quân số và vũ khí trang bị(1), ý đồ của phía Trung Quốc là nhanh chóng đánh chiếm một số thị xã, chặn đường tiếp tế từ phía Nam, sau đó tùy tình hình có thể phát triển sâu vào nội địa Việt Nam. Đối phương chọn hướng tiến công chủ yếu là Lạng Sơn và Cao Bằng, hướng quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn), hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh, thu hút lực lượng ta là Quảng Ninh và Hà Tuyên. Trên mỗi hướng Trung quốc thường kết hợp tiến công chính diện với vu hồi, thọc sâu, bao vây, chia cắt, phối hợp giữa bộ binh, xe tăng, xe bọc thép và pháo binh, đặc biệt là sử dụng pháo binh, gây nhiều tổn thất về người và của đối với đồng bào các tỉnh biên giới, nhất là Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn(2).

Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, từ ngày 17-2-1979, hậu phương ta đã ra tuyên bố nêu rõ: nhà cầm quyền Trung Quốc đã đi ngược lợi ích của nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình hữu nghị truyền thống của nhân dân hai nước và khẳng định: “Quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác phải dùng quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả”(3).

Phân tích ý đồ, hành động, khả năng của phía Trung Quốc và căn cứ vào tình hình cụ thể của ta, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định và không tập trung lực lượng dự bị chiến lược vào quyết chiến sớm, cũng không vội rút lực lượng chủ lực cơ động ở phía Tây Nam ra, mà phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, sử dụng lực lượng tại chỗ của Quân khu 1, Quân khu 2 là chính và điều động một bộ phận lực lượng của các quân khu, tỉnh tuyến sau lên tăng cường, kiên quyết đánh chặn quân Trung Quốc. Đồng thời, xây dựng kế hoạch điều động dần lực lượng dự bị chiến lược để thực hành phản công ở biên giới khi cần thiết, chuẩn bị cho cả nước sẵn sàng đối phó với tình huống chiến tranh mở rộng.

Hướng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, với thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc đã được chuẩn bị sẵn, quân và dân ta trên tuyến đầu Tổ quốc, từ bộ đội chủ lực của Quân khu 1, Quân khu 2, đến bộ đội địa phương các tỉnh, huyện, bộ đội biên phòng và dân quân tự vệ trên tất cả các hướng biên giới đã kịp thời đánh trả quân Trung Quốc. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc một lần nữa phát huy cao độ truyền thống cách mạng hết lòng đùm bọc, giúp đỡ, che chở, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang kiên quyết chiến đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

Trên mặt trận Lạng Sơn (Quân khu 1), các Quân đoàn 43, 55 và 54 (dự bị) có 160 xe tăng, xe bọc thép, 350 pháo cơ giới, chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chắt (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng. Các lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh các mũi tiến công của quân Trung Quốc suốt ba ngày (17 đến 20-2) ở phía tây đường 1A và đường 1B. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt. Lạng Sơn có 10 đồn, trạm, đơn vị cơ động công an nhân dân vũ trang trực tiếp chiến đấu như các đồn Tân Thanh, Na Hinh; các trạm đồn Chi Ma, Ba Sơn, Khâm Khâu; đại đội 5 cơ động Đồng Đăng, đồn Chi Lăng, liên tục đánh chặn, gây cho đốt phương một số thiệt hại. Tiêu biểu là ở Đồng Đăng, Tiểu đoàn 4 thuộc Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 phòng ngự trên hướng chủ yếu chiến đấu 6 ngày liên (từ 17 đến 22-2), bẻ gãy nhiều mũi tiến công của quân Trung Quốc. Tại Tân Thanh, sau 6 ngày kiên cường bám trụ chiến đấu, Đại đội 53 thuộc Tiểu đoàn 53, Sư đoàn 3 đánh tan 18 đợt tiến công, sau đó được lệnh rút về phía sau nhận nhiệm vụ mới.

Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng chiến đấu, ngày 24-2-1979, Bộ Tư lệnh Quân khu 1 quyết định thành lập Mặt trận Lạng Sơn, do đồng chí Hoàng Đan làm Tư lệnh và đồng chí Hoàng Tường Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận.

Sau 10 ngày tiến công không đạt mục tiêu đề ra, ngày 27-2, phía Trung Quốc huy động Quân đoàn 54 dự bị vào hỗ trợ các Quân đoàn 43, 54 tiến công từ ba hướng Đồng Đăng, Cao Lộc, Lộc Bình, nhằm mục tiêu thị xã Lạng Sơn. Các đơn vị chủ lực Quân khu 1 và lực lượng vũ trang địa phương đánh chặn quyết liệt, gây cho đối phương nhiều thiệt hại


(1) So sánh lực lượng đối phương với lực lượng của ta ở hai Quân khu 1 và 2; đối phương 3,5 ta 1; nếu kể cả ba thứ quân thì đối phương 1,7, ta 1. Về pháo binh, đối phương 5,7 khẩu, ta 1, xe tăng, thiết giáp đối phương 9,8; ta 1…
(2) Từ ngày 17-2 đến ngày 18-3-1979, 4 thị xã Lào Cai, Cam Đường, Cao Bằng và Lạng Sơn đã bị hủy diệt, 320 xã bị phá hủy, 735/904 trường phổ thông các cấp bị tàn phá, 41 nông trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 38/42 lâm trường bị phá hủy và cướp bóc… Khoảng 50% trong số 3,5 triệu người ở 6 tỉnh biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh hoạt.
(3) Báo Nhân dân, ngày 18-2-1979.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:55:02 am
Nhằm tăng cường lực lượng, nâng cao sức mạnh đột kích, sức cơ động cao, bảo đảm chiến đấu liên tục, mở những trận phản công quy mô lớn trên mặt trận Lạng Sơn, đòi hỏi phải xây dựng binh đoàn binh chủng hợp thành cơ động quy mô cấp quân đoàn ngay tại mặt trận. Theo đề nghị của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, ngày 2-3-1979, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Quyết định số 34-QĐ/TW thành lập Quân đoàn 5 thuộc Quân khu 1. Quân đoàn 5 biên chế 4 sư đoàn bộ binh (3, 338, 327, 337), Trung đoàn 166 pháo binh, Trung đoàn 272 cao xạ, Trung đoàn 407 xe tăng thiết giáp, Trung đoàn 601 thông tin, Lữ đoàn 522 công binh và các cơ quan, đơn vị phục vụ. Bộ Tư lệnh Quân đoàn do Thiếu tướng Hoàng Đan làm Tư lệnh và Đại tá Phí Triệu Hàm làm Chính ủy. Quân đoàn 5 được thành lập, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu quy mô lớn trên mặt trận Lạng Sơn và sẵn sàng cơ động chi viện cho các mặt trận khác.

Ngày 4-3, phía Trung Quốc huy động bộ binh có xe tăng hỗ trợ chia làm 3 cánh: một cánh đánh vào hướng tây bắc cầu Kỳ Cùng, hòng tiến vào trung tâm thị xã; hai cánh đánh vào bắc và nam sân bay Mai Pha. Trung đoàn 42 (Sư đoàn 327) chiến đấu dũng cảm ở thị trấn Kỳ Lừa, Trung đoàn pháo binh 166, Trung đoàn pháo cao xạ 272 chi vện hỏa lực cho bộ binh đánh chặn xe tăng và bộ binh Trung Quốc, từ Tùng Huống, Lục Khoan, Tam Thanh đến bắc sông Kỳ Cùng. Dựa vào thế quân đông, chiều ngày 4-3, quân Trung Quốc mở đợt tiến công đánh chiếm thị xã Lạng Sơn.

Phối hợp với các đơn vị chủ lực Quân khu 1, bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn và các huyện chiến đấu rất anh dũng. Tiểu đoàn 8 bộ đội huyện Cao Lộc chiến đấu liên tục, giữ vững địa bàn. Tiểu đoàn 9 bộ đội huyện Lộc Bình đánh chặn quyết liệt ở Bản Thí. Lực lượng dân quân xã Hồng Phong, huyện Văn Lãng, dân quân Bản Sam, Thanh Hóa, huyện Cao Lộc dựa vào thế trận làng xã kiên cường chiến đấu.

Cùng với các lực lượng vũ trang chiến đấu ở tuyến trước, đồng bào các dân tộc tỉnh Lạng Sơn tham gia phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố hậu phương. Với tinh thần “Phía trước không tiếc máu xương, phía sau không tiếc của”, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã chuyển hàng chục tấn hàng hóa ở tuyến sau lên tặng các đơn vị bộ đội chiến đấu trên tuyến đầu của Tổ quốc. Đồng bào các huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, Văn Quang, Bắc Sơn hết lòng chăm sóc, giúp đỡ thương binh chóng bình phục để tiếp tục chiến đấu.

Ở mặt trận Cao Bằng (Quân khu 1), sáng ngày 17-2-1979, phía Trung Quốc huy động 2 quân đoàn (41, 42) và Quân đoàn 50 (thiếu làm lực lượng dự bị), hai trung đoàn địa phương Quảng Tây, 4 trung đoàn độc lập, 225 xe tăng, xe bọc thép, hơn 300 pháo cơ giới, nhiều đơn vị sơn cước, hàng chục tiểu đoàn các xã giáp biên và hàng nghìn dân binh chia làm hai cánh: Một cánh do Quân đoàn 41 đảm nhiệm tiến công vào Thông Nông, Hà Quảng và một cánh do Quân đoàn 42 tiến công vào Phục Hòa, Đông Khê. Mục tiêu chủ yếu là đánh vào thị xã Cao Bằng.

Cuộc chiến đấu trên mặt trận Cao Bằng diễn ra quyết liệt. Ở Hà Quảng, Trung đoàn 246 (Sư đoàn 436) tổ chức trận địa ở khu vực Sóc Giang, đánh chặn các mũi tiến công liên tục 4 ngày (17 đến 20-2). Tại Thông Nông - Thạch An, Sư đoàn 346 lệnh cho Trung đoàn 851 cơ động lực lượng sang đánh chặn quân Trung Quốc trên đường số 4 và đoạn đường thị xã đi Nước Hai. Đại đội 10 và Đại đội 5 thuộc Trung đoàn 851, do đồng chí Nguyễn Văn Minh, Phó Chính ủy trung đoàn chỉ huy đánh chặn ở Bản Sảy. Trong khi đó, Đại đội 7 (Tiểu đoàn 8) bố trí đội hình chốt giữ trên đường số 4, từ thị xã Cao Bằng đến Đông Khê. Ở khu vực Phục Hòa, Trung đoàn 567 bộ đội địa phương tỉnh Cao Bằng cùng tự vệ nông trường và dân quân các xã Đại Tiến, Cánh Linh chống lại hai sư đoàn quân Trung Quốc. Nhân dân các dân tộc huyện Quảng Hòa tham gia vận chuyển lương thực, đạn dược, từ các kho ở Quảng Uyên lên trận địa phục vụ bộ đội chiến đấu. Nhiều thanh niên và dân quân đã tình nguyện ở lại chốt, sát cánh cùng bộ đội giữ chốt. Trong hai ngày 17 và 18-2, Trung đoàn 567 đã chiến đấu anh dũng, lập chiến công oanh liệt, được nhân dân mến gọi là “Trung đoàn Khâu Chỉa”, hay “Trung đoàn Phục Hòa”.

Nhằm thống nhất lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang ở Cao Bằng, ngày 20-2-1979, Bộ Chính trị quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy Mặt trận Cao Bằng, do Đại tá Đàm Văn Ngụy làm Tư lệnh và đồng chí Dương Tường, Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh mặt trận là lãnh đạo, chỉ huy lực lượng chiến đấu trên các hướng Hà Quảng, Quảng Hòa, Trà Lĩnh; tổ chức chốt chặn ở Nà Bao và khu mỏ Tĩnh Túc, xây dựng trận địa ở đèo Tài Hồ Xìn, ngăn chặn quân Trung Quốc đánh sâu vào nội địa, chuẩn bị đối phó với chiến tranh lan rộng. Lực lượng trực thuộc Bộ Tư lệnh gồm có Sư đoàn 346, Sư đoàn 311, hai trung đoàn bộ binh (567 và 852), các đơn vị vũ trang địa phương.

Để tăng cường lực lượng chiến đấu cho mặt trận Cao Bằng, Bộ Tư lệnh Quân khu 1 điều động Trung đoàn bộ binh 852 lên phòng ngự ở đèo Tài Hồ Sìn. Tiếp đó, quân khu huy động 1.300 chiến sĩ mới lên huyện Ngân Sơn, tăng cường lực lượng cho quân và dân Cao Bằng chiến đấu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:55:54 am
Hướng ra mặt trận, tỉnh Bắc Thái lần lượt cử các tiểu đoàn 126 (huyện Võ Nhai), Tiểu đoàn 127, Tiểu đoàn 734 tự vệ Khu gang thép Thái Nguyên, Tiểu đoàn 735 tự vệ Công ty xây lắp luyện kim, Tiểu đoàn 737 tự vệ Công ty xây lắp cơ khí, Đại đội 23 cối 120 ly, Đại đội 73 công binh, Tiểu đoàn 736 dân quân, du kích các huyện Phổ Yên, Phú Bình, Đồng Hỷ và thành phố Thái Nguyên lên chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở mặt trận Cao Bằng.

Dựa vào thế quân đông, ngày 24-2, phía Trung Quốc tiến công đánh chiếm thị xã Cao Bằng và mở rộng đánh chiếm một số vùng xung quanh. Cao Bằng trở thành chiến trường đánh giặc khắp nơi. Ngày 26-2, Trung đoàn 582 đánh tan cuộc tiến công quy mô lớn của quân Trung Quốc ở Tài Hồ Sìn. Tiểu đoàn pháo binh D74 bố trí ở đèo Cao Bắc, bắn vào các vị trí trong thị xã Cao Bằng. Tiểu đoàn 127 đánh ở khu vực ngã ba Khau Đồn. Tiểu đoàn 20 bộ đội địa phương tỉnh Cao Bằng và Tiểu đoàn 45 đặc công liên tục tiến công thị xã và dọc đường số 4. Ngày 28-2, bộ đội ta lập công lớn ở Ngườm Kim.

Phối hợp với hoạt động tác chiến của các đơn vị bộ đội, lực lượng dân quân tự vệ tham gia chiến đấu ở nhiều nơi. Đó là dân quân xã Hoàng Tung, dân quân xã Đại Tiến (Hòa An), phân đội nữ dân quân Hà Quảng, trung đội tự vệ khu phố Tân An (thị xã Cao Bằng)… kiên trì bám trụ chiến đấu. Nhiều thanh niên các làng bản tự nguyện phối hợp với bộ đội chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu.

Nhằm phát huy sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân địa phương. Bộ Tư lệnh Mặt trận Cao Bằng chủ trương chấn chỉnh tổ chức, củng cố lực lượng. Cuối tháng 2-1979, cơ quan chỉ huy hướng tây Cao Bằng được thành lập, do đồng chí Ma Văn Minh - Phó Tư lệnh Mặt trận làm Chỉ huy trưởng và đồng chí Đinh Huy Thiêm phụ trách chính trị. Lực lượng trực thuộc có hai tiểu đoàn (126, 127), trung đội công an nhân dân vũ trang, Tiểu đoàn 734 tự vệ gang thép Thái Nguyên và một số đại đội dân quân du kích xã Minh Tâm tổ chức chiến đấu, bảo vệ khu mỏ Tĩnh Túc (Nguyên Bình).

Theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Mặt trận Cao Bằng, ngày 1-3-1979, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 206/QĐ-QP chấn chỉnh Sư đoàn 473 thuộc Tổng cục Xây dựng kinh tế thành sư đoàn bộ binh, mang phiêu hiệu Sư đoàn 311 chuyển trực thuộc Mặt trận Cao Bằng. Dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Mặt trận Cao Bằng, hàng nghìn cán bộ, học sinh, dân quân tự vệ phối hợp với bộ đội ngày đêm đào công sự, hầm hào, hình thành tuyến phòng ngự kéo dài từ Tài Hồ Sìn đến Ngân Sơn. Những ngày đầu tháng 3-1979, quân và dân Cao Bằng tiếp tục chiến đấu, gây nhiều khó khăn và thiệt hại cho địch.

Trên mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái) thuộc Quân khu 2, từ 4 giờ đến 6 giờ ngày 17-2, quân Trung Quốc dùng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ nước ta. Sau đó, huy động 2 quân đoàn (13, 14), một sư đoàn (quân đoàn 50) cùng một số trung đoàn địa phương, có 100 xe tăng, xe bọc thép và 450 khẩu pháo hỗ trợ, chia làm hai cánh: một cánh do Quân đoàn 13 đảm nhiệm tiến công theo hữu ngạn sông Hồng đánh thị xã Lào Cai và thị xã Cam Đường, một cánh do Quân đoàn 14 theo tả ngạn sông Hồng đánh vào Mường Khương, Bản Phiệt, Phố Lu.

Cuộc chiến đấu trên mặt trận Hoàng Liên Sơn diễn ra quyết liệt. Ở Mường Khương, sáng ngày 17-2, Đại đội 11 công an nhân dân vũ trang (Trung đoàn 16) đánh chặn, buộc quân Trung Quốc phải rút về bên kia biên giới. Tiếp đó, Đại đội 11 và dân quân tự vệ Nông trường Mường Khương đánh tan 11 đợt tiến công vào Na Khuy. Ở Pha Long, bộ đội và tự vệ Nông trường Pha Long phối hợp chiến đấu dũng cảm. Các lực lượng vũ trang ta đánh chặn quyết liệt ở khu vực Na Lốc, Nậm Chảy, Pha Long và thị trấn Mường Khương. Tại Bát Xát, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 192 bộ đội địa phương tỉnh Hoàng Liên Sơn) chốt giữ các điểm cao 90, 340, Cốc Xam, Trại Cá, Lều Nương, Quang Kim, đánh trả quyết liệt các đợt tiến công của quân Trung Quốc.

Ở khu vực thị xã Lào Cai, bộ đội địa phương, công an nhân dân vũ trang và dân quân tự vệ kiên cường chiến đấu, giữ vững từng mét hào, căn nhà, dãy phố. Các lực lượng vũ trang thị xã đẩy lùi nhiều đợt tiến công ở các tiểu khu Duyên Hải, Kim Tân, Phố Mới, Cốc Lừu, Pháo đài… Ngày 19-2, quân Trung Quốc chiếm thị xã Lào Cai. Tại những nơi khác, các lực lượng vũ trang ta đẩy mạnh hoạt động. Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 118), Sư đoàn 345 (Quân khu 2) tổ chức phòng ngự ở các điểm cao 255, 518, Không Tên, làng Hoi anh dũng chiến đấu, đánh tan hàng chục đợt tiến công của quân Trung Quốc.

Ngày 24-2, phía Trung Quốc tập trung hai quân đoàn (13, 14) và Sư đoàn 149 (quân đoàn 50), có xe tăng và pháo binh hỗ trợ, mở cuộc tiến công lớn vào sâu trong lãnh thổ ta, trong đó tập trung lực lượng lớn, chia làm ba cánh mở cuộc tiến công vào thị xã Cam Đường và chiếm thị xã ngày 25-2-1979.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:56:13 am
Bộ đội chủ lực Quân khu 2, bộ đội địa phương tỉnh Hoàng Liên Sơn trên các trận địa chốt phối hợp giữa bộ binh, pháo binh, dân quân tự vệ các xí nghiệp, hầm mỏ, lâm trường chiến đấu quyết liệt. Trung đoàn pháo binh 190 (Sư đoàn 345) được lệnh chi viện hỏa lực đã bắn dồn dập vào đội hình trung đoàn bộ binh cơ giới của địch trên đường 44. Trong khi đó, trên đường số 7, bộ đội ta chiến đấu dũng cảm, bẻ gãy các đợt tiến công của quân Trung Quốc. Đại đội 2 Tiểu đoàn 15 công binh bí mật gài mìn dọc đường sắt ven sông Hồng đến làng Giàng… Trong cuộc chiến đấu trên mặt trận Hoàng Liên Sơn đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân chiến đấu dũng cảm, mưu trí sáng tạo, đạt hiệu suất chiến đấu cao như Trung đoàn 148, Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 98 (Sư đoàn 316), Đại đội 5 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 46 (Sư đoàn 326), Tiểu đoàn tự vệ tiểu khu Duyên Hải thị xã Lào Cai… Đó là các liệt sĩ Phạm Xuân Hân, Nguyễn Xuân Kim, Đỗ Duy Phu; các đồng chí Lê Đình Thịnh, Trần Nghiêm, Nguyễn Ngọc Hà… Những thắng lợi của các lực lượng vũ trang ta trên mặt trận Hoàng Liên Sơn góp phần đánh bại ý đồ đánh nhanh, chiếm nhanh, ngăn chặn bước tiến của quân Trung Quốc, giữ vững địa bàn chiến lược ở vùng Tây Bắc của Tổ quốc.

Ở mặt trận Lai Châu (Quân khu 2), phía Trung Quốc huy động Quân đoàn 11 đánh vào Pa Nậm Cúm, Nậm Cáy, Nậm Xe; mục tiêu chính là thị trấn Phong Thổ. Sáng ngày 17-2, hai sư đoàn thuộc Quân đoàn 11 cùng lực lượng dân binh, có xe tăng và pháo binh hỗ trợ, chia làm ba mũi tiến vào Lai Châu. Ý đồ của quân Trung Quốc là nhanh chóng đánh chiếm Nậm Cáy, Mô Sy Câu và huyện lỵ Phong Thổ. Nếu có điều kiện phát triển đánh chiếm Sìn Hồ và thị xã Lai Châu. Các lực lượng vũ trang ta, từ bộ đội địa phương tỉnh, huyện, đến dân quân tự vệ và một số đơn vị chủ lực của Quân khu 2 tăng cường phối hợp cùng với nhân dân địa phương đánh trả quyết liệt.

Trên hướng Pa Nậm Cún - Mù San (huyện Phong Thổ), ngày 17-2, bộ đội ta chốt giữ các khu vực Ma Ly Pho, Mù San, Tà Phin kiên cường bám trụ chiến đấu suốt 4 ngày liền, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân Trung Quốc, ở Hổi Luông, Pa Tần (huyện Sìn Hồ), bộ đội địa phương chốt giữ các điểm cao 551, 800, 1262, kiên cường bám trụ trận địa chiến đấu.

Tại hướng Si Lơ Lầu, từ ngày 17 đến 20-2, lực lượng vũ trang địa phương đánh chặn quyết liệt các đợt tiến công của quân Trung Quốc. Điển hình là Đại đội 3, Tiểu đoàn 907, Trung đoàn 471 tổ chức đánh tan nhiều đợt tiến công của quân Trung Quốc ở Pa Tần, giữ vững trận địa. Trong các trận chiến đấu đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu và phục vụ chiến đấu dũng cảm như các chiến sĩ Vũ Hồng Ca, Trần Đắc Trí, Nguyễn Tài Cừ, Hoàng Minh Phương…, góp phần vào thắng lợi của quân và dân ta trên mặt trận Lai Châu. Phát huy thế chủ động tiến công, ngày 20-2, lực lượng vũ trang ta ở Sìn Hồ, Phong Thổ liên tiếp đánh ở các khu vực Pa Nậm Cúm, Mù Sang, Malipho, Yoa Khao Chai, Pò Tô (cạnh đường số 6)…

Những ngày cuối tháng 2 và đầu tháng 3-1978, trên hướng Phong Thổ, Tiểu đoàn pháo binh 25 (Lai Châu) và 3 đại đội pháo 122, 85 mm của Trung đoàn 187 (Sư đoàn 316) liên tục chi viện cho Trung đoàn bộ binh 46 phản kích, giữ vững khu vực trận địa được giao. Sau chục ngày chiến đấu, các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, bộ đội biên phòng, dân quân du kích, tự vệ tại chỗ và cơ động của các xã, lâm trường, cơ quan, xí nghiệp đã bám sát địa bàn chiến đấu bằng nhiều hình thức. Các đơn vị chủ lực Quân khu 2 được cử đến tăng cường đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu quyết liệt. Nhờ sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, quân và dân Lai Châu và tây Hoàng Liên Sơn ở ngã ba Bình Lư - Than Uyên, hạn chế không cho quân Trung Quốc đánh vào sâu trong lãnh thổ nước ta.

Tại mặt trận Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang) thuộc Quân khu 2, phía Trung Quốc huy động 2 sư đoàn và một số trung đoàn địa phương chia làm ba mũi tiến công vào các khu vực Thanh Thủy, Đồng Văn và Mèo Vạc (nay thuộc tỉnh Hà Giang). Quân và dân Hà Tuyên đã chiến đấu quyết liệt. Lực lượng công an nhân dân vũ trang ở các đồn Lũng Làn, Bản May, trạm Thanh Thủy, Đại đội 5 và Đại đội 3 cơ động của tỉnh chiến đấu liên tục. Trong hai ngày 17 và 18-2, cán bộ, chiến sĩ đồn Lũng Làn vận dụng cách đánh linh hoạt, giữ vững địa bàn. Trong khi đó, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân các xã Bản May, Xín Mần, Phố Bản (huyện Đồng Văn) liên tục đánh chặn, giữ vững địa bàn.

Ngày 18-2, phía Trung Quốc huy động bộ binh và pháo binh hỗ trợ mở cuộc tiến công vào các chốt của Đội tự vệ 884 Lâm trường Mèo Vạc và dân quân Thượng Phòng (huyện Mèo Vạc) trấn giữ. Sau hai ngày chiến đấu, Đội tự vệ 784 và dân quân xã Thượng Phòng đã bẻ gãy hàng chục đợt tiến công của quân Trung Quốc đông gấp nhiều lần.

Kiên quyết đánh trả các đợt tiến công của quân Trung Quốc, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng cùng dân quân tự vệ và nhân dân địa phương chiến đấu quyết liệt, lập chiến công sản xuất ở San Pun (Mèo Vạc), Bản Páng (Xín Mần), Thanh Thủy (Vị Xuyên), cá điểm cao 1.800, 1.785, mỏm Đồi Xanh… Hai trung đội thuộc Đại đội 10, Đại đội 11 (Trung đoàn 122) chốt giữ các chốt ở Tây Côn Lĩnh (Lao Chải) chiến đấu dũng cảm, bẻ gãy 22 đợt xung phong của quân Trung Quốc trong một ngày. Trung đoàn bộ binh 112 tổ chức phòng ngự ở khu vực Thanh Thủy đánh chặn quyết liệt các đợt tiến công quân Trung Quốc.

Điểm đáng lưu ý trên hướng Hà Tuyên là, để phối hợp với các đơn vị của ta chiến đấu trên các hướng khác, các lực lượng vũ trang Hà Tuyên đã chủ động tổ chức một số trận đánh vào lực lượng quân Trung Quốc ngay tại vị trí xuất phát tiến công của họ. Điển hình là các trận đánh của Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 122) tiến công quân Trung quốc ở điểm cao 1.875 (23-2-1979); Tiểu đoàn huyện Mèo Vạc tập kích quân Trung Quốc đột nhập xã Thượng Phùng và tập kích đồn Hòa Bình (25-2-1979).

Hướng ra mặt trận, nhiều đơn vị dân quân tự vệ và đồng bào các dân tộc hăng hái tham gia chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu như trung đội dân quân xã Thượng Phùng, Đại đội tự vệ 789 Lâm Trường Mèo Vạc… Trong khi đó, hàng vạn dân quân các huyện vùng thấp tình nguyện lên giúp đỡ bộ đội và dân quân tuyến trước đào đắp hàng chục kilômét hào giao thông, phục vụ chiến đấu. Các đội cứu thương, phẫu thuật cũng chuyển lên phía trước ngày đêm cứu chữa thương binh. Sau hơn chục ngày chiến đấu, quân và dân Hà Tuyên đánh trả quyết liệt quân Trung Quốc, bẻ gãy các mũi tiến công vào các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Thanh Thủy, lập nhiều chiến công.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:56:38 am
Ở mặt trận Quảng Ninh, quân Trung Quốc huy động 2 sư đoàn bộ binh, chia làm hai mũi: một mũi tiến công vào Thán Phán (huyện Móng Cái) và một mũi tiến công vào Cao Ba Lanh (huyện Bình Liêu); đồng thời, dùng pháo bắn dữ dội vào thị xã Móng Cái và các khu vực Hoành Bồ, Đồng Văn, hòng phối hợp với cánh quân chủ yếu ở Lạng Sơn.

Trước cuộc tiến công của quân Trung Quốc, các lực lượng vũ trang tỉnh và các huyện Bình Liêu, Móng Cái, Tiên Yên anh dũng đánh trả. Ngày 17-2, Trung đoàn 48 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh cùng tự vệ Lâm trường Bình Liêu, dân quân xã Đồng Văn đánh chặn quyết liệt cánh quân tiến vào Đồng Văn. Ở huyện Bình Liêu, cán bộ và chiến sĩ đồn Pò Hèn, tự vệ Lâm trường Hải Sơn dũng cảm đánh tan hàng chục đợt tiến công, giữ vững địa bàn. Ngày 19-2, Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương huyện Hải Ninh, tự vệ Lâm trường Móng Cái và dân quân các xã Thán Phán, Tàng Vinh, Lộc Phủ trấn giữ điểm cao 404 (xã thán Phán, huyện Hải Ninh), chiến đấu quyết liệt, đánh tan 8 đợt tiến công của một trung đoàn quân Trung Quốc.

Trong khi đó, các đơn vị bộ đội địa phương huyện trấn giữ các chốt phối hợp với lực lượng ở các đồn Hoành Bồ, Đồng Văn, Móng Cái; tự vệ các lâm trường Bình Liêu, Hải Sơn và dân quân tự vệ chiến đấu ngoan cường, giữ vững trận địa. Ngày 20-2, lực lượng vũ trang ta chiến đấu anh dũng, đánh tan một sư đoàn mở cuộc tiến công vào các khu vực Thán Phán, Pò Hén, Cao Ba Lanh. Cuối tháng 2-1979, bộ đội địa phương phối hợp với dân quân chiến đấu quyết liệt, bẻ gãy các đợt tiến công vào các khu vực ngã ba Lục Tâm (tây bắc thị xã Móng Cái), Hoành Bồ, Cao Ba Lanh, Đồng Văn (huyện Bình Liêu). Ngày 1-3-1979, Đại đội 6 bộ đội biên phòng và tự vệ Lâm trường Bình Liêu, đánh chặn quyết liệt ở Hoành Bồ; đồng thời bộ đội ta đẩy lùi các đợt tiến công vào các điểm cao ở Cao Ba Lanh. Ngày 2-3, phía Trung Quốc tăng quân mở cuộc tiến công vào các điểm cao 500, 600, 781, hòng đánh vào khu vực Cao Ba Lanh. Bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ chiến đấu dũng cảm, đẩy lùi các đợt tiến công, buộc quân Trung Quốc phải rút về bên kia biên giới.

Để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng chiến đấu, đầu tháng 3-1979, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Mặt trận Quảng Ninh trên cơ sở tổ chức Bộ chỉ huy quân sự thống nhất được tăng cường. Đây là cơ quan chỉ huy chiến dịch ở hướng chiến lược quan trọng thuộc Quân khu 1, do Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ huy. Nhiệm vụ của Mặt trận Quảng Ninh là tổ chức phòng thủ vững chắc, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, chỉ huy các lực lượng vũ trang gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, công an nhân dân, dân quân tự vệ, lực lượng hải quân ở khu vực Quảng Ninh; tổ chức thực hiện quân sự hóa toàn dân và vũ trang toàn dân bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, trải qua hơn 10 ngày chiến đấu, các lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và nhân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã đánh trả quyết liệt các đợt tiến công của quân Trung Quốc. Nhiều nơi, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ độc lập, hoặc phối hợp với bộ đội chủ lực quân khu chiến đấu ngay khi quân Trung Quốc vượt qua biên giới mở cuộc tiến công sang nước ta. Các trận chiến đấu diễn ra quyết liệt trên các mặt trận, điển hình là ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai. Với cách đánh linh hoạt bằng các hình thức tập kích, phục kích, chia cắt, kết hợp đánh phía trước, đánh bên sườn và đánh phía sau, các lực lượng vũ trang ta đã bẻ gãy nhiều mũi tiến công, tiêu diệt nhiều sinh lực và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm chậm ý đồ đánh nhanh, chiếm nhanh các mục tiêu theo kế hoạch ban đầu, buộc quân Trung Quốc phải đưa lực lượng dự bị chiến lược vào hỗ trợ, cứu nguy cho lực lượng bị bao vây, cô lập ở Cao Bằng, Lạng Sơn và Lào Cai.

Tuy nhiên, do có ưu thế quân đông và nhiều vũ khí trang bị kỹ thuật, nên quân Trung Quốc đã tiến sâu vào nội địa ta trên một số hướng như Cao Bằng (từ 40-50 km), Lạng Sơn, Lào Cai (từ 10-15 km) và lần lượt chiếm các thị xã Lào Cai (19-2), Cao Bằng (24-2), Cam Đường (25-2), Lạng Sơn (5-3), thị trấn Phong Thổ (5-3) và một số địa bàn trên vùng biên giới phía Bắc sau khi ta chủ động chuyển lực lượng về tuyến sau.

Trên các hướng khác, không những ta đã đánh ngăn chặn, không chỉ gây tổn thất cho quân Trung Quốc mà còn đánh bật chúng về bên kia biên giới như Đình Lập (Lạng Sơn), Trà Lĩnh, Trùng Khánh (Cao Bằng), Thanh Thủy, Mèo Vạc, Đồng Văn (Hà Giang), Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh).

Quá trình diễn ra cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu đã lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy quân va dân ta phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, sử dụng lực lượng vũ trang các Quân khu 1, 2 trực tiếp chiến đấu và điều động một bộ phận lực lượng của các quân khu, tỉnh phía sau lên tăng cường sức mạnh chiến đấu.

Ngay khi diễn ra cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc, Bộ Tổng tham mưu đã triệu tập tư lệnh các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng phổ biến tình hình, xác định nhiệm vụ mới và ra lệnh cho toàn quân chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Tiếp đó, Bộ ra lệnh điều động Sư đoàn bộ binh 327 (Quân khu 3), Sư đoàn 337 (Quân khu 4) cơ động lên Quân khu 1; đồng thời điều động 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương thành phố Hà Nội lên mặt trận Lạng Sơn, 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương thành phố Hải Phòng lên mặt trận Quảng Ninh, 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Hà Sơn Bình lên mặt trận Hoàng Liên Sơn.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:57:45 am
Thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, bộ tư lệnh các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng ở tuyến sau ra lệnh cho các cơ quan, đơn vị chuyển trạng thái bảo đảm 24/24 giờ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. cuối tháng 2-1979, Quân đoàn 1 điều động Sư đoàn bộ binh 390 và Trung đoàn bộ binh 209 thuộc Sư đoàn 312 lên Chi Lăng (Lạng Sơn), triển khai lực lượng, sẵn sàng cùng lực lượng vũ trang tại chỗ chiến đấu.

Đối với một số binh đoàn chủ lực cơ động chiến lược đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương chuyển dần lực lượng trở về nước chuẩn bị đối phó với tình hình khẩn trương trên các hướng trọng yếu ở biên giới phía Bắc. Thực hiện chủ trương đó, đầu tháng 3-1979, Quân đoàn 2 nhanh chóng chuyển toàn bộ lực lượng từ Campuchia về tập kết ở khu vực phía bắc Hà Nội bí mật, an toàn.

Trong khi đó, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không khẩn trương bố trí lực lượng trên các hướng chiến lược quan trọng. Sư đoàn 377 triển khai lực lượng bảo vệ khu vực công nghiệp Việt Trì, Lâm Thao (Phú Thọ) và cả sân bay Nội Bài, Yên Bái. Sư đoàn 365 bảo vệ khu vực phía Bắc Hà Nội, Sư đoàn 361 bảo vệ Thủ đô Hà Nội, Sư đoàn 363 bảo vệ thành phố Hải Phòng và Sư đoàn 369 làm nhiệm vụ ở mặt trận Quảng Ninh. Các sư đoàn phòng không xây dựng phương án độc lập tác chiến; đồng thời sẵn sàng phối hợp chiến đấu trong đội hình binh chủng hợp thành, chống đổ bộ đường không, tập kích đường không.

Quân chủng Không quân lệnh cho Sư đoàn không quân 371 sẵn sàng cất cánh trên các hướng bảo vệ vùng trời phía bắc, đông bắc và tây bắc của Tổ quốc. Nhiệm vụ của bộ đội không quân là độc lập tác chiến, hoặc hiệp đồng với các lực lượng lục quân chiến đấu nếu quân Trung Quốc đánh sâu vào nội địa ta; đồng thời phối hợp với Quân chủng Hải quân bảo vệ vùng trời, hải đảo phía đông và vùng ven biển đông bắc của Tổ quốc.

Cùng thời gian này, các binh chủng Pháo binh, Công binh, Đặc công, Tăng - Thiết giáp, Hóa học, Thông tin liên lạc chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu cao nhất. Binh chủng Đặc công điều động Tiểu đoàn đặc công 45 lên Quân khu 1 và Tiểu đoàn đặc công 46 lên Quân khu 2. Binh chủng Thông tin chỉ đạo, chỉ huy Trung đoàn 134 quản lý và khai thác các trạm cơ vụ, các tuyến hữu tuyến điện chiến lược bảo đảm liên lạc từ Bộ đến các quân khu phía bắc và phục vụ Sở chỉ huy tiền phương Quân khu 1, Quân khu 2 chỉ đạo, chỉ huy các sư đoàn ở tuyến một chiến đấu.

Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật luôn bám sát tình hình, bảo đảm lương thực, vũ khí đạn dược, thuốc men… phục vụ kịp thời các đơn vị chiến đấu. Tổng cục Kỹ thuật cử 20 đội, tổ sửa chữa cơ động gồm hơn 300 cán bộ, nhân viên kỹ thuật đến các đơn vị, bảo đảm kỹ thuật, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, hướng dẫn các đơn vị sử dụng hiệu quả vũ khí, trang bị mới; đồng thời phối hợp với Tổng cục Hậu cần vận chuyển vũ khí đạn dược tới các căn cứ phía trước của Quân khu 1, Quân khu 2. Đối với các sư đoàn, trung đoàn tuyến trước đang chiến đấu quyết liệt, Tổng cục Kỹ thuật tổ chức vận chuyển vũ khí thẳng đến từng đơn vị, bảo đảm kịp thời cho bộ đội chiến đấu.

Nhằm phát huy sức mạnh cao độ tổng hợp của cả nước, ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi quân và dân cả nước, trong đó nêu rõ: “Đồng bào và chiến sĩ cả nước hãy phát huy khí thế cách mạng, hăng hái thi đua lao động sản xuất với kỷ luật chặt chẽ và năng suất cao, chi viện nhiều nhất cho tiền tuyến, hăng hái luyện tập quân sự, nâng cao cảnh giác”(1); quyết tâm “giữ vững biên cương của Tổ quốc”(2).

Ngày 5-3, chủ tịch nước công bố Lệnh tổng động viên trong cả nước để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cùng ngày 5-3, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP quy định mọi công dân (nam từ 18 đến 45 tuổi, nữ từ 18 đến 35 tuổi) có đủ điều kiện đều gia nhập dân quân du kích tự vệ; thực hiện chế độ làm việc và luyện tập quân sự, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đáp lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Lệnh tổng động viên của chủ tịch nước, cả nước hết lòng hết sức chi viện cho cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hàng triệu người chủ yếu là thanh niên ở hầu hết các tỉnh, thành phố đã tình nguyện đăng ký gia nhập lực lượng vũ trang, ra mặt trận lên tuyến trước xây dựng trận địa chống quân thù. Nhiều đoàn viên, thanh niên ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Hải Hưng (Hải Dương, Hưng Yên), Hà Nam Ninh (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình), Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh), Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế), Đắc Lắc (nay là Đắk Lắk, Đắk Nông), Gia Lai - Kon Tum (Gia Lai, Kon Tum), Phú Khánh (Phú Yên, Khánh Hòa)… đã viết đơn, trong đó có những thanh niên viết đơn bằng máu tình nguyện lên biên giới phía Bắc để được trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Trong quá trình diễn ra cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc, quân và dân ta tiếp tục nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới. Các tổ chức quốc tế như Hội đồng hòa bình thế giới, Liên hiệp Công đoàn thế giới, Liên hiệp Thanh niên dân chủ thế giới… đều tuyên bố lên án hành động của Trung Quốc và kêu gọi ủng hộ Việt Nam. Hội nghị quốc tế khẩn cấp ủng hộ Việt Nam hợp ở Henxinhki (Thủ đô Phần Lan) từ ngày 6 đến 8-3-1979, gồm đại biểu hơn 100 nước và 30 tổ chức quốc tế tham dự lên án hành động gây chiến tranh, đòi Trung Quốc rút quân đội ra khỏi Việt Nam và đề ra chương trình hành động quốc tế đoàn kết, bảo vệ Việt Nam.


(1), (2) Báo Nhân dân, ngày 5-3-1979.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:58:09 am
Trước những đòn giáng trả mạnh mẽ, quyết liệt của quân và dân ta, bị tổn thất nặng nề và trước sự lên án lịch liệt của dự luận tiến bộ trên thế giới và trong nước, ngày 5-3-1979, Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Với truyền thống nhân nghĩa và lòng mong muốn củng cố hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân hai nước, Trung ương Đảng và Chính phủ ta chỉ thị cho các lực lượng vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc ngừng mọi hoạt động tiến công quân sự để Trung Quốc được yên ổn rút toàn bộ lực lượng và phương tiện chiến tranh về nước. Từ ngày 6-3-1979, phía Trung Quốc vừa rút quân, vừa đánh phá, gây nhiều thiệt hại và của đối với đồng bào ta ở các vùng Giáo San (Lai Châu), Sa Pa, Cam Đường (Hoàng Liên Sơn), Đông Khê, Thất Khê, Hòa An, thị xã Cao Bằng (Cao Bằng), thị trấn Lộc Bình (Lạng Sơn)… Nhiều nhà cao tầng, trường học, bệnh viện, cửa hàng và hàng nghìn ngôi nhà của nhân dân ở một số tỉnh biên giới, kể cả một số công trình văn hóa, lịch sử bị tàn phá. Hang Pác Bó, một di tích lịch sử thiêng liêng đối với các thế hệ người Việt Nam bị phá sập bằng bộc phá.

Trung tuần tháng 3-1979, chiến sự vẫn tiếp diễn ở ngã ba Khâu Đồn, Lò Gạch, Nà Cáp, Trả Lĩnh (Cao Bằng), Chi Ma (Lạng Sơn) và một số nơi thuộc các tỉnh Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Quảng Ninh, Hà Tiên. Đến ngày 18-3-1979, về cơ bản Trung quốc đã rút quân khỏi nước ta. Nhưng thực tế, phía Trung Quốc vẫn chiếm đóng trái phép một số nơi thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, có nơi sâu từ 300 đến 500 mét, thường xuyên gây xung đột vũ trang, làm cho tình hình luôn căng thẳng, kéo dài đến những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ cho quân và dân ta là khẩn trương khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân; đồng thời gấp rút tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, phát triển lực lượng vũ trang, đặc biệt là bộ đội chủ lực trên tất cả các hướng chiến lược ở biên giới phía Bắc. Tiếp theo việc thành lập Quân đoàn 5 (sau đổi thành Quân đoàn 14) trực thuộc Quân khu 1, ngày 16-4-1979, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Quân đoàn 6 (sau đổi thành Quân đoàn 29) thuộc Quân khu 2. Tiếp đó, ngày 16-7, thành lập Quân đoàn 8 - Binh đoàn Pắc Bó (sau đổi thành Quân đoàn 26) thuộc Quân khu 1. Việc thành lập các Quân đoàn 5, 6, 8 đánh dấu bước phát triển lớn về quy mô tổ chức lực lượng cấp quân khu. Với các quân đoàn binh chủng hợp thành, trang bị khá mạnh, sức đột kích lớn và sức cơ động cao, ta có khả năng mở các chiến dịch tiến công, phản công bằng lực lượng hợp thành quy mô lớn trên các hướng chiến lược quân khu, đánh tiêu diệt về chiến dịch, giữ vững địa bàn trọng yếu, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ vùng biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.

Cùng với việc tổ chức và bố trí các Quân đoàn 5, 6, 8 trên địa bàn chiến lược Quân khu 1 và Quân khu 2, ngày 16-4-1979, Bộ Chính trị ra Quyết định số 769-NG/NS-TW thành lập Quân đoàn 7 trực thuộc Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Ngày 20-4-1979, Bộ Chí trị ra Quyết định số 700-QĐ/TW thành lập Đặc khu Quảng Ninh trên cơ sở tách tỉnh Quảng Ninh khỏi Quân khu 1, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy trước tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Thiếu tướng Nguyễn Anh Đệ làm Tư lệnh và Đại tá Nguyễn Trọng Yên làm Chính ủy.

Công việc xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên cả nước, đặc biệt là trên địa bàn Quân khu 1, Quân khu 2 và Đặc khu Quảng Ninh được tăng cường nhanh chóng. Các Quân đoàn 1, 2, 3, 4, 7 trực thuộc Bộ và các Quân đoàn 5, 6, 8 trực thuộc Quân khu 1, Quân khu 2 nhanh chóng được kiện toàn về tổ chức biên chế, vũ khí trang bị, nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu sẵn sàng cơ động hoàn thành mọi nhiệm vụ trên các hướng chiến lược quan trọng của quân khu và trên phạm vi cả nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Tiếp theo thắng lợi oanh liệt của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, quân và dân Việt Nam lại giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc. Thực tiễn cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc diễn ra từ ngày 17-2 đến ngày 18-3-1979 cho thấy: Tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam, quân Trung Quốc mới sử dụng lực lượng lục quân ở các quân khu phía Nam, chưa dùng không quân, tên lửa, hải quân và chưa đánh sâu vào nội địa của ta. Chúng ta dựa vào lực lượng tại chỗ của Quân khu 1, Quân khu 2 và một số đơn vị của quân khu, tỉnh tuyến sau (phần lớn là các đơn vị mới xây dựng), chưa huy động các binh đoàn cơ động chiến lược, các quân chủng Phòng không, Không quân, Hải quân và lực lượng chủ yếu của các binh chủng Pháo binh, Công binh, Đặc công, Tăng - Thiết giáp, Hóa học, Thông tin liên lạc.

Cuộc chiến tranh diễn ra trong một thời gian ngắn và phạm vi không rộng lắm. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, quân và dân ta trên tuyến đầu Tổ quốc đã kiên quyết chiến đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Chủ trương của ta là phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, sử dụng lực lượng tại chỗ của Quân khu 1, Quân khu 2 là chính và tăng cường lực lượng của các quân khu, tỉnh phía sau hỗ trợ đánh tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh, kiên quyết ngăn chặn quân Trung Quốc tiến công, tạo điều kiện tổ chức phản công, tiến công ở vùng biên giới, không cho quân Trung Quốc mở rộng chiến tranh đánh sâu vào nội địa ta; đồng thời chuẩn bị cả nước sẵn sàng đối phó với tình huống chiến tranh mở rộng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2016, 09:59:27 am
Tuy nhiên, trong quá trình chiến đấu, chúng ta cũng còn những hạn chế, thiếu sót: “Khi đối phương tiến công biên giới, thời gian đầu ta bị bất ngờ về tác chiến chiến lược (quy mô lực lượng và không gian tiến công của đối phương), bất ngờ cả về chiến dịch, chiến thuật, có nơi xe tăng đối phương vào sâu 10-12 km mới biết. Các tỉnh, huyện biên giới chưa có kế hoạch chuẩn bị sang thời chiến”(1). Một số đơn vị có lúc nắm địch chưa sát với tình hình cụ thể (mục tiêu, lực lượng sử dụng trên từng hướng…), vận dụng cách đánh chưa tốt, chưa kết hợp chặt chẽ cách đánh của bộ đội chủ lực với cách đánh của bộ đội địa phương, dân quân du kích, chưa kết hợp chặt chẽ phòng ngự kiên cường, vững chắc với tích cực phản công, tiến công phía trước với cơ động đánh bên sườn và sau lưng địch. Việc quản lý bộ đôi, quản lý vũ khí trang bị, giáo dục ý chí chiến đấu chưa tốt, duy trì kỷ luật chưa nghiêm. Một số cán bộ, chiến sĩ tự động rút lui khi chưa có lệnh, ảnh hưởng đến sức mạnh chiến đấu của một số đơn vị.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 1, Quân khu 2, các đơn vị và địa phương trên vùng biên giới phía Bắc đã kịp thời rút kinh nghiệm qua từng trận chiến đấu và đề ra phương thức tác chiến phù hợp, chiến đấu hiệu quả; đồng thời chỉ đạo các đơn vị, địa phương tuyến sau chuẩn bị mọi mặt, chi viện sức người, sức của cho các lực lượng vũ trang và nhân dân vùng biên giới phía Bắc chiến đấu, giành thắng lợi.

Kết quả, quân và dân ta đã gây tổn thất cho 9 quân đoàn chủ lực, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân (hơn 1/10 tổng quân số Trung Quốc huy động vào cuộc chiến tranh), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự(2). “Như vậy, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược này, đối phương đã bị thất bại toàn diện về quân sự, chính trị, ngoại giao. Thất bại ở chiến trường, ở trong nước họ và trên thế giới”(3).

Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc là thắng lợi bước đầu, nhưng có ý nghĩa rất to lớn cả về quân sự, chính trị và ngoại giao. Thắng lợi này khẳng định sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam, đặc biệt là sức mạnh của lực lượng vũ trang tại chỗ (gồm bộ đội chủ lực quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an nhân dân vũ trang, dân quân tự vệ), của chiến tranh nhân dân địa phương và sức mạnh của hậu phương cả nước trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Tóm lại, trong những năm đầu đất nước vừa thống nhất và thực hiện nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế, khắc phục những hậu quả nặng nề sau chiến tranh, quân và dân ta lại phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Quyết tâm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, phát huy sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng, hoàn thành thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, tiếp đó, giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc.

Thắng lợi của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc thể hiện đường lối chính trị, quân sự đúng dắn của Đảng, trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược tìa tình, sắc bén của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, kịp thời nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của đối tượng chiến lược cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng là đối tượng tác chiến của quân và dân ta. Trên cơ sở đó, chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân cùng toàn dân từng bước chuẩn bị mọi mặt đối phó. Như vậy, ta đã kịp thời chiến đấu ngay khi cuộc chiến tranh diễn ra trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, sau đó diễn ra trên biên giới phía Bắc, từng bước ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều vũ khí, trang bị kỹ thuật và phương tiện chiến tranh, làm thất bại ý đồ gây chiến tranh của đối phương, đẩy Việt Nam vào tình thế luôn mất ổn định va suy yếu.

Thắng lợi này khẳng định ý chí của quân và dân ta, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, kiên cường chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cửa Tổ quốc trong những năm đầu đất nước thống nhất; đồng thời thể hiện sức mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhất là lực lượng tại chỗ của chiến tranh nhân dân địa phương và sức mạnh to lớn của hậu phương cả nước. Qua cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc lần này, quân và dân ta đã trưởng thành, tích lũy được những kinh nghiệm về âm mưu, thủ đoạn của đối tượng tác chiến mới, vận dụng phương châm và phương thức tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, chuẩn bị chiến trường, xây dựng thế trận, lãnh đạo, chỉ đạo và chỉ huy tác chiến, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, kết hợp kinh tế với quốc phòng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đây là cơ sở tạo tiền đề để quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong hoàn cảnh, điều kiện mới, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và làm tròn nhiệm vụ quốc tế cao cả đối với hai nước Lào và Campuchia anh em.


(1) Bộ Tổng tham mưu: Tổng kết công tác chỉ huy tham mưu chiến lược trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), Sđd, tr. 53.
(2) Thông báo của Bộ Quốc phòng ngày 19-3-1979.
(3) Bộ Tổng tham mưu: Tổng kết công tác chủ trương tham mưu chiến lược trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), Sđd, tr. 53.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:48:11 pm
Chương II

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG TIỀM LỰC QUÂN SỰ
VÀ THẾ TRẬN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN,
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, TOÀN VẸN LÃNH THỔ CỦA TỔ QUỐC,
LÀM NHIỆM VỤ QUỐC TẾ
(1980-1985)

1. Củng cố và phát triển lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc

Thắng lợi liên tiếp của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của quân và dân ta đã làm thất bại âm mưu thâm độc của bọn đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đối với cách mạng Việt Nam, khẳng định sức mạnh giữ nước của toàn dân, của các lực lượng vũ trang, đánh dấu bước phát triển của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy thất bại, nhưng các thế lực phản động quốc tế vẫn câu kết với đế quốc Mỹ ráo riết tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống lại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc lao động yên bình của nhân dân ta, hòng làm cho ta suy yếu. Đồng thời, luôn đe dọa sẽ phát động trở lại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn.

Mặc dù Trung Quốc đã rút quân về nước, nhưng tình hình trên vùng biên giới phía Bắc của Tổ quốc vẫn thường xuyên căng thẳng. Các cuộc xung đột vũ trang, các cuộc bắn pháo dữ dội và tiến công đánh chiếm một số địa bàn quan trọng trên lãnh thổ biên giới phía Bắc của ta vẫn liên tục diễn ra. Thế lực phản động được Mỹ tiếp sức gây chiến tranh phá hoại đối với Việt Nam trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa bằng nhiều thủ đoạn rất thâm độc, vừa trắng trợn, vừa ngấm ngầm; chúng phá ta trên nhiều mặt và từ mọi hướng. Trong khi đó, Mỹ vẫn thực hiện cấm vận, hối thúc Nhật Bản và các nước Tây Âu đình chỉ viện trợ cho Việt Nam, hòng thi hành chính sách cô lập Việt Nam trên trường quốc tế, chia rẽ nhân dân ba nước Đông Dương.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với vô vàn khó khăn và thử thách mới, khó khăn lớn nhất là nền kinh tế bị tàn phá sau gần 40 năm chiến tranh liên miên, mất cân đổi nghiêm trọng về nhiều mặt. Nhu cầu tối thiểu của một bộ phận nhân dân về đời sống không được đáp ứng. Lương thực là vấn đề hết sức căng thẳng, hàng tiêu dùng thiếu nghiêm trọng. Lợi dụng những khó khăn của ta, các thế lực thù địch tiến hành một cách liên tục và tìm chỗ sơ hở của ta để khoét sâu, nhằm phá con người và tổ chức, đặc biệt đối với các đơn vị, các ngành quan trọng. Chúng chia rẽ khối đoàn kết giữa các dân tộc, chia rẽ quần chúng với lãnh đạo, quân đội với nhân dân và xác định lực lượng vũ trang nhân dân ta là một đối tượng trọng điểm để phá hoại hòng làm cho lực lượng vũ trang nhân dân ta phải đối phó, không thể tập trung xây dựng cơ bản theo kế hoạch dài hạn, cơ sở vật chất bị tiêu mòn, giảm sức chiến đấu. Việc phá hoại của các thế lực thù địch tác động đến sự ổn định chính trị và quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế - xã hội đất nước ta.

Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương gắn nhiệm vụ bảo vệ đất nước với tăng nhanh tiềm lực kinh tế và quân sự, quốc phòng, kết hợp chặt chẽ xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Toàn quân, toàn dân thâu suốt quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, giữa nghĩa vụ lao động với nghĩa vụ quân sự để vừa đẩy mạnh xây dựng kinh tế, củng cố quốc phòng, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược và mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, thực hiện “toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”; xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc.

Đảng ta xác định đường lối quân sự trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là: Tăng cường tiềm lực quân sự, trong đó tập trung xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang đủ sức để giữ vững hòa bình lâu dài cho Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân ta là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của Tổ quốc, bảo vệ nền chuyên chính vô sản, chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc lao động xây dựng đất nước của nhân dân, góp phần vào sự nghiệp cách mạng và hòa bình của nhân dân, góp phần vào sự nghiệp cách mạng và hòa bình ở Đông Dương, khu vực Đông Nam Á và thế giới. Toàn quân ta phải ra sức làm tốt nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, đồng thời làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế và thực hiện nhiệm vụ quốc tế đối với Lào, Campuchia.

Đặc điểm của đất nước ta trong giai đoạn này là vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, đồng thời sẵn sàng đối phó với nguy cơ chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Tình hình đó đòi hỏi đất nước ta phải khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, trong đó tập trung củng cố, phát triển lực lượng vũ trang cả về quân số và tổ chức biên chế, trang bị, làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta chủ trương tập trung xây dựng lực lượng vũ trang có bộ đội chủ lực mạnh, có bộ đội địa phương và dân quân tự vệ rộng khắp, lực lượng dự bị hùng hậu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:51:26 pm
Ngày 19-1-1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01/80-NQ-TW chỉ rõ nhiệm vụ quốc phòng trong thời gian tới: kiểm tra và chỉ đạo chặt chẽ công tác củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu trên các hướng và các tuyến, chỉ đạo tốt việc tuyển quân, nâng cao hơn nữa chất lượng các lực lượng vũ trang; xây dựng đơn vị chủ lực cơ động đi đôi với phát triển và củng cố quân sự địa phương trên địa bàn các tỉnh, huyện và cơ sở. Động viên và tổ chức bộ đội xây dựng kinh tế, trước mắt tham gia giải quyết tốt vấn đề lương thực, thực phẩm, góp phần khắc phục khó khăn chung của Nhà nước.

Cùng trong tháng 1-1980, nhằm tăng cường lực lượng, Chủ tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Lệnh số 15/LCT thành lập Quân đoàn 68 trực thuộc Quân khu 3 và Lệnh số 16/LCT thành lập Quân đoàn 34 trực thuộc Quân khu Thủ đô.

Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, ngày 19-5-1980, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị số 04/CT-QW về việc quán triệt đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã chỉ rõ: “Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh có lực lượng thường trực mạnh và lực lượng dự bị rộng rãi, được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, có lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng hậu bị hùng hậu”(1).

Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Quân ủy Trung ương, lực lượng vũ trang nhân dân được củng cố, xây dựng cân đối, đồng bộ cả lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, cả quân chủ lực và quân địa phương, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng và lực lượng vũ trang quần chúng rộng khắp, tạo thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ bố trí hợp lý trên các hướng chiến lược.

Trong điều kiện hết sức khẩn trương, chúng ta vừa nhanh chóng xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, vừa điều chỉnh thế bố trí chiến lược, củng cố lực lượng vũ trang, đặc biệt là trên biên giới phía Bắc. Các quân khu, quân đoàn được củng cố về tổ chức biên chế, trang bị thêm nhiều vũ khí mới hiện đại. Bộ Quốc phòng tăng cường lực lượng cho Quân khu 1, Quân khu 2, tổ chức thêm Quân khu Thủ đô và 2 đặc khu (Đặc khu Quảng Ninh, Đặc Khu Vũng Tàu - Côn Đảo), thành lập 6 quân đoàn (5, 6, 7, 8, 34, 68)(2) và nhiều sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn binh chủng. Mỗi quân khu có một đến hai quân đoàn bố trí trên các hướng chiến lược. Quân đoàn 14 đảm nhiệm hướng Lạng Sơn. Quân đoàn 26 hướng Cao Bằng. Quân đoàn 29 hướng Lào Cai. Sở chỉ huy hỗ trợ của Quân khu 1 được tổ chức ở khu vực Đình Lập, Tiên Yên (giữa Lạng Sơn và Quảng Ninh). Các Quân đoàn 1, 2, 3 là lực lượng dự bị chiến lược đảm nhiệm cơ động phía sau.

Chủ trương của Đảng là xây dựng bộ đội chủ lực mạnh, chính quy hiện đại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để xây dựng lực lượng chủ động tinh nhuệ có khả năng nhanh chóng xử lý các tình huống, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắn lợi, ta thành lập thêm nhiều đơn vị chủ lực, trang bị vũ khí hiện đại với nhiều đơn vị binh chủng, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu chiến tranh ngày càng mở rộng.

Các sư đoàn bộ binh thuộc các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 được tổ chức thành sư đoàn bộ binh mạnh, bổ sung quân số trang bị thêm xe và vũ khí mới, tăng thêm hỏa lực và sức cơ động. So với các sư đoàn bộ binh cũ thì số lượng đầu nòng pháo, cối của sư đoàn bộ binh biên chế mới tăng gấp ba lần. Sư đoàn bộ binh ở tuyến một được củng cố và trang bị thêm nhiều vũ khí, khí tài mới. Các Quân đoàn 1, 2, 3 thực hiện huấn luyện, xây dựng chính quy, sẵn sàng cơ động chiến đấu trên các hướng trọng yếu thuộc địa bàn Quân khu 1 và Quân khu 2. Quân đoàn 4 đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia cũng được củng cố, bổ sung quân số, đổi mới và trang bị thêm vũ khí mới. Đặc biệt là các quân đoàn đã tập trung xây dựng sư đoàn bộ binh cơ giới. Quân đoàn 1 xây dựng Sư đoàn 308, Quân đoàn 2 xây dựng Sư đoàn 304 và Quân đoàn 3 xây dựng Sư đoàn 320 thành sư đoàn bộ binh cơ giới(3) gồm nhiều thành phần binh chủng, trang bị nhiều vũ khí, phương tiện hiện đại, có khả năng cơ động cao, chiến đấu trên các địa hình thời tiết phức tạp trong chiến tranh hiện đại.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 408.
(2) Ngày 18-1-1980, Bộ Quốc phòng quyết định đổi phiên hiệu Quân đoàn 5 thành Quân đoàn 14, Quân đoàn 6 thành Quân đoàn 29, Quân đoàn 7 thành Quân đoàn 65, Quân đoàn 8 thành Quân đoàn 26. Ngày 25-1-1980, Quân khu Thủ đô thành lập Quân đoàn 34, Quân đoàn 3 thành lập Quân đoàn 68 (khung dự bị động viên).
(3) Sư đoàn bộ binh 308 (Quân đoàn 1), Sư đoàn bộ binh 304 (Quân đoàn 2) là 2 sư đoàn đầu tiên của Quân đội ta được xây dựng thành Sư đoàn bộ binh cơ giới kể từ ngày 22-8-1979. Tiếp đó, ngày 8-1-1981, Sư đoàn bộ binh 320 (Quân đoàn 3) được xây dựng thành sư đoàn bộ binh cơ giới thứ ba của quân đội ta.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:52:34 pm
Các quân chủng, binh chủng được củng cố, phát triển lực lượng và trang bị vũ khí, khí tài hiện đại phù hợp với yêu cầu tác chiến mới. Quân chủng Phòng không thành lập thêm Lữ đoàn phòng không 378 bảo vệ khu vực Cam Ranh, nâng hai trung đoàn tên lửa 236 và 255 thành 2 lữ đoàn tên lửa hỗn hợp trang bị hệ thống chỉ huy tự động (trực thuộc Sư đoàn phòng không 361 và 363) bảo vệ hai khu vực Hà Nội và Hải Phòng. Đồng thời, thành lập 4 trung đoàn tên lửa (281, 351, 253, 258), nâng số trung đoàn tên lửa từ 10 lên 14 trung đoàn. Đây là thời kỳ lực lượng phòng không phát triển nhanh, trang bị nhiều vũ khí, khí tài hiện đại, hỏa lực phòng không được bố trí nhiều tầng, cánh sóng ra đa vươn rộng đủ sức bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc(1).

Quân chủng Không quân thành lập Trung đoàn không quân hải quân 954 và 6 tiểu đoàn bảo đảm thông tin ra đa hoạt động ở các sân bay Vĩnh Phúc, Kép, Yên Bái, Thọ Xuân, Kiến An, Đà Nẵng. Quân chủng được trang bị thêm nhiều máy bay chiến đấu hiện đại hoạt động trong điều kiện thời tiết phức tạp. Quân chủng còn tổ chức chấn chỉnh hệ thống sở chỉ huy chiến đấu từ quân chủng đến các trung đoàn bay và các ga hàng không quân sự trong quân chủng; đồng thời củng cố, mở rộng nhiều sân bay, xây dựng mới 5 sân bay ở phía bắc, sẵn sàng đánh ngay từ tuyến đầu và phối hợp với Quân chủng Phòng không, Quân chủng Hải quân bảo vệ vùng trời, vùng biển, thềm lục địa của cả nước.

Quân chủng Hải quân thành lập Lữ đoàn tàu tên lửa phóng lôi 162, căn cứ Hạ Long, cảng quân sự Cửa Hội trực thuộc Vùng 1, căn cứ 305 trực thuộc Vùng 5, Hải đội tàu vận tải 384, Hải đội đặc biệt 182, chấn chỉnh Hạm đội 171 thành Lữ đoàn 171. Quân chủng được trang bị nhiều tàu tên lửa phóng lôi, chống ngầm, tàu ngầm, tàu tuần tiễu, quét mìn, đổ bộ, đo đạc có khả năng mở rộng phạm vi bảo vệ hải phận.

Binh chủng Pháo binh thành lập 2 lữ đoàn tên lửa đất đối đất 380 và 490 trang bị tên lửa 8K.14E (hai lữ đoàn tên lửa đất đối đất đầu tiên của quân đội ta); đồng thời kiện toàn các lữ đoàn pháo dự bị chiến lược và trang bị nhiều loại pháo dã chiến mới, nhiều giàn hỏa tiễn hiện đại có sức cơ động nhanh, tiêu diệt có hiệu quả nhiều cụm mục tiêu lớn trong mọi điều kiện khí tượng phức tạp.

Binh chủng Công binh chuyển 2 trung đoàn công binh công trình 229 và 279 thành 2 lữ đoàn. Trung đoàn 289 thành lữ đoàn 289 và làm nhiệm vụ nòng cốt xây dựng và sửa chữa sân bay, khôi phục Lữ đoàn cầu đường 38RG thành lữ đoàn làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu... Binh chủng được trang bị thêm phà tự hành và nhiều thiết bị hiện đại bảo đảm chiến đấu cho các lực lượng vũ trang, tăng khả năng cơ động của các binh đoàn chủ lực và các quân chủng, binh chủng trong chiến tranh hiện đại.

Binh chủng Thông tin liên lạc thành lập Trung đoàn vô tuyến tiếp sức đối lưu 612, chuyển các Trung đoàn 205, 134, 396 thành các lữ đoàn. Binh chủng được trang bị các khí dài thông tin đối lưu, tiếp ức, mạng thu phát vô tuyến công suất lớn, bảo đảm chỉ huy chiến đấu. Sự phát triển về tổ chức, trang bị đánh dấu bước trưởng thành của Binh chủng Thông tin liên lạc, tạo sự chuyển biến về quản lý, bảo đảm chỉ huy chiến đấu thắng lợi.

Binh chủng Tăng - Thiết giáp tiếp tục chấn chỉnh các trung đoàn, chuyển xưởng sửa chữa X.32 thành tiểu đoàn sửa chữa cơ động phục vụ các đơn vị thiết giáp toàn quân và củng cố, xây dựng 3 trường bắn (Cam Lâm, Hòa Thạch, Phước Hòa) trang bị thiết bị hiện đại phục vụ huấn luyện. Binh chủng được trang bị thêm nhiều xe tăng T.55 cải tiến hiện đại hơn.

Binh chủng Đặc công thành lập thêm 7 trung đoàn đặc công tăng cường cho Quân khu 1 và Quân khu 2, kiện toàn Trung đoàn 112 làm nhiệm vụ huấn luyện chiến sĩ mới bổ sung cho các đơn vị dặc công toàn quân. Tháng 5-1982, bộ điều Trung đoàn 117 (Bộ Tư lệnh 470 về trực thuộc Bộ Tư lệnh Đặc công xây dựng thành trung đoàn huấn luyện chiến sĩ mới ở phía Nam, đưa lực lượng đặc công toàn quân lên 10 trung đoàn và tương đương, nhiều đại đội đặc công thuộc các tỉnh, huyện.

Binh chủng Hóa học cũng có bước phát triển mới về tổ chức, lực lượng và trang bị kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang nhân dân phòng chống có hiệu quả các loại vũ khí hóa học và vũ khí hạt nhân của địch. Các cơ quan và phân đội hóa học trực thuộc quân khu, quân đoàn được kiện toàn. Binh chủng tổ chức Trung đoàn phòng hóa 86, phát triển 6 tiểu đoàn hóa học ở Quân khu 1, Quân khu 2 và Đặc khu Quảng Ninh. Lực lượng hóa học các quân khu, quân đoàn, sư đoàn triển khai ở các hướng quan trọng làm nòng cốt cho công tác phòng chống vũ khí hóa học.

Bộ đội biên phòng được tăng cường lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động gắn với hoạt động và nhiệm vụ quân sự của địa phương, tổ chức thêm Trung đoàn 695 (Lạng Sơn), Trung đoàn 694 (Cao Bằng), 7 tiểu đoàn và nhiều đại đội cơ động, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, bờ biển và hải đảo của Tổ quốc.


(1) So với năm 1978, lực lượng phòng không năm 1985 tăng từ 4 sư đoàn lên 10 sư đoàn, lữ đoàn, đưa số trung đoàn tên lửa và trung đoàn pháo phòng không tăng lên gần 3 lần.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:54:39 pm
Trong thời gian ngắn, ta xây dựng được lực lượng bộ đội chủ lực rất lớn, đáp ứng yêu cầu cấp bách của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong công tác xây dựng lực lượng chủ lực sau một vài năm do quân số tăng lên quá đông(1) đã tác động đến kinh tế đất nước. Công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật chưa đáp ứng với yêu cầu sinh hoạt và chiến đấu của bộ đội.

Trước tình hình đó, ta chủ trương điều chỉnh quân số thích hợp. Đối với lực lượng chủ lực ta chủ trương từ năm 1981 giảm dần quân số, nhưng vẫn duy trì đầu mối đơn vị cho phù hợp với tình hình thực tiễn, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trên các hướng biên giới phía Bắc, mỗi sư đoàn và trung đoàn đều giải thể các đơn vị trung đoàn và tiểu đoàn thứ tư, thực hiện biên chế rút gọn đối với các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn binh chủng phía sau. Kết quả trong 5 năm (1981-1985) ta giảm được 34 vạn quân nhưng vẫn bảo đảm giữ được các đầu mối tổ chức thuộc Bộ. Đồng thời, bố trí lực lượng cân đối, hợp lý trên các hướng chiến lược.

Cùng với sự phát triển tăng nhanh lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương cũng có bước phát triển mới về số lượng, quy mô tổ chức và trang bị. Các địa phương trong cả nước đã gắn nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, xây dựng các lực lượng vũ trang địa phương, củng cố hệ thống làng xã chiến đấu, triển khai xây dựng pháo đài quân sự huyện, xây dựng các tuyến phòng thủ vững chắc. Căn cứ vào đặc điểm, vị trí và nhiệm vụ của từng địa phương trong hệ thống quốc phòng và thế trận chung của cả nước, các địa phương đã xây dựng, phát triển bộ đội địa phương đủ sức bảo vệ địa phương và góp phần tích cực vào việc bảo vệ cả nước.

Trước yêu cầu phát triển liên tục chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, công tác xây dựng quân đội nói chung, xây dựng lực lượng quân sự địa phươg nói riêng được đẩy mạnh. Bộ Tổng tham mưu và Bộ Quốc phòng chỉ đạo chấn chỉnh tổ chức lực lượng, ổn định và tăng cường công tác quân sự địa phương. Bộ đội địa phương của quân khu được tăng nhanh quân số và mở rộng về quy mô, thực hiện phòng giữ và chiến đấu tại chỗ, hỗ trợ đắc lực cho quân chủ lực chiến đấu, bảo vệ biên giới Tổ quốc. Mỗi tỉnh biên giới tổ chức 1 đến 2 trung đoàn, tỉnh tuyến hai 1 trung đoàn, huyện kế cận có 1 tiểu đoàn hoặc 2 đến 10 đại đội. Năm 1984, bộ đội địa phương có 17 trung đoàn, 69 tiểu đoàn, 74 đại đội (trong đó có 7 trung đoàn, 37 tiểu đoàn, 20 đại đội ở các tỉnh, huyện biên giới phía Bắc). Bên cạnh đó có 34 trung đoàn, 170 tiểu đoàn, 175 đại đội khung thường trực sẵn sàng khôi phục đủ quân số khi có chiến tranh.

Đi đôi với việc xây dựng lực lượng thường trực đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân, lực lượng dự bị, dân quân tự vệ trong cả nước được khẩn trương xây dựng, đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, mở rộng quân đội khi cần thiết.

Dân quân tự vệ có bước phát triển mới về quy mô tổ chức, về số lượng và trang bị. Với chức năng vừa lao động sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, dân quân tự vệ là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân, là công cụ bạo lực của Đảng và chính quyền cơ sở, có vai trò nòng cốt cả trong sản xuất, quốc phòng và an ninh nên được tổ chức, quản lý chặt chẽ, huấn luyện chu đáo, có kế hoạch tập trung thống nhất và được nâng cao chất lượng về mọi mặt. Đầu những năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX, lực lượng dân quân tự vệ có bước chuyển biến quan trọng. Bên cạnh những đơn vị dân quân xã, phường, tự vệ nhà máy, xí nghiệp, dân quân tự vệ binh chủng đã xuất hiện một hình thức mới: tổ chức trung đội dân quân tập trung ở các xã trọng điểm trên tuyến biên giới và các đảo, ven bờ biển. Trên tuyến biên giới, nhiều nơi lực lượng dân quân tự vệ đã bảo vệ được cơ sở để bộ đội chủ lực tập trung làm nhiệm vụ cơ động.

Trong giai đoạn này, dân quân tự vệ phát huy được vị trí chiến lược, xung kích trong lao động sản xuất và cùng công an nhân dân bảo vệ trị an nội địa, tích cực tham gia truy quét Fulro ở Tây Nguyên, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, phối hợp với bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực đánh thắng địch, bảo vệ biên giới Tổ quốc. Trong chiến tranh biên giới, ta tăng cường, phát triển lực lượng dân quân tự vệ ở các địa phương nhất là là ở các tỉnh, huyện biên giới phía Bắc và vùng biển. Ta đưa hàng vạn lao động từ miền xuôi lên miền núi, biên giới và tổ chức các đơn vị tự vệ trong các đơn vị hành chính. Dân quân tự vệ được chú trọng củng cố, nên chuyển biến cả về số lượng và tăng cường chất lượng. Năm 1983, lực lượng dân quân tự vệ có 4.892.308 người tổ chức thành 4 sư đoàn, 99 trung đoàn, 1.217 tiểu đoàn, 17.843 đại đội, trang bị 660.897 súng các loại (trong đó có 6.219 khẩu pháo mặt đất, súng cối và súng phòng không). Riêng các huyện biên giới phía Bắc, dân quân tự vệ của Quân khu 1 và Quân khu 2, lực lượng và trang bị tăng gấp 3 lần so với năm 1977.


(1) Tổng quân số tăng gần gấp đôi, từ 92,8 vạn cuối năm 1976 tăng lên 1,6 triệu trong năm 1981.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:55:09 pm
Các xã vùng trung du, đồng bằng ven biển tổ chức đại đội dân quân cơ động, cụm chiến đấu liên hoàn, tiểu đoàn cơ động. Các xã trọng điểm ven biển từ bắc Quân khu 4 trở ra có các phân đội dân quân pháo bờ biển, phân đội pháo phòng không, không thoát ly sản xuất. Hầu hết các xã đều có phân đội dân quân thường trực làm nhiệm vụ an ninh, quốc phòng. Các hợp tác xã đánh cá, vận tải trên biển tổ chức hải đội dân quân. Ở vùng đồng bằng ven biển miền Nam có tiểu đội, trung đội dân quân tại ấp, trung đội hoặc đại đội dân quân cơ động xã. Một số xã xây dựng phân đội dân quân trong các tập đoàn đánh cá biển. Các thành phố, khu công nghiệp, lực lượng tự vệ phát triển ở các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, nông trường, lâm trường, công trình giao thông vận tải. Một số nhà máy, hầm mỏ, nông trường, lâm trường, tự vệ được tổ chức đến quy mô trung đoàn bộ binh, có nơi tổ chức lữ đoàn (Hải Phòng), hoặc sư đoàn (mỏ than Hòn Gai, Khu gang thép Thái Nguyên). Các cơ sở quốc doanh đánh cá, vận tải biển trung ương và địa phương thành lập 9 hải đoàn tự vệ. Cục Quân sự địa phương đổi thành Cục Dân quân tự vệ.

Đối với quân dự bị được xây dựng, tổ chức, quản lý chặt chẽ và huấn luyện chu đáo. Đây là lực lượng hùng hậu sẵn sàng bổ sung quân số cho lực lượng thường trực khi cần thiết. Đảng ta luôn chủ trương kết hợp xây dựng cả lực lượng thường trực và lực lượng dự bị. Lực lượng dự bị là toàn thể quân nhân dự bị và phương tiện đã được lựa chọn, chuẩn bị sẵn sàng đáp ứng yêu cầu động viên về người và phương tiện theo kế hoạch động viên. Thời bình, lực lượng dự bị động viên được đăng ký quản lý thành đơn vị huấn luyện theo chương trình quy định. Khi có lệnh động viên, lực lượng này được huy động để khôi phục và mở rộng lực lượng quân đội theo tổ chức biên chế thời chiến.

Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ, Nhà nước quản lý lực lượng dự bị động viên, hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế - xã hội trong việc xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên. Tư lệnh các quân khu giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên địa bàn quân khu. Các quân khu thành lập khung trung đoàn, sư đoàn làm nhiệm vụ đăng ký, huấn luyện, quản lý quân dự bị và huấn luyện chiến sĩ mới trực thuộc bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Đến năm 1983, lực lượng dự bị động viên có 16 khung sư đoàn trực thuộc các Quân khu 3, 4, 5, 7, 9; 28 khung trung đoàn trực thuộc bộ chỉ huy quân sự các tỉnh; 85 khung tiểu đoàn, 245 khung đại đội trực thuộc ban chỉ huy quân sự các huyện và có hàng vạn quân dự bị được đăng ký. Đây là lực lượng hùng hậu bổ sung cho quân đội thường trực, đáp ứng yêu cầu mở rộng xây dựng các quân chủng, binh chủng trong giai đoạn cách mạng mới.

Các cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng được chấn chỉnh và tổ chức thêm một số đơn vị mới. Ngày 26-4-1980, thành lập Cục Chính trị của các cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị. Tổng Cục chính trị thành lập Cục Chính sách, Cục Cán bộ chính trị và nâng Phòng Quản lý thành Cục Quản lý, Cục Địch vận đổi tên thành Cục Tuyên truyền đặc biệt. Nhằm tăng cường quản lý nhà nước về xuát bản trong toàn quân, ngày 7-8-1982, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 1217/QĐ-QP thành lập Cục Xuất bản trực thuộc Bộ Quốc phòng, đồng thời là Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Cơ quan chức năng này đã giúp đỡ Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị tăng cường hiệu lực chỉ đạo, quản lý xuất bản, in phát hành trong toàn quân, bảo đảm đúng định hướng chính trị, giữ bí mật, góp phần đấu tranh bảo vệ trận địa tư tưởng và môi trường văn hóa quân đội trong sạch, lành mạnh.

Tổng cục Kỹ thuật chấn chỉnh Viện, Phân viện, Trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự, cơ quan kỹ thuật Mặt trận 719, Cục Vũ khí đạn, Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật ôtô và Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật vũ khí đạn. Hệ thống các viện, bệnh viện, kho, trạm, xưởng trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật được thành lập, kiện toàn, phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.

Cùng thời gian này, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và các cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện chấn chỉnh về tổ chức biên chế, nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Việc xây dựng quân đội với số lượng lớn (tổng số quân năm 1981 tăng 6% so với năm 1980) đặt ra nhu cùa mới về bảo đảm vật chất. Do nền kinh tế đất nước có nhiều khó khăn, sản xuất chưa phát triển, nhiều mặt mất cân đối, nhất là lương thực, thực phẩm, xăng dầu, vận tải, tài chính, mức cung cấp thực phẩm cho quân đội giảm 30%, đời sống của bộ đội và các lực lượng vũ trang nhân dân rất khó khăn, gian khổ. Giá cả thị trường không ổn định, tác động trực tiếp đến việc đảm bảo cho các lực lượng vũ trang trong quản lý và xây dựng đơn vị.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:56:31 pm
Thực hiện đường lối chiến lược kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế của Đảng và Nhà nước, trong lúc một bộ phận lực lượng chủ yếu làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bộ phận còn lại tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế đất nước. Các lực lượng vũ trang nhân dân khắc phục khó khăn vừa làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa làm nhiệm vụ xây dựng đất nước. Đối với bộ đội chủ lực, Quân ủy Trung ương chủ trương đi đôi với việc giảm quân số, đẩy mạnh lao động sản xuất từng bước cải thiện đời sống bộ đội, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, xúc tiến việc xây dựng công nghiệp quốc phòng trong cơ cấu công nghiệp chung của cả nước.

Đối với các lực lượng vũ trang, lao động sản xuất, xây dựng kinh tế được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần xây dựng đất nước. Các lực lượng vũ trang nhân dân khắc phục khó khăn vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa làm nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế. Đối với bộ đội chủ lực, đi đôi với việc giảm dần quân số, thực hiện đẩy mạnh lao động sản xuất, từng bước cải thiện đời sống bộ đội, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, xúc tiến việc xây dựng công nghiệp quốc phòng trong cơ cấu công nghiệp chung của cả nước.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, các đơn vị tổ chức quán triệt hai nhiệm vụ: “Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, tăng gia sản xuất xây dựng kinh tế là nhiệm vụ rất quan trọng”. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng về nhiệm vụ quân đội làm kinh tế, Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức các cơ quan, đơn vị chuyên làm kinh tế theo quy hoạch quốc phòng với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội trong thế trận chung bảo vệ Tổ quốc để khi cần chuyển sang làm nhiệm vụ chiến đấu. Một số binh đoàn được thành lập làm nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế và sẵn sàng chiến đấu tại chỗ; đồng thời cùng các lực lượng, lực lượng an ninh địa phương giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đóng quân. Tăng gia sản xuất trở thành phong trào rộng rãi trong toàn quân.

Cơ quan hậu cần các cấp trong toàn quân thành lập hệ thống cơ quan sản xuất lương thực, thực phẩm, giúp các đơn vị chỉ đạo sản xuất lương thực, thực phẩm. Ngày 16-5-1980, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển Cục Nông lâm trực thuộc Tổng cục Hậu cần chỉ đạo công tác sản xuất lương thực, thực phẩm toàn quân. Ngày 16-6-1980, thành lập Cục Kế hoạch kinh tế giúp Bộ Quốc phòng nghiên cứu đề xuất kế hoạch quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế và hướng dẫn theo dõi việc thực hiện kế hoạch để Bộ chỉ đạo các đơn vị làm kinh tế, hoàn thành các chỉ tiêu được giao.

Tiếp theo, ngày 11-7-1980, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Binh đoàn 23 trồng cao su ở miền Đông Nam Bộ trực thuộc Quân khu 7 và Binh đoàn 318 làm dầu khí ở Vũng Tàu trực thuộc Bộ Quốc phòng. Ngày 20-9-1980, thành lập Binh đoàn 773 làm cà phê, trồng rừng và cây lương thực ở Tây Nguyên trực thuộc Quân khu 5.

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về nhiệm vụ quân đội xây dựng kinh tế trong 5 năm (1981-1985), các đơn vị trong quân đội hiệp đồng với các ngành, các cơ quan nhà nước có liên quan, tổ chức lực lượng hình thành 4 binh đoàn gồm 13 sư đoàn và 12 trung đoàn chuyên xây dựng kinh tế. Các bộ chuyên ngành thành lập 11 xí nghiệp liên hợp và 17 xí nghiệp khác.

Để giúp Bộ Quốc phòng chỉ đạo quân đội thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, Hội đồng Bộ trưởng quyết định thành lập Tổng cục Kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng. Trong khi đó, Binh đoàn 12 làm nhiệm vụ xây dựng cầu đường, ngoài ra binh đoàn còn nhận thêm hai tuyến đường sắt Na Dương - Mai Pha và Cam Đường - Phố Lu. Sư đoàn 319 xây dựng Nhà máy điện Phả Lại và làm đường sắt Chí Linh - Phả Lại. Sư đoàn 15 công binh làm thủy lợi phục vụ sản xuất lương thực, thực phẩm ở Tây Nam Bộ. Nông trường 1A ở Ba Vì chuyên trồng cây lương thực, thực phẩm và chăn nuôi. Bộ Quốc phòng còn thành lập Binh đoàn 11 xây dựng và chuẩn bị lực lượng tham gia công trình thủy điện sông Đà và một số công trình khác do Nhà nước giao cho; đồng thời tổ chức một số đơn vị làm nhiệm vụ kinh tế trực thuộc các quân khu, khi xảy ra chiến tranh làm nhiệm vụ chiến đấu.

Thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, đến năm 1985, quân đội ta đã xây dựng được 22 khu vực kinh tế trên các địa bàn chiến lược quan trọng (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, ven biển, đồng bằng sông Hồng, miền núi, trung du phía Bắc). Đây là thế trận chiến lược của nền quốc phòng toàn dân, của cả nước mà lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong lao động xây dựng đất nước và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ngoài các đơn vị chuyên lao động xây dựng kinh tế, các đơn vị và cơ quan trong toàn quân vừa làm tốt nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực, chủ động tăng gia sản xuất tại chỗ, tự túc một phần lương thực, thực phẩm, góp phần ổn định và cải thiện đời sống, sinh hoạt của bộ đội(1).


(1) Phong trào sản xuất lương thực, thực phẩm trong toàn quân bước đầu đã thu được kết quả. Năm 1980, các đơn vị thu được 6 vạn tấn lương thực, 8 nghìn tấn thịt, cá, 1.200 tấn đậu, lạc, vừng và hàng nghìn tấn rau xanh, góp phần khắc phục khó khăn, cải thiện bữa ăn cho bộ đội.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:57:01 pm
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và cơ quan quân sự huyện xác định nhiệm vụ xây dựng kinh tế ở từng đơn vị, từng vùng, tập trung xây dựng các công trình cơ bản, công trình trọng điểm, công trình đầu mối, xây dựng vùng kinh tế mới theo kế hoạch kết hợp kinh tế với quốc phòng trong nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, bưu điện, xây dựng cơ bản, y tế. Cơ quan quân sự các địa phương giúp cấp ủy, chính quyền và huy động lực lượng vũ trang địa phương thực hiện tốt hai nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ cơ sở, bảo vệ địa phương, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng kinh tế. Đồng thời, chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương tiến hành sản xuất tự túc và chỉ đạo, chỉ huy tổ chức lực lượng dân quân tự vệ trên các công trình lao động xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào “Công trình dân quân tự vệ”, “Ngày dân quân tự vệ” phát triển sâu rộng từ thôn, bản, làng, xã đến xí nghiệp, nhà máy… góp phần thực hiện hiệu quả nhiệm vụ kinh tế ở từng cơ sở, các ngành, theo kế hoạch, quy định thống nhất của Đảng và Nhà nước.

Ở các địa bàn trọng điểm như biên giới, hải đảo, ven biển, lực lượng vũ trang địa phương đã kết hợp kinh tế với quốc phòng, đầu tư phát triển những ngành nghề vừa có tầm quan trọng về kinh tế, vừa cấp thiết đối với xây dựng quốc phòng, nhằm xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.

Đồng thời với việc chấn chỉnh tổ chức, biên chế, ngày 29-7-1980, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị về Tổ chức sinh hoạt chính trị, tập huấn quân sự để quán triệt đường lối quân sự của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp đó, ngày 9-2-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị về việc Tiếp tục thực hiện cuộc vận động phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân trong 2 năm 1984-1985. Nội dung Chỉ thị của Ban Bí thư và Quân ủy Trung ương thể hiện rõ những yêu cầu mới như: ý chí mạnh, trách nhiệm cao, kỷ luật nghiêm, đoàn kết tốt, nâng cao ý thức và năng lực làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật, cơ sở vật chất, nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy, quản lý, xây dựng cơ sở vững mạnh; đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế; tổ chức đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội.

Thực hiện nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng, trong 6 tháng đầu năm 1981, triển khai nhiệm vụ kinh tế dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, các lực lượng vũ trang nghiêm chỉnh chấp hành, hầu hết các nhiệm vụ, mục tiêu đề ra đều đạt yêu cầu kế hoạch. Các bộ, ngành và các địa phương phối hợp với Bộ Quốc phòng triển khai xây dựng kinh tế, phân công rõ trách nhiệm giữa quân đội, các lực lượng vũ trang với các ngành và địa phương dưới sự chỉ đạo thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng.

Để chủ động bảo đảm tài chính cho các đơn vị thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và lao động sản xuất, Cục Tài vụ lập dự án ngân sách quốc phòng 5 năm (1981-1985) xác định: Tăng cường bảo đảm kỹ thuật, giữ vững bảo quản tốt vũ khí, khí tài, phương tiện. Đẩy mạnh sản xuất và phục chế phụ tùng, xây dựng thêm kho, xưởng để cất giữ và sửa chữa vũ khí, trang bị, phương tiện; chú trọng xây dựng các công trình phục vụ chiến đấu ở biên giới, hải đảo. Trên cơ sở chế độ, tiêu chuẩn quy định, các đơn vị cố gắng ổn định mức sinh hoạt vật chất, tinh thần cho bộ đội, nhất là bộ đội đang chiến đấu ở tuyến trước và các lực lượng vũ trang làm kinh tế.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, đến năm 1983, các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương ở vùng biên giới phía Bắc đã sửa chữa và làm mới 8.700 km đường (làm mới 2.800 km). Ở vùng biên giới Tây Nam, bộ đội kết hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tu sửa và làm mới 11.000 km đường phục vụ nhiệm vụ quốc phòng và phát triển kinh tế địa phương. Tại Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long, quân đội tham gia xây dựng kinh tế đã hình thành hệ thống nông, lâm trường, kết hợp với việc phát triển mạng đường sá, làm thủy lợi, trồng lúa, xây dựng các trạm thủy điện, góp phần tạo ra nhiều vùng nông, lâm, công nghiệp. Khu vực đồng bằng ven biển nhiều đơn vị tích cực tham gia cùng lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ quai đê lấn biển.

Trong 5 năm (1981-1985), các đơn vị quân đội đã khai hoang được 8.700 ha, trồng mới 3.000 ha cao su, 850 ha cà phê, 12.970 ha rừng, hoàn thành 1.500 km đường các loại (31 km đường sắt); đồng thời tham gia xây dựng công trình thủy điện sông Đà và nhiệt điện Phả Lại… Những kết quả đạt được bước đầu khẳng định: Chủ trương nhiệm vụ và phương thức làm kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng mà Bộ Chính trị và Hội đồng Bộ trưởng giao cho các lực lượng vũ trang nhân dân là đúng đắn, góp phần vào công việc xây dựng đất nước, xây dựng tiềm lực quân sự, củng cố quốc phòng vững mạnh.

Trước tình hình lực lượng vũ trang phát triển nhanh đòi hỏi đội ngũ cán bộ lớn, ngày 7-6-1980, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 59/NQ/QU-A về củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, đối với công tác cán bộ. Nghị quyết xác định: Tích cực giải quyết nhu cầu về số lượng cán bộ bảo đảm hợp lý, cân đối, đồng bộ, giữ tỷ lệ khoảng 17,5% tổng quân số; đến năm 1985 đào tạo bổ túc được 12 đến 13 vạn cán bộ và xây dựng được 10 đến 12 vạn sĩ quan dự bị.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:58:09 pm
Thực hiện Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, hệ thống nhà trường quân đội được chấn chỉnh, củng cố và phát triển cả về tổ chức và quy mô đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ các cấp. Ngày 27-8-1980, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị số 126 về tổ chức hệ thống nhà trường quân đội. Ngày 23-10-1980, Bộ Quốc phòng quyết định chấn chỉnh hệ thống các trường đào tạo sĩ quan hợp nhất và đổi tên một số trường sĩ quan. Cũng trong tháng 10-1980, Bộ Quốc phòng thành lập Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật ôtô, Trường sĩ quan kỹ thuật Vũ khí đạn, Trường sĩ quan Lục quân 3, Trường Đại học ngoại ngữ quân sự, Trường sĩ quan Pháo phòng không (cơ sở II đào tạo cán bộ ở phía Nam).

Để đáp ứng tình hình mới, tháng 12-1981, Bộ Quốc phòng thành lập Học viện Kỹ thuật quân sự trên cơ sở Trường Đại học Kỹ thuật quân sự và Học viện Quân y trên cơ sở Trường Đại học Quân y; đồng thời đổi tên Học viện Chính trị thành Học viện Chính trị - quân sự, Học viện Quân sự thành Học viện Lục quân. Học viện Quân sự cao cấp thành Học viện Quân sự cấp cao thuộc Bộ Quốc phòng. Các trường đào tạo thợ sửa chữa vũ khí đạn dược, xe tăng thiết giáp, các trường hạ sĩ quan kỹ thuật sửa chữa ô tô và các loại xe, khí tài cho toàn quân cũng được thành lập.

Ngày 30-1-1982, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36-NQ/QW về công tác nhà trường quân đội trong 5 năm (1981-1985). Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ thường trực và dự bị, đáp ứng cả về số lượng và chất lượng, chuẩn bị đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại.

Ngày 16-2-1982, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 24/HĐBT về hệ thống các học viện, trường đại học và cao đẳng làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống các học viện, trường đại học của Nhà nước được hưởng chính sách, chế độ áp dụng cho học viện, trường đại học và cao đẳng trong cả nước(1). Tiếp đó, ngày 11-9-1985, Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị về việc kiện toàn các trường quân sự địa phương, tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương.

Hệ thống các học viện, nhà trường quân đội được củng cố và phát triển tương đối hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức đã thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hai trình độ học vấn trung cấp và cao cấp, theo hệ chương trình đào tạo cơ bản dài hạn và hệ chương trình đào tạo bổ túc ngắn hạn cho cả sĩ quan chỉ huy và cơ quan chỉ huy các binh đoàn chủ lực và cán bộ làm công tác quân sự địa phương.

Thời gian này, theo thỏa thuận giữa Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam - Liên Xô, quân đội ta có cố vấn và chuyên gia quân sự của Liên Xô ở một số quân khu, quân đoàn, quân chủng và binh chủng đã tạo điều kiện cho ta nghiên cứu, học tập thêm những kinh nghiệm của bạn, đặc biệt là việc tổ chức lực lượng và sử dụng các loại vũ khí, khí tài mới trong tác chiến hiện đại.

Để đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Tổng cục Chính trị cùng các cơ quan Bộ Quốc phòng và lãnh đạo chỉ huy các đơn vị toàn quân đã nghiên cứu, hoàn chỉnh việc bổ sung, sửa đổi Luật nghĩa vụ quân sự và Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt nam (ban hành từ năm 1958, năm 1962 và năm 1965), báo cáo Quân ủy Trung ương trình Quốc hội thông qua. Ngày 30-12-1981, sau khi thảo luận, xem xét, Dự thảo Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam do Bộ Quốc phòng soạn thảo, đã được Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ hai thông qua.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 10-1-1982, Hội đồng Nhà nước công bố Luật nghĩa vụ quân sự gồm 11 chương, 4 mục, 73 điều và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam thay cho Luật nghĩa vụ quân sự năm 1960, các luật sửa đổi, bổ sung năm 1965 và Luật về chế độ phục vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân năm 1958. Đến ngày 18-4-1982, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 564/QP ban hành quy định cụ thể về việc thi hành hai luật nói trên.

Có thể nói, hai đạo luật được ban hành là sự kiện chính trị - quân sự lớn của đất nước, trực tiếp cổ vũ cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và thế hệ trẻ trong toàn quốc phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


(1) Thời điểm này, toàn quân có 6 học viện (Học viện Quân sự cấp cao, Học viện Chính trị - Quân sự, Học viện Lục quân, Học viện Hậu cần, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Quân y) và 2 trường đài học, cao dẳng quân sự (Đại học Ngoại ngữ quân sự, các trường Sĩ quan Lục quân I, II, III; Trường Sĩ quan Hậu cần, Trường sĩ quan Kỹ thuật, Trường Sĩ quan Tài chính, Trường Sĩ quan Vũ khí - đạn, Trường Sĩ quan Bản đồ, Trường Sĩ quan Pháo binh, Trường Sĩ quan Đặc công, Trường Sĩ quan Pháo Phòng không, Trường Sĩ quan Phòng hóa, Trường Sĩ quan Biên phòng, Trường Sĩ quan Chỉ huy - Kỹ thuật Không quân, Trường Sĩ quan Chỉ huy - Kỹ thuật Hải quân, Trường Sĩ quan Chỉ huy - Kỹ thuật tên lửa - ra đa, Trường Sĩ quan Chỉ huy - Kỹ thuật xe tăng, Trường Sĩ quan Chỉ huy - Kỹ thuật Thông tin, Trường Sĩ quan Chỉ huy - Kỹ thuật Công binh, Trường Sĩ quan Chỉ huy - Kỹ thuật ôtô).


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 09:59:23 pm
Ngay sau khi Hội đồng Nhà nước công bố Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới, từ ngày 15 đến ngày 19-1-1982, tại Hà Nội, Quân ủy Trung ương tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ toàn quân lần thứ III. Đại hội thảo luận, đóng góp ý kiến bổ sung, sửa đổi và nhất trí cao với Dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IV) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng; thảo luận và quyết nghị những chủ trương, biện pháp khắc phục khó khăn trong lãnh đạo, tổ chức xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong 5 năm (1981-1985), góp phần quan trọng chuẩn bị Đại hội lần thứ V của Đảng.

Để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ III và sớm đưa Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam vào cuộc sống, vừa chuẩn bị cho xây dựng lực lượng cả trước mắt và lâu dài theo yêu cầu mới, ngày 30-1-1962, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp, ra Nghị quyết số 36-NQ/QU về công tác nhà trường trong quân đội 5 năm (1981-1985), Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ thường trực và dự bị, đáp ứng cả về số lượng và chất lượng nêu trong Nghị quyết ngày 28-12-1979 của Quân ủy Trung ương về Quy hoạch dài hạn đội ngũ cán bộ từ năm 1979 đến năm 1985 đã quy định để chuẩn bị đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại trước bối cảnh mới của đất nước.

Do tình hình phát triển lực lượng quá nhanh, nên một bộ phận đơn vị chất lượng chưa tương xứng với số lượng. Năm 1980, trước những diễn biến phức tạp của tình hình cách mạng, cán bộ đảng viên trong các lực lượng vũ trang nhân dân, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên đã bộc lộ những biểu hiện tiêu cực, mơ hồ trước âm mưu của địch, bị quan, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Trước tình hình đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang được tiến hành tích cực. Các cơ quan, đơn vị tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, bảo đảm đúng kế hoạch, nội dung chương trình quy định cho từng cấp, từng đối tượng cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên. Các cơ quan, đơn vị kết hợp giáo dục với tuyên truyền làm công tác tư tưởng đối với bộ đội, chủ động trước những diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới. Các đảng bộ trong các lực lượng vũ trang đều xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh. Đây là động lực chủ yếu giúp cán bộ, chiến sĩ vượt lên những khó khăn thử thách mới.

Theo sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị, trong hai năm 1980-1981, các cơ quan, đơn vị đã tổ chức sinh hoạt chính trị, các lớp chính trị tại chức và các buổi thông báo tình hình, thông qua việc kiểm tra tư cách đảng viên trong đợt phát thẻ Đảng kết hợp với mọi hoạt động và sinh hoạt đảng, chính quyền và sinh hoạt quần chúng trong cơ quan, đơn vị để làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ tình hình đất nước, đánh giá đúng thành tích và khuyết điểm, thuận lợi và khó khăn; nắm vững hơn những vấn đề cơ bản của đường lối nhiệm vụ quân sự của Đảng. Nội dung học tập tập trung khẳng định về tinh thần kiên định theo đường lối Đại hội Đảng lần thứ IV, đề cao cảnh giác chống chiến tranh tâm lý của địch, bảo vệ đường lối của Đảng, bảo vệ tổ chức Đảng, Nhà nước; cán bộ, đảng viên có phẩm chất trong sáng, phân biệt đúng sai, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, nâng cao sức mạnh chiến đấu của tổ chức Đảng, đề cao trách nhiệm quản lý cán bộ chỉ huy các cấp, củng cố tốt quan hệ nội bộ, tích cực chăm lo giải quyết kịp thời những vấn đề thiết yếu về đời sống của quần chúng. Nhờ được nâng cao về trình độ chính trị và tư tưởng, cán bộ, đảng viên đã xác định rõ thái độ dúng đắn trong thời kỳ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Công tác tư tưởng ở mọi cấp trong các lực lượng vũ trang đã góp phần nâng cao nhận thức, củng cố quyết tâm chiến đấu của bộ đội, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ phấn đấu hoàn thành tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, Tổng cục Chính trị và các đơn vị còn phối hợp với các ngành chức năng của Đảng và chính quyền các cấp tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quốc phòng của Đảng và Nhà nước, phát huy tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ Tổ quốc trong thế hệ trẻ, huy động được sức mạnh toàn dân tham gia vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước và làm nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia.

Giáo dục quốc phòng cho toàn dân và tổ chức huấn luyện quân dự bị là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Ngay từ tháng 6 đến tháng 12-1979, Thủ tướng Chính phủ đã ra các Nghị quyết số 228/TTg và 378/TTg về giáo dục quốc phòng nhân dân, tổ chức huấn luyện quân dự bị đối với sinh viên tốt nghiệp đại học. Ngày 23-8-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị Tăng cường giáo dục quốc phòng cho nhân dân, có chuẩn bị cho thé hệ trẻ sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Những chỉ thị và quyết định của Đảng, Chính phủ được các cấp, các ngành trong cả nước thực hiện nghiêm túc, đã góp phần động viên hàng chục vạn thanh niên tình nguyện vào quân đội làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc và lao động xây dựng đất nước.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:02:29 pm
Ngày 21-10-1981, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 115/HĐBT thành lập Ban chỉ đạo giáo dục quốc phòng nhân dân các cấp: Trung ương, tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương, huyện, quận và cấp tương đương. Đại tướng Hoàng Văn Thái, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm chủ tịch. Nhiệm vụ là hướng dẫn Ban chỉ đạo giáo dục quốc phòng nhân dân các cấp tổ chức thực hiện công tác giáo dục quốc phòng nhân dân; phối hợp với các ngành và đoàn thể nhân dân xây dựng kế hoạch dài hạn và kế hoạch hằng năm và giáo dục quốc phòng, gồm kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, kế hoạch tài chính và ngân sách, kế hoạch hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa… trình Chính phủ xét duyệt và ban hành các chế độ, chính sách, tạo điều kiện hoạt động giáo dục quốc phòng hiệu quả. Bộ Quốc phòng và Bộ chỉ huy quân sự các cấp, lập một tổ chức chuyên trách giúp Ban chỉ đạo giáo dục quốc phòng nhân dân điều hành công việc.

Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, tại Hà Nội diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng. Đại hội đã thảo luận các văn kiện do Ban Chấp hành Trung ương (khóa IV) soạn thảo trình Đại hội và thông qua những quyết định quan trọng về xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của bộ máy nhà nước, động viên toàn dân phấn đấu vượt qua khó khăn về kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội xác định rõ phương hướng nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng: “Phải động viên những cố gắng cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, đồng thời bảo đảm cho đất nước luôn luôn sẵn sàng và đủ sức mạnh để đánh thắng kẻ thù trong bất cứ tình huống nào… Để đáp ứng yêu cấu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và yêu cầu của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đồng thời phải thực hiện đầy đủ chế độ một người chỉ huy bảo đảm cho người chỉ huy phát huy được đầy đủ trách nhiệm của mình… hạ quyết tâm và xử trí các tình huống một cách chủ động, quyết đoán chính xác, kịp thời và bộ đội hành động kiên quyết, khẩn trương để giành thắng lợi, hoàn thành tốt nhiệm vụ”(1).

Thực hiện nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, ngày 20 tháng 4 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 71/HĐBT thành lập Vụ Các vấn đề quốc phòng và động viên nền kinh tế quốc dân (Vụ 1) thuộc Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các ngành, các địa phương thực hiện kế hoạch động viên nền kinh tế quốc dân, sẵn sàng đáp ứng khi chiến tranh xảy ra và các vấn đề quốc phòng đất nước.

Ngày 26-4-1982, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định về quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu và lễ phục của Quân đội nhân dân Việt Nam và Nghị quyết số 129/HĐBT của Quân đội nhân dân Việt Nam và Nghị quyết số 129/HĐBT ngày 4-3-1982 về nhiệm vụ xây dựng kinh tế của Quân đội trong 5 năm (1981-1985).

Về nhiệm vụ công tác đảng trong Quân đội, ngày 15-12-1982, Bộ Chính trị (khóa V) ra Nghị quyết số 07-NQ/TW Về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội. Đây là một sự kiện nổi bật có tác dụng lớn trực tiếp và ảnh hưởng lâu dài đến sự lãnh đạo của Đảng, công tác đảng, công tác chính trị trong toàn quân.

Đầu năm 1983, toàn quân thực hiện Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị (khóa V) nhưng còn nhiều lúng túng trong chấp hành cơ chế lãnh đạo mới của Đảng. Để đảm bảo việc tổ chức thực hiện cơ chế nghiêm túc và thống nhất trong toàn quân, Tổng cục Chính trị đã gấp rút trình Ban Bí thư Trung ương Đảng các quy định cụ thể hóa Nghị quyết 07 của bộ Chính trị.

Sau khi xem xét, ngày 12-8-1983, Ban Bí thư Trung ương Đảng đề ra 4 quy định như sau: Quy định về tổ chức hội đồng quân sự các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam; quy định về tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam; quy định về tổ chức ủy ban kiểm tra Đảng các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam và quy định về tổ chức cơ sở Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó, đến ngày 12-8-1983, Ban Bí thư Trung ương Đảng quy định về “Tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam”; quy định về “Tổ chức ủy ban kiểm tra Đảng các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, quy định về “Tổ chức cơ sở Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Trải qua gần 40 năm đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân cả nước đạt được những thành tựu kỳ diệu, đó là đã sản sinh ra và tôi luyện được một quân đội kiểu mới làm tốt ba chức năng chiến đấu, sản xuất, công tác. Trong những thời kỳ cách mạng ở khúc ngoặt quyết định, hoặc gặp thử thách quyết liệt, thì quân đội ấy vẫn tuyệt đối “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Bản chất cách mạng và truyền thống vẻ vang đó đã trở thành giá trị tinh thần văn hóa cao quý của lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam và của toàn thể dân tộc Việt Nam.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 43, tr. 54.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:04:24 pm
Lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng và trưởng thành, trước hết là do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện từ phong trào đấu tranh cứu nước của nhân dân suốt mấy chục năm qua, đã thực hiện đầy đủ những nguyên tắc bất di bất dịch: Đảng lãnh đạo quân đội tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện(1). Để thực hiện nguyên tắc đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí minh đã xác lập và từng bước hoàn chỉnh cơ chế lãnh đạo đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Cơ chế ấy đã tồn tại, phát huy sức mạnh trong xây dựng về chính trị, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội bằng nhiều hình thức qua từng thời kỳ, từng giai đoạn xây dựng, chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam.

Với cơ chế này, thực tế lịch sử đã khẳng định đây là vấn đề mấu chốt quyết định sự phát triển, trưởng thành về mặt chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và phát huy sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, quân đội ta nói riêng. Thực hiện cơ chế đó, quân đội ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Sau cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, ngày 29-5-1979, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 172-QU/TW Về thực hiện chế độ một thủ trưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 6-1979 trở đi, trong quân đội bắt đầu triển khai áp dụng thí điểm chế độ “một người chỉ huy” ở một số đơn vị.

Ngày 30-9-1980, Bộ Quốc phòng ban hành Quy định số 800/QĐ-QP về thực hiện chế độ “một người chỉ huy” trong quân đội, có hiệu lực từ ngày 1-10-1980. Đây là bước khởi đầu của việc thay đổi cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội để đi đến Nghị quyết số 07/NQ/TW ngày 15-12-1982 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V).

Nội dung Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị có 4 phần. Phần thứ nhất xác định những vấn đề cơ bản trong cơ chế lãnh đạo mới của Đảng, trong đó cốt lõi nhất là 4 nguyên tắc được nêu rõ:

“1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà thường xuyên và trực tiếp là Bộ Chính trị lãnh đạo trực tiếp, tập trung thống nhất về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt Nam.

2. Trên cơ sở Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện chế độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội. Để tăng cường cho chế độ một người chỉ huy, thành lập Hội đồng quân sự ở Bộ Quốc phòng, các tổng cục, các quân khu, quân đoàn, quân chủng và binh chủng, với tính chất là một tổ chức lãnh đạo tập thể.

3. Bỏ hệ thống cấp ủy Đảng từ Quân ủy Trung ương đến cấp trên cơ sở (sư đoàn). Cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam là cơ quan lãnh đạo về Đảng, đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Các tổ chức cơ sở của Đảng trong quân đội được thành lập theo đúng Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

4. Việc bổ nhiệm cán bộ từ chỉ huy trưởng, chủ nhiệm chính trị cấp sư đoàn và tương đương trở lên, việc chỉ định cấp ủy viên Hội đồng quân sự do Bộ Chính trị và Ban Bí thư phê chuẩn”(2).

Để tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương về công tác đảng, công tác chính trị, Nghị quyết 07 đã xác định: “Tổng cục Chính trị là cơ quan chính trị của toàn quân. Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên và trực tiếp là Ban Bí thư lãnh đạo công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội thông qua Tổng cục Chính trị. Tổng cục Chính trị là cơ quan giúp Ban Bí thư chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Đồng thời, Tổng cục Chính trị tiến hành công tác đảng, công tác chính trị theo Điều lệ Đảng, nghị quyết các đại hội toàn quốc của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và căn cứ vào mệnh lệnh, chỉ thị về quân sự của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên huấn và Ban Tổ chức Trung ương về công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội”(3).

Nhằm đảm bảo tính tập thể trong lãnh đạo, giải quyết những vấn đề quan trọng nhất của công tác đảng, công tác chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định ở Tổng cục Chính trị thành lập Hội đồng Tổng cục Chính trị, ở các cục, phòng chính trị tổ chức Hội đồng cục chính trị và Hội đồng phòng chính trị. Hội đồng cơ quan chính trị các cấp làm việc tập thể, quyết định theo đa số và được thể hiện bằng chỉ thị của chủ nhiệm chính trị.

Cùng với việc triển khai quán triệt thực hiện cơ chế mới, các đơn vị trong toàn quân đẩy mạnh việc xây dựng nền nếp chính quy gắn với việc thực hiện nội dung cuộc vận động lớn: “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”. Các đơn vị đã phát động phong trào thi đua rộng lớn với những chỉ tiêu cụ thể, nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu lớn của việc vận động quyết tâm tạo nên sức mạnh mới cả về tư tưởng và tổ chức để đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ nặng nề, phức tạp trong giai đoạn cách mạng mới.


(1) Từ Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 15-12-1982 đến 27-6-1991 nguyên tắc đó được xác định là “trực tiếp, tập trung, thống nhất về mọi mặt”.
(2) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, t.III (1975-1995), tr. 156-157.
(3) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.163-164.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:04:53 pm
Cơ quan hậu cần, kỹ thuật các đơn vị trong toàn quân cũng được kiện toàn. Toàn quân đã hình thành một hệ thống quản lý, chỉ đạo về hậu cần, kỹ thuật từ Bộ Quốc phòng đến các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng… Ngành hậu cần đã triển khai xây dựng hệ thống căn cứ hậu cần phía trước và phía sau để bảo đảm cho các hướng, đồng thời kiện toàn một bước bộ máy hậu cần của các sư đoàn, trung đoàn tuyến một và các tỉnh biên giới phía Bắc, đảm bảo cho sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Hệ thống kho, trạm, đoàn an dưỡng được điều chỉnh, củng cố, bố trí theo các tuyến chiến đấu, chiến dịch, chiến lược.

Lực lượng vũ trang địa phương xây dựng khu hậu cứ vững mạnh ở các huyện và có kế hoạch dự trữ lương thực, thực phẩm bảo đảm cho chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Khu hậu cứ liên kết với các làng, xóm, thôn, bản. Ở xí nghiệp, nông trường, công trường tổ chức thành cụm chiến đấu liên hoàn. Các địa phương đẩy mạnh việc xây dựng vật chất, kỹ thuật làm tốt công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Ngoài phần bảo đảm nhu cầu lương thực, thực phẩm của nhân dân, cán bộ, công nhân viên trên địa bàn huyện và giao nộp cho Nhà nước, các huyện đều có lượng dự trữ lương thực, thực phẩm bảo đảm cho lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu trước mắt và lâu dài.

Bưu điện truyền thanh, tận dụng cơ sở phương tiện hiện có của địa phương, thành phố và trung ương trên địa bàn huyện để chỉ đạo, chỉ huy từ huyện đến xã, đồng thời tổ chức xây dựng hệ thống bưu điện truyền thanh phục vụ trực tiếp cho chiến đấu. Các huyện đều coi trọng cả ba loại phương tiện hữu tuyến điện, vô tuyến diện và thông tin chạy chân (mỗi xã ít nhất có một tiểu đội, huyện có từ tiểu đội đến trung đội thông tin chạy chân), lực lượng này, hằng năm được huấn luyện về nghiệp vụ và rèn luyện qua thực tiễn các lần diễn tập, động viên, cũng như phục vụ các đợt chống lũ, lụt, chống bão ở địa phương.

Bệnh viện ở các huyện lớn bảo đảm cứu chữa được các vết thương từ nhẹ đến nặng, mỗi huyện tổ chức từ 2-3 đội cấp cứu lưu động, một đến hai đội phòng chống chất độc hóa học; tổ chức bồi dưỡng cho nhân dân biết xử lý các vết thương nhẹ và phòng chống vũ khí hóa học của địch.

Mỗi huyện xây dựng từ hai đến ba trục đường dọc, hai đến bốn trục đường ngang, đường liên xã, liên huyện, bảo đảm giao thông vận tải cho các loại xe thô sơ và cơ giới có thể hoạt động được. Các tỉnh, thành phố tiếp tục cải tạo, mở rộng các đường quốc lộ, các trục ra các huyện; đầu tư, nâng cấp, mở rộng các trục đường liên xã, liên huyện, bảo đảm cho các loại xe cơ giới hoạt động khi chiến tranh xảy ra. Trong quy hoạch, các huyện giao cho phòng giao thông vận tải có kế hoạch tổ chức lực lượng và giao nhiệm vụ cho các xã trên các trục quốc lộ, tỉnh lộ, chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện để giải tỏa giao thông khi địch đánh phá.

Các đơn vị dựa vào xí nghiệp cơ khí huyện, trạm cơ khí của các cụm kinh tế, kỹ thuật để sửa chữa các loại ô tô, sửa chữa, đóng mới các loại xe bò kéo, xe cải tiến và sửa chữa nhỏ các loại vũ khí, phương tiện quân sự. Việc bảo đảm kho tàng, trước mắt từng cụm kinh tế - kỹ thuật gắn với cụm chiến đấu liên hoàn, các huyện bố trí các kho lương thực, cửa hàng thực phẩm để phục vụ cho sản xuất, đời sống và sẵn sàng phục vụ chiến đấu khi có chiến tranh.

Cùng với việc củng cố, phát triển lực lượng, làm tốt công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, các lực lượng vũ trang địa phương đã đẩy mạnh việc phòng thủ đất nước. Từ biên giới đến hải đảo đều sôi nổi không khí sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Các lực lượng vũ trang phối hợp cùng nhân dân làm đường cơ động chiến đấu, xây dựng các công trình quân sự, xây dựng phòng tuyến sông Cầu. Hệ thống công trình phòng thủ được bổ sung, củng cố công sự dã chiến, xây dựng nhiều công sự lâu bền và làm nhiều công trình chiến đấu. Các quân khu và các tỉnh đã củng cố thêm một bước quan trọng tuyến phòng thủ ven biển, biên giới cả về thế trận và lực lượng.

Như vậy, trong thời gian ngắn, Đảng và Nhà nước ta đã củng cố, phát triển lực lượng vũ trang theo quan điểm chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân (có quân chủ lực, quân địa phương, lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị), bổ sung vũ khí, trang bị, xây dựng tiềm lực quân sự, đủ sức thực hiện nhiệm vụ trong nước và nhiệm vụ quốc tế. Đó là cơ sở rất quan trọng để ta tập trung xây dựng lực lượng vũ trang làm nóng cốt cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc; đồng thời cũng là cơ sở cho các lực lượng vũ trang cùng với nhân dân cả nước xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nâng cao sức mạnh chiến đấu. Tuy nhiên, việc phát triển lực lượng vũ trang quá lớn (riêng bộ đội thường trực 1,6 triệu) trong lúc điều kiện kinh tế đất nước còn khó khăn, nhiều mặt mất cân đối. Đời sống của lực lượng vũ trang nhân dân rất kham khổ ảnh hưởng đến sức khỏe và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Mặt khác, lực lượng vũ trang phát triển nhanh nhưng chưa cân đối, đồng bộ giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị. Tình hình đó đặt ra nhiều vấn đề, trong đó cần xác định rõ vấn đề then chốt để tập trung chấn chỉnh, thực hiện mới có thể tăng cường tiềm lực quân sự và thế trận quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:06:41 pm
2. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân

Sau hai năm chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc nước ta bị thất bại, các thế lực thủ địch đã tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại toàn diện đối với Việt Nam trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Chúng sử dụng nhiều thủ đoạn thâm độc: gây xung đột vũ trang, tiến hành chiến tranh lấn chiếm biên giới, chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý chống phá ta cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, hòng làm cho ta suy yếu. Thực trạng nước ta vẫn đang trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với một cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các lực lượng thù địch; đồng thời phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn.

Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thủ địch gắn liền với cuộc đấu tranh giữa hai con đường trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời là một bộ phận của cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới. Chiến tranh phá hoại nhiều mặt có thể phát triển thành chiến tranh xâm lược, nên đánh bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt có thể ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu gây chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch. Thấu suốt quan điểm chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân của Đảng, quân và dân ta kiên quyết chủ động chống lại các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế ở Lào và Campuchia.

Việc chuẩn bị cho đất nước đối phó với một cuộc chiến tranh xâm lược trong điều kiện hiện đại là một công cuộc chuẩn bị lâu dài và toàn diện. Đó không chỉ là vấn đề quân sự mà còn là vấn đề chính trị, kinh tế, khoa học, vấn đề xây dựng tiềm lực về mọt mặt của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta ra sức xây dựng đất nước, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chù nghĩa xã hội, chăm lo nâng cao đời sống của nhân dân, trên cơ sở đó, tích cực tăng cường sức mạnh quốc phòng nhằm đáp ứng những yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy sức mạnh tổng hợp cửa chiến tranh nhân dân, quân và dân ta thực hiện xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh. Trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, các lực lượng vũ trang đã nắm vững quan điểm về sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trước hết phải xây dựng và củng cố thế trận chính trị, tư tưởng, tức là xây dựng được thế trận lòng dân, làm cho kẻ địch khó bề len lỏi phá hoại ta.

Đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, các quân khu, các tỉnh, huyện rút kinh nghiệm về việc thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị trong những năm qua, trên cơ sở đó, nhận xét và bổ sung kế hoạch đến tận cơ sở. Bằng những hình thức thích hợp, các địa phương tiến hành công tác giáo dục sâu rộng làm cho đồng bào và chiến sĩ hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của địch, không ngừng nâng cao cảnh giác, hiểu rõ tính gay go, phức tạp, lâu dài của cuộc đấu tranh này. Gắn chặt quốc phòng với an ninh; dùng sức mạnh hiệp đồng của các lực lượng, các ngành, các đoàn thể dưới sự lãnh đạo thống nhất, tập trung của các cấp ủy đảng, lấy sức mạnh của quần chúng làm cơ sở để đánh địch một cách toàn diện; tập trung vào các địa bàn trọng điểm, các khâu trọng tâm, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chúng, đồng thời cảnh giác đối phó với sự chống phá của các thế lực phản động khác. Các đơn vị, địa phương xây dựng phương án chuẩn bị lực lượng và thế trận phòng thủ chống chiến tranh xâm lược trong các tình huống khác nhau, phù hợp với đặc điểm của địa phương mình theo đúng đường lối, quan điểm quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Cùng với việc xây dựng và củng cố thế trận về chính trị, tư tưởng, các lực lượng vũ trang nhân dân coi trọng xây dựng thế trận về tổ chức. Đây là vấn đề rất rộng lớn đỏi hỏi quân và dân ta phải nỗ lực phát triển về tổ chức biên chế, quân số, cả lực lượng chiến đấu và lực lượng sản xuất bố trí theo thế trận quốc phòng chung trong cả nước. Lực lượng vũ trang nhân dân đã hoàn chỉnh một bước kế hoạch chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc. Quân khu 1 và Quân khu 2, Đặc khu Quảng Ninh, sau khi phát triển lực lượng, trang bị đã được tổ chức lại, bố trí các quân đoàn chủ lực trên các hướng chiến dịch, chiến lược, tăng cường phòng thủ ở vùng biển, hải đảo, trọng tâm là khu vực Trường Sa.

Các lực lượng vũ trang (gồm ba thứ quân) được bố trí hợp lý trên địa bàn cả nước và ở từng chiến trường, từng địa phương, hình thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ, tạo nên một thế chiến lược vững chắc của thế trận quốc phòng toàn dân để giữ vững quyền làm chủ và chủ động tiến công quân xâm lược trong mọi tình huống.

Các địa phương trong cả nước tiến hành bố trị địa bàn dân cư, các cơ sở sản xuất, cơ quan tỉnh và các lực lượng vũ trang. Toàn tỉnh chia thành huyện phía trước, huyện phía sau. Trong đó ưu tiên xây dựng huyện phía trước, xã giáp biên, củng cố, xây dựng đồng bộ các thành phần chiến đấu. Mỗi huyện phía trước (tuyến biên giới phía Bắc) tổ chức một tiểu đoàn chiến đấu cơ động và một tiểu đoàn phục vụ chiến đấu. Mỗi huyện phía sau tổ chức hai tiểu đoàn cơ động và hai tiểu đoàn phục vụ chiến đấu để sẵn sàng cơ động chi viện cho phía trước khi có lệnh. Các tỉnh đã chủ trương xây dựng khu vực biên giới, vành đai biên giới và một số khu vực cấm.

Trong toàn bộ kế hoạch xây dựng địa phương, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng được quán triệt ở tất cả các cấp, các địa phương đến tận từng gia đình và từng người. Mỗi người sản xuất ở đâu cũng phải tính toàn đến chuyện bảo vệ mình khi địch pháo kích, khi địch tiến công bằng bộ binh chớp nhoáng và lâu dài, phải có điều kiện vật chất cho sự bám trụ vững vàng. Các cơ quan, cơ sở sản xuất đều có phương án đánh địch để chủ động đối phó trong mọi tình huống.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:07:57 pm
Trên thực tế, một thế trận quốc phòng toàn dân đã hoàn thành và ngày càng được phát triển, củng cố vững chắc. Thế trận đó thể hiện sức mạnh của toàn dân, sức mạnh của cả nước đánh giặc, toàn dân là chiến sĩ, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, đánh địch bằng sức mạnh tổng hợp ngay từ đầu, kết hợp quân sự, chính trị, ngoại giao, tiến công địch với sức mạnh toàn diện của chế độ xã hội chủ nghĩa của nền quốc phòng toàn dân. Thế trận đó, trước hết có tác dụng đánh bại từng bước âm mưu thủ đoạn chiến tranh phá hoại và chiến tranh lấn chiếm của địch, sẵn sàng cùng cả nước đánh bại mọi bước leo thang chiến tranh xâm lược của chúng.

Thực hiện chủ trương “Xây dựng huyện thành pháo đài vững mạnh về quân sự”(1), Thường vụ Quân ủy Trung ương đã xác định đây là một trọng tâm công tác lớn của công tác quân sự địa phương trong giai đoạn mới. Bộ Tổng tham mưu biên soạn tài liệu hướng dẫn về xây dựng pháo đài quân sự huyện và đã tổ chức tập huấn cho cán bộ quân sự địa phương trên cả nước. Các huyện đã kết hợp đúng đắn yêu cầu xây dựng huyện về các mặt với yêu cầu xây dựng lực lượng quân sự, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Cụ thể là, từng bước quy hoạch quốc phòng kết hợp với xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể của huyện, xây dựng bộ đội địa phương gắn liền với việc chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng cơ sở, xây dựng hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân đánh địch. Nắm vững những nhiệm vụ của pháo đài quân sự, các huyện đã tiến hành xây dựng kế hoạch tác chiến cơ bản và kế hoạch tiến hành công tác đảng, công tác chính trị sẵn sàng chiến đấu. Các huyện trọng điểm ở vùng biên giới phía Bắc, ven biển tổ chức đơn vị dân quân thường trực, quan sát, báo động trinh sát thông tin liên lạc. Ở vùng biên giới, ven biển, xí nghiệp, nông lâm trường hình thành một số cụm chiến đấu liên hoàn, xây dựng và hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn dân, tạo nguồn hậu cần tại chỗ. Các huyện triển khai thực hiện kế hoạch phòng thủ kết hợp với quá trình tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Các địa phương điều chỉnh bổ sung việc phân công cấp ủy viên phụ trách các mặt công tác quân sự, phụ trách các hướng, các địa bàn trọng điểm.

Việc xây dựng pháo đài quân sự huyện theo quy hoạch quốc phòng, bảo đảm cho toàn huyện vừa chiến đấu vừa sản xuất, bảo vệ vững chắc địa phương và chi viện đắc lực cho phía trước, chủ động ứng phó với mọi tình huống đánh thắng địch ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh. Đến năm 1980, việc xây dựng huyện thành pháo đài quân sự đã được triển khai rộng rãi trên cả nước, trong đó tập trung xây dựng 10 huyện trọng điểm ở biên giới phía Bắc và ven biển.

Thực hiện chủ trương xây dựng huyện biên giới, từ tháng 5 đến tháng 7-1981, Bộ Tổng tham mưu tổ chức các đoàn cán bộ đến các huyện Phong Thổ (Lai Châu), Vị Xuyên (hà Giang) và Cao Lộc (Lạng Sơn) tìm hiểu tình hình, trực tiếp giúp các địa phương xây dựng và phát huy pháo đài quấn sự huyện trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đoàn cán bộ đến huyện Cao Lộc thu thập tư liệu và tham gia cuộc họp sơ kết 40 ngày hoạt động chống quân Trung Quốc lấn chiếm của Thường vụ Huyện ủy Cao Lộc và đề xuất với huyện ủy về cách đánh bổ sung phương án tác chiến nằm đánh bại âm mưu lấn chiếm, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới của Tổ quốc.

Theo chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu, tháng 11-1981, Cục Dân quân tự vệ cử một số đoàn cán bộ đi nghiên cứu về pháo đài quân sự tại các huyện Quảng Bạ, Yên Minh, Vị Xuyên (Hà Giang), Tiền Hải (Thái Bình), Vĩnh Bảo (Hải Phòng), Quảng Xương (Thanh Hóa), Nghị Lộc (Nghệ An), Triệu Hải (Quảng Trị) để kịp thời chỉ đạo, rút kinh nghiệm xây dựng pháo đài quân sự miền núi và huyện ven biển.

Ngày 6-2-1982, Cục Dân quân tự vệ ra Hướng dẫn số 14/G7 về xây dựng pháo đài quân sự huyện trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nêu rõ: Dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của các cấp ủy đảng địa phương, tập trung sức lực và thường xuyên chăm lo xây dựng pháo đài quân sự huyện có được nền móng ngày càng vững chắc, xây dựng về chính trị, kinh tế, đời sống dần ổn định, văn hóa xã hội tiến bộ; xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, quân sự hóa toàn dân, phát động toàn dân đánh giặc. Dân quân tự vệ được xây dựng mạnh mẽ và rộng khắp gắn liền với cơ sở sản xuất; xây dựng bộ đội huyện và lực lượng dự bị đứng chân trên pháo đài quân sự; xây dựng tuyến phòng thủ và thế trận làm chủ của chiến tranh nhân dân địa phương trên pháo đài quân sự huyện là tuyến phòng thủ tổng hợp, phát huy nhiều yếu tố, nhiều thế mạnh của toàn dân, toàn diện, cả chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.39, tr.539.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:09:23 pm
Tháng 5-1982, Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm xây dựng pháo đài quân sự huyện biên giới. Đồng chí Đỗ Mười - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến dự. Đại tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu trưởng chủ trì Hội nghị, Trung tướng Đặng Kinh, Phó Tổng tham mưu trưởng báo cáo sơ kết tình hình xây dựng pháo đài quân sự huyện biên giới từ năm 1979 đến năm 1981 và đề án xây dựng pháo đài quân sự huyện trong những năm tới.

Hội nghị đánh giá: Các huyện đều xây dựng kế hoạch tác chiến cơ bản làm cơ sở xuất phát xây dựng quy hoạch quốc phòng, kinh tế, quy hoạch xây dựng huyện thành pháo đài quân sự; tinh thần sẵn sàng chiến đấu, giữ vững an ninh chính trị được nâng lên một bước. Lực lượng vũ trang địa phương có bước phát triển và sức mạnh mới, trang bị vũ khí được tăng cường, tổ chức phù hợp với yêu cầu chiến đấu, quốc phòng, an ninh phù hợp với tổ chức sản xuất. Xây dựng thế trận phòng thủ, cơ sở hậu cần tại chỗ của pháo đài quân sự huyện bước đầu đã kết hợp tốt với thế bố trí kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Hệ thống chỉ huy chiến đấu trên một số khu vực phòng thủ được củng cố.

Về phương hướng xây dựng pháo đài quân sự huyện trong những năm tới, Hội nghị xác định tiêu chuẩn của một pháo đài quân sự huyện biên giới về mặt quân sự phải đạt: Có kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản của huyện thể hiện ở nhiệm vụ và 6 cách đánh. Lực lượng vũ trang địa phương phải xây dựng toàn diện trên mọi địa bàn, có cách đánh phù hợp với từng lực lượng theo 5 nhiệm vụ chiến đấu, có hệ thống làng, xã chiến đấu, cụm chiến đấu liên hoàn, có quy hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản, có hệ thống chỉ huy, chỉ đạo giữa các lực lượng vũ trang.

Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, từ đầu tháng 4 đến giữa tháng 5-19893, Bộ Quốc phòng mở lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức quân sự địa phương cho cán bộ, các cơ quan Bộ, các quân khu, quân chủng, binh chủng, học viện, nhà trường và 17 tỉnh, thành phố ở khu vực phía Bắc. Tiếp đó, cuối tháng 7, đầu tháng 9-1983, Bộ tổ chức cho cán bộ các quân khu, tỉnh, thành phố ở phía Nam. Nội dung học tập gồm các vấn đề quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân địa phương, xây dựng pháo đài quân sự huyện, xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương, sử dụng các binh chủng, các ngành trong quân sự địa phương và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân địa phương.

Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến thăm lớp tập huấn, nhấn mạnh: Phải đặt vị trí tỉnh, huyện trong mối quan hệ tổng thể để xây dựng tỉnh, huyện thành các đơn vị chiến lược về quốc phòng và chiến tranh, xây dựng huyện thành pháo đài quân sự bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, sức mạnh của địa phương với trung ương, sức mạnh tại chỗ và lực lượng cơ động, sức mạnh của chiến tranh nhân dân địa phương với sức mạnh của các binh đoàn chủ lực chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 20-12-1984, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 23-NQ/TW về công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, bảo đảm an ninh quốc phòng vững mạnh. Nghị quyết nêu rõ: “Tăng cường xây dựng pháo đài quân sự và an ninh trên địa bàn huyện, kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng thế trận làm chủ chiến tranh nhân dân, tổ chức lực lượng lao động sản xuất, đồng thời là lực lượng quốc phòng, bảo đảm chiến đấu và hậu cần tại chỗ, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự xã hội. Làm tốt việc giáo dục chính trị tư tưởng, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, quản lý quân dự, xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân vững mạnh trong sạch về chính trị và tổ chức”(1). Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện trong toàn quân và các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Trong xây dựng pháo đài quân sự huyện, các huyện rất coi trọng việc xây dựng bộ đội địa phương đi đôi với xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng ở cơ sở. Bộ đội địa phương là một bộ phận của quân đội thường trực đứng chân trên pháo đài, lực lượng cơ động trên địa bàn toàn huyện là quả đấm của pháo đài quân sự huyện. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên cơ sở kết hợp chặt chẽ kinh tế với củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh toàn diện với nâng cao sức mạnh chiến đấu cửa các lực lượng vũ trang nhân dân. Trong sức mạnh tổng hợp của đất nước, quân đội nhân dân (bao gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương) là công cụ sắc bén của nhà nước cách mạng, một trụ cột vững chắc của chế độ xã hội chủ nghĩa. Khi kẻ thù gây chiến tranh xâm lược, các binh đoàn chủ lực của quân đội nhân dân giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lớn quân chủ lực của địch, đập tan các biện pháp tác chiến chiến lược của chúng, làm chuyển biến so sánh lực lượng, thế trận và cục diện từng chiến trường cũng như toàn bộ cuộc chiến tranh. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mình. Nhờ vậy, các lực lượng vũ trang nhân dân đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, cùng toàn dân làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của các thế lực thủ địch. Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng được các lực lượng vũ trang nhân dân hùng hậu, trong đó quân đội nhân dân gồm những binh đoàn chủ lực, những quân chủng, binh chủng kỹ thuật được trang bị ngày càng hiện đại. Nhưng nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quân sự của cách mạng trong thời kỳ lịch sử trước mắt đòi hỏi phải đưa công cuộc xây dựng các lực lượng vũ trang lên tầm cao mới, cùng với toàn dân bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đồng thời lao động sản xuất xây dựng kinh tế, làm nghĩa vụ quốc tế.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr. 439.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:10:45 pm
Ngày 19-5-1980, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị số 04/CT/QU về việc quán triệt đường lối quân sự của Đảng ta trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị nêu rõ: “Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, hùng mạnh, có trình độ chính quy, hiện đại ngày càng cao, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa lao động sản xuất, góp phần xây dựng kinh tế đất nước”(1).

Thực hiện Chỉ thị của Quân ủy Trung ương, các lực lượng vũ trang đẩy mạnh huấn luyện, xây dựng chính quy, hiện đại. Xây dựng lực lượng chủ lực tinh nhuệ, có khả năng nhanh chóng xử trí các tình huống sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Chủ trương chung nhất quán của Đảng là xây dựng bộ đội chủ lực mạnh, chính quy, hiện đại thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với bộ đội chủ lực, chú trọng huấn luyện cơ bản, hệ thống, thống nhất, theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng, hiệp đồng các thứ quân, đẩy mạnh huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và chiến dịch gắn với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến.

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Thường trực Quân ủy Trung ương về cải cách giáo dục, Bộ Quốc phòng chỉ đạo nghiên cứu quy hoạch hệ thống nhà trường, tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu giảng dạy, cải tiến chương trình nội dung phương pháp dạy và học, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện. Bộ Quốc phòng thành lập các tổ nghiên cứu tiêu chuẩn hóa cán bộ và các tổ chỉ đạo biên soạn nội dung chương trình môn học. Các nhà trường quân đội đi sâu nghiên cứu từng mặt của nội dung cải cách giáo dục.

Ngày 17-9-1980, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị về nghiên cứu, biên soạn tài liệu giảng dạy ở các học viện, nhà trường quân đội phù hợp với yêu cầu cải cách giáo dục. Các học viện, nhà trường, đơn vị khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cán bộ, bảo đảm cho cán bộ cơ sở có đủ năng lực và trình độ tổ chức chỉ huy, huấn luyện và quản lý đơn vị theo chức trách từng cấp. Sau một thời gian thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Quân ủy Trung ương về cải cách giáo dục, các nhà trường quân đội đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Nội dung đào tạo đã hướng vào mục tiêu, nguyên lý giáo dục của Đảng, làm cho nhà trường đi sát chiến trường, sát với yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị.

Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Bộ trưởng, tháng 8-1982, Bộ Quốc phòng ra các chỉ thị về tổ chức và nhiệm vụ của Học viện Quân sự cấp cao, học viện Lục quân, Học viện Hậu cần, Học viện Quân y, Học viện Chính trị - Quân sự, Học viện Kỹ thuật quân sự, Trường Đại học ngoại ngữ quân sự; đồng thời duy trì hệ thống các trường bổ túc cán bộ ở cấp quân khu, quân đoàn, binh đoàn. Các trường sĩ quan tập trung đào tạo cơ bản dài hạn. Các trường quân chính, quân khu, quân đoàn đào tạo chủ yếu cán bộ trung đội trưởng và bổ túc ngắn hạn, đáp ứng yêu cầu của đơn vị. Bộ Quốc phòng quy định tuyển sinh và các học viện, trường đại học và cao đẳng quân sự bắt đầu thực hiện từ năm học 1982-1983.

Ngày 3-1-1984, Thường vụ Quân ủy Trung ương sơ kết 3 năm thực hiện công tác nhà trường quân đội (1981-1983), đánh giá: Hệ thống các học viện, trường đại học và trường sĩ quan quân đội hình thành tương đối hoàn chỉnh trong hệ thống các trường của Nhà nước. Hệ thống các trường quân đội đã được củng cố, kiện toàn một bước cơ bản, đồng bộ. Đội ngũ giáo viên được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu giảng dạy, học tập theo chương trình nội dung, phương pháp huấn luyện mới. Những nội dung cơ bản của đường lối chính trị, quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được vận dụng vào việc đào tạo, bồi dưỡng trong các nhà trường, góp phần nâng cao nhận thức về trình độ của đội ngũ cán bộ, đủ sức lãnh đạo, chỉ huy bộ đội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Quán triệt mệnh lệnh, chỉ thị huấn luyện của Bộ, các đơn vị toàn quân chú trọng huấn luyện cơ bản, hệ thống, thống nhất theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng, hiệp đồng các thứ quân, đẩy mạnh huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và chiến dịch, gắn với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến. Theo phương châm huấn luyện cơ bản, hệ thống, toàn diện, đồng bộ, các đơn vị tập trung huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ cả về kỹ thuật và chiến thuật, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, phương tiện được trang bị. Đồng thời tích cực giáo dục rèn luyện bộ đội chấp hành điều lệnh, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật.

Đối với bộ đội chủ lực, các đơn vị bộ binh huấn luyện thành thạo tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng trong tiến công, phòng ngự cả ban ngày và ban đêm trong mọi tình huống. Các đơn vị ở tuyến một và hải đảo huấn luyện có trọng tâm, trọng điểm, sát với thực tế chiến đấu, sát với chiến trường. Từng đơn vị coi trọng công tác huấn luyện dã ngoại, rèn luyện cho bộ đội có sức cơ động, sức bền bỉ, dẻo dai, có sức chịu đựng trong điều kiện chiến đấu khó khăn gian khổ ở khu vực địa hình phức tạp. Đội ngũ cán bộ cấp đại đội, tiểu đoàn được nghiên cứu kỹ địa hình, nắm được phương án và luyện tập nhiều lần trên khu vực địa hình sát với chiến trường. Kết thúc mỗi khoa mục của từng cấp từ đại đội trở lên có diễn tập thủ trưởng cơ quan hai cấp, ba cấp theo phương án tác chiến có một phần thực binh.

Về huấn luyện kỹ thuật, bảo đảm cho bộ đội sử dụng thành thạo các loại vũ khí, khí tài mới được trang bị. Mỗi chiến sĩ đều biết sử dụng các loại vũ khí và dùng được hai đến ba loại súng trong tiểu đội. Cán bộ phải nắm chắc và sử dụng tốt các loại vũ khí, khí tài, phương tiện trong biên chế. Các quân chủng, binh chủng chú trọng, nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng cho người chỉ huy, cơ quan và phân đội.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr. 408.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:11:44 pm
Thực hiện chỉ thị của Bộ Quốc phòng, từ ngày 5 đến ngày 16-8-1981, Bộ Tổng tham mưu tổ chức lớp tập huấn cán bộ cao cấp scho các đơn vị ở phía Nam, nhằm quán triệt đường lối chính trị, quân sự của Đảng, bồi dưỡng cho cán bộ những vấn đề cơ bản về nghệ thuật các loại chiến dịch để nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng, hiệp đồng các thứ quân, bảo đảm cho cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Để có cơ sở hạ tầng bền vững cho nghiên cứu chiến dịch lâu dài, tiếp thu nền khoa học quân sự tiên tiến trên thế giới, Bộ Quốc phòng Liên Xô đã giúp Bộ Quốc phòng Việt Nam xây dựng một trung tâm nghiên cứu - huấn luyện chiến dịch T.83. Đây là nơi đã diễn ra các cuộc diễn tập chiến lược, cùng với nhiều cuộc diễn tập chiến dịch đều đạt kết quả tốt.

Trên cơ sở nắm vững nội dung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật của cá nhân và phân đội, huấn luyện hiệp đồng binh chủng, các đơn vị tiến hành diễn tập thực nghiệm và diễn tập kiểm tra sẵn sàng chiến đấu. Các Quân khu 2, 4, 7, các Quân chủng Phòng không, Không quân, Hải quân, Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 tổ chức nhiều cuộc diễn tập chiến đấu hiệp đồng binh chủng tiến công và phòng ngự trên địa hình đồng bằng, rừng núi, diễn tập chống địch đổ bộ đường không và đường biển. Kết thúc các đợt diễn tập, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh các quân khu, quân chủng, binh chủng và các sư đoàn tổ chức rút kinh nghiệm về tổ chức biên chế, trang bị, về cách đánh và mối quan hệ hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng; đồng thời rút kinh nghiệm về xây dựng pháo đài quân sự huyện biên giới và ven biển.

Sau một năm xây dựng đơn vị thành sư đoàn bộ binh cơ giới, Sư đoàn 308 tổ chức diễn tập chiến thuật thực nghiệm: chuyển quân hỗn hợp cửa sư đoàn bộ binh cơ giới và đánh phản đột kích trong hành tiến ở rừng núi trong đội hình quân đoàn nhằm tiêu diệt quân địch trong khu vực phòng ngự của quân khu. Đây là cuộc diễn tập thực nghiệm đầu tiên của sư đoàn bộ binh cơ giới và trang bị kỹ thuật hiện đại, nhiều xe cơ giới (hơn 1.000 xe chiến đấu, xe đặc chủng và ô tô) và nhiều quân binh chủng tham gia, hành quân trên địa hình đồng bằng, rừng núi phức tạp.

Qua diễn tập, trình độ và khả năng sử dụng binh khí chiến đấu hiện đại cửa cán bộ, chiến sĩ được nâng lên. Sư đoàn 308 có bước tiến bộ mới về tình độ chỉ huy và tác chiến của sư đoàn bộ binh cơ giới. Thành công của cuộc diễn tập đã khẳng định: “Chiến trường Việt Nam kể cả ở rừng núi, địa hình phức tạp, nếu được tổ chức chỉ huy vững chắc, hiệp đồng chặt chẽ thì sư đoàn bộ binh cơ giới hoàn toàn có thể phát huy đầy đủ khả năng, đầy đủ năng lực của nó để đánh cho quân địch những đòn tiêu diệt”(1).

Tháng 11-1981, Bộ Quốc phòng chỉ đạo diễn tập cơ quan tham mưu chiến lược MB-81: Diễn tập chỉ huy và cơ quan Bộ Tổng tham mưu tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng trong chiến dịch phòng ngự có ý nghĩa chiến lược ở phía Bắc Việt Nam và Bắc Lào, diễn tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến. Đây là cuộc diễn tập lớn của cơ quan cấp chiến lược về một loại hình chiến dịch mới trên phạm vi rộng lớn. Qua diễn tập, trình độ tổ chức của người chỉ huy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các đơn vị được nâng lên rõ rệt.

Trong hai năm 1981-1982, các đơn vị bộ đội chủ lực tổ chức 13.196 cuộc diễn tập gồm diễn tập cơ quan tham mưu chiến lược, diễn tập cơ quan tham mưu hai cấp, diễn tập chỉ huy và tham mưu ba cấp. Kết quả các cuộc diễn tập khẳng định sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị.

Nhằm đáp ứng yêu cầu chiến đấu trong tình hình mới, tháng 9-1983, Bộ Quốc phòng tổ chức cuộc diễn tập chỉ huy và cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân chủng, binh chủng và các quân khu, quân đoàn mang tên MB-83. Đây là cuộc diễn tập đầu tiên giữa một số đơn vị quân đội ta và quân đội Lào, do Bộ Quốc phòng tổ chức nhằm rút kinh nghiệm về tổ chức thực hành các cuộc diễn tập; nâng cao sự hiểu biết về cách đánh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghiên cứu cách đánh của quân đội ta phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước và nghiên cứu cách đánh của quân đội anh em, rèn luyện người chỉ huy và cơ quan về chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu; tổ chức và thực hành chiến dịch phòng ngự chiến lược. Việc tổ chức diễn tập với bạn Lào góp phần nâng cao trình độ công tác tham mưu chiến lược giữa hai Bộ Tổng tham mưu, tăng cường tình đoàn kết liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước trong bảo vệ biên giới, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của hai nước Việt Nam - Lào.

Trong thời gian này, các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng thực hành diễn tập hai loại hình chiến dịch, chiến đấu như: phòng ngự, phản công, tiến công, chống đổ bộ, phong tỏa đường biển của hải quân, tác chiến phòng thủ quân khu, chiến dịch phòng không và hoạt động tác chiến của không quân kết hợp với lực lượng của ba thứ quân với hai phương thức tác chiến chiến lược, trên các địa hình (chủ yếu là biên giới và ven biển) đạt kết quả tốt. Quá trình thực hiện một số tình huống hiệu quả chưa cao.


(1) Tổng kết diễn tập CĐ-30, Cục Huấn luyện chiến đấu (Bộ Tổng tham mưu), hồ sơ CT.2 (quyển 16), tr.67.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:12:24 pm
Nhìn chung, nhờ tích cực đầy mạnh huấn luyện chính quy hiện đại, qua nhiều cuộc diễn tập chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, các lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng đã có bước trưởng thành về trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng hiện đại, trình độ tham mưu chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, sức mạnh chiến đấu của bộ đội được nâng lên một bước mới. Có thể nói, “từ nửa đầu thập kỷ 80, sức mạnh lực lượng vũ trang của ta đạt được sự hùng hậu, chất lượng tổng hợp, chính quy hiện đại nhất trong thế kỷ XX”(1).

Cùng với việc huấn luyện nâng cao trình độ cho bộ đội chủ lực, các lực lượng vũ trang địa phương tập trung huấn luyện nâng cao khả năng chiến đấu tiến công, phòng ngự trên các loại địa hình, thực hành đánh vừa, đánh nhỏ, đánh độc lập và đánh hiệp đồng với bộ đội chủ lực cơ động. Huấn luyện chương trình cơ bản cho dân quân tự vệ đảm bảo đủ sức hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ nhân dân, bảo vệ cơ quan, xí nghiệp.

Ngày 8-12-1980, Tổng Tham mưu trưởng ra Chỉ thị về công tác huấn luyện dân quân tự vệ năm 1981, nêu rõ: Phải đặc biệt chú trọng nội dung, mục tiêu, huấn luyện thiết thực nâng cao chất lượng dân quân tự vệ để có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ bản làng, bám trụ chiến đấu với địch trong địa bàn địa phương khi địch xâm chiếm. Huấn luyện dân quân ở rừng núi, trung du và đồng bằng. Phổ biến đánh địch ở cấp trung độ. Lực lượng cao xạ, pháo binh trong dân quân tự vệ phải chiến đấu giỏi ở khẩu đội. Công tác huấn luyện phải căn cứ vào nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội từng địa phương, từng vùng. Huấn luyện phải nắm vững khâu trung tâm là bồi dưỡng cán bộ chỉ huy ở cơ sở, cán bộ huân luyện dân quân tự vệ các cấp.

Đầu năm 1983, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo Quân khu 3 huấn luyện thí điểm chương trình quân sự cơ bản năm thứ nhất cho dân quân tự vệ để tút kinh nghiệm và triển khai thực hiện rộng rãi trong cả nước. Đây là chủ trương lớn trong công tác huấn luyện, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của dân quân tự vệ.

Từ tháng 4 đến cuối tháng 6-1983, Bộ Quốc phòng tổ chức hai lớp tập huấn cho cán bộ quân sự địa phương ở phía Bắc và phía Nam. Nội dung tập huấn gồm 24 bài về những vấn đề cơ bản của công tác quân sự địa phương, chiến tranh nhân dân địa phương trong giai đoạn mới.

Ngày 5-10-1983, Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị về công tác dân quân tự vệ. Hội nghị trao đổi một số kinh nghiệm về huấn luyện dân quân tự vệ tham gia đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch của các Quân khu 1, 2, 9 và Quân khu Thủ đô, huấn luyện dân quân tự vệ đánh bại Fulro của Quân khu 5, huấn luyện thử chương trình cơ bản và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân quân tự vệ của Quân khu 3; kinh nghiệm giải quyết lương thực và kinh phí vật chất huấn luyện cho dân quân tự vệ của các Quân khu 4, Quân khu 7, Đặc khu Quảng Ninh. Hội nghị rút ra nhiều kinh nghiệm thiết thực, góp phần giúp Bộ chuẩn bị ban hành chương trình xây dựng, hoạt động của dân quân tự vệ trong tình hình mới.

Thời gian này, việc huấn luyện quân dự bị cũng được chú trọng. Phương pháp tiến hành theo hai hình thức: Huấn luyện tại xã và huấn luyện tập trung tại khung thường trực. Giai đoạn huấn luyện từng người đến phân đội nhỏ, vận dụng cách “quân ăn tại xã, quân ngủ tại nhà”. Kể cả việc huấn luyện chuyển binh chủng như pháo binh, phòng không, trinh sát, hóa học, đặc công… Nội dung huấn luyện theo yêu cầu tác chiến hiệp đồng quân binh chủng, lấy huấn luyện tập trung làm hình thức chủ yếu, họp luyện chỉ huy cơ quan và phân đội, rèn luyện nâng cao trình độ tác chiến tập trung trong đội hình của các binh đoàn, hiệp đồng với các lực lượng, các thứ quân trên các hướng, các khu vực và các chiến dịch phòng thủ. Các quân khu và tỉnh củng cố tuyến phòng thủ biên giới, ven biển cả về thế trận và lực lượng. Kế hoạch chung bảo vệ Tổ quốc được quân và dân ta bước đầu xây dựng hoàn chỉnh thể hiện rõ quyết tâm đánh thắng ngay từ đầu.

Trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, chăm lo xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần trong nhân dân lao động, trong lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng hậu bị quân đội là một trong những nhân tố quan trọng. Chiến tranh càng hiện đại đòi hỏi nhân tố chính trị - tinh thần là xây dựng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, nắm chắc quan điểm đấu tranh giai cấp, xây dựng quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


(1) Lịch sử Cục Tác chiến, Sđd, tr.788.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:12:54 pm
Xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần trước hết và thường xuyên là xây dựng nhận thức tư tưởng cho toàn Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang theo tinh thần Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng của Bộ Chính trị chỉ rõ: Quán triệt sâu sắc cho toàn Đảng, toàn dân làm nhiệm vụ quốc phòng, thấu suốt toàn dân xây dựng đất nước, toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Từ trung ương đến địa phương và các ngành vừa phải nâng cao kiến thức khoa học kỹ thuật và kinh tế, vừa phải quán triệt đường lối quân sự của Đảng và những kiến thức về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân theo quy định của từng cấp. Các tỉnh, thành phố tập trung giáo dục quán triệt sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đường lối quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân ở địa phương.

Ở các địa phương, công tác chính trị tư tưởng đã hướng vào việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí kiên cường bất khuất, lòng căm thù địch sâu sắc, xây dựng và củng cố khối đoàn kết trong nhân dân, xây dựng lòng tin tưởng vững chắc vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là sự lãnh đạo của tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy cơ sở. Đồng thời, giáo dục quán triệt cho các lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chính sách của Đảng tại địa phương, nhất là các chính sách hậu phương quân đội, dân tộc, tôn giáo, chống mọi thủ đoạn chia rẽ của địch. Các địa phương đã tổ chức quần chúng và vũ trang cho quần chúng biết cách đánh địch, từng bước thực hiện quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân theo yêu cầu của phòng thủ. Đó là cơ sở cho nhân tốt chính trị - tinh thần phát triển để biến nhận thức tư tưởng của từng người, từng nhà thành hành động bảo vệ Tổ quốc. Từng địa phương thông qua cơ sở, huấn luyện cho nhân dân những kiến thức quân sự phổ thông.

Vận dụng kinh nghiệm thực tiễn trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ và trong chiến tranh bảo vệ biên giới để hướng dẫn, huấn luyện cho nhân dân, trước hết là cho nhân dân ở biên giới, hải đảo, ven biển và các nơi trọng điểm những vấn đề cần thiết để chủ động và kịp thời ứng phó thắng lợi với các hành động, thủ đoạn tuyên truyền tâm lý, vu cáo xuyên tạc, dụ dỗ mua chuộc, khiêu khích của địch và những hiểu biết về phòng, tránh và khắc phục hậu quả chiến tranh. Đồng thời, các địa phương tổ chức huấn luyện cho từng người, từng nhà sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh; mặt khác huấn luyện cho mỗi người dân kiến thức phổ thông cần thiết để tiến hành chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của địch.

Các địa phương chú trọng việc giáo dục quốc phòng đối với thế hệ trẻ. Ở mỗi tỉnh, thành phố có khoảng hơn một phần tư dân số ở lứa tuổi học sinh đang theo học trong các nhà trường. Lực lượng đó đã được giáo dục, huấn luyện có đủ năng lực, bản lĩnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sẽ trở thành một lực lượng mạnh mẽ của địa phương trong lao động sản xuất và xây dựng kinh tế và trong quốc phòng an ninh. Vì vậy, thông qua hệ thống đoàn, đội, hệ thống trường học để giáo dục tri thức quốc phòng cho thanh niên, học sinh. Đây là công tác có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, trong đó nêu rõ: Việc huấn luyện quân sự phổ thông ở trường phổ thông trung học, trường dạy nghề, trường cao đẳng và trường đại học thuộc chương trình chính khóa, công tác giáo dục quốc phòng, huấn luyện quân sự phổ thông trong các trường học trong cả nước càng đi vào nền nếp và có chất lượng mới. Cùng thời gian này, việc huấn luyện sĩ quan dự bị cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng cũng được đẩy mạnh.

Ngày 12-5-1984, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 707/QĐ-QP ban hành Điều lệ nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp đó, tháng 10-1984, Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục - Đào tạo mở Hội nghị tổng kết 5 năm giáo dục quốc phòng, huấn luyện quân sự trong hệ thống nhà trường thuộc Bộ Giáo dục - Đào tạo. Hội nghị khẳng định: Để đào tạo thế hệ thanh niên, thiếu hiên hiểu rõ và sẵn sàng làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, công tác giáo dục quốc phòng, huấn luyện quân sự phải được quán triệt sâu sắc trong mục tiêu giáo dục và thể hiện rõ trong chương trình, nội dung học tập ở tất cả các trường thuộc ngành giáo dục trên phạm vi cả nước. Đây là một mặt công tác giáo dục quan trọng góp phần chuẩn bị cho thế hệ trẻ làm nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc.

Nhờ sự quan tâm của các ngành và địa phương, chất lượng giáo dục quốc phòng và huấn luyện quân sự trong các trường được nâng lên, góp phần quan trọng trong nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng toàn dân, xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần ở mỗi địa phương, thực hiện yêu cầu mỗi người dân là một lao động giỏi, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường, dũng cảm bảo vệ địa phương, sẵn sàng chi viện cho các chiến trường.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:13:15 pm
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi tỉnh, thành phố, hệ thống làng xã tiếp tục phát triển, các nông trường, xí nghiệp được củng cố, xây dựng ngày càng nhiều, cùng với các thị trấn, thị xã, thành phố phát triển và mở rộng hình thành hệ thống liên hoàn, đó là cơ sở của nền quốc phòng toàn dân. Vì vậy, xã, phường, xí nghiệp, công, nông, lâm trường là đơn vị chiến đấu, đơn vị cơ sở của chiến tranh nhân dân, của thế trận quốc phòng toàn dân. Đó là nơi xây dựng, triển khai lực lượng, bố trí trận địa của bộ đội địa phương và binh đoàn chủ lực. Trong khi đó, các đơn vị bộ đội thường trực, thường xuyên chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đồng thời tham gia xây dựng đơn vị cơ sở tại địa phương nơi đóng quân, góp phần cùng các lực lượng vũ trang địa phương xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Ngày 27-10-1984, Hội đồng Nhà nước quyết định tặng thưởng Huân chương Sao vàng (lần thứ ba) cho các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nhân ngày kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là một vinh dự lớn, là nguồn động viên, cổ vũ lớn lao đối với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân.

Sau khi thất bại trên chiến trường Campuchia và bị thiệt hại nặng trong cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta (1979), quân Trung Quốc vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động gây tình hình căng thẳng trên tuyến biên giới nhằm làm cho ta phải thường xuyên tập trung sức người, sức của để bảo vệ vùng biên giới, hòng gây khó khăn và làm ta suy yếu.

Họ thường xuyên tung thám báo, biệt kích móc nối với bọn phản động địa phương, tranh chấp những điểm cao khống chế trên đường biên. Đặc biệt là dùng pháo binh bắn phá trên toàn tuyến biên giới, sau đó sử dụng lực lượng cấp trung đoàn, sư đoàn đánh chiếm một số điểm cao và khu vực trọng yếu trên đất ta như các điểm cao 1.992 (Yên Minh), 1.800, 1.888, 1.785 (Thanh Thủy) thuộc tỉnh Hà Tuyên (nay thuộc tỉnh Hà Giang), bình độ 400 (Lạng Sơn). Từ năm 1984, phía Trung Quốc tiến hành các đợt hoạt động quân sự mới, tạo nên không khí chiến tranh quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, trong đó tập trung một lực lượng lớn (lúc cao nhất là 6 sư đoàn cùng lực lượng tại chỗ mở các đợt tiến công lấn chiếm có nơi quy mô quân đoàn) đánh phá ác liệt khu vực Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà Giang. Vị Xuyên là địa bàn được quân Trung Quốc chọn làm chiến trường để rèn luyện thực tế cho các quân đoàn chủ lực (từ 6 tháng đến 1 năm thay phiên các quân đoàn, sư đoàn phía sau ra phía trước phòng ngự và tiến công ta). Đầu năm 1984, Trung Quốc điều động Quân đoàn 1 và Quân đoàn 14 đến sát biên giới đối diện với Quân khu 2, hòng buộc ta phải tập trung lực lượng đối phó.

Trước tình hình phía Trung Quốc gây căng thẳng, Quân khu 2 tăng cường lực lượng hình thành thế phòng thủ toàn mặt trận Vị Xuyên gồm hai hướng: Hướng Thanh Thủy (chủ yếu) do Sư đoàn 313 đảm nhiệm, hướng Pa Thán (thứ yếu) do Sư đoàn 326 (Quân khu 2) phụ trách. Mỗi sư đoàn phòng thủ trên hai hướng được tăng cường một tiểu đoàn pháo 74 mm. Các đơn vị làm nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu nhanh chóng xây dựng trận địa vững chắc, tăng cường nắm tình hình, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, nâng cao chất lượng bộ đội, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc vùng biên cương của Tổ quốc. Từ ngày 2 đến ngày 16-2-1984, phía Trung Quốc mở cuộc tập kích hỏa lực lớn vào toàn bộ 13/13 huyện biên giới (Quân khu 1), 6 đồn biên phòng, 20 xã thuộc 9 huyện (Quân khu 2). Ở Quảng Ninh, hai huyện Quảng Hà, Hải Ninh bị pháo bắn phá, chịu nhiều thiệt hại. Sau đợt pháo kích, cuối tháng 2-1984, phía Trung Quốc sử dụng bộ binh lấn chiếm các điểm cao 1.509, 1.542, 772, 685, 233, 226 (Vị Xuyên, Hà Tuyên), 1.200, 820, 626 (Tràng Định, Lạng Sơn).

Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, Quân khu 2 chủ trương tổ chức tiến công kết hợp bộ binh với đặc công có hỏa lực pháo binh chi viện. Ngày 12-7-1984, ba trung đoàn bộ binh thuộc các sư đoàn 312, 316, 456 được lệnh mở cuộc tiến công khôi phục lại các điểm cao 772, 1.030 (Vị Xuyên). Tiếp đó, bộ đội ta tiến công các điểm cao 233, 300, 400 (28-7), 685, 400 (18-11-1984).

Từ tháng 2 đến tháng 7-1985, phía Trung Quốc lần lượt huy động các Sư đoàn 1 (Quân đoàn 1), Sư đoàn 201 (Quân đoàn 67), Sư đoàn 127 (Quân đoàn 43) ra tác chiến ở Vị Xuyên, thay thế Quân đoàn 11 và Quân đoàn 14 lùi về phía sau củng cố. Đến tháng 7-1985, họ chuyển các Sư đoàn 201, 199 (Quân đoàn 67), Sư đoàn 138 (Quân đoàn 46) ra thay phiên các đơn vị tác chiến ở Vị Xuyên, chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới.

Trước hành động quân sự ngày càng tăng của phía Trung Quốc, các lực lượng vũ trang Quân khu 2 cùng với các lực lượng phối hợp, tăng cường lần lượt thay phiên nhau vào củng cố thế trận phòng ngự chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt tiến công, giữ vững trận địa. Đặc biệt là ta đã đánh bại cuộc tiến công lấn chiếm ở Vị Xuyên (Hà Tuyên) và nhiều điểm cao khác trên tuyến biên giới thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, Lai Châu. Sau một thời gian tác chiến, các đơn vị đã kịp thời rút kinh nghiệm, bổ sung phương án, điều chỉnh và củng cố xây dựng lực lượng, tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng vững chắc.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:14:53 pm
Kinh nghiệm chiến đấu trên mặt trận Vị Xuyên được tổng kết kịp thời và phổ biến cho các lực lượng vũ trang trên tuyến một, góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đánh bại âm mưu, thủ đoạn lấn chiếm của quân Trung Quốc, đồng thời tự kìm chế, chủ động giảm dần cường độ tác chiến. Quân và dân ta đã đánh bại một bước âm mưu dùng sức mạnh quân sự phá hoại, lấn chiếm vùng biên giới của quân Trung Quốc, thu được thắng lợi bước đầu rất quan trọng. Thắng lợi này càng củng cố lòng tin vào khả năng đánh bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt, giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.

Sau hơn 4 năm thực hiện cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” được Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động từ tháng 11-1978, các lực lượng vũ trang ta đã có những chuyển biến sâu sắc về nhiều mặt. Tuy nhiên, sự chuyển biến ở một số mặt còn chậm, việc vi phạm kỷ luật quân đội và pháp luật của nhà nước vẫn xảy ra.

Trước tình hình đó, ngày 19-5-1983, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 20-CT/TW tiếp tục duy trì cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” trong 3 năm 1983-1985 với yêu cầu mới: Một là, xây dựng cơ bản vững chắc ý chí trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; xây dựng mối quan hệ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân đội nhân dân. Hai là, quản lý, giữ gìn và sử dụng có hiệu quả các loại vũ khí, trang bị. Ba là, tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ.

Hưởng ứng cuộc vận động do Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động, các lực lượng vũ trang đã cụ thể hóa 3 yêu cầu trên thành chỉ tiêu, đề ra các biện pháp giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ hành động, hướng vào thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Khẩu hiệu hành động là: “Ý chí mạnh, trách nhiệm cao, đoàn kết tốt, giữ gìn và sử dụng vũ khí trang bị tốt, chăm lo cải thiện đời sống tốt”.

Tuy được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, nhất là ở đơn vị cơ sở, nhưng cuộc vận động tiến triển không mạnh, nhiều vấn đề tiêu cực vẫn tồn tại, trong đó có những vẫn đề nảy sinh và diễn biến phức tạp hơn(1). Trước hiện trạng đó, các lực lượng vũ trang dồn sức vào lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng về chính trị, tư tưởng và tổ chức với tinh thần vừa cấp bách vừa cơ bản, cố gắng hạn chế những tác động tiêu cực nảy sinh từ tổ chức và cơ chế 07 năm 1982.

Qua một năm thực hiện Nghị quyết 07 về thay đổi cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quân đội, ngày 25-12-1983, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 10/CT-H về công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội năm 1984, nêu rõ: “Trong cuộc đấu tranh cách mạng đang diễn ra quyết liệt, phức tạp và trước yêu cầu, nhiệm vụ quân đội, trình độ chính trị - tư tưởng của bộ đội còn nhiều mặt chưa đáp ứng, chuyển biến còn chậm. Nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với cuộc đấu tranh giữa hai con đường gắn với cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch chưa được sâu sắc, quan điểm chưa vững vàng, vẫn còn thiếu lòng tin vào khả năng làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình kinh tế - xã hội và đời sống. Hiện tượng giảm sút ý chí chiến đấu, kém nhiệt tình và trách nhiệm, kém kỷ luật, thiếu yên tâm gắn bó với quân đội, với chiến trường, thiếu gương mẫu và lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa có chuyển biến mạnh. Tình hình kỷ luật Đảng và trong nội bộ chuyển biến chậm, chưa vững chắc, hiện tượng vi phạm kỷ luật nghiêm trọng vẫn còn nhiều. Đời sống tinh thần bộ đội còn nhiều khó khăn. Tổ chức cơ sở Đảng vẫn là một khâu yếu, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu chưa phát huy được tốt. ngay cả ở nhiều tổ chức cơ sở trọng điểm”(2).

Qua thử thách trong cuộc sống, cơ chế lãnh đạo mới ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm, khuyết điểm đến suy yếu sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Từ thực tiễn đó, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có nhiều chỉ thị cho Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị tìm nguyên nhân, xác định chủ trương, biện pháp chỉ đạo toàn quân khắc phục, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân. Theo tinh thần đó, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị tập trung chỉ đạo các đơn vị toàn quân coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, chi bộ, xác định rõ trách nhiệm của người chỉ huy, của độ ngũ cán bộ, đảng viên trong thực hiện cơ chế lãnh đạo mới của Đảng.


(1) Theo Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Sđd, tr.717.
(2) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.III, q.1, tr.500.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:16:36 pm
Mặc dù đã tìm mọi cách và nỗ lực rất cao, nhưng tình hình lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ chuyển biến về nhận thức, tư tưởng và hành động rất chậm, có những vấn đề còn nảy sinh thêm và diễn biến phức tạp hơn. Tình trạng lộng hành, dùng uy quyền cá nhân chỉ huy lấn át bộc lộ ngày càng rõ, gây căng thẳng, mất đoàn kết nội bộ kéo dài ở một số đơn vị; có nơi, có lúc nghiêm trọng đến mức mất tình nghĩa đồng chí, đồng đội, ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất, không có lợi đối với nhiệm vụ chung, gây cản trở đến xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Những biểu hiện ấy làm cho vai trò, vị trí của công tác đảng, công tác chính trị sút kém, ảnh hưởng không ít đến chất lượng công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ, nhất là sức chiến đấu và hiệu suất lao động công tác không cao.

Trước tình hình đó, ngày 21-3-1985, theo sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng à Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính tri ra Chỉ thị số 06/CT-H Về đợt sinh hoạt chính trị củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa đảng viên và quần chúng ở đơn vị cơ sở (gồm cả tổ chức cơ sở ở cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch). Chỉ thị nêu rõ: “Do tổ chức Đảng và người chỉ huy chưa nhận thức đầy dủ việc củng cố quan hệ giữa đảng viên và quần chúng là vấn đề thuộc quan điểm, nguyên tắc của Đảng, chưa coi đó là một nội dung lãnh đạo cơ bản và thường xuyên trong đơn vị, nên ở nhiều đơn vị hiện tượng tiêu cực trong mối quan hệ giữa đảng viên và quần chúng, giữa cán bộ và chiến sĩ không những không giảm đi mà có chiều hướng ngày càng tăng lên. Chỉ thống kê số vụ vi phạm đã phát hiện được và đến mức phải xử lý từ năm 1983 đến năm 1985, tỷ lệ người phạm các lỗi, năm cao nhất là 7%, năm thấp nhất là 4,5%, so với tổng số phạm lỗi. Đây là một trong những hiện tượng sai phạm nghiêm trọng có tỷ lệ cán bộ vi phạm cao nhất”(1).

Kết quả các đợt sinh hoạt chính trị trong toàn quân đầu năm 1985 đã tạo được sự chuyển biến trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, chiến sĩ, nhưng chuyển biến không nhiều, tình hình lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng vẫn chưa cải thiện được bao nhiêu, các hiện tượng tiêu cực vẫn tiếp diễn kín đáo, tinh vi hơn và vụ việc nghiêm trọng không giảm.

Ngày 9-6-1985, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TW về những vấn đề cơ bản của đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết chỉ rõ: Đường lối quân sự của Đảng ngày nay là đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của quân và dân ta là xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc, đánh bại chiến tranh lấn chiếm biên giới và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù dịch, tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết còn xác định những nguyên tắc chủ yếu trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng, chế độ một người chỉ huy, công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.

Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa V) về Đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối vói Quân đội nhân dân Việt Nam, mà nội dung quan trọng nhất là bỏ hệ thống tổ chức Đảng từ cấp sư đoàn và tương đương trở lên đến Quân ủy Trung ương, thay vào đó là Hội đồng quân sự và cơ quan chính trị là hai cơ quan lãnh đạo cao nhất về quân sự và về Đảng nhằm đảm bảo hiệu lực cho người chỉ huy ở mỗi cấp từ sư đoàn đến Bộ Quốc phòng. Song, thực tế những yêu cầu mà Nghị quyết 07 đặt ra là đổi mới và hoàn thiện cơ chế này nhằm “bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của Đảng trong mọi tình huống... nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội”(2) hiệu quả không cao, tình hình lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân không có sự chuyển biến, mà còn nảy sinh tiêu cực và diễn biến phức tạp. Biểu hiện rõ nhất là vấn đề tôn trọng nguyên tắc lãnh đạo, chỉ huy, đoàn kết của cán bộ và đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên giữ cương vị chủ trì các cấp sút kém. Không ít nơi đã phát sinh tư tưởng độc đoán gia trưởng, thiếu tình đồng chí thẳng thắn, chân thành, gây ra tiêu cực trì trệ trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực.

Những biểu hiện trên làm cho sức chiến đấu của lực lượng vũ trang sút kém, nhiều đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ được giao, nội bộ lủng củng, cán bộ với cán bộ và cán bộ với chiến sĩ không còn giữ được sự gắn bó, tin cậy, thương yêu như trước. Trong khi đó, các thế lực thù địch tăng cường âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt. Tình hình kinh tế - xã hội ngày càng khó khăn, đời sống bộ đội và hậu phương quân đội thiếu thốn, kham khổ. Nhưng nguyên nhân chủ quan chính là sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội bị buông lỏng và thiếu hệ thống chặt chẽ, chất lượng giáo dục và kiểm tra đảng viên (đặc biệt là đảng viên là cán bộ cao cấp, trung cấp, thủ trưởng đơn vị) không cao.


(1) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Sđd, tr.719-720.
(2) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.III, q.1, tr.258.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:17:42 pm
Nhận thấy tình hình nghiêm trọng, trong đó có tác động tiêu cực của Nghị quyết số 07-NQ/TW (ban hành tháng 12-1982), ngày 4-7-1985, Bộ Chính trị (khóa V) đã ra nghị quyết số 27-NQ/TW về Tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng. Nghị quyết xác định những nguyên tắc chủ yếu trong cơ chế lãnh đạo của Đảng, hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng, chế độ một người chỉ huy, công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.

Tiếp theo là Nghị quyết số 27-NQ/TW sửa chữa những sai lầm khuyết điểm chủ yếu của Nghị quyết số 07-NQ/TW năm 1982 là: Tổ chức Đảng trong quân đội nhân dân theo hệ thống dọc từ cơ sở đến toàn quân, ở mỗi cấp có ban chấp hành đảng bộ (gọi tắt là đảng ủy) do dân chủ bầu cử và được cấp trên chuẩn y. Toàn quân có Đảng ủy Quân sự Trung ương, gọi tắt là Quân ủy Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng công tác trong quân đội và một số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng công tác ngoài quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng ủy các cấp có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện các đơn vị thuộc quyền, theo phạm vi chức năng và nội dung quy định của từng cấp.

Ở mối cấp có cơ quan chính trị và cán bộ chính trị đảm nhiệm công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng trong quân đội. Cơ quan chính trị và cán bộ chính trị mỗi cấp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy cấp mình và sự chỉ đạo của cơ quan chính trị cấp trên. Nghị quyết khẳng định: công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội là một bộ phận rất quan trọng của những hoạt động của Đảng nhằm lãnh đạo các lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và xã hội chủ nghĩa, với nhân dân, với lý tưởng cách mạng của Đảng; tiến hành công tác đảng, công tác chính trị là một nguyên tắc. Nghị quyết quy định rõ về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ của cơ quan chính trị và cán bộ chính trị trong quân đội.

Quyết định trên đây của Bộ Chính trị là rất dúng đắn, có ý nghĩa quan trọng, bởi đã khôi phục lại một số vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc mà Đảng ta đã dày công xây dựng, bồi đắp và phát triển trong nửa thế kỷ lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sau khi có Nghị quyết số 27-NQ/TW, sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, cũng như quân đội và hoạt động công tác đảng, công tác chính trị được phục hồi, có hiệu lực và hiệu quả hơn. Song do cơ chế lãnh đạo vẫn chưa hoàn chỉnh nên tình trạng chung trong toàn quân chưa có chuyển biến mạnh mẽ, nhận thức tư tưởng và biểu hiện hành động của bộ đội vẫn còn nhiều tiêu cực, vi phạm kỷ luật. Những biểu hiện yếu kém về chính trị, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ chuyển biến chậm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên với mức độ khác nhau vẫn còn thiếu lòng tin, có người suy giảm lòng tin vào việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là khi tình hình diễn biến phức tạp, kinh tế đời sống khó khăn. Hiện tượng sa sút về phẩm chất, lối sống, vi phạm kỷ luật, pháp luật trong một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, kể cả cán bộ cao cấp, trung cấp chưa chuyển biến đáng kể. Quan hệ giữa đảng viên và quần chúng, cán bộ, chiến sĩ, đoàn kết dân chủ trong nội bộ, nhất là ở cơ sở vẫn còn nhiều hiện tượng không tốt, có nơi nghiêm trọng(1).

Mặc dù cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị gây tác động ảnh hưởng không lợi đến tình hình chính trị, tư tưởng cán bộ, chiến sĩ, song công tác xây dựng Đảng trong các lực lượng vũ trang, trong quân đội và các mặt công tác chính trị vẫn được giữ vững. Các cấp ủy Đảng và cơ quan chính trị các cấp thường xuyên xây dựng, nâng cao hiệu lực của tổ chức đảng làm nòng cốt xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Các cơ quan chính trị đã tập trung giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng và định hướng hành động cho bộ đội đã hạn chế bớt sự suy giảm chất lượng bộ đội và sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Như vậy, trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đất nước phải trải qua những khó khăn, biến động phức tạp. Các lực lượng vũ trang và nhân dân ta phải tiếp tục đương đầu với nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn và thường xuyên đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Nhờ những nỗ lực to lớn của quân và dân ta nền quốc phòng của đất nước được xây dựng, củng cố về mọi mặt. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân được tăng cường. Lực lượng vũ trang nhân dân có bước phát triển, bổ sung nhiều vũ khí trang bị kỹ thuật, nâng cao sức mạnh chiến đấu. Quân và dân ta luôn nêu cao cảnh giác, đấu tranh phòng chống, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.


(1) Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Sđd, tr.723-724.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 06:57:52 am
3. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và Lào

Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp mình”, trong những năm đầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất, quân và dân Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào anh em, kiên quyết đoàn kết, liên minh chiến đấu để bảo vệ, vun đắp, xây dựng và phát triển tình hữu nghị truyền thống giữa ba nước Đông Dương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của mỗi dân tộc.

Đối với Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã từng phối hợp chiến đấu với bạn giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1970-1975), theo yêu cầu của cách mạng và nhân dân Campuchia. Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, tập đoàn cầm quyền Khơme Đỏ do Pôn Pốt - Iêng Xari nắm quyền ở Campuchia đã thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại cực kỳ phản động.

Trong hơn 3 năm cầm quyền (1975-1978), tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã thực hiện chính sách đối ngoại hiếu chiến, gây ra cuộc chiến tranh xâm lược biên giới chống Việt Nam, gây xung đột vũ trang đối với Lào; đồng thời thi hành chính sách đối nội hết sức hà khắc. Chúng thực hiện “chủ nghĩa cộng sản độc đáo” ở Campuchia bằng cách xóa bỏ thành thị, trường học, chợ búa, tiền tệ, chùa chiền, dồn dân vào các trại tập trung gọi là “công xã lớn”, thủ tiêu gần 3 triệu người. Đó là “tai họa khủng khiếp, là tội ác diệt chủng chưa từng có trong lịch sử loài người”(1).

Sống dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, nhân dân Campuchia liên tục vùng lên đấu tranh, từ các vụ chống đối lẻ tẻ ở các địa phương đã nhanh chóng la rộng ra khắp cả nước. Từ năm 1977, trước tình hình người Campuchia bị tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari truy bức phải bỏ quê hương sang Việt Nam lánh nạn ngày càng nhiều, theo yêu cầu của lực lượng cách mạng Campuchia, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng Việt Nam giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân khu 7 thành lập một đơn vị (tương đương cấp tiểu đoàn) làm nhiệm vụ giúp đỡ những người Campuchia lánh nạn sang Việt Nam.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 7-9-1977, Tư lệnh Quân khu 7 ra Quyết định số 113/QĐ-77, thành lập khung tiếp nhận cán bộ, chiến sĩ Campuchia, lấy phiên hiệu là Đoàn 977, trực thuộc Cục Chính trị Quân khu, có nhiệm vụ tiếp đón, giúp đỡ bạn về ăn, ở. Ban đầu, lực lượng bạn chỉ có hơn 50 người, sau phát triển lên đến hàng trăm người. Qua tuyểnchọn, huấn luyện, lực lượng bạn từng bước tổ chức thành các khung trung đội, đại đội. Trong những tháng cuối năm 1977, đầu năm 1978, cùng với việc tiếp tục thanh trừng nội bộ, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã mở nhiều cuộc tiến công sang biên giới Việt Nam.

Đáp ứng yêu cầu giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia ngày càng lớn, ngày 21-4-1978, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 34-QĐ/QU thành lập Ban 10 phụ trách công tác Z (Campuchia) do đồng chí Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng làm Trưởng ban, các đồng chí Trần Văn Phác, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Đan Thành, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Ủy viên, với nhiệm vụ:

1. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và của Thường vụ Quân ủy Trung ương về cong tác đối với cách mạng Campuchia, tiến hành tổ chức, quản lý, giáo dục những anh em Campuchia có điều kiện về chính trị, sức khỏe trở thành lực lượng vũ trang cách mạng và những có ích cho sự nghiệp cách mạng Campuchia và cho tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

2. Nghiên cứu đề xuất với Quân ủy Trung ương phương hướng, kế hoạch công tác giúp đỡ lực lượng Campuchia thực hiện nhiệm vụ.

Ban 10 được phép tổ chức một cơ quan giúp việc (với danh nghĩa là một đoàn mang phiêu hiệu là Đoàn 478), có cán bộ cao cấp, trung cấp phụ trách công tác huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị và bảo đảm hậu cần. Tổ chức những khung giúp bạn huấn luyện các đơn vị chiến đấu.

Được sự giúp đỡ của Việt Nam, ngày 12-5-1978, lực lượng vũ trang đoàn kết cứu nước Campuchia đã được thành lập, do đồng chí Hun Xen làm Chỉ huy trưởng. Đây là đơn vị vũ trang tiền thân đầu tiên của quân đội cách mạng Campuchia cùng sát cánh chiến đấu bên cạnh bộ đội Việt Nam chống quân Pôn Pốt đi ngược lại quyền lợi của dân tộc Campuchia.


(1) Trường Chinh: Vấn đề Campuchia, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 11.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 06:58:47 am
Sau khi lực lượng vũ trang đoàn kết cứu nước Campuchia được thành lập, tình hình cách mạng Campuchia có bước phát triển nhanh chóng. Đáp ứng yêu cầu giúp bạn trên các lĩnh vực, ngày 16-6-1978, Bộ Chính trị ra Quyết định số 20/BCT thành lập Ban công tác Z Trung ương (B 68) do đồng chí Nguyễn Xuân Hoàng, Phó Viện trưởng Viện Khoa học quân sự Việt Nam làm Trưởng ban. Các đồng chí Trần Văn Phác, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Doãn Tuế, Tổng Tham mưu phó; Đan Thành, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; Nguyễn Hữu Tài, Vụ trưởng Ban Đối ngoại Trung ương làm Phó ban với nhiệm vụ chủ yếu là:

1- Theo dõi nghiên cứu tình hình Z (Campuchia) về mọi mặt, báo cáo và đề xuất với Bộ Chính trị trong việc quyết định đường lối, chủ trương, chính sách giúp đỡ cách mạng Campuchia.

2- Triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương giúp bạn xây dựng các lực lượng vũ trang Campuchia và đề xuất kiến nghị với trên về phương hướng kế hoạch công tác giúp đỡ các lực lượng Campuchia hoạt động.

3- Giúp bạn đào tạo cán bộ, thành lập các ban vận động cách mạng ở từng địa phương, từng địa bàn, tiến tới thống nhất dưới sự chỉ đạo của ban vận động cách mạng chung, đồng thời nghiên cứu đề xuất ý kiến giúp bạn xây dựng các tổ chức quần chúng, các tổ chức Đảng khi có điều kiện.

4- Thực hiện chi viện vật chất cho Campuchia theo chủ trương của Trung ương. Trước mắt bảo đảm việc quản lý, nuôi dưỡng, huấn luyện, trang bị và giúp bạn hoạt động.

Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, B68 được phép tổ chức một bộ máy gồm: Văn phòng, các cục (tham mưu, chính trị, hậu cần) và khung cán bộ huấn luyện quân sự, chính trị cho bạn.

Nhằm chủ động chuẩn bị kế hoạch chiến lược giúp bạn, từ tháng 8-1978, Thường vụ Quân ủy Trung ương và một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đã họp bàn, xác định nhiệm vụ giúp các lực lượng chân chính cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, giải phóng đất nước theo yêu cầu của bạn khi điều kiện thuận lợi. Tiếp đó, từ ngày 20 đến 23-10, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn những vấn đề chiến lược liên quan đến việc giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari. Kết luận Hội nghị, Tổng Bí thư Lê Duẩn nhấn mạnh: phải giương cao ngọn cờ của bạn, làm cho dư luận quốc tế, trong nước và nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ ta.

Cuối tháng 11 và đầu tháng 12-1978, kết hợp chặt chẽ với đòn tiến công của quân và ân Việt Nam trừng trị quân Pôn Pốt trên chiến trường biên giới Tây Nam, các lực lượng yêu nước Campuchia đã kịp thời phát động nhân dân đứng lên cứu nước, chuyển phong trào đấu tranh của quần chúng thành cao trào cách mạng sôi nổi từ thành thị đến nông thôn phát triển ngày càng mạnh mẽ và giành nhiều thắng lợi.

Đến thời điểm này, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Ta chẳng những đập tan các cuộc tấn công của địch, giữ vững địa bàn, mà còn giúp bạn phát tiển nhiều lực lượng, mở rộng địa bàn và các căn cứ trong nội địa Campuchia. Quân Pôn Pốt tiếp tục lâm vào thế bị động phải đối phó cả ở ngoài biên giới và ở trong nội địa. Nội bộ địch ngày càng mâu thuẫn sâu sắc, các cuộc thanh trừng ở các quân khu, sư đoàn tin cậy của Pôn Pốt ở Phnôm Pênh liên tiếp xảy ra.

Để tập hợp, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Campuchia đứng lên cứu đất nước thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, ta đã giúp bạn thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Ngày 2-12-1978, tại Snoul trong vùng giải phóng Campuchia, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập, do ông Hênh Xom Rin làm Chủ tịch. Sự ra đời của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đánh dấu bước phát triển vượt bậc của lực lượng cách mạng cứu nước Campuchia, mở ra một cục diện mới, đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước của nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt.

Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia công bố cương lĩnh 11 điểm, trong đó nêu rõ nhiệm vụ trước mắt: “Đoàn kết toàn dân nổi dậy đánh đổ tập đoàn phản động gia đình trị Pôn Pốt - Iêng Xari, bè lũ độc tài quân phiệt trong nước, làm tay sai cho lực lượng phản động nước ngoài, xóa bỏ chế độ tàn ác đẫm máu của chúng, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân… Mặt trận thiết tha kêu gọi nhân dân và chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức dân chủ thế giới đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội tích cực ủng hộ, giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân chúng tôi”(1). Bản tuyên bố của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân Campuchia, được nhân dân trong nước nhiệt tình hưởng ứng và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới đồng tình ủng hộ.


(1) Tuyên bố của Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, báo Nhân dân, ngày 8-1-1979.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 06:59:36 am
Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái gắn bó lâu đời với nhân dân Campuchia, đặc biệt là trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “viên thuốc chia đôi, bát cơm sẻ nửa”, xây dựng nên tình hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc. Trước yêu cầu khẩn thiết của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Đảng và Nhà nước ta quyết định giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của chế độ Pôn Pốt.

Ngày 6 và 7-12-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm lần cuối “kế hoạch sẵn sàng chiến đấu của Bộ Tổng tham mưu” nhằm giúp lực lượng cách mạng chân chính Campuchia giải phóng đất nước. Quyết tâm của ta là: Sử dụng hết sức mạnh của ta, phát động cuộc tiến công bất ngờ, thần tốc, mãnh liệt của quân ta, kết hợp với ngọn cờ cách mạng Campuchia, bao vây tiêu diệt khối chủ lực của địch, nhanh chóng thọc sâu tiêu diệt cơ quan đầu não của chúng ở Phnôm Pênh, chiếm cảng Kông Pông Som và các sân bay lớn, ngăn chặn sự chi viện của nước ngoài bằng đường biển và đường không. Đồng thời sẵn sàng đánh bại quân địch nếu chúng đánh sang biên giới phía Bắc nước ta để cứu nguy cho bọn phản động Campuchia.

Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, ngày 17-12-1978, Bộ Quốc phòng triển khai kế hoạch tiến công giải phóng Campuchia cho một bộ phận Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng gồm: 18 sư đoàn bộ binh thuộc 3 quân đoàn (2, 3, 4), 3 quân khu (5, 7, 9), 600 xe tăng, xe bọc thép, 587 khẩu pháo các loại, 7.000 ô tô vận tải, 137 máy bay, 160 tàu thuyền chiến đấu, tổng số quân tham gia khoảng 25 vạn.

Theo kế hoạch chung, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam tiến hành ba chiến dịch kế tiếp nhau: Chiến dịch 1: Giải phóng các tỉnh miền đông Campuchia do các lực lượng vũ trang Quân khu 5 và Quân khu 7 đảm nhiệm. Chiến dịch 2: Tiêu diệt các sư đoàn chủ lực địch ở phía trước, hướng chủ yếu là Quân đoàn 4. Chiến dịch 3: Tiến công giải phóng Phnôm Pênh bằng ba cánh quân do hai Quân đoàn 3, 4 và Quân khu 9 đảm nhiệm.

Về phía địch, đến tháng 12-1978, quân Pôn Pốt có 23 sư đoàn, 25 trung đoàn với tổng quân số khoảng 170.000 (quân chủ lực 120.000 quân địa phương 50.000), trang bị 250 khẩu pháo các loại, 275 xe tăng, xe bọc thép, 79 máy bay, 170 tàu tuần tiễu, phóng lôi và phục vụ. Địch bố trí ở biên giới 19 sư đoàn, trong đó quân khu đông (203) và vùng 505 (Kratie) có 12 sư đoàn.

Trong khi Quân đoàn 4 tập trung tiêu diệt địch ở bắc Bến Sỏi, trên hướng Quân khu 7, từ ngày 23 đến ngày 30-12-1978, ta sử dụng hai Sư đoàn 5 và 303 tiến công đánh chiếm thị xã Kratie, diệt và bắt hơn 1.000 tên địch, giải phóng 25.000 dân. Quân khu 5 sử dụng các Trung đoàn 143, 726 (Gia Lai - Kon Tum), 94 (Sư đoàn 307), 812 (Sư đoàn 309), 250, 142 (Đắk Lắk) đánh chiếm bắc và nam sông Xan, Xăm Tùng, các điểm cao 302, 328, 308, 336, 222 và Phi Nay, gọng kìm từ hướng sông Xan, uy hiếp Bô Khăm, bắc đường 19, điểm cao 230 và Bô Keo. Đến ngày 30-12-1978, ta tiêu diệt toàn bộ các mục tiêu, phá vỡ hoàn toàn tuyến phòng ngự cơ bản của địch, giải phóng một số tỉnh miền đông Campuchia.

Ngay khi quân ta bắt đầu mở cuộc phản công, ngày 23-12-1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã nhận định: “Sinh lực địch nhất định sẽ bị quân và dân Việt Nam tiêu diệt hoặc kìm chân tại chỗ. Đây là thời cơ tốt để các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia cùng nhân dân và binh sĩ khởi nghĩa trên toàn quốc và đánh vào đầu não của bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari, đập tan chế độ độc tài phát xít khát máu của chúng”(1). Trên cơ sở đó, ngày 26-12-1978, Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia phát động toàn dân tận dụng thời cơ và sự giúp đỡ của bộ đội Việt Nam, tập trung lực lượng đứng lên đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giành chính quyền về tay nhân dân.

Phối hợp với các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, sau đòn tiến công giải phóng một số tỉnh miền đông Campuchia của các đơn vị thuộc hai Quân khu 5 và 7, ngày 31-12-1978, Quân đoàn 3 được lệnh mở chiến dịch tiến công giải phóng vùng đông sông Mê Công.

Ở hướng Quân khu 9 và Quân đoàn 2, ngày 1-1-1979, không quân ta ném bom Sở chỉ huy tiền phương quân khu đông nam, Sở chỉ huy các Sư đoàn 250, 210 và các cụm quân địch tập trung ở Ta pông, Ki Ri Vông, Phum Xê Kê. Ngày 2-1, Quân đoàn 2 đột phá tiêu diệt địch ở Phum Tun Liếp, Tôliốp, đông nam San Tâng, các điểm cao 384, 451, 328… Các Sư đoàn 4, 330, 339 (Quân khu 9) và các đơn vị tăng cường đánh chiếm Giồng Bà Ca, Pu Sát, Phum Đông, Sở chỉ huy Sư đoàn 210 địch ở các khu vực Pro Chrey, Tham Dung, Xôm, ngã ba Tà Lập, sau đó phát triển tiến công Ta Keo. Ngày 3-1-1979, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm ác mục tiêu trong chiến dịch. Trên hướng Quân đoàn 4, ngày 1-1-1979, ta nổ súng đánh địch trên trục đường số 1 và vùng ven hai bên bờ sông Mê Công.


(1) Tuyên bố của Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, báo Nhân dân, ngày 8-1-1979.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:00:20 am
Quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị về giải phóng Phnôm Pênh trước ngày 8-1 (trước khi Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc bàn về vấn đề Campuchia); đồng thời căn cứ vào tình hình trên chiến trường, hướng Quân đoàn 4 đang gặp khó khăn, tiền phương Bộ Quốc phòng quyết định bổ sung nhiệm vụ và chuyển hướng tiến công của Quân khu đang phát triển thuận lợi thành hướng tiến công chủ yếu.

Ngày 5-1-1979, các đồng chí Lê Đức Thọ, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh thay mặt Quân ủy Trung ương và tiền phương Bộ Quốc phòng đến Chi Lăng (nơi đóng Sở chỉ huy Quân khu 9) họp và thống nhất giao nhiệm vụ bổ sung cho quân khu. Theo nhiệm vụ mới, Quân khu đánh chiếm sân bay Pô Chen Tông, Bộ Tư lệnh Thiết giáp, Đài phát thanh, khu nhà ở của cán bộ cao cấp và Phủ Thủ tướng. Quân đoàn 4 chuyển thành lực lượng phối hợp có nhiệm vụ: “Đưa một bộ phận đi trước hỗ trợ bạn đánh chiếm cầu Mô Ni Vông và Bộ Tổng tham mưu, nếu có điều kiện thì đánh chiếm Hoàng Cung”(1).

Ngày 6-1-1979, tiền phương Bộ Quốc phòng ra lệnh cho các đơn vị mở cuộc tổng công kích vào Thủ đô Phnôm Pênh từ ba hướng: Hướng Quân đoàn 4, sử dụng 2 sư đoàn (7 và 2) vượt sông Mê Công tiến theo trục đường số 1 và trung đoàn tàu thuyền theo đường sông Mê Công đánh vào Phnôm Pênh. Sau khi ra khỏi khu vực đường lầy, đánh tan các cụ phòng ngự địch, Quân đoàn 4 phát triển tiến công nhanh, Bộ tiếp tục giao lại nhiệm vụ tiến công hướng chủ yếu cho Quân đoàn 4; đồng thời tập trung không quân chi viện đắc lực cho quân đoàn.

Cùng ngày 6-1, Sư đoàn không quân 372 sử dụng 142 lượt máy bay đánh phá sở chỉ huy các Sư đoàn 260, 270, 703, các trận địa pháo, các tàu xuồng địch trên sông Mê Công, tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch. Sáng 7-1, Sư đoàn 7 phối hợp với Binh đoàn 1 Campuchia vượt phà Niếc Lương đánh tan Sư đoàn 260 địch. Tiếp đó, ta và bạn đánh cầu Mô Ni Vông, địch chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy về phía tây. 11 giờ ngày 7-1, quân ta tiến vào thành phố Phnôm Pênh chiếm cơ quan trung ương, khu sứ quán và đài phát thanh.

Trên hướng Quân đoàn 3, sáng 6-1, Quân đoàn tập trung hỏa lực chi viện cho Sư đoàn 320 vượt sông đánh chiếm thị xã Công Pông Chàm, đập tan tuyến phòng ngự vững chắc của 2.000 quân địch do Son Sen - Bộ trưởng Quốc phòng chỉ huy, mở thông cánh cửa quan trọng vào Phnôm Pênh. Ngày 7-1, được pháo binh chi viện, Sư đoàn 10 vượt sông Tông Lê Sáp đánh chiếm kho xăng phía bắc Phnôm Pênh và phát triển đánh vào Bộ Tổng tham mưu quân Pôn Pốt.

Ở hướng Quân khu 9, ngày 6-1, các đơn vị của quân khu đột phá liên tục đánh tan 4 tuyến phòng ngự của địch, mở đường cho đội hình thọc sâu tiến vào Phnôm Pênh. Được không quân chi viện hỏa lực, 11 giờ ngày 7-1, Sư đoàn 330 đánh chiếm sân bay Pô Chen Tông, ta thu 30 máy bay các loại chuyển giao cho bạn làm cơ sở để thành lập trung đoàn không quân đầu tiên của Quân đội cách mạng Campuchia. Ngay sau đó, các đơn vị của Quân khu 9 phát triển tiến công vào Bộ Tư lệnh thiết giáp và Bộ Tổng tham mưu địch. 17 giờ ngày 7-1, quân ta hoàn toàn làm chủ thành phố Phnôm Pênh.

Từ ngày 8 đến ngày 17-1-1979, cá đơn vị quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục phát triển tiến công giải phóng các tỉnh còn lại của Campuchia. Ngày 10-1-1979, Hội đồng Nhân dân cách mạng Campuchia ra tuyên bố: Xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, thành lập nước Cộng hòa nhân dân Campuchia.

Đánh giá về thắng lợi của quân tình nguyện Việt Nam giúp cách mạng Campuchia trong tháng 1-1979, Quân ủy Trung ương khẳng định: “Thắng lợi đã giành được ở Campuchia là vững chắc, kẻ địch không thể đảo ngược được tình hình… Tuy nhiên, do phát triển tiến công giành thắng lợi nhanh, lực lượng địch bị tan rã lớn, chưa bị tiêu diệt sạch (tàn quân còn nhiều, một số nơi chúng còn tổ chức chỉ huy và phương tiện thông tin liên lạc, còn khống chế dân, tích trữ lương thực, đạn dược để phát động chiến tranh du kích). Lực lượng cách mạng Campuchia chưa phát triển kịp theo yêu cầu, hậu quả của chế độ nô dịch tàn bạo của bọn Pôn Pốt - Iêng Xari còn rất nặng nề…, nên còn nhiều việc phải giải quyết”(2).

Tuy đã giúp nhân dân Campuchia giải phóng khỏi bọn diệt chủng, giành chính quyền về tay nhân dân, nhưng nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ cũng đặt ra cho chuyên gia quân sự, quân tình nguyện Việt Nam và các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia những nhiệm vụ mới rất nặng nề.


(1) Lịch sử Quân đoàn 4, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.Ii, tr.94.
(2) Báo cáo tình hình công tác quân sự cửa Quân ủy Trung ương số 45-QU/TW ngày 8-2-1979, hồ sơ 1085, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 9.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:01:59 am
Mặc dù đã bị đánh tan và thiệt hại lớn, nhưng tàn quân Pôn Pốt vẫn còn đông, chúng lẩn trốn ở khắp nơi, móc nối với các thế lực phản động tiếp tục hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Được nước ngoài viện trợ 5 triệu đô la vũ khí, Pôn Pốt - Iêng Xari chủ trương khôi phục lại các trung đoàn, sư đoàn, phân chia khu vực hoạt động phá hoại giao thông, hòng đánh chiếm lại một số địa bàn do ta và các lực lượng yêu nước Campuchia kiểm soát. Trên diễn đàn quốc tế, được các thế lực phản động, đế quốc tiếp tay, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari ra sức vu cáo xuyên tạc sự giúp đỡ của Chính phủ Việt Nam đối với Chính phủ cách mạng Campuchia.

Nhằm tăng cường tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước, ngày 18-2-1979, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Campuchia đã ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Theo tinh thần của bản hiệp ước, một bộ phận quân tỉnh nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia truy quét địch, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khôi phục sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.

Trên cơ sở nhận định địch đang khôi phục nhiều tàn quân, khống chế một số dân, tích lũy lương thực, đạn dược, hòng tiến hành chiến tranh du kích chống phá cách mạng Campuchia, Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ của quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia trong giai đoạn mới. Một là, phối hợp với các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia truy quét tàn quân địch. Hai là, phát động quần chúng xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân. Ba là, giúp đỡ nhân dân Campuchia nhanh chóng ổn định đời sống, phát triển sản xuất, khôi phục kinh tế đất nước.

Trong năm 1979, nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, tiêu diệt các căn cứ, các tổ chức phản động, giữ vững chính quyền cách mạng được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của bộ đội ta trên chiến trường Campuchia. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở nhiều đợt truy quét tàn quân địch, dồn chúng về phía tây bắc biên giới Campuchia. Quân đoàn 4 nhận nhiệm vụ tiếp quản thành phố Phnôm Pênh, đồng thời điều Sư đoàn 0 phối hợp với Quân khu 9 truy quét địch ở U Đông, Long Vét, giải tỏa được số 5 và đường sắt từ U Đông, Kra Lanh lên Rô Mia, bảo đảm giao thông đường sông từ Phnôm Pênh đi Kông Pông Chư Năng. Sư đoàn 7 cơ động đánh địch ở phía tây sân bay Pô Chen Tông và phía tây bắc thành phố. Sư đoàn 341 sử dụng một bộ phận lực lượng đánh địch xung quanh thị xã Kông Pông Spư, một bộ phận lực lượng phối hợp với Sư đoàn 2 đánh địch ở khu Bàu Diu, giữ vững đường số 4. Sau 5 chiến dịch tiến công liên tiếp, từ giữa tháng 1 đến cuối tháng 6-1979, Quân đoàn 4 đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, tạo đà cho công tác phát động quần chúng nhân dân Campuchia xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Trên hướng quân khu 9, từ ngày 11 đến ngày 18-2-1979, ta sử dụng 4 sư đoàn (4, 339, Sư đoàn 8 thiếu và sư đoàn 320 Quân đoàn 3 tăng cường) đánh vào các vùng Tượng Lăng, Chúp, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng 40.000 dân. Sau đó, quân khu mở tiếp chiến dịch 2 đánh địch ở khu vực Tượng Lăng, nam Núi Lớn rồi chuyển sang tiến công truy quét địch ở khu vực đường số 4.

 Hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc tổng tiến công, Quân khu 7 được giao phụ trách địa bàn Bát Tam Bâng - Xiêm Riệp và 4 tỉnh phía đông Thủ đô Phnôm Pênh (Svâyriêng, Kông Pông Chàm, Kông Pông Thom, Krachiê). Lợi dụng địa hình phức tạp có nhiều dân tộc sinh sống, địch thành lập nhiều nhóm phản động như “Linh hồn Khơme”, “voi trắng ngà xanh”, “Chính phủ liên hiệp kháng chiến” với khoảng 22.000 tên địch lẩn trốn hoạt động dưới mọi hình thức. Trong giai đoạn đầu, do lực lượng mỏng, địa bàn rộng, Quân khu 7 chủ yếu tập trung truy quét địch bảo vệ các trục đường giao thông và giữ một số địa bàn trọng yếu.

Sau khi Bộ giao cho Quân đoàn 3 giữ Bát Tam Băng - Xiêm Riệp, từ ngày 12 tháng 2 đến ngày 20 tháng 3, Quân khu tập trung 3 sư đoàn (5, 302, 303) và trung đoàn đặc công (thiếu) đánh vào căn cứ của quân khu trung tâm địch từ sông Xan, sông Chi Nít đến đường số 7. Trong chiến dịch này, các đơn vị của quân khu diệt 546 tên, bắt 1.221 tên, vận động nhân dân kêu gọi 11.124 tên địch ra hàng, giúp 20.000 dân thoát khỏi sự khống chế của địch. Ta thu 3.515 tấn thóc, 20 tấn muối, kịp thời cung cấp cho nhân dân giải quyết nạn đói.

Để tăng cường lực lượng, giữ địa bàn, ngày 17-3, Quân khu 7 điều Sư đoàn 317 mới thành lập gồm 6 trung đoàn (775, 747, 115, 770b, 3220 và 774 pháo binh) sang Campuchia làm nhiệm vụ chiến đấu ở tỉnh Kông Pông Thơm.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:03:19 am
Nhằm thống nhất lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia, ngày 14-4-1979, tại thị xã Xiêm Riêng, mặt trận 479 được thành lập, nòng cốt là các đơn vị thuộc tiền phương Quân khu 6, được bổ sung một số đơn vị của Quân khu 5, do đồng chí Bùi Thanh Vân - Phó Tư lệnh Quân khu 7 làm Tư lệnh, đồng chí Lê Thanh - Phó Chỉnh ủy Quân khu làm Chính ủy. Mặt trận 479 gồm Bộ Tư lệnh, ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và các Sư đoàn 5, 302, 317, 6 trung đoàn bộ binh trực thuộc (6, 7, 160, 205, 726, 740), 5 trung đoàn binh chủng (145 xe tăng, thiết giáp, 488 pháo mặt đất, 548 bộ đội công binh, 594 pháo cao xạ, 611 bộ đội thông tin) và hai Đoàn chuyên gia 7704, 7705. Đây là bước phát triển mới về tổ chức chỉ huy lực lượng chiến đấu trên chiến trường Campuchia của quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, khởi đầu cho việc thành lập các mặt trận do các Quân khu 5, 9 chỉ huy và thành lập Bộ Tư lệnh Quân tỉnh nguyện Việt Nam ở Campuchia sau này.

Sau khi thành lập, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã liên tục mở các đợt truy quét tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng dân, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng Campuchia.

Hoàn thành nhiệm vụ giúp cách mạng và nhân dân Campuchia trong cuộc tổng tiến công giải phóng đất nước Campuchia, Quân khu 5 được giao phụ trách địa bàn 4 tỉnh (Rattanakiri, Monđunkiri, Stungtreng, Prếtvihia). Trên địa bàn này, tàn quân các Sư đoàn 801, 920, 775, 612, 616 còn khoảng hơn 20.000 tên lần trốn hoạt động. Trong hai tháng 1 và 2-1979, các đơn vị của quân khu liên tục tổ chức các đợt truy quét, bảo vệ các trục đường giao thông, các địa bàn chiến lược, đồng thời giúp nhân dân Campuchia xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền ở các địa phương. Do lực lượng mỏng, địa bàn hoạt động rộng, địch lẩn trốn trong dân, nên công tác truy quét của ta gặp nhiều khó khăn, ở một số nơi, chính quyền bị địch khống chế không phát huy được tác dụng.

Để đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới, đầu tháng 3-1979, Quân khu 5 thành lập 2 sư đoàn (315 và 342). Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn 315 nhận nhiệm vụ thay cho Sư đoàn 309 bảo vệ địa bàn đông sông Mê Công. Sau đó, quân khu bàn giao hai sư đoàn (309, 342); 2 trung đoàn bộ binh (250, 276), Trung đoàn pháo binh 572b và 4 tiểu đoàn binh chủng (đặc công, xe tăng, pháo binh, công binh) cho Bộ để tăng cường cho các Quân khu 7, 9 và Quân đoàn 3, Quân đoàn 4. Từ tháng 4 đến tháng 6-17979, do yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm hành lang vận chuyển và đánh địch bảo vệ địa bàn, Quân khu 5 tổ chức thêm Trung đoàn công binh hành lang 280 và 4 tiểu đoàn bộ đội tỉnh, 15 đại đội bộ đội địa phương huyện tăng cường cho 4 tỉnh của Campuchia.

Sau khi phối hợp với bộ đội hải quân và các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia giải phóng thị xã Kô Kông, các đảo trên vùng biển Campuchia, các đơn vị của Quân đoàn 2 hoạt động trên hai hướng: Trên hướng Căm Pốt - đường số 3, Sư đoàn 325 cùng các đơn vị Campuchia truy quét tàn quân địch ở khu vực đường số 3 (từ đèo 241 đến tây bắc Pích Min). Hướng cảng Công Pông Xom - đường số 4, Sư đoàn 304 đánh địch co cụm ở khu vực đèo Pích Min, đường số 4.

Trước yêu cầu của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc, ngày 27-2-1979, Quân đoàn 2 được lệnh trở về Tổ quốc nhận nhiệm vụ mới. Trong khi đó, Quân đoàn 3 nhận lệnh chuyển đối hình lên phía bắc và tây bắc Campuchia. Quân đoàn 2 chuyển lên vùng sâu, vùng xa, tiếp tế rất khó khăn, địch liên tục đánh phá. Nhiều thử thách dồn dập đến với cán bộ, chiến sĩ quân đoàn. Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định phát động phong trào “Giết giặc lập công” thi đua với quân dân các tỉnh phía Bắc. Với tinh thần “Bám dân, bám địa bàn, truy quét triệt để tàn quân”, ngay trong đợt truy quét đầu, các đơn vị của quân đoàn đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng bạn đánh chiếm lại các đồn biên phòng Pót Pét, Con Coóc, tiêu dệt nhiều tàn quân địch trên vùng biên giới tây bắc Campuchia.

Đầu tháng 3-1979, Quân đoàn 3 được Bộ giao nhiệm vụ: Tập trung lực lượng tiêu diệt quân địch ở tây bắc và tây nam Bát Tam Băng, từ nam Tà Sanh đến Ni Mít, mở rộng địa bàn tiêu diệt và làm tan rã quân địch ở Tà Sanh - Săm Lốt. Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 27-3-1978, Quân đoàn 3 sử dụng Sư đoàn 31 tiến công căn cứ Tà Sanh, Sư đoàn 10 tiêu diệt quân địch ở Săm Lốt. Trong 4 ngày đêm hoạt động, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 đã diệt hơn 1.000 tên địch, thu 5.903 súng, 5 xe tăng, 84 ô tô và nhiều tài liệu quan trọng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Phát huy thắng lợi, từ ngày 1 đến ngày 24-4-1979, Sư đoàn 10 phối hợp Sư đoàn 309, Trung đoàn 726 (Quân khu 5 tăng cường) tiến công tiêu diệt tàn quân địch tại Lô Vi A, Ni Mít, Cao Mê Lai và Khao Cơ Lom.

Cuối tháng 4-1979, Quân đoàn 3 được giao nhiệm vụ: Tiến công chiếm cứ điểm địch tại Pra Môi, Rô Viêng, Viên Viêng, thung lũng Kra Vanh, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ hệ thống chỉ huy của địch dọc tuyến biên giới phía tây, cùng các lực lượng bạn lập phòng tuyến bảo vệ biên giới. Sau 5 ngày tiến công, quân đoàn đã hoàn thành đánh chiếm toàn bộ các mục tiêu được giao.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:04:09 am
Ngày 3-5-1979, Bộ Quốc phòng chỉ thị: Trong tháng 6, Quân đoàn 3 phải hoàn thành nhiệm vụ truy quét địch ở địa bàn tỉnh Pua Sát bàn giao cho đơn vị bạn và tiến hành cơ động toàn bộ lực lượng, binh khí kỹ thuật về nước làm lực lượng dự bị của Bộ. Thực hiện chỉ thị của Bộ Quốc phòng, trong tháng 5 và 6, sau khi truy quét tàn quân địch, Quân đoàn 3 tiến hành bàn giao địa bàn cho các đơn vị bạn. Sư đoàn 320 tưng cường cho Quân khu 9 từ tháng 1 đến tháng 6 cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ được lệnh bàn giao địa bàn trở về đội hình chiến đấu của quân đoàn. Ngày 17-6-1979, đơn vị đầu tiên của Quân đoàn 3 rời Campuchia trở về Tổ quốc. Tiếp đó, quân đoàn chuyển toàn bộ lực lượng và phương tiện về đóng quân ở khu vực phía Bắc Hà Nội làm nhiệm vụ sẵn sàng chơ động khi có lệnh của Bộ.

Cùng với việc tập trung lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ chủ yếu đánh địch bảo vệ địa bàn, từ tháng 1 đến tháng 6-1979, các đơn vị quân tình nguyện đã giúp nhân dân các địa phương xây dựng chính quyền tự quản ở hầu hết các tỉnh, huyện, xã giúp bạn tổ chức 39.000 dân quân tự vệ, trang bị 15.000 súng. Đặc biệt là giúp bạn tổ chức quân chủ lực và quân địa phương, biên chế thành 1 lữ đoàn, 2 trung đoàn, 32 tiểu đoàn bộ đội chủ lực, 36 đại đội địa phương huyện, 111 đội công tác (quân số 15.379 người).

Đầu tháng 7-1979, Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia triệu tập hội nghị nhận định tình hình đất nước và đề ra nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng đất nước Campuchia trong giai đoạn cách mạng mới, tron đó xác định: Bảo vệ xây dựng chính quyền cách mạng là nhiệm vụ then chốt lâu dài, phục hồi sản xuất nông nghiệp, cứu đói và chữa bệnh, ổn định đời sống nhân dân là nhiệm vụ trước mắt.

Theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục giúp bạn truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng, giúp đỡ nhân dân khôi phục sản xuất, nhanh chóng ổn định đời sống.

Triển khai nhiệm vụ giúp bạn, ngày 10-7-1979, Quân ủy Trung ương ta họp bàn về việc tổ chức lực lượng quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Phân tích tình hình địch, ta, Quân ủy Trung ương chỉ rõ: “Vấn đề đặc biệt quan trọng hiện nay là phải ra sức nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang của ta trên chiến trường Campuchia, phù hợp với nhiệm vụ bảo đảm giành thắng lợi trước mắt và lâu dài”(1).

Về tổ chức lực lượng, Thường trực Quân ủy Trung ương chủ trương: Sử dụng một số sư đoàn, trung đoàn bộ binh cùng các đơn vị vũ trang của Campuchia đứng chân trên các địa bàn chiến lược làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, phát động và tổ chức quần chúng xây dựng chính quyền cách mạng. Bố trí ở mỗi tỉnh một tiểu đoàn tập trung, mỗi huyện bố trí một đại đội hoặc một trung đội làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu. Ở xã, ấp bố trí đội công tác (trung đội hoặc tiểu đội). Ban đầu, mỗi đội công tác bố trí ta hai, bạn một, sau đó tăng dần thành phần của bạn đến khi bạn tự đảm nhiệm được hoàn toàn công việc ở cơ sở.

Về chỉ huy, Bộ Quốc phòng quy định các Quân khu 5, 7, 9 tổ chức sở chỉ huy tiền phương chỉ huy các lực lượng chiến đấu ở Campuchia. Các bộ chỉ huy quân sự tỉnh thuộc quân khu nào do tiền phương quân khu đó chỉ huy và đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của tiền phương Bộ Quốc phòng.

Trên cơ sở phương hướng nhiệm vụ giúp bạn được xác định, sau khi hoàn thành kế hoạch tác chiến mùa mưa trên các mặt trận, ta đẩy mạnh hoạt động truy quét địch trong mùa khô 1979-1980. Ở Mặt trận 479 và 779, các đơn vị của Quân khu 7 và Quân đoàn 4 truy quét địch dọc biên giới phía tây Campuchia, ngăn chặn quân Pôn Pốt thâm nhập qua các cửa khẩu; đồng thời tiến công các căn cứ lõm của địch ở Ô Ta Ba, Cao Mê Lai, tây Đăng Kum, tây âm Pin, Núi Hồng, Tà Sanh. Sư đoàn 4, Trung đoàn 155, lực lượng Vùng 5 Hải quân phối hợp với các địa phương Campuchia truy quét tàn quân của Sư đoàn 164 ở Tha Ma So, Tra Peng Rung, Tham Băng, tây và nam Ô Đông Tức. Sư đoàn 15 quân đội cách mạng Campuchia truy quét địch ở khu vực đường số 4.

Các sư đoàn 330, 8 (Mặt trận 979) truy quét địch ở các khu vực Chàng Ô, Núi Lớn, Tượng Lăng, Kom Chay, Núi Mây. Bộ đội địa phương các tỉnh An Giang, Cửu Long phối hợp với Sư đoàn 330 và Sư đoàn 9 truy quét địch ở u Đông, nam, bắc đường số 4. Ở Mặt trận 579, các Sư đoàn 2, 307, 315 truy quét tàn quân địch ở đông tây sông Mê Công, bắc sông Xan, tây nam Vơn Sai, La Lây, Khâu Pha, Ta Bok, căn cứ 30 nhà.

Sau đợt hoạt động mùa khô từ ngày 15-10-1979 đến ngày 30-5-1980, trên toàn chiến trường Campuchia, ta loại khỏi chiến đấu 20.255 tên địch, thu 11.296 súng các loại, bước đầu đánh bại âm mưu phục hồi phát triển lực lượng, lấn đất giành dân, tạo thế hai vùng, hai chính quyền của Pôn Pốt - Iêng Xari.


(1) Nghị quyết số 130-QU/TW-A, ngày 10-7-1979, hồ sơ 1106, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr.25.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:05:30 am
Bước vào mùa mưa năm 1980, địch tập trung xây dựng các căn cứ trên biên giới phía bắc và phía tây. Vừa tích cực xây dựng lực lượng, tích trữ vũ khí, lương thực, địch vừa đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao phô trương thanh thế “Nhà nước Campuchia dân chủ” để hợp pháp hóa viện trợ của nước ngoài. Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, tiếp tế khó khăn, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp chặt chẽ với bạn liên tục tổ chức các đợt truy quét đánh địch giữ vững địa bàn. Ta đánh thiệt hại nặng 7 sư đoàn Pôn Pốt mới khôi phục, buộc 5 sư đoàn khác phải chạy ra ngoài biên giới hoặc trốn sâu vào vùng rừng núu tây bắc, góp phần củng cố tuyến phòng thủ biên giới phía bắc và phía tây (khoảng 740 km) với các trọng điểm như Prếtvihia, Sầm Rông, Ni Mít, Cao Mê Lai, Pai Lin, Săm Lốt, tây sông Mê Túc (Kô Kông), ngăn chặn các hoạt động thâm nhập của địch từ ngoài biên giới vào nội địa.

Trong khi đó, ở nội địa, ta đánh bại các thủ đoạn đánh phá giao thông, bóc gỡ nhiều ổ nhóm phản động hoạt động hai mặt của địch. Mùa khô 1980-1981, Quân đoàn 4 phối hợp với bạn tổ chức hai đợt tác chiến lớn. Đợt 1 từ ngày 10-12-1980 đến ngày 15-4-1981, Bộ Tư lệnh quân đoàn sử dụng hai sư đoàn (7 và 9) đánh địch ở nam bắc Ô Ron, tây Âm Leng, bắc quận 16 (Kông Pông Chư Năng); Sư đoàn 339 và các lực lượng tăng cường (Trung đoàn 2, Sư đoàn 330 và 1 tiểu đoàn của Thành đội Phnôm Pênh) đánh địch ở nam bắc đường 56. Đợt 2: Sư đoàn 7 (thiếu) phối hợp với bạn và lực lượng Quân khu 9 diệt địch ở điểm cao 322, tây Âm Leng và nam dãy Tà Sanh. Sư đoàn 339 và Đoàn quân sự Tiền Giang củng cố địa bàn xung quanh khu vực Puốc Sát - Lếch. Một bộ phận Sư đoàn 7, Đoàn quân sự Hậu Giang và lực lượng bạn mở chiến dịch tổng hợp diệt căn cứ Sà Rơn. Ngày 17-7-1981, Quân đoàn 4 kết thúc đợt hai chiến dịch, chuyển sang đánh địch trong mùa mưa.

Ở Mặt trận 479, từ ngày 14-1 đến 2-4-1981, các đơn vị ta phối hợp với Trung đoàn 18 quân đội cách mạng Campuchia mở chiến dịch C81 tiến công Sở chỉ huy Quân khu tây bắc và Sư đoàn 320 quân Pôn Pốt ở tây Cần Đôn, Bà Vân, nam Cao Mê Lai, loại khỏi chiến đấu 2 trung đoàn địch, diệt 472 tên. Trên địa bàn 8 huyện thuộc tỉnh Xiêm Riệp, từ ngày 18-2 đến ngày 31-5-1981, các đơn vị Mặt trận 779 mở chiến dịch tổng hợp truy quét làm trong sạch địa bàn. Ta diệt 122 tên, bắt 135 tên, gọi hàng 424 tên, tạo điều kiện củng cố chính quyền địa phương, giúp dân phát triển sản xuất. Cùng thời gian này, các đơn vị Mặt trận 579 vừa truy quét địch vừa giúp bạn xây dựng các tiêu diệt địa bàn, đưa 41 đại đội hai chức năng xuống hoạt động ở cơ sở. Ở Mặt trận 979, ta truy quét địch ở đông và tây sông Mê Công, tiêu diệt tàn quân Sư đoàn 164, làm chủ căn cứ 336.

Nhằm thống nhất lãnh đạo, chỉ huy, nâng cao hiệu suất chiến đấu và công tác của các lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, sau khi có chủ trương của bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 6-1-1981, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 185/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (phiêu hiệu Bộ Tư lệnh 719), do đồng chí Lê Đức Anh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm Tư, đồng chí Lê Hai - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Phó Tư lệnh về chính trị. Bộ Tư lệnh 719 có nhiệm vụ:

1- Thống nhất chỉ huy, chỉ đạo các lực lượng vũ trang Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia về tác chiến và hoạt động giúp bạn. Kịp thời có những biện pháp hiệu lực để nâng cao sức mạnh chiến đấu và chất lượng công tác của các đơn vị quân tình nguyện.

2- Trực tiếp giúp bạn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và tổ chức phòng thủ đất nước.

3- Nghiên cứu đề xuất với Bộ Quốc phòng các vấn đề có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường Campuchia và các vấn đề liên quan giữa chiến trường Campuchia với các chiến trường khác ở khu vực Đông Dương.

4- Hợp đồng với các quân khu phía Nam trong kế hoạch đánh địch, bảo vệ biên giới giữa hai nước.

Bộ Tư lệnh 719 gồm: Bộ Tư lệnh (7 người), các cơ quan Tham mưu, Chính trị, đại diện các Tổng cục Hậu cần, Kỹ thuật, Cục Cán bộ, Cục Tài vụ, đại diện các quân, binh chủng. Ngày 18-7-1981, tiền phương các Quân khu 5, 7, 9 được đổi tên thành các Bộ Tư lệnh 579, 779, 979. Riêng Bộ Tư lệnh 479 trước do Quân khu 7 chỉ huy nay do Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ huy. Các đoàn công tác giúp bạn của các quân khu được đổi thành đoàn chuyên gia quân sự và phòng chính trị quân sự(1).


(1) Các Đoàn công tác 778, 978 đổi thành Đoàn chuyên gia quân sự 778, 978. Riêng Đoàn 578 đổi thành Phòng Chính trị quân sự 578.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:06:42 am
Trong khi ta chấn chỉnh tổ chức, điều chỉnh lực lượng để hoàn thành thế bố trí chiến lược thích hợp với đặc điểm cụ thể của chiến trường Campuchia, thì Pôn Pốt - Iêng Xari ra sức thu thập tàn quân, củng cố lực lượng chống phá cách mạng Campuchia và công cuộc xây dựng, hồi sinh đất nước của nhân dân Campuchia.

Mùa khô 1981-1982, địch phục hồi được 11 sư đoàn chiến đấu, chiếm giữ một phần quan trọng biên giới 7 tỉnh phía bắc và tây bắc Campuchia. Trong nội địa, chúng đẩy mạnh hoạt động trên địa bàn 12 tỉnh. Tuy cường độ và quy mô thấp hơn các năm trước, nhưng số vụ nghiêm trọng nhiều hơn. Tháng 12-1981, ba phái (Pôn Pốt, Sênêka, Môlika) thành lập chính phủ liên hiệp ba phái gây tác động tâm lý trong dân và tạo được một số ảnh hưởng về chính trị, ngoại giao.

Trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường thực hiện nhiệm vụ tác chiến trong hai năm 1981 và 1982 của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh 719 chủ trương: Diệt và làm tan rã một bộ phận lớn quân địch đã lọt vào nội địa, xóa bỏ tình trạng xen kẽ địch ta ở biên giới, không để địch mở rộng hoạt động du kích. Giúp bạn từng bước nâng cao khả năng chỉ đạo, chỉ huy, vận động quần chúng, xây dựng lực lượng đánh địch rộng khắp.

Thực hiện chủ trương của Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam, Quân đoàn 4 điều chỉnh lực lượng phân chia địa bàn hoạt động hình thành hai mặt trận: Mặt trận 1 gồm các đơn vị bộ đội địa phương Campuchia và một phần lực lượng của Quân đoàn 4 đóng trên ba tỉnh Kan Đan, Kông Pông Chư Năng, Puốc Sát với nhiệm vụ chủ yếu là vận động quần chúng, vạch mặt bọn địch trà trộn trong dân, tiêu diệt các toán quân địch hoạt động trong nội địa. Mặt trận 2 gồm lực lượng chủ yếu của Quân đoàn 4 kết hợp với một số đơn vị chủ lực của Quân đội cách mạng Campuchia đánh phá các căn cứ, chặn hành lang tiếp tế của địch từ biên giới vào nội địa.

Ở mặt trận 779, các Sư đoàn 5, 309, một bộ phận Đoàn 7704 phối hợp với bộ đội địa phương Campuchia đánh căn cứ Sư đoàn 320, Văn phòng Trung ương Pôn Pốt ở Ô Đa, Cao Mê Lai, Đầm Rông, Tróc Xây, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phá hủy nhiều kho tàng. Các Sư đoàn 315, 307 (Mặt trận 579) tiến công các căn cứ Sư đoàn 801 Pôn Pốt và bọn phỉ Lào ở ngã ba biên giới Lào - Campuchia - Thái Lan. Những hoạt động tích cực của bộ đội ta trên các mặt trận làm cho địch bị lúng túng. Chúng không thực hiện được kế hoạch mùa khô 1981-1982 (chiếm 70% phum, xã, giành 60% dân, xây dựng các căn cứ quân sự lớn ở biên giới phía bắc và phía tây…), nhưng hiệu suất chiến đấu của bộ đội ta và bạn nhiều trận còn thấp. Ta chưa triệt được các hành lang vận chuyển của dịch, địch hoạt động trà trộn trong dân còn nhiều.

Kịp thời rút kinh nghiệm những mặt còn tồn tại, những tháng đầu mùa mưa năm 1982, trên các mặt trận ta tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truy quét, đánh bại âm mưu lấn đất giành dân của địch. Ngày 14-7-1982, Sư đoàn bộ binh 317 (Quân khu 7) hoàn thành nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia được lệnh trở về Tổ quốc(1). Đây là đợt rút quân đầu tiên được thỏa thuận của Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao giữa ba nước Đông Dương lần thứ 6. Đánh giá về hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia năm 1981, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện khẳng định: “Bộ đội ta phối hợp chặt chẽ với chuyên gia các ngành đã giành được những thắng lợi quan trọng, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và phát triển thành quả cách mạng… Lực lượng cách mạng Campuchia được củng cố một bước về chất lượng. Một số đơn vị Campuchia có khả năng chiến đấu và hoạt động tốt”(2).

Về phương hướng nhiệm vụ quân sự năm 1983, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện chủ trương: Tập trung giúp bạn mạnh hơn hẳn địch về số lượng và chất lượng. Để bạn nắm chắc lấy công việc của mình, tự đề ra chủ trương biện pháp và trực tiếp tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả. Chuẩn bị cho bạn từng bước đảm nhiệm điều hành mọi nhiệm vụ công tác trong từng đơn vị, từng địa phương huyện, tỉnh, tiến tới đảm nhiệm toàn bộ địa bàn…”(3).

Quán triệt tinh thần đó, bộ đội ta tích cực bám nắm địch, tiêu diệt các sở chỉ huy, các cơ sở hậu cần của chúng. Trong tác chiến, ta giao cho bạn đảm nhiệm phòng ngự ở một khu vực hoặc trên một hướng tiến công (trước đây, ta và bạn thường bố trí xen kẽ).


(1) Từ tháng 3-1979 đến 7-1982, Sư đoàn 317 đánh 2.342 trận lớn nhỏ, loại khỏi chiến đấu 5.935 tên địch. Giúp bạn xây dựng 5 huyện, 79 xã, 669 ấp. Sư đoàn được Nhà nước Cộng hòa nhân dân Campuchia tặng Huân chương Bảo vệ hạng nhất, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương Quân công hạng nhất, 244 tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công các loại.
(2) Nghị quyết số 210Q-NQ ngày 26-10-1982 của Bộ Tư lệnh 719 - Phần đánh giá công tác năm 1981-1982 và phương hướng nhiệm vụ năm 1983, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu 7.
(3) Nghị quyết số 210Q-NQ ngày 26-10-1982 của Bộ Tư lệnh 719 - Phần đánh giá công tác năm 1981-1982 và phương hướng nhiệm vụ năm 1983, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu 7.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:07:11 am
Đầu năm 1983, Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 339 và một số lực lượng Binh đoàn 2 Campuchia tiến công Sở chỉ huy Sư đoàn 111, Sư đoàn 7 tiến công Sở chỉ huy của Sà Rơn. Trong chiến đấu, các đơn vị của Binh đoàn 2 Quân đội cách mạng Campuchia đảm nhiệm một hướng tiến công đã hoàn thành nhiệm vụ. Từ ngày 1 đến ngày 8-2-1983, Sư đoàn 5 (Quân khu 7) phối hợp với hai trung đoàn quân đội cách mạng Campuchia tiến công căn cứ Nông Chăn, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn địch, diệt 272 tên, thu 102 súng các loại. ở Mặt trận 579, các Sư đoàn 307, 315 (Quân khu 5) phối hợp với các trung đoàn (18 và 19) quân đội cách mạng Campuchia tổ chức ba đợt truy quét lớn trên địa bàn 4 tỉnh đông bắc Campuchia, tiêu diệt nhiều sở chỉ huy và căn cứ hậu cần của quân Pôn Pốt, Sênêka. Trong khi đó, các Sư đoàn 4, 8, 330 và các Đoàn chuyên gia quân sự 9901, 9903, 9904, 9905 (Mặt trận 979) hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ với các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia truy quét địch trên địa bàn các tỉnh Căm Pốt, Tà Keo, Kô Kông, trong đó có một số trận đánh đạt hiệu suất cao.

Để đáp ứng yêu cầu giúp bạn trong tình hình mới, ngày 12-3-1983, Bộ Quốc phòng ta ra Chỉ thị số 295/CT-QP về việc kiện toàn tổ chức chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia và mối quan hệ của chuyên gia Việt Nam với cán bộ bạn. Chỉ thị nêu rõ: Về hệ thống tổ chức chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, số lượng chuyên gia ở mỗi cấp được xác định tùy theo yêu cầu phát triển lực lượng và sự trưởng thành từng bước của bạn. Đoàn chuyên gia quân sự Trung ương (Đoàn 478) là tổ chức trực thuộc Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ chỉ đạo, quản lý mọi mặt đối với chuyên gia quân sự bên cạnh các cơ quan Bộ Quốc phòng bạn và các trường, lớp, các đơn vị cơ sở thuộc Bộ Quốc phòng bạn. Tư lệnh các Mặt trận 479, 579, 779, 979 chỉ đạo, quản lý mọi mặt chuyên gia thuộc quyền.

Đầu tháng 5-1983, Quân đoàn 4 (thiếu Sư đoàn 9 và một số đơn vị binh chủng) được lệnh rồi Phnôm Pênh lên đường về Tổ quốc. Đợt rút quân này một lần nữa thể hiện tinh thần quốc tế trong sáng của quân đội ta; đồng thời cũng khẳng định phương châm, phương hướng giúp bạn đúng đắn và hiệu quả chiến đấu ngày càng cao của quân đội cách mạng Campuchia.

Đồng thời với nhiệm vụ chiến đấu, việc giúp Nhà nước Campuchia củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng luôn được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ta xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ quốc tế của quân đội ta ở Campuchia.

Ngay từ khi các chiến dịch truy quét tàn quân địch còn đang diễn ra gay go quyết liệt, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đứng chân trên các địa bàn đã tổ chức các đội công tác, các tiểu đoàn địa bàn bám dân, giúp bạn củng cố chính quyền, xây dựng phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân. Thực hiện Quyết định 16 của Đảng ủy Quân khu 7, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 và 779 đã phát huy tinh thần chủ động, tích cực khắc phục khó khăn bám dân, bám địa bàn, giúp bạn xây dựng chính quyền ở 59 huyện thị, 455 xã, 4.729 ấp. Tổ chức huấn luyện 44.773 du kích, trang bị 11.459 súng, giúp bạn đánh địch bảo vệ địa bàn, bảo vệ chính quyền cách mạng. Vừa giúp bạn xây dựng lực lượng, ta vừa giúp bạn đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở. Tính đến cuối năm 1979, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 và 779 đã tổ chức tập huấn cho 12.516 cán bộ xã ấp, 1.659 cán bộ từ tiểu đội đến đại đội, đồng thời tuyên truyền phát động quần chúng nhân dân vận động hơn 800 binh lính địch trở về với cách mạng, xây dựng thành một tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Kông Pông Chàm. Phá các tổ chức chính trị phản động của phong trào “linh hồn Khơme” gọi tắt là CPK do In Đuông Đo Re và Ing Đuông Chanh Tria cầm đầu hoạt động ở 4 tỉnh (Bát Tam Băng, Xiêm Riệp, ô Đa Miên Chay và Kông Pông Thơm).

Đứng chân trên địa bàn 4 tỉnh (Ta Keo, Kăm Pốt, Kông Pông Spư, Kô Kông), các lực lượng vũ trang Quân khu 9 tích cực giúp bạn phát động quần chúng xây dựng và bảo vệ chính quyền. Từ tháng 1 đến tháng 10-1979, ta xây dựng được chính quyền ở 269 xã, 15 huyện, vận động hơn 10.000 binh lính địch ra trình diện, bắt 214 tên phản đông phá hoại chính quyền cách mạng, về xây dựng lực lượng vũ trang, ta giúp bạn mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ xã đội, huyện đội. Trong mỗi xã ấp, ta giúp bạn tổ chức được 1 đến 2 trung đội dân quân. Từ lực lượng dân quân du kích, ta giúp bạn tuyển chọn những người tích cực có trình độ kỹ, chiến thuật khá tổ chức thành 7 tiểu đoàn bộ đội tỉnh, 18 đại đội bội đội huyện trang bị hơn 5.000 súng các loại.

Trên địa bàn do các đơn vị Quân khu 5 đảm nhiệm, tháng 8-1979, Bộ Tư lệnh Quân khu đã điều động lực lượng giúp bạn thành lập 4 bộ chỉ huy quân sự thống nhất của 4 tỉnh đông bắc Campuchia (Ráttarakiri, Monđukiri, Stungtreng và Prếtvihia), cử giáo viên giúp bạn thành lập một trường đào tạo cán bộ cơ sở. Cuối năm 1979, ta bố trí đủ hệ thống chuyên gia cấp huyện cho bạn.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:09:52 am
Đầu năm 1980, theo chủ trương của Bộ, ta rút các tổ chức chuyên gia huyện và giao nhiệm vụ xây dựng huyện và cơ sở các các tiểu đoàn địa bàn. Chấp hành chỉ thị của Bộ, đến tháng 8-1980, trên cả bốn mặt trận ta đã xây dựng cho mỗi tỉnh của Campuchia có từ 3 đến 5 tiểu đoàn địa bàn. Lực lượng nòng cốt của các tiểu đoàn địa bàn do bộ đội địa phương của bạn và các tổ công tác của ta phối hợp tổ chức, ban đầu ta hai, bạn một sau đó, tăng dần lực lượng của bạn tùy tình hình từng địa phương, từng địa bàn. Các đội công tác được lệnh sáp nhập vào các tiểu đoàn địa bàn, đặt dưới sự lãnh đạo chỉ huy thống nhất của các đoàn quân sự và Bộ Tư lệnh các mặt trận.

Trên cơ sở nhiệm vụ đã được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương giao, căn cứ vào điều kiện và tình hình thực tế trên chiến trường, đầu năm 1981, Bộ Tư lệnh 719 đề ra ba nhiệm vụ(1), trong đó nhiệm vụ: “Giúp cho bạn mạnh dần lên trên các mặt đủ sức đáp ứng được công cuộc đấu tranh với địch, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, xây dựng đất nước” được xác định là nhiệm vụ then chốt cơ bản nhất.

Theo phương hướng đó, bên cạnh việc tiếp tục kiện toàn các đoàn quân sự, các tiểu đoàn địa bàn, tạo điều kiện để bạn chủ động tác chiến, quân tình nguyện Việt Nam trên các mặt trận dành nhiều thời gian huấn luyện cho bạn. Phương châm huấn luyện nâng cao hiệu suất chiến đấu của phân đội nhỏ, nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng cấp tiểu đoàn, trung đoàn, giúp bạn xây dựng thế trận bản vệ biên giới, chủ động đánh địch trong nội địa, được chỉ huy các mặt trận, các đoàn chuyên gia quân sự quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện từng chiến trường.

Các đợt tập huấn về cách đánh, về phát động quần chúng tham gia xây dựng bảo vệ chính quyền cách mạng thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Cuối năm 1981, đầu năm 1982, ta đã xây dựng cho quân đội cách mạng Campuchia 2 binh đoàn, 2 sư đoàn, 12 tiểu đoàn binh chủng, 33 tiểu đoàn bộ đội tỉnh, 135 đại đội bộ đội huyện, 3 tiểu đoàn biên phòng, 13 trường đào tạo cán bộ cơ sở sơ cấp và trung cấp với tổng quân số 52.214 người (trong đó có 6.000 cán bộ).

Cùng với xây dựng, phát triển bộ đội chủ lực, ta đã xây dựng cho bạn một lực lượng cán bộ cơ sở rộng khắp với 184 đội công tác (11.507 người) và hơn 128.000 dân quân tự vệ xã ấp, góp phần thiết thực bảo vệ chính quyền cách mạng. So với trước ngày tổng tiến công giải phóng Campuchia thì lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia qua hơn 3 năm xây dựng đã có sự lớn mạnh vượt bậc cả về số lượng và chất lượng(2).

Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giúp bạn, ngày 15-11-1982, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị về kiện toàn các đoàn chuyên gia quân sự giúp các sư đoàn bộ binh Campuchia, đồng thời hoàn thành biểu biên chế Đoàn chuyên gia quân sự cửa Bộ Quốc phòng ta giúp Bộ Quốc phòng Campuchia. Cũng trong thời gian này, các đoàn chuyên gia của các tổng cục, các quân, binh chủng được lệnh sáp nhập đầu mối về trực thuộc Đoàn chuyên gia quân sự 478.

Từ phương châm “ta bạn cùng làm” đến giúp cho bạn tự làm một phần kế hoạch, tự triển khai lực lượng và đảm nhiệm tác chiến trên từng hướng, từng khu vực, làm cho lực lượng bạn trưởng thành từng bước vững chắc, đẩy địch vào thế khó khăn suy yếu. Các kế hoạch tạo ra hai vùng hai chính quyền trên lãnh thổ Campuchia của chúng liên tiếp bị thất bại “cục diện chiến trường đi vào thế ổn định, an ninh chính trị được giữ vững, ta và bạn mạnh hơn hẳn địch”(3) là kết quả công tác giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ chính quyền cách mạng 5 năm qua đã đạt được. Đó là “thế mạnh để đánh bại bất kỳ âm mưu thủ đoạn nào của kẻ thù, tiếp tục đưa cách mạng Campuchia tiến lên”(4).

Cùng với việc giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia đồng thời triển khai nhiệm vụ cứu đói, giúp nhân dân Campuchia ổn định cuộc sống, phục hồi sản xuất. Trong hơn ba năm cầm quyền, chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari để lại hậu quả vô cùng nặng nề: trường học, bệnh viên, các cơ sở sản xuất bị tàn phá, kinh tế kiệt quệ. Sau khi đất nước Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, khắp nơi nạn đói, dịch bệnh hoành hành. Giành lại được quyền sống, nhân dân Campuchia phải bắt tay xây dựng lại đất nước từ hai bàn tay trắng.


(1) Ba nhiệm vụ gồm: Một là, tiếp tục truy đánh cho địch suy tàn hơn nữa đến mức không gượng dậy được, những đơn vị lớn không thể trụ bám trong nội địa. Hai là, giúp cho bạn mạnh dần lên trên các mặt đủ sức đáp ứng được công cuộc đấu tranh với địch, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, xây dựng đất nước. Ba là, bảo đảm đoàn kết liên minh chiến lược và chiến đấu giữa Việt Nam - Campuchia ngày càng tăng cường trên thế vững chắc.
(2) Trước ngày tổng tiến công giải phóng Campuchia khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mới có 21 tiểu đoàn, 5 đại đội, 69 đội công tác với tổng quân số 4.890 người, trong đó có 316 cán bộ.
(3), (4) Nghị quyết số 232A ngày 5-12-1983 của Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện 719. Phần đánh giá tình hình cách mạng Campuchia năm 1983, tài liệu lưu tại Văn phòng Quân khu 7.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:10:11 am
Nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, chia sẻ với những khó khăn của nhân dân Campuchia, cán bộ, chiến sĩ ta hoạt động trên chiến trường Campuchia đã nêu cao tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn, tạo mọi điều kiện giúp đỡ nhân dân các địa phương nhanh chóng ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Triển khai giúp 1,2 triệu dân ba tỉnh (Kan Đan, Kông Pông Chư Năng, Puốc Sát) và 7 vạn dân huyện Mung (tỉnh Bát Tam Băng), Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể thiết thực giúp nhân dân thoát khỏi nạn đói. Những ngày đầu, đất nước mới giải phóng, các kho lương thực của chế độ Pôn Pốt đều trống rỗng, lương thực trong dân bị tàn quân Pôn Pốt chạy qua cướp sạch. Công tác vận chuyển đảm bảo hậu cần của quân đoàn gặp không ít khó khăn, do địch đánh phá, ngăn chặn giao thông, khẩu phần ăn bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ phải tính từng ngày.

Mặc dù vậy, nhiệm vụ cứu dân thoát khỏi nạn đói vẫn được cán bộ, chiến sĩ các đơn vị hưởng ứng sôi nổi. Trong khi vận chuyển từ phía sau chưa lên kịp, bộ đội tình nguyện nhường bớt khẩu phần ăn hằng ngày để cứu dân. Sư đoàn 7 cử các tổ cứu đói giúp nhân dân ba huyện thuộc tỉnh Kan Đan. Sư đoàn 9 thành lập các tổ công tác mang theo gạo và thuốc chữa bệnh giúp nhân dân thuộc tỉnh Kông Pông Chư Năng. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 341 nhịn ăn bữa sáng để giúp nhân dân huyện Mung. Sư đoàn 329 mỗi tuần một lần chở gạo xuống giúp nhân dân huyện Lếch. Các Đoàn 24, 25, 71 quyên góp gạo tiết kiệm hằng ngày gửi giúp nhân dân các huyện còn lại của tỉnh Kan Đan. Kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các đội công tác đi xuống các bản làng, bám dân, thực hiện viên thuốc chia đôi, bát cơm sẻ nửa chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh, vượt qua mọi rình rập, phá hoại của kẻ thù giúp nhân dân các địa phương khắc phục nạn đói, dịch bệnh đang lan tràn.

Ở mỗi phum, sóc khi bộ đội ta đến nhiều gia đình phải ăn củ mài, củ chuối thay cơm. Cháu Xa Văn Ni 8 tuổi được y tá Chu Trọng Tố, Đại đội 10, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 141, Sư đoàn 7 cứu sống trong tình trạng đói lả hấp hối chờ chết. Hàng trăm cháu khác ở trong tình trạng tương tự được các đơn vị quân đoàn đưa về nuôi dưỡng ở trại mồ côi Hoa Hồng. Được chia sẻ những lon gạo, những viên thuốc trong lúc cái chết đã kề bên, nhiều người dân Campuchia ghi lòng tạc dạ sự giúp đỡ chí tình của bộ đội Việt Nam. Càng hiểu sâu sắc những phẩm chất tốt đẹp của người lính cách mạng, của Bộ đội Cụ Hồ, bà con càng tin tưởng ủng hộ bộ đội Việt Nam. Bà Bun Mi ở phum Chom, huyện Kim Ri sau khi 7 người trong gia đình được cứu khỏi chết đói đã đến đội công tác xin cho hai con được đi theo bộ đội Việt Nam. Nhiều gia đình ở huyện Lếch, huyện Mung vận động chồng con trước đây là sĩ quan, binh lính trong quân đội Pôn Pốt ra trình diện về với cách mạng.

Bằng các hoạt động tích cực, trong 6 tháng cuối năm 1979, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4 đã quyên góp giúp dân trên địa bàn đông dân được 41.000 kg gạo, giúp dân sửa chữa 1.358 ngôi nhà, 457 trường học, đắp 18.490 mét đường, đào 3.000 mét mương, cấy 828 hécta lúa. Điều trị bệnh cho 86.000 lượt người dân Campuchia. Kết hợp chặt chẽ với chính quyền bám dân, bám địa bàn kiên trì vận động thuyết phục, các đội công tác của quân đoàn bằng những việc làm nhân đạo đầy tình nghĩa đã vận động 2.098 người lầm đường lạc lối ra đầu thú và thức tỉnh hàng ngàn binh lính sĩ quan của chính quyền Pôn Pốt đưa họ trở về sum họp với gia đình.

Thực hiện chủ trương “tỉnh giúp tỉnh, huyện giúp huyện” của Đảng và Nhà nước ta, các huyện thuộc ba quân khu phía nam đã tổ chức nhiều hoạt động cứu trợ giúp nhân dân Campuchia ổn định đời sống phục hồi sản xuất. Sau khi giúp đỡ vận chuyển 55.825 người dân từ biên giới Campuchia - Thái Lan trở về các địa phương, ngày 11-8-1980, Đảng ủy Quân khu 7 ra Nghị quyết xác định: Đưa lực lượng về huyện, xã, giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang, giữ gìn an ninh chính trị, cứu đói, cứu đau, giúp đỡ nhân dân sản xuất ổn định đời sống là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của quân khu. Hàng ngàn tấn gạo, hàng vạn cây, con giống, công cụ sản xuất được các đơn vị và các tỉnh trong quân khu gửi sang giúp đỡ nhân dân các tỉnh Kông Pông Chàm, Kông Pông Thơm, Bát Tam Băng, Xoài Riêng, Xiêm Riệp. Với kinh nghiệm phong phú, chỉ đạo sát sao, đến hết năm 1980, trên địa bàn do Quân khu 7 phụ trách, nhân dân cơ bản đã ổn định đời sống, các ngành nghề được phục hồi nhanh chóng đi vào sản xuất có hiệu quả.

Nhận thức sâu sắc ý nghĩa chính trị của nhiệm vụ giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói, dịch bệnh, nhanh chóng phục hồi sản xuất, Đảng ủy Quân khu 9 đã ra nghị quyết chuyên đề giúp bạn cơ bản, toàn diện. Sau khi đưa 7.700 gia đình trở về quê cũ làm ăn, các lực lượng vũ trang quân khu đã huy động lực lượng và vật liệu xây dựng nhà ở giúp 1.600.000 dân Campuchia ổn định nơi ăn ở. Lực lượng hậu cần quân khu trong những tháng cuối năm 1979, đầu năm 1980, đã vận chuyển 10.000 tấn lương thực, 1.000 tấn hạt giống, gần 2.000 con giống (gồm trâu, bò, lợn), 20 máy cày, bừa, hơn 13.000 công cụ cầm tay, hàng vạn dụng cụ gia đình giúp nhân dân Campuchia khắc phục nạn đói, phục hồi sản xuất. Trong hai năm 1979 và 1980, quân khu đã giúp các tỉnh kết nghĩa đào tạo 243 y sĩ, y tá, hơn 100 giáo viên, tạo điều kiện để bạn phục hồi các cơ sở y tế, giáo dục.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:11:11 am
Trên địa bàn 4 tỉnh đông bắc Campuchia, các đơn vị Quân khu 5 tập trung phương tiện vận chuyển (chủ yếu bằng ô tô) hai đợt dân (290.536 người) về quê cũ làm ăn. Các tiểu đoàn địa bàn kết hợp chặt chẽ với nhân dân địa phương giúp bạn xây dựng 386 ban tự quản, cứu đói cho 114.644 người. Nhân dân trở về quê hương được bộ đội Việt Nam giúp đỡ ổn định nơi ăn ở, được cứu đói, giúp công cụ, cây, con giống phát triển sản xuất. Được đi lại tự do, con cái được cắp sách tới trường, người dân Campuchia càng phấn khởi ra sức xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng. Nhân dân làng Nhơn biết bọn tay sai Pôn Pốt về hoạt động đã bắt giao cho tổ công tác của ta. Bà con ở Pum Căn Thơ Mây (Stung Treng) dẫn đường cho bộ đội vây đánh, đập tan âm mưu đưa 6 vạn dân đi tị nạn của địch.

Cứu đói, chữa bệnh, cấp cây, con giống giúp dân phát triển sản xuất tưởng chừng như là công việc bình thường, nhưng ở vào thời điểm mà mọi sức lực của người dân đã cạn kiệt, khi mà kẻ thù ra sức gieo rắc tâm lý hoang mang, thù địch và tìm mọi cách chia rẽ, thủ tiêu cán bộ, chiến sĩ ta thì nhiệm vụ giúp dân của các đội công tác vô cùng nặng nề và nguy hiểm. Vì nhiệm vụ cứu đói, cứu đau, giúp dân phát triển sản xuất, để mang lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho dân, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ ta đã phải nằm lại ở các làng bản, phum sóc xa xôi, nhiều người mang thương tích, bệnh tật suốt đời.

Vượt qua giai đoạn khó khăn phức tạp những năm 1979-1980, công tác cứu đói, cứu đau giúp nhân dân Campuchia ổn định đời sống, phục hồi sản xuất của các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ngày càng phát triển cả bề rộng và chiều sâu, mang lại những thành tựu kinh tế thiết thực. năm 1981, sản xuất nông nghiệp của Campuchia tăng 9% so với năm 1979, năm 1980. Năm 1982, với sự giúp đỡ của ác đội công tác, Campuchia đã tổ chức được 107.606 tổ sản xuất, gieo trồng 137.000 hécta lúa, đạt năng suất bình quân 15 tạ 1 hécta, thu về cho Nhà nước Campuchia 18 vạn tấn thóc. Phong trào chăn nuôi từng bước được phục hồi với đàn bò 930.000 con, đàn trâu 390.000 con, đàn lợn 210.000 con và 2,9 triệu gia cầm các loại.

Cùng với phục hồi phát triển nông nghiệp, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, trong hai năm 1981 và 1982, Campuchia đã phục hồi được 1.000 tổ đội, hợp tác xã ngư nghiệp, hằng năm đánh bắt hơn 6 vạn tấn cá. Công nghiệp khai thác chế biến gỗ sau hai năm đi vào sản xuất đã đạt sản lượng 50.00 m3 gỗ một năm. Về thủ công nghiệp với sự giúp đỡ thợ lành nghề và trang bị máy móc của ta, đến giữa năm 1982, Campuchia đã khôi phục được 54 trong tổng số 65 xí nghiệp. Ngành y tế, giáo dục được ta giúp đỡ cả về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ chuyên môn đã có bước tiến bộ rõ rệt, 80% số xã có trạm xá, hàng ngàn trường học được bộ đội ta ta giúp xây dựng, năm học 1982-1983 đã đón 1,5 triệu học sinh đi học. Hệ thống giao thông trong nước được cải thiện với 652 km đường sắt, hàng ngàn kilômét đường giao thông quốc gia, liên tỉnh, liên huyện được phục hồi. Giao thông đường biển và đường không có bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng làm cho giao lưu kinh tế giữa các vùng, giữa Campuchia và các nước láng giềng ngày càng phát triển thuận lợi.

Đánh giá về tình hình Campuchia sau gần 5 năm giúp bạn xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền, ổn định đời sống, phát triển sản xuất, hồi sinh đất nước, Trung ương Đảng ta chỉ rõ; “Tình hình chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội của Campuchia đã có tiến bộ lớn. Đất nước thực sự được hồi sinh, đời sống nhân dân được bảo đảm về lương thực, thực phẩm, không còn nạn đói kém”(1). “Thành tựu này đã góp phần xứng đáng vào việc củng cố khối liên minh chiến đấu đặc biệt ba nước Đông Dương ngày càng vững mạnh”(2).

Từ giữa năm 1983, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia các bước phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đủ sức cùng các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam còn lại đảm đương nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Sau khi một số đơn vị quân tình nguyện đã rút về nước theo đúng kế hoạch, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam luôn coi trọng việc chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức và yêu cầu các đơn vị thực hiện tốt các mệnh lệnh điều động của Bộ, sẵn sàng cơ động, kịp thời đáp ứng yêu cầu chiến đấu trên các địa bàn chiến lược theo đề nghị của bạn.

Cuối năm 1983, Ban cán sự 719 tiếp tục được kiện toàn. Ngày 9-12-1983, Quân ủy Trung ương ra Quyết nghị số 289-QN/QU chỉ định đồng chí Đoàn Khuê, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719 làm Phó Bí thư thứ nhất Ban cán sự 719. Tiếp đó, ngày 24-12, Quân ủy Trung ương ra Quyết nghị số 312-QN/QU chỉ định đồng chí Lê Nam Phong, Phó tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719 làm Ủy viên Ban cán sự 719.

Được nước ngoài viện trợ, sang năm 1981, Pôn Pốt - Iêng Xari đề ra kế hoạch: Tổng đánh phum, giải tán 2, xây dựng 4 vùng chiến lược, đưa hoạt động du kích vào Thủ đô Phnôm Pênh. Phát triển chủ lực và lực lượng ngầm, trang bị mạnh cho du kích mật. Kết hợp lực lượng trong ngoài thực hiện 5 phương pháp, 7 cách đánh, tăng cường hoạt động quân sự với chiến tranh tâm lý và ngoại giao.


(1) Nghị quyết số 12-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 27-5-1983, hồ sơ 1246, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
(2) Nghị quyết số 232 A ngày 5-12-1983 của Bộ Tư lệnh 719, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu 7, tr.26.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:12:20 am
Sau những năm nỗ lực hàn gắn vết thương do chế độ diệt chủng Pôn Pốt để lại và đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia từng bước tự đảm đương được những vấn đề trọng yếu của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Cách mạng Campuchia đang có những bước phát triển mới với nhiều điều kiện thuận lợi cơ bản.

Về phía ta, phát huy thắng lợi đã giành được, căn cứ vào nhiệm vụ của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương giao, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện xác định ba nội dung công tác lớn trong năm 1984 là:

1- Kết hợp chặt chẽ hoạt động của lực lượng vũ trang ta và bạn, của các ngành chính trị, kinh tế, xã hội, với ba phong trào cách mạng quần chúng, củng cố tăng cường thế lực của cách mạng ở cơ sở.

2- Đưa các đơn vị bạn vào rèn luyện, nâng cao sức chiến đấu lên từng bước vững chắc để tiếp tục thay thế bộ đội ta ở những địa bàn có điều kiện.

3- Phát huy sức mạnh tổng hợp liên tục tiến công địch, giúp cách mạng Campuchia thực hiện ba mục tiêu chiến lược.

Phương châm tác chiến của ta là; “ở biên giới bố trí, sử dụng lực lượng thích hợp, chuẩn bị chu đáo, đánh tiêu diệt hiệu suất cao, gây tác động nhiều mặt. Tổ chức lực lượng chuyên trách được huấn luyện và chỉ huy, chỉ đạo chặt chẽ liên tục bám đánh địch trên các trục đường, hành lang, không cho địch có điều kiện tiến công ta. Sau lưng địch sử dụng lực lượng bộ đội tinh nhuệ đánh mục tiêu có lựa chọn. Bảo đảm đánh liên tục mùa khô và mùa mưa nhằm tiêu hao sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh, các căn cứ bàn đạp xuất phát trong và ngoài biên giới của địch. Trong nội địa, kết hợp phòng thủ cơ bản với vận động quần chúng và nghiệp vụ an ninh để phá ngầm”(1).

Thực hiện quyết tâm tác chiến của Bộ Tư lệnh quân tình nguyện, từ ngày 28-2-1984, các đơn vị Mặt trận 479 phối hợp với Sư đoàn 179 quân đội cách mạng Campuchia và bộ đội địa phương hai tỉnh Xiêm Riệp, Bát Tam Băng mở đợt hoạt động mới nhằm tiêu diệt sinh lực, đánh bật tàn quân địch ra khỏi khu vực Biển Hồ. Trong đợt hoạt động này, Sư đoàn 302 đã đánh trận xuất sắc vào căn cứ Sư đoàn 912 Pôn Pốt ở vùng Tà Veng (Xiêm Riệp). Sau 6 giờ chiến đấu, Sư đoàn đã làm chủ mục tiêu, diệt 120 tên, bắn rơi 1 máy bay L.19, thu 100 tấn đạn, 30 tấn gạo, 260 súng các loại. Sư đoàn 5 đánh trận đạt hiệu suất chiến đấu cao chiếm căn cứ hồ Âm Pin, xóa bỏ một bàn đạp quan trọng để đưa lực lượng vào nội địa của địch.

Ở mặt trận 579, ta mở đợt tiến công tiêu diệt các căn cứ địch ở ven đường biên giới đông bắc Campuchia. Căn cứ 547 (địch gọi là cửa khẩu 1103) là 1 trong 5 căn cứ lớn của quân Pôn Pốt trên biên giới đông bắc tiếp giáp với Thái Lan, là nơi tiếp nhận hàng viện trợ của nước ngoài nuôi sống gần 1 vạn quân của các Sư đoàn 612, 616, 980, 912 và cơ quan tiền phương Bộ Tổng tham mưu quân Pôn Pốt. Tổng quân số địch bảo vệ hành lang và căn cứ có khoảng 1.000 tên. Lực lượng ta tham gia trận đánh có 2 sư đoàn (2 và 307), một số phân đội đặc công, xe tăng, pháo binh, công binh. Lực lượng bạn có Trung đoàn 19. Sau ba ngày chiến đấu (từ ngày 25 đến ngày 27-3-1984), ta hoàn toàn làm chủ căn cứ 547, loại khỏi chiến đấu 2 sư đoàn (612, 616), diệt 270 tên, phá 5 kho, thu 150 tấn đạn, 515 súng và nhiều đồ dùng quân sự. Lần đầu tiên sau 5 năm giúp bạn xây dựng lực lượng, truy quét tàn quân Pôn Pốt ở các tỉnh đông bắc Campuchia, được sự chỉ đạo sát sao của Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện, Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 đã tập trung một lực lượng lớn tổ chức trận hiệp đồng binh chủng tiêu diệt căn cứ cửa khẩu lớn của địch.

Trận đánh thắng lợi đã giáng đòn chí mạng vào âm mưu lập căn cứ lớn ở giáp biên giới để tiếp nhận viện trợ từ bên ngoài của Pôn Pốt; đồng thời góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để phát động quần chúng xây dựng bảo vệ chính quyền cách mạng. Qua trận đánh, ta rút ra được nhiều kinh nghiệm quý về tổ chức lực lượng, vận dụng cách đánh thích hợp để tiêu diệt các căn cứ cửa khẩu còn lại của địch.

Trên hướng Mặt trận 979, từ ngày 25 đến ngày 27-3, Sư đoàn 330 đánh chiếm căn cứ hai Trung đoàn 71 và 72, Sư đoàn 86 quân Pôn Pốt, tiếp đó đập tan các đợt phản kích của địch ở khu vực các điểm cao 288, 343, cửa khẩu 301 và khu vực 1B. Ở hướng phối hợp, Sư đoàn 196 (quân đội cách mạng Campuchia), đánh chiếm khu vực mỏ kim cương. Sư đoàn 339 đánh chiếm căn cứ Trung đoàn 11 (Sư đoàn 111) và các căn cứ của SRK, Chăm Ka Sơ Râu.


(1) Nghị quyết số 12-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 27-5-1983, hồ sơ 1246, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:13:31 am
Ngày 31-3-1984, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết Về liên minh chiến lược và chiến đấu Việt Nam - Campuchia trong những năm tới, nhận định: “mặc dù phải vượt qua nhiều khó khăn thử thách lớn và kẻ thù điên cuồng phá hoại, cách mạng Campuchia đã giành được thắng lợi vượt bậc và những thành tựu to lớn trên nhiều mặt… Quân đội ta đã bước đầu làm tốt nhiệm vụ quốc tế, xứng đáng với niềm tin cậy của hai Đảng và nhân dân hai nước”(1). Phân tích âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, những thuận lợi và khó khăn của cách mạng Campuchia, Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ của quân tình nguyện trong những năm tới: “Hướng mọi nỗ lực giúp cho sự nghiệp cách mạng Campuchia phát triển đúng hướng và đúng quy luật. Giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng Campuchia đủ mạnh để làm nòng cốt cho toàn dân Campuchia phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ đất nước, đấu tranh với địch, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc trong thế trận liên minh chiến lược, chiến đấu với Việt Nam và Lào”(2).

Phát huy thắng lợi mùa khô 1983-1984, bước vào những tháng đầu năm 1984, quân tình nguyện Việt Nam và các lực lượng vũ trang Campuchia tiếp tục mở rộng hoạt động đẩy địch vào thế bị động đối phó. Vừa đẩy mạnh truy quét, ta vừa tích cực huấn luyện xây dựng lực lượng tại chỗ cho bạn. Đến giữa năm 1984, trên cả 4 mặt trận ta đã cơ bản xóa các ổ nhóm phản động hoạt động ở các địa bàn trọng điểm, đưa phong trào cách mạng của quần chúng phát triển. Ở nhiều nơi, nhân dân Campuchia tự bảo vệ được chính quyền, lực lượng du kích xã, ấp phát triển gấp hai lần so với năm 1983.

Thực hiện thỏa thuận giữa Đảng và Nhà nước hai nước Việt Nam - Campuchia, ngày 22-6-1984, các Lữ đoàn 688, 689, Trung đoàn 550 và một số tiểu đoàn độc lập quân tình nguyện Việt Nam được lệnh rút về nước. Đây là đợt rút quân thứ ba một bộ phận quân tình nguyện ở các tỉnh Tây và Tây Bắc Campuchia về nước.

Thời điểm này, tình hình cách mạng Campuchia còn nhiều khó khăn, phức tạp do lực lượng của Pôn Pốt - Iêng Xari vẫn còn ở biên giới và nội địa. Trên chiến trường, các đợt phản kích của địch bị thất bại, kết thúc giai đoạn tranh chấp chiến lược giữa ta va địch. Lực lượng của địch ngày càng bị tiêu hao, các hoạt động tác chiến, phá hoại công cuộc hồi sinh đất nước trên địa bàn nhiều tỉnh giảm đáng kể.

Tháng 7-1984, Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Campuchia phân tích âm mưu sử dụng viện trợ từ bên ngoài để nuôi dưỡng phát triển lực lượng chống phá cách mạng trong nội địa của Pôn Pốt - Iêng Xari. Xác định tầm quan trọng đặc biệt của tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan, Bộ Chính trị Campuchia đề ra chủ trương: Tập trung xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, từng bước khép kín biên giới Campuchia - Thái Lan nhằm tạo thành tuyến ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động thâm nhập của địch từ ngoài biên giới vào nội địa và cử đồng chí Bu Thoong - Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Trưởng ban xây dựng tuyến phòng thủ biên giới.

Theo yêu cầu của bạn, Bộ Quốc phòng ta điều Trung đoàn công binh 521 trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh sang giúp bạn, đồng thời tăng cường thêm lực lượng, phương tiện công binh cho các quân khu, quân đoàn phía nam của ta để giúp Campuchia.

Ngày 25-9-1984, Bộ Tổng tham mưu ta ra chỉ thị cho tất cả các đơn vị quân tình nguyện giúp Campuchia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”, kiên quyết tập trung lực lượng, phương tiện, tạo mọi điều kiện giúp bạn triển khai đúng kế hoạch, đúng tiến độ. Những tháng cuối năm 1984, bộ đội ta vừa tích cực đánh địch bảo vệ địa bàn, vừa cùng bạn khẩn trương xây dựng tuyến phòng thủ biên giới. Chủ động vượt qua mọi khó khăn, lao động quên mình, bộ đội ta đã góp hàng vạn ngày công cùng quân dân Campuchia đào hào đắp lũy, xây dựng công sự trận địa, bước đầu thực hiện thắng lợi kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, góp phần ngăn chặn các hoạt động xâm nhập của địch.

Bước sang mùa khô 1984-1985, cục diện chiến trường có những biến đổi quan trọng có lợi cho cách mạng Campuchia. Tuy lực lượng ba phái (Pôn Pốt, Sênêka, Môlica) có hơn 61.000 tên, trong đó có 39.000 quân chiến đấu (gồm 7 sư đoàn, 9 trung lữ đoàn, gần 100 tiểu đoàn), nhưng mâu thuẫn nội bộ địch gay gắt, sức chiến đấu của nhiều đơn vị giảm sút. Trong khi đó, ta và bạn đã có bước phát triển mới về công tác bảo đảm tác chiến, công tác hậu cần tại chỗ của bạn có nhiều tiến bộ. Từ ngày 18-11-1984 đến ngày 11-3-1985, tại Mặt trận 479, ta và bạn mở chiến dịch đồng loạt đánh chiếm các căn cứ của bọn chỉ huy ba phái.


(1) Nghị quyết số 07-QUTW.A ngày 31-3-1984 của Quân ủy Trung ương, hồ sơ B7/1, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng, tr. 2, 7-8.
(2) Nghị quyết số 07-QUTW.A ngày 31-3-1984 của Quân ủy Trung ương, hồ sơ B7/1, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng, tr. 2, 7-8.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:14:04 am
Mở màn chiến dịch, sáng 18-11, Sư đoàn bộ binh 9 phối hợp với Trung đoàn 8, Sư đoàn 179 (quân đội cách mạng Campuchia) đánh chiếm căn cứ phân khu 205. Do làm tốt công tác chuẩn bị chiến đấu, hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh chặt chẽ, đến 16 giờ ngày 18-11, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ căn cứ, diệt 139 tên, thu 102 súng các loại. Trận đánh mở màn diễn ra nhanh gọn đạt hiệu suất chiến đấu cao đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội. Phát huy thắng lợi, trong tháng 12-1984, Sư đoàn 9 và các đơn vị bạn tiếp tục đánh chiếm phân khu 204 (bắc Đăng Kum), Sư đoàn 5 (Quân khu 7) tiến công căn cứ Sư đoàn 519 địch. Một số đơn vị thuộc Sư đoàn 286 (quân đội cách mạng Campuchia) tiến công căn cứ Ô Bốc thuộc Quân khu 102 của Sênêka.

Đầu tháng 1-1985, theo yêu cầu của Bộ Quốc phòng Campuchia, Sư đoàn 7 (thiếu 1 trung đoàn) được lệnh trở lại chiến trường Campuchia tham gia chiến dịch mùa khô 1984-1985 trên địa bàn biên giới phía tây bắc Camuchia cùng Sư đoàn 9 và Trung đoàn 550 công binh trong đội hình chiến đấu của Quân đoàn 4.

Ngày 7-1-1985, Sư đoàn 5 (Quân khu 7) được tăng cường 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh và một số đơn vị thiết giáp tiến công Âm Pin - một căn cứ quan trọng, nơi có cơ quan chính phủ và Bộ Tổng tham mưu của Sênêka, nằm ở phía tây huyện Thơ Ma Puốc, tỉnh Bát Tam Băng. Sau 9 giờ chiến đấu bằng các đợt xung phong, hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh, xe tăng và pháo binh, quân ta đã hoàn toàn làm chủ căn cứ Âm Pin, diệt 575 tên địch, thu 1.726 súng các loại.

Bị thất bại nặng, địch phải thay đổi kế hoạch chống phá cách mạng Campuchia. Ngày 31-1-1985, Pôn Pốt đa ra kế hoạch: Lấy chiến trường vùng sâu (nội địa) làm trọng điểm, tích cực bảo vệ cơ quan chỉ huy các cấp, tập trung đánh nhỏ, đánh phía sau, trong đó lấy đánh giao thông, đánh các cơ sở kinh tế và phá chính quyền phum, xã là chính.

Từ ngày 9-1 đến ngày 5-2-1985, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 mở cuộc tiến công đánh chiếm các căn cứ địch ở Sê Đa, Ô Đa, Cao Mê Lai. Trong tháng 3-1985, ta tiếp tục đánh chiếm các mục tiêu ở khu vực Tà Tum, Cô La, Đăng Rếch.

Ở Mặt trận 579, đầu tháng 12-1984, ta đánh căn cứ núi Cụt của Sênêka, tiếp đó tập trung lực lượng tiến công căn cứ Poé Kúm (K1) sào huyệt của Fulro và Sở chỉ huy Sư đoàn 801 quân Pôn Pốt ở vùng 105. Sau một số trận đánh tạo thế và vây hãm, ngày 5-1-1985, các đơn vị của hai sư đoàn (2 và 307) chiếm được toàn bộ căn cứ, loại khỏi chiến đấu 1.007 tên địch, thu 4.406 súng các loại, 300 tấn đạn và 15 xe ô tô. Trận đánh thắng lợi ngoài việc phá tan một căn cứ chiến lược quan trọng của địch, gây tác động lớn đối với lực lượng địch ở ngoài biên giới và trong nội địa, ta còn củng cố thế trận nối liền từ ngã ba biên giới xuống Kô Kông.

Bị mất căn cứ Poé Kúm (K1), tàn quân địch dồn về căn cứ Pha Nom Kan Tung (K3), đưa tổng quân số ở đây lên gần 3.000 tên, gồm tàn quân và chỉ huy các Sư đoàn 612, 616, 801, 980. Rút kinh nghiệm bố trí ở hai căn cứ đã bị ta tiêu diệt, địch tăng cường cho tuyến trung tâm nhiều ĐKZ, pháo 85 và súng 12,7 mm. Chúng thường xuyên cho lực lượng sục sạo ra xa để phát hiện lực lượng ta. Ban đêm, địch tổ chức các toán phục kích, gài mìn trên đường mòn chống ta xâm nhập.

Về phía ta, sau hai trận tiến công tiêu diệt căn cứ 547 và Poé Kúm, các đơn vị rút kinh nghiệm chỉ ra những mặt yếu và biện pháp khắc phục. Được sự chỉ đạo sâu sát của Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện, Mặt trận 579 đã điều chỉnh bổ sung lực lượng, vũ khí trang bị và huấn luyện bổ sung các kỹ thuật leo núi, tác chiến luồn sâu, gỡ mìn khắc phục vật cản. Công tác nuôi quân, phục hồi sức khỏe cho thương binh nhẹ được chú trọng, nên khi bước vào cuộc chiến đấu đánh địch ở căn cứ Pha Nom Kan Tung, quân số của các đơn vị trong mặt trận đảm bảo đạt 70% so với biên chế.

Sau các trận đánh tạo thế và nghi binh thu hút lực lượng địch về phía nam đường 74 của Trung đoàn 697 và 2 tiểu đoàn quân đội cách mạng Campuchia, 7 giờ ngày 5-3-1985, pháo ta đồng loạt bắn vào 21 mục tiêu trong căn cứ Pha Nom Ken Tung, sau đó Sư đoàn 307 lần lượt đánh chiếm các điểm cao 894, 542, 567. Sư đoàn 2 đánh chiểm khu vực 15 nhà, suối Tà Thu, điểm cao 604, nam điểm cao 600 và Phan Lan Sung. Ngày 6-3, ta đánh chiếm các mục tiêu còn lại trong căn cứ, đồng thời truy quét địch mở rộng địa bàn, giúp bạn củng cố tuyến phòng thủ biên giới. Trong đợt hoạt động này, ta loại khỏi chiến đấu 317 tên, thu 168 súng, 100 tấn đạn và nhiều lương thực, quân trang, quân dụng.

Cùng với chiến thắng giòn giã trên biên giới, các tiểu đoàn, đại đội ở nội địa tích cực bám nắm địch. Do làm tốt công tác địch vận và tổ chức hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ với bộ đội và nhân dân địa phương, ta đã chiếm được một số căn cứ lõm của địch như Tà Ben Svay, Bông Viêng, La Lay, tạo ra thế và lực để xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng trong nội địa.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:15:11 am
Trên hướng Mặt trận 979, Quân khu 9 đẩy mạnh hoạt động đánh địch cả ngoài biên giới và trong nội địa. Ở biên giới, ta tập trung đánh các sở chỉ huy, cơ quan đầu não địch ở các tỉnh Ko Kông, Pua Sát, Bát Tam Băng. Sau đợt tiến công mùa khô 1984-1985, Mặt trận 979 tập trung lực lượng chuẩn bị đánh Ru Đa Môn - một căn cứ quan trọng của Pôn Pốt. Ngày 12-2-1985, Tư lệnh quân tình nguyện đến Sở chỉ huy chiến dịch của Mặt trận 979 trực tiếp bổ sung và thông qua quyết tâm lần cuối. Ta sử dụng 2 Sư đoàn 330 và 339 tiến công, kết hợp giữa đột phá chính diện với bao vây ngăn chặn, truy quét vòng ngoài. Sau ba ngày chiến đấu, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ căn cứ.

Cùng với các đơn vị đánh địch ngoài biên giới, các đơn vị đánh địch trong nội địa bảo vệ địa bàn của Mặt trận 979 liên tục mở các đợt tiến công truy quét địch ở Pua Sát, Kông Pông Chư Năng, Kông Pông Spư, nam đường vùng 31, gây cho địch nhiều thiệt hại. Chính quyền cơ sở được củng cố, ta giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang và giúp nhân dân sản xuất, ổn định đời sống. Đồng thời ta phối hợp với bạn huy động nhân dân đào được hơn 14.000 mét hào, 50.000 công sự chiến đấu, cắm hơn 200.000 mũi chông các loại và rào gần 100 km đường biên giới. Trong 6 tháng đầu năm 1985, ta huấn luyện cho bạn 124 đại đội, thành lập 41 chi bộ, phát triển 654 đảng viên mới.

Đánh giá về thắng lợi của cách mạng Campuchia, trong đó có sự giúp đỡ của quân tình nguyện và chuyên gia quân sự quân sự Việt Nam, đồng chí Hêng Xom Rin, Tổng Bí thư Đảng nhân dân cách mạng Campuchia khẳng định: “Thắng lợi to lớn trong mùa khô 1984-1985 cùng với kết quả chiến đấu trong 5 năm qua đã làm cho cách mạng nước ta hình thành và trưởng thành một bước quan trọng tự đảm đương hầu hết các mặt chính trị, văn hóa, xã hội và đảm đương một phần về mặt quốc phòng, là bước chuyển biến mới có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Campuchia”(1).

Mặc dù bị thất bại nặng trong mùa khô 1984-1985, nhưng dựa vào lực lượng còn đông và viện trợ của nước ngoài, các thế lực phản động vẫn ráo riết hoạt động chống phá cách mạng Campuchia. Để tăng cường lực lượng kỹ thuật giúp bạn, ngày 8-5-1985, Bộ Tổng tham mưu quyết định (số 149/QĐ-TM) giao cho các binh chủng cử chuyên gia giúp quân đội cách mạng Campuchia khai thác, sử dụng các trang bị kỹ thuật do ta giúp. Tiếp đó, ngày 27-6-1985, Bộ điều Tiểu đoàn tăng T54 M thuộc Lữ đoàn tăng 409 (Quân khu 1) về Bộ Tư lệnh 719 để bàn giao trang bị cho bạn.

Bước vào mùa mưa 1985, địch phân tán lực lượng hoạt động ở biên giới nhằm kìm giữ chủ lực ta, đồng thời tích cực hoạt động giành dân, xây dựng cơ sở ngầm trong nội địa, từng bước đưa lực lượng áp sát các đô thị, đặc biệt là vùng ven Thủ đô Phnôm Pênh. Về ngoại giao, địch lợi dụng các diễn đàn quốc tế công kích, chia rẽ tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Campuchia.

Để đáp ứng yêu cầu cách mạng mới, ta và bạn tập trung nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang Campuchia, các đơn vị quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, đồng thời sắp xếp lại tổ chức, kiện toàn các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương nhằm tạo thế và lực mới cho chính quyền và quân đội bạn vươn lên tự đảm nhiệm làm chủ đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng.

Mùa mưa năm 1985, ta và bạn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động. Từ tháng 6 đến tháng 10-1985, các lực lượng vũ trang ta và bạn tổ chức hàng trăm trận đánh lớn nhỏ truy quét tàn quân địch, loại khỏi chiến đấu hơn 1 vạn tên địch, diệt và bắt hơn 500 tên địch ngầm, xóa bỏ hơn 100 tổ chức phản động của địch. Ta tích cực giúp bạn huấn luyện xây dựng lực lượng, đưa các sư đoàn, trung đoàn chủ lực của bạn ra biên giới thay thế cho lực lượng ta.

Như vậy, đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, với tinh thần quốc tế vô sản, từ năm 1979, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở cuộc tiến công thần tốc giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Đánh giá về thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp bạn những năm 1979-1986, trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, Đảng ủy Quân sự Trung ương nêu rõ: “Hơn 6 năm qua, các đồng chí đã quán triệt đường lối chính trị, đường lối quân sự và đường lối quốc tế của Đảng. Liên tục chiến đấu hy sinh vì nghĩa vụ quốc tế cao cả, vì nghĩa vụ dân tộc thiêng liêng… vì sự đoàn kết liên minh chiến đấu đời đời bền vững của hai dân tộc”(2). Đảng ủy Quân sự Trung ương căn dặn: “Tất cả các đơn vị chủ lực và địa phương, cơ quan và đơn vị bất kỳ ở đâu đều phải tham gia công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở, giúp dân đẩy mạnh ba phong trào cách mạng ở địa phương. Giữ nghiêm kỷ luật, chấp hành đúng các chính sách của nhà nước bạn, làm nhiều việc thiết thực giúp dân để dân tin, bạn mến, lưu lại những kỷ niệm đẹp trong lòng nhân dân và quân đội bạn…”(3).

Phát huy tinh thần quốc tế cao cả, các đơn vị quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng lực lượng giúp bạn, từng bước bàn giao khi bạn đảm trách được mọi mặt công tác và ta cũng từng bước rút dần một số đơn vị về nước theo thỏa thuận giữa Đảng và Nhà nước hai nước Việt Nam - Campuchia.


(1) Phát biểu của đồng chí Hêng Xom Rin tại Hội nghị tổng kết mùa khô 1984-1985, tài liệu lược dịch lưu tại Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu 7.
(2) Thư của Đảng ủy Quân sự Trung ương gửi cán bộ, chiến sĩ chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, hồ sơ 1292, Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
(3) Thư của bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gửi quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, tài liệu lưu tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:16:18 am
Cùng với việc giúp nhân dân Campuchia hồi sinh xây dựng đất nước, những năm sau chiến tranh, theo sự thỏa thuận giữa hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã tích cực giúp cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ thành quả cách mạng, góp phần tăng cường tình đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng đất nước của hai dân tộc.

Cũng như Việt Nam sau giải phóng, cách mạng Lào đứng trước muôn vàn khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại. Lợi dụng những khó khăn của nước Cộng hòa dân hủ nhân dân Lào, các thế lực thù địch ra sức thực hiện kế hoạch hậu chiến, thúc đẩy bọn phản động điên cuồng chống phá cách mạng Lào, tiếp sức cho bọn phản động lưu vong trở về kết hợp với bọn phản động trong nội địa tiến hành phá hoại toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế. Trong nội địa, khoảng 2 vạn tên phản động ra sức tuyên truyền xuyên tạc chế độ mới, gây chia rẽ mối quan hệ Việt - Lào, kích động bạo loạn ở nhiều nơi. Bọn phỉ Vàng Pao khôi phục hoạt động trên một số căn cứ ở tây nam Xiêng Khoảng, Long Chẹng, Phu Bia, Bom Lọng, đường số 9. Chúng dùng vũ trang uy hiếp, khống chế cưỡng ép nhân dân chạy ra rừng hoặc vượt biên lập các căn cứ phỉ, tổ chức các cuộc tập kích cơ quan lãnh đạo, chính quyền, phục kích đánh phá các tuyến đường số 7, 9, 15, gây hoang mang trong nhân dân, làm rối loạn trật tự an toàn xã hội và an ninh chính trị, uy hiếp, cô lập các thành phố trung tâm chính trị quan trọng, nhất là Thủ đô Viêng Chăn, thị xã Savanakhét, hòng phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân các bộ tộc Lào.

Nhằm giúp bạn ổn định tình hình, từ giữa năm 1976, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là Trung đoàn 176, Quân khu 4 và một số đơn vị bộ đội địa phương của các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị) trở lại Lào giúp bạn tăng cường lực lượng cơ động chiến đấu trên các địa bàn quan trọng. Quân tình nguyện Việt Nam đã sát cánh cùng Quân đội nhân dân Lào truy quét tàn quân địch, bảo vệ các địa bàn bắc, nam Viêng Chăn, Savanakhét. Trong năm 1976, ta đã giúp bạn 42 tấn đạn, 24 xe M113, lắp ráp một số máy bay và vận chuyển từ Đà Nẵng sang Lào.

Trước tình hình an ninh chính trị của Lào diễn biến ngày càng phức tạp, nhất là ở Savanakhét và Viêng Chăn, theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước Lào, tháng 1 và tháng 4-1977, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Lào họp bàn về việc đưa quân tình nguyện Việt Nam trở lại Lào. Hai bên nhất trí triển khai bố trí lực lượng cụ thể trên một số địa bàn trọng yếu, trong đó gồm một sư đoàn và trung đoàn ở Viêng Chăn, 1 sư đoàn và 1 trung đoàn ở khu vực đường 9 và Khôngsêđôn. Trong đội hình quân nguyện có các đội trinh sát kỹ thuật, các đội ra đa sang cùng lực lượng bạn theo dõi nắm tình hình trên không và mặt đất. Ngoài ra, Bộ Tổng tham mưu tăng cường biên chế Phòng C (giúp Lào) và lập Cục Nghiên cứu tổng hợp công tác giúp Lào thuộc Cục Tác chiến. Cùng với quân tình nguyện, theo yêu cầu của bạn, các tổng cục tổ chức các đoàn chuyên gia chuyên ngành và một số đơn vị chuyên môn sang giúp bạn xây dựng cơ sở hạ tầng và dự trữ lương thực ở hai khu căn cứ hậu cần chiến lược ở Cánh Đồng Chum và Mường Phìn.

Ngày 22-7-1977, Hiệp định hợp tác quân sự giữa Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ký kết. Điều 2 của Hiệp định ghi rõ: Trong trường hợp một trong hai nước bị đế quốc, lực lượng phản động xâm lược và đe dọa tấn công thì hai bên sẽ kịp thời tiến hành mọi biện pháp quân sự, phối hợp hành động nhằm loại trừ sự đe dọa, tấn công hoặc làm thất bại sự tấn công đó.

Sau cuộc gặp của lãnh đạo cấp cao hai nước và hai Bộ Quốc phòng, tháng 7-1977, hai đoàn đại biểu Bộ Tổng tham mưu Việt - Lào họp bàn, thống nhất kế hoạch giúp đỡ lẫn nhau trong 3 năm (1978-1980), trước mắt năm 1970: Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng cơ sở quốc phòng và kế hoạch phòng thủ chung.

Trên cơ sở thống nhất hai bên, ngày 18-7-1977, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác. Hiệp ước gồm 7 điều, trong đó điều 1 ghi: “Hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, không ngừng tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, mỗi bên ra sức giáo dục toàn đảng, toàn dân của mình mãi mãi quý trọng, bảo vệ và vun đắp mối quan hệ Việt Nam - Lào đời đời trong sáng và bền vững”(1). Điều 2 xác định “trên cơ sở nguyên tắc việc bảo vệ độc lập và giữ gìn an ninh quốc gia là sự nghiệp của nhân dân mỗi nước, hai bên cam kết hết lòng ủng hộ và giúp đỡ nhau, hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm tăng cường khả năng phòng thủ bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn công cuộc lao động hòa bình của nhân dân, chống mọi âm mưu và hành động phá hoại của đất nước và lực lượng phản động nước ngoài”(2). Ngoài ra hai bên còn ký hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia. Đó là những hiệp ước rất quan trọng thể hiện sự tin cậy lẫn nhau, hợp tác về mọi mặt theo nguyên tắc cùng có lợi và hết lòng giúp đỡ lẫn nhau.


(1), (2) Báo Nhân dân, số 8469, ngày 19-7-1977.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:16:42 am
Tiếp đó, từ ngày 12 đến ngày 22-9-1977, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào do đồng chí Khămtày Xiphănđôn, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhân dân cách mạng, Lào, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chỉ huy tối cao Quân đội nhân dân Lào sang thăm và làm việc với Bộ Quốc phòng nước ta. Hai bên đã thống nhất ký kết hiệp ước phòng thủ.

Trên cơ sở Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Lào (18-7-1977), Hiệp ước phòng thủ (22-9-1977), ngày 18-10-1977, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị Về việc tăng cường đoàn kết Việt - Lào trong tình hình mới. Thực hiện chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước Lào, ngày 6-12-1977, Bộ Tổng tham mưu ra Mệnh lệnh số 12/ML-TM điều Sư đoàn 324 (được tăng cường 3 tiểu đoàn) sang Bắc Lào phối hợp với bạn chiến đấu và tham gia công tác giúp bạn ở Viêng Chăn, Luông Pha Băng, Cánh Đồng Chum. Cùng ngày 6-12, Bộ Tổng tham mưu ban hành Chỉ thị số 99/CT-TM giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 176 (Quân khu 4) phối hợp với bạn sẵn sàng đập tan âm mưu bạo loạn của địch tại thị trấn Pắc Xan, bảo đảm giao thông đường số 13 và đường số 8; làm công tác dân vận, truy quét phỉ, bảo vệ mục tiêu quân sự ở Phu Ma và Mường Mộc.

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu, ngày 10-1-1978, các đơn vị Quân khu 4 được giao nhiệm vụ đã sang Lào giúp bạn. Tháng 2-1978, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 báo cáo Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về tình hình các đơn vị quân tình nguyện chuẩn bị mở chiến dịch đánh chiếm Phu Bia. Đây là cụm căn cứ lâu năm của bọn phỉ, trải rộng trên một diện tích khoảng 2.500 km2, địa hình rất hiểm trở. Lợi dụng thế hiểm yếu đó, địch tổ chức phòng thủ trên ba cụm chủ yếu: Cụm 1, từ Mường Chà đến Mường Ao xuống phía nam Pha Khang; cụm 2, từ Mường Chà đi Poloco chếch lên phía bắc Pha Khếch, Phau Khao, Phađeng; cụm 3, từ Phu Bia về phía bắc.

Ngày 6-2-1978, ta và bạn đánh chiếm Phu He cách tây nam Phu Bia 25 km để nghi binh, thu hút sự chú ý của địch. Sáng 10-2, pháo binh liên quân đồng loạt bắn vào cụm 1 mở màn chiến dịch giải phóng Phu Bia. Từ ngày 10 đến ngày 18-2, ta đánh chiếm các vị trí Phu Khảo, Mường On, Mường Ao, bản Nậm Phen. Đến ngày 26-3-1978, ta và bạn đã loại khỏi chiến đấu 985 tên địch, làm bị thương 737 tên, bắt 375 tên, kiểm soát khoảng 65% khu đất căn cứ của địch, buộc chúng phải bỏ chạy về phía bên giới Lào - Thái củng cố lực lượng. Sau gần 4 tháng chiến đấu liên tục, ta và bạn giải phóng vùng rừng núi rộng lớn từ điểm cao 1.500, Phu Kamin, Mường On, Keo Mona đến phía nam Phu Sẩm Liêm, Mường Ao, Pha Phay, kết thúc giai đoạn đầu của chiến dịch.

Để tăng cường khả năng giúp bạn bảo vệ đất nước và thống nhất chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, ngày 28-6-1978, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Sắc lệnh số 63/SCT thành lập Binh đoàn 678 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ của Binh đoàn là cùng bạn xây dựng nền kinh tế và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong cả nước Lào, tăng cường và bảo vệ khối liên minh Việt - Lào, không ngừng củng cố và phát triển tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc. Lực lượng trực thuộc Binh đoàn gồm có 3 sư đoàn bộ binh (324, 968, 337), một số binh đội, phân đội binh chủng và bộ đội chuyên môn làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Trung tướng Trần Văn Quang được cử làm Tư lệnh kiểm Chính ủy Binh đoàn. Việc thành lập Binh đoàn 678, liên binh đoàn quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào là một chủ trương sáng suốt, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Lào, nhằm chuẩn bị cho tình huống xấu nhất là chiến tranh quy mô lớn có thể xảy ra.

Sư đoàn 324, Trung đoàn 176 và 1 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp (Quân khu 4) đang làm nhiệm vụ mở chiến dịch Phu Bia được điều động về trực thuộc Binh đoàn 678. Vừa tranh thủ ổn định tổ chức biên chế, các đơn vị quân tình nguyện khẩn trương triển khai lực lượng tiếp tục chiến dịch Phu Bia. Trong giai đoạn 2 chiến dịch, mục tiêu tiến công là các vị trí địch ở khu vực xung quanh Phu Bia. Theo kế hoạch, các đơn vị đã khắc phục mọi khó khăn do mưa lũ, sốt rét, bệnh tật và bom đạn chông bẫy của địch gây ra. Sau một thời gian mở cuộc tiến công, đến ngày 29-9-1978, liên quân Lào - Việt đã quét sạch lực lượng địch ở xung quanh khu vực Phu Bia, giải phóng gần 1 vạn dân, làm chủ địa bàn rộng lớn từ Phu Hoa đến Phu Lếch về Phu Kanin.

Ngày 30-9-1978, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Lào gửi điện khen ngợi các đơn vị tham gia lập công xuất sắc trong đợt 2 chiến dịch. Bức điện của bộ Quốc phòng ta nêu rõ: Chiến thắng đó là kết quả của tinh thần chiến đấu dũng cảm, của tình đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể của Sư đoàn 324 với các đơn vị Quân đội nhân dân Lào. Phát huy thắng lợi đã đạt được, các đồng chí hãy tiếp tục tiến lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng Phu Bia.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:17:37 am
Để thực hiện phương châm tác chiến: “diệt nhiều sinh lực dịch, phá tan sào huyệt của chúng, không cho chúng có điều kiện khôi phục, nhen nhóm lại, nhưng phải cứu được dân, gìn giữ an toàn tính mạng cho dân… Bộ chỉ huy liên quân quyết định giao tiếp nhiệm vụ cho Sư đoàn 324 gấp rút chuẩn bị phương án tác chiến và bảo đảm hậu cần giúp bạn tổ chức đợt tổng công kích giải phóng toàn bộ Phu Bia.

Từ ngày 3 đến ngày 12-11-1978, ta vừa đánh, vừa tổ chức vây hãm gọi hàng và đánh chiếm các điểm cao xung quanh sào huyệt chính của bọn phỉ ở Phu Bia. Sáng 13-11, ta mở đợt tiến công cuối cùng làm chủ Phu Bia, diệt, bắt và gọi hàng toàn bộ quân địch, giải phóng 5.000 dân, thu 30 máy thông tin, 2.000 súng các loại và nhiều quân trang, quân dụng.

Đánh giá về ý nghĩa thắng lợi của liên quân Lào - Việt trong chiến dịch giải phóng Phu Bia, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào nêu rõ: Chiến thắng Phu Bia là một trong những thắng lợi to lớn nhất của cách mạng Lào kể từ sau chiến thắng mùa Xuân 1975. Với chiến công xuất sắc, Sư đoàn 324 đã được Đảng và Nhà nước Lào tặng thưởng Huân chương Ítxala hạng Nhất.

Bước sang năm 1979, ở Lào đi đôi với việc phối hợp duy trì áp lực quân sự, đe dọa chiến tranh, thực hiện phá hoại kế hoạch kinh tế, chính trị, gây chiến tranh tâm lý, gián diệp, các thế lực thù địch đã tập hợp các lực lượng phản động có vũ trang với nhiều quy mô, dùng bàn đạp từ bên ngoài kết hợp bên trong tiến công gây bạo loạn “dùng người Lào đánh người Lào”, sử dụng “kiểu biên giới mềm”, thâm độc xảo quyệt, thực hiện chiến lược “mối xông nhà”, kích động chia rẽ, xuyên tạc liên minh Việt - Lào.

Được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng giúp bạn, ngày 9-2-1979, đồng chí Lê Quang Hòa, Bí thư Đảng ủy Quân khu 4, thay mặt Thường vụ Đảng ủy chỉ thị cho lực lượng vũ trang quân khu đang làm nhiệm vụ giúp bạn, trong đó xác định: “Ra sức tăng cường xây dựng thật tốt mối quan hệ hữu nghị đặc biệt và liên minh Việt - Lào là vấn đề sống còn của hai nước, là quy luật phát triển của sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân hai nước. Lực lượng vũ trang Quân khu 4, nhất là cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ giúp bạn, cần phải hiểu sâu sắc và cố gắng tới mức cao nhất việc hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như trong việc giữ gìn mối quan hệ nhân dân, quân đội, cấp ủy và chính quyền bạn”(1). Thường vụ Đảng ủy Quân khu 4 yêu cầu các cấp lãnh đạo chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên quán triệt sâu sắc và thực hiện 7 nội dung cơ bản, trong đó xác định phương châm “giúp bạn là cơ bản, toàn diện, lâu dài”.

Cùng với các đơn vị của quân khu đã có mặt ở Lào, tháng 2-1979, theo mệnh lệnh của Bộ, Quân khu 4 tiếp tục điều động Trung đoàn 245 hành quân sang Lào làm nhiệm vụ xây dựng Nông trường Bắc Hin Bun (gồm tổ chức khảo sát, thiết kế, xây dựng nông trường, chủ yếu là sản xuất lương thực, thực phẩm).

Nhằm nâng cao quy mô tổ chức quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, ngày 30-3-1979, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng ta quyết định lập Mặt trận 379 trực thuộc Binh đoàn 678 làm nhiệm vụ cùng bạn tổ chức phòng thủ ở vùng Bắc Lào (gồm Uđomsay, Nậm Thà, Phông Xa Lỳ).

Ngày 11-11-1979, Bộ Tổng tham mưu quyết định các đơn vị thuộc Quân khu 4, cũng như các đơn vị thuộc các tổng cục, quân khu, quân đoàn, binh chủng đang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế trên đất Lào được đặt dưới sự chỉ huy của Binh đoàn 678 về mặt sẵn sàng chiến đấu và duy trì trật tự an ninh ở vùng đóng quân.

Tháng 2-1980, Quân ủy Trung ương họp ra Nghị quyết số 32-QUTW Về nhiệm vụ quân sự giúp Lào. Nghị quyết nêu rõ: Tiếp tục cùng bạn Lào đẩy mạnh các mặt công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đập tan mọi âm mưu gây bạo loạn và đánh trả có hiệu quả các cuộc tiến công của bọn phản động ở Lào, hoặc quân xâm lược nước ngoài ở Bắc Lào, đánh bại âm mưu diễn biến hòa bình và các họạt động phá hoại gây rối ở Trung - Hà Lào, đồng thời tiếp tục truy quét phỉ và các lực lượng phản động khác.

Trong những năm 1980-1982, các đơn vị quân tình nguyện đã cùng với bạn truy quét các toán biệt kích xâm nhập, vũ trang nằm vùng, phá các ổ phản động ở Thủ đô Viêng Chăn, các thị xã, làm thất bại âm mưu bạo loạn lật đổ và gây phỉ của địch, bảo vệ các mục tiêu trong yếu. Trong 6 tháng đầu năm 1983, ta diệt 258 tên địch, bắt 96 tên, bức hàng 126 tên, thu 123 súng các loại. Bên cạnh đó, bộ đội ta cùng với bạn củng cố chính quyền ở 258 bản, bồi dưỡng 3.158 cán bộ xã, huấn luyện 5.500 lượt dân quân, du kích. Với sự hoạt động tích cực của các đơn vị Binh đoàn 678 và một số quân khu có đường biên giới tiếp giáp với Lào, ta và bạn đã phá tan nhiều ổ nhóm phản động, làm cho an ninh chính trị của Lào ngày càng đi dân vào thế ổn định. Ta đã bảo vệ tốt hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương, diễn tập liên minh Việt - Lào (HN83) đạt kết quả tốt.


(1) Quân khu 4 - Lịch sử thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.199-200.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:18:16 am
Trước tình hình an ninh chính trị ở Lào ngày càng ổn định, ngày 21-11-1985, Hội đồng Nhà nước Việt Nam quyết định giải thể Binh đoàn 678. Để tiếp tục giúp bạn, ngày 31-12-1983, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Quân khu 4 trực tiếp chỉ huy các Sư đoàn bộ binh 986, 324, Lữ đoàn bộ binh 176 đang hoạt động ở Lào, Sư đoàn 348 và Trường quân chính của Binh đoàn 678 trước đây, đảm nhận công tác quân sự ở Lào từ Viêng Chăn, Xiêng Khoảng xuống Hạ Lào. Mặt trận 379 trực thuộc Bộ Quốc phòng có 316 cán bộ.

Sau khi cơ bản hoàn thành nhiệm vụ giúp bạn về quân sự, ngày 28-2-1984, Bộ Tổng tham mưu quyết định rút Sư đoàn bộ binh 968 về Quân khu 4 nhận nhiệm vụ mới.

Để tiếp tục giúp bạn về các mặt xây dựng củng cố lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, đào tạo cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và xây dựng kinh tế trong năm 1984, Bộ Tổng tham mưu ta và bạn đã thống nhất kế hoạch chiến lược phòng thủ đối phó với các tình huống chiến tranh và triển khai kế hoạch chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.

Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu hai nước Việt - Lào còn tiến hành hội đàm để gảii quyết những vấn đề cơ bản về quân sự. Trong kế hoạch phát động quần chúng, củng cố cơ sở chính trị, bạn và ta ngày càng được phối hợp chặt chẽ. Bạn đã củng cố ban lãnh đạo và chính quyền ở các tỉnh trọng điểm. Ta cũng kiện toàn 60 đội công tác ở cơ sở (trong đội hình quân tình nguyện) với hơn 1.500 cán bộ phối hợp với bạn về các mặt khác, chỉ đạo công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở, củng cố quốc phòng - an ninh.

Ngày 23-6-1984, Bộ Tổng tham mưu ra Quyết định số 832/QĐ-QP giao cho Quân khu 5 nhiệm vụ liên minh chiến đấu với lực lượng vũ trang nhân dân các bộ tộc Lào trên địa bàn các tỉnh Saravan, Chămpasắc, Atôpơ và tỉnh mới tách ra từ Saravan, tăng cường khả năng phòng thù bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ địa bàn Nam Lào.

Đối với Sư đoàn 324 đứng chân ở Viêng Chăn, trọng điểm xây dựng cơ sở là huyện Ca Xi, đồng thời tham gia truy quét phỉ ở Phu Noọng. Theo phân công, Trung đoàn 1 của sư đoàn có pháo binh, xe tăng phối hợp bố trí xuống phía nam Viêng Chăn, tạo thế phòng thủ chắc chắn cho mục tiêu trọng điểm. Trung đoàn 176 truy quét, phục lót các cửa khẩu. Sư đoàn 968 truy quét bọn địch xâm nhập từ ngoài vào theo hành lang nam đường số 9.

Tiếp tục thực hiện chủ trương của bạn: “kiên quyết đập tan âm mưu thủ đoạn phá hoại của địch, diệt tận gốc mọi tổ phỉ mới nhen nhóm, phát động toàn dân cùng với các lực lượng vũ trang giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm trong sạch địa bàn”, Sư đoàn 324 liên tục phối hợp với bạn mở các đợt hoạt động truy quét. Trong 6 tháng mùa khô 1983-1984, Sư đoàn đã phá tan các cụm phỉ còn lại ở Pha Phay, Phu Sẩm Liêm, loại khỏi chiến đấu hàng trăm tên, thu hàng trăm súng, phá rã hoàn toàn tổ chức phỉ gồm các Tiểu đoàn 2, 3, 4 do Dong Du Hờ chỉ huy trên địa bàn Phu Bia.

Năm 1984 ta còn giúp bạn hoàn thành đào tạo 407 cán bộ, tổ chức học tập cho 1.381 cán bộ và nhân viên kỹ thuật tại 28 trường, 32 chuyên gia thường trú ở cơ quan Bộ Quốc phòng, trong đó có công tác quân sự địa phương, 200 chuyên gia kỹ thuật về các xí nghiệp quốc phòng và các nông trường. Đồng thời giúp bạn xây dựng các công trình kho 21.200 m2, các xưởng và nhà máy hữu nghị, các công trình quốc phòng, trạm thủy điện, vật tư quân sự (170 tấn ). Vận chuyển hàng quá cánh quân sự 7.834 tấn và viện trợ đột xuất theo yêu cầu chiến đấu ở khu vực ba bản 150 tấn hàng quân sự. Tuy nhiên, bạn vẫn còn nhiều khó khăn, cơ sở chính trị còn yếu, chưa đều, sản xuất phát triển chậm, giao thông vận tải rất khó khăn, đời sống cán bộ, công nhân viên, bộ đội còn thiếu thốn.

Với tinh thần tích cực, chủ động bám nắm địa bàn, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang bạn đã kịp thời phát hiện âm mưu, thủ đoạn của địch, tiếp tục bắt gọn nhiều toán, tốp địch từ ngoài xâm nhập về ngay khi chúng chưa kịp trở tay hành động. Đảng bộ, nhân dân các lực lượng vũ trang và các đồng chí lãnh đạo Quân đội nhân dân Lào đã khen ngợi, biểu dương thành tích to lớn của các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Đồng chí Khămtày Xiphănđon - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào khẳng định: “Giúp Lào, lại một lần nữa, các lực lượng tình nguyện Việt Nam đã nêu gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần khắc phục khó khăn, gian khổ, về tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung, xả thân vì bạn”(1).

Từ tháng 4-1985, được các thế lực phản động nước ngoài tiếp tế, Đại tá Chư Pao Mùa tập trung được khoảng 1.200 tên phỉ hoạt động quấy phá ở khu vực Buôm Lọng. Trước yêu cầu cấp bách phải tiêu diệt cụm phỉ ở Buôm Lọng để ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, Tỉnh ủy Xiêng Khoảng đề nghị cấp trên tăng cường lực lượng cùng tỉnh giải phóng vùng đất bị Chư Pao Mùa chiếm đóng. Bộ Chỉ huy liên quân Lào - Việt, do đồng chí Khátthinạ, Ủy viên trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bí thư Tỉnh ủy Xiêng Khoảng làm Chỉ huy trưởng. Trước yêu cầu của bạn, từ ngày 13 đến ngày 15-5-1985, Quân khu 4 đã sử dụng Tiểu đoàn 31 đặc công quân khu và một số đơn vị bộ binh cùng các đơn vị bạn tiến công, tiêu diệt quân phỉ ở Buôm Long, phá tan sào huyệt phỉ lớn nhất của địch, góp ổn định tình hình an ninh của bạn.


(1) Phát biểu trong buổi gặp gỡ cán bộ chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam tại Viêng Chăn, Quân khu 4 - Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2005) , Sđd, tr.378.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2016, 07:18:49 am
Bên cạnh việc phối hợp với bạn xây dựng cơ sở, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam còn cùng lực lượng vũ trang bạn chốt giữ bảo đảm giao thông an toàn trên các tuyến đường quan trọng, trong đó có đường huyết mạch số 13 xuyên Lào vốn nhiều đoạn hiểm yếu, loại trừ được nguy cơ uy hiếp của địch. Ngoài ra, các đơn vị quân tình nguyện cùng với nhân dân các bộ tộc Lào xây dựng giúp bạn hàng trăm trường học, trạm xá; giúp hàng chục vạn ngày công làm thủy lợi, sản xuất, khám chữa bệnh cho hàng vạn lượt người; trích bớt khẩu phần ăn giúp dân hàng trăm tấn gạo, muối…

Vừa chiến đấu vừa giúp bạn xây dựng đội ngũ cán bộ, huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu. Trong năm 1985, các đơn vị quân tình nguyện đã cùng bạn tổ chức huấn luyện kèm cặp giúp các đơn vị dân quân, du kích, bộ đội địa phương tỉnh, huyện của bạn từng bước trưởng thành làm cơ sở bổ sung xây dựng, phát triển các đơn vị bộ đội chủ lực cấp trung đoàn, sư đoàn. Tháng 5-1985, Sư đoàn 1 của bạn ra đời đánh dấu bước phát triển mới của Quân đội nhân dân Lào. Ngày 20-7-1983, lễ kết nghĩa giữa Sư đoàn 1 Quân đội nhân dân Lào với Sư đoàn 324 quân tình nguyện Việt Nam được tổ chức trọng thể tại Thủ đô Viêng Chăn. Sư đoàn trưởng U Đôn thay mặt Sư đoàn 1 và Sư đoàn trưởng Võ Chót thay mặt Sư đoàn 324 ký các văn kiện hợp tác giúp đỡ nhau về mọi mặt, đưa mối quan hệ truyền thống giữa hai đơn vị và quân đội hai nước lên tầm cao mới.

Đi đôi với liên minh hợp tác với bạn về quốc phòng, an ninh, thống nhất kế hoạch phòng thủ chiến lược, triển khai kế hoạch chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, các đơn vị quân tình nguyện và các địa phương trong các quân khu đã thực hiện nhiều hình thức kết nghĩa, giúp bạn xây dựng và củng cố lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đào tạo cán bộ theo cách “ngành giúp ngành, tỉnh giúp tỉnh, huyện giúp huyện” xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng kinh tế giúp bạn. Công ty hợp tác kinh tế 85 (tiền thân là công trường khai thác Quân khu 4) đã kết hợp với Công ty Chấn hưng kinh tế miền núi của Bộ Quốc phòng Lào tiến hành khai thác gỗ xuất khẩu đạt kết quả tốt. Không chỉ khai thác gỗ, đơn vị còn giúp bạn mở đường dân sinh (khu vực Na Tân, tỉnh Khăm Muộn) dài 26 km, tổ chức trồng 60 ha rừng ở Lạc Xao. Việc sớm tổ chức mô hình kết hợp kinh tế với quốc phòng, kết hợp giữa ta và bạn trong xây dựng đạt hiệu quả đã mở ra những bước đi vững chắc cho sự lớn mạnh không ngừng của các công ty hợp tác kinh tế sau này.

Về sản xuất, ta giúp bạn xây dựng kinh tế địa phương, giải quyết một phần về đời sống. Nhiều nơi trước đây tình hình rất phức tạp, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn nhưng được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam đến năm 1985 đã cơ bản có những chuyển biến tốt, đời sống ổn định.

Trong những năm 1980-1985, đất nước ta vẫn trong tình trạng vừa có hòa bình, vừa phải đối phó với tình huống có thể xảy ra cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn và chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân đã nỗ lực chiến đấu, cùng toàn dân khắc phục mọi khó khăn, thử thách, từng bước ổn định đời sống. Quân và dân ta đã nỗ lực phấn đấu, xây dựng đất nước về mọi mặt, trong đó xây dựng tiềm lực quân sự, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Được Đảng, Nhà nước và nhân dân chăm lo, tập tình giúp đỡ, các lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã xây dựng, không ngừng phát triển lớn mạnh cả lực lượng và tổ chức, trang bị nhiều vũ khí mới, hiện đại, góp phần cùng toàn dân làm thất bại mọi âm mưu phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch; đồng thời tích cực tham gia lao động sản xuất, góp phần xây dựng kinh tế đất nước.

Cùng thời gian này, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, xây dựng lại đất nước; đồng thời cùng với quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng Lào.

Những thành tựu đạt được trên nhiều mặt, trong đó có thành tựu to lớn về xây dựng tiềm lực quân sự, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và làm nhiệm vụ quốc tế là cơ sở rất quan trọng để các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân cùng toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ mới. Thời kỳ đổi mới mạnh mẽ, toàn diện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện nghĩa vụ quốc tế.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:44:58 pm
Chương III

TỪNG BƯỚC ĐỔI MỚI VỀ XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ
VÀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG, ĐÁP ỨNG NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC
(1986-2000)

1. Thực hiện đổi mới về xây dựng khu vực phòng thủ và xây dựng lực lượng, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và Lào.

Mười năm kể từ khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và thứ V của Đảng, quân và dân cả nước khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quân và dân ta đã tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, xây dựng kinh tế đất nước; đồng thời, thực hiện nhiệm vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng Lào và Campuchia, làm thất bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sang giai đoạn mới, cách mạng nước ta tiếp tục phát triển trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều biến động. Tình hình thế giới có những chuyển biến mạnh mẽ ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam. Các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó Liên Xô đang thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ chế quản lý bằng một cuộc cải tổ rộng lớn. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ vẫn không từ bỏ chính sạch chạy đua vũ trang, nhất là vũ khí hạt nhân, gây ra những cuộc xung đột cục bộ, phản kích các lực lượng cách mạng và hòa bình. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá cách mạng ba nước Đông Dương. Chúng dùng mọi thủ đoạn nham hiểm phá hoại, hòng làm suy yếu, gây mất ổn định, chia rẽ tình đoàn kết trong xây dựng, phát triển đất nước và liên minh chiến đấu bảo vệ nền độc lập của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.

Nhân dân Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong 10 năm (1975-1985) xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng tình hình kinh tế, xã hội của đất nước vẫn còn nhiều khó khăn. Nền kinh tế quốc dân trong tình trạng mất cân đối nghiêm trọng. Sự chỉ đạo quản lý kinh tế, xã hội có những mặt yếu kém và phạm thiếu sót, sai lầm. Sức sản xuất tăng chậm, không tương xứng với khả năng và công sức bỏ ra. Một số chỉ tiêu về sản xuất lương thực, xi măng, khai thác gỗ xuất khẩu không đạt kế hoạch. Lưu thông phân phối rối ren, giá cả tăng nhanh, lạm phát lớn. Hiện tượng tiêu cực trong xã hội có chiều hướng lan tràn do kỷ cương pháp luật không nghiêm. Thực trạng kinh tế, xã hội phức tạp đã tác động lớn đến đời sống của nhân dân. Đời sống cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang hết sức khó khăn. Tình hình tiêu cực xã hội diễn biến phức tạp kéo dài.

Trong thời gian này, cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế của các lực lượng vũ trang và nhân dân Việt nam đã giành được những thắng lợi to lớn. Quân và dân ta làm thất bại một bước quan trọng âm mưu phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, nền quốc phòng toàn dân được củng cố, lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng và phát triển, sức chiến đấu không ngừng nâng cao. Trên biên giới phía Bắc, quân dân ta xây dựng thế trận phòng thủ ngày càng vững chắc, chiến đấu dũng cảm và có hiệu quả, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ vùng biên giới của Tổ quốc. Đồng thời thực hiện nhiệm vụ truy quét, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lực lượng phản động Fulrro ẩn náu ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản động khác, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân đạt được những kết quả đáng kể trên các mặt: Củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, củng cố cơ sở chính trị ở những địa bàn xung yếu, xây dựng lực lượng dự bị động viên. Quân đội nhân dân có bước phát triển theo hướng chính quy, hiện đại, sức mạnh chiến đấu được nâng cao. Lực lượng dân quân tự vệ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, huy động lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế, nhất là xây dựng các công trình công nghiệp và tuyến đường giao thông chiến lược quan trọng. Những thành tựu đó bắt nguồn từ đường lối cách mạng, đường lối quân sự được xác định đúng đắn kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, lần thứ V của Đảng và tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu của quân và dân ta. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải ra sức phát huy truyền thống vẻ vang, biến chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh giải phóng thành chủ nghĩa anh hùng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới; khắc phục thiếu sót, nhược điểm, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên một bước mới, ổn định cơ bản tình hình kinh tế và phát triển một cách năng động. Đồng thời, quân và dân ta phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo vệ vững chắc đất liền, vùng trời, vùng biển đảo và biên cương của Tổ quốc.

Cách mạng nước ta có những nhân tố thuận lợi mới, nhưng cũng đang đứng trước nhiều khó khăn gay gắt. Do đó, việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước là nhân tố đặc biệt quan trọng. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, ngày 21-7-1986, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa V) đã ra Nghị quyết ố 33-NQ/TW Về nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1986-1990), chỉ rõ: “Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đó là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước”(1).

Về nhiệm vụ quốc phòng những năm 1985-1990, Nghị quyết Bộ Chính trị nhấn mạnh một số vẫn đề: Phát huy sức mạnh tổng hợp của quân và dân cả nước, phối hợp với cách mạng Campuchia, cách mạng Lào, giành cho được thắng lợi to lớn trên các hướng chiến trường, tạo nên thế và lực vững chắc hơn cho cách mạng ba nước, ra sức nâng cao nền quốc phòng toàn dân và xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội chính quy ngày càng hiện đại, đạt cho được một chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng tổng hợp, làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế; đẩy mạnh xây dựng hệ thống công nghiệp quốc phòng(2).

Nghị quyết Bộ Chính trị là định hướng lớn, giúp cho các cấp ủy và tổ chức Đảng trong toàn quốc, nhất là Đảng bộ Quân đội thảo luận và quyết định ở Đại hội Đảng toàn quân và lãnh đạo xây dựng quân đội về mọi mặt trong những năm 1986-1990.


(1) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, t.III, (1975-1985), tr.267.
(2) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.III, (1975-1985), tr.269-270.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:46:09 pm
Tiếp theo Nghị quyết Bộ Chính trị, cuối năm 1986, một sự kiện chính trị quan trọng của đất nước đã diễn ra. Đó là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, được tổ chức tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1980. Trên cơ sở “nhìn thẳng vào sự tật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, làm rõ những thắng lợi, đồng thời nêu rõ những mặt yếu kém, sai lầm và khuyết điểm, phân tích sâu sắc nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện của đất nước Đổi mới tư duy, đổi mới quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức cán bộ và đổi mới phong cách lãnh đạo, trước tiến là đổi mới tư duy về kinh tế để đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta tiếp tục tiến lên vững chắc.

Về nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, Đại hội nêu rõ: “Chúng ta phải thấu suốt và thực hiện đúng quan điểm “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”, kiên trì chấp hành và cụ thể hóa đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, kết hợp chặt chẽ kinh tế, quốc phòng và an ninh, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền quốc phòng và an ninh toàn dân, xây dựng hậu phương đất nước một cách toàn diện”(1).

Đối với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, Đại hội quyết nghị: “Xây dựng quân đội nhân dân chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức họp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu cao. Tổ chức tốt việc bảo vệ chủ quyền và giữ vững an ninh các tuyến biên giới, vùng trời, vùng biển và hải đảo, xây dựng và củng cố bộ đội biên phòng vững mạnh. Tiếp tục phát triển dân quân tự vệ với số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới. Tăng cường xây dựng lực lượng dự bị. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Phối hợp cố gắng của Nhà nước, nhân dân và các lực lượng vũ trang để đảm bảo những nhu cầu của nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, những nhu cầu thiết yếu về đời sống vật chất và tinh thần của cá lực lượng vũ trang nhân dân. Thực hiện đầy đủ các chính sách hậu phương quân đội. Từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước. Trên cơ sở bảo đảm nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và sản xuất quốc phòng, huy động một phần lực lượng quân đội, sử dụng một phần năng lực công nghiệp quốc phòng vào xây dựng kinh tế”(2).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng thành công tốt đẹp trên cả hai phương diện: Hoạch định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, tăng cường đoàn kết thống nhất ý chí quyết tâm hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và lựa chọn nhân sự bầu Ban Chấp hành mới, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng”(3).

Kết quả Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tạo ra sinh khí mới, động viên cổ vũ toàn quân, toàn dân vững tin ở chặng đường mới, quyết tâm vượt khó khăn, tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa cách mạng tiến lên phía trước, phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực. Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ Đại hội VI của Đảng và nhiệm vụ quân sự 5 năm (1986-1990), Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng, tham gia xây dựng kinh tế đất nước.

Thời điểm này, tình hình kinh tế, xã hội đất nước có nhiều khó khăn gay gắt về đời sống, trong khi đó viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa không còn. Trước tình hình đó. Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu chủ trương điều chỉnh lực lượng và thế bố trí chiến lược. Trước mắt, giải quyết các điểm phức tạp trên biên giới phía Bắc, quần đảo Trường Sa theo hướng chấm dứt xung đột vũ trang, giảm một tỷ lệ thích hợp quân thường trực, bố trí lại thế trận, đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cả nước và từng địa phương, trong đó tập trung xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, đáp ứng nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 372.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 372.
(3) Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức, 49 ủy viên dự khuyết (Đảng bộ quân đội có 15 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết). Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:47:16 pm
*
*   *

Quân đội nhân dân Việt Nam trưởng thành và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình trong 40 năm qua, trước hết là do Đảng cộng sản Việt Nam đã dày công xây dựng và lãnh đạo chặt chẽ. Đảng đã giáo dục cho quân đội lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và lòng tin yêu cảu nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng mới, quân đội vẫn là lực lượng trung thành tuyết đối dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ vững chắc công cuộc đổi mới đất nước.

Nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, kế hoạch nhà nước 5 năm và kế hoạch quân sự, quốc phòng 5 năm (1986-1990), từ Tổng cục Chính trị và các cơ quan chức năng thuộc Tổng cục đến cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị, các đơn vị trong toàn quân đã triển khai nhiều công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách và cực kỳ quan trọng, mở đầu cho quá trình đổi mới trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân là xây dựng vững mạnh về chính trị. Phương châm xây dựng là: Lấy cán bộ làm khâu then chốt, nâng cao phẩm chất đội ngũ cán bộ, đảng viên làm cơ sở để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, ngày càng hiện đại, nâng cao sức mạnh tổng hợp, bảo đảm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ngày 19-12-1986, Tổng cục Chính trị đề ra kế hoạch thực hiện những công việc chính về công tác đảng, công tác chính trị năm 1971: “Trọng tâm là xây dựng lực lượng vũ trang về mặt chính trị, lấy công tác xây dựng Đảng bộ cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức là khâu then chốt, làm cơ sở xây dựng nâng cao chất lượng quân đội”(1).

Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, ngày 18-2-1987, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký Quyết định số 8782/HĐNN bổ nhiệm Đại tướng Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Đoàn Khuê làm Tổng tham mưu trưởng, Thượng tướng Nguyễn Quyết làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Cũng trong tháng 2-1987, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ định 13 ủy viên Trung ương Đảng (khóa VI) kiện toàn Đảng ủy Quân sự Trung ương, gồm 7 đồng chí trực tiếp công tác trong quân đội và 6 đồng chí công tác ngoài quân đội. Ban Thường vụ có 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư kiêm Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương; đồng chí Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng làm Phó Bí thư(2).

Sau khi được kiện toàn, Đảng ủy Quân sự Trung ương quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng theo phân cấp từ Đảng ủy Quân sự Trung ương đến đảng ủy đơn vị cơ sở. Đợt sinh hoạt chính trị tạo được khí thế và động lực mới, nâng cao thêm nhận thức, củng cố niềm tin, tăng cường đoàn kết, thống nhất ý chí quyết tâm và hành động của các cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng trong việc thực hiện đổi mới đất nước, trực tiếp là đổi mới trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quân đội, đủ sức bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững ổn định chính trị của đát nước và làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.

Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tháng 7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng quy định tổ chức Đảng và tổ chức cơ quan chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam. Trong quân đội, tổ chức đảng theo hệ thống dọc từ cơ sở đến toàn quân. Mỗi cấp có ban Chấp hành Đảng bộ (gọi tắt là Đảng ủy). Toàn quân có Đảng ủy Quân sự Trung ương đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị. Dưới Đảng ủy Quân sự Trung ương có đảng ủy tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, học viện, trường sĩ quan, sư đoàn, lữ đoàn các cấp tương đương, các đảng ủy cơ sở. hệ thống tổ chức cơ quan chính trị trong quân đội gồm Tổng cục Chính trị, cục chính trị cấp quân khu, quân đoàn, quân chủng và tương đương, phòng chính trị cấp sư đoàn, cơ quan quân sự địa phương huyện, thị xã và tương đương.

Ngày 19-8-1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Chỉ thị số 189-CT/ĐU Về việc triển khai kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Mục đích là góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của các tổ chức Đảng, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, bảo đảm hoàn thoàn nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Chỉ thị chỉ rõ: “Đây là bước phát triển mới đòi hỏi công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác kiểm tra Đảng nói riêng là do yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình mới đặt ra, làm tốt việc kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng sẽ góp phần tích cực nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng”(3). Thực hiện Chỉ thị của Đảng ủy Quân sự Trung ương, toàn quân mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, phát huy tinh thần phê bình và tự phê bình của cán bộ, đảng viên, tạo sự chuyển biến mới trong xây dựng cơ sở, nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội.


(1) Hồ sơ số 01-24, tài liệu lưu tại Văn phòng Tổng cục Chính trị, tr.12.
(2) Đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; đồng chí Đoàn Khuê, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng và đồng chí Nguyễn Quyết, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Ủy viên Thường vụ.
(3) Chỉ thị số 189-CT/ĐU, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:48:54 pm
Cũng trong năm 1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 02-NQ/BCT nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo, gồm những nội dung: Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai là, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, tham gia xây dựng kinh tế. Ba là, thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế đối với các mạng Lào và cách mạng Campuchia.

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, các lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, quân đội nhân dân nói riêng tập trung học tập, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của bộ đội và nhân dân trong mọi hành động, chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm tuyệt đối bí mật, không để sơ hở cho kẻ thù lợi dụng, tập trung chống phá những quyết sách chiến lược của Đảng về quân sự, quốc phòng trong bối cảnh tình hình quốc tế đang diễn biến rất phức tạp.

Thực hiện nhiệm vụ theo đường lối đổi mới của Đảng, việc điều chỉnh lực lượng trong quân đội được thực hiện, từng bước “hoàn chỉnh bổ sung kế hoạch xây dựng thế trận phòng thủ, phân công, phân cấp rõ ràng trong việc đối phó với các hoạt động quân sự của địch…”(1). Để thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới, Tổng cục Chính trị nhấn mạnh: “Phải coi trọng công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi quân nhân, đề phòng các hiện tượng tiêu cực xảy ra khi thay đổi nơi đóng quân và thay đổi nhiệm vụ”(2).

Ngày 19-11-1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 336/ĐUQSTW về Cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước, làm trong sạch các quan hệ xã hội trong quân đội. Nghị quyết nêu rõ: “Trong quá trình thực hiện cuộc vận động cần tập trung củng cố vững chắc lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, phát huy bản chất truyền thống của Đảng, của quân đội, nâng cao cảnh giác cách mạng. nâng cao phẩm chất của người chiến sĩ quân đội. Đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, đặc biệt là giảm sút ý chí chiến đấu”(3). Đây là cuộc vận động lớn của Đảng và Nhà nước được tiến hành trong các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân đến năm 1990. Cuộc vận động này thực sự là cuộc đấu tranh tư tưởng nhằm giải quyết dứt khoát giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cá nhân chủ nghĩa, giữa tích cực đổi mới và bảo thù trì trệ, giữa con đường xã hội chủ nghĩa và cá nhân chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa; đồng thời, đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, góp phần củng cố, nâng cao sự nhất trí đối với với công cuộc đổi mới và những quan điểm cơ bản của Đảng về đường lối quân sự. Sinh hoạt chính trị cơ sở bảo đảm dân chủ công khai, việc xây dựng đội ngũ cán bộ bước đầu đi vào quy hoạch theo quan điểm mới của Đảng.

Quán triệt tinh thần cuộc vận động do Đảng ủy Quân sự Trung ương đề ra, các cơ quan, đơn vị toàn quân phát động thi đua, làm chuyển biến mọi hoạt động trên các lĩnh vực, trong đó tập trung về xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Nhìn chung, trong năm 1977, “toàn quân đã thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, chủ động, tích cực, nhạy bén bám chắc đường lối, quan điểm của Đảng, bám sát sự phát triển của thực tiễn, thực hiện có chất lượng và đạt hiệu quả cao, góp phần tích cực hoàn thành nhiệm vụ”(4).

Trong khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang khẩn trương xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang theo đường lối đổi mới của Đảng thì tình hình vùng Biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa có những diễn biến phức tạp do hoạt động của hành quân một số nước trong khu vực gây ra, nhằm do thám, khiêu khích, quấy phá, chiếm đóng một số đảo còn lại. Trước tình hình đó, ngày 30-1-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 66-NQ/TW Về việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tăng cường sự có mặt của Việt Nam trên các đảo và vùng biển thuộc chủ quyền lãnh hải của ta. Nghị quyết nêu rõ: “Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở Biển Đông từ lâu đã là lãnh thổ của Việt Nam… Hai quần đảo này giữ vị trí hết sức quan trọng về mặt quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế của nước ta. Nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… là nhiệm vụ chung của cả nước… Cần luôn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; phản ứng kịp thời và kiên quyết đối với các âm mưu, hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo này”(5).

Quán triệt Nghị quyết của bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân chủng Hải quân phải bảo vệ các đảo của ta, đặc biệt là không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, bao gồm cả việc củng cố, xây dựng thêm các công trình chiến đấu và bảo đảm sinh hoạt cho bộ đội; đồng thời, đưa lực lượng ra các bãi đá cạn. Trước mắt, đưa lực lượng ra đóng giữ các đảo Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ; khai thác và phát huy mọi khả năng của các lực lượng vũ trang, các ngành và địa phương, sẵn sàng chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu tàu nước ngoài xâm phạm đảo, hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì tỉnh táo, không bị khiêu khích và bất ngờ, đánh trả kịp thời.


(1), (2) Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: quá trình hình thành và phát triển tổ chức và chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, Sđd, t.III, tr. 91, 95.
(3) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.710.
(4) Hồ sơ A4, tập 33, tài liệu lưu tại Văn phòng Tổng cục Chính trị.
(5) Lịch sử Cục Tác chiến (1945-2005), Sđd, tr.772-773.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:49:55 pm
Bước sang năm 1988, nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn. Nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu diễn ra căng thẳng và phức tạp do các thế lực thù địch thực hiện âm mưu khống chế Biển Đông, chiếm một số điểm trong quần đảo Trường Sa. Từ tháng 1 đến tháng 4-1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng bãi đá Gạc Ma, Châu Viên, Ga Ven, Ken Nan, Xu Ri thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đặc biệt, ngày 14-3-1988, tàu chiến Trung Quốc nổ súng tiến công hai tàu vận tải của ta ở bãi đá Gạc Ma, gây ra tình hình hết sức căng thẳng ở khu vực quần đảo Trường Sa. Trước những hoạt động gây hấn, lấn chiếm của tàu Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tăng cường củng cố các đơn vị, xây dựng trận địa vững chắc, kiên quyết bảo vệ quần đảo Trường Sa; đồng thời tự kiềm chế khi đối phương gây hấn, chủ động giảm dần cường độ xung đột.

Theo dõi diễn biến tình hình bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo, nhất là Trường Sa, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã mở đợt giáo dục tuyên truyền, sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn dân, toàn quân, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Những tháng cuối năm 1988, trên thế giới cũng như trong khu vực tiếp tục có những chuyển biến phức tạp. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đặt ra nhiều vấn đề mới, tác động đến nhận thức tư tưởng và tình hình chính trị, xã hội Việt Nam. Cuộc đấu tranh giai cấp trên thế giới tuy đã có một số thay đổi về hình thức nhưng bản chất không hề thay đổi. Các thế lực thù địch tuy đã thay đổi một số sách lược, nhưng chưa từ bỏ âm mưu phá hoại cách mạng nước ta.

Trong bối cảnh đó, ngày 30-11-1988, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị Một số vấn đề về công tác tư tưởng đối với bộ đội trong tình hình hiện tại, đề ra “yêu cầu biện pháp cụ thể để các cấp ủy và tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ chỉ huy, cán bộ và cơ quan chính trị nắm chắc và chỉ đạo công tác tư tưởng một cách chặt chẽ, chủ động, nhạy bén trong tất cả các cấp từ trên xuống các đơn vị cơ sở”(1).

Được sự chỉ đạo kịp thời của Tổng cục Chính trị, sự nỗ lực của các cấp ủy và cơ quan chính trị, chúng ta đã bảo đảm cho quân đội vững vàng về chính trị trong mọi thình huống diễn biến phức tạp, luôn thể hiện là công cụ sắc bén và trung thành, chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, luôn cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.

Từ ngày 20 đến ngày 29-3-1989, đã diễn ra Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI), kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và bàn phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới. Về quốc phòng, an ninh, Hội nghị đánh giá: “Đã điều chỉnh chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành nhiệm vụ trên các chiến trường, giảm quân số và bước đầu chấn chỉnh quân đội thường trực, tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân. Đã có những chuyển biến về công tác bảo vệ an ninh chính trị phù hợp với tình hình mới”(2). Về phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới, Hội nghị nêu rõ: Tiếp tục đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu nhằm đạt được mục tiêu chung là ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế, xã hội” và tạo thêm tiền đề để tiến lên. Đồng thời có kế hoạch củng cố tổ chức quốc phòng đất nước, nhất là ở các khu vực trọng điểm. Đẩy mạnh xây dựng và sớm hình thành thế trận chiến tranh nhân dân.

Trong hai năm 1989 và 1990, tình hình quốc tế tiếp tục có những diễn biến rất phức tạp. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu rơi vào cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng và tan rã, đã tác động trực tiếp về mặt nhận thức tư tưởng. Ở trong nước, tình hình chính trị, xã hội vẫn còn nhiều khó khăn trong bước chuyển cơ chế quản lý kinh tế; sản xuất công nghiệp đình trệ, nhiều lao động không có việc làm. Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc tập trung phá hoại về mặt tư tưởng, hòng gây chia rẽ, làm suy yếu Đảng ta và giảm lòng tin của nhân dân với Đảng.

Năm 1990, công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Đảng trong lực lượng vũ trang nhân dân thu được kết quả đáng kể. Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang và quân đội được khôi phục, bảo đảm nguyên tắc kỷ cương của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể, củng cố, nâng cao sự nhất trí đối với công cuộc đổi mới và đối với những quan điểm cơ bản trong đường lối quân sự của Đảng. Đây là thành tựu quan trọng trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội về mặt chính trị.

Có thể nói, từ năm 1986 đến năm 1990, theo tinh thần đổi mới của Đảng, quân và dân ta đã từng bước cụ thể hóa và triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, bước đầu góp phần tạo sự nhất trí về chính trị đối với các công việc đổi mới và chủ trương chuyển hướng chiến lược quốc phòng. Các hình thức sinh hoạt dân chủ, công khai được triển khai rộng rãi; đội ngũ cán bộ bước đầu đi vào quy hoạch theo quan điểm đối với của Đảng và được triển khai trong toàn quân đạt kết quả cao; đồng thời xác định đúng phương hướng, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang. Mọi cơ chế lãnh đạo, nguyên tắc sinh hoạt của Đảng được khôi phục và phát triển. Hệ thống tổ chức Đảng được củng cố một bước, được tăng cường trong các hoạt động thực tiễn. Đây la cơ sở quan trọng tạo điều kiện để đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo đường lối đổi mới của Đảng.


(1) Hồ sơ b4-56, tài liệu lưu tại Văn phòng Tổng cục Chính trị.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.466.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:50:19 pm
*
*   *

Quán triệt các nghị quyết của Đảng về đổi mới đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng từng bước điều chỉnh, sắp xếp lại lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh; đồng thời, triển khai xây dựng, bố trí vững chắc hơn thế trận phòng thủ đất nước, trọng tâm là xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong phạm vi cả nước.

Những vẫn đề cơ bản về nhiệm vụ của khu vực phòng thủ là xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc cả về chính trị, kinh tế, xã hội và quân sự, cả trong thời bình và khi chiến tranh xảy ra, bảo đảm đánh thắng kiểu chiến tranh nhiều mặt, kể cả tình huống xảy ra chiến tranh xâm lược quy mô lớn của địch. Nội dung cụ thể về xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố phải đạt được:

1- Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền biên giới, vùng biển, hải đảo, phát hiện và tiêu diệt địch thâm nhập, móc nối, cài cắm, gây cơ sở, đánh bại hành động phá hoại của địch, chủ động đối phó với các thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, kích động, khiêu khích và những hiện tượng xung đột bộ phận xảy ra trên biên giới và trên biển.

2- Chuẩn bị tốt mọi mặt cho thời chiến, sẵn sàng và chủ động chuyển địa phương từ trạng thái thời bình sang thời chiến nhanh nhất, đặc biệt là các huyện, thị biên giới, hải đảo, ven biển.

3- Kịp thời phát hiện kẻ địch chuẩn bị tiến công, không để bất ngờ, phải liên tục đánh tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Nếu địch yếu thì tiêu diệt, đánh bật chúng ra khỏi địa phương. Đánh địch thì kìm giữ, liên tục tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận, buộc chúng phải bị động chuyến phòng ngự, tạo điều kiện cho ta chuyển sang phản công, tiến công tiêu diệt chúng.

4- Xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, kịp thời phát hiện và xử trí đúng đắn mọi thủ đoạn phá hoại của địch, tiêu diệt các mầm mống cài cắm gây cơ sở của chúng. Khi xảy ra chiến tranh, phải kết hợp mọi hình thức, biện pháp đánh bại thủ đoạn lập ngụy quân, ngụy quyền của chúng.

5- Khi chiến tranh xảy ra, vừa chiến đấu vừa sản xuất, tích cực lấy trang bị vật chất hậu cần, kỹ thuật của địch để đánh địch.

6- Động viên sức người, sức của phục vụ tiền tuyến và làm nhiệm vụ chi viện theo kế hoạch được giao.

Đây là một chủ trương chiến lược quan trọng, xuất phát từ khả năng và phát huy thế mạnh của các tỉnh, thành phố trên từng địa phương nói riêng, trong thế chiến lược cả nước nói chung.

Xây dựng các khu vực phòng thủ là một chủ trương chiến lược nhằm cân bằng các lực lượng chiến lược theo đường lối quốc phòng toàn dân, quốc phòng toàn diện, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Thực hiện điều chỉnh chiến lược mới, Đảng và Nhà nước chủ trương giảm quân số, thu gọn các đơn vị chủ lực quân khu, quân đoàn, các quân, binh chủng để xây dựng thành các lực lượng cơ động phản công và tiến công bố trí trên các địa bàn chiến lược, chiến dịch. Rút kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh trước đây, trong khi sức cơ động và các phương tiện hiện đại của ta thường thấp so với địch thì việc tổ chức phòng thủ khu vực với các lực lượng quân sự, kinh tế, chính trị tại chỗ của từng tỉnh, thành phố, quận, huyện để tự bảo vệ địa phương mình là hết sức quan trọng.

Khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố còn là những bộ phận hợp thành của nền quốc phòng toàn dân, được xây dựng trên địa bàn tỉnh, thành phố, trong thế trận phòng thủ, thế trận chiến tranh nhân dân của từng quân khu và cả nước.

Ngày 2-1-1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 06-NQ/ĐUQSTW Về nhiệm vụ quân sự năm 1987. Nghị quyết nêu rõ: Có kế hoạch phòng thủ đất nước dài hạn, xây dựng kế hoạch tổ chức lực lượng vũ trang dài hạn đến năm 1990.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:50:45 pm
Tiếp theo Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, ngày 30-7-1987, Bộ Chính trị ra Quyết định số 02/BCT xác định nhiệm vụ quốc phòng đến năm 1990 và những năm tiếp theo: Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp cả nước, bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai là, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, tham gia xây dựng kinh tế. Ba là, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia. Thực hiện chủ trương về xây dựng hệ thống công trình quân sự, các đơn vị phối hợp với từng địa phương tập trung xây dựng công sự và đường hầm bằng bê tông lắp ghép, đáp ứng yêu cầu chiến đấu của các đơn vị phòng thủ.

Như vậy, ngay từ những năm đầu tiến hành sự nghiệp đổi mới, Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương đã ra những nghị quyết quan trọng nhằm xây dựng, bố trí vững chắc hơn thế trận phòng thủ đất nước.

Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, ngày 25-4-1988, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 44/CT-TM Về xây dựng công trình chiến đấu, nêu rõ: Các quân khu, binh chủng, các đơn vị lập quy hoạch xây dựng công trình phòng thủ dài hạn đến năm 2000. Thứ tự xây dựng tập trung trên hướng chủ yếu, khu vực chủ yếu, hải đảo, ven biển. Ưu tiên xây dựng công trình ở dải phòng ngự phía trước để bảo đảm thường xuyên sẵn sàng chiến đấu. Trong quá trình xây dựng khu vực phòng thủ phải xuất phát từ chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, phù hợp với điều kiện địa hình, địa chất, khí tượng thủy văn.

Cũng trong năm 1988, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ ở một số địa phương. Mục tiêu các cuộc diễn tập nằm nhằm chống bất ngờ, giành chủ động đánh địch, với tư tưởng làm chủ đất nước trong hoàn cảnh không có sự chi viện từ bên ngoài, phá chiến lược đánh mạnh, giải quyết nhanh, quân đông, vũ khí công nghệ cao, bằng lực lượng tại chỗ, truy bám, đánh địch khắp nơi, căng kéo buộc địch phải sa lầy, tạo thời gian để đất nước có điều kiện chuyển sang thời chiến, chuẩn bị lực lượng cơ động chủ lực đánh những trận then chốt quyết định.

Ngày 11-3-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị số 56/CT về xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập khu vực phòng thủ vững chắc. Cơ chế hoạt động của khu vực phòng thủ là: Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, chỉ huy trưởng quân sự thống nhất chỉ huy các lực lượng vũ trang; thành lập đảng ủy quân sự các tỉnh, thành phố, đồng chí bí thư tỉnh (thành) ủy làm bí thư đảng ủy quân sự, ủy viên là phó chủ tịch (sau thay là chủ tịch), giám đốc công an và một số đồng chí trong bộ chỉ huy quân sự. Nghị quyết cũng chỉ rõ: “Khi có chiến sự, đồng chí bí thư tỉnh (thành) ủy cùng chỉ huy trưởng quân sự địa phương chỉ huy quân và dân chiến đấu”. Dưới khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là các khu vực phòng thủ huyện (quận) trên cơ sở các làng xã, cụm xã chiến đấu, thành lập ban cán sự huyện (quận) do đồng chí bí thư huyện (quận) ủy làm bí thư, các ủy viên tương tự như cấp tỉnh, thành phố. Nơi nào có đại đội, tiểu đoàn bộ đội biên phòng thì thành lập đảng ủy quân sự huyện (quận).

Quán triệt chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đội đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố bước đầu đạt được kết quả đáng kể. Một số cuộc diễn tập, trọng tâm diễn tập khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố, huyện (quận), xã là đối phó với các hoạt động của chiến tranh xung đột cường độ thấp diễn ra đạt mục tiêu đề ra.

Từ năm 1990, trọng tâm diễn tập các khu vực phòng thủ đối phó với các tình huống đặc biệt được xác định rõ: Khu vực phòng thủ là thành công quốc phòng, an ninh ở địa phương, là nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, có chức năng bảo vệ lãnh thổ (đất, trời, biển) địa phương, bảo vệ chế độ, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân, bảo vệ tiềm lực mọi mặt của từng địa phương theo một cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy thống nhất. Nhiệm vụ cơ bản là: Xây dựng vững chắc về chính trị, kinh tế, xã hội, phát triển quân sự mạnh, tích lũy tiềm lực toàn diện cho địa phương và chi viện chung, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Về yêu cầu: Mỗi khu vực phòng thủ phải có khả năng thường xuyên, độc lập, tự chủ bảo vệ địa phương mình lâu dài trong thế trận chung; chủ động đánh địch ngay từ đầu, tiến công kiên quyết, bám trụ kiên cường, tiêu hao, tiêu diệt địch, phối hợp chặt chẽ với quân chủ lực.

Trên cơ sở chủ trương được xác định, ngày 9-1-1990, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 02/NQ Về nhiệm vụ lãnh đạo năm 1990, chỉ rõ: Công tác phòng thủ tác chiến phải thường xuyên theo dõi nắm chắc ý đồ, thủ đoạn và hành động của địch. Nghiên cứu, phổ biến cho toàn quân về chiến lược phá hoại toàn diện của địch trong tình hình mới và chủ trương đối phó của ta. Giúp Bộ xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ đạt hiệu quả cao và ít tốn kém.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:51:26 pm
*
*   *

Theo phương hướng của Bộ Quốc phòng đề ra, quân đội tiến hành kiện toàn tổ chức biên chế giảm quân số với quy mô lớn, nhằm thực hiện chấn chỉnh một bước cơ bản về tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, giảm quân số thường trực, đổi mới trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong những năm 1981-1985, quân đội phát triển lớn về tổ chức và quân số (chiếm 1,7% dân số). Công tác quản lý bộ đội và tổ chức biên chế chưa được chặt chẽ, quân số dư biên chế lớn, chất lượng chiến đấu hạn chế. Trên biên giới phía Bắc, ta bố trí lực lượng quá đông, thường tập trung sát vùng biên giới trên các dải phòng ngự phía trước. Trong khi đó, dải phòng ngự cơ bản chưa được củng cố đủ mạnh. Sự chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng bảo vệ biên giới gồm chủ lực của Bộ và các quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, bộ đội biên phòng, dân quân, du kích, tự vệ chưa chặt chẽ.

Thực hiện điều chỉnh thế chiến lược phòng thủ, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố theo chủ trương của Đảng, các lực lượng trên tuyến biên giới phía Bắc, nhất là chủ lực được lệnh rút dần về phía sau để củng cố, huấn luyện nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu.

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng thời triển khai thực hiện điều chỉnh lực lượng phù hợp với xu thế hòa bình, đối thoại trên thế giới và khu vực. Bộ Tổng tham mưu ban hành Chỉ lệnh số 98/CL-TM về Chấn chỉnh tổ chức quân đội năm 1987. Chỉ lệnh nêu rõ: “Trong năm 1987, tập trung chấn chỉnh tổ chức biên chế, hệ thống cơ quan, cơ sở bảo đảm, phục vụ các nhà trường hợp lý, gọn, mạnh. Điều chỉnh các lực lượng quân, binh chủng phù hợp với khả năng thực hiện trang bị kỹ thuật. Kiện toàn bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương ở các quân khu, tỉnh, huyện phía sau làm dự bị động viên. Kiện toàn tổ chức các đơn vị bộ đội địa phương, sẵn sàng chiến đấu ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc, những nơi cần thiết ở cá tỉnh thuộc Tây Nguyên và các đảo”(1).

Thực hiện Chỉ lệnh số 98/CL-TM của Bộ Tổng tham mưu trong 2 năm 1987 và 1988, toàn quân điều chuyển, hợp nhất 41 đơn vị cơ quan quân khu, quân đoàn và tổng cục, giải thể 71 đầu mối từ tiểu đoàn đến sư đoàn và tương đương, bổ sung giao nhiệm vụ cho 3 đơn vị, thành lập mới 17 đơn vị đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Toàn quân điều chỉnh tổ chức lực lượng theo quyết định của Bộ. Tất cả các đơn vị tích cực tập trung củng cố, kiện toàn các đơn vị chiến đấu, bảo đảm chiến đấu, các đơn vị rút gọn, các đơn vị khung dự bị động viên, các lực lượng chủ yếu của các quân, binh chủng. Tổng quân số các đơn vị so với quy hoạch của Bộ đạt hơn 90%.

Thực hiện chủ trương chấn chỉnh thế trận phòng thủ trên vùng biên giới phía Bắc, các lực lượng làm nhiệm vụ ở tuyến trước, trong đó có bộ đội chủ lực của Bộ và quân khu chuyển dần về phía sau. Để thống nhất chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng trên địa bàn đồng bằng Bắc Bộ và vùng Đông Bắc của Tổ quốc, tháng 8-1987, Đảng ủy Quân sự Trung ương quyết định hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh và Quân khu 3, thành lập Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ninh nhằm tăng cường hệ thống phòng thủ vùng đảo Quảng Ninh.

Nhằm tăng cường lực lượng bảo vệ tuyến trước, tháng 9-1987, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập 83 đồn biên phòng thuộc 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Tiếp đó, Thủ tướng chính phủ ra quyết định về phương thức bảo đảm phương tiện và vật chất cho bộ đội biên phòng như một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày 31-5-1988, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị chuyển giao lực lượng bộ đội biên phòng từ Bộ Quốc phòng sang Bộ Nội vụ. Chỉ thị nêu rõ: Việc chuyển giao phải đảm bảo tính liên tục trong xây dựng và chiến đấu nhằm tăng cường công tác biên phòng, xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới. Chấp hành Chỉ thị của ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hội đồng Bộ trưởng quyết định chuyển giao nhiệm vụ tổ chức biên chế, trang bị, cơ sở vật chất kỹ thuật của lực lượng bộ đội biên phòng từ Bộ Quốc phòng sang Bộ Nội vụ.

Trước tình hình biên giới phía Bắc dần ổn định, các lực lượng ở tuyến trước rút dần về tuyến sau để củng cố, tinh giản biên chế, điều chỉnh thế bố trí lực lượng, Bộ Quốc phòng quyết định rút Quân đoàn 14 và Quân đoàn 26 (Quân khu 1) về phía sau, đồng thời chuyển Quân đoàn 3 trực thuộc Bộ từ phía Bắc vào Tây Nguyên. Việc điều động Quân đoàn 3 vào Tây Nguyên nhằm bố trí lực lượng dự bị chiến lược phù hợp với thế trận bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đồng thời giảm bớt một phần về bảo đảm hậu cần các tỉnh biên giới phía Bắc cho lực lượng vũ trang.

Thực hiện chủ trương điều chỉnh tổ chức biên chế, giảm quân số, Bộ Quốc phòng quyết định gải thể một số quân đoàn và một số sư đoàn trực thuộc các quân khu; đồng thời, thực hiện giảm biên chế 20% quân số đối với các cơ quan trực thuộc Bộ. Năm 1989, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể 12 sư đoàn bộ binh, 1 lữ đoàn, 3 trung đoàn, 1 tiểu đoàn thuộc các quân khu, quân đoàn và tổng cục. Sau một thời gian thực hiện tinh giản tổ chức biên chế và quân số, đến cuối năm 1990, toàn quân giảm 64 vạn (chiếm 55% tổng quân số), Quân đoàn 14, Quân đoàn 26 (Quân khu 1), 5 mặt trận (379, 479, 579, 779, 979), 30 sư đoàn bộ binh, 18 tiểu đoàn bộ đội địa phương, 5 trung đoàn và 4 tiểu đoàn pháo binh.


(1) Hồ sơ B3, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:52:32 pm
Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, mặc dù quân số thu gọn nhưng các sư đoàn bộ binh trong biên chế của các quân đoàn vẫn duy trì tổ chức sư đoàn bộ binh mạnh. Các sư đoàn ở tuyến 1 luôn được củng cố và trang bị thêm nhiều vũ khí và khí tài mới. Một số sư đoàn bộ binh tiếp tục được xây dựng thành sư đoàn bộ binh cơ giới gồm nhiều thành phần binh chủng, trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, có khả năng cơ động cao, chiến đấu trên các địa hình thời tiết phức tạp như: Sư đoàn 308 (Quân đoàn 1), Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2), Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3). Ngày 14-7-1987, Bộ Tổng tham mưu ra Nghị quyết số 144/TG-TM điều Sư đoàn 303 thuộc Quân khu 3 về Quân đoàn 1 và Quyết định số 145/QĐ-TM điều Sư đoàn 353 thuộc Quân khu 1 về Quân đoàn 2 làm nhiệm vụ động viên.

Cùng với giảm quân số thường trực (kể cả chủ lực và địa phương), lực lượng dự bị và dân quân tự vệ cũng được chấn chỉnh hợp lý. Đối với lực lượng thường trực, quân số và đầu đơn vị giảm nhưng chất lượng quân đội yêu cầu cao hơn theo tinh thần gọn, mạnh. Vì thế, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng chú trọng xây dựng lực lượng dự bị và dân quân tự vệ, sẵn sàng bổ sung cho quân đội thường trực khi cần thiết.

Tháng 11-1987, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị: “Nhanh chóng củng cố, kiện toàn các khung đơn vị động viên. Mỗi đơn vị tỉnh, huyện cầu diễn tập chỉ huy tham mưu về động viên tối thiểu từ một đến hai lần. Tất cả các đơn vị động viên, kể cả bộ binh và binh chủng, sau khi được quy định địa bàn nhận người động viên, yêu cầu xác định biên chế và có kế hoạch tập trung người động viên”(1). Thực hiện Chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, về tổ chức lực lượng dự bị động viên bỏ cấp trung đoàn, sư đoàn, chỉ tổ chức cấp tiểu đội, trung đội và đại đội ở từng địa phương. Hằng năm, các trung tâm huấn luyện quân dự bị động viên tổ chức huấn luyện về quân sự trong một tháng.

Lực lượng dân quân tự vệ gồm 6 triệu người (chiếm 10,7% dân số cả nước), trong đó ở các tỉnh phía Bắc chiếm 12%, các tỉnh phía Nam chiếm 7,8%, riêng các tỉnh ở vùng biên giới phía Bắc chiếm 12,4%. Với chủ trương tinh giản biên chế, giảm quân số, ta đã giảm lực lượng dân quân tự vệ từ 6 triệu xuống còn 1.782.100 người (chiếm 2,8% dân số cả nước)(2). Ở các huyện biên giới phía Bắc, lực lượng dân quân tự vệ giảm, nhưng vẫn nhiều gấp hai lần so với các huyện khác. Các xã vùng trung du, đồng bằng ven biển vẫn tổ chức các đại đội dân quân cơ động, các cụm chiến đấu liên hoàn. Ở thành phố và các khu công nghiệp, lực lượng tự vệ phát triển mạnh. Năm 1987, lực lượng tự vệ cả nước có khoảng 1.503.000 người. Ở các nhà máy, hầm mỏ, nông, lâm trường, tự vệ được tổ chức thành các trung đoàn huấn luyện thường xuyên hằng năm. Nhìn chung, lực lượng dân quân tự vệ đã có bước phát triển đáng kể, hình thành khung sư đoàn động viên cần thiết khi xảy ra chiến tranh. Tuy nhiên, chất lượng chiến đấu của lực lượng này còn hạn chế, kết quả hoạt động ở các địa phương, đơn vị không đồng đều.

Theo kế hoạch kiện toàn cơ cấu tổ chức toàn quân, các học viện, nhà trường trong quân đội được chấn chỉnh, đổi mới phương pháp dạy và học phù hợp với tình hình mới. Mặc dù tổng quân số giảm nhưng nhu cầu đào tạo cán bộ quân đội vẫn lớn đòi hỏi chất lượng ngày càng cao. Tháng 5-1988, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết Về công tác nhà trường trong những năm 1988-1990 và những năm tiếp theo, trong đó xác định: Tiếp tục thực hiện cải cách giáo dục, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công tác nhà trường đi vào chiều sâu. Tập trung nâng cao chất lượng toàn diện và hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội có phẩm chất đạo đức tốt, vững vàng về chính trị, có trình độ năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và phong cách lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có độ tuổi vá sức khỏe phù hợp, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Thực hiện chủ trương củng cố kiện toàn hệ thống nhà trường quân đội, Bộ Tổng tham mưu quyết định sáp nhập Trường Sĩ quan Lục quân 3 và Trường Sĩ quan Lục quân 2, hợp nhất các trường 500, 600 và Đại học Ngoại ngữ quân sự, giải thể phân hiệu Học viện quân y Thành phố Hồ Chí Minh, sáp nhập Trường Văn hóa thuộc Quân khu Thủ đô và Trường Sĩ quan Lục quân 1. Đến cuối năm 1990, toàn quân có 6 học viện, 14 trường sĩ quan, một trường đại học, 2 trường trung cấp và 7 trường quân chính quân khu.

Sau một thời gian phấn đấu, đến cuối năm 1990, việc điều chỉnh lực lượng trong toàn quân đã đạt tỷ lệ tương đối hợp lý, Các quân khu, quân đoàn chuyển một bộ phận lực lượng sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, các quân binh chủng, bộ đội biên phòng, cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch, các viện nghiên cứu, hệ thống nhà trường đào tạo sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật, quân sự địa phương, các đoàn an dưỡng… tiếp tục chấn chỉnh theo hướng gọn, nhẹ, lấy chất lượng làm chính để phù hợp với yêu cầu tổ chức quân đội trong thời kỳ mới.


(1) Báo cáo công tác tổ chức lực lượng, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.
(2) Báo cáo về thực trạng các lực lượng vũ trang số 09/ĐUQSTW, hồ sơ B6/5, tài liệu lưu tại Văn phòng bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:52:59 pm
Một trong những nội dung quan trọng giai đoạn này được tập trung thực hiện là công tác huấn luyện, nâng cao trình độ và khả năng chiến đấu của bộ đội. Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng, công tác huấn luyện bộ đội từng bước đổi mới, nâng cao trình độ chính quy, hiện đại, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu làm thất bại mọi âm mưu, hành động chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch.

Về nội dung huấn luyện, Bộ Tổng tham mưu xác định từng bước đổi mới phù hợp với nghệ thuật quân sự và cách đánh truyền thống của ta, sát với đối tượng tác chiến chủ yếu đã được xác định, sát với chức năng, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động tác chiến của từng lực lượng, phù hợp với tổ chức, biên chế trang bị hiện có; bảo đảm cho các lực lượng vũ trang hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Tổ chức huấn luyện bộ đội giỏi tác chiến bằng vũ khí có trong biên chế, đồng thời giỏi tác chiến hiệp đồng khi được tăng cường binh khí kỹ thuật. Tập trung rèn luyện, nâng cao trình độ chiến đấu của phân đội và năng lực của cán bộ cơ sở lấy đại đội làm trọng điểm; từng bước nâng cao trình độ của cán bộ chỉ huy, cơ quan các cấp và trình độ tác chiến của bộ đội. Đi đôi với huấn luyện để sẵn sàng chiến đấu còn phải coi trọng huấn luyện những nội dung cần thiết phục vụ cho nhiệm vụ chống “diễn biến hòa bình”, giữ gìn an ninh của đất nước.

Nhằm tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo huấn luyện, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các cơ quan huấn luyện thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về công tác huấn luyện trong toàn quân. Yêu cầu quản lý, chỉ đạo được cả ba thứ quân: bộ đội chủ lực,, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, kể cả quân thường trực, dự bị động viên, cả bộ binh và quân binh chủng.

Từ những chủ trương đổi mới trên đây, cơ quan huấn luyện các cấp xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, phương thức quản lý, chỉ đạo huấn luyện các lực lượng, mối quan hệ với các cơ quan chức năng khác; đồng thời, từng bước bổ sung để hoàn chỉnh các chế độ cho phù hợp với việc huấn luyện, xây dựng quân đội chính quy.

Cuối năm 1986, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh về công tác huấn luyện chiến đấu năm 1977: Mỗi quân khu, quân đoàn, quân binh chủng phải chọn một trung đoàn làm điểm, cấp sư đoàn, lữ đoàn chọn một tiểu đoàn và tiểu đoàn chọn một đại đội làm điểm để đại biểu cho các đơn vị đến học tập thống nhất nội dung, phương pháp huấn luyện chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu khi có lệnh.

Tháng 1-1987, Bộ Tổng tham mưu mở Hội nghị huấn luyện quân sự toàn quân nghiên cứu, quát triệt Mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chỉ lệnh huấn luyện của Bộ Tổng tham mưu năm 1987. Trên cơ sở quán triệt những quan điểm mới của Đảng, công tác huấn luyện quân sự được đổi mới toàn diện về phương pháp, nhiệm vụ, nội dung, quản lý và điều hành… Huấn luyện sát với thực tế chiến đấu, sát với yêu cầu của từng lực lượng. Phương châm huấn luyện là: “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”. Nội dung huấn luyện phù hợp với nghệ thuật quân sự và cách đánh truyền thống của ta, sát với đối tượng tác chiến, với chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế, trang bị hiện có của quân đội. Huấn luyện bộ đội giỏi tác chiến hiệp đồng, tập trung rèn luyện, nâng cao trình độ chiến đấu của phân đội và năng lực của cán bộ cơ sở, lấy đại đội làm trọng điểm, từng bước nâng cao trình độ cán bộ chỉ huy, cơ quan các cấp và trình độ tác chiến của bộ đội.

Tháng 4-1987, Bộ Tổng tham mưu mở lớp tập huấn chiến thuật trung đội toàn quân nhằm nâng cao năng lực thực hành cho sĩ quan, hạ sĩ quan phân đội. Chiến sĩ và phân đội học các môn kỹ thuật bộ binh và chiến thuật từ cá nhân đến tiểu đoàn, lấy đại đội làm trọng điểm, làm cơ sở huấn luyện trong đội hình chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Đối với phân đội và trung đoàn, sư đoàn tập trung huấn luyện từng bước từ tác chiến bằng vũ khí trang bị trong biên chế đến tác chiến được tăng cường binh kỹ kỹ thuật, tác chiến trong điều kiện địch sử dụng vũ khí hóa học và tác chiến điện tử.

Trong mỗi giai đoạn, nội dung huấn luyện từng môn đượcbố trí gọn theo các hình thức chiến thuật. Giai đoạn 1 huấn luyện chiến thuật từ cá nhân đến đại đội; giai đoạn 2 huấn luyện tiểu đoàn và diễn tập chiến thuật trung đoàn, sư đoàn theo chương trình nội dung do Bộ quy định.

Ngày 31-7-1987, Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị sơ kết công tác huấn luyện giai đoạn 1 năm 1987, đánh giá thực chất mạnh yếu, bàn biện pháp khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện năm 1987. Hội nghị đề ra các biện pháp thiết thực là phải tranh thủ mọi điều kiện đảm bảo hoàn thành kế hoạch huấn luyện 6 tháng cuối năm 1987. Tập trung nâng cao trình độ của người chỉ huy và cơ quan, xây dựng vững chắc nhiều phân đội nhỏ có sức chiến đấu cao; đổi mới tổ chức, phương pháp huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ, gắn lý thuyết với thực hành, giáo dục với rèn luyện, kết hợp bãi tập với chiến trường.

Ngày 24-11-1987, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh về huấn luyện chiến đấu năm 1988, nêu rõ: Trong năm 1988, tập trung nghiên cứu và thống nhất quan điểm, cách đánh với biên chế, trang bị đã có. Các nội dung huấn luyện phải được tổ chức thí điểm ở một số đơn vị, sau đó rút kinh nghiệm và tổ chức tập huấn cho các sư đoàn trưởng để thống nhất huấn luyện cho toàn quân. Phải gắn lý luận với thực hành, lấy thực hành là chính theo cách đánh của ta và vận dụng những kinh nghiệm được đúc kết vào huấn luyện phù hợp với nhiệm vụ từng đơn vị. Huấn luyện nâng cao trình độ hiệp đồng quân, binh chủng, đồng thời chú trọng huấn luyện tác chiến hiệp đồng giữa các lực lượng, các thứ quân trong khu vực phòng thủ ở cấp tỉnh (thành), quận (huyện).


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:53:44 pm
Tiếp đó, ngày 3-2-1988, Bộ Tổng tham mưu triệu tập Hội nghị huấn luyện chiến đấu toàn quân năm 1988 tại Hà Nội. Hội nghị quán triệt tinh thần đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác huấn luyện năm 1987. Hội nghị cũng làm rõ nguyên nhân hạn chế chất lượng huấn luyện năm 1987 và đưa ra yêu cầu về huấn luyện trong năm 1988 là: “Bảo đảm cơ bản, hệ thống, toàn diện, chất lượng về kỹ thuật và chiến thuật cho từng người và từng phân đội nhỏ”(1).

Nhìn chung, những chỉ lệnh huấn luyện và những hội nghị về huấn luyện của Bộ Tổng tham mưu đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao khả năng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Cùng với các chỉ đạo đẩy mạnh công tác huấn luyện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 13-12-1988, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 116/CT-TM Về xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện theo năm yêu cầu và kết hợp thực hiện các chỉ thị xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tập trung vào những nội dung: Một là, tất cả cán bộ, chiến sĩ trong trung đoàn luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu, công tác. Quân số, vũ khí, trang bị luôn đủ; hai là, động tác chiến đấu của từng người và phân đội từ tiểu đội đến tiểu đoàn phải thuần thục, phù hợp với yêu cầu chiến thuật và đúng với nghệ thuật quân sự Việt Nam; ba là, khi huấn luyện và diễn tập, trung đoàn phải thể hiện được khả năng tổ chức, chỉ huy chiến đấu đúng chiến thuật và công tác tham mưu; bốn là, các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng và công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật được củng cố, kiện toàn, hoạt động đúng chắc năng, nhiệm vụ, chế độ quy định; năm là, bộ đội được rèn luyện kỷ luật nghiêm, sinh hoạt theo nền nếp chính quy của điều lệnh, có đời sống tinh thần lành mạnh.

Có thể nói, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện là một trong những biện pháp quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng của lực lượng vũ trang. Bộ Quốc phòng chủ trương phải đi từng bước vững chắc, trước hết phải xây dựng các trung đoàn bộ binh trong các sư đoàn bộ binh và các tiểu đoàn trong các lữ đoàn binh chủng vững mạnh toàn diện; sau đó mới xây dựng các sư đoàn bộ binh và các lữ đoàn binh chủng. Để thực hiện chủ trương này, Bộ Tổng tham mưu quyết định chọn Trung đoàn 165 (Sư đoàn 312, Quân đoàn 1) và Trung đoàn 95 (Sư đoàn 325, Quân đoàn 2) làm điểm xây dựng thành hai trung đoàn vững mạnh toàn diện để rút kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng các trung đoàn trong những năm tiếp theo. Các quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng cũng chọn đơn vị cấp trung đoàn (gồm 30 đơn vị kể cả chủ lực và địa phương) từng bước xây dựng thành trung đoàn vững mạnh theo 5 yêu cầu do Bộ đề ra.

Kết thúc mùa huấn luyện, các đơn vị tổ chức diễn tập thực binh đánh giá trình độ cán bộ chỉ huy và khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội. Trong năm 1988, Quân đoàn 2 tổ chức 48 cuộc diễn tập trên bản đồ và ngoài thực địa, Sư đoàn 325 và các trung đoàn thuộc sư đoàn diễn tập chiến thuật tiến công và phòng ngự ba lần đạt kết quả cao. Các đơn vị chủ lực thuộc Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 tổ chức diễn tập tham mưu cấp sư đoàn trong chiến dịch phòng ngự và chiến dịch tiến công trên địa bàn rừng núi. Từ ngày 22 đến ngày 27-11-1989, Quân đoàn 2 tổ chức tập huấn chiến dịch và diễn tập “Chiến dịch phản công quân địch ở địa hình rừng núi”. Đợt diễn tập bồi dưỡng người chỉ huy các cấp về nguyên tắc nghệ thuật chiến dịch phản công, thống nhất quy cách công tác tham mưu chiến dịch; đồng thời, rèn luyện nâng cao trình độ tổ chức, chuẩn bị chiến đấu và xử trí các tình huống.

Thời gian này, các Quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7 tổ chức cho bộ đội diễn tập thực nghiệm và diễn tập kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu theo các tình huống đề ra. Qua các cuộc diễn tập, trình độ và khả năng sử dụng binh khí chiến đấu hiện đại của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên. Trong 2 năm 1989-1990, toàn quân tổ chức được 12.896 cuộc diễn tập, gồm diễn tập cơ quan tham mưu chiến lược, diễn tập cơ quan tham mưu hai cấp, diễn tập chỉ huy và tham mưu ba cấp. Kết quả các cuộc diễn tập khẳng định sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị trong toàn quân đã được nâng lên một bước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Quán triệt phương châm huấn luyện sát với thực tế chiến đấu, tháng 8-1987, Bộ điều Sư đoàn 312 (Quân đoàn 1) lên Vị Xuyên (Hà Giang) thay phiên Sư đoàn 356 (Quân khu 2) tổ chức phòng ngự bảo vệ chủ quyền biên giới Tổ quốc. Sư đoàn 312 nhận nhiệm vụ phòng ngự ở tuyến giáp với quân địch. Mọi sinh hoạt của bộ đội đều ở dưới lòng đất, có trận địa chỉ cách biên giới 10 mét, thường bị chúng bắn phá, khiêu kích. Để giữ gìn lực lượng chiến đấu lâu dài, các đơn vị thực hiện phòng ngự ở phía trước; đồng thời, cứ 10 đến 15 ngày luân phiên về phía sau huấn luyện, bổ sung quân số, trang bị, lương thực… Tháng 4-1988, Bộ Quốc phòng điều Sư đoàn 325 (Quân đoàn 2) lên thay thế, Sư đoàn 312 trở về đội hình Quân đoàn 1.

Sư đoàn 325 cùng với các đơn vị phối thuộc khắc phục khó khăn, gian khổ, xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc và hoàn thiện các phương án tác chiến. Hoàn thành nhiệm vụ phòng ngự chiến đấu, tháng 11-1988, Sư đoàn 325 bàn giao trận địa phòng ngự cho đơn vị bạn và tổ chức hành quân về đội hình Quân đoàn 2. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm chiến đấu của các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu ở Vị Xuyên, Bộ Tổng tham mưu bổ sung nội dung huấn luyện bộ đội sát với thực tế chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.714.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:54:38 pm
*
*   *

Trong khi quân và dân ta thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc trên một số khu vực ở biên giới phía bắc, thì một bộ phận quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia.

Bước sang năm 1986, cùng với các đợt hoạt động truy quét địch ở biên giới và nội địa, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, ta chú trọng giúp bạn xây dựng một số binh chủng nhằm tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội bạn. Ngày 9-1-1986, Bộ Quốc phòng Việt Nam trao đổi Nghị định thư với Bộ Quốc phòng Campuchia về việc giúp bạn xây dựng lực lượng phòng không, không quân và hàng không dân dụng. Ngày 31-3, Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định giúp Campuchia xây dựng trung đoàn bộ binh cơ giới và tiểu đoàn xe tăng. Đây là bước phát triển quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của quân đội cách mạng Campuchia trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng với đầy đủ các binh chủng hợp thành.

Năm 1986, việc huấn luyện của ta và bạn trên chiến trường Campuchia được duy trì chặt chẽ. Các đơn vị phía trước và phía sau luân phiên huấn luyện, chiến đấu. Các nội dung huấn luyện và tác chiến hiệp đồng binh chủng được cả ta và bạn chú trọng. Yêu cầu huấn luyện cho bạn làm chủ vũ khí trang bị thu hút nhiều công sức của cán bộ chuyên gia Việt Nam. Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong ngôn ngữ giao tiếp, đội ngũ chuyên môn kỹ thuật chuyên gia Việt Nam với tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với công việc đã cơ bản giúp bạn hiểu tính năng và sử dụng thành thạo các trang bị kỹ thuật trong biên chế.

Mùa mưa năm 1986, do lực lượng địch suy yếu và phân tán hoạt động lẻ tẻ, ta và bạn tiếp tục đi sâu vận động nhân dân bóc gỡ ngầm làm trong sạch địa bàn, củng cố xây dựng cơ sở theo phương hướng nâng cao chất lượng cán bộ và hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở. Ở biên giới, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện chủ trương: xây dựng và bổ sung lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia để cuối năm 1986, bạn làm chủ được tuyến 1 và hoàn thành tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan. Mặc dù địch chống phá điên cuống và do thời tiết rất khắc nghiệt, cán bộ, chiến sĩ ta cùng với bạn hoàn thành công trình phòng thủ biên giới, đào đắp công sự, trận địa trên tuyến biên giới dài gần 200km, góp phần ngăn chặn hoạt động của địch từ ngoài biên giới vào nội địa. Trong năm 1986, trên hai mặt trận 479 và 779, ta và bạn tổ chức hoạt động 1.043 lần, loại khỏi chiến đấu 6.358 tên địch, thu 3.366 súng các loại. Ở mặt trận 579 và 979, ta cơ bản hoàn thành các kế hoạch truy quét, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giúp các lực lượng vũ trang Campuchia củng cố phát triển lực lượng, bảo vệ thành quả cách mạng.

Năm 1987, so sánh lực lượng giữa ta và địch có những thay đổi cơ bản ngày càng có lợi cho các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia. Chính quyền cách mạng được xây dựng ở phum, xã tương đối vững chắc. Ở nhiều nơi, chính quyền cơ sở của bạn tự đảm nhiệm điều hành được công việc xã hội. Tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan cơ bản hoàn thành, góp phần ngăn chặn sự thâm nhập của địch từ biên giới vào nội địa. Lực lượng vũ trang ba thứ quân của bạn đã trưởng thành, thực hiện các nhiệm vụ tác chiến với nhiều trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao. Đánh giá về sự hồi sinh và phát triển của Campuchia, đặc biệt là trong hai năm 1986-1987, Tổng Bí thư Hêng Xom Rin, nêu rõ: “Lực lượng vũ trang Campuchia ở biên giới ngày càng có kinh nghiệm và năng lực tiến lên làm chủ bảo vệ một phần biên giới trong thế hợp tác chặt chẽ với bộ đội Việt Nam giúp đỡ phối hợp chiến đấu khi tình hình cần thiết. Trong nội địa phong trào dân quân du kích đánh địch ở xã ấp tiếp tục phát triển, ở một số nơi lực lượng dân quân cùng với đại đội hai chức năng tiến lên đảm đương nhiệm vụ bảo vệ cơ sở, tạo điều kiện khi bộ đội tỉnh phối hợp với bộ đội Việt Nam cơ động đánh địch. Số đơn vị dám đánh địch tăng lên một mức, đến nay ta đã củng cố 62% đại đội hai chức năng, 30% dân quân xã và 20% dân quân ấp, đánh địch thu được kết quả tốt. Kết quả cụ thể trong chiến đấu đến cuối năm 1987 thì lực lượng vũ trang Campuchia và nhân dân đã loại quân địch ra khỏi vòng chiến đấu là 43%, tiêu diệt địch 30%, bắt sống địch 67 %, thu vũ khí 55% của kết quả chung của cả lực lượng Campuchia và Việt Nam”. Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: Trong quá khứ cũng như hiện tại và trong tương lại, liên minh chiến đấu Campuchia - Việt Nam, Campuchia - Việt Nam - Lào được chứng minh rõ ràng đây là nhân tố phát triển và là nhân tố sống còn của cách mạng Campuchia, cũng như cách mạng ba nước Đông Dương”(1).


(1) Phát biểu của Tổng Bí thư Hêng Xom Rin tại Hội nghị chuyên gia Việt Nam được tổ chức tại Thủ đô Phnôm Pênh ngày 15-1-1988, tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông 34, Đơn vị bảo quản số 508, tr.2-3.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:55:59 pm
Về phía cách mạng Việt Nam, thực hiện chủ trương “tiếp tụ rút Quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, đồng thời sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên để đi đến một giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia…”(1), sau đợt hoạt động mùa khô 1986-1987 thắng lợi, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuhia xác định nhiệm vụ trong mùa mưa 1987: “Phấn đấu thực hiện yêu cầu của bốn vấn đề mấu chốt trong Nghị quyết số 125/BCS719, tổ chức thực hiện kiên quyết, khẩn trương chặt chẽ để đạt kết quả cao nhất. Tích cực tiêu diệt và làm tan rã những bộ phận quan trọng của địch. Làm địch suy yếu nhanh hơn, bạn trưởng thành nhanh, chất lượng vững. mạnh dạn phát huy vai trò làm chủ của bạn, tạo mọi điều kiện để bạn tự điều hành công việc tác chiến, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở qua đó để bạn trưởng thành nhanh hơn”(2).

Theo chủ trương đó, ta tạo mọi điều kiện để bạn chủ động tác chiến, đồng thời bàn giao một số địa bàn để bạn tự bảo vệ. Các đại đội hai chức năng do ta huấn luyện cho bạn ban đầu ta là chủ yếu (ta 2, bạn 1), dần dần bạn đảm nhiệm là chủ yếu (ta 1, bạn 2), có nơi ta 1, bạn 3 hoặc 4. Nhiều đo hai chức năng do bạn chỉ huy trưởng thành trong tác chiến bảo vệ địa bàn.

Ngày 11-10-1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Campuchia ra Thông báo về việc rút một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Theo đó, tháng 12-1987, ta tiếp tục rút đợt 6 quân tình nguyện Việt Nam về nước gồm Binh đoàn 94 (Sư đoàn 9, Quân đoàn 4), Lữ đoàn 4 (Lữ đoàn 550 công binh, Quân đoàn 4), Trung đoàn 259 (Bộ Tư lệnh Công binh), Tiểu đoàn 1 thiết giáp, Lữ đoàn 726 (Mặt trận 479) và 1 sư đoàn thuộc Mặt trận 979. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam được chuẩn bị chu đáo đã tổ chức cuộc hành quân về nước an toàn.

Lợi dụng Việt Nam rút quân tình nguyện về nước, những tháng đầu năm 1988, địch ráo riết đưa chủ lực vào nội địa. Pôn Pốt dự định đưa 90% quân số vào nội địa tăng cường hoạt động nhằm tích cực giành dân, xây dựng chính quyền hai mặt. chúng đề ra chỉ tiêu “Lật đổ 2, xây dựng 4”, đến tháng 4-1988 phải giành được 60 đến 70% số phum, phát triển 20% đến 30% lực lượng du kích mật trong các xã. Thế nhưng, do lực lượng có hạn, mùa khô 1987-1988, địch chỉ tổ chức được các hoạt động nhỏ lẻ phần lớn là các vụ bắt cóc, khủng bố(3).

Trên cơ sở nhận định địch đã suy yếu, chúng không có khả năng đánh hiệp đồng binh chủng, khả năng huy động nguồn viện trợ từ bên ngoài vào có hạn, không có dự bị chiến lược, bạn đã đủ điều kiện để tự đảm đương nhiệm vụ bảo vệ địa bàn, nếu ta rút quân một cách thích hợp thì địch không có đủ khả năng làm thay đổi cục diện chiến trường, tháng 4-1986, Đảng ủy Quân sự Trung ương họp xác định trong hai năm 1988 và 1989, tiếp tục rút quân tình nguyện Việt Nam về nước, đồng thời thay đổi tổ chức, phương thức giúp bạn. Sau khi điều chỉnh lại lực lượng trên các mặt trận, ta bắt đầu giải thể các đoàn quân sự và thành lập các đoàn chuyên gia giúp bạn với lực lượng gọn nhẹ bao gồm đầy đủ các thành phần trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, giáo dục, y tế, nông nghiệp và công thương nghiệp.

Ngày 10-5-1988, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thay mặt Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gửi thư động viên quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, khẳng định: “Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế của mình sẽ trở về nước”. Đồng chí Tổng Bí thư căn dặn: “Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia phải tập trung Việt Nam tại Campuchia phải tập trung những cố gắng cao nhất, tận tâm, tận lực giúp bạn và cùng bạn chiến đấu giành thắng lợi quyết định trong thực hiện ba mục tiêu chiến lược mà Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã đề ra”(4).

Ngày 21-5-1988, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 39-CT/TW hướng dẫn thực hiên Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia. Trên cơ sở đánh giá tình hình chiến trường Campuchia, những nhân tố mới thể hiện sự vươn lên của cách mạng và nhân dân Campuchia. Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đẩy nhanh tiến độ rút quân tình nguyện và chuyên gia quân sự về nước. Bộ Chính trị giao trách nhiệm cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức thực hiện quyết định này.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.108.
(2) Nghị quyết số 42A/BCS 719, ngày 21-4-1987, tài liệu lưu tại Văn phòng Quân khu 7.
(3) Từ tháng 1 đến tháng 5-1988, trên địa bàn Mặt trận 479 và 779, địch bắt 873 người, trong đó có 279 cán bộ phum, xã, tổ sản xuất, giết 29 người (có 7 cán bộ xã). Ở mặt trận 979, địch thực hiện 232 vụ bắt cóc, giảm 22 vụ so với cùng kỳ năm 1987.
(4) Thư của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gửi quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, tài liệu lưu tại Thư viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:56:40 pm
Chấp hành Chỉ thị của Bộ Chính trị, ngày 26-5-1988, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra Thông báo về việc rút hết quân tình nguyện Việt Nam ra khỏi Campuchia trong năm 1989, sớm hơn một năm (trước dự kiến đến năm 1990) so với thỏa thuận tháng 8-1985 giữa Cộng hòa nhân dân Campuchia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Để thực hiện quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quyết tâm tại Campuchia, ngày 23-6-1988, Hội đồng Nhà nước quyết định tặng thưởng Huân chương Sao Vàng cho quân tình nguyện Việt Nam đã làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia về nước. Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăngco cho Bộ Tư lệnh quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam.

Ngày 30-6-1988, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố rút quân tình nguyện và chuyên gia quân sự đợt thứ 7 về nước gồm: Bộ Tư lệnh quân tình nguyện, bộ tư lệnh các mặt trận, các đoàn chuyên gia quân sự với tổng số 50.000 quân, hơn 200 xe tăng, xe thiết giáp và 150 khẩu pháo các loại.

Quân tình nguyện và một bộ phận chuyên gia quân sự Việt Nam còn ở lại Campuchia tập trung mọi nỗ lực cao nhất, giúp bạn và cùng bạn chiến đấu, quyết tâm giành thắng lợi quyết định trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược mà Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đã đề ra.

Cùng với hoạt động truy quét địch, ta tiếp tục giúp bạn xây dựng lực lượng và củng cố chính quyền. Đến tháng 9-1989, ta đã giúp bạn xây dựng được 8 sư đoàn, 3 lữ đoàn, 13 trung đoàn, 66 tiểu đoàn, 219 đại đội với khoảng 90.000 quân chiến đấu tập trung (gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tỉnh và huyện) và hơn 200.000 dân quân tự vệ. Trên cơ sở lực lượng vũ trang vững mạnh, cơ sở chính quyền cách mạng ở các địa phương được củng cố vững chắc ở 100% huyện, tỉnh, 90% phum, xã. Cuộc cống của nhân dân Campuchia từ thành thị đến nông thôn được cải thiện rõ rệt.

Từ ngày 21 đến ngày 26-9-1989, trong sự lưu luyến tiễn đưa của nhân dân Campuchia, toàn bộ quân tỉnh nguyện Việt Nam lần lượt rút quân về nước. Đây là đợt rút quân cuối cùng gồm những bộ phận thu dung của bốn Mặt trận (479, 579, 779, 979) và các đơn vị còn lại của hai Sư đoàn bộ binh 330 và 302, Đoàn 5 Hải quân, Trung đoàn căn cứ không quân 901, một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị bảo đảm, kết thúc vẻ vang 10 năm thực hiện nhiệm vụ quốc tế của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Campuchia.

Như vậy đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và nhân dân Campuchia, từ năm 1979, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở cuộc phản công và tiến công thần tốc giải phóng hoàn toàn đất nước Campuchia, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Ghi nhận sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam, Quốc vương Xihanúc đã trịnh trọng tuyên bố: “Nếu họ (Việt Nam) không đánh đuổi bọn Pôn Pốt thì tất cả mọi người (Campuchia) có thể sẽ bị chết. Không chỉ riêng tôi mà là mọi người. Chúng (Khơme đỏ) đã có thể giết chết tất cả chúng ta. Ít nhất thì chúng ta đã được sống sót và chính vì điều này mà chúng ta có thể nói rằng Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đã không mắc sai lầm khi đề nghị Việt Nam giúp đỡ chống lại Khơme đỏ. Bởi vì nếu chúng ta không được giải phóng khỏi bọn Pôn Pốt thì toàn dân tộc Campuchia có thể bị tiêu diệt”(1).

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam luôn kề vai sát cánh cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia chiến đấu bảo vệ chính quyền cách mạng, giúp đỡ nhân dân phục hồi sản xuất ổn định đời sống. Ở mọi công việc và trên bất kỳ lĩnh vực nào, cán bộ, chiến sĩ Việt Nam đều nêu cao tinh thần đoàn kết tôn trọng bạn, hết lòng giúp đỡ để bạn nhanh chóng trưởng thành. Đó là sự giúp đỡ tích cực, có hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của hai dân tộc.

Sau khi giúp nhân dân Campuchia củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam rút về nước để nhân dân và lực lượng vũ trang Campuchia tự bảo vệ thành quả cách mạng và quyết định tương lai của đất nước mình. Một lần nữa, được Đảng, Nhà nước giao, một bộ phận Quân đội nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, góp phần tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và xây dựng,bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân mỗi nước.


(1) Phát biểu của Quốc vương Xihahúc trên Đài Truyền hình Quốc gia Campuchia, báo Nhân dân, ngày 9-9-1995.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:57:38 pm
Đồng thời với việc hoàn thành nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Campuchia, quân và dân Việt Nam tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ủy Quân sự Trung ương xác định phương hướng, nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào cả trước mắt và lâu dài cho các quân khu và các địa phương qua hai giai đoạn cụ thể:

Giai đoạn 1, từ năm 1986 đến năm 1987, ta giúp bạn truy quét địch, giải phóng dân, thu phục phỉ, làm cho địch suy yếu, thất bại. Cùng bạn vận động quần chúng xây dựng cơ sở bản, xã vững mạnh theo phương châm 4 mặt và thực hiện 5 chương trình công tác của bạn(1). Từ đó, bạn mạnh lên từng mặt, tự đảm đương được nhiệm vụ. Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện điều chỉnh lớn về chiến lược quốc phòng, rút hết quân tình nguyện tại Lào về nước.

Giai đoạn 2, từ năm 1988 trở đi, thực hiện nhiệm vụ quốc tế với phương thức mới, tăng cường hợp tác giúp đỡ bạn toàn diện, xây dựng lực lượng và phương án sẵn sàng cơ động khi có tình huống xảy ra. Phối hợp tiêu diệt bọn phản động lưu vong xâm nhập. Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng, cùng các tỉnh bạn xây dựng tuyến biên giới hữu nghị, đồng thời, xây dựng hậu phương chiến lược, căn cứ địa cách mạng chung của hai nước thành bàn đạp tiến công trên hai hướng chiến lược Đông và Tây.

Theo phương hướng đó, các đơn vị tình nguyện Việt Nam tại Lào đẩy mạnh hoạt động, tìm phương thức đánh địch hiệu quả. Ta phối hợp với bạn chống xâm nhập, truy quét phỉ, phá nhiều căn cứ của chúng ở các vùng giáp ranh Xiêng Khoảng, Luông Pha Băng, Viêng Chăn, Bô Li Khăm Xay, đồng thời, xây dựng nhiều cơ sở ở các tỉnh đó. Thủ đô Viêng Chăn và khu vực Nam, Bắc đường số 9 ngày càng ổn định. Trong khi đó, các phân đội trinh sát biên phòng Thanh Hóa, Nghệ An giúp tỉnh kết nghĩa Hủa Phăn, Xiêng Khoảng đánh địch, xây dựng cơ sở và tuyến biên giới hữu nghị an toàn, làm chủ hiệu quả. Ở Viêng Chăn, ta và bạn phối hợp diễn tập chỉ huy tham mưu trên bản đồ “Chống địch tập kích bạo loạn vào thành phố Viêng Chăn” đạt kết quả tốt.

Cùng thời gian này, công trường hợp tác khai thác gỗ xuất khẩu của Quân khu 4 và Trung đoàn công binh 414 giúp bạn xây dựng, hoàn thành con đường từ Nậm Niên đến Nam Nậm Thiên dài 19km (tuyến Lạc Xao - Nhom Ma Lạt), đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của bạn. Trên cơ sở đó, bạn có điều kiện tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng địa bàn và khu hậu phương chiến lược Lạc Xao.

Sau những thất bại nặng nề, các thế lực thù địch điều chỉnh sách lược và thay đổi phương thức hoạt động chống phá cách mạng Lào. Mỹ và Thái Lan cùng các lực lượng phản động tiếp tục gây áp lực thông qua đường viện trợ kinh tế đầu tư của nước ngoài, thực hiện “diễn biến hòa bình”, hòng gây chia rẽ các nước Đông Dương; đồng thời, tăng cường hoạt động của bọn phản động lưu vong, tìm cách khôi phục các ổ phỉ, căn cứ lõm, xây dựng cơ sở ngầm, dùng lực lượng luồn sâu phục kích, tập kích các hành lang, mục tiêu quan trọng, ra sức lợi dụng các mối quan hệ đồng dạng Thái - Lào, hòng lôi kéo Lào ngả sang phía “Tây”, xa dần phía “Đông”.

Trước tình hình đó, ngày 3-10-1986, thực hiện đường lối đối ngoại của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Thường vụ Đảng ủy Quân khu 4 ra Chỉ thị số 184-CT/ĐU Về nhiệm vụ hoạt động mùa khô ở Lào 1986-1987, nêu rõ: Lực lượng quân tình nguyện và làm kinh tế, quốc phòng của Quân khu nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của địch, đẩy mạnh hoạt động trong cả mùa khô và mùa mưa, giúp bạn xây dựng cơ sở trên địa bàn rộng hơn.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ giúp bạn, các đơn vị Quân khu 4 đẩy mạnh đánh địch ở nội địa, phá các cụm phỉ ở Mường Ca Xỉ, Phu Ma Thao; đồng thời, tích cực tham gia xây dựng các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, lực lượng du kích, an ninh và giúp bạn huấn luyện lực lượng vũ trang.

Hoạt động nổi bật trong thời gian này là quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bạn ở Trung và Hạ Lào cùng lực lượng nội địa của ta (Quân khu 5 và Quân khu 4 giúp bạn trên hướng A Lưới, Hướng Hóa - Bình Trị Thiên) chặn đánh, vây bắt, tiêu diệt lực lượng lớn bọn phản động lưu vong do Hoàng Cơ Minh, trực tiếp chỉ huy từ Thái Lan qua Lào về chống phá Việt Nam. Kết thúc chiến dịch, ta và bạn tiêu diệt và bắt hơn 100 tên, trong đó Hoàng Cơ Minh và Bộ Tham mưu của chúng bị diệt ngay trên đất bạn. Chiến công này có sự giúp đỡ hết lòng của bạn, đã thường xuyên phối hợp với quân tình nguyện và các địa phương vùng biên giới, góp phần “triệt phá” âm mưu câu kết giữa bọn động Nam Đông Dương năm 1987 gồm Võ Đại Tôn, Nguyễn Văn Thanh, Hoàng Cơ Minh và bọn phản động ở Lào và Campuchia.

Sau nhiều năm phối hợp hoạt động với quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Lào phát triển, trưởng thành, từng bước đảm nhiệm được nhiệm vụ phòng thủ đất nước, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch. Theo sự thỏa thuận giữa Trung ương Đảng, Chính phủ hai nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại bộ phận quân tình nguyện Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào lần lượt rút về nước từ cuối năm 1987.

Theo kế hoạch, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Lào thống nhất điều chỉnh, bố trí lại lực lượng quân tình nguyện Việt Nam. Theo đó, phần lớn lực lượng quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, chỉ để lại 3 trung đoàn hỗ trợ cho bạn thêm một thời gian., Quân khu 2 có 1 trung đoàn hoạt động ở Mường Sài (Bắc Lào); Quân khu 4 có Trung đoàn 1 (Sư đoàn 324) hoạt động ở lại Vàng Viêng (Viêng Chăn), Trung đoàn 830 (Trung đoàn 968) ở Pha Lan, Đồng Hến (Trung Lào).

Trước khi chuyển quân đến các địa bàn hoạt động, các đơn vị quân tình nguyện tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực như: quy tập, cất bốc hài cốt các liệt sĩ đưa về nước, số còn lại bàn giao cho các đội quy tập chuyển về sau. Cuối năm 1988, Trung đoàn 1 (Sư đoàn 324) và Trung đoàn 830 (Sư đoàn 968) hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Lào rút quân về nước.

Có thể khẳng định, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam sang giúp cách mạng Lào đã thể hiện ý chí chiến đấu và trách nhiệm chính trị cao, vượt mọi khó khăn gian khổ vì nghĩa vụ quốc tế cao cả, kiên quyết, mưu trí hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, vận động quần chúng xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng và kinh tế đời sống giúp bạn, chấp hành tốt kỷ luật chiến đấu, chính sách quốc tế của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh giá về vị trí, vai trò của quân tình nguyện Việt Nam đối với nhân dân các bộ tộc Lào, Bộ Quốc phòng Lào nhấn mạnh: “Quân tình nguyện Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, đóng góp tích cực vào việc đập tan âm mưu gây bạo loạn lật đổ ở Lào khi chính quyền mới ra đời năm 1976-1977, vào việc giữ gìn trật tự an ninh, chống phá các hoạt động phá hoại nhiều mặt của địch. Đồng thời, quân tình nguyện cũng đã có nhiều cố gắng tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa ở các địa bàn mình phụ trách trong những năm 1986-1990”(2).


(1) Phương châm 4 mặt: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. 5 chương trình công tác: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, giao thông vận tải và xây dựng con người.
(2) Báo cáo tổng kết công tác giúp Lào từ năm 1986-1990, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phòng Quân ủy Trung ương, hồ sơ số 1012.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:58:08 pm
*
*   *

Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, sản xuất chưa phát triển; ngân sách nhà nước bội chi lớn nên chưa thể đáp ứng kịp thời nhu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; đồng thời, nguồn viện trợ ở nước ngoài không còn nữa. Trước tình hình đó. Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương xác định lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân phải thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ: Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu; tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ rất quan trọng.

Trên lĩnh vực tham gia phát triển kinh tế, ngày 11-11-1987, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 1706/CT-QP về Nhiệm vụ lao động sản xuất và tham gia xây dựng kinh tế của quân đội trong tình hình mới. Chỉ thị nêu rõ: Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu của quân đội, do đó cần phải tập trung xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Mặt khác, quân đội có nhiệm vụ tham gia xây dựng kinh tế, làm ra của cải vật chất cho xã hội và tự giải quyết một phần nhu cầu của quân đội theo đúng chính sách, phát luật của Nhà nước.

Chấp hành Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Chỉ thị của Bộ Quốc phòng, toàn quân tổ chức lại việc xây dựng kinh tế, chấn chỉnh việc sản xuất, làm kinh tế của các đơn vị thường trực. Nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo các cơ sở quốc phòng và cơ sở kinh tế toàn quân, ngày 3-3-1989, Đảng ủy Quân sự Trung ương quyết định thành lập Tổng cục Công nghiệp và Kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng trên cơ sở sáp nhập Cục Kế hoạch kinh tế và Cục Quản lý xí nghiệp thuộc Tổng cục Kỹ thuật, có nhiệm vụ: Quản lý các cơ sở sản xuất quốc phòng và cơ sở kinh tế toàn quân, giúp Bộ làm tham mưu cho Nhà nước về động viên công nghiệp phục vụ quốc phòng. Chủ nhiệm Tổng cục đầu tiên là đồng chí Thiếu tướng Phan Thu.

Cũng trong tháng 3-1989, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định cho phép thành lập các tổng công ty, công ty, liên hiệp xí nghiệp sản xuất kinh doanh thuộc Bộ Quốc phòng, gồm Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12), Tổng Công ty miền Trung (Binh đoàn 15), Tổng Công ty miền Đông (các đơn vị kinh tế thuộc Quân khu 7), Tổng Công ty miền Tây (các đơn vị kinh tế thuộc Quân khu 9), các Liên hiệp khoa học sản xuất 1, 2, 3, và Công ty Hải sản Biển Đông (các đơn vị kinh tế của Quân chủng Hải quân).

Việc tăng cường điều chỉnh, sắp xếp lại các doanh nghiệp theo hướng hạch toán, hiệu quả, thiết thực là một yêu cầu tất yếu của đất nước. Công tác xây dựng tổ chức lực lượng quân đội làm kinh tế đã góp phần tinh giản được biên chế, chọn được mô hình tổ chức ngày càng thích hợp, hoạt động có hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, giữ được đội ngũ cán bộ và công nhân có tay nghề cao. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với lực lượng tham gia xây dựng kinh tế, phù hợp với các chính sách kinh tế của Nhà nước và những đặc điểm riêng của nhiệm vụ các đơn vị xây dựng kinh tế của quân đội.

Đến năm 1990, toàn quân có 16 tổng công ty và công ty trực thuộc các tổng cục, quân khu và quân binh chủng; 32 xí nghiệp công nghiệp sản xuất quốc phòng và hàng dân dụng thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế; 5 liên hiệp các xí nghiệp thuộc Tổng cục Hậu cần. Các tổ chức này là những đơn vị sản xuất kinh doanh, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập. Trên cơ sở lực lượng làm kinh tế được tổ chức lại, nhiệm vụ làm kinh tế của quân đội ngày càng đẩy mạnh và đạt hiệu quả cao.

Xuất phát từ quan điểm chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, từ năm 1986 đến năm 1990, Đảng, Nhà nước và quân đội thực hiện một cuộc điều chỉnh chiến lược lớn, bố trí lại lực lượng trên phạm vi cả nước, tạo thế phòng thủ hợp lý, nhất là tăng cường phòng thủ ở các khu vực trọng điểm, từng bước xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, rút quân tình nguyện ở Campuchia về nước; đồng thời, thực hiện chấn chỉnh một bước cơ bản tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, giao hơn 60 vạn quân thường trực, nâng cao chất lượng tổng hợp của quân đội, trước hết là về mặt chính trị, bảo đảm cho quân đội vững vàng kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc. Đó là cơ sở quan trọng tạo điều kiện thuận lợi để quân đội xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước chủ trương chuyển một số đơn vị quân đội đang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu sang làm kinh tế, đồng thời, chuyển giao một số cơ sở kinh tế của quân đội cho Nhà nước quản lý, điều hành. Việc tăng cường điều chỉnh sắp xếp các doanh nghiệp theo hướng hạch toán, hiệu quả, thiết thực là một yêu cầu tất yếu của quân đội và đất nước. Đồng thời, công tác xây dựng tổ chức lực lượng làm kinh tế đã góp phần tinh giản được biên chế, chọn được mô hình tổ chức ngày càng thích hợp, hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, giữ được đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Trong điều kiện đất nước đổi mới, việc từng bước hoàn thành về cơ chế, chính sách đối với lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế, phù hợp với các chính sách kinh tế của Nhà nước và những đặc điểm riêng của các đơn vị quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng.

Tóm lại, trong những năm đầu xây dựng theo đường lối đổi mới của Đảng, quân và dân ta đã thực hiện được một bước về điều chỉnh thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc, tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân, bước đầu xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, giảm quân số và chấn chỉnh quân đội thường trực, chuyển một bộ phận lực lượng sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, giải quyết được một phần về đảm bảo vật chất cho quân đội, tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 05:59:22 pm
2. Củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao

Sau hơn bốn năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986-1990), nhân dân ta đã tích cực phấn đấu và đạt được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế từng bước chuyển biến. Nền quốc phòng toàn dân được củng cố, tình hình an ninh, chính trị, xã hội ổn định. Đời sống của đại bộ phận nhân dân cũng như lực lượng vũ trang nhân dân từng bước được cải thiện. Uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Việt Nam đã từng bước phá được thế bao vây, cấm vận, kiên trì thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vá Mỹ, tiến tới tham gia ASEAN. Đất nước đứng trước những vận hội mới, song còn nhiều khó khăn thách thức.

Bước vào kế hoạch 5 năm 1991-1995, bối cảnh quốc tế có những thay đổi lớn tác động sâu sắc đến Việt Nam. Sau cuộc khủng hoảng toàn diện và tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là sự tan rã của Liên Xô. Từ năm 1991, nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đãi về giá đã chấm dứt, nợ nước ngoài phải trả hằng năm tăng lên. Tình hình quốc tế đã gây cho chúng ta những đảo lộn lớn và đột ngột về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, nhiều chương trình hợp tác kinh tế và hợp đồng về lao động bị hủy bỏ. Trong một thời gian ngắn, chúng ta phải chuyển một phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị trường truyền thống sang các thị trường mới; chịu những tác động lớn về biến động cung - cầu và giá cả của thị trường trường thế giới. Tình hình chính trị thế giới, bên cạnh những thuận lợi có những mặt phức tạp mới tác động vào nước ta. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Chúng tìm mọi cách kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền bá tư tưởng văn hóa đồi trụy, độc hại, đưa lực lượng gián điệp, biệt kích vào phá hoại nước ta; câu kết với bọn phản động và các phần tử xấu trong nước tăng cường hoạt động hòng lật đổ chế độ. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra nhiều vấn đề hết sức nặng nề.

Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân có nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ trở thành nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải luôn đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với mọi tình huống, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong bối cảnh chung của quốc tế, khu vực và trong nước, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là: Củng cố nền quốc phòng toàn dân, kiên quyết chủ động chống các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Đồng thời, sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược trong điều kiện hiện đại là một chuẩn bị lâu dài, công phu, toàn dân, toàn diện. Đó không chỉ là vấn đề quân sự mà nó gắn liền với những vấn đề khác như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, vấn đề xây dựng tiềm lực của đất nước. Thấm nhuần quan điểm của Đảng, quân và dân ta ra sức xây dựng đất nước, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, tích cực tăng cường củng cố quốc phòng nhằm đáp ứng những yêu cầu mới trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Trước hết, củng cố quốc phòng vững mạnh, các lực lượng vũ trang ba thứ quân (gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ) phải được rà soát lại, bố trí hợp lý ở từng vùng, miền, từng địa phương trong cả nước, từ đó hình thành lực lượng mạnh tại chỗ cũng như cơ động, tạo nên thế chiến lược đồng bộ, liên hoàn, vững chắc của thế trận quốc phòng toàn dân nhằm giữ vững quyền chủ động đối phó với các cuộc tiến công kẻ thù trong mọi tình huống.

Nhằm đối phó với chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng có nhiều chỉ thị, thông tư, nghị quyết chỉ đạo toàn quân phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, củng cố quốc phòng toàn dân vững mạnh, cảnh giác với các âm mưu và thủ đoạn phá hoại của địch; đồng thời, có kế hoạch xây dựng phương án tác chiến ở từng địa phương trong thế trận chung của cả nước. Đặc biệt là chú trọng các vùng chiến lược trọng yếu như: biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, vùng cao Tây Nguyên. Toàn quân đã xây dựng phương án chuẩn bị lực lượng và thế trận phòng thủ chống chiến tranh xâm lược trong mọi tình huống, phù hợp với đặc điểm địa hình của từng địa phương. Ở các đảo, quần đảo, ta bố trí chủ lực trên các hướng chiến dịch, tăng cường phòng thủ biển đảo, trọng tâm là quần đảo Trường Sa. Các địa phương trong cả nước bố trí lại thành từng cụm, khu vực, trong đó ưu tiên xây dựng củng cố các huyện, xã giáp biên giới. Các tỉnh biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam từng bước xây dựng thành từng khu vực phòng thủ vững chắc để bảo vệ địa bàn, đủ sức đối phó các tình huống phá hoại của kẻ thù.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 06:00:51 pm
Từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội, khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội trong giai đoạn mới, Đại hội xác định: “Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ… Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương… Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, được huấn luyện và quản lý tốt… Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng, bảo đảm quân đội luôn luôn là lực lượng trung thành với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của cả nước và nhân dân, vững vàng trong mọi tình huống”(1).

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng và Nhà nước tiến hành điều chỉnh sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức trong cả nước.

Về tổ chức chỉ huy ở Bộ Quốc phòng và cơ quan cấp chiến lược, ngày 10-8-1991, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9 đã cử Đại tướng Đoàn Khuê, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay Đại tướng Lê Đức Anh chuyển sang công tác khác. Ngày 10-9-1991, Hội đồng Nhà nước quyết định bổ nhiệm Thượng tướng Đào Đình Luyện, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng giữ chức Tổng Tham mưu trưởng thay Đại tướng Đoàn Khuê; Trung tướng Lê Khả Phiêu, Ủy viên Trung ương Đảng; Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay Đại tướng Nguyễn Quyết.

Về tổ chức lãnh đạo cấp toàn quân, Ban Chấp hành Trung ương chỉ định Đảng ủy Quân sự Trung ương gồm 17 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí, do đồng chí Đỗ Mười, Tổng bí thư của Đảng kiêm Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương; đồng chí Đoàn Khuê, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng làm Phó Bí thư.

Sau khi được kiện toàn, trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước, đánh giá các hiện tượng có liên quan đến sự nghiệp quốc phòng, an ninh và âm mưu của các thế lực thù địch đối với nước ta, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1991-1995). Tiếp đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, xác định rõ quan điểm cơ bản của Đảng trong sự nghiệp củng cố quốc phòng toàn dân, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Đặc biệt, ngày 15-4-1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, gồm 12 chương và 147 điều. Đối với các lực lượng vũ trang, Hiến pháp 1992 quy định: Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc vá nhân dân, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Phải xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu”(2).

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, việc xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố tiếp tục thực hiện ở các địa phương trong cả nước. Ở biên giới Tây Nam, các quân khu và các tỉnh triển khai kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ trên đất liền và trên biển, tổ chức lực lượng tuần tra, chống xâm phạm biên giới, đánh bắt hải sản trên vùng biển, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, giữ vững chủ quyền quốc gia.

Đầu năm 1992, Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ đạo về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó nhấn mạnh: Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong thế trận quốc phòng toàn dân có khả năng ngăn chặn, đập tan các âm mưu và hành động phản cách mạng tại các địa phương, tích cực chiến đấu bảo vệ địa phương trong mọi tình huống, kết hợp xây dựng các công trình quốc phòng trọng điểm cần thiết. Tiếp đó, tháng 11-1992, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 245/CT-TM về việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.

Thực hiện chủ trương đó, Bộ Tổng tham mưu xây dựng kế hoạch bảo vệ biên giới Tây Nam gửi tới các Quân khu 5, 7 và 9 nhằm đôn đốc kiểm tra các cửa khẩu, các khu vực trọng điểm ở biên giới các tỉnh Gia Lai, Sông Bé, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang; đồng thời, tổ chức phòng thủ các huyện biên giới, xây dựng làng xã - cụm xã, tăng cường lực lượng và cán bộ ở cơ sở, bảo đảm an ninh chính trị, chống buôn lậu, vượt biên trái phép, vi phạm quy chế biên giới, kết hợp chặt chẽ giữa các đồn biên phòng, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và nhân dân để bảo đảm an ninh, chính trị, giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr. 111-112.
(2) Bộ quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.759-760.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 06:01:18 pm
Cùng với việc tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền của ta trên Biển Đông, các quần đảo, đảo, bãi đá ngầm, thềm lục địa, Bộ Tổng tham mưu tiếp tục hoàn thiện các kế hoạch bảo vệ khu vực Trường Sa và khu thăm dò dầu khí, tổ chức các lực lượng phòng thủ, các lực lượng tuần tra kết hợp với kinh tế và các dịch vụ biển khác. Cũng trong thời gian này, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các lực lượng phòng không, không quân, hải quân nghiên cứu chiến đấu bảo vệ các đảo xa; thường xuyên duy trì tàu trực chiến tại các khu vực Trường Sa, nơi thăm dò dầu khí, bãi cạn Cà Mau để kịp thời phát hiện các tàu thuyền lạ xâm nhập, bảo vệ chủ quyền trên biển của ta.

Giữa năm 1993, để đảm bảo chiến đấu trước tình hình mới, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh Sẵn sàng chiến đấu đối phó với cả 5 tình huống, trong đó có bạo loạn vũ trang. Theo đó, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo diễn tập 8 quân khu, 4 quân đoàn tại thực địa về các loại hình chiến dịch, có một phần thực binh theo các tình huống chiến lược, trong đó có cả sư đoàn bộ binh trang bị bằng vũ khí mang vác. Các quân khu 1, 2, 5, Quân đoàn 1, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tư lệnh Tăng - Thiết giáp, Bộ Tư lệnh Thông tin và các tỉnh tham gia. Trong quá trình diễn tập đã kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh và kinh tế.

Ngày 28-7-1993, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 62/CT-TM về việc tổ chức diễn tập thực nghiệm kiểm tra phương án bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo và căn cứ Cam Ranh của lực lượng thuộc ba Quân chủng Hải quân, Phòng không, Không quân tại Sở chỉ huy dã ngoại khu Tây bán đảo Cam Ranh. Mục đích là đánh giá khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu theo phương án tác chiến của các đơn vị thuộc ba quân chủng, lực lượng vũ trang huyện Cam Ranh (Khánh Hòa) làm nhiệm vụ bảo vệ khu vực căn cứ quân sự quần đảo Trường Sa, đồng thời kiểm tra phương án bảo vệ khu vực dầu khí Vũng Tàu.

Cuối năm 1993, thực hiện Chỉ thị về: “Diễn tập thực nghiệm, kiểm tra phương án bảo vệ vùng biển, vùng biên giới phía Tây của Quân khu 5 và các đơn vị hoạt động trên địa bàn quân khu”, Quân khu 5 đã tổ chức diễn tập “Quân khu tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng quân và dân các địa bàn tác chiến bảo vệ vững chắc quân khu”.

Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang Quân khu 1 và Quân khu 9 tập trung mọi nỗ lực, phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng và an ninh ngày càng vững chắc. Trên các địa bàn trọng điểm, Quân khu đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương xây dựng các khu vực phòng thủ trọng yếu, hoàn thiện kế hoạch tác chiến và tổ chức diễn tập ở các ấp. Thông qua các cuộc diễn tập có thể khẳng định lực lượng vũ trang các địa phương thuộc Quân khu có đủ khả năng chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Việc xây dựng lực lượng vũ trang ở khu vực phòng thủ được chú trọng và từng bước đi vào nền nếp.

Trên địa bàn biên giới phía Bắc, lực lượng vũ trang phối hợp với toàn quân xây dựng bảo đảm mỗi huyện có 3 trục đường dọc, 4 trục đường ngang, đường liên huyện, liên xã được mở rộng, cải tạo, nâng cấp, bảo đảm cho các loại xe cơ giới hoạt động khi cần thiết.

Thực hiện chủ trương của Đảng ủy Quân sự Trung ương, đến giữa năm 1994, cả nước có 44 tỉnh, thành phố; 316/642 huyện, quận (chiếm 49%), 1.647/10.572 xã, phường (chiếm 15%) hoàn thành diễn tập theo kế hoạch đối phó với nguy cơ xảy ra chiến tranh xâm lược quy mô lớn và xung đột cường độ thấp, với tình huống gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Sau một thời gian, việc xây dựng hệ thống các khu vực phòng thủ được tiếp tục triển khai rộng rãi ở tất các địa phương trong cả nước. hệ thống chỉ huy chiến đấu trên một số khu vực phòng thủ được củng cố. Đặc biệt, hệ thống các khu vực phòng thủ ở biên giới và hải đảo đã phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn diện trong mọi tình huống, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, bảo vệ vững chắc biên giới, lãnh thổ, vùng trời, hải phận của Tổ quốc. Ở mỗi quân khu đã hình thành một địa bàn chiến lược vững mạnh toàn diện; mỗi tỉnh, thành phố thuộc khu vực quân khu đứng chân trở thành một đơn vị chiến lược vững chắc của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Trong 5 năm (1988-1992) xây dựng khu vực phòng thủ, Bộ Quốc phòng chỉ đạo, tổ chức diễn tập 46/53 tỉnh, thành phố (chiếm 85%), 525/548 huyện, thị (chiếm 77%), 3.519/9.967 xã, phường (chiếm 35%). Các quân khu đã xây dựng được các đại đội, tiểu đoàn bộ đội biên phòng ở các vùng trọng điểm. Dân quân tự vệ đạt tỷ lệ 2,2%-3,3% dân số, quân dự bị động viên đã đăng ký 60%; vận động nhân dân lập nghiệp ở các vùng trọng điểm như Quân khu 3 bố trí dân ra đảo Bạch Long Vĩ và một số địa bàn trọng yếu khác.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Năm, 2016, 06:02:23 pm
Cùng với quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương củng cố và ổn định vùng biên giới phía Bắc. Các Quân khu 1, 2, 3 cùng với nhân dân địa phương gỡ được 1,5 triệu quả bom mìn, phá 17.000 quả, giải phóng 371 hécta đất canh tác, đưa dân về cư trú sản xuất, mở cửa khẩu biên giới (đường bộ, đường sắt, đường sông). Việc mở cửa biên giới đã tạo điều kiện mở rộng quan hệ giao lưu giữa hai nước chung sống hòa bình, song cũng bộc lộ nhiều tiêu cực, phức tạp đỏi hỏi quân và dân ta luôn phải nâng cao cảnh giác, bảo vệ vững chắc chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc phòng ở địa phương.

Đối với vùng biển, đảo, nhất là quần đảo Trường Sa, Bộ Quốc phòng phối hợp với các ngành tổ chức nhiều đoàn kiểm tra, triển khai lực lượng xây dựng các công trình phòng thủ, huấn luyện quân sự và giáo dục chính trị tư tưởng, bảo đảm mọi mặt cho các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc.

Xây dựng quân đội chính quy là một nội dung rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Vì thế, cùng với việc xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, Trung ương Đảng luôn quan tâm đến vấn đề tổ chức, biên chế của quân đội, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, các nghị quyết của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, quân đội tiếp tục điều chỉnh lực lượng và thế bố trí chiến lược. Kế hoạch tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang trong những năm 1991-1995 được xác định: “Tiếp tục giảm quân số thường trực, tăng cường xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, thực hiện một sự cân đối mới giữa ba thứ quân, kết hợp xây dựng quân đội về chính trị, quân sự, chính quy, sắp xếp lại hệ thống nhà trường theo hướng đại học hóa đội ngũ sĩ quan và nhân viên kỹ thuật, nâng cao một bước chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội”(1).

Ngày 15-1-1991, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh số 70CL-TM nêu rõ: Chấn chỉnh, kiện toàn lực lượng 5 năm (1991-1995), xác định: Từ năm 1991 đến 1995 chủ yếu điều chỉnh lực lượng từ hướng Bắc vào phía Nam phù hợp với thế bố trí của kế hoạch tác chiến chiến lược, đáp ứng yêu cầu và ứng phó được các tỉnh huống xảy ra”(2).

Trên cơ sở chấn chỉnh lực lượng, giảm quân số trong những năm 1986-1990, từ năm 1991, quân đội tiếp tục giảm quân số, chấn chỉnh tổ chức biên chế các cơ quan, đơn vị, bảo đảm cân đối, gọn nhẹ, chất lượng cao, đủ khả năng hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới. Cuối tháng 12-1990, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh Về tổ chức lực lượng, nêu rõ: “Trên cơ sở kế hoạch tổ chức lực lượng năm 1991-1995, giữ nguyên các tổ chức sẵn có, rút bớt quân của một số đơn vị bổ sung cho các quân khu, quân đoàn, các đơn vị quân binh chủng làm nhiệm vụ dọc biên giới và vùng biển. Rút bớt quân số của một số sư đoàn chỉ để lại cán bộ chủ chốt, chuyên môn kỹ thuật làm nhiệm vụ động viên theo nhiệm vụ được giao”(3).

Thực hiện chỉ lệnh về tổ chức lực lượng và nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1991-1995), quân đội tiếp tục điều chỉnh quân số cho phù hợp với thế bố trí chiến lược ở các khu vực, mục tiêu quan trọng trên phạm vi cả nước, giảm bớt lực lượng trên một số hướng, tăng cường lực lượng chủ lực (Bộ, quân khu), bộ đội địa phương ở phía Nam và Quân khu Thủ đô. Năm 1992, Bộ Tổng tham mưu tổ chức một số đơn vị mới trực thuộc Bộ Tư lệnh Công binh, Vùng 4 Hải quân và các Quân khu 5, 7, 9. Ngày 10-3-1993, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 104/QĐ-QP thành lập Học viện Phòng không, trên cơ sở sáp nhập Trường Trung cao cấp Phòng không và Trường Sĩ quan chỉ huy - kỹ thuật Phòng không (Quân chủng Phòng không).

Sau 3 năm thực hiện kế hoạch chấn chỉnh và tổ chức biên chế, tinh giảm quân số, ta đã dần hình thành rõ nét về quy mô lực lượng, cơ cấu tổ chức biên chế, trang bị kỹ thuật giữa các khối (chiến đấu, bảo đảm, phục vụ, cơ quan và nhà trường), giữa lực lượng chủ lực và địa phương, giữa bộ đội thường trực và dự bị động viên, đáp ứng 5 tình huống chiến lược và kế hoạch phòng thủ đất nước. Năm 1994, Bộ Quốc phòng tiếp tục chấn chỉnh tổ chức các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, tiến hành củng cố 88 đầu mối, nâng cấp, đổi tên 10 đơn vị, giải thể 7 đơn vị khác. Bộ đội chủ lực tiếp tục được củng cố, nâng cao chất lượng toàn diện.


(1) Hồ sơ B6, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng.
(2) Hồ sơ B8, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.
(3) Hồ sơ 7/2, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:48:53 pm
Ngày 8-3-1995, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 20/CT-TM về “Chấn chỉnh kiện toàn tổ chức biên chế các đơn vị trong toàn quân”. Chỉ thị nêu rõ: Kế hoạch tổ chức lực lượng và tổng quân số năm 1995 phải đáp ứng được yêu cầu phòng thủ, an ninh, yêu cầu xây dựng, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng quân đội chính quy và nâng cao chất lượng toàn diện cho bộ đội. Các đơn vị trong toàn quân chấp hành quy hoạch tổ chức của Bộ, giải thể triệt để các tổ chức ngoài quy hoạch, thực hiện đúng biên chế của Bộ. Dồn quân số, kiện toàn tổ chức các đơn vị trực tiếp chiến đấu, giảm 20% dự trữ giáo viên ở các học viện, nhà trường.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương, lực lượng vũ trang nhân dân được củng cố, xây dựng cân đối, đồng bộ các lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, cả quân chủ lực và địa phương, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân binh chủng và lực lượng vũ trang rộng khắp, tạo thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ kết hợp chặt chẽ với nhau, được bố trí hợp lý trên các hướng, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Lực lượng hậu bị và dân quân tự vệ được chú trọng xây dựng, phát triển một bước. Tháng 4-1991, Bộ Tổng tham mưu tổ chức hội nghị chỉ đạo các quân khu, các tỉnh ven biển, phòng quân sự địa phương hải quân nghiên cứu, khảo sát và rút kinh nghiệm về xây dựng dân quân tự vệ biển gắn với khai thác, bảo vệ vùng biển của Tổ quốc. Thực hiện chỉ thị của bộ Tổng tham mưu, các đơn vị trên cả nước đã tập trung củng cố dân quân tự vệ biển trong thành phần quốc doanh, tập thể làm nòng cốt và nghiên cứu xây dựng dân quân tự vệ trong thành phần kinh tế cá thể.

Xuất phát từ thực tiễn tình hình mới đòi hỏi phải củng cố lực lượng dân quân tự vệ biển và đội ngũ cán bộ làm tham mưu cho các cấp, ngày 12-6-1991, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 51/CT-TM về việc tăng cường cán bộ hải quân cho các quân khu, tỉnh (thành phố) ven biển. Tiếp đó, ngày 2-12-1991, ra Chỉ thị 85/CT-TM về việc tăng cường chỉ đạo xây dựng và hoạt động dân quân tự vệ biển trong tình hình mới.

Thực hiện các chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, lực lượng dân quân tự vệ biển thuộc các Quân khu 3, 4, 5, 7, 9 tiếp tục được củng cố với số lượng thích hợp. Ngoài 9 hải đoàn và hải đội do Bộ Tư lệnh hải quân quản lý, các địa phương đã tổ chức được 177 hải đoàn, hải đội và hàng nghìn phân đội dân quân tự vệ biển, kết hợp đánh cá và bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc. Đến năm 1993, lực lượng dân quân tự vệ giảm mạnh, song đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Bộ Tổng tham mưu đánh giá: “Lực lượng dân quân tự vệ biển có sự chuyển biến quan trọng về chất lượng tổng hợp. Đặc biệt là dân quân tự vệ biển ở các vùng trọng điểm. Việc củng cố các hải đội, hải đoàn trong thành phần kinh tế quốc doanh làm nòng cốt đã chú trọng đến tổ, tiểu đội ở tàu, thuyền, đội tàu ở tất cả các thành phần kinh tế tư nhân. Từng bước đổi mới nội dung, tổ chức phương pháp huấn luyện cho phù hợp với vùng biển”(1).

Các xã phường trong cả nước tổ chức các đại đội, trung đội, tiểu đội dân quân phù hợp với đặc điểm từng địa phương. Khoảng 1 triệu dân quân tự vệ được trang bị súng và các loại vũ khí thô sơ tự tạo. Một số xã, phường tổ chức trung đội dân quân cơ động; đường phố, thôn, bản có tiểu đội hoặc trung đội dân quân binh chủng (phòng không, công binh, thông tin).

Tháng 2-1995, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo Cục Dân quân tự vệ tiến hành khảo sát hoạt động trị an của lực lượng dân quân tự vệ ở 5 quân khu, 10 tỉnh, 2 hải đoàn, 15 huyện, thị, 30 cơ sở xã, phường đã đánh giá: “ở nhiều đơn vị đã làm tốt việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, sự kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh, thực hiện các chính sách hậu phương quân đội. Từng bước quan tâm tới xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác quốc phòng ở cơ sở. Những kết quả ấy quả ấy đã góp phần giữ vững ổn định chính trị của đất nước”(2).

Trong những năm 1991-1995, do yêu cầu về chất lượng đào tạo ngày càng cao, hệ thống học viện, nhà trường trong quân đội được củng cố chấn chỉnh một bước. Ngày 4-5-1992, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 198/CT-QP Về triển khai nghiên cứu, tổ chức nhà trường trong quân đội, nêu rõ: Việc chấn chỉnh hệ thống nhà trường phải được tiến hành từng bước với phương châm lấy chất lượng làm chính, số lượng hợp lý và phù hợp với quy mô tổ chức lực lượng quân đội. Tổ chức hệ thống nhà trường phải thể hiện được tính thống nhất, chính quy, đồng bộ, đồng thời phải có sự kế thừa và phát triển. Kiên quyết chấn chỉnh gọn đầu mối tổ chức các trường nếu thấy không cần thiết.


(1) Hồ sơ 45, cặp số 24, lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.
(2) Báo cáo về tổ chức lực lượng từ 1991-1995, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:49:33 pm
Tháng 3-1993, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị về công tác nhà trường, nêu rõ: Tiếp tục triển khai, quy hoạch kiện toàn mạng lưới đào tạo trong quân đội theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, sẵn sàng đối phó với các tình huống của chiến tranh, bảo đảm đào tạo có chất lượng một cách vững chắc, hiệu quả.

Ngày 6-9-1993, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 91/VP-ĐU Về việc tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ về xây dựng nhà trường chính quy. Nghị quyết nêu rõ: “Hệ thống các nhà trường phải được tiếp tục chấn chỉnh, từng bước đổi mới chương trình, nội dung các bậc học của các đối tượng từ hạ sĩ quan đến cán bộ cao cấp. Phải có biện pháp tích cực và linh hoạt trong việc tạo nguồn đào tạo sĩ quan. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên phải được tiêu chuẩn hóa cho phù hợp. Phải tập trung cho mô hình, mục tiêu, quy trình đào tạo và yêu cầu cơ bản đối với từng cấp, từng bậc học chưa được bổ sung kịp thời”(1).

Để đáp ứng yêu càu nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có tri thức quân sự và trình độ học vấn ngày càng cao đối với tất cả các quân binh chủng. Từ năm 1992, Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng hệ thống các chọc viện, nhà trường quân sự khá hoàn chỉnh và thực hiện đại học hóa sĩ quan còn độ tuổi phục vụ quân đội dài hạn.

Thực hiện phương hướng đó, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ký các nghị định, quyết định thành lập các học viện, công nhận trình độ đào tạo đại học và sau đại học ở các học viện trong quân đội như trình độ đào tạo ngoài quân đội của Nhà nước.

Cuối năm 1993, Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Chính trị tổ chức hội thảo toàn quân tại Hà Nội về đào tạo sau đại học và bồi dưỡng nhân tài quân sự trong các học viện nhà trường quân đội, đồng thời, mở lớp đào tạo tại chức quân sự cấp cao khóa 1993-1994 cho 40 cán bộ các cơ quan cấp chiến lược do Học viện Quân sự cấp cao giảng dạy theo chương trình đào tạo cán bộ cấp cao của toàn quân.

Ngày 20-12-1994, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 188/CP thành lập Học viện Quốc phòng (trên cơ sở Học viện Quân sự cấp cao) trực thuộc Chính phủ do Bộ Quốc phòng quản lý, có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp quân sự, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể cách mạng, nghiên cứu khoa học quân sự và hợp tác quốc tế và đào tạo bồi dưỡng cán bộ cao cấp quân sự.

Cùng thời gian này, Bộ Giáo dục - Đào tạo ra các Quyết định số 402, 404/GD-ĐT công nhận Học viện Lục quân, Học viện Chính trị - Quân sự, Học viện Hậu cần đủ trình độ đào tạo bậc đại học và học viên được nâng cấp bằng tốt nghiệp đại học. Đầu năm 1995, Học viện Quốc phòng tổ chức lễ tốt nghiệp lớp cao học quân sự đầu tiên (khóa 1993-1995) cho 27 học viên là cán bộ cao cấp quân đội.

Để đáp ứng với yêu cầu đào tạo cán bộ quân đội trong tình hình mới, ngoài việc quyết định thành lập các học viện đào tạo bậc đại học, Bộ Quốc phòng quyết định sáp nhập một số trường thuộc Quân chủng Phòng không, giải thể một số trường quân sự địa phương thuộc Quân khu 5 và Quân khu 9. Đến cuối năm 1994, hệ thống các nhà trường trong quân đội đã hình thành các bậc học, ngành học tương đối hoàn chỉnh. Toàn quân có 9 học viện, 1 trường đại học, 2 trường trung cao, 12 trường sĩ quan (cao đẳng quân sự), 13 trường quân chính quân khu. Các học viện, nhà trường thực hiện xây dựng chính quy, đổi mới công tác giáo dục - đào tạo, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng quân đội ngày càng chính quy, hiện đại.

Với những nỗ lực lớn, đến cuối năm 1995, hệ thống học viện, nhà trường được chấn chỉnh hoàn chỉnh, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên toàn quân được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động quân sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng những năm 1991-1995.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.780.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:50:18 pm
*
*   *

Quán triệt Chỉ thị của Đảng ủy Quân sự Trung ương, ngày 3-4-1991, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 149/CT-QP Về chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao sản lượng sửa chữa vũ khí trang bị kỹ thuật trong tình hình mới. Chỉ thị nêu rõ: Các ngành, các cấp trong toàn quân tập trung chỉ đạo đẩy mạnh công tác sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật. Các cơ quan chủ quản, các xí nghiệp cần xác định biên chế hợp lý, duy trì đội ngũ cán bộ kỹ thuật có tay nghề khá. Phải năng động, tự chủ, sáng tạo để sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật với chất lượng cao. Tổ chức lao động, tổ chức quản lý trong mỗi xí nghiệp nghiệp vượt qua thử thách lớn trong tình hình hiện nay.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật chỉ đạo các đơn vị toàn quân bảo quản tốt vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là đối với các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Từ ngày 27 đến ngày 28-8-1992, Tổng cục Kỹ thuật tổ chức Hội nghị “Quy định về kho súng pháo - khí tài lục quân” và “Điều lệ quản lý chất lượng vũ khí trang bị kỹ thuật”. Hội nghị nhất trí kết luận: Cục Vũ khí đã tổng kết kinh nghiệm sau nhiều năm quản lý, chỉ đạo, nay soạn thảo được văn bản quy định về kho súng - pháo, khí tài lục quân. Cục Tiêu chuẩn - Đo lường chất lượng được giao nhiệm vụ chính thức quản lý chất lượng. Cục đã vận dụng quy định của Nhà nước vào soạn thảo “Điều lệ quản lý chất lượng vũ khí trang bị kỹ thuật”, chất lượng tốt, đủ nội dung, đáp ứng yêu cầu văn bản pháp quy của Nhà nước và quân đội.

Nhìn chung, qua thực tế, việc quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật đã theo chế độ quy định thống nhất từ trên xuống cơ sở, có biện pháp quản lý đồng bộ, chấp hành tốt chế độ bảo quản hằng ngày. Nhiều đơn vị chọn xây dựng đơn vị điểm về sử dụng tốt vũ khí, trang bị kỹ thuật, xây dựng nhà xe pháo ngày càng kiên cố, thoáng mát. Phong trào “giữ tốt, dùng bền, an toàn, tiết kiệm” được các đơn vị toàn quân thực hiện thường xuyên, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng xuống cấp của vũ khí, trang bị kỹ thuật.

Đặc biệt, được Chính phủ cho phép, quân đội đã sử dụng số tiền (cả ngoại tệ) khá lớn thu được từ việc xử lý vật tư, tài sản ứ đọng để đầu tư vào công tác bảo đảm kỹ thuật. Năm 1992, các đơn vị trong toàn quân sử dụng hơn 5 tỷ đồng từ nguồn bán vật tư, tài sản ứ đọng vào nhu cầu bảo quản kỹ thuật. Việc chi bảo đảm kỹ thuật chủ yếu phục vụ thu gom vũ khí, khí tài, đạn được để bảo quản, sửa chữa hoặc niêm cất lâu dài. Các xí nghiệp quốc phòng được đầu tư để đổi mới công nghệ. Trong hai năm 1993-1994, Bộ Quốc phòng dành hàng chục tỷ đồng để đổi mới công nghệ ở một số xí nghiệp trọng điểm; đồng thời, dùng hàng triệu đôla cho các xí nghiệp thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế để nâng cao năng lực thiết kế, kiểm định các loại vũ khí, khí tài.

Đi đôi với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và làm kinh tế, công tác đối ngoại quân sự được Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng quan tâm. Ngày 11-8-1993, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 553/QĐ-QP ban hành Quy chế về các hoạt động đối ngoại quân sự, gồm 12 chương, 88 điều, quy định chức năng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại quân sự. Tiếp đó, từ ngày 19 đến ngày 20-8-1993, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị đối ngoại quân sự toàn quân, tổng kết công tác đối ngoại quân sự 5 năm qua và đề ra phương hướng cho những năm tới. Báo cáo tổng kết nêu rõ, công tác đối ngoại quân sự đã vận dụng linh hoạt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn, triển khai hoạt động trên nhiều hướng, với nhiều đối tượng khác nhau, góp phần củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa quân đội ta với quân đội và nhân dân các dân tộc trên thế giới, với nhiều tổ chức quốc tế.

Để nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quân sự, ngày 20-1-1994, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 42/CT-QP về Công tác đối ngoại quân sự. Chỉ thị nêu rõ: “Trong công tác đối ngoại quân sự phải tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại mở có nguyên tắc của Đảng và Nhà nước với yêu cầu cao hơn cả về chiều rộng và chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại kinh tế và an ninh, quốc phòng, trọng tâm là xây dựng quân đội từng bước hiện đại, tinh nhuệ, củng cố tiềm lực công nghiệp quốc phòng, tạo điều kiện để nắm được kịp thời và sâu hơn các đối tượng để chủ động trong kế sách an ninh quốc phòng”(1).

Nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp, một trong những biện pháp quan trọng là thực hiện việc xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện theo 5 yêu cầu do Bộ Tổng tham mưu phát động và kết hợp với thực hiện các chỉ thị xây dựng cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh. Trên cơ sở hoàn thành bước xây dựng đơn vị cấp trung đoàn (Trung đoàn 165, Sư đoàn 312, (Quân đoàn 1), Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 (Quân đoàn 2) và gần 20 đơn vị khác từ những năm 1988-1991), tháng 2-1992, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị về xây dựng sư đoàn, lữ đoàn vững mạnh toàn diện trong toàn quân theo 5 yêu cầu: Toàn sư đoàn (lữ đoàn) là một khối thống nhất; các trung đoàn (tiểu đoàn) và các phân đội rèn luyện bộ đội tốt, người chỉ huy và cơ quan cấp sư đoàn, trung đoàn thông thạo về tổ chức, chỉ huy; các cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng hoạt động hiệu quả, bộ đội giữ nghiêm kỷ luật và nền nếp chính quy. Năm 1992, Bộ Quốc phòng chọn Sư đoàn 312 (Quân đoàn 1) và Sư đoàn 325 (Quân đoàn 2) xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện, rút kinh nghiệm chỉ đạo toàn quân xây dựng các sư đoàn và lữ đoàn.

Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của Quân đoàn 4 được bổ sung một số nội dung, trong đó có nhiệm vụ phối hợp giữa Quân đoàn với Quân khu 7 bảo vệ các mục tiêu trọng yếu. Từ tháng 2-1991, các đơn vị được phân công đã xây dựng kế hoạch sẵn sàng chiến đấu. Đến cuối năm 1991, kế hoạch tiếp tục được bổ sung và hoàn chỉnh, công tác chuẩn bị đã hoàn thành. Để kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu của bộ đội, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo Quân khu 7 và Quân đoàn 4 hai lần diễn tập phối hợp. Sau mỗi đợt diễn tập, các đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm, bổ sung kế hoạch tác chiến với những nội dung cần thiết.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu về việc chỉnh lý, biên soạn lại toàn bộ hệ thống tài liệu huấn luyện, Cục Huấn luyện chiến đấu được giao soạn thảo các tài liệu kỹ thuật chiến đấu bộ binh, điều lệnh quản lý bộ đội, tổ chức và phương pháp huấn luyện; tổ chức phát hành tài liệu trong toàn quân về công tác huấn luyện chiến đấu. Việc chỉnh lý, biên soạn tài liệu huấn luyện đã bám sát thực tiễn Việt Nam, thể hiện được phương châm thiết thực, kế thừa và phát triển về chiến thuật, trong đó khối phục lại tổ bộ binh chiến đấu. Về điều lệnh, trên cơ sở ba tài liệu điều lệnh nội vụ, kỷ luật, đóng quân và canh phòng, Bộ Tổng tham mưu tổ chức biên soạn hệ thống thành một tài liệu mang tên Điều lệnh quản lý bộ đội, ban hành thực hiện trong toàn quân từ tháng 2-1991.

Cùng với việc biên soạn hệ thống tài liệu mới, từ thực tiễn huấn luyện của các đơn vị, Bộ Tổng tham mưu tập trung nghiên cứu, biên soạn lại hệ thống tổ chức và phương pháp huấn luyện các môn học cho các đối tượng. Tháng 4-1991, tại Trường Sĩ quan Lục quân 2, Bộ thực nghiệm đề mục đại đội bộ binh diễn tập tổng hợp gồm hành quân, trú quân; tập kích, phục kích, tiến công địch phòng ngự có bắn đạn thật và chuyển sang phòng ngự làm mẫu cho toàn quân về nội dung, tổ chức và phương pháp diễn tập đạt kết quả tốt.


(1) Chỉ thị số 31/CT-QP, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:51:39 pm
*
*   *

Thực hiện phương châm về đổi mới công tác huấn luyện, ngày 14-12-1991, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ lệnh số 96/CL-TM Về công tác huấn luyện chiến đấu năm 1992, nêu rõ: Năm 1992, toàn quân tiếp tục huấn luyện chiến đấu theo hướng “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ, phù hợp với địa bàn hoạt động của từng lực lượng, từng đơn vị, với tổ chức, trang bị hiện có, sát với đối tượng tác chiến. Đồng thời với huấn luyện cần đẩy mạnh xây dựng quân đội chính quy, nâng cao cảnh giác cách mạng, xây dựng ý chí quyết tâm và tư tưởng tiến công của mọi cán bộ, chiến sĩ. Huấn luyện cả ba thứ quân, nắm chắc và vận dụng tốt kỹ thuật, chiến thuật, ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện nền nếp chính quy.

Cùng với việc ra Chỉ lệnh về công tác huấn luyện chiến đấu, Bộ Tổng tham mưu đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cán bộ về nội dung và phương pháp huấn luyện bộ đội, đồng thời, tổ chức nhiều cuộc hội thảo quân sự. Điển hình như, từ ngày 5 đến ngày 15-11-1991, Bộ Tổng tham mưu kiểm tra công tác huấn luyện chiến đấu và diễn tập của Sư đoàn 312 nhằm rút kinh nghiệm làm mẫu để phổ biến đến các đơn vị trong toàn quân. Sư đoàn 312 tổ chức diễn tập mang tên “Sư đoàn tiến công địch ở địa hình rừng núi và trung du” có một phần thực binh được chuẩn bị chu đáo đạt kết quả tốt. Tiếp đó, đầu tháng 12-1992, Bộ Tổng tham mưu tổ chức Hội nghị tổng kết ba năm (1990-1992) về đổi mới công tác huấn luyện bộ đội và tập huấn quân sự toàn quân. Đại tướng Đoàn Khuê, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến dự, chỉ thị cho các đơn vị toàn quân phải luôn bảo đảm đủ quấn số, đủ cán bộ tiểu đội, trung đội, huấn luyện có chất lượng sẵn sàng chiến đấu cao.

Nhìn chung, qua các cuộc hội nghị, hội thảo, diễn tập, toàn quân đã có nhiều cố gắng, bảo đảm đủ và đồng bộ các loại xe, pháo, quân khí, kỹ thuật, thực hiện việc dồn dịch một khối lượng lớn trang bị, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thống nhất về trang phục, lễ tiết, tác phong, về huấn luyện, giáo dục chấp hành điều lệnh, rèn luyện kỷ luật là một trong những nội dung quá trình trong xây dựng quân đội chính quy. Tháng 3-1992, Bộ Tổng tham mưu ra chỉ thị thống nhất mang quân phục trong toàn quân. Theo đó, tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan, binh lính, quân nhân chuyên nghiệp khi làm việc ở doanh trại, công tác hoặc dã ngoại đều mặc quân phục đồng bộ theo màu sắc từng quân chủng. Khi dự lễ, hội họp, tiếp khách nước ngoài, Đảng và Nhà nước và các đoàn thể phải mặc lễ phục K82.

Sau hai năm xây dựng quân đội chính quy, hiện đại theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, tháng 3-1993, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Chỉ thị Đẩy mạnh xây dựng chính quy Quân đội nhân dân Việt Nam lên một bước nữa. Chỉ thị nêu rõ: “Tập trung nâng cao trình độ chính quy về trang phục, lễ tiết, tác phong quân nhân, thực hiện có nền nếp quy định trong điều lệnh quản lý bộ đội, trước tiên là các chế độ sinh hoạt trong ngày, các chế độ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, cơ chế quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật”(1).

Quán triệt Nghị quyết Đảng ủy Quân sự Trung ương, ngày 30-11-1993, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị số 85/CT-TM về Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện xây dựng chính quy Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm tới. Chỉ thị nêu rõ: “Những nội dung chung cần làm trong những năm tới là thống nhất về các chế độ sinh hoạt chính quy trong ngày, trong tuần, các chế độ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, chế độ quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc của cơ quan các cấp. Từ đó tạo bước chuyển biến mạnh mẽ thực sự làm cơ sở cho những năm tiếp theo xây dựng chính quy của quân đội được cơ bản, vững chắc”(2).

Để thống nhất nội dung, biện pháp xây dựng chính quy, Bộ Tổng tham mưu soạn thảo các quy định về nội dung, chương trình huấn luyện và tổ chức lớp tập huấn cán bộ điều lệnh cho toàn quân (khu vực phía Nam). Nội dung cơ bản của việc xây dựng quân đội chính quy trong 3 năm (1993-1995): việc xây dựng quân đội chính quy trong 3 năm (1992-1993): Thống nhất về mang mặc, trang phục, thực hiện nghiêm túc lễ tiết tác phong quân nhân, tổ chức thực hiện theo chức trách và các chế độ quy định, nâng cao trình độ quản lý bộ đội và quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật của đội ngũ cán bộ.

Thực hiện xây dựng quân đội ngày càng chính quy, hiện đại, các quân khu, quân đoàn, quân binh chủng đã quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ thống nhất chương trình huấn luyện theo quy định của Bộ Quốc phòng, tập trung vào bốn nội dung: Trang phục thống nhất (mang mặc thống nhất), đúng lễ tiết tác phong quân nhân, thực hiện đúng chức trách nền nếp chế độ, nâng cao trình độ quản lý bộ đội và trang bị.


(1) Hồ sơ B7, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng.
(2) Hồ sơ A8, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:52:39 pm
Tháng 3-1994, Bộ Quốc phòng quyết định bổ sung kiểu mẫu và sắc phục của Quân đội nhân dân Việt Nam, quy định về quân phục, mũ, giày thực hiện thống nhất trong toàn quân. Từ ngày 10-11-1994, toàn quân thực hiện mang mặc quân phục thống nhất, qua đó tư thế tác phong của cán bộ, chiến sĩ nghiêm túc, mạnh mẽ hơn, ảnh hưởng tốt trong nhân dân.

Quán triệt phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các đơn vị toàn quân huấn luyện toàn diện các nội dung theo quy định của Bộ; tập huấn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp và cơ quan trực thuộc của Bộ, các nhà trường, học viện, các quân khu, quân đoàn, quân binh chủng và đặc biệt là cán bộ cơ sở. Năm 1993, Bộ Tổng tham mưu mở được 1.989 lớp tập huấn cho 92.942 lượt cán bộ các cấp với nội dung huấn luyện đội ngũ, chiến thuật đại đội, huấn luyện đội hình, chiến thuật của các binh chủng công binh, pháo binh, thiết giáp, vượt vật cản và huấn luyện điều lệnh.

Tháng 11-1995, Bộ Tổng tham mưu tổ chức tập huấn cho cán bộ sư đoàn và các cán bộ huấn luyện cấp quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng. Lớp học tập trung nghiên cứu, tập bài chiến thuật cấp sư đoàn và theo dõi diễn tập chỉ huy - cơ quan sư đoàn có một phần thực binh. Ngoài ra, Bộ Tổng tham mưu còn tổ chức các cuộc thử nghiệm về kỹ thuật như bắn súng theo giáo trình kiểm tra mới và đặc biệt là mở đường (mở cửa) qua bãi mìn, hàng rào của địch.

Trong 4 năm (1991-1994), Bộ Quốc phòng mở gần 4.000 lớp tập huấn cho hàng trăm lượt cán bộ, góp phần nâng cao kiến thức, trình độ, năng lực tổ chức, chỉ huy, khả năng quản lý, huấn luyện bộ đội của cán bộ các cấp, đồng thời với huấn luyện đơn vị, việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp được Bộ Quốc phòng xác định là một trong những công tác trọng tâm nhằm làm chuyển biến tình hình huấn luyện của toàn quân.

Để tiếp tục quản triệt sâu sắc ba quan điểm huấn luyện, thống nhất thêm một bước giữa cơ quan Bộ, nhà trường và đơn vị, tháng 2-1995, Bộ Tổng tham mưu mở hai lớp tập huấn ở phía Bắc và phía Nam. Đối tượng là cán bộ chỉ đạo và trợ lý huấn luyện chiến thuật từ cấp sư đoàn trở lên, nội dung chính là huấn luyện đội ngũ chiến thuật đại đội tiến công, trung đội mở cửa, trung đội phòng ngự. Các cán bộ tham gia tập huấn được nghiên cứu nội dung lý luận trước, sau đó tiến hành tập bài và tập viết giáo án huấn luyện, tập thực hành huấn luyện cho đại đội và trung đội.

Về huấn luyện phân đội, các đơn vị tập trung huấn luyện phù hợp với từng đối tượng Đối với các phân đội bộ binh, kết hợp giữa huấn luyện kỹ thuật với huấn luyện chiến thuật, lấy huấn luyện kỹ thuật làm cơ sở, chiến thuật làm trung tâm, tập trung vào 5 môn kỹ thuật chiến đấu bộ binh ở giai đoạn 1 và môn kỹ thuật đánh gần ở giai đoạn 2. Các phân đội quân, binh chủng huấn luyện cách đánh theo vũ khí trang bị trong biên chế, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng với trang bị hiện có.

Các đơn vị thường trực đủ quân thường xuyên thực tập báo động chiến đấu, hành quân dã ngoại nhằm kiểm tra kế hoạch, trình độ tổ chức, chỉ huy của cán bộ, sức chịu đựng của bộ đội. Những ngày được dự báo có khả năng xảy ra các vấn đề phức tạp, được coi là ngày “cao điểm”, các đơn vị đều tăng cường chế độ trực ban sẵn sàng chiến đấu. Các Quân đoàn 2, 3, 4 tổ chức thêm một số đại đội và tiểu đoàn thường trực 24/24 giờ; đồng thời, triển khai hình thức “huấn luyện theo phân cấp”. hầu hết các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trong toàn quân thực hiện tốt công tác huấn luyện không chỉ ở thao trường mà tăng cường các hình thức huấn luyện, thông qua hình thức huấn luyện dã ngoại để đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, thắt chặt thêm quan hệ giữa bộ đội với nhân dân, giữa đơn vị với địa phương.

Trong công tác huấn luyện, huấn luyện chiến dịch được coi là trọng tâm, đặc biệt là công tác tham mưu và nghệ thuật chiến dịch, nâng cao khả năng tác chiến, chuẩn bị cho các cuộc tập trận chung. Nhiệm vụ của công tác huấn luyện được thực hiện theo chủ trương: Xây dựng các phân đội huấn luyện giỏi bằng lực lượng trong biên chế là chủ yếu, làm cơ sở cho các năm sau chuyển qua huấn luyện tác chiến hiệp đồng quân binh chủng.

Tháng 7-1994, Bộ Tổng tham mưu sơ kết công tác huấn luyện 6 tháng đầu năm 1994 và những năm trước đó. Kết quả cho thấy, tất các quân, binh chủng, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, quân dự bị đều đã hoàn thành kế hoạch huấn luyện nền nếp chính quy và huấn luyện cán bộ tiến bộ rõ rệt. Nội dung huấn luyện cho từng người và phân đội do vận dụng phương pháp tổ chức huấn luyện mới nên đạt thành tích tốt. Các trường quân chính trực thuộc các quân khu, quân đoàn đã hoàn thành nhiều lớp bổ túc quân sự, chính trị. Việc đào tạo sĩ quan dự bị, huấn luyện khung dự bị động viên và làm kế hoạch động viên quân dự bị ở địa phương thực hiện đúng chỉ lệnh của Bộ. Ngoài việc hoàn thành chương trình huấn luyện và diễn tập ở đơn vị, các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu đều tham gia các cuộc hội thao do đơn vị tổ chức. Cùng với việc cử cán bộ, chiến sĩ đi đào tạo ở các trường sĩ quan, hình thức đào tạo tại chỗ, bổ sung kịp thời cán bộ, chỉ huy, kỹ thuật, hậu cần sơ cấp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:53:36 pm
Tổng kết về công tác huấn luyện chiến đấu của toàn quân trong những năm 1991-1995, Bộ Tổng tham mưu đánh giá: “Toàn quân đã nghiêm chỉnh chấp hành các nghị quyết của trên và mệnh lệnh, chỉ thị của Bộ về sẵn sàng chiến đấu, tích cực chuẩn bị về tinh thần, lực lượng, phương tiện, trang bị cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà Bộ giao khi có tình huống xảy ra”(1).

Trong khi chỉ đạo công tác huấn luyện, Bộ Tổng tham mưu luôn xác định: Bảo đảm kỹ thuật là một công tác then chốt trong việc xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu. Nhờ sự kiểm tra, chỉ đạo thường xuyên, 100% số xe, pháo trong toàn quân bảo đảm tốt khả năng cơ động. Công tác bảo dưỡng, niêm cất và sửa chữa các loại xe, pháo, nhà kho bị xuống cấp đã được sửa chữa kịp thời.

Tháng 7-1995, đoàn cán bộ Bộ Tổng tham mưu tiến hành kiểm tra nội dung đào tạo trong các nhà trường quân đội. Những nội dung kiểm tra gồm: Điều lệnh đội ngũ; trật tự nội vụ, vệ sinh; huấn luyện chiến thuật, phân đội; rèn luyện thể lực và bắn súng AK bài 1. Qua kiểm tra, Bộ Tổng tham mưu đánh giá: Công tác huấn luyện tại các trường quân đội trong toàn quân đã nghiêm túc chấp hành chỉ lệnh huấn luyện, đúng kế hoạch, chất lượng được nâng lên, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng quân đội chính quy, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của bộ đội.

Đồng thời với nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, các quân khu, quân đoàn, quân binh chủng đều tranh thủ thời gian giữa hai mùa huấn luyện để làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Phát huy vốn tự có, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống bộ đội. Đề cập đến vị trí vai trò xây dựng kinh tế, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, nêu rõ: “Sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động, lực lượng khoa học và cơ sở vật chất - kỹ thuật của quân đội để tham gia xây dựng kinh tế và củng cố hệ thống công nghiệp quốc phòng. Coi trọng đầu tư chiều sâu, phát huy năng lực sản xuất của các xí nghiệp công nghiệp quốc phòng hiện có. Xây dựng và từng bước thực hiện quy hoạch dài hạn và kế hoạch 5 năm về công nghiệp quốc phòng. Hoàn thành việc chuyển các xí nghiệp quốc phòng sang cơ sở quản lý mới. Hiệu quả làm kinh tế của quân đội được xem xét trên cả hai mặt kinh tế, xã hội và quốc phòng”(2).

Được phép của Nhà nước, Bộ Quốc phòng thành lập thêm một số đơn vị làm kinh tế trên một số lĩnh vực quan trọng. Tháng 6-1993, thành lập Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn gồm 8 công ty xây dựng (470-472, 565, 118, 334, 384, 98, 99), 4 công ty sản xuất vật liệu và vận tải, 2 xí nghiệp khai thác than; thành lập 4 doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty miền Tây và 5 doanh nghiệp trồng, khai thác cao su thuộc Tổng Công ty miền Trung. Đến năm 1991, toàn quân có 302 doanh nghiệp hoạt động trong 18 ngành kinh tế quốc dân với tổng số vốn cố định và vốn lưu động tăng 93% so với năm 1991, trong đó 278 doanh nghiệp được Bộ giao vốn để bảo đảm và phát triển. Ngoài ra, các doanh nghiệp quân đội còn tạo vốn bằng cách liên doanh với nước ngoài. Cuối năm 1994, toàn quân có 34 liên doanh được Nhà nước cấp giấy phép đầu tư hơn 300 triệu đôla (nước ngoài góp 50%-70% tổng số vốn). Nhờ có biện pháp quản lý vốn hợp lý, năng động trong tổ chức sản xuất, kinh doanh, thực hiện tốt các chính sách, chế độ, pháp luật của Nhà nước, các doanh nghiệp trong quân đội đã dần thích nghi, đứng vững trong cơ chế thị trường, canh tranh được với các doanh nghiệp Nhà nước. Năm 1994, doanh thu các doanh nghiệp quốc phòng tăng 74,8% so với năm 1993 và tăng gấp 6,9 lần năm 1991. Các khoản nộp ngân sách năm 1994 tăng gấp 4,8 lần so với năm 1991.

Tháng 5-1995, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị quán triệt Nghị quyết số 06 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về nhiệm vụ lao động sản xuất và làm kinh tế của quân đội. hội nghị nêu rõ: Mục tiêu lao động sản xuất và làm kinh tế của quân quân đội là giữ gìn và từng bước phát triển năng lực sản xuất quốc phòng, góp phần nâng cao sức chiến đấu của quân đội, tạo nguồn thu tài chính bổ sung cho các nhu cầu thiết yếu, nâng cao mức sống và giải quyết chính sách của quân đội; tạo nên thế bộ trí lực lượng sản xuất theo lãnh thổ phù hợp với chiến lược kinh tế, quốc phòng và góp phần vào sự ổn định, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Trong khi đó, công tác hậu cần toàn quân cũng có nhiều cải tiến về tạo nguồn, phương thực bảo đảm, thanh toán, bảo đảm thanh toán, bảo đảm lượng dự trữ vật chất đủ số lượng và chất lượng cho sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt, phong trào xây dựng “bếp nuôi quân giỏi - quản lý tốt”, tăng gia theo mô hình VAC (trồng rau, nuôi gia súc, gia cầm, ao cáo) được đẩy mạnh. Nhiều đơn vị thuộc Quân khu 2, Quân khu 3, Quân khu 9 tự túc được phần lớn rau xanh, chất đốt, tăng một phần thịt cá cho bữa ăn hằng ngày. Ngoài ra, việc tăng gia, trồng rừng, nét mới trong làm kinh tế của các đơn vị là việc tổ chức các cơ sở hoạt động kinh tế theo từng cấp.


(1) Báo cáo tổng kết về công tác huấn luyện chiến đấu 5 năm 1991-1995, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.
(2) Hồ sơ B3, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:54:04 pm
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, quân và dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu đáng kể. Nền kinh tế nước ta bước đầu có tích lũy nội bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công tác bảo đảm hậu cần cho quân đội được đổi mới, phát huy hiệu quả trên các mặt. Đời sống của bộ đội được ổn định và cải thiện một phần. Định lượng lương thực, thực phẩm tiêu chuẩn ăn của bộ đội được nâng cao phù hợp với tính chất lao động từng ngành nghề. Nhìn chung, bộ đội được bảo đảm ăn đủ, ăn hết tiêu chuẩn, kể cả các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ở biên giới và hải đảo.

Cùng với cả nước, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân đã giành được nhiều thành tựu đáng kể. Song, thử thách lớn nhất tác động đến tâm lý, tư tưởng và hành động của cán bộ, chiến sĩ là sự sụp đổ của chù nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ giảm sút lòng tin, dao động tư tưởng ảnh hưởng đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong bối cảnh đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng bản lĩnh chính trị, tư tưởng trong lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân giữ vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, một trong những nội dung cơ bản thường xuyên theo kế hoạch 5 năm (1991-1995) được chú trọng là công tác chính trị, tư tưởng theo yêu cầu mới. Nhờ tăng cường công tác đảng, công tác chính trị, trình độ và bản lĩnh chính trị của bộ đội được rèn luyện trước thử thách mới và nâng lên một bước mới. Quân đội nhân dân Việt Nam đã thể hiện sự nhất trí cao với đường lối, quân điểm cách mạng của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, kiên định sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trước tình hình biên giới Tây Nam, cả trên biển và đất liền có những diễn biến phức tạp, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; các cấp lãnh đạo, chỉ huy phải tuyên truyền cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nâng cao nhận thức ý thức trách nhiệm theo quan điểm, lập trường của Đảng.

Trong các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của lực lượng vũ trang của quân đội, công tác dân vận - tuyên truyền đặc biệt được được biệt chú trọng, nhằm xây dựng quan hệ tốt với địa phương, với nhân dân ở nơi đóng quân, dù là đóng quân tạm thời trong khi đi huấn luyện, dã ngoại hay diễn tập. Quân khu 1, Quân khu 5 đã đẩy mạnh công tác dân vận được Tổng cục Chính trị đánh giá cao, mang ý nghĩa chính trị thiết thực, hiệu quả. Quân khu 7 tăng cường xây dựng các cơ sở chính trị, phối hợp với đơn vị bạn và địa phương xây dựng địa bàn an toàn, môi trường văn hóa lành mạnh, tổ chức kiểm tra Đảng, xây dựng nguồn, phân loại và quy hoạch cán bộ; đồng thời, trích một số quỹ để thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên, tạo sự gắn bó chặt chẽ quân với dân.

Vừa coi trọng công tác tư tưởng và công tác tổ chức trong xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, các cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên trong toàn quân vừa tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức bộ đội thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa VII), Nghị quyết Đảng ủy Quân sự Trung ương và Chỉ thị của Tổng cục Chính trị về công tác vận động quần chúng. Toàn quân nhận thức sâu sắc công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ có tầm quan trọng. Bằng nhiều hình thức hoạt động tuyên truyền giáo dục và tổ chức sinh hoạt dân chủ đã làm cho mọi cấp, mọi quân nhân đều nhận thức rõ và có ý thức trách nhiệm làm tốt việc củng cố đoàn kết cán bộ, chiến sĩ, thực hiện dân chủ nội bộ, thống nhất ý chí và tăng cường công tác dân vận, xây dựng và củng cố mối quan hệ máu thịt quân với dân, cùng nhau chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với nhiều việc làm cụ thể, thiết thực, toàn quân đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy Đảng và chính quyền, đoàn thể địa phương xây dựng cơ sở chính trị và địa bàn an toàn, kịp thời làm dịu các “điểm nóng”, góp phần giữ vững ổn định chính trị khu vực và ổn định chính trị trên cả nước, tạo được lòng tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội.

Quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, sáng tạo, Quân đội nhân dân Việt Nam đã từng bước đổi mới, đẩy mạnh xây dựng quân đội nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đi đôi với tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng vững mạnh toàn diện. Các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân đã tăng cường sức mạnh chính trị, lấy sức mạnh chính trị làm cơ sở để nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, sẵn sàng chiến đấu góp phần ngăn chặn, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh tổ của Tổ quốc.

Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô tiếp tục tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước sự phê phán gay gắt và bị tiến công từ nhiều phía. Các thế lực thù địch tìm mọi thủ đoạn phá hoại cách mạng nước ta, trọng tâm chống phá làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò của quân đội và công an.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:55:36 pm
Trong khi công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành tựu rõ rệt, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ “nâng cao sức mạnh tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu để đối phó với các kiểu chiến tranh có thể xảy ra”(1). Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, nhằm nâng cao sức chiến đấu và tiềm lực quốc phòng, nâng cao nhận thức quan điểm, gắn bó chặt chẽ quân với dân, bảo đảm lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nhân dân nói riêng luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng và nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, góp phần cùng cả nước giữ vững ổn định về chính trị.

Xây dựng bản lĩnh chính trị được quán triệt sâu sắc trong các cuộc diễn tập. Ngày 5-4-1994, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 158-CT về Công tác chính trị trong diễn tập TN-94. Chỉ thị nêu rõ: Trong diễn tập TN-94, cấp ủy và chỉ huy đơn vị phải khẩn trương rà xét, củng cố, kiện toàn tổ chức, sắp xếp cán bộ, điều chỉnh đảng viên trong các đơn vị để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ diễn tập. Quán triệt sáu sắc quan điểm chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, kết hợp tác chiến của các binh đoàn chủ lực với các lực lượng ở khu vực phòng thủ và tư tưởng chỉ đạo chiến dịch vận dụng vào nội dung huấn luyện, diễn tập, bảo đảm thiết thực, sát đối tượng tác chiến.

Tiếp đó, ngày 14-4-1995, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 105/CT về Công tác đảng, công tác chính trị trong huấn luyện diễn tập chiến dịch, nhấn mạnh: Toàn quân quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự và những tư duy mới về quốc phòng, an ninh của Đảng, nhất là quan điểm về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, về sự kết hợp quốc phòng với an ninh, kết hợp tác chiến giữa các lực lượng trong khu vực phòng thủ, tư tưởng chỉ đạo và nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch. Trên cơ sở đó, vận dụng vào nội dung huấn luyện diễn tập trong từng loại hình chiến dịch một cách thiết thực, sát với đối tượng tác chiến và thực tế chiến đấu, phù hợp với biên chế, trang bị và cách đánh của lực lượng vũ trang ta.

Đánh giá về sự phấn đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, họp tháng 1-1994 tại Hà Nội, nêu rõ: “Các lực lượng vũ trang cùng toàn dân có nhiều có gắng tiếp tục đổi mới trên lĩnh vực quốc phòng và an ninh, xây dựng lực lượng, thực hiện có kết quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định chính trị, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước”(2). Đã “củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, triển khai xây dựng các khu vực tỉnh, thành. Đã điều chỉnh chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia và đổi mới phương pháp hoạt động cho phù hợp với tình hình mới, nắm tình hình và đấu tranh có hiệu quả hơn với các hoạt động của các thế lực thù địch”(3).

Nhằm đánh giá kết quả xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện cấp trung đoàn toàn quân, cuối năm 1995, Bộ Quốc phòng tổ chức khảo sát, kiểm tra một số đơn vị ở các quân khu, quân đoàn, quân binh chủng. Nội dung kiểm tra gồm: Công tác huấn luyện chiến đấu, khả năng sẵn sàng cơ động nhận nhiệm vụ, thực hiện các quy định về tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị, công tác đảng, công tác chính trị, công tác hậu cần, kỹ thuật. 37 đơn vị được chọn khảo sát kiểm tra đều đạt tiêu chuẩn vững mạnh toàn diện, trong đó có 36 đơn vị đạt mức khá, giỏi, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quy, từng bước hiện đại, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tại Hội nghị tổng kết xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện cuối năm 1995, Bộ Quốc phòng đánh giá: Qua 6 năm triển khai xây dựng trung đoàn và 3 năm xây dựng lữ đoàn, sư đoàn vững mạnh toàn diện đã khẩn trương xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện là đúng đắn, làm cơ sở cho toàn quân thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quy, từng bước hiện đại, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tuy năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cửa tổ chức Đảng trong quân đội đã được tổ chức, song vẫn còn có những hạn chế ảnh hưởng đến mức độ phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Hội nghị khẳng định chủ trương xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện là đúng đắn, làm cơ sở để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quy, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao.

Như vậy, trong 5 năm (1991-1995), cả nước tập trung khắc phục khó khăn, ổn định đời sống, đồng thời tiếp tục thực hiện điều chỉnh bố trí lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước, tăng cường khả năng và sức mạnh chiến đấu ở các khu vực phòng thủ trọng điểm quốc gia và từng tỉnh, thành phố, chấn chỉnh tổ chức biên chế, giảm mạnh quân thường trực, coi trọng huấn luyện và quản lý lực lượng dự bị động viên, gắn chặt với củng cố, nâng cao chất lượng dân quân tự vệ. Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu và bước trưởng thành mới của đất nước trong những năm đầu của thời kỳ đất nước đổi mới là cơ sở quan trọng và tạo niềm tin vững chắc cho toàn dân, toàn quân tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân vững mạnh, góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


(1) Hồ sơ A4, tài liệu lưu tại Văn phòng Tổng cục Chính trị.
(2) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, t.III, tr.416.
(3) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.416.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:58:36 pm
3. Tăng cường thế trận quốc phòng và an ninh trong những năm đầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Những thành tựu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của quân và dân ta trong những năm 1986-1995 đã đưa đất nước vượt qua tình thế hiểm nghèo; đồng thời, tạo tiền đề cần thiết để đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đất nước ta chuyển sang giai đoạn xây dựng trong hoàn cảnh quốc tế và khu vực tiếp tục có những chuyển biến. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết theo đuổi “chiến tranh không cần chiến tranh” với những thủ đoạn kết hợp kinh tế, văn hóa, chính trị, tư tưởng, quân sự, ngoại giao, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, hòng đưa nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Chuẩn bị tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, trong những tháng đầu năm 1996, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, đồng thời tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Từ ngày 6 đến ngày 9-5-1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ VI khai mạc tại Thủ đô Hà Nội. Đánh giá về thực hiện nhiệm kỳ 5 năm 1991-1995, Đại hội nêu rõ: Trong đường lối đổi mới toàn diện, Đảng tiếp tục có những đổi mới quan trọng trong tư duy quốc phòng và quân sự. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc được củng cố. Các khu vực phòng thủ tỉnh, thành, huyện, quận, xã, phường - nền tảng của nền quốc phòng toàn dân được tiếp tục triển khai xây dựng, đi dần vào chiều sâu… Chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội được nâng lên một bước toàn diện hơn”(1).

Về phương hướng nhiệm vụ quốc phòng trong nhiệm kì 5 năm 1996-2000, Đại hội xác định: “Phải đạt cho được các yêu cầu chủ yếu: Xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân thực sự vững mạnh; tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, trước hết là của quân đội nhân dân. Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, đối phó có hiệu quả các tình huống phức tạp, xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, củng cố và tăng cường nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội"(2).

Tại Đại hội, nhiều đại biểu đề nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương phải tăng cường hơn nữa đối với việc chỉ đạo hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội; nhanh chóng khôi phục chế độ chính ủy, chính trị viên, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng trước tình thế khó khăn phức tạp mới.

Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ VI khẳng định toàn quân cùng với toàn Đảng, toàn dân hoàn toàn nhất trí với quyết định của Trung ương Đảng chuyển đất nước sang thời kỳ phát triển mới, tiếp tục đổi mới lĩnh vực quân sự, quốc phòng trong tổng thể công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của cách mạng, trong tâm là xây dựng Đảng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, làm nòng cốt cùng toàn dân ngăn chăn, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia.

Từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc trọng thể tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Đây là đại hội quan trọng, quyết định chuyển cách mạng Việt Nam sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đất nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh thế giới có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. “Chế độ xã hội chủ nghĩa ở ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thơi đại: loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn co bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giải cấp tiếp dục diễn ra dưới nhiều hình thức”(3).

Tình hình thế giới và khu vực tác động sâu sắc đến đất nước ta. Bên cạnh những thuận lợi to lớn và cơ bản là “những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới”(4); chúng ta cũng gặp những thách thức lớn: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp. Có những thế lực vẫn tiếp tục mưu toan thực hiện diễn biến hòa bình, thường xuyên dùng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, hòng can thiệp vào nội bộ nước ta...”(5).

Trước tình hình đó, Đại hội xác định đưa nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới cần tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước. Mục tiêu cảu công nghiệp hóa, hiện đai hóa: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”(6).


(1), (2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr.616-617.
(3), (4), (5), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.76, 78, 79, 80.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 05:59:42 pm
Đánh giá về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong 5 năm thực hiện Nghị quuyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII trình Đại hội VIII, nêu rõ: Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập, chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố.

Đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh 5 năm 1996-2000 và những năm đầu thế kỷ XXI, Đại hội xác định: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt đông gây mất ổn định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả mọi loại tội phạm, bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội”(1).

Để thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới, Đại hội nhấn mạnh cần tập trung nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Đảng:

- “Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế.

- Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có quan hệ khăng khít với nhau của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa; phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.

- Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng lực lượng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá ta.

- Hoàn thành hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thế chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh.

- Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh”(2).

Triển khai thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Đại hội VIII, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn, hăng hái phấn đấu, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Quân và dân cả nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nỗ lực thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và các chương trình kinh tế, xã hội của kế hoạch 5 năm 1996-2000, tăng cường thế trận quốc phòng và an ninh trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến sâu sắc, phức tạp.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.118-119.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.119-120.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:01:24 pm
Đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế sau nhiều biến cố chính trị ở Đông Âu và Liên Xô đã liên tục điều chỉnh chiến lược an ninh, thi hành hàng loạt chính sách áp đặt các tiêu chuẩn giá trị Mỹ cho toàn thế giới, nhằm thiết lập một trật tự thế giới một cực do Mỹ đứng đầu. Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Đây là phương thức chủ yếu mà các thế lực thù địch sử dụng nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng tập hợp những phần tử phản động người Việt lưu vong hình thành các tổ chức phản động, đưa về Việt Nam móc nối với những phần tử chống đối, phản động trong nước, nhất là ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc đòi “tự do nhân quyền”, âm mưu tiến hành các hoạt động chống đối, hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ can thiệp vũ trang. Đặc biệt, các thế lực thù địch thông qua “mở cửa” hợp tác đầu tư của Việt Nam, lợi dụng nền kinh tế thị trường liên doanh, liên kết, lối sống thực dụng sa đọa, tìm cách xâm nhập, mua chuộc làm thoái hóa biến chất một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, làm suy yếu đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đất nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình thế giới và khu vực vừa hợp tác, vừa cạnh tranh gay gắt, với những biến động khó lường tác động đến mọi mặt đời sống xã hội và quốc phòng, an ninh. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Đường lối đối ngoại của Việt Nam xác định “củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(1).

Theo tinh thần đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế, chính trị trên thế giới; đồng thời, luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin, nhất là với các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. Hai Nhà nước Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục các cuộc đàm phán về vấn đề “biên giới trên đất liền” và “phân định vịnh Bắc Bộ” giữa hai nước.

Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ động tham gia các cuộc đối thoại và hợp tác an ninh song phương, đa phương, chính thức và không chính thức của Đông Nam Á cũng như châu Á - Thái Bình Dương. Tại các cuộc hội thảo và đối thoại an ninh đó, Việt Nam thường nêu các vấn đề trao đổi: Tìm kiếm các giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột. Đề xuất các biện pháp xây dựng lòng tin và công khai hóa lực lượng, trang bị vũ khí, chiến lược quốc phòng của các nước. Kiến nghị các phương án cắt giảm lực lượng vũ trang. Vai trò của lực lượng vũ trang trong việc giữ gìn, kiến tạo hòa bình ở mỗi nước và khu vực. Thông qua các cuộc hội thảo, Việt Nam đã tăng cường mở rộng quan hệ ngoại giao trên trường quốc tế và họp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực. Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực, trong đó bao gồm cả lĩnh vực quân sự, quốc phòng và an ninh, góp phần củng cố môi trường hòa bình để đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường thế trận quốc phòng và an ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Để tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, ngày 5-7-1996, Thủ tưởng chính phủ ban hành Nghị định số 41/CP Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Quốc phòng. Điều 1 của Nghị định quy định: “Bộ Quốc phòng là cơ quan của Chính phủ, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị mà trực tiếp là Đảng ủy Quân sự Trung ương và sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quốc phòng trong phạm vi cả nước và tổ chức thực hiện xây dựng, quản lý, chỉ huy quân đội nhân dân, dân quân tự vệ nhằm củng cố vá tăng cường quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(2).

Căn cứ vào nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh trong 5 năm 1996-2000 và dự báo không có hoặc ít có khả năng xảy ra chiến tranh xâm lược đối với nước ta, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng, bổ sung trình Bộ Chính trị phê chuẩn “Quyết tâm phòng thủ cơ bản bảo vệ Tổ quốc” và “Quyết tâm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”, “Kế hoạch chống chiến tranh xâm lược quy mô lớn, quyết tâm phòng thủ bảo vệ biên giới, vùng trời, vùng biển - đảo và thềm lục địa”. Các quyết tâm, kế hoạch chiến lược thể hiện quan điểm của Đảng gắn quốc phòng với an ninh, quốc phòng với kinh tế, làm cơ sở triển khai thế trận phòng thủ, kết hợp kinh tế với quốc phòng, ổn định chính trị để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.

Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng chỉ đạo các quân khu, quân chủng, binh chủng xây dựng kế hoạch cụ thể bảo vệ các khu vực trọng điểm, vùng sâu, vùng xa như: Kế hoạch bảo vệ vùng biển Tây Nam (Thổ Chu, Phú Quốc); Kế hoạch bảo vệ vùng biển Đà Nẵng, Phú Quý, Cam Ranh; Kế hoạch bảo vệ căn cứ địa hậu phương Tây Nguyên và một số địa bàn trọng yếu ở vùng Tây Bắc và Đông Bắc.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.120.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.829.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:02:13 pm
Nhằm quy hoạch tổng thể quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế của đất nước, ngày 24-2-1996, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 189/CT-QP, nêu rõ: “Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, Chính phủ đã có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội đất nước cho tới năm 2000-2010 nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đất nước ta sớm thoát khỏi một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Đây là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu hiện nay của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch kinh tế, xã hội trong tình hình hiện nay là hết sức cấp bách và quan trọng để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược”(1).

Căn cứ vào đặc điểm của từng vùng, miền, phương châm quy hoạch tổng thể quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế, xã hội theo các yêu cầu:

1- Xây dựng quy hoạch phát triển không đảo lộn thế bố trí chiến lược, thế phòng thủ cơ bản, bảo vệ các địa hình, công trình phòng thủ có giá trị, đồng thời tạo điều kiện phát triển kinh tế, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, khai thác hiệu quả, bảo tồn được các di tích lịch sử, văn hóa.

2- Gắn yêu cầu quốc phòng với kinh tế, quy hoạch kế hoạch tổng thể đến quy hoạch kế hoạch từng vùng, từng ngành; có phương án phối hợp cả trên mặt đất, trên các đảo ven biển, dưới lòng đất, trên không.

3- Xây dựng nền công nghiệp nói chung, đặc biệt các khu công nghiệp trọng điểm phải gắn với tự bảo vệ và được bảo vệ vững chắc.

Trước tình hình mới, các Quân khu 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9 và Quân khu Thủ đô điều chỉnh các cơ quan quân sự địa phương theo sự chia tách, tái lập một số tỉnh cũ trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội kết hợp với quốc phòng và an ninh của Nhà nước. Theo chủ trương đó, trong những năm cuối thế kỷ XX, các quân khu tiến hành điều chỉnh địa giới hành chính quân sự tỉnh, huyện tái lập.

Quân khu 1 giải thể bộ chỉ huy quân sự 2 tỉnh Hà Bắc và Bắc Thái để tổ chức bộ chỉ huy quân sự các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Bắc Kạn (12-1996); đồng thời thành lập Ban chỉ huy quân sự huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn (8-1998) và các Ban chỉ huy quân sự các huyện Tiên Du, Từ Sơn, Gia Bình, Lương Tài tỉnh Bắc Ninh (9-1999).

Quân khu 2 giải thể Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Phú để tổ chức Bộ chỉ huy quân sự 2 tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc (12-1996); giải thể các Ban chỉ huy quân sự các huyện Phong Châu, Tam Thanh để tổ chức các Ban chỉ huy quân sự của các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông, Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ (8-1999).

Quân khu 3 lần lượt giải thể Ban chỉ huy quân các huyện Tứ Lộc, Ninh Thanh, Kim Thi để tổ chức Ban chỉ huy quân sự các huyện Ninh Giang, Thanh Miện, Kim Đông, Ân Thi, Tứ Kỳ, Gia Lộc thuộc hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên (3-1996); giải thể Bộ chỉ huy quân sự 2 tỉnh Nam Hà và Hải Hưng để tổ chức Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên (12-1996); giải thể Ban hỉ huy quân sự huyện Phù Tiên để tổ chức các Ban chỉ huy quân sự các huyện Phù Cừ, Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên (3-1997); giải thể Ban chỉ huy quân sự các huyện Xuân Thủy, Nam Ninh để tổ chức Ban chỉ huy quân sự các huyện Xuân Trường, Giao Thủy, Nam Trực, tỉnh Nam Định (3-1997). Đồng thời, Quân khu 3 thành lập Ban chỉ huy quân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (3-1997) và Ban chỉ huy quân sự thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh (8-1998); chuyển giao nhiệm vụ và tổ chức Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây về trực thuộc Quân khu Thủ đô (8-1999); giải thể các Ban chỉ huy quân sự các huyện Mỹ Văn, Châu Giang để tổ chức các Ban chỉ huy quân sự các huyện Mỹ Hào, Văn Lâm, Yên Mỹ, Khoái Châu, Văn Giang tỉnh Hưng Yên (8-1999).

Quân khu 4 thành lập Ban chỉ huy quân sự các huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị, Quan Sơn, Mường Lát, Như Thanh, Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (3-1997); đổi tên Ban chỉ huy quân sự tỉnh Thiệu Hóa thành Ban chỉ huy quân sự huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa (3-1997).

Quân khu 5 thành lập Ban chỉ huy quân sự huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắc Lắc (3-1996), thành lập Ban chỉ huy quân sự các quận Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu 5 thuộc thành phố Đà Nẵng và Ban chỉ huy quân sự Ia Grai, tình Gia Lai (6-1999), giải thể Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng để tổ chức Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam và Bộ chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng (12-1996); chuyển giao nhiệm vụ và tổ chức hai Bộ chỉ huy quân sự hai tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng về trực thuộc Quân khu 7 (4-1999). Đổi tên Ban chỉ huy quân sự huyện Giằng thành Ban chỉ huy quân sự huyện Nam Giang tỉnh Quảng Nam (11-1999).

Quân khu 7 giải thể Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Sông Bé để tổ chức các Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh Bình Dương, Bình Phước (12-1996), giải thể Ban chỉ huy quân sự huyện Thủ Đức để tổ chức Ban chỉ huy quân sự các quận Thủ Đức, Quận 2, Quận 9, Quận 7, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh (1-1997); thành lập các Ban chỉ huy quân sự các huyện Dầu Tiếng, Phú Giáo, Dĩ An, tỉnh Bình Dương (8-1999), thành lập Bộ chỉ huy quân sự thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (9-1999), thành lập Ban chỉ huy quân sự thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước (10-1999).

Quân khu 9 giải thể Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Minh Hải để tổ chức các Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu (12-1996); thành lập Ban chỉ huy quân sự thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang (8-1998), Bộ chỉ huy quân sư thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (6-1999), Ban chỉ huy quân sự thị xã Vị Thanh, tỉnh Cần Thơ (6-1999), đổi tên Ban chỉ huy quân sự huyện Hà Tiên thành Ban chỉ huy quân sự huyện Kiên Giang, tỉnh Kiên Giang (6-1999), Ban chỉ huy quân sự huyện Vị Thanh thành Ban chỉ huy quân sự huyện Vị Thủy, tình Cần Thơ (8-1999).

Quân khu Thủ đô thành lập Ban chỉ huy quân sự các huyện Thanh Xuân, Cầu Giấy (12-1996), thành lập Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô (8-1999), đồng thời tiếp nhận Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây (10-1999).


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.820.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:03:22 pm
Trên cơ sở quy hoạch hậu phương chiến lược, Bộ Quốc phòng phối hợp với các cơ quan nhà nước (Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nghiên cứu phân vùng chiến lược; đồng thời, tiếp tục rà soát đất đai quốc phòng, thực hiện Luật đất đai, dành một diện tích lớn đất chuyển sang xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, bảo đảm hậu phương trên các hướng tác chiến chiến lược của từng miền và chung cả nước.

Bộ Tổng tham mưu cùng các tổng cục nghiên cứu đề ra kế hoạch xây dựng vùng chiến lược Tây Nguyên và căn cứ hậu phương chiến lược Tây Nguyên theo từng năm và 5 năm 1995-2000; xây dựng Đề án “Kết hợp phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng” trong xây dựng và bảo vệ căn cứ chiến lược Tây Nguyên, các vùng miền núi, duyên hải Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ trong những năm 1992-2000. Các vùng miền khác được triển khai thực hiện từng bước theo kế hoạch chung phát triển kinh tế, xã hội kết hợp vơi quốc phòng, an ninh. Đồng thời, theo sự phát triển của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Bộ Quốc phòng tham gia cùng các đoàn thanh tra của Chính phủ tiến hành khảo sát những khu vực liên quan đến quân sự để kết hợp kinh tế với quốc phòng, bảo đảm phòng thủ an ninh quốc gia.

Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội đất nước của Chính phủ và quy hoạch tổng thể quốc phòng kết hợp với phát triẻn kinh tế đất nước. Bộ Quốc phòng chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ, nền tảng của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.

Qua tổng kết thực tiễn xây dựng khu vực phòng thủ trong những năm trước đây và căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Bộ Quốc phòng xác định: “Khu vực phòng thủ của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ở địa phương, có chức năng bảo vệ lãnh thổ (đất, trời, biển) địa phương, bảo vệ chế độ, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân, bảo vệ tiềm lực mọi mặt của địa phương theo một cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy thống nhất”(1).

Nhiệm vụ cơ bản của khu vực phòng thủ được xây dựng vững chắc về chính trị, kinh tế, xã hội phát triển, quân sự mạnh, tích lũy tiềm lực toàn diện cho địa phương và chi viện chung, làm cho địch phải sa lầy, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Yêu cầu đối với khu vực phòng thủ: “Phải có khả năng thường xuyên độc lập, tự túc bảo vệ địa phương mình lâu dài trong thế trận chung, chủ động đánh địch ngay từ đầu, tiến công kiên quyết, bám trụ kiêm cường, tiêu hao tiêu diệt địch, phối hợp chặt chẽ với quân chủ lực”(2). Cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy trong khu vực phòng thủ “Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và điều hành theo pháp luật, cơ quan quân sự, công an, các ban - ngành, Mặt trận - đoàn thể nhân dân làm tham mưu theo chức năng và tổ chức thực hiện; chỉ huy trưởng quân sự (công an) chỉ huy thống nhất các lực lượng thuộc quyền”(3).

Xây dựng khu vực phòng thủ là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là lực lượng đóng vai trò nòng cốt, thường xuyên được kiện toàn về tổ chức, biên chế, trang bị, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sẵn sàng đối phó hiệu quả với mọi tình huống phá hoại của các thế lực thù địch.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội khóa VI, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng triển khai thực hiện kế hoạch xây dưng lực lượng 5 năm 1995-2000 theo phương châm xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, theo nguyên tắc cơ cấu tổ chức biên chế đủ, gọn, mạnh, hợp lý.

Theo phương hướng đó, Đảng ủy Bộ Tổng tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng ra Nghị quyết số 119/NQ ngày 15-11-1996, xác đình: Tiếp tục quán triệt sâu sắc mục đích yêu cầu, chỉ lệnh về việc chấn chỉnh tổ chức, giảm biên chế cơ quan, góp phần cải cách hành chính quốc gia nhằm làm cho cơ quan tinh, gọn, mạnh, nâng cao chất lượng, đủ sức đáp ứng được yêu cầu giúp Bộ chỉ đạo phòng thủ tác chiến, xây dựng và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy và nâng cao chất lượng toàn diện các lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng.

Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, cơ quan huấn luyện chiến đấu toàn quân đổi tên thành cơ quan quân huấn. Cơ quan tổ chức động viên toàn quân đội thành cơ quan quân lực. Ngày 24-12-1998, Bộ Quốc phòng thành lập Cục Kinh tế và Cục Kế hoạch và Đàu tư tực thuộc Bộ Quốc phòng; đồng thời, đổi tên Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế thành Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng. Các Tổng cục Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật kiện toàn tổ chức biên chế một số cơ quan, đơn vị cho phù hợp với chức năng nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Ngày 28-3-1998, Quốc hội thông qua Pháp lệnh Cảnh sát biển Việt Nam. Tiếp đó, ngày 27-4-1998, Chủ tịch nước ký Lệnh số 3/L-CTN công bố Pháp lệnh Cảnh sát biển Việt Nam,
 
Ngày 21-7-1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 53/1998/NĐ-CP “Về tổ chức hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam” và giao cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tổ chức, quản lý. Cảnh sát biển Việt Nam ra đời thể hiện sự đổi mới về cơ cấu tổ chức biên chế của quân đội, của Quân chủng Hải quân, đáp ứng quá trình nhất thể hóa ASEAN, hợp tác an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang có sự tranh chấp về chủ quyền biển, đảo trên biển Đông và quá trình hội nhập quốc tế của đất nước.


(1) Lịch sử Cục Tác chiến (1945-2005), Sđd, tr.849.
(2) Lịch sử Cục Tác chiến (1945-2005), Sđd, tr.849.
(3) Lịch sử Cục Tác chiến (1945-2005), Sđd, tr.849.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:05:20 pm
Quân chủng Phòng không và Quân chủng Không quân hợp nhất thành Quân chủng Phòng không - Không quân (14-7-1999) theo Nghị quyết của bộ Chính trị vá Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đây là bước chấn chỉnh về tổ chức lực lượng phòng không - không quân nhằm bảo đảm có lực lượng tinh gọn, tăng cường chỉ huy thống nhất, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình mới.

Các binh đoàn chủ lực cơ động, các binh chủng, Bộ đội biên phòng tiếp tục được chấn chỉnh về tổ chức biên chế theo hướng tinh gọn. Bộ đội biên phòng được tổ chức chỉ huy thống nhất từ trung ương đến các đơn vị cơ sở thuộc Bộ Quốc phòng. Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng các tỉnh, thành phố, hải đoàn biên phòng trực thuộc Bộ Tư lệnh Biên phòng và chịu sự chỉ huy của tư lệnh quân khu, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố, chỉ huy trưởng vùng hải quân về nhiệm vụ phòng thủ tác chiến.

Hệ thống các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu, cơ quan khoa học, nhà máy cơ sở công nghiệp quốc phòng được kiện toàn một bước về tổ chức biên chế cho phù hợp với chức năng nhiệm vụ của mỗi loại hình tổ chức trong thời bình, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp cải cách giáo dục - đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cho quân đội, lực lượng vũ trang, góp phần đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Các trường sĩ quan trong toàn quân được nâng cấp từ bậc cao đẳng lên đại học. Ngày 21-6-1966, Thủ tướng Chính phủ quyết định nâng cấp Trường Đại học Ngoại ngữ quân sự thành Học viện Khoa học quân sự. Bộ Quốc phòng chỉ đạo Học viện sắp xếp tổ chức biên chế theo mô hình mới, xây dựng thành một trung tâm đào tạo sĩ quan chuyên ngành bậc đại học và sau đại học, đào tạo cử nhân ngoại ngữ cho các cơ quan, đơn vị toàn quân.

Cùng thời gian này, lực lượng chuyên trách làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế của quân đội được sắp xếp, kiện toàn tổ chức, lựa chọn mô hình thích hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo kế hoạch chung của Chính phủ và Nghị quyết số 06 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về nhiệm vụ lao động sản xuất và xây dựng kinh tế của quân đội.

Ngày 4-6-1996, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn, Tổng công ty 15 và Tổng công ty bay dịch vụ. Đánh giá về tình hình sắp xếp lại các doanh nghiệp kinh tế trong quân đội, Đảng ủy Quân sự Trung ương nêu rõ: “Các doanh nghiệp sau khi sắp xếp lại, đang đi dần vào ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, qua thực tế vẫn còn một số vấn đề cần được tiếp tục chấn chỉnh. Việc quán triệt Nghị quyết có nơi làm chưa sâu; một số doanh nghiệp sáp nhập chỉ trên hình thức mang tính sơ lược, chưa triệt để, định hướng phát triển một số doanh nghiệp còn lúng túng, hiệu quả đầu tư thấp, một số đơn vị còn có xu hướng thành lập thêm các doanh nghiệp mới; một số ngành nghề quân đội cần hạn chế nhưng vẫn có nơi muốn mở rộng”(1).

Ngày 22-6-1998, Bộ Quốc phòng quyết định “Về tiêu thức phân định các loại hình doanh nghiệp nhà nước trong quân đội”. Theo chủ trương đó, các doanh nghiệp nhà nước trong quân đội được phân định thành “doanh nghiệp quốc phòng”, “doanh nghiệp kinh tế, quốc phòng” và “doanh nghiệp kinh tế”, trong đó “doanh nghiệp quốc phòng” được xác định trong cơ cấu, tổ chức, biên chế của quân đội; quản lý lao động trong các loại hình doanh nghiệp nhà nước trong quân đội thực hiện theo quy định của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu về thực hiện Bộ luật Lao động trong quân đội.

Ngày 18-8-1998, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Nghị quyết Về việc quân đội tham gia lao động sản xuất, làm kinh tế, phát huy vai trò nòng cốt tham gia xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược. Quán triệt Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, ngày 22-8-1998, Bộ Quốc phòng thành lập Ban chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện các dự án kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược (còn gọi là Ban chỉ đạo 150). Tiếp đó, ngày 28-8-1999, Bộ tổ chức lễ công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Binh đoàn 16 trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Tổ chức biên chế quân đội được củng cố, chấn chỉnh ngày càng ổn định. Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu tập trung điều chỉnh quân số các đơn vị chiến đấu đạt tỷ lệ quy định, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng đề xuất Nhà nước ban hành một số chính sách giải quyết quân số dư thừa, chỉ đạo chặt chẽ công tác tuyển quân đủ số lượng, nâng cao chất lượng, thực hiện kế hoạch xuất ngũ đúng thời hạn theo luật định; thực hiện hiệu quả việc chuyển chế độ sang quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng, chiêu sinh đào tạo thợ chuyên môn kỹ thuật. Trên cơ sở điều chỉnh tổ chức biên chế quân đội, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu tập trung bảo đảm trang bị, điều chỉnh lượng dự trữ trên các hướng chiến lược, ưu tiên về chất lượng vũ khí trang bị cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, nhất là các đơn vị làm nhiệm vụ ở vùng biên giới, hải đảo.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.837.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:06:08 pm
*
*   *

Cùng với việc chấn chỉnh các đơn vị chủ lực, đơn vị làm nhiệm vụ kinh tế, lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên cũng được điều chỉnh phù hợp. Ngày 9-1-1996, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh về dân quân tự vệ, quy định: Chính phủ thống nhất quản lý về dân quân tự vệ trong phạm vi cả nước. Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ quản lý nhà nước về xây dựng, hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ, hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong việc xây dựng và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ.

Ngày 14-6-1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 25/CP về thi hành Pháp lệnh về dân quân tự vệ. Hằng năm, từ ngày 1 đến ngày 15-4, công dân trong độ tuổi dân quân tự vệ phải đăng ký danh sách tại xã, phường, thị trấn nơi thường trú hoặc nơi đang công tác, học tập, lao động. Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn nắm số lượng, chất lượng dân quân đăng ký và kết quả tuyển chọn của cơ sở để giúp ủy ban nhân dân tổ chức lực lượng dân quân thực hiện luân phiên trong thời hạn 4 năm. Các doanh nghiệp tổ chức lực lượng tự vệ khi cơ quan quân sự tỉnh, thành phố yêu cầu hoặc khi doanh nghiệp đề nghị và được cơ quan quân sự chấp thuận. Vũ khí, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ phải đăng ký, quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích theo quy định.

Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng, hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ, ngày 13-7-1996, Bộ Quốc phòng ra Thông tư số 1423/TT-QP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh và Nghị định về dân quân tự vệ. Bộ Quốc phòng xác định lực lượng được tổ chức tại xã, phường gọi là dân quân, lực lượng được tổ chức ở cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, trường học, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác (ngoài quốc doanh) gọi là tự vệ; tên gọi chung là dân quân tự về.

Mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động đến việc xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng. Trước thực trạng đó, việc xây dựng dân quân tự vệ chuyển sang vận thành theo cơ chế mới do Pháp lệnh và Nghị định về dân quân tự vệ xác định trở thành giải pháp phù hợp với đặc điểm thực tế đất nước trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng dân quân tự vệ ở các địa phương cũng như trên phạm vi cả nước từng bước được xây dựng, củng cố có số lượng thích hợp, chất lượng ngày càng cao, bảo đảm tin cậy về chính trị, được huấn luyện thường xuyên, đảm nhiệm chức năng, nhiệm vụ cùng toàn dân lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội và cùng các lực lượng an ninh, lực lượng vũ trang địa phương giữ gìn an ninh chính trị, bảo vệ trị an, trật tự an toàn xã hội ở các địa phương.

Đây là lần đầu tiên, Quốc hội ban hành Pháp lệnh về dân quân tự vệ, lực lượng chiến lược, một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước về tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng, góp phần củng cố, tăng cường quốc phòng và an ninh trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng ở từng địa phương và trên cả nước, kết hợp bố trí trên các hướng chiến lược của quân đội nhân dân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng), tạo thành thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa phương và trên quy mô toàn quốc.

Tháng 11-1996, Bộ Tổng tham mưu tổng kết 5 năm đổi mới công tác huấn luyện và hoạt động tác chiến trị an của dân quân tự vệ. Theo đó, trong 5 năm qua, thực hiện đổi mới công tác huấn luyện, lực lượng dân quân tự vệ cả nước đã có bước chuyển biến mới về chất lượng, thể hiện rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ trong giữ gìn bảo vệ trị an ở địa phương. Thiếu tướng Nguyễn Văn Rinh, Phó Tổng tham mưu trưởng đến dự Hội nghị, nhấn mạnh: Để tiếp tục đổi mới toàn diện công tác huấn luyện dân quân tự vệ đạt kết quả tốt, cấp ủy và chính quyền địa phương phải nhận thức đầy đủ nhiệm vụ huấn luyện là khâu trung tâm, thường xuyên của công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương.

Cùng với dân quân tự vệ, công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên cũng được quan tâm. Ngày 9-9-1996, Chủ tịch nước ký lệnh số 51-L/CTN công bố Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên với 7 chương và 37 điều. Điều 27 quy định: Bộ Quốc phòng giúp Chính phủ quản lý nhà nước về xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên; hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong việc xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên. Tư lệnh các quân khu giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên địa bàn quân khu.

Từ ngày 2 đến ngày 3-4-1997, Bộ Quốc phòng tiến hành sơ kết 5 năm (1992-1996) xây dựng lực lượng dự bị động viên. Đại tướng Đoàn Khuê, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và đại biểu Văn phòng Trung ương Đảng, Ủy ban Quốc phòng - An ninh của Quốc hội, các bộ, ngành tham dự. Hội nghị nhận định: 5 năm qua, công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên đã đạt được những kết quả cơ bản. Lực lượng dự bị động viên được sắp xếp đúng chuyên ngành quân sự, tăng 2,05% so với năm 1991. Công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng lực lượng dự bị động viên đã góp phần tạo sự chuyển biến nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền và sĩ quan, chiến sĩ. Từ ngay đến năm 2000 và những năm tiếp theo, phương hướng xây dựng lực lượng dự bị động viên được tiến hành theo cơ chế “cấp ủy lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và các cơ quan chức năng làm tham mưu, tổ chức thực hiện”(1).


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.847.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:06:26 pm
Để thực hiện tốt công tác động viên theo yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cùng với đẩy mạnh xây dựng lực lượng dự bị động viên, Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng công tác động viên công nghiệp. Trong quân đội, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 265/1999/QĐ-QP chuyển nhiệm vụ động viên công nghiệp phục vụ quốc phòng từ Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng về Bộ Tổng tham mưu và ra Chỉ thị số 1212/1999/CT-QP triển khai thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp phục vụ quốc phòng. Nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu là giúp Bộ Quốc phòng thực hiện công tác động viên công nghiệp:

1. Tham mưu, tổng hợp kế hoạch công tác động viên công nghiệp.

2. Phối hợp và hướng dẫn các tổng cục, các quân khu xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp hằng năm, 5 năm, kế hoạch năm đầu chiến tranh, tổng hợp báo cáo Bộ trình Chính phủ phê duyệt.

3. Chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan trong việc kiểm tra, đôn đốc, xây dựng và triển khai thực hiện công tác động viên.

4. Phối hợp với các cơ quan chức năng của Chính phủ, Bộ Quốc phòng soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về động viên công nghiệp và những văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện để trình cấp có thẩm quyền ban hành thực hiện trong cả nước.

Cùng thời gian này, Bộ Quốc phòng ra quyết định về việc xây dựng chiến lược trang bị đến năm 2010 và những năm tiếp theo; định hướng phát triển trang bị cho quân đội đến năm 2010 để báo cáo Bộ Chính trị, Nhà nước và Chính phủ. Tiếp đó, ngày 14-8-1999, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 1246/QĐ-BQP thành lập Hội đồng trang bị Bộ Quốc phòng thay Ban chỉ đạo 177 và Quyết định số 1247-QĐ-BQP thành lập Hội đồng mua sắm trang bị Bộ Quốc phòng. Hội đồng trang bị Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ giúp Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng. Hội đồng trang bị Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ giúp Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng trong định hướng chiến lược về xây dựng các kế hoạch trung hạn, dài hạn về trang bị của quân đội.

Sau một thời gian thực hiện, Bộ Quốc phòng kiện toàn cơ cấu tổ chức, biên chế, trang bị, góp phần đẩy mạnh các hoạt động giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự, nâng cao chắt lượng tổng hợp, khả năng và trình độ sẵn sàng chiến đấu, phòng ngừa và đập tan mọi âm mưu hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, xử lý hiệu quả các tình huống bất trắc, nỗ lực lao động sản xuất, góp phần xây dựng đất nước.

Trước những diễn biến phức tạp của thế giới, khu vực, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân luôn bám sát tình hình, nhiệm vụ của cách mạng, quán triệt sâu sắc chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng để nghiên cứu, triển khai xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Các lực lượng vũ trang luôn quán triệt, thực hiện những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, giữ vững trận địa chính trị tư tưởng, tích cực đấu tranh chống các quan điểm tư tưởng sai trái, phản động, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, không ngừng củng cố bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, củng cố phát triển quan hệ máu thịt với nhân dân, tỏ rõ là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân.

Trong xây dựng Đảng, cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp luôn thực hiện nghiêm các nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương về cán bộ và công tác cán bộ. nhờ vậy, chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ toàn quân có sự chuyển biến, bước đầu khắc phục được tình trạng thiếu cán bộ trung đội, từng bước bố trí hai cán bộ chính trị ở đại đội và tiểu đoàn. Công tác đào tạo nguồn cán bộ thường trực và dự bị được quan tâm phát triển.

Trong công tác dân vận, quân đội đã tăng cường các hoạt động gắn bó máu thịt quân với quân, nhất là ở vùng sâu, nơi khó khăn, tuyến biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số. Bộ đội biên phòng, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực làm công tác dân vận phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể của Mặt trận Tổ quốc, lực lượng an ninh, tuyên truyền, vận động nhân dân nắm vững và thực hiện đúng đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giúp dân xóa đỏi, giảm nghèo, phát triển kinh tế, văn hóa, vận động quần chúng vạch mặt các tổ chức và phần tử thù địch, phản động, phòng chống tệ nạn xã hội, làm dịu những điểm nóng, giữ vững ổn định chính trị.

Những kết quả xây dựng về chính trị trong 5 năm 1996-2000, nhất là xây dựng củng cố tổ chức Đảng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tạo nên nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ huấn luyện quân sự, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:06:51 pm
Về công tác tuyên truyền, toàn quân tiếp tục thực hiện theo phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, đặc biệt chấp hành nghiêm các điều lệnh, điều lệ, quy chế, quy định do Bộ Quốc phòng ban hành. Hệ thống giáo trình, tài liệu huấn luyện quân sự được biên soạn ngày càng hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu huấn luyện của các quân binh chủng, các ngành nghiệp vụ huấn luyện trong toàn quân. Các mặt bảo đảm huấn luyện (học cụ, thao trường, bãi tập...) được tăng cường.

Đội ngũ cán bộ trực tiếp huấn luyện thường xuyên được củng cố đủ về số lương, bảo đảm huấn luyện theo phân cấp. Từng cơ quan, đơn vị luôn bám sát thực tế, đối tượng tác chiến, yêu cầu nhiệm vụ, địa bàn hoạt động, đồng thời căn cứ vào tổ chức biên chế, trang bị hiện có và khả năng trang bị trong những năm tới, tiến hành huấn luyện phù hợp với nghệ thuật quân sự, kinh nghiệm chiến đấu và cách đánh truyền thống của Việt Nam.

Các đơn vị trong toàn quân thực hiện khá đồng bộ và hiệu quả 4 nội dung cơ bản về đổi mới công tác huấn luyện, kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ làm khâu trung tâm, then chốt, tăng cường huấn luyện thực hành động tác chiến thuật cơ bản từng cá nhân, phân đội, huấn luyện dã ngoại, huấn luyện đêm, hanh quân mang vác năng để rèn luyện bộ đội.

Nhiều lớp tập huấn, diễn tập, hội nghị, hội thi và hội thao được tổ chức theo các mùa huấn luyện trong năm 1996-2000. Bộ Tổng tham mưu tập huấn chiến thuật cho cán bộ cao cấp toàn quân, tổ chức các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ quân khu PT89, PT99 và PT2000. Các quân chủng, binh chủng, quân khu, quân đoàn tổ chức nhiều cuộc diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập chỉ huy - cơ quan, hội thao quốc phòng.

Toàn quân gắn huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị với thực hiện nghiêm túc các cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong các đơn vị quân đội”, “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm”, “Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đô thị, đường sắt và đường thủy nội địa trong quân đội”, tích cực chủ động phòng ngừa, bài trừ các tệ nạn xã hội, bảo đảm tỷ lệ quân số huấn luyện, công tác, sẵn sàng chiến đấu cao.

Công tác giáo dục quốc phòng toàn quân, nhất là cho học sinh, sinh viên được đẩy mạnh và ngày càng đi vào nền nếp. Các nội dung giáo dục về quốc phòng đã được đưa vào chương trình của các trường đại học và trung học. Đến cuối năm 1997, Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phối hợp thành lập được 4 trung tâm giáo dục quốc phòng tại Thái Nguyên, Đà Nẵng, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức được 93 khóa với 31.553 sinh viên, học sinh tham gia.

Học viện Quốc phòng mở các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý về quốc phòng, an ninh cho cán bộ của Đảng, Nhà nước. Khóa I bồi dưỡng lý luận quốc phòng an ninh cho cán bộ Đảng và Nhà nước tổ chức vào cuối năm 1996; các học viên tập trung quán triệt quan điểm quốc phòng, an ninh theo Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng và một số chuyên đề chính: Một số vấn đề lý luận chung về quốc phòng, an ninh trong xây dựng Tổ quốc; Quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của nước ta; Cơ chế Đảng lãnh đạo quốc phòng, quân sự và những vấn đề cơ bản trong quản lý nhà nước về quốc phòng; Công tác quốc phòng ở các bộ, ngành và địa phương; Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn mới; Nghiên cứu bổ trợ về chiến lược quốc phòng, an ninh các nước lớn và các nước trong khu vực.

Đối với lực lượng chuyên xây dựng kinh tế của quân đội, quá trình lao động sản xuất và kinh doanh luôn trong tình trạng cạnh tranh nên thị trường trong nước, ngoài nước ngày càng gay gắt và sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của một số nước khu vực Đông Nam Á.

Thực hiện Nghị quyết số 06 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về nhiệm vụ quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế trong thời kỳ đổi mới, Bộ Quốc phòng đã sắp xếp lại các doanh nghiệp trong quân đội dần ổn định tổ chức, biên chế, tạo khả năng tham gia xây dựng, phát triển đất nước, đặc biệt là phát huy vai trò nòng cốt xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược.

Các doanh nghiệp quân đội đều thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, quy định của Bô Quốc phòng, chủ động, nhạy bén trong sản xuất, kinh doanh, giữ vững từng bước phát triển thị trường đã có trên cơ sở nâng cao uy tín, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tìm kiếm thị trường mới, đẩy mạnh hợp tác, phối hợp giữa các doanh nghiệp, tập trung phát triển những ngành nghề truyền thống, mũi nhọn, phát huy ưu thế về tổ chức, kinh nghiệm, trang thiết bị, tránh kinh doanh kiểu manh mún kém hiệu quả, bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:07:15 pm
Cùng với các doanh nghiệp, toàn quân tích cực tham gia triển khai các dự án do Nhà nước giao (Chương trình 661, 773, biển đảo, xây dựng trạm trại nông nghiệp, xóa đói, giảm nghèo ở các địa bàn đặc biệt khó khăn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, căn cứ cách mạng cũ...) góp phần củng cố quốc phòng, an ninh, kết hợp với phát triển kinh tế, xã hội các địa phương. Trong hai năm 1999 và 2000, các đơn vị quân đội đã thực hiện hàng chục dự án trồng rừng, chăm sóc, khoanh nuôi, bảo vệ rừng; xây dựng các trang trại theo phương thức sản xuất kinh doanh mới; làm nòng cốt xây dựng các khu kinh tế, quốc phòng (kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược), góp phần bảo vệ, cải tạo môi trường sinh thái, xây dựng thế trận và lực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh tại chỗ. Từ những mô hình đã xây dựng, Đảng và Nhà nước giao cho quân đội tiếp tục hoàn thiện dự án khu kinh tế, quốc phòng Binh đoàn 15 (Quân khu 5) và đầu tư mới 11 khu kinh tế, quốc phòng khác.

Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng về an ninh do Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân luôn nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, thực hiện kế hoạch bảo vệ Tổ quốc, giải quyết các tình huống nảy sinh trên các hướng chiến lược, tập trung phòng chống, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Năm 1997, toàn quân tiến hành tổng kết 7 năm chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 698/CT-TM của Bộ Tổng tham mưu bổ sung kế hoạch chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ với phương châm dùng sức mạnh của quần chúng đấu tranh, dùng biện pháp chính trị là chủ yếu, lực lượng công an làm nòng cốt, lực lượng vũ trang địa phương giữ vai trò hỗ trợ, trong thực hành kết hợp chặt chẽ với các cấp ủy và chính quyền địa phương, với lực lượng an ninh theo cơ chế của khu vực phòng thủ, phát huy sức mạnh của toàn dân, lấy lực lượng tại chỗ là chính, đấu tranh toàn diện trên các lĩnh vực, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.

Để bảo đảm chiến đấu trong tình hình mới, trong đó đối phó với tình huống bạo loạn vũ trang, các quân khu, quân đoàn, quân chủng căn cứ vào chỉ lệnh sẵn sàng chiến đấu của Bộ, tổ chức diễn tập phỏng theo các phương án tác chiến phòng thủ, nhất là khi có các vụ việc xảy ra, trọng điểm là ở các thành phố lớn, các vùng trọng điểm của đất nước.

Trên hướng biên giới Tây Nam, song song với đấu tranh ngoại giao, các quân khu có biên giới chung với Campuchia tích cực tuần tra kiểm soát chặt chẽ các cửa khẩu, các khu vực trọng điểm, tổ chức xây dựng các khu vực phòng thủ, xây dựng làng xã, cụm xã, tăng cường lực lượng và cán bộ ở cơ sở, bảo đảm an ninh chính trị, chống buôn lậu, vượt biên trái phép, vi phạm quy chế biên giới, kết hợp chặt chẽ giữa các đồn biên phòng, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và nhân dân bảo vệ an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biên giới quốc gia.

Trên hướng biên giới phía Bắc của Tổ quốc, tình hình từng bước đi vào thế ổn định. Tháng 2-1999, trong chuyến thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa của đồng chí Lê Khả Phiêu - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo Đảng hai nước đã ra “Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc năm 1999”, xác định phương châm xây dựng quan hệ Việt - Trung, khái quát thành 16 chữ vàng “Làng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Tiếp đó, ngày 30-12-1999, tại Hà Nội, thay mặt Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Bộ trưởng Ngoại giao hai nước đã ký “Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc”, đánh dấu quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển lên tầm cao mới.

Ở biên giới phía Tây, hai nước Việt Nam - Lào ký hiệp định tạm thời về giải quyết một số công việc trên biên giới và thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa hai nước. Hằng năm, đại diện cấp cao Đảng, Nhà nước hai nước Việt Nam - Lào gặp nhau đàm phán, góp phần tăng cường quan hệ mọi mặt, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, góp phần giữ vững ổn định để xây dựng phát triển mỗi nước.

Từ năm 1998, các đơn vị tình nguyện của ta giúp Lào tổ chức tập huấn và diễn tập. Hằng năm, các đoàn cán bộ Bộ Quốc phòng sang công tác tại Lào. Ngoài việc cùng cán bộ bạn nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm các mặt quân sự, ta giúp bạn tuấn huấn về lý luận nghệ thuật quân sự, công tác tham mưu, làm xây dựng kế hoạch diễn tập theo thực tiễn ở Lào, trao đổi kinh nghiệm chức năng về quân sự; đồng thời, giúp Bộ Quốc phòng Lào quản lý, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mở cửa.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:07:38 pm
Với Quân khu 4, có một số đơn vị đang làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào, đầu năm 1999, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 4 họp đánh giá toàn diện việc hợp tác, kết nghĩa, phối kết hợp giúp bạn Lào, xác định các chủ trương, biện pháp về nhiệm vụ quốc tế đối với bạn trong tình hình mới. Trước mắt thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng Quân khu lần thứ VI đề ra là: Thường xuyên cùng cấp ủy, chính quyền, nhân dân các tỉnh kết nghĩa với bạn, chăm lo củng cố quan hệ, tình đoàn kết đặc biệt, truyền thống với cấp ủy, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc Lào trong tình hình phát triển mới, chú trọng tăng chất lượng chiều sâu hợp tác kết nghĩa, giáo dục các thế hệ kế tiếp, xây dựng biên giới hữu nghị vững chắc.

Trên phương hướng đó, các cơ quan và lực lượng vũ trang các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Sư đoàn 968 phối hợp với Sư đoàn 4 và lực lượng vũ trang 2 tỉnh Savanakhẹt, Khăm Muộn nắm, thông báo tình hình, đi sâu phân tích nêu rõ những âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, chống phá của các thế lực phản động quốc tế, lực lượng phỉ, bọn phản động lưu vong, đồng thời trao đổi kinh nghiệm huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng thế trận quốc phòng địa phương, xây dựng cơ sở địa bàn.

Quá trình giúp bạn, quân tình nguyện Việt Nam tại Lào đã có sự phối hợp hiệp đồng trong các đợt truy quét phỉ, bọn phản động lưu vong xâm nhập biên giới hiệu quả, nhất là các hướng Nghệ An, Quảng Trị, bảo vệ địa bàn, rút kinh nghiệm tốt cho ta và bạn. Các đơn vị tình nguyện tổ chức từng tổ, đội sản xuất bám địa bàn cùng bạn xây dựng cơ sở chính trị ở khu vực trung tâm Lạc Xao, Bôli Khămxay và mở rộng hoạt động trên đất bạn. Trên cơ sở đó, mở ra phương thức mới gắn hiệu quả sản xuất kinh doanh với giúp bạn xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng cơ sở chính trị, an ninh địa bàn, xây dựng hậu phương chiến lược.

Các tỉnh, lực lượng vũ trang, các đồn biên phòng dọc biên giới Việt - Lào duy trì tốt chế độ giao ban với bạn, cùng giải quyết các vấn đề phát sinh, giữ vững biên giới hữu nghị. Cấp ủy, chính quyền, lực lượng vũ trang, lực lượng biên phòng các tỉnh thực hiện chế độ giao ban thường xuyên, kịp thời, phát hiện tình hình, trao đổi biện pháp cùng chống xâm nhập, hoạt động phá hoại, chống tội phạm, buôn bán ma túy, vũ khí, chất nổ.

Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương xác định tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại bạn Lào cả trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Đối với lực lượng vũ trang, tiếp tục chăm lo giáo dục nhận thức, xác định rõ nhiệm vụ trực tiếp thường xuyên đối với cách mạng Lào. Lực lượng biên phòng tuyến biên giới, công ty hợp tác kinh tế trực tiếp làm nhiệm vụ quốc tế xây dựng ý thức và hành động đúng đắn, củng cố mối quan hệ đoàn kết đặc biệt truyền thống, nhất là quan điểm đối ngoại, giải quyết các vấn đề kinh tế, kết hợp kinh tế với xây dựng hậu phương chiến lược của bạn.

Quá trình triển khai thực hiện các nội dung giúp bạn đều có sự thống nhất giữa Bộ Quốc phòng hai nước. Đầu tháng 6-1999, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị bàn về tình hình và nhiệm vụ họp tác, giúp đỡ bạn Lào. Hội nghị nhận định: Vấn đề nghiên cứu tình hình Lào hiện nay là thiết thực, nhất là trước tình hình đang có những tác động mới phức tạp đến cả chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của bạn. Bộ Quốc phòng đề nghị các bộ, ban ngành của Đảng, Nhà nước vá các địa phương tiếp tục kết nghĩa hợp tác toàn diện với bạn. Tất cả nhằm thực hiện các chủ trương, kế hoạch phối hợp giúp bạn về quốc phòng kịp thời và hiệu quả theo đúng hiệp định, nghị định thư, quy chế đối ngoại. Hai Bộ quốc phòng cần trao đổi thống nhất sớm có chủ trương, biện pháp và văn bản ký kết hợp tác.

Trên hướng Biển Đông, nhất là các khu vực quàn đảo Hoàng Sa, Trường Sa, khu vực dầu khí, thềm lục địa của Việt Nam thường là những điểm nóng do có sự tranh chấp với một số nước trong khu vực. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Ban Biên giới Chính phủ phối hợp, sử dụng các biện pháp phù hợp nhằm bảo đảm giữ vững chủ quyền vùng biển, thềm lục địa, các hải đảo của Tổ quốc, ngăn chặn không để xảy ra xung đột quân sự. Theo xu thế giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng thương lượng và căn cứ vào “Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”, Việt Nam đã tiến hành đàm phán với các nước Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Campuchia về các vấn đề có tranh chấp giữa các nước tại vùng chống lấn trên biển và thềm lục địa.

Năm 1997, Việt Nam và Thái Lan đã phân định rõ ranh giới vùng biển và thềm lục địa giữa hai nước. Việt Nam và Malaixia hợp tác đầu tư khai thác chung dầu khi tại vùng chồng lấn trên biển giữa hai nước. Việt Nam tiếp tục các cuộc đàm phán với Trung Quốc về phân định Vịnh Bắc Bộ, đàm phán với Inđônêxia về phân định thềm lục địa.

Tháng 12-2000, trong chuyến thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa của Chủ tịch nước Trần Đức Lương, hai bên ra “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, ký “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” giữa hai nước.

Đi đôi với hoạt động đối ngoại, để bảo vệ chủ quyền đất nước trên Biển Đông, các quần đảo, đảo, bãi đá ngầm, thềm lục địa, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các kế hoạch bảo vệ khu vực Trường Sa và dầu khí, tổ chức các lực lượng phòng thủ, lực lượng tuần tra, kết hợp các hình thức khai thác thủy sản và dịch vụ biển, củng cố thiết bị các hạ tầng cơ sở quốc phòng và kinh tế biển để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.

Như vậy, trong những năm đầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996-2000), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa do Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII đề ra. Trong thành tựu chung đó, công cuộc xây dựng tăng cường thế trận quốc phòng và an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân và quân đội nhân dân đã đạt được những thành bước đầu rất quan trọng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Năm, 2016, 06:07:57 pm
*
*   *

Trải qua 15 năm xây dựng theo đường lối đổi mới của Đảng (1986-2000), đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội, ngoại giao. Đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vững vàng, tỉnh táo, nhạy bén trước những biến động của tình hình, luôn nắm vững quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chiến tranh và quân đội vào điều kiện cụ thể của cách mạng, phân tích, đánh giá đúng tình hình, kịp thời đổi mới tư duy về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và đề ra nhiều giải pháp phù hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong điều kiên mới, Đảng và Nhà nước đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của các ngành, các cấp, các địa phương và cả hệ thống chính trị thực hiện xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại để tạo ra thế mới.

Đồng thời với xây dựng tiềm lực, Đảng, Nhà nước luôn chú trọng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân, trên cơ sở điều chỉnh bố trí thế phòng thủ của đất nước, tiến hành rút gọn và giảm một mức đáng kể lực lượng thường trực; xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, đặc biệt là xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân ở các vùng trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, đẩy mạnh giáo dục quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.

Lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đã hoàn tành trọng trách là lực lương nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Được Đảng, Nhà nước và nhân dân chăm lo xây dựng trước những biến động phức tạp của tình hình, quân đội nhân dân luôn thể hiện lòng trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, vững vàng trong mọi tình huống, nỗ lực phấn đấu làm tròn chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, giữ vững và không ngừng phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Công cuộc củng cố, xây dựng trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng theo đường lối đổi mới của Đảng trong gần 15 năm (1986-2000) đã để lại một số bài học kinh nghiệm quý báu. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng 15 năm đổi mới (1986-2000) cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 10 năm trước đó (1975-1985) là cơ sở quan trọng tạo tiền đề để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong những năm đầu của thế kỷ XXI.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:07:15 am
Chương IV

QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ KHOA HỌC, NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
THỜI KỲ XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975-2000)

1. Quan điểm chỉ đạo quân sự

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Kế thừa và phát huy những thành quả của tư tưởng quân sự Việt Nam qua các triều đại và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới, bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tư tưởng quân sự Việt Nam đã có những ước phát triển mới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Từ thực tiễn chỉ đạo đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu đất nước, chống âm mưu phá hoại nhiều mặt và đối phó với chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, hội nhập, phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; qua các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, những bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, nhà nước, quân đội, chúng ta đã bước đầu hình thành được hệ thống lý luận về quan điểm chỉ đạo quân sự trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những luận điểm đó đã góp phần định hướng và có tác dụng to lớn chỉ đạo các lực lượng vũ trang cùng toàn dân tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong những năm đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nổi bật với những quan điểm chỉ đạo quân sự sau đây:

- Kế thừa và phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia

Bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ thiêng liêng của các lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam, đó cũng là truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc ta. Truyền thống đó được kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, có tác động mạnh mẽ đến quan điểm chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, thực hiện thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam (1977-1978), biên giới phía Bắc (1979) và chống âm mưu phá hoại nhiều mặt, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng.

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đó là sự thống nhất về lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang cả nước đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng (giải thể Trung ương Cục miền Nam, Bộ Tư lệnh Miền tháng 7-1976). Cùng với việc điều chỉnh lại địa giới hành chính của một số tỉnh, quân khu, bước đầu ta điều chỉnh thế bố trí chiến lược, huy động sức mạnh toàn dân của việc xây dựng các công trình phòng thủ đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân.

Cùng với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng chú trọng xây dựng nền quốc phòng toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao và văn hóa, xã hội.

Về chính trị, ta đã tăng cường đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, giáo dục nâng cao niềm tự hào dân tộc về Tổ quốc thống nhất, phát huy lòng yêu nước của nhân dân hướng vào nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc.

Về kinh tế, ta tích cực phục hồi sản xuất, phát triển kinh tế, mở rộng nhiều công nông trường sản xuất xây dựng ở vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, trên các địa bàn chiến lược.

Về ngoại giao, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cử các đoàn cán bộ cấp cao đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hòa bình tiến bộ trên thế giới đã giúp đỡ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, đồng thời, tiếp thu các thành tựu khoa học, tăng cường quan hệ đối ngoại, củng cố liên minh đoàn kết, chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương.

Tất cả các hoạt động trên đây và nhiều hoạt động khác thể hiện quan điểm chỉ đạo về xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đpá ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới. Tuy nhiên, do thời gian hòa bình ổn định ngắn (chỉ khoảng hai năm từ ngày 30-4-1975 đến 30-4-1977), các nội dung về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện của ta mới chỉ ở giai đoạn đầu, nhiều nội dung chưa được triển khai thực hiện. Mặc dù còn nhiều khó khăn bất cập, nhưng trước âm mưu, thủ đoạn phá hoại, gây chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch ở tuyến biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, đi đôi với đấu tranh chính trị, ngoại giao, Đảng và Nhà nước luôn thể hiện tư tưởng chỉ đạo kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:09:13 am
Sau khi quân Pôn Pốt phát động cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam (30-4-1977), ngày 23-5-1977, Quân ủy Trung ương đã ra chỉ thị cho các lực lượng vũ trang ở phía Nam: “Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng thời tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia. Tìm mọi cách làm nhụt tinh thần của bọn khiêu khích”(1). Tiếp đó, ngày 6-10-1977, trong Chỉ thị Về nâng cao chất lượng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang bảo vệ vững chắc biên giới, bờ biển, hải đảo thuộc các quốc phòng phía Nam, Thường vụ Quân ủy Trung ương cũng xác định: “Nhiệm vụ hàng đầu của các lực lượng vũ trang là bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới, hải đảo và từng tấc đất của Tổ quốc, tính mạng và tài sản của đồng bào. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng phải làm tròn với một tinh thần trách nhiệm thật cao và một quyết tâm thật lớn”(2). Trong các tuyên bố của chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về biên giới Việt Nam - Campuchia trong hai năm 1977-1978 cũng thể hiện rõ tinh thần kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Đây chính là phương hướng hành động để các đơn vị, địa phương “chủ động đánh địch ngay khi chúng mới bước chân sang đất ta, kiên quyết bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam Tổ quốc”(3).

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, tinh thần kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyển quốc gia càng được nhân lên gấp bội. Khi quân Trung Quốc ồ ạt tiến công vào toàn tuyến biên giới phía Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm chiến đấu giữ vững biên cương của Tổ quốc. Thông qua Lệnh tổng động viên (5-3-1979) và các chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng với quyết tâm: “Đánh thắng ngay từ trận đầu, ngay trên tuyến đầu”, “mỗi trận địa là một pháo đài, biên cương là lũy thép”, thông qua việc tập trung huy động lực lượng, cơ sở vật chất cho cuộc chiến đấu đã thể hiện rất rõ tư tưởng tích cực, chủ động, kiên quyết chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Chính định hướng tư tưởng quân sự đúng đắn, kiên quyết đó đa góp phần nâng cao ý chí chiến đấu của nhân dân ta, quyết tâm bảo vệ vững chắc biên cương phía Bắc của Tổ quốc.

Khi các thế lực thù địch chuyển sang thực hiện âm mưu phá hoại nhiều mặt trên tất cả các lĩnh vực (quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao), quân điểm chỉ đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang rất rõ ràng. Đó là kiên quyết đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục trụ vững và đánh thắng trên tuyến biên giới phía Bắc của Tổ quốc; đồng thời làm tròn nhiệm vụ quốc tế với cách mạng Campuchia và cách mạng Lào. Trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp lệnh của Nhà nước, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng từ năm 1980 đến 1985 như: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được Quốc hội khóa VI kỳ họp thứ 7 ngày 18-12-1980 thông qua), Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1982, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam (27 - 31-3-1982), Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 9-6-1985 của Bộ Chính trị “Về những vấn đề cơ bản của đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” đều thể hiện rất rõ tinh thần này.

Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đã tác động đến lĩnh vực quốc phòng, an ninh của nước ta và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII và VIII của Đảng khi đề cập đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều thể hiện rõ quan điểm kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Nghị quyết số 194-NQ/ĐUQSTW, ngày 28-12-1991 về nhiệm vụ quốc phòng năm 1992 của Đảng ủy Quân sự Trung ương nêu rõ: “Toàn quân phải chấp hành tốt nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ. Phối hợp với Bộ Nội vụ, các ngành, các cấp nắm chắc âm mưu và hành động của các lực lượng trong nước và nước ngoài. Tiếp tục củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Tập trung nâng cao một bước chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang”(4).

Ngày 28-10-1995, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 8 thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh năm 1996 xác định: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục làm cho nhân dân hiểu rõ âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong tình hình mới… Đồng thời thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động và kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch”(5). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quân lần thứ VI (6 – 9-5-1996) xác định; “Từ ngay đến năm 2000 phải đạt cho được các yêu cầu chủ yếu xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân thực sự vững mạnh, tập trung nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, trước hết là của quân đội nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ”(6).

Có thể nói, quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, kiên quyết trong chỉ đạo tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, trong chống âm mưu phá hoại nhiều mặt, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đã tỏ rõ quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Sự kiên quyết, nhất quán trong quan điểm chỉ đạo quân sự thời kỳ này đã tạo ra sự đoàn kết thống nhất trong hành động để toàn quân, toàn dân ta thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu được giao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr.535.
(2), (3) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr.536, 540.
(4), (5), (6) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam, thế kỳ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr. 593, 614, 617.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:10:22 am
- Kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ Tổ quốc với xây dựng đất nước

Dựng nước đi đôi với giữ nước là một quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam. Kể từ buổi đầu dựng nước cho đến ngày nay, sau mỗi lần chiến thắng quân xâm lược, nhân dân ta lại tập trung xây dựng đất nước phồn vinh, “khoan thư sức dân”, thực hiện dân giàu, nước mạnh để làm kế sách giữ nước lâu dài.

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một trong những quy luật phổ biến trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kết hợp bảo vệ Tổ quốc với xây dựng đất nước vừa phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, vừa phản ánh yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Trong bối cảnh đất nước sau 30 năm chiến tranh, bên cạnh những thuận lợi cơ bản như cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, lao động cần cù, thông minh sáng tạo, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta cũng đứng trước những khó khăn thử thách lớn. Nhân dân ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, nghèo nàn lạc hậu, cơ sở kinh tế bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh; một nửa đất nước mới giải phóng, tình hình chính trị chưa ổn định, các tổ chức phản động, ngụy quân, ngụy quyền tan rã nhưng còn nhiều tiên ngoan cố lẩn trốn trong dân vẫn ngấm ngầm âm mưu chống phá cách mạng; thêm vào đó, các thế lực phản động quốc tế câu kết với nhau chống phá, kìm hãm sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

Từ tình hình thực tế của đất nước sau chiến tranh, chúng ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước thì mới có cơ sở để xây dựng tiềm lực mọi mặt của quốc phòng và an ninh. Trong khi tập trung sức xây dựng kinh tế, chúng ta phải dành lực lượng thích đáng để củng cố quốc phòng và an ninh. Nếu chỉ coi trọng kinh tế mà xem nhẹ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc ngược lại, hay tách rời hai nhiệm vụ đó đều gây trở ngại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng là hai nhiệm vụ vừa có quy luật vận động riêng vừa có sự thống nhất biện chứng trong quy luật vận động chung. Nói tới nhiệm vụ xây dựng kinh tế là nói tới việc làm ra của cải, vật chất để thỏa mãn các nhu cầu của con người về ăn, mặc, ở, đi lại, thưởng thức văn hóa văn nghệ… Yêu cầu cơ bản của hoạt động kinh tế là áp dụng các biện pháp (quản lý, khoa học kỹ thuật, công nghệ), sử dụng tốt nhất các nguồn lực về tiền vốn, lao động, tài nguyên, kỹ thuật, lợi thế về điều kiện địa lý, môi trường… sao cho chi phí ít nhất, đạt được kết quả cao nhất, bảo đảm sự phồn thịnh và công bằng xã hội. Còn nói tới củng cố quốc phòng là nói tới việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, tự do, toàn vẹn lãnh thổ (vùng đất, vùng trời, vùng biển) của đất nước, bảo vệ thành quả của cách mạng, giữ vững và củng cố sự ổn định, hòa bình, an ninh. Muốn vậy, cần có những tri thức về khoa học kỹ thuật, quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự và các khoa học khác, áp dụng các biện pháp hữu hiệu sao cho sử dụng tốt nhất nguồn nhân tài, vật lực và điều kiện địa lý, tự nhiên của đất nước, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Xét về mặt tổng thể, hai nhiệm vụ xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là thống nhất trong một mục đích, làm cho đất nước giàu mạnh, thiếu một trong hai nhiệm vụ này không thể bảo đảm lợi ích của đất nước theo nghĩa đầy đủ của nó. Xây dựng kinh tế là tạo ra tiền đề vật chất để từng bước xây dựng tiềm lực các mặt cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. còn củng cố quốc phòng là để bảo vệ và tạo môi trường an toàn cho xây dựng kinh tế; đồng thời, quá trình triển khai nhiệm vụ củng cố quốc phòng cũng tạo ra những nhân tố góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế của đất nước. Thấm nhuần quan điểm quân sự đó, trong các giai đoạn cách mạng trước đây, đặc biệt là từ năm 1975 đến 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, nghị quyết về thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng, kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III), ngày 29-9-1975, Về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới đề cập đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đã xác định: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta… bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất… Các lực lượng vũ trang, kể cả các đơn vị thường trực phải tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”(1). Tiếp đó, ngày 10-12-1975, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết só 265/QUTW Về nhiệm vụ quân đội tham gia xây dựng kinh tế cũng nêu rõ nhằm “Làm ra của cải vật chất cho xã hội, giảm nhẹ ngân sách quốc phòng, đồng thời tạo điều kiện vật chất để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh”(2). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “Phải kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc phòng. Đi đôi với việc xây dựng đất nước về mọi mặt, phải ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh”(3).

Những nghị quyết của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến việc tổ chức phòng thủ và xây dựng phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu đất nước vừa được thống nhất. Quan điểm chỉ đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng nhằm đạt được mục tiêu chủ yếu là biến tiềm lực kinh tế thành tiềm lực quốc phòng một cách tối ưu để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng kinh tế và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr. 400.
(2) Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr. 521.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr. 995.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:11:27 am
Từ cuối năm 1986 trở đi, đất nước bắt đầu tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, theo đó, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc với xây dựng đất nước cũng có những yêu càu mới cao hơn. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng khẳng định: Phải thấu suốt và thực hiện đúng quan điểm “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”. Đại hội quyết nghị: “Từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước”(1). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng nhấn mạnh: “”Củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc… Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương”(2) đó, sang năm 1996, tiếp tục nhấn mạnh quan điểm kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng một lần nữa chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trong việc quy hoạch và phát triển các vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể”(3).

Nhìn chung, trong quan điểm chỉ đạo thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng từ năm 1975 đến năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt sâu sắc các nội dung:

1- Sức mạnh và tiềm lực kinh tế là cơ sở của sức mạnh và tiềm lực quốc phòng.

2- Nêu cao tinh thần tự lực, tự cường và ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp và tận dụng tốt nhất mọi nguồn lực trong nước để kết hợp kinh tế với quốc phòng.

3- Yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng là phải tạo ra được một hệ thống cấu trúc (trên cơ sở sử dụng một nguồn nhân tài, vật lực nhất định) có khả năng chuyển hóa nhanh nhất từ tiềm lực kinh tế thành tiềm lực quốc phòng, sao cho trong mọi tình huống (dù là chiến tranh ác liệt), nền kinh tế vẫn hoạt động để đáp ứng yêu cầu dân sinh và phục vụ quốc phòng.

4- Kết hợp kinh tế với quốc phòng cần được triển khai có kế hoạch từng bước, phù hợp với các bước thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội và chiến lược quốc phòng, an ninh của đất nước.

Nhận thức sâu sắc và giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm thất bại âm mưu phá hoại nhiều mặt và đối phó hiệu quả với chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, tạo được điều kiện cho củng cố quốc phòng và phát triển kinh tế đất nước.

Tuy nhiên, khi xem xét tình hình thế giới và khu vực, chúng ta chưa tính đầy đủ đến những diễn biến phức tạp của tình hình. Do chưa thấy hết tình hình phức tạp của các nước trong khu vực, đặc biệt là Campuchia và Trung Quốc, nên trong quan điểm chỉ đạo việc phòng thủ đất nước sau khi thống nhất chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là khu vực biên giới và hải đảo. Trong khi rút bớt lực lượng bộ đội chủ lực, chuyển tuyến nhiều đơn vị sang làm nhiệm vụ kinh tế, chúng ta chưa kịp thời xây dựng lực lượng biên phòng, lực lượng dân quân tự vệ ở vùng biên giới. Công tác tuần tra nắm tình hình ở khu vực biên giới còn lỏng lẻo, đặc biệt là những âm mưu, thủ đoạn của địch để có đối sách thích hợp. Do vậy, trong hai năm 1975-1976, khi quân Pôn Pốt nhiều lần vi phạm biên giới, nhiều lần tổ chức các cuộc diễn tập, xây dựng hệ thống phòng thủ (thực chất là chuẩn bị các bàn đạp cho cuộc tiến công ta), nhưng ta chưa phát hiện được kịp thời.

Quan điểm xây dựng đất nước chưa gắn với bảo vệ đất nước, cũng thể hiện trong việc ta đưa các đơn vị xây dựng kinh tế ra mở các công trường ở vùng giáp biên nhưng trong tổ chức lực lượng, trong quy hoạch kinh tế lại chưa tính đến khả năng phòng thủ, bảo vệ các cơ sở sản xuất này. Các cơ sở sản xuất, các ban chỉ huy công, nông trường đặt ở gần biên giới mới chỉ tính đến lợi ích về kinh tế, chưa tính đến khả năng bảo đảm quốc phòng, an ninh, hoặc còn xem nhẹ nhiệm vụ này, nên khi xảy ra chiến sự, ta không tận dụng được các cơ sở này để chuyển sang làm nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh. Khi địch đẩy mạnh các hoạt động xâm phạm biên giới một cách có hệ thống và ngày càng nghiêm trọng, ta cũng chưa có nhận thức đầy đủ, kịp thời về tính chất nghiêm trọng của tình hình, nên các giải pháp khắc phục những yếu kém trong tổ chức lực lượng phòng thủ biên giới của các lực lượng vũ trang còn chậm và kém hiệu quả.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 372.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tr. 85.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tr. 184.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:12:01 am
Khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra (30-4-1977), trong nhận thức của nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả ở Trung ương và cơ sở còn những biểu hiện chủ quan lệch lạc, vì thế, việc chuyển hướng nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh biên giới của một số địa phương không kịp thời. Việc xây dựng, phát triển kinh tế đất nước chưa gắn với nội dung bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chúng ta tiếp tục giảm quân, tiếp tục chuyển một số đơn vị sang làm nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, trong khi kẻ thù ráo riết tăng cường lực lượng, phương tiện chuẩn bị chiến tranh. Việc đầu tư cho nhiệm vụ xây dựng các tuyến phòng thủ biên giới, nhất là biên giới phía Tây Nam thời kỳ đầu còn bị xem nhẹ. Nhiều địa phương có triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về tăng cường phòng thủ biên giới, nhưng không đôn đốc kiểm tra cụ thể, nên ở nhiều nơi triển khai chậm, không đến nơi đến chốn.

Do những yếu tố chủ quan trên, nên trong đợt hai (23-9-1975), khi quân Pôn Pốt tăng cường đánh phá biên giới với quy mô lớn, ở một số nơi ta vẫn bị động, dẫn đến những tổn thất lớn về tính mạng, tài sản của nhân dân. Chỉ đến khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam lan rộng và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế, ta mới bắt đầu tập trung lực lượng, vật tư xây dựng các công trình phòng thủ biên giới và tập trung giải quyết dứt điểm cuộc chiến tranh này. Việc chú trọng giữa xây dựng và bảo vệ đất nước, kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng đã đưa lại những kết quả nhất định trong giải quyết cuộc chiến tranh, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước ở biên giới Tây Nam.

Rút kinh nghiệm cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, ta đã tổ chức phòng thủ, xây dựng các khu kinh tế gắn với việc tăng cường phòng thủ biên giới. Tuy nhiên, do những hạn chế về thời gian, lực lượng và phương tiện, nên việc tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước trên tuyến này cũng bộc lộ những mặt còn hạn chế. Có thể nói, trong giai đoạn đầu khi đất nước vừa chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, quan điểm về mối quan hệ giữa xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước tuy đã được quán triệt trong các nghị quyết của Đảng, nhưng do nhận thức chưa đầy đủ, nên trong tổ chức thực hiện còn có những mặt hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, nhất là trong giai đoạn đầu cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.

Sau hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc, quan điểm về quan hệ giữa xây dựng đất nước gắn liền với bảo vệ đất nước được thể hiện khá rõ trong chiến lược xây dựng và phòng thủ đất nước. Đó là việc ta tiến hành điều chỉnh thế bố trí chiến lược trên toàn bộ đất nước (Quân đoàn 3 được điều trở lại địa bàn Tây Nguyên), việc xây dựng huyện thành pháo đài, sau này là xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành vững chắc với nội dung kết hợp chặt chẽ các mặt quân sự, chính trị, kinh tế nhằm tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội “toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, đảm bảo chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc”(1). Tiếp đó, trước ảnh hưởng lớn về tình hình chính trị xã hội khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng xác định: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nêu cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ Tổ quốc và thành quả cách mạng. Việc tăng cường phòng thủ trên các tuyến ven biển, hải đảo, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trên các địa bàn trọng điểm Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh thông qua các dự án kinh tế vừa và nhỏ trên các địa bàn, các khu kinh tế quốc phòng ở Lai Châu, Sơn La, Quảng Bình, Nghệ An, Gia Lai, Bình Phước… được triển khai bước đầu đạt hiệu quả.

Quan điểm chỉ đạo xây dựng đất nước gắn liền với bảo vệ đất nước còn được thể hiện qua cách ứng xử và tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, bảo vệ chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, giảm bớt nguy cơ xung đột trên biển, trên đất liền, cách giải quyết các mâu thuẫn xung đột với các nước láng giềng trong những vấn đề tồn tại của lịch sử như biên giới, hải đảo, trong các khu vực mà quyền lợi kinh tế, quân sự giữa các nước còn những bất đồng trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Chúng ta đã tham gia tích cực vào việc giải quyết những tranh chấp trên bộ, trên biển. Điển hình như việc giải quyết một cách cơ bản những tồn tại do lịch sử để lại dẫn đến ký hiệp định về hoạch định biên giới giữa nước ta với Trung Quốc, Lào, Campuchia; tham gia cùng các nước trong khối ASEAN xây dựng các giải pháp ứng xử trên Biển Đông; đặc biệt, việc tổ chức các cuộc giao lưu giữa Bộ Quốc phòng các nước trong khu vực là biểu hiện sinh động tư tưởng tích cực chủ động phòng ngừa chiến tranh từ xa, triệt để ngăn chặn từ gốc nguyên nhân có thể dẫn đến mâu thuẫn xung đột, những nguy cơ tiềm ẩn của chiến tranh. Việc chủ động xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, chủ động giải quyết các mâu thuẫn về kinh tế, về biển đảo, biên giới, chủ động hội nhập với các nước trong khu vực là một nét mới trong quan điểm chỉ đạo gắn việc xây dựng với bảo vệ đất nước trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 550.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:12:52 am
- Thường xuyên xây dựng, nâng cao sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân

Xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm rất nhiều nội dung, trong đó những nội dung cơ bản là: Xây dựng về chính trị, tư tưởng, tổ chức biên chế, trang bị, huấn luyện… Đây là một tổng thể thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành mọi nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Xây dựng về chính trị: Trong quá trình đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi giải quyết vấn đề xây dựng lực lượng đều rất coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang về mặt chính trị, coi đây là cơ sở quan trọng tạo tiền đề cho mọi mặt xây dựng khác. Cốt lõi của xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng về chính trị là xây dựng bản chất giai cấp công nhân của quân đội. Những nội dung cơ bản của xây dựng quân đội về chính trị hình thành trong nửa thế kỷ qua là hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là những phẩm chất đạo đức cao đẹp của người cách mạng. Sau ngày đất nước thống nhất, những tiêu chí đó vẫn là những nội dung cơ bản về xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Tuy nhiên, trong quan điểm chỉ đạo những nội dung đó đã được Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển, đổi mới để phù họp với những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử.

Bản chất chính trị quyết định mục tiêu chiến đấu, ý thức và động cơ chiến đấu của lực lượng vũ trang. Ngay từ khi thành lập các đội tự vệ công nông, các đội du kích rồi Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã rất coi trọng yếu tố con người. Quan điểm người trước súng sau, chính trị trọng hơn quân sự, nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ quân sự “quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(1), đã thể hiện rất rõ quan điểm về xây dựng con người, xây dựng bản lĩnh chính trị cho lực lượng vũ trang của Đảng. Kế thừa những kinh nghiệm xây dựng bản lĩnh chính trị cho bộ đội vững vàng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, sau khi đất nước độc lập, thống nhất, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ra sức chăm lo giáo dục bản lĩnh chính trị trong quân đội, làm cho đại đa số cán bộ chiến sĩ yên tâm phấn khởi, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Sau năm 1975, khi đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù dịch, Đảng ta đã khẳng định là đội quân chiến đấu, quân đội ta không chỉ có nhiệm vụ chống xâm lược, mà còn cùng các lực lượng vũ trang khác bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và tham gia xây dựng đất nước. Trên lĩnh vực tư tưởng, Đảng ta đã kịp thời phê phán luận điệu “quân đội phi giai cấp”, “quân đội trung lập”, “phi chính trị hóa quân đội”. Đảng ta cũng xác định rõ nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng cũng là của lực lượng vũ trang ta là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để xây dựng quân đội về chính trị, chúng ta phải bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng đó của Đảng và cũng là của quân đội, của lực lượng vũ trang ta. Trong quá trình xây dựng quân đội về chính trị, cùng với xây dựng bản chất giai cấp công nhân, Đảng ta đã coi trọng xây dựng đạo đức cách mạng. Mô hình nhân cách của cán bộ, chiến sĩ trong những năm qua và trong tương lai vân là hình ảnh cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, vẫn là những đảng viên cộng sản ưu tú, người quân nhân cách mạng trung thành với Đảng, với nhân dân, với chế độ, có lý tưởng chiến đấu cao đẹp, cách mạng và khoa học. Đương nhiên, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” đã được Đảng và quân đội phát triển, bổ sung những phẩm chất mới, đáp ứng đòi hỏi của giai đoạn cách mạng mới.

Đất nước ta vừa từ chiến tranh chuyển sang thời bình và chỉ hai năm sau đó lại phải chuyển sang chiến tranh biên giới ở một số tỉnh thuộc biên giới Tây Nam. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam ban đầu có tác động không nhỏ đến nhận thức chính trị của nhiều cán bộ, chiến sĩ, sau cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm chưa kịp nghỉ ngơi, quân và dân ta lại phải tiến hành cuộc chiến đấu chống quân Pôn Pốt xâm lược, chấp nhận mọi sự hy sinh mất mát để bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc là những yêu cầu rất cao đặt ra cho công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng của Đảng đối với lực lượng vũ trang. Tuy phải đối mặt với cuộc bao vây cấm vận kinh tế của Mỹ và những khó khăn trên các lĩnh vực, Đảng ta vẫn tập trung xây dựng các lực lượng vũ trang vững vàng về chính trị. Vừa làm rõ những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, vừa khơi dậy truyền thống chiến đấu bất khuất kiên cường của dân tộc. Thông qua các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các phong trào thi đua xung kích trong chiến đấu, lao động sản xuất, chúng ta đã tập trung giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị của các lực lượng vũ trang, thông suốt với nhiệm vụ được giao.

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc là một thử thách lớn đối với quân và dân ta. Để xây dựng yếu tố chính trị tinh thần cho bộ đội sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, công tác đảng, công tác chính trị được đặc biệt chú trọng, chỉ đạo kiên quyết nhằm đánh thắng quân xâm lược, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 217.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:14:37 am
Tháng 9-1978, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tổ chức Đảng và tổ chức công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Tiếp đó, tháng 11-1978, Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ thị mở cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” với ba nội dung lớn: Rèn luyện, xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu, phát huy truyền thống quân với dân một ý chí, nêu gương tốt của người quân nhân cách mạng trên mọi lĩnh vực, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản. Do làm tốt công tác xây dựng bản lĩnh chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân đã phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, xung kích trong các nhiệm vụ chiến đấu, thực hiện tốt các phong trào thi đua bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với cách mạng và nhân dân Campuchia.

Trong thời kỳ đổi mới, trước những biến động to lớn trên chính trường quốc tế, các nước Đông Âu, sau đó là Liên Xô sụp đổ, kẻ thù thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, can thiệp vào công việc nội bộ nhiều nước trên thế giới. Với mục tiêu chiến thắng mà không cần chiến tranh, chúng tập trung chống phá đường lối, quan điểm của Đảng, xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. đối với lực lượng vũ trang, chúng thực hiện âm mưu phi chính trị hóa quân đội. Để giữ vững bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang, Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng đã ra các phong trào thi đua yêu nước, nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị của quân đội. Nghị quyết 194/NQ ngày 28-12-1991 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về nhiệm vụ quốc phòng năm 1992 xác định: “Phải chấp hành tốt nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ, phối hợp với Bộ Nội vụ, các ngành, các cấp nắm chắc âm mưu và hành động của các lực lượng trong nước và ngoài nước… tập trung sức bằng các biện pháp đồng bộ, nâng cao thêm một bước chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang”(1).

Trong Chỉ thị số 311/CT ngày 30-12-1991, Tổng cục Chính trị cũng xác định: “Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu, góp phần bảo đảm cho quân đội thực sự là lực lượng tin cậy về chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi điều kiện”(2). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng nêu rõ: “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc"(3).

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa VII (6-1992) ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ: “Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang, chấp hành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa, đập tan âm mưu và hoạt động diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của kẻ thù và sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra”(4).

Báo cáo chính trị của Đảng ủy Quân sự Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quân lần thứ VI (từ ngày 6 đến ngày 9-5-1996) nêu rõ nhiệm vụ trong những năm tới là ;”Xây dựng nền quốc phòng toàn dân thực sự vững mạnh. Tập trung nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, trước hết là của quân đội nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạt lật đổ có hiệu quả với các tình huống phức tạp”(5).

Cùng với xây dựng lực lượng vũ trang mạnh về chính trị, chúng ta đã tích cực kiện toàn tổ chức biên chế, trang bị, huấn luyện. Sau năm 1975, đất nước ta chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, từ yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, quân đội ta chuyển dần sang nhiệm vụ xây dựng kinh tế, bảo vệ đất nước trong thời bình. Lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng chuyển từ trạng thái sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu sang làm nhiệm vụ thường trực và xây dựng kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, nên yêu cầu tổ chức lại lực lượng vừa bảo đảm được yêu cầu sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước khi cần, vừa thực hiện xây dựng, phát triển kinh tế đất nước.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, chống ngoại xâm, chúng ta đã xây dựng phát triển mạnh các lực lượng vũ trang nhân dân, động viên toàn dân tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chúng ta đã có một quân đội hùng hậu với 4 quân đoàn chủ lực, nhiều sư đoàn bộ binh, binh chủng độc lập với đầy đủ các quân binh chủng. Đó là kết quả của cả quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sang suốt của Đảng trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Tuy nhiên, trong những năm đầu đất nước thống nhất, trước những khó khăn to lớn về kinh tế, để nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế, chúng ta phải từng bước giảm bớt quân thường trực, chuyển một số đơn vị quân đội sang làm nhiệm vụ kinh tế nhằm giảm bớt chi phí quốc phòng.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr. 754.
(2), (3) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr. 754-755, 759.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.52, tr. 222.
(5) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr. 762.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:15:50 am
Để nâng cao sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn đầu đất nước vừa được thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với giảm quân thường trực, thực hiện “tinh binh, tinh cán”, chúng ta tập trung huấn luyện, xây dựng quân đội theo hướng chính quy, hiện đại. Tháng 11-1975, Bộ Tổng tham mưu ra Chỉ thị về công tác huấn luyện quân sự những năm 1976-1980, xác định: “Phải huấn luyện cơ bản hệ thống, thống nhất, toàn diện, rèn luyện cho bộ đội bản lĩnh chiến đấu vững vàng, sử dụng thành thạo các trang bị kỹ thuật hiện đại và tương đối hiện đại của ta cũng như mới thu được của địch; đồng thời huấn luyện, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu thường xuyên đối với các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, nhất là đơn vị ở khu vực trọng điểm”(1). Tại lớp tập huấn hơn 300 cán bộ trung cấp, cao cấp toàn quân (5-1976), Đại tướng Văn Tiến Dũng trình bày chuyên đề Một số vấn đề chính quy hóa quân đội ta trong giai đoạn hiện nay. Đại tướng nhấn mạnh: Đây là những yêu cầu và nội dung xây dựng quân đội theo hướng chinh quy hết sức cấp thiết và không thể thiếu để nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Khi quân Pôn Pốt mở cuộc tiến công lớn vào tuyến biên giới tỉnh An Giang từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương, gồm 13 đồn biên phòng, 14 xã biên giới, gây ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, ta tăng cường huấn luyện, nâng cao sức mạnh chiến đấu đối với các đơn vị thường trực quân khu phía Nam, bộ đội địa phương, dân quân du kích các tỉnh giáp biên giới với Campuchia. Cùng với việc kiện toàn biên chế tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, các đơn vị phía trước được bổ sung lực lượng, bảo đảm đủ quân số, trang bị vũ khí… Tuy nhiên, do nhận thức chưa đầy đủ về đối tượng tác chiến, về bản chất cuộc chiến tranh, nên thời kỳ đầu việc chỉ đạo huấn luyện, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang chưa được chú trọng đúng mức, khả năng sẵn sàng chiến đấu của nhiều đơn vị, kể cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ còn hạn chế, một số nơi ta chưa giáng trả kịp thời các hành động xâm lấn biên giới của quân Pôn Pốt.

Kiên quyết khắc phục tình trạng trên, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV (27-7-1978) về tình hình nhiệm vụ mới đã xác định phải: “Khẩn trương xây dựng và rèn luyện bộ đội chủ lực tinh nhuệ và cơ động, tăng cường trang bị và năng lực chỉ huy cho bộ đội địa phương, chuẩn bị lực lượng dự bị hùng hậu, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp có chất lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu cao”(2). Theo chủ trương đó, nhiều đơn vị bộ đội chủ lực trước đây chuyển sang làm nhiệm vụ kinh tế được chuyển trở lại làm nhiệm vụ chiến đấu. Lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Nhờ kịp thời phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, trong đó tập trung kiện toàn được các đơn vị bộ đội chủ lực, nên ta đã bảo đảm có đủ lực lượng giải quyết cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia giải phóng đất nước và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc.

Để đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía Bắc, năm 1979, ta đã thành lập thêm một số quân đoàn thuộc các quân khu, trung đoàn bộ đội địa phương thuộc tỉnh, tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện, các xã biên giới trọng điểm có đại đội dân quân, các nông, lâm trường đều có tiểu đoàn, trung đoàn tự vệ. Đây là bước phát triển nhanh về lực lượng nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã xác định: “Xây dựng lực lượng vũ trang theo quan điểm chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân, có quân chủ lực và quân địa phương, có cơ cấu cân đối và đồng bộ giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, có số lượng cần thiết và chất lượng ngày càng cao, hết sức coi trọng xây dựng dân quân tự vệ mạnh, nhất là ở biên giới; các thứ quân hình thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ gắn bó với nhau, bảo đảm làm chủ vững chắc, tiến công mạnh mẽ”(3).

Đi đôi với phát triển về số lượng, bảo đảm biên chế đủ cho các đơn vị phía trước, có lực lượng dự trữ phía sau và lực lượng dự bị động viên, bảo đảm sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chiến đấu trong mọi tình huống, ta vừa tích cực phát triển các đơn vị binh chủng kỹ thuật. Đáng chú ý là sự ra đời của các sư đoàn bộ binh cơ giới trong các quân đoàn chủ lực trực thuộc Bộ, các phương tiện cơ động (xe cơ giới và các phương tiện vượt sông), tăng cường hỏa lực phái xe kéo, hỏa lực bảo vệ bờ biển hải đảo, hỏa lực đi cùng bộ binh. Đây là những bước phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ quân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Bước vào thời kỳ đổi mới, khi tình hình đã bớt căng thẳng, chúng ta đã kịp thời tổ chức lại lực lượng, bảo đảm cơ cấu họp lý giữa lực lượng thường trực, sẵn sàng chiến đấu với lực lượng làm nhiệm vụ huấn luyện, lao động xây dựng kinh tế, giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và lực lượng dân quân tự vệ, giữa các vùng, miền, đặc biệt là biên giới, hải đảo, các vùng có tình hình kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp (Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ), đáp ứng nhiệm vụ xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc đặt ra.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr. 521.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr. 543.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.43, tr. 55.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:16:29 am
- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xác định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng”(1). Đó chính là cơ sở Đảng, Nhà nước chỉ đạo các lực lượng vũ trang các cấp, các ngành triển khai xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thiết thực, góp phần vào cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới phía Tây Nam, phía Bắc và chống lại chiến tranh phá hoại nhiều mặt cửa các thế lực thù địch trong những năm đất nước vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh trên một phần lãnh thổ đất nước.

Sau ngày đất nước thống nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo Bộ Quốc phòng xúc tiến ngay việc điều chỉnh bố trí lại lực lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Sau khi giải thể Trung ương Cục miền Nam, Bộ Tư lệnh Miền, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ đạo Bộ Quốc phòng tổ chức lại các quân khu. Theo đó, các lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn từng quân khu và cả nước được kiện toàn về tổ chức biên chế, bố trí lại, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thống nhất.

Việc tổ chức lại các quân khu, bố trí lại lực lượng thể hiện tư tưởng quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, trong điều kiện cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với nền quốc phòng đó là bảo vệ Tổ quốc cả vùng đất, vùng trời, vùng biển với phạm vi rộng và trong mọi tình huống, một yêu cầu rất cao mà trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, khi đất nước chưa thống nhất, ta chưa có điều kiện thực hiện.

Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Tây Nam, sau đó là biên giới phía Bắc là những thử thách to lớn và khắc nghiệt đối với nền quốc phòng toàn dân, đe dọa chủ quyền quốc gia và nền độc lập của dân tộc. Để đánh bại các cuộc tiến công của quân Pôn Pốt ở biên giới Tây Nam, trong gần hai năm từ 1977-1978, ta đã phải huy động nhiều lực lượng, vật chất của các quân khu, các tỉnh phía Nam vào cuộc chiến tranh. Nếu không có một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh với lực lượng vũ trang ba thứ quân, trong đó lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ các xã biên giới vững mạnh, chúng ta khó có thể hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu đánh đuổi quân Pôn Pốt, giữ gìn trật tự, an ninh biên giới. trong cuộc chiến đấu này, nhân dân các địa phương đã đóng góp hàng triệu ngày công, xây dựng hầm hào công sự trận địa, hàng chục vạn tấn lương thực, thực phẩm, thuốc men ủng hộ bộ đội, nhiều tập thể và cá nhân tham gia chiến đấu, góp phần to lớn tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân chiến thắng kẻ thù.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, trước sức tiến công ồ ạt của hơn 60 vạn quân Trung Quốc, nền quốc phòng toàn dân được huy động đã tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực cơ động tiêu diệt, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng. Nền quốc phòng toàn dân đã giúp ta trong một thời gian ngắn có thể huy động nguồn nhân lực, vật lực lớn bảo đảm yêu cầu của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, tạo điều kiện để các đơn vị thực hiện được sự chỉ đạo của tư tưởng đánh thắng ngay từ trận đầu, ngay trên tuyến đầu Tổ quốc. Như vậy, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh ngay sau khi đất nước được thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng đã góp phần thiết thực tạo điều kiện để quân dân ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc.

Vượt qua thử thách to lớn và khó khăn trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, bước vào thời kỳ chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, quan điểm xây dựng một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh càng được chú trọng. Đảng ta đã xác định, bảo vệ Tổ quốc phải gắn chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, nhiệm vụ quốc phòng và nhiệm vụ an ninh là hai mặt gắn chặt với nhau của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc (vùng đất, vùng trời, vùng biển và thềm lục địa) của Tổ quốc.

Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là bảo vệ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa (bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, các đoàn thể quần chúng), bảo vệ cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ công cuộc đổi mới xã hội chủ nghĩa. Do vậy, bảo vệ Tổ quốc phải gắn chặt chống thù trong và giặc ngoài. Bảo vệ Tổ quốc là phải bảo vệ hòa bình, củng cố nền hòa bình trong độc lập, tự do của dân tộc, xử lý khôn ngoan các tình huống phức tạp, không phạm sai lầm để kẻ địch khiêu khích gây chiến tranh xâm lược, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đánh thắng mọi âm mưu và hành động phá hoại, xâm lược của các thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược trên các quy mô, kể cả quy mô lớn, đề phòng và khắc phục khuynh hướng sai lầm tách rời bảo vệ Tổ quốc với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr. 587.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:17:36 am
Để thực hiện quan điểm chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, chúng ta đã tích cực xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh toàn dân trên từng địa phương và trong cả nước. Chú trọng các khu vực trọng điểm, ven biển và hải đảo, các đô thị lớn, vùng rừng núi. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, huyện thị và cơ sở làng xã, phường vững mạnh về quốc phòng, an ninh. Xây dựng quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân (kể cả lực lượng dự bị động viên) làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khu vực phòng thủ vững chắc và binh đoàn chủ lực cơ động mạnh là nền tảng của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục quốc phòng cho toàn dân, đặc biệt cho cán bộ các ngành của Đảng và Nhà nước, cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên các trường. Động viên và tổ chức cho toàn dân tham gia củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội.

Quan niệm hiện đại về tiềm lực quốc phòng là sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ xã hội, do các nhân tốt chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự… tạo thành. Xây dựng tiềm lực mọi mặt của quốc phòng trên cơ sở kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc. Phải xây dựng đất nước về mọi mặt mới có cơ sở để tạo nền tiềm lực quốc phòng, nhưng không phải cứ có tiềm lực mạnh của đất nước về các mặt là tiềm lực quốc phòng mạnh. Vì vậy, trong lãnh đạo, tư tưởng, chỉ đạo thực hiện phải kết hợp khéo léo các mặt mới có thể thực hiện được đất nước giàu và quốc phòng mạnh.

Cùng với các chỉ thị, nghị quyết thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh, với quân đội và công an. Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, coi đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước. Xây dựng, củng cố vá không ngừng hoàn chỉnh cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong lĩnh vực quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản trong đường lối tư tưởng quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình mới. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh từng bước được củng cố với chất lượng được nâng lên một bước toàn diện hơn. Chiến lược quốc phòng tiếp tục điều chỉnh trên nhiều mặt. Rà soát, bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ đất nước và trên từng địa bàn, hướng chiến lược. Điều chỉnh bố trí lực lượng trên các hướng chiến lược, bảo đảm phòng chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, sẵn sàng đối phó thắng lợi mọi tình huống phức tạp, nhất là ở khu vực trọng điểm.

Các khu vực phòng thủ, thành phố, huyện, quận, các cơ sở xã phường được tiếp tục triển khai xây dựng đi dần vào chiều sâu. Các cuộc diễn tập phòng thủ gắn với nhiệm vụ an ninh được tổ chức ở tất các tỉnh, huyện và hầu hết các xã, phường. Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố, có số lượng phù hợp, nâng cao chất lượng hiệu quả, bảo đảm tin cậy về chính trị. Lực lượng dự bị động viên được tổ chức và quản lý theo phương thức hợp lý hơn. Công tác tuyển quân và cho ra quân được tiến hành đạt chất lượng ngày càng khá hơn. Sự nghiệp quốc phòng cho toàn quân, nhất là cho học sinh, sinh viên được đẩy mạnh. Các nội dung vè giáo dục quốc phòng được đưa vào trường học, công tác dân vận của lực lượng vũ trang được tiến hành tích cực với nhiều hình thức phong phú, góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh.

Sự quản lý của Nhà nước về quốc phòng được đặt ra với nội dung và cơ chế toàn diện hơn, nhiệm vụ quốc phòng ở các bộ, ngành được Chính phủ xác định và từng bước triển khai thực hiện hiệu quả. Chất lượng và sức mạnh chiến đấu của quân đội được nâng lên một bước toàn diện hơn, sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng được tăng cường. Những kết quả trên đây khẳng định đường lối đổi mới của Đảng nói chung, trong lĩnh vực quốc phòng quân sự nói riêng là hoàn toàn đúng đắn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã khẳng định: “Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới”(1). Đạt được những thành tựu lớn lao là do “Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh, các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội được tăng cường”(2).


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, t.60, tr. 60-61.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:18:56 am
Để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định phải:

“- Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế.

- Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có quan hệ khăng khí với nhau của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa; phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.

- Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng lực lượng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân; quán triệt tư tưởng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá ta.

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh.

- Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh”(1).

Những nội dung trên đây thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh để đưa đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tóm lại, trong 25 năm (1975-2000), trước yêu cầu mới cửa nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thống nhất, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và các nước trong khu vực, khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành chiến lược quân sự mới áp dụng nhiều thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam (từ tiến hành chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước, chiến tranh phá hoại nhiều mặt đến thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân, toàn quân đã nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, phát huy mọi tiềm năng của dân tộc đi đôi với tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, ra sức củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, đập tan các âm mưu phá hoại nhiều mặt, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Những thành công đó thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ bảo vệ Tổ quốc với xây dựng đất nước, xây dựng, nâng cao sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân, giữa quốc phòng với an ninh. Tuy nhiên, trong thực tế, ở giai đoạn này cũng bộc lộ một số hạn chế như đánh giá chưa sát thực về đối tượng tác chiến, về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nên trong những năm đầu đất nước vừa được thống nhất, chúng ta chưa chú trọng đúng mức đến nhiệm vụ củng cố quốc phòng, nâng cao khả năng phòng thủ của đất nước, đến xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, bảo đảm hợp lý giữa lực lượng thường trực, sẵn sàng chiến đấu với lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế. Tư tưởng chủ quan cho rằng, sau khi ta đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ thì không thế lực nào dám xâm phạm đến ta, hoặc nếu có xảy ra chiến tranh thì cũng phải hàng chục năm sau. Nhận thức đó có tác động không nhỏ đến việc lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc phòng thủ đất nước. Việc cho ra quân ồ ạt, chuyển nhiều đơn vị sang làm nhiệm vụ sản xuất trong hai năm 1975-1976 và những tháng đầu năm 1977, ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang thời kỳ đầu cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam.

Khắc phục những hạn chế đó, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt sâu sắc hơn quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, tích cực lãnh đạo, chỉ đạo củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhằm đẩy lùi nguy cơ xung đột chiến tranh. Những quan điểm chỉ đạo tích cực đó đã góp phần tạo ra thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, môi trường chính trị ổn định đưa đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt kết quả to lớn hơn.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 119-120.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:20:11 am
- Tăng cường tình đoàn kết chiến đấu với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Sau 30 năm liên tục kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Việt Nam đã giành được độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Từ đây, nhân dân Việt Nam được sống trong thời bình, có quan hệ hữu nghị với các quốc gia, dân tộc trong khu vực và trên thế giới; có điều kiện tập trung sức lực và trí tuệ để hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục và phát triển đất nước. Thế nhưng, ngay sau khi nhân dân Việt Nam kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một tình huống vô cùng phức tạp đã xảy ra trên bán đảo Đông Dương. Đó là cuộc chạy đua của các nước lớn lấp “khoảng trống quyền lực” do Mỹ để lại khi buộc phải rút quân khỉ Việt Nam, Campuchia và Lào. Trong cuộc chạy đó đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã triển khai chiến lược mới, bằng những thủ đoạn mới, tiếp tục chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân ba nước Đông Dương.

Thủ đoạn thâm hiểm nhất là tuyên truyền tư tưởng thù hằn, gây chia rẽ các dân tộc, nuôi dưỡng kích động và sử dụng tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari làm “tên tay sai xung kích” để tiến hành chiến tranh chống phá Việt Nam. Tập đoàn này đã theo đuổi đường lối đối nội, đối ngoại hết sức phản động, trong nước thì tuyên bố xây dựng chủ nghĩa cộng sản độc đáo của Campuchia, song thực chất đã biến đất nước thành địa ngục, đẩy nhân dân Campuchia đứng trước thảm họa diệt chủng. Bên ngoài, chúng vu khống Việt Nam âm mưu lập liên bang Đông Dương để thôn tính Campuchia, v.v…

Trong khi đó đối với cách mạng Lào, Mỹ triển khai mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ ở Lào. Ngoài ra, chúng sử dụng Thái Lan làm bàn đạp tập hợp các lực lượng phản động lưu vong Lào, nhằm nhanh chóng đảo ngược tình thế ở Lào; tìm mọi cách lôi kéo, mua chuộc cán bộ, đảng viên, gây chia rẽ hàng ngũ Đảng Nhân dân cách mạng Lào, chia rẽ Lào với Việt Nam để tách Lào khỏi mối quan hệ đặc biệt với Việt Nam.

Trước những âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, phát huy truyền thống điều kiện được hun đúc qua dăm dài lịch sử, đặc biệt là quan điểm đoàn kết quốc tế của Đảng, phương châm chiến lược “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nà nước Việt Nam luôn xác định đoàn kết với cách mạng Lào và Campuchia là một trong những vấn đề cốt lõi của chiến lược cách mạng Việt Nam nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân vững mạnh để chống lại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng sau nhiều năm đấu tranh gian khổ mới giành được.

Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam diễn ra tại Hà Nội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội nêu rõ: “Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em, trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước”(1).

Để phù hợp với tình hình mới, ngày 11-4-1983, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số 10-NQ/TW “về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia trong giai đoạn mới”. Nghị quyết xác định đoàn kết với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia là đường lối đối ngoại nhất quán, là nghĩa vụ quốc tế hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Đối với nhiệm vụ đoàn kết, hợp tác với cách mạng Lào và Campuchia, tư tưởng chủ đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam là luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, coi sự nghiệp cách mạng của Lào và Campuchia như của chính mình, tự nguyện hết lòng gánh vác trách nhiệm của mình trong mối quan hệ đoàn kết Việt Nam - Lào - Campuchia.

Năm 1986, Nghị quyết Bộ Chính trị về nhiệm vụ quốc phòng 5 năm 1986-1990 tiếp tục xác định: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của quân và dân cả nước, phối hợp với cách mạng Campuchia, cách mạng Lào, giành thắng lợi to lớn trên các hướng chiến lược, tạo nên thế và lực vững chắc hơn cho cách mạng ba nước”(2). Ngày 29-3-1989, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI), chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh giai cấp trên thế giới tuy đã có một số thay đổi về hình thức, nhưng bản chất không hề thay đổi, kẻ thù tuy có thay đổi một số sách lược, nhưng chưa từ bỏ âm mưu phá hoại cách mạng nước ta. Cuộc đấu tranh cùng tồn tại hòa bình và hợp tác kinh tế quốc tế có nhiều phức tạp mới. Vì vậy phải đề cao cảnh giác, tích cực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh mà Đại hội VI và các nghị quyết của Bộ Chính trị đã đề ra, làm thất bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, bảo đảm, chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đồng thời làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia”(3), v.v.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.618.
(2) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, t.III (1975-1995), tr.269.
(3) Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.III, tr.301-302.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:22:03 am
Những nội dung trên đây thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc tăng cường tình đoàn kết với cách mạng Lào và Campuchia ở giai đoạn cách mạng mới, là cơ sở để quân và dân ta tiếp tục đoàn kết chiến đấu với quân dân Lào và quân dân Campuchia, giành những thắng lợi quyết định, qua đó làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, phản động quốc tế chống phá cách mạng ba nước.

Thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước đề ra, trên tinh thần đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt, từ giữa năm 1976, Việt Nam đã cử hàng trăm chuyên gia sang làm việc tại Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và các tỉnh trọng điểm của Lào; đồng thời, đưa một số sư đoàn quân tình nguyện đến các địa bàn sung yếu cùng với các đơn vị Quân đội giải phóng nhân dân Lào đập tan các âm mưu, ý đồ chống phá, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, thu hồi lại nhiều địa bàn quan trọng ở vùng rừng núi của Lào, nhất là ở các tỉnh Xiêng Khoảng, Bôli Khămxay, Luông Pha Băng, Viêng Chăn, khu vực biên giới giáp một số tỉnh miền Trung Việt Nam (Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh); bảo đảm an ninh trên các trục đường giao thông chiến lược như đường 7, 9, 13; hạn chế được các hoạt động thâm nhập từ bên ngoài, ngăn chặn kịp thời một số vụ âm mưu kích động bạo loạn ở vùng dân tộc, nhất là vùng đông người Mông, góp phần tích ực bảo đảm củng cố an ninh quốc phòng, ổn định cuộc sống của nhân dân Lào(1).

Sau những thắng lợi quan trọng trên, bước vào thời kỳ đổi mới, theo yêu cầu của bạn, các đơn vị quân tình nguyên và chuyên gia quân sự Việt Nam tập trung giúp bạn truy quét địch, giải phóng dân, thu phục phỉ, làm cho địch suy yếu, thất bại. Cùng với đó, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam còn giúp bạn kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng cùng các tỉnh bạn xây dựng tuyến biên giới hữu nghị; tăng cường xây dựng hậu phương chiến lược, căn cứ địa cách mạng của hai nước thành bàn đạp tiến công trên hai hướng chiến lược Đông và Tây. Cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam sang giúp cách mạng Lào đã thể hiện được ý chí chiến đấu và trách nhiệm chính trị cao, vượt mọi khó khăn gian khổ vì nghĩa vụ quốc tế cao cả, kiên quyết, mưu trí hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, vận động quần chúng xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng và kinh tế đời sống giúp bạn, chấp hành tốt kỷ luật chiến đấu, chính sách quốc tế của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa nhân dân hai nước trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với đoàn kết chặt chẽ với cách mạng Lào, để đập tan kẻ thù xâm lược tận sào huyệt của chúng và đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, cuối năm 1978 và đầu tháng 1-1979, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã mở cuộc phản công, tiến công chiến lược đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, giành chính quyền về tay nhân dân (1-1979). Việc đưa một bộ phận Quân đội nhân dân Việt Nam sang làm nhiệm vụ quốc tế trong bối cảnh như vậy là một quyết định đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phù hợp với truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân Campuchia.

Tiếp đó, theo đề nghị của Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã quyết định để một bộ phận quân tình nguyện ở lại Campuchia, đồng thời cử chuyên gia quân sự sang giúp lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân Campuchia bảo vệ và xây dựng lại đất nước. Từ 1979-1989, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam luôn kề vai sát cánh cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia chiến đấu bảo vệ chính quyền cách mạng, giúp đỡ nhân dân phục hồi sản xuất và ổn định đời sống. Ở mọi công việc và trên bất kỳ lĩnh vực nào, cán bộ, chiến sĩ Việt Nam đều nêu cao tinh thần đoàn kết, tôn trọng bạn, hết lòng giúp đỡ để bạn nhanh chóng trưởng thành. Đến tháng 9-1989, toàn bộ lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang rút về nước, để nhân dân và lực lượng vũ trang Campuchia tự bảo vệ thành quả cách mạng và quyết định tương lai của đất nước mình. Qua 10 năm thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được nhân dân Campuchia gọi là “Bộ đội nhà Phật”. Những thành tựu to lớn mà quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đạt được trong nhiệm vụ giúp lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, xây dựng thực lực cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước hồi sinh đã ghi thêm dấu ấn sâu sắc về bản chất cách mạng và truyền thống quốc tế vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần tô thắm tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đánh giá sự giúp đỡ và tình đoàn kết đặc biệt giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Lào và Campuchia thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), khẳng định: Chúng ta “đã thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia”(2).

Có thể nói, tăng cường đoàn kết quốc tế, đặc biệt là đoàn kết với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Bởi, do đoàn kết chặt chẽ với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, cách mạng Việt Nam đã kết hợp hài hòa được nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế, qua đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp để xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước, tiếp tục nâng cao được sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến lược xây dựng, bảo vệ Tổ quốc sau 25 năm đất nước hoàn toàn giải phóng.


(1) Dẫn theo Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930-2007), Sđd, tr.561.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.36.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:27:34 am
2. Xây dựng và phát triển khoa học quân sự

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, một trong những nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quân sự của cách mạng Việt Nam là phải xây dựng và phát triển khoa học quân sự lên một bước mới đạt trình độ cao hơn trước. Đây là một nhiệm vụ có nhiều vấn đề mới đòi hỏi phải nỗ lực nghiên cứu, phấn đấu xây dựng mới đáp ứng yêu cầu phát triển của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Khoa học quân sự nghiên cứu về tính chất, quy luật của chủ trương, quá trình xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quốc phòng, chuẩn bị cho chiến tranh và các hoạt động quân sự khác của lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng như chiến tranh giải phóng. Nội dung xây dựng, phát triển của khoa học quân sự phụ thuộc vào đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng, đồng thời, những thành quả nghiên cứu của khoa học quân sự lại được sử dụng xây dựng đường lối cách mạng, đường lối quân sự trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, đặc biệt là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân ta đã xây dựng được một nền khoa học quân sự Việt Nam hiện đại, ưu việt. Đó là nền khoa học quân sự được xây dựng trên cơ sở tận dụng sáng tạo khoa học cách mạng, khoa học quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam, đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống quân sự dân tộc lên tầm cao mới, nhằm giành lại nền độc lập, tự do cho dân tộc và thống nhất Tổ quốc, mở đường đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nhất là quân đội nhân dân đã có bước phát triển vượt bậc về tổ chức biên chế và vũ khí, trang bị, kỹ thuật đòi hỏi phải ra sức nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội và các lực lượng vũ trang quần chúng. Công cuộc hiện đại hóa quân đội làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ đất nước trong những năm đầu Tổ quốc thống nhất đặt ra cho khoa học quân sự nhiều vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết. Trong khi đó, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trên thế giới tiếp tục phát triển đi vào chiều sâu và tác động mạnh đến lĩnh vực quân sự. Đặc điểm tình hình của đất nước trong thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và những biến đổi sâu sắc trên lĩnh vực quân sự thế giới đặt ra yêu cầu mới; đồng thời cũng tạo khả năng hết sức thuận lợi để xây dựng vá phát triển nền khoa học quân sự Việt Nam.

Thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cho thấy, khoa học quân sự là một nhân tố quan trọng tạo thành sức mạnh quân sự của đất nước, bởi nó là cơ sở để chỉ đạo tổ chức và hành động quân sự, đào tạo cán bộ và huấn luyện bộ đội, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang và toàn dân, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân. Tiến hành xây dựng lý luận quân sự, khoa học quân sự ngày càng hoàn chỉnh để hướng dẫn hành động của các cơ quan chỉ huy, của cán bộ và chiến sĩ, rộng hơn nữa là nâng cao trình độ và khả năng chiến đấu của toàn quân, toàn dân mang tính tự giác ngày càng cao, sẽ giảm bớt được công sức và của cải, xương máu khi chiến đấu. Chính vì thế, xây dựng và phát triển khoa học quân sự là một yêu cầu bức thiết của tình hình và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc xây dựng và phát triển khoa học quân sự Việt Nam trong kỷ nguyên mới có những điều kiện hết sức thuận lợi. Đó là Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm chỉ ra những vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được xác định từ Đại hội Đảng lần thứ IV (12-1976), tiếp đó là các đại hội Đảng lần thứ V (3-1962), lần thứ VI (12-1986), lần thứ VII (6-1991) và lần thứ VIII (6-1996); đường lối quân sự được cụ thể hóa qua văn kiện các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương (từ năm 1985 là Đảng ủy Quân sự Trung ương). Đây là cơ sở quan trọng đối với việc xây dựng, phát triển khoa học quân sự Việt Nam.

Thực tiễn vô cùng phong phú của 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975) cho phép chúng ta xem xét đầy đủ những bài học kinh nghiệm của chiến tranh, khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những luận điểm mới trong đường lối quân sự, lý luận quân sự của Đảng. Đồng thời, chúng ta có điều kiện học tập, nghiên cứu những kinh nghiệm khoa học quân sự tiên tiến trên thế giới, nhất là của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đó là những điều kiện hết sức thuận lợi tạo cơ sở để Đảng, Nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân ta tiếp tục xây dựng và phát triển khoa học quân sự Việt Nam lên tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:28:30 am
Đất nước vừa thống nhất, Đảng ta đã đề ra đường lối chính trị, đường lối quân sự, trong đó xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ của khoa học quân sự Việt Nam. Từ khoa học quân sự của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục xây dựng, phát triển thành khoa học quân sự, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trở thành khoa học quân sự của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm đầu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta phải xem xét và giải quyết nhiều vấn đề mới về quân sự như: nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đối tượng tác chiến mới, sức mạnh tổng hợp của quốc phòng, mục tiêu chiến đấu, nhiệm vụ chính trị, phương hướng xây dựng, cơ cấu tổ chức của các lực lượng vũ trang; tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; phương châm chiến lược của chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam… Những vấn đề quân sự đó gắn bó chặt chẽ với những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng như: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững chuyên chính vô sản và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng tư tưởng và văn hóa), trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa và con người mới; xây dựng cơ cấu kinh tế công nông nghiệp, xây dựng kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kinh tế với quốc phòng; kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng với các mặt văn hóa, xã hội; tăng cường đoàn kết và liên minh chiến đấu với nhân dân hai nước Lào và Campuchia; đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Đường lối quân sự của Đảng, đường lối quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân là một bộ phận trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, gắn bó mật thiết với đường lối chính trị, đường lối kinh tế, đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng. Xuất phát từ đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng, khoa học quân sự sẽ phát triển theo phương hướng đúng đắn, sáng tạo. Đây chính là nguyên tắc bảo đảm mối quan hệ đúng đắn giữa chính trị và quân sự, chính trị và khoa học theo nguyên lý quân sự phục tùng chính trị, khoa học chịu sự chỉ đạo của chính trị. Có thể nói, khao học quân sự phải luôn quán triệt và phục vụ việc thực hiện đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng. Trên cơ sở những luận điểm cơ bản trong đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng, khoa học quân sự đi sâu nghiên cứu, chứng minh lý luận và thực tiễn của đường lối quân sự cụ thể hóa đường lối quân sự, góp phần phát triển đường lối quân sự và giải quyết các vấn đề quan trọng về quân sự trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Để đẩy mạnh công tác khoa học quân sự, sau khi đã xác định rõ phương hướng phát triển trước mắt và lâu dài, nhiệm vụ là phải giải quyết vấn đề xây dựng hệ thống tổ chức biên chế, định rõ phương pháp nghiên cứu, biện pháp và mục tiêu phát triển của khoa học quân sự. Khoa học quân sự cách mạng nước ta hình thành và phát triển trên cơ sở hoạt động thực tiễn quân sự phong phú, sáng tạo của toàn quân, toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã kiện toàn, củng cố hệ thống tổ chức nghiên cứu khoa học quân sự trong quân đội và các cơ quan của Nhà nước từ trên xuống dưới, bao gồm các ngành, các lĩnh vực cần thiết. Các học viện, nhà trường, các cơ quan nghiên cứu khoa học được xây dựng thích hợp, trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học quân sự trong thời kỳ mới.

Nhằm tăng cường công tác nghiên cứu, cụ thể hóa đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn mới, ngày 7-3-1978, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 19-QUTW thành lập “Tổ nghiên cứu đường lối, nhiệm vụ quân sự của Đảng”. tiếp đó, ngày 11-9-1978, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 646/QĐ-QP hợp nhất Học viện Quân sự cấp cao và Viện Khoa học quân sự thành Học viện Quân sự cao cấp, trong đó xác định một số nhiệm vụ cơ bản là: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng nền khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong giai đoạn mới; biên soạn các tài liệu lý luận quân sự, lịch sử quân sự, điều lệnh, điều lệ chung của quân đội, giúp Quân ủy Trung ương tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, quản lý công tác khoa học quân sự trong toàn quân. Cục Quản lý khoa học thuộc Học viện Quân sự cao cấp được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý những vấn đề về nghiên cứu của khoa học quân sự.

Trước tình hình mới, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đòi hỏi phải có cơ quan chuyên trách về khoa học quân sự mới đáp ứng kịp thời yêu cầu và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Theo chủ trương đó, ngày 15-12-1980, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 77/QĐ-QP đưa Cục Quản lý khoa học quân sự thuộc Học viện Quân sự cao cấp về trực thuộc Bộ Tổng tham mưu và đổi tên là Cục Khoa học quân sự, do Thiếu tướng Đoàn Khuê làm Cục trưởng. Nhiệm vụ của Cục là nghiên cứu đề đạt với Bộ Quốc phòng về phương hướng, nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch công tác khoa học quân sự ngắn hạn và dài hạn, chỉ đạo việc thực hiện và quản lý công tác khoa học quân sự toàn quân; trực tiếp nghiên cứu các chuyên đề mang tính tổng hợp và một số chuyên đề có tính độ mật cao mà các cơ quan khác không có điều kiện nghiên cứu. Đến đây, hệ thống tổ chức nghiên cứu khoa học quân sự với chức năng chuyên trách hình thành, từng bước được kiện toàn ổn định và triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học quân sự được giao.

Trong hai năm 1979-1080, nhiệm vụ của khoa học quân sự được Quân ủy Trung ương giao chủ yếu là: chỉ đạo chặt chẽ, tăng cường tổ chức, bổ sung cán bộ, hoàn thành tổng kết đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng của quân và dân ta trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), nghiên cứu những vấn đề mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ hệ thống các tài liệu, lý luận cơ bản, các điều lệnh, điều lệ của quân đội, góp phần giải quyết tốt việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân(1).


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr. 396.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:28:52 am
Thực hiện Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 335-NQ/TW ngày 31-12-1980 của Quân ủy Trung ương về phương hướng nhiệm vụ công tác khoa học quân sự trong thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, trước mắt là 5 năm (1981-1985), trong những năm đầu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khoa học quân sự đã tập trung nghiên cứu, xây dựng và phát triển thêm một số mặt chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu kế thừa, nâng cao di sản quân sự và kinh nghiệm chiến đấu của dân tộc, tiếp thu tinh hoa quân sự của các nước

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã để lại một di sản quân sự phong phú, một kho tàng kinh nghiệm quý báu được hình thành và phát triển qua hàng trăm cuộc khởi nghĩa vũ trang và cách mạng yêu nước kiên cường, sáng tạo, lập nhiều chiến công oanh liệt. Nổi bật là chiến thắng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, Lê Hoàn đánh bại quân Tổng (thế kỷ X), Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tổng (thế kỷ XI), Trần Hưng Đạo đánh bại quân Mông - Nguyên (thế kỷ XIII), Lê Lợi, Nguyễn Trãi đánh bại quân Minh (thế kỷ XV) và Quang Trung đánh bại quân Thanh (thế kỷ XVIII). Có thể nói, dân tộc ta đã dám đánh, biết đánh và đánh thắng kẻ thù xâm lược. Nhiều tư tưởng lớn và cách giải quyết hay trong đánh giặc, cứu nước và giữ nước của dân tộc ta đã được nghiên cứu, lý giải, nêu thành luận điểm đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Đó là tư tưởng cả nước đánh giặc, lấy dân làm gốc, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, tổ chức quân sự “tận dân vi binh”, “ngụ binh ư nông”, có quân ở trung ương, đồng thời có quân ở địa phương. Xây dựng thế trận làng - nước, vận dụng nhiều cách đánh thiên biến vạn hóa rất thông minh, sáng tạo, dựa vào dân, dựa vào thế thiên hiểm của núi rừng sông nước, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch, từng bước đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và cuối cùng đánh thắng kẻ địch mạnh hơn.

Đến thế kỷ XX, dân tộc ta thực hiện thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, tiếp đó tiến hành thắng lợi oanh liệt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về chỉ đạo đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng; về khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự trong chiến tranh giải phóng; xây dựng lực lượng cách mạng và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng; kinh nghiệm đánh thắng những đội quân xâm lược lớn của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Quán triệt đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng, khoa học quân sự tiếp tục thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện truyền thống quân sự của dân tộc và tổng kết 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975). Trong kế hoạch công tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một trong những nhiệm vụ được Quân ủy Trung ương xác định là: Tổng kết cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, nhằm đánh giá thắng lợi oanh liệt, mở ra bước ngoặt vĩ đại kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khoa học quân sự đã nghiên cứu, góp phần làm sáng tỏ những luận điểm đặc sắc về quân sự trong 30 năm chiến tranh cách mạng do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Tiếp đó, nghiên cứu, tổng kết về hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Những thành tựu bước đầu đạt được trong nghiên cứu đã làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề về truyền thống quân sự của dân tộc, nhất là trong 30 năm chiến tranh giải phóng, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đó là di sản quân sự vô cùng quý báu của dân tộc để các thế hệ kế tiếp vận dụng, phát huy trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong khi nghiên cứu, kế thừa, nâng cao di sản quân sự, kinh nghiệm chiến đấu của dân tộc, Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định, khoa học quân sự Việt Nam cần đồng thời nghiên cứu, học tập những kinh nghiệm phong phú của khoa học quân sự các nước trên thế giới, trước hết là khoa học quân sự Xôviết và các nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù khoa học quân sự Việt Nam và khoa học quân sự Xôviết được xây dựng và phát triển trong điều kiện hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều là khoa học quân sự của giai cấp vô sản, khoa học quân sự Mác - Lênin. Khoa học quân sự Xôviết là nền khoa học quân sự vô sản đầu tiên trên thế giới đã trải qua quá trình xây dựng, phát triển lâu dài để lại nhiều kinh nghiệm rất phong phú.

Những chiến công vĩ đại, nhưng kinh nghiệm quý báu của nhân dân Liên Xô, quân đội Xôviết, cũng như những thành tựu rực rỡ của nền khoa học quân sự Xôviết đạt được có giá trị to lớn đối với việc nghiên cứu, vận dụng phù hợp với điều kiện xây dựng và phát triển của khoa học quân sự Việt Nam. Với ý nghĩa đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác trong quá trình xây dựng, phát triển nền khoa học quân sự Việt Nam với khoa học quân sự các nước. Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, khoa học quân sự chúng ta đã tích cực nghiên cứu, học tập những khởi nghĩa quý báu của khoa học quân sự Xôviết và các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là trong thực hiện chính quy hóa và hiện đại hóa quân đội phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam, nhằm nâng cao sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh việc nghiên cứu học tập, tiếp thu có chọn lọc khoa học quân sự của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, khao học quân sự của ta còn chú trọng nghiên cứu khoa học quân sự của một số nước tư sản và một số nước trong khu vực Đông Nam Á; đồng thời, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, đối phó kịp thời, hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn phá hoại của đế quốc Mỹ và các thế lực thì địch, góp phần bảo vệ sự trong sáng của khoa học quân sự Mác - Lênin, khoa học quân sự Việt Nam.

Như vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển, khoa học quân sự Việt Nam đã từng bước nghiên cứu kế thừa, nâng cao trí thức quân sự, kinh nghiệm chiến đấu của dân tộc; đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của khoa học quân sự các nước, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong từng giai đoạn lịch sử.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:29:36 am
- Nghiên cứu về đối tượng chiến lược của cách mạng và đối tượng tác chiến của quân và dân ta

Nghiên cứu về địch nhằm hiểu rõ địch, trên cơ sở đó đánh giá đúng kẻ địch để đánh thắng chúng là một vấn đề rất quan trọng trong lĩnh vực quân sự. Kinh nghiệm lịch sử dân tộc đã chỉ rõ: “biết địch, biết ta, trăm trận, trăm thắng”. Trước đây, khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa 50 vạn quân vào miền Nam để tiến hành “chiến tranh cục bộ”, Đảng ta khẳng định: “đế quốc Mỹ giàu mà không mạnh”. Thực tế diễn biến và kết cục của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã chứng minh kết luận của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn.

Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xác định: “Xây dựng đất nước phải đi đôi và bảo vệ đất nước”. Về đối tượng chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng nêu rõ: “Bản chất xâm lược của chủ nghĩa đế quốc không thay đổi. Đế quốc Mỹ không từ bỏ chính sách vũ lực, không giảm bớt mà đang đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Tình hình đó đòi hỏi các lực lượng vũ trang cách mạng phải luôn luôn cảnh giác, kiên trì cuộc đấu tranh vì hòa bình, nhằm làm thất bại mọi âm mưu đen tối của bọn hiếu chiến”(1).

Thế nhưng, ngay sau khi ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari được sự giúp đỡ của các thế lực phản động quốc tế đã âm mưu dùng nhiều thủ đoạn phá hoại đi đến dùng sức mạnh quân sự gây chiến tranh xâm lược vùng biên giới Tây Nam nước ta. Trước tình hình đó, Đảng ta xác định quân đội của tập đoàn Pôn Pốt xâm lược biên giới Tây Nam là đối tượng tác chiến của quân và dân ta. Theo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, cơ quan khoa học quân sự các cấp đã tập trung nghiên cứu về âm mưu, thủ đoạn gây chiến tranh xâm lược, tổ chức, trang bị, vũ khí, kỹ thuật… của quân Pôn Pốt, giúp quân và dân ta có những biện pháp đối phó kịp thời, hiệu quả, làm thất bại từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn âm mưu, hành động xâm lược của quân Pôn Pốt, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam Tổ quốc.

Vừa mới giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lại phải đối phó với đối tượng tổ chức mới trên biên giới phía Bắc.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Cục Khoa học quân sự và cơ quan khoa học quân sự các cấp trong toàn quân đã tập trung đi sâu nghiên cứu về đối tượng chiến lược của cách mạng và đối tượng tác chiến của quân và dân ta trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, đặc biệt là nghiên cứu cụ thể về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, tìm ra bản chất, âm mưu, thủ đoạn, các loại hình gây chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch. Qua đó rút ra những kết luận chính xác về đối tượng chiến lược của cách mạng nước ta; đồng thời cũng là đối tượng tác chiến mới của quân và dân ta, góp phần đưa đến thắng lợi của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc (1979), bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ quốc tế đối với nhân dân Campuchia.

Trong những năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đất nước ta luôn ở trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch; đồng thời sẵn sàng đối phó với tình huống có thể xảy ra cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ của khoa học quân sự là đi sâu nghiên cứu đối tượng chiến lược lâu dài là chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ và đối tượng chiến lược trực tiếp của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa bành trướng, bá quyền; cũng như đối tượng tác chiến lâu dài và đối tượng tác chiến trực tiếp trước mắt của quân và dân ta, trên cơ sở đó kiến nghị chủ trương, đường lối, biện pháp đối phó hiệu quả, làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế, góp phần làm dịu tình hình căng thẳng trong khu vực và các nước láng giềng, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh không xảy ra.

Đến khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở đông Âu tan rã, quan hệ Việt - Trung trở lại bình thường, tình hình Campuchia dần ổn định, Đảng ta nhận định, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ vẫn là đối tượng chiến lược cơ bản lâu dài của cách mạng, đồng thời cũng là đối tượng tác chiến chủ yếu của quân và dân ta. Căn cứ vào đường lối cách mạng, đường lối quân sự theo đường lối đổi mới của Đảng, những năm cuối thế kỷ XX, nhiệm vụ của khoa học quân sự là tiếp tục nghiên cứu đối tượng chiến lược cũng như đối tượng tác chiến của quân và dân ta. Những thành tựu trong nghiên cứu khoa học quân sự đã giúp Đảng ta hoạch định những vấn đề cơ bản trong đường lối, chủ trương, biện pháp đúng đắn để quân và dân ta kịp thời đấu tranh phòng chống, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ cửa các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước vá chế độ xã hội chủ nghĩa.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 37, tr.613.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:30:32 am
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nghệ thuật quân sự và tổ chức quân sự trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc

Nghệ thuật quân sự là một bộ phận rất quan trọng của khoa học quân sự, bao gồm chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, nghiên cứu các vấn đề về phương pháp cụ thể để tiến hành các hoạt động quân sự trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quy luật chung của chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng ở nước ta thời kỳ bảo vệ Tổ quốc có những điểm chung; đồng thời có những đặc điểm riêng so với chiến tranh giải phóng dân tộc trước dây. Theo chức năng, nhiệm vụ, khoa học quân sự đã tập trung nghiên cứu những kinh nghiệm đánh giặc quý báu của dân tộc, đặc biệt là trong 30 năm chiến tranh giải phóng, trên cơ sở đó đề xuất, kế thừa và phát huy sáng tạo những vấn đề cơ bản về nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.

Nhiều kinh nghiệm lớn trong 30 năm chiến tranh giải phóng vẫn rất ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn như: Tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng địch, kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, kết hợp làm chủ với tiến công tiêu diệt địch, tiến công diệt địch để giữ vững quyền làm chủ và vận dụng cách đánh quy mô khác nhau. Trên cơ sở những vấn đề cơ bản đó, khoa học quân sự đã tập trung nghiên cứu xác định mục tiêu của chiến lược quân sự, các phương thức tiến hành chiến tranh, các loại hình chiến dịch, các hình thức chiến thắng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhằm đánh bại các biện pháp tác chiến, các thủ đoạn chiến dịch và hành động chiến thuật của địch trong bất kỳ tình huống nào.

Đồng thời với việc nghiên cứu về nghệ thuật quân sự, khoa học quân sự tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tổ chức quân sự trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức là một vấn đề quan trọng trong cách mạng cũng như trong lĩnh vực quân sự. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ rằng, sau khi có đường lối đúng đắn rồi thì thắng lợi của cách mạng tùy thuộc trước hết vào tổ chức. Bởi vậy, tổ chức, trong đó có tổ chức quân sự là một khoa học đòi hỏi phải được nghiên cứu, giải quyết phù hợp với điều kiện của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về nhiệm vụ xây dựng tổ chức quân sự nói chung, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng trong những năm đầu đất nước thống nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xác định; “Phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, có lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu”(1).

Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khoa học quân sự đã nghiên cứu cụ thể hóa việc xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân dân như tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị, kỹ thuật, chế độ một người chỉ huy, điều lệnh, điều lệ; đồng thời nghiên cứu, học tập kinh nghiệm tổ chức quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô (trước năm 1991) trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Những kết quả bước đầu trong công tác nghiên cứu khoa học quân sự Việt Nam, có cơ cấu tương đố cân đối, đồng bộ, có tổ chức hoạt động hợp lý, gắn bó chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng, từng tổ chức mạnh, từng người mạnh, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống tổ chức quân sự, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

- Nghiên cứu về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, kết hợp quốc phòng với kinh tế, quốc phòng với an ninh và xây dựng khu vực phòng thủ

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên, lâu dài của quân và dân ta trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng được nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là cơ sở để quân và dân ta bảo vệ lâu dài công cuộc xây dựng hòa bình, đập tan các âm mưu và thủ đoạn phá hoại, kể cả xâm lược của các thế lực thù địch và khi phải tiến hành chiến tranh xâm lược, nhanh chóng chuyển sức mạnh của quốc phòng toàn dân thành sức mạnh tổng hợp lớn nhất của chiến tranh nhân dân, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Theo chức năng và nhiệm vụ được giao, các cơ quan khoa học quân sự đã nghiên cứu, làm rõ những vấn đề cụ thể về lý luận và tính chất, đặc điểm của nền quốc phòng, về vai trò và nhiệm vụ củng cố quốc phòng, quan hệ giữa củng cố quốc phòng với xây dựng kinh tế, giữa củng cố quốc phòng với tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện đại. Đặc biệt là nghiên cứu cụ thể hóa các quan điểm của Đảng, mà đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn thường nhắc nhở. Làm chủ tập thể là sức mạnh lớn nhất của nền quốc phòng toàn dân, xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của quốc phòng toàn dân, trên cơ sở đẩy mạnh ba cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mặt khác, cần gắn sức mạnh của quốc phòng nước ta trong khối đoàn kết, liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương và sức mạnh của tình đoàn kết, hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Trong những năm đất nước ở tình trạng vừa có hòa bình, vừa phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch; đồng thời phải đương đầu với nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, kết hợp quốc phòng với kinh tế, quốc phòng với an ninh được đẩy mạnh ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước. Các cơ quan khoa học quân sự trong quân đội trở thành trung tâm phối hợp nghiên cứu với các ngành, bộ môn khoa học khác ở trung ương và địa phương, tạo nên sức mạnh mới cả về kinh tế và quốc phòng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo đảm an ninh và trật tự xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc kết hợp với nhiệm vụ xây dựng đất nước, việc xây dựng các tỉnh, thành phố thành những khu vực phòng thủ vững chắc là chủ trương chiến lược rất quan trọng xuất phát từ quan điểm quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân của Đảng. Theo đường lối đổi mới của Đảng, khoa học quân sự tập trung nghiên cứu, đưa ra những luận điểm mang tính lý luận và thực tiễn, góp phần giúp Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các địa phương xây dựng tiềm lực từng tỉnh, thành phố một cách toàn diện cả về chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa, xã hội. Hầu hết các tỉnh, thành phố đã quy hoạch dài hạn, hình thành các kế hoạch 5 năm, hằng năm theo kế hoạch chung của Nhà nước, theo đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, đường lối xây dựng nền kinh tế nước ta trong chặng đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đường lối quân sự, đường lối quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân của Đảng. Kết quả quá trình xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố chính là biến tiềm năng to lớn của các tỉnh, thành phố ngày càng phát triển trở thành sức mạnh hiện thực của quốc phòng và sẵn sàng biến thành sức mạnh của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr. 587.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:31:23 am
- Nghiên cứu về khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự và một số lĩnh vực quân sự khác

Khoa học kỹ thuật – công nghệ quân sự là lĩnh vực khoa học kỹ thuật, nghiên cứu, vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật, của nền kinh tế quốc dân vào lĩnh vực quân sự, cải tiến sáng chế, vận dụng các loại vũ khí và phương tiện kỹ thuật phù hợp với điều kiện địa hình, khí hận và đặc điểm con người Việt Nam; đồng thời nghiên cứu phương hướng hiện đại hóa trang bị của lực lượng vũ trang (gồm phương tiện chiến đấu, phương tiện chỉ huy và phương tiện bảo đảm), nghiên cứu âm mưu và thủ đoạn sử dụng phương tiện kỹ thuật phá hoại của các thế lực thù địch để tìm biện pháp đối phó hiệu quả.

Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo, công nghiệp và các ngành khoa học của đất nước chưa phát triển mạnh vá sự viện trợ, giúp đỡ của các nước không còn, việc xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự đòi hỏi phải có những nỗ lực lớn về đầu tư nghiên cứu, đầu tư công nghệ, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ chuyên trách và hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật. Trong khi đó, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự các nước đang phát triển, hiệu quả sử dụng các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại. Tình hình đó đòi hỏi ta phải có sự đổi mới không ngừng về vũ khí và trang bị kỹ thuật theo phương hướng ngày càng chính quy, hiện đại, phù hợp với đặc điểm con người và điều kiện chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Trong bối cảnh như vậy, các cơ quan khoa học - kỹ thuật công nghệ quân sự được Nhà nước, Bộ Quốc phòng đầu tư giao nhiệm vụ đã tập trung nghiên cứu những biến đổi sâu sắc về số lượng và chất lượng vũ khí, trang bị hiện có, trên cở đó đề ra các biện pháp cần thiết, làm cho các lực lượng vũ trang ta nắm vững và làm chủ được những trang bị, vũ khí, kỹ thuật hiện đại đang sử dụng và sẽ có, phát huy hiệu quả trong chiến đấu.

Ngày 25-2-1982, Bộ Quốc phòng mở Hội nghị tổng kết phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, đánh dấu phong trào sáng kiến, sáng chế đang có bước phát triển mới, tạo tiền đề cho các lực lượng vũ trang đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khoa học kỹ thuật(1). Tiếp đó, ngay 7-9-1982, Bộ Quốc phòng quyết định ban hành “Điều lệ quản lý công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự” trong quân đội, nhằm thực hiện Nghị quyết 37 của Ban Chấp hành Trung ương về chính sách khoa học kỹ thuật và Nghị quyết 262 của Quân ủy Trung ương về phương hướng nhiệm vụ khoa học kỹ thuật quân sự 5 năm 1981-1985. Đưa công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật vào nền nếp chính quy, hiệu quả. Những kết quả nghiên cứu công phu, sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự đã góp phần nâng cao sức mạnh và khả năng chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học công nghệ quân sự trong tình hình mới, ngày 10-9-1999, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 184/QĐ-TTg thành lập Trung tâm Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự thuộc Bộ Quốc phòng trên cơ sở sắp xếp và tổ chức lại Viện Kỹ thuật quân sự và các viện kỹ thuật khác của Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ của Trung tâm là tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến phục vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với việc tập trung nghiên cứu, phát triển các mặt chủ yếu được giao trên dây, các cơ quan khoa học quân sự trong toàn quân còn tham gia nghiên cứu, phát triển một số lĩnh vực quân sự khác như: công tác hậu cần (gồm cả y học quân sự), địa lý quân sự, sư phạm quân sự, tâm lý quân sự, một số chuyên ngành lịch sử quân sự… Những lĩnh vực quân sự này có mối quan hệ mật thiết nhất định, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển các lĩnh vực chủ yếu của khoa học quân sự Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng vá bảo vệ Tổ quốc.

Trải qua 25 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học quân sự đã khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, nỗ lực phấn đấu với tinh thần tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ tinh hoa khoa học quân sự các nước và kế thừa di sản quân sự quý báu của dân tộc đẩy mạnh quá trình xây dựng, mở rộng hoạt động với các cơ quan khoa học trong và ngoài quân đội, kể cả với một số nước liên quan, đã đạt được thành tựu rất đáng kể.

Trong những năm đầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất (1975-1979), nhiệm vụ của khoa học quân sự là tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản, cụ thể hóa đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng, xây dựng tiềm lực quân sự - quốc phòng, tạo thế và lực mới, giành thắng lợi trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.


(1) Trong 5 năm 1981-1985, toàn quân triển khai 26 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, chủ trì thực hiện 35 đề tài cấp Nhà nước, trong đó có 12 đề tài sản xuất thử và 23 đề tài nghiên cứu.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:32:51 am
Tháng 1-1980, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị khoa học quân sự toàn quân, quyết định tiếp tục tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, biên soạn lịch sử quân sự, hệ thống điều lệnh, tài liệu giáo dục phục vụ yêu cầu xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Tiếp đó, ngày 29-12-1980, Bộ Quốc phòng tổng kết công tác khoa học quân sự 10 năm 1970-1980, đánh giá: Công tác khoa học quân sự đã phát huy tác dụng to lớn, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, tiếp đó giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.

Trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị đề ra phương hướng nhiệm vụ cụ thể là: “Tiếp tục xây dựng, phát triển nền khoa học quân sự Việt Nam cách mạng, khoa học, hiện đại, có bản sắc dân tộc độc đáo, quán triệt sâu sắc đường lối và tư tưởng quân sự của Đảng, không ngừng hoàn chỉnh lý luận về chiến tranh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân, nhằm bảo vệ vững chắc và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và nâng cao chất lượng đối ngũ cán bộ làm công tác khoa học quân sự, củng cố hệ thống cơ quan chỉ đạo, quản lý chặt chẽ các hoạt động khoa học quân sự”. Trong 5 năm 1981-1985 phải hoàn thành tổng kết kinh nghiệm đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng của quân và dân ta trong 35 năm qua (1945-1980), biên soạn lịch sử quân đội và lịch sử chiến tranh, kiện toàn và ổn định hệ thống tổ chức cơ quan khoa học quân sự chuyên ngành trong quân đội, làm nòng cốt hoàn thành nhiệm vụ xây dựng, phát triển khoa học quân sự Việt Nam, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Sau Hội nghị, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 335l/NQ-TW ngày 31-12-1980 về phương hướng nhiệm vụ công tác khoa học quân sự trong giai đoạn mới và trong 5 năm 1981-1985.

Tháng 2-1981, Hội nghị khoa học quân sự lần thứ hai do Bộ Quốc phòng tổ chức diễn ra ở Hà Nội. Hội nghị đánh giá công tác khoa học quân sự đạt được trong năm 1980 đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về đường lối quân sự của Đảng, củng cố sức mạnh quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Hội nghị đề ra một số biện pháp đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về công tác khoa học quân sự trong giai đoạn 5 năm 1981-1985.

Để xây dựng và phát triển khoa học quân sự, một trong những nhiệm vụ quan trọng là cần có chính sách tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách có số lượng và chất lượng tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tháng 11-1983, Cục Khoa học quân sự (Bộ Tổng tham mưu) mở lớp tập huấn cán bộ khoa học quân sự toàn quân. Nội dung gồm một số vấn đề về lý luận khoa học quân sự Việt Nam, phương pháp tổ chức nghiên cứu chiến thuật qua diễn tập thực nghiêm, tổ chức và nghiên cứu khoa học quân sự địa phương. Qua đợt tập huấn này và một số đợt tập huấn khác trong những năm sau này, trình độ quản lý, chỉ đạo của đội ngũ cán bộ trong xây dựng, phát triển khoa học quân sự được nâng lên, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trong hai ngày 27 và 28-12-1985, Hội nghị tổng kết công tác khoa học quân sự năm 1985, do Bộ Tổng tham mưu tổ chức diễn ra tại Hà Nội. Hội nghị đánh giá những mặt thành công của khoa học quân sự đã đạt được, đồng thời chỉ ra một số hạn chế về trình độ quản lý, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự chưa tương xứng với yêu cầu phát triển trên một số lĩnh vực khoa học quân sự bảo vệ Tổ quốc.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quết Đảng ủy Quân sự Trung ương và đẩy mạnh công tác khoa học quân sự trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 23-6-1986, Hội nghị tổng kết công tác khoa học quân sự 5 năm 1981-1985 do Bộ Quốc phòng tổ chức tại Hà Nội. Hội nghị đánh giá khoa học quân sự đã có nhiều tiến bộ trong công tác nghiên cứu, góp phần vào việc tăng cường sức mạnh quốc phòng, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng các loại vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật quân sự do các nước xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô viện trợ phù hợp với điều kiện bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Từ cuối năm 1986, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển theo đường lối đổi mới của Đảng, khoa học quân sự tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu cụ thể hóa những vấn đề đường lối quân sự của Đảng, tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, với tinh thần tự lực tự cường, đội ngũ cán bộ khoa học quân sự đẩy mạnh nghiên cứu, tăng cường việc bảo quản, giữ gìn tốt vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, từng bước mở rộng quan hệ với các nước, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 4-1991, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đất nước, nêu rõ: Khoa học và công nghệ phục vụ đắc lực nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh. Phấn đấu vươn lên góp phần giải quyết những vấn đề cơ sở vật chất kỹ thuật của quốc phòng và an ninh theo yêu cầu của giai đoạn mới. Tiếp tục xây dựng nền khoa học và nghệ thuật quân sự của dân tộc”(1).


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.477.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 06:33:36 am
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, cuối năm 1991, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Chỉ thị số 322-CT/QP về Nhiệm vụ công tác khoa học quân sự 5 năm 1991-1995, nêu rõ “Tổ chức nghiên cứu biên soạn và ban hành các bộ điều lệ công tác kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam và của các chuyên ngành. Biên soạn tài liệu bảo đảm kỹ thuật đối với một số loại hình chiến dịch, chiến đấu tiêu biểu cấp sư đoàn, quân đoàn, quân khu. Biên soạn các tài liệu huấn luyện về lĩnh vực khoa học kỹ thuật quân sự trong thời bình và những quy định rút gọn về huấn luyện thời chiến”(1).

Theo tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị, các cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường đã tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nghiên cứu về tổ chức quân sự, tổng kết kinh nghiệm lịch sử về chuẩn bị chiến tranh và tiến hành chiến tranh nhân dân, nghiên cứu cải tiến vũ khí, trang bị, kỹ thuật phù hợp với cách đánh của quân đội trong điều kiện chiến tranh hiện đại.

Để tăng cường sự chỉ đạo tập trung thống nhất công tác nghiên cứu khoa học, Cục Khoa học Công nghệ và Môi trường thuộc Bộ, hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ và môi trường trong toàn quân, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự được củng cố. Thực hiện chủ trương đẩy mạnh nghiên cứu khoa học quân sự phục vụ thiết thực nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng quân đội của Bộ, các đơn vị ở khu vực phía bắc đã khẩn trương tổ chức nghiên cứu, tổng kết các trận đánh điển hình của các đơn vị trong kháng chiến chống Mỹ. Bên cạnh đó, việc tổng kết hoạt động của các đơn vị tham gia chiến đấu ở biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ ở Campuchia cũng được xúc tiến.

Sau ba năm đẩy mạnh xây dựng, hoạt động, ngày 4-11-1993, Bộ Quốc phòng tổ chức tổng kết hoạt động khoa học quân sự do Nhà nước đầu tư (1991-1993). Hội nghị đánh giá: Các cơ quan khoa học quân sự đã tham gia ngày càng nhiều vào thực hiện các chương trình trọng điểm của Nhà nước, hòa nhập với lực lượng khoa học Nhà nước, thu hút phần lớn tiềm lực khoa học của các viện, học viện vào việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu; giữ gìn, sử dụng, chế tạo, cải tiến vũ khí, trang bị, huấn luyện, chỉ huy, quản lý bộ đội. Riêng Bộ Quốc phòng đã có 15 đề tài trọng điểm cấp Nhà nước, 40 đề tài khác trong 11 chương trình của Bộ, 105 đề tài độc lập do Nhà nước hỗ trợ được triển khai nghiên cứu, quản lý chặt chẽ, đạt hiệu quả thiết thực.

Nhằm tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng trong nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự, tháng 8-1991, Bộ Quốc phòng mở lớp tập huấn cán bộ quản lý khoa học và công nghệ toàn quân. Nội dung nghiên cứu về xây dựng, quản lý và điều hành kế hoạch hoạt động công nghệ trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, quản lý các chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ quân sự, xây dựng, quản lý tiềm lực khoa học và công nghệ quân sự, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trong những năm cuối của thế kỷ XX, nhiệm vụ xây dựng và phát triển của khoa học quân sự đòi hỏi phải bảo đảm những yêu cầu về chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học quân sự tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu cụ thể hóa đường lối quân sự của Đảng trên từng lĩnh vực quân sự. Nhiều đề tài nghiên cứu, sáng kiến cải tiến kỹ thuật từng bước được đưa vào ứng dụng. Trong năm 2000, các tổ chức, cơ quan khoa học quân sự Bộ Quốc phòng đã tổ chức nghiệm thu 75 đề tài nghiên cứu khoa học, nghiệm thu 11 đề tài áp dụng thử nghiệm. Một số đề tài được ứng dụng có hiệu quả trong thực tiễn xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. Nhà nước đã đầu tư hàng chục phòng thí nghiệm với trang bị hiện đại và từng bước xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, do Bộ Quốc phòng quản lý.

Như vậy, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), khoa học quân sự Việt Nam đã kế thừa, nâng cao di sản quân sự, kinh nghiệm chiến đấu của dân tộc và tiếp thu tinh hoa của khoa học quân sự các nước, tập trung nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề cơ bản về quân sự Việt Nam, góp phần quán triệt, cụ thể hóa đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng và đạt được một số thành tựu đáng kể. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Bộ Quốc phòng tổ chức bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học quân sự, huấn luyện, nâng cao trình độ các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân làm nòng cốt xây dựng tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.


(1) Chỉ thị số 332-CT/Q về Nhiệm vụ công tác khoa học quân sự 5 năm 1991-1995, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Quốc phòng.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:30:03 am
3. Nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc

Nghệ thuật quân sự Việt Nam là một bộ phận của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật quân sự giữ vị trí hết sức quan trọng, bởi nó nghiên cứu các quy luật, xác định nguyên tắc và phương pháp tiến hành các hoạt động quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, có quy luật hình thành, phát triển chung là chiến tranh cách mạng, chiến tranh chính nghĩa, song lại có quy luật riêng đều phải tuân thủ. Theo luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ phân tích bản chất chiến tranh, mà còn đi sâu nêu rõ đặc điểm chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong chiến tranh giải phóng, mục tiêu chiến đấu là đánh đuổi kẻ địch ra khỏi lãnh thổ nước ta, giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta chống lại kẻ địch xâm lược từ bên ngoài vào nước ta, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn và ý đồ xâm lược của chúng, giữ vững nền độc lập của dân tộc, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những điểm chung, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng có quy luật riêng, do mục đích chính trị, đối tượng tác chiến, so sánh lực lượng hai bên, bối cảnh lịch sử cụ thể quy định nên hình thái và quá trình phát triển của chiến tranh, phương pháp tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng có điểm không giống chiến tranh giải phóng.

Dựa trên cơ sở những luận điểm giống nhau và khác nhau trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta nhìn nhận đánh giá làm sáng tỏ những vấn đề của nghệ thuật quân sự Việt Nam đã được Đảng, lực lượng vũ trang, quân đội và nhân dân ta kế thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo những nội dung nghệ thuật quân sự phù hợp với điều kiện mới của đất nước.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta có điều kiện hết sức thuận lợi là đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và chuẩn bị cho cả nước tham gia bảo vệ Tổ quốc. Nhằm có đủ thế và lực chủ động trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân từng bước chính quy, hiện đại, làm nòng cốt kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong thế bố trí chiến lược chung cả nước.

Công cuộc xây dựng đất nước, chuẩn bị tiềm lực quân sự, quốc phòng cả nước, trong đó có vấn đề nghệ thuật quân sự bảo vệ Tổ quốc mới bắt đầu thì quân và dân ta phải đối phó ngay với kẻ thù xâm lược mới. Lần này, đối tượng tác chiến trực tiếp là quân Pôn Pốt - Iêng Xari được sự giúp đỡ của các thế lực thù địch nước lớn xâm lược ở biên giới Tây Nam; tiếp đó là quân Trung Quốc, lực lượng đông, trang bị, vũ khí hiện đại tiến công trên biên giới phía Bắc, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, mà bộ phận nòng cốt và đặc trưng nhất của nó là nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến tranh cách mạng đã được phát huy mạnh mẽ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước.

Nghệ thuật quân sự trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc là nghệ thuật toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, quán triệt tư tưởng tiến công, giành và giữ quyền chủ động, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, riêng phía Bắc ta phải lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn; đồng thời biết tập trung lực lượng khi cần thiết, dùng sức mạnh của cả thế và lực, phát huy cao nhất khả năng của thế trong việc kết hợp với lực tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh thắng địch. Nét đặc trưng của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thực hành đấu tranh vũ trang là chỉ đạo hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang, cả quần chúng nhân dân vũ trang đánh giặc, kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ, kết hợp ba thứ quân, kết hợp tác chiến phân tán và tác chiến tập trung, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Nghệ thuật quân sự Việt Nam thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã kế thừa kinh nghiệm quân sự dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa nghệ thuật quân sự các nước, phát triển sáng tạo lên tầm cao mới. Nghệ thuật quân sự của ta gồm ba bộ phận hợp thành là chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Mỗi bộ phận đều có vị trí, vai trò riêng đồng thời lại có quan hệ hữu cơ và tác động qua lại thúc đẩy nhau phát triển. Chiến lược đề ra đúng đắn tạo điều kiện cơ bản để hoàn thành thuận lợi các nhiệm vụ trong chiến dịch và trận chiến đấu. Ngược lại, có giải quyết tốt các vấn đề thuộc phạm vi nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, hoàn thành mọi nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường cũng như chuẩn bị chiến trường thì mới có thể đạt được mục đích do chiến lược quân sự đề ra. Nội dung về nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thể hiện trên các lĩnh vực chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật như sau:

- Về chiến lược quân sự

Trong nghệ thuật quân sự, chiến lược quân sự là bộ phận quan trọng nhất có tác dụng chỉ đạo nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; đồng thời dựa vào những nguyên lý của nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật để xem xét các vấn đề chiến lược. Nhiệm vụ của chiến lược quân sự là nghiên cứu tính chất, quy luật của chiến tranh, phương thức tiến hành chiến tranh, nghiên cứu cơ sở lý luận, tiến hành chiến tranh và tác chiến chiến lược. Chiến lược quân sự xác định mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược, xác định và tiến hành các biện pháp chuẩn bị cho đất nước, lực lượng vũ trang từ thời bình chuyển sang thời chiến, chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị kinh tế và lực lượng của toàn dân cho chiến tranh, lập kế hoạch hành động tác chiến chiến lược; tổ chức xây dựng, triển khai chỉ đạo lực lượng vũ trang trong quá trình chiến tranh, nghiên cứu khả năng tiến hành chiến tranh và tác chiến chiến lược của địch.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:31:13 am
Chiến lược quân sự Việt Nam coi tiến công là loại hình tác chiến chiến lược cơ bản, chỉ có tiến công kiên quyết và tích cực mới giành được thắng lợi trong chiến tranh, nhưng vẫn phải tác chiến phòng ngự khi chưa có điều kiện tiến công tiến công để tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, tạo thế, tạo thời cơ để phản công và tiến công đánh bại quân xâm lược.

Tiếp theo hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975), sau khi hoàn thành thống nhất đất nước và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, quân và dân ta tiếp tục tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân xâm lược Pôn Pốt ở biên giới Tây Nam và chống quân Trung Quốc trên biên giới phía Bắc. Mỗi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc có chiến lược quân sự riêng, được xác định căn cứ vào mục đích chính trị của chiến tranh, đối tượng tác chiến, so sánh lực lượng hai bên, điều kiện địa lý quân sự của đất nước, bối cảnh lịch sử trong nước và trên thế giới. Nhưng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc này đều có điểm chung là chiến tranh nhân dân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, diễn ra trong những điều kiện lịch sử cụ thể, đất nước độc lập, thống nhất và nhân dân cả nước bước vào kỷ nguyên mới xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Vì thế, chiến lược quân sự trong hai cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đều chung những nội dung cơ bản phản ánh các vấn đề mang tính quy luật của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong những năm đầu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất.

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là cuộc chiến tranh tự vệ, chính nghĩa, nhằm bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần bảo vệ độc lân dân tộc của nhân dân Lào và Campuchia anh em, bảo vệ hòa bình ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. Những nội dung cơ bản của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng là những vấn đề có tính quy luật của chiến lược quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam. Để đạt được mục đích chính trị của chiến tranh phải xác định rõ mục tiêu của chiến lược quân sự là tiêu diệt địch, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ nhân dân, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, đánh bại các cuộc tiến công của quân địch từ bên ngoài xâm lược vào lãnh thổ nước ta.

Đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đúng đắn, sáng tạo và phát động tổ chức toàn dân thực hiện. Đây là một đóng góp hết sức to lớn của Đảng và đó cũng là yếu tố quan trọng, quyết định thắng lợi của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Với chiến lược chiến tranh toàn dân bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã huy động được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh toàn dân, toàn diện, tổ chức thành một mặt trận dồn ra tiền tuyến trước, theo tinh thần “cả nước dồn sức cho tuyến trước đánh thắng địch”, phát huy được vai trò cả nước đánh địch bất cứ nơi nào, ngay từ trận đầu, tuyến đầu trên lãnh thỏ đất nước ta.

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc là một thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất và tinh thần của cả nước. Để phát huy sức mạnh mọi mặt của đất nước, Đảng ta chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc toàn diện, huy động đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả nước đánh địch trên tất cả các địa bàn thuộc chủ quyền lãnh thổ nước ta khi chúng đặt chân tới.

Ngay khi quân Pôn Pốt phát động chiến tranh xâm lược vùng biên giới Tây Nam, ngày 23-5-1977, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho các lực lượng vũ trang phía Nam: Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động Campuchia vào lãnh thổ nước ta, đồng thời tôn trọng chủ quyền lãnh thổ Campuchia. Tìm mọi cách làm nhụt tinh thần của bọn khiêu khích”(1). Tiếp đó, ngày 6-10-1977, Quân ủy Trung ương nhấn mạnh: “Nhiệm vụ hàng đầu của các lực lượng vũ trang là bảo vệ vững chắc chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và hải đảo, từng tấc đất của Tổ quốc, tính mạng và tài sản của đồng bào. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng phải làm tròn với một tinh thần trách nhiệm thật cao và một quyết tâm thật lớn”(2).

Quán triệt tư tưởng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, chiến lược của ta là dùng sức mạnh tổng hợp dồn ra phía trước, tuyến trước (còn gọi là tuyến đầu). Tư tưởng chiến lược này được Hội nghị Trung ương lần thứ tư của Đảng (7-1978) chỉ rõ: “Tập trung sức thực hiện nhiệm vụ trước mắt là đánh thắng trong chiến tranh biên giới Tây Nam; tăng cường khả năng và trình độ sẵn sàng chiến đấu trên hướng Bắc và Tây Bắc, tăng cường phòng thủ các đảo và bảo vệ vùng biển, bảo vệ vững chắc cả nước”(3).

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nỗ lực tăng cường nhiệm vụ trước tiên là đánh thắng quân Pôn Pốt ở biên giới Tây Nam. Chỉ sau một thời gian, tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 đã được truyền đạt tới tận cơ sở, kể cả những nơi xa xôi hẻo lánh vùng biên giới, làm cho nhân dân nhận thức rõ đối tượng tác chiến mới và có biện pháp đối phó hiệu quả. Nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trên biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, từ chỗ chưa có chuẩn bị, dễ bị bất ngờ nếu địch tiến công, từng bước chuyển sang tình trạng có chuẩn bị một bước, hạn chế được khả năng bị bất ngờ, khắc phục được tình trạng sơ hở về chiến lược.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.527.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr.536.
(3) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Sđd, tr.526.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:32:09 am
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, về mặt không gian, ta thường chủ trương đánh địch ngay trên những khu vực tuyến đầu, khi chúng đặt chân lên lãnh thổ đất nước, hết sức thu hẹp không gian chiến tranh. Chúng ta kiên quyết đánh ngăn chặn, không cho địch tiến vào sâu đánh chiếm tràn lan, làm suy yếu tiềm lực quân sự, phá hoại kinh tế, tàn sát nhân dân, gây khó khăn cho công cuộc xây dựng đất nước. Thực tiễn cuộc chiến đấu trên biên giới Tây Nam cũng như biên giới phía Bắc, quân và dân ta đã anh dũng đánh chặn, kìm giữ, hạn chế được không gian chiến tranh chỉ diễn ra ở các huyện, tỉnh vùng biên giới thuộc Gia Lai - Kon Tum, Đắk Lắk (nay là Đắk Lắk, Đắk Nông), Tây Ninh, Sông Bé (Bình Phước, Bình Dương), Long An, Đồng tháp, An Giang, Kiên Giang (phía Nam), Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Lai Châu, Quảng Ninh (phía Bắc).

Về thời gian, hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc diễn ra ngắn hơn so với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước đó. Do yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đồng thời, do ta có điều kiện tạo nên sức mạnh tổng hợp ngay từ đầu, nên quân dân ta đã dồn sức đánh ngăn chặn, tiêu diệt, tiêu hao địch ngay trên khu vực tuyến đầu thuộc các huyện, tỉnh vùng biên giới, làm thất bại ý đồ đánh nhanh thắng nhanh, khiến chúng bị sa lầy thất bại nặng nề, không thể kéo dài chiến tranh phải từ bỏ âm mưu xâm lược. Vì thế, ta rút ngắn được thời gian chiến tranh (biên giới Tây Nam từ ngày 30-4-1977 đến ngày 7-1-1979, biên giới phía Bắc từ ngày 17-2 đến ngày 18-3-1979), hạn chế tổn thất cho ta.

Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công vào thực hiện chiến lược quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta xác định phương châm tác chiến chiến lược là: “Làm chủ và tiến công, tiến công và làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ chiến trường”. Đề cập đến tư tưởng chiến lược này, đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư của Đảng đã nêu rõ: “Làm chủ và tiến công, tiến công và làm chủ là nét đặc sắc nhất trong nghệ thuật đánh giặc của dân tộc Việt Nam ta. Nhờ nắm vững chiến lược đó, mà từ hàng nghìn năm nay dân tộc Việt Nam ta đã đánh bại mọi bọn xâm lược”(1).

Tư tưởng làm chủ về chiến lược quân sự là một dạng biểu hiện của làm chủ về chính trị, nhằm đánh bại kẻ thù xâm lược để bảo vệ quyền làm chủ đất nước của nhân dân ta. Lực lượng làm chủ và tiến công trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là lực lượng toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân làm nòng cốt. Để giữ vững quyền làm chủ, thực hiện tiến công địch mạnh mẽ và rộng khắp, chúng ta đã xây dựng được các lực lượng vũ trang có quân chủ lực và quân địa phương, bố trí thành lực lượng cơ động mạnh và lực lượng tại chỗ mạnh. Quân địa phương là lực lượng nòng cốt cho chiến tranh nhân dân địa phương chủ động tiến công, kìm giữ, bao vây, chia cắt, tiêu diệt và tiêu hao nhiều sinh lực địch ở bất cứ nơi nào chúng đặt chân tới, tạo điều kiện cho quân chủ lực tập trung sức mạnh đánh những đòn tiêu diệt lớn quân địch.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, ta sử dụng lực lượng vũ trang các tỉnh biên giới đánh ngăn chặn địch giai đoạn đầu, sau đó huy động lực lượng chủ lực các Quân khu 5, 7, 9 tới hỗ trợ lực lượng tại chỗ đánh kìm chân, tạo thế cho lực lượng chủ lực cơ động của các Quân đoàn 2, 3, 4 phản công và tiến công, đẩy quân Pôn Pốt ra khỏi vùng biên giới. Đối với cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, ta chưa sử dụng đến các binh đoàn chủ lực cơ động chiến lược (Quân đoàn 1, 2, 3, 4), các quân chủng (Phòng không, Không quân, Hải quân) và lực lượng chủ yếu của các binh chủng, mà chỉ dùng lực lượng tại chỗ của các Quân khu 1, 2 làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân địa phương đánh ngăn chặn, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của quân Trung Quốc.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, phương châm tác chiến chiến lược của ta cơ bản là tiến công, phản công và phòng ngự, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và phản công là quyết định, còn phòng ngự là đặc biệt quan trọng quan trọng trong giai đoạn đầu chiến tranh và chỉ vận dụng trong phạm vi chiến dịch và chiến đấu. Tác chiến trong phòng ngự là để tiến công tiêu diệt địch, chứ không phải là phòng ngự bị động. Trên cơ sở thế trận phòng thủ được xây dựng, lực lượng được bố trí hợp lý, hình thành thế làm chủ vững chắc trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam cũng như biên giới phía Bắc, quân và dân ta đã đánh ngăn chặn bước tiến của quân Trung Quốc, kết hợp chặt chẽ phản công và tiến công, nhanh chóng giáng cho đối phương những thất bại nặng nề ngay trên tuyến đầu lãnh tổ vùng biên giới của Tổ quốc.

Thực hiện chiến lược làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, vận dụng sáng tạo tư tưởng chiến lược tiến công trong chiến tranh tự vệ, kết hợp tiến công, phản công với phòng ngự, khéo kết hợp các phương thức tác chiến chiến lược là những nét nổi bật của chiến lược quân sự trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.


(1) Lê Duẩn: Bài nói ở Hội nghị bàn về công tác phát động quần chúng ở các đơn vị phía Nam, tháng 2-1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:33:05 am
- Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch

Nghệ thuật chiến dịch là bộ phận trong thể thống nhất và hoàn chỉnh hợp thành của nghệ thuật quân sự. Về hình thức, nghệ thuật chiến dịch là bộ phận nối liền chiến lược và chiến thuật, nhưng nó vẫn mang tính chất tương đối độc lập, không thể lẫn lộn với chiến lược, hoặc chiến thuật. Nghệ thuật chiến dịch sử dụng các phương tiện chiến thuật và các hoạt động chiến thuật của bộ đội để hoàn thành nhiệm vụ do chiến lược đề ra. Căn cứ vào sự chỉ đạo của chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch có nhiệm vụ nghiên cứu các quy luật, nội dung và tính chất của các loại chiến dịch tiến công, phản công, phòng ngự từ lúc chuẩn bị lực lượng, cơ sở vật chất và chuẩn bị chiến trường đến quá trình thực hành chiến dịch và các hoạt động tác chiến liên quan phù hợp đến từng giai đoạn phát triển của chiến tranh.

Trong lịch sử dân tộc, những hiện tượng chiến dịch đã sớm xuất hiện với truyền thống quân sự rất độc đáo Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, nghệ thuật chiến dịch được hình thành và phát triển, đến cuộc kháng chiến chống Mỹ tiếp tục có những bước phát triển mới. Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật chiến dịch được nghiên cứu, vận dụng phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với đặc thù của đất nước thống nhất và trước đối tượng tác chiến mới.

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, quân và dân ta đánh kẻ địch từ bên ngoài xâm lược vào nước ta. Chúng ta có đủ sức mạnh tổng hợp để đánh địch ngay từ đầu chúng đặt chân tới, chứ không phải chuyển từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ yếu đến mạnh như trong các cuộc chiến tranh giải phóng trước đây. Thế và lực ta rõ ràng đã khác trước. Do đó, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, quân và dân ta không phải mất nhiều thời gian để chuyển biến từng bước so sánh lực lượng giữa ta và địch. Ngay từ đầu, quân và dân ta đã ở thế làm chủ đất nước, làm chủ chiến trường, làm chủ địa phương và cơ sở, có điều kiện chuẩn bị trước cả lực lượng và thế trận sẵn sàng đánh địch.

Trong quá trình chuẩn bị và thực hành chiến dịch, việc chọn hướng (khu vực) và địa bàn tác chiến là một trong những vấn đề quan trọng đố với thắng lợi của chiến dịch. Kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc ta cũng như của các nước trên thế giới đã chứng minh với một lực lượng nhất định nếu chọn hướng phòng thủ và địa bàn tác chiến đúng sẽ phát huy được sức mạnh gấp bội trong chiến đấu. Đây là một nội dung cơ bản của nghệ thuật vận dụng không gian chiến tranh nói chung cũng như chiến dịch trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nói riêng.

Dựa vào địa lý vùng biên giới và so sánh lực lượng giữa hai bên, trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhất là biên giới phía Bắc, vùng rừng núi với địa thế hiểm trở và địa bàn thuận lợi cho ta chọn hướng xây dựng thế trận phòng thủ. Muốn đánh bại sự tiến công của địch, ta phải đánh bại mũi tiến công chủ yếu của chúng. Vì vậy, chọn hướng và địa bàn tác chiến của ta đều phải nhằm vào hướng tiến công chủ yếu của đối phương. Tuy nhiên, trong quá trình tiến công, chúng có thể thay đổi hướng tiến công chủ yếu. do đó, ta phải phán đoán hành động tiến công của địch để điều động lực lượng và hỏa lực kịp thời chuyển hướng thứ yếu thành hướng chủ yếu khi cần thiết.

Căn cứ vào vị trí chiến lược của từng tỉnh biên giới, quân và dân ta đã xây dựng thế trận phòng thủ ở các huyện, tỉnh biên giới thuộc các Quân khu 5, 7, 9. Trên biên giới phía Bắc, ta xây dựng thế trận trên các hướng Lạng Sơn (trọng điểm là Đồng Đăng, Cao Lộc, Lộc Bình), Cao Bằng (trọng điểm là Hà Quảng, Trà Lĩnh, Hòa An), Hoàng Liên Sơn (trọng điểm là thị xã Lào Cai), Lai Châu (trọng điểm là thị trấn Phong Thổ) và các hướng Hà Tuyên, Quảng Ninh. Trên các hướng, các khu vực trọng điểm được bố trí lực lượng hợp lý, có sự kết hợp giữa bộ đội chủ lực Bộ, quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, bộ đội biên phòng và dân quân tự vệ, nhân dân theo chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng trên địa bàn các Quân khu 5, 7, 9 (phía Nam) và các Quân khu 1, 2 (phía Bắc).

Trên cơ sở lực lượng đã bố trí, ta xây dựng các khu vực cấu trúc công sự phòng ngự, nhất là biên giới phía Bắc, hình thành các khu vực phòng thủ từng trung đoàn kết hợp với lực lượng huyện và lực lượng vũ trang quần chúng ở tuyến trước. Bên cạnh tuyến phòng thủ bộ đội tập trung, hệ thống làng xã chiến đấu, khu chiến đấu của các cơ quan quốc doanh, của dân quân tự vệ ở một số khu vực trọng điểm trên các hướng Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn được xây dựng. Hệ thống vật cản nằm sát biên giới cũng được xây dựng nhằm ngăn chặn các toán biệt kích, trinh sát đối phương xâm nhập trái phép vào lãnh thổ nước ta. Công tác chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị cơ sở vật chất ở các tỉnh biên giới được đẩy mạnh. Như vậy, chọn hướng và địa bàn tác chiến, xây dựng thế trận phòng thủ là yếu tố cơ bản bảo đảm cho quân và dân ta đánh ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài và ngay ở tuyến đầu của Tổ quốc.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cho thấy, các thế lực phong kiến phương Bắc thường sử dụng hướng tiến công vào nước ta từ phía Nam lên, sau đó đánh từ phía Bắc xuống. Trước hành động mở cuộc tiến công xâm lược của quân Pôn Pốt trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, lúc đầu do không lường hết những thủ đoạn dã man tàn bạo của địch, nên đã có trường hợp mất cảnh giác để xảy ra những thiệt hại lớn về tính mạng, tài sản của nhân dân, ta không kịp đối phó. Ngày sau đó, trên cơ sở từng bước nắm chắc tình hình địch và đề ra kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ biên giới theo hướng cơ bản, lâu dài, ta mở hàng loạt các chiến dịch, hoặc đợt phản công, tiến công bằng nhiều mũi, nhiều hướng, kết hợp đánh chính diện với bao vây, vu hồi thọc sâu đánh chia cắt như đợt phản công A8 của Sư đoàn 10, Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320) và một số đơn vị binh chủng thuộc Quân đoàn 3 (23-10 đến 23-11-1977); chiến dịch phản công trên hướng đông - đông bắc Soài Riêng của Quân đoàn 4 (6-12-1977 đến 6-1-1978); chiến dịch tiến công Đ7 của Quân đoàn 3 thiếu (12-12-1977 đến 5-1-1978)… Sau gần hai năm chiến đấu gay go, quyết liệt, quân và dân ta ở các tỉnh biên giới Tây Nam được sự chỉ viện của quân dân cả nước đã giáng cho quân Pôn Pốt xâm lược những đòn thất bại nặng nề.

Thực tiễn trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc cho thấy, cuộc chiến tranh diễn ra ở biên giới Tây Nam, hình thức tác chiến chiến dịch hình thành diễn ra rõ nét hơn. Ta đã tổ chức các chiến dịch phản công và tiến công do các đơn vị bộ đội chủ lực Bộ (các Quân đoàn 2, 3, 4), phối hợp với lực lượng vũ trang các Quân khu 5, 7, 9 đạt hiệu suất chiến đấu cao, quét sạch quân xâm lược ra khỏi vùng biên giới. Còn cuộc chiến tranh trên biên giới phía Bắc, ta chủ yếu sử dụng lực lượng của quân khu và bộ đội địa phương tỉnh, huyện thuộc các Quân khu 1, 2 và một số đơn vị bộ đội địa phương Quân khu 3 chi viện chủ yếu đánh ngăn chặn và tổ chức một số đợt phản công, không cho quân Trung Quốc tiến sâu vào lãnh thổ nước ta.

Tuy nhiên, trong cách đánh chiến dịch ở phía Bắc, ta có những hạn chế. Trên một số hướng khu vực tác chiến, ta chưa phát hiện chặn đánh kịp thời để quân Trung Quốc vượt qua, tổ chức phản công và tiến công chưa mạnh mẽ và phổ biến, sự kết hợp giữa phòng ngự, phản công và tiến công chưa chặt chẽ, chưa chú trọng đối phó với các mũi vu hồi của đối phương… Nhìn chung, trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, hình thức tác chiến chiến dịch phòng ngự đã phát huy tác dụng, nếu chúng ta tổ chức vá thực hành phòng ngự tốt hơn nữa thì thắng lợi càng lớn. Các đợt phản công và tiến công thực hiện chưa được nhiều, nhưng với kết quả đạt được cũng như tình hình chung trên chiến trường biên giới phía Bắc, nếu được tổ chức tốt và kiên quyết phản công, tiến công khi có các binh đoàn chủ lực cơ động chiến lược tham gia có nhiều cơ hội giành thắng lợi to lớn hơn.

Qua hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc cho thấy, trong các hình thức tác chiến chiến dịch, chỉ có kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự, phản công và tiến công là quyết định, phòng ngự là đặc biệt quan trọng, tam ới thực hiện tốt tư tưởng chiến lược tiến công, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ, giữ vững các tuyến phòng thủ biến giới, đập tan mọi cuộc tiến công xâm lược từ bên ngoài vào lãnh thổ nước ta.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:33:36 am
- Về chiến thuật

Chiến thuật là bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự, có mối quan hệ biện chứng với chiến lược quân sự và nghệ thuật chiến dịch và chịu sự chỉ đạo của hai bộ phận này, đồng thời, sự phát triển của chiến thuật có tác dụng góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch và chiến lược quân sự. Nhiệm vụ của chiến thuật là nghiên cứu tính chất, quy luật và phương pháp tác chiến của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trong từng trận chiến đấu. Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta đã hình thành các cách đánh rất phong phú, sáng tạo, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Trong tiến công có các hình thức tác chiến phục kích, tập kích, đánh vận động, vây lấn, tiến công trận địa, đánh địch trong công sự vững chắc, đánh giao thông, đánh kho tàng, hậu cứ…; trong phòng ngự có tác chiến phòng ngự trận địa, phòng ngự dã chiến… Trong kháng chiến chống Mỹ, ta hoàn thiện chiến thuật binh chủng hợp thành, đồng thời xuất hiện chiến thuật không quân, chiến thuật hải quân và chiến thuật phòng không. Đến cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, quân và dân ta tiếp tục phát huy các sở trường về chiến thuật trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vận dụng, phát triển sáng tạo trong bối cảnh đất nước thống nhất và trước đối tượng tác chiến mới kề sát nước ta.

Trong hai cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, đối phương mới huy động lực lượng lục quân, chưa sử dụng không quân, hải quân và chưa thể đánh sâu vào nội địa của ta. Về phía ta, ở vùng biên giới Tây Nam, chúng ta sử dụng chủ yếu lực lượng tại chỗ của các quân khu; đồng thời, huy động một số binh đoàn chủ lực cơ động chiến lược cùng một số đơn vị thuộc các Quân chủ Phòng không, Không quân và một số binh chủng tham gia. Trên biên giới phía Bắc, ta chỉ sử dụng lực lượng tại chỗ của các Quân khu 1, 2 và một số đơn vị thuộc Quân khu 3, chưa sử dụng đến các binh đoàn chủ lực cơ động chiến lược, các quân chủng và lực lượng chủ yếu của các binh chủng. Chiến tranh cũng chỉ diễn ra trên địa bàn các tỉnh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.

Khi mở cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam cũng như biên giới phía Bắc, đối phương thường chủ động trong phát động chiến tranh vào thời điểm và khu vực lựa chọn, buộc quân và dân ta phải bị động đối phó cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Ngay khi kẻ địch mà bắt đầu xâm lược nước ta, các lực lượng vũ trang tại chỗ dựa vào hệ thống trận địa phòng ngự chuẩn bị sẵn đã anh dũng đánh chặn, kìm hãm bước tiến của quân thù. Trong giai đoạn đầu chiến tranh, ta kiên quyết chiến đấu phòng ngự, bảo vệ các khu vực phòng ngự dã chiến, khu vực phòng ngự trận địa, không có lệnh không được rời trận địa, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Tư tưởng tác chiến của lực lượng vũ trang ta là tiến công, nhưng trong tác chiến cũng có lúc vẫn phải thực hiện phòng ngự. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, chúng ta thực hiện chiến đấu phòng ngự. Đây là loại hình tác chiến cơ bản được quân dân ta vận dụng thực hiện trong những ngày đầu chiến tranh, nhằm ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực, làm chậm bước tiến, đánh bại các cuộc tiến công có ưu thế về lực lượng của địch, giữ vững các khu vực phòng ngự, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang phản công, tiến công hoặc các hoạt động tác chiến khác tiếp theo. Dựa vài hệ thống trận địa có công sự vững chắc được tổ chức theo kiểu điểm tựa, liên kết nhau thành khu vực (dải, tuyến) phòng ngự, quân và dân ta từng bước phát huy được cách đánh trong thực hành phòng ngự.

Ở biên giới Tây Nam, do không xác định kịp thời kẻ thù, ta chưa chuẩn bị xây dựng thế trận phòng thủ, mất cảnh giác và chưa có cách đánh thích hợp, nên chưa thực hiện tiêu diệt được nhiều địch, ngăn chặn kịp thời. Quân Pôn Pốt tiến vào bắn phá, gây nhiều thiệt hại về tính mạng và tài sản của nhân dân. Chúng chiếm đóng trái phép một số khu vực trong lãnh thổ nước ta như Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương (An Giang), Tân Biên, Châu Thành, Bến Cầu (Tây Ninh) và một số vùng thuộc các tỉnh biên giới Tây Nam. Rút kinh nghiệm những trận đầu, các đơn vị, địa phương đã tiến bộ, tích cực chủ động đánh chặn bước tiến của quân địch ở các hướng trên toàn tuyến biên giới. Dựa vào thế phòng thủ chuẩn bị sẵn, lực lượng vũ trang các tỉnh vùng biên giới Tây Nam đã đánh bại các đợt tiến công của quân Pôn Pốt vào các khu vực bắc Hà Tiên, Giang Thành - Vĩnh Điền, Đầm Chính…, diệt và làm bị thương nhiều tên.

Trên biên giới phía Bắc, ngay từ khi quân Trung Quốc đặt chân vào lãnh thổ nước ta, các lực lượng vũ trang dựa vào những khu vực phòng ngự dã chiến và trận địa phòng ngự được chuẩn bị đã tích cực đánh ngăn chặn. Cách đánh phòng ngự chủ yếu quy mô đại đội, tiểu đoàn bước đầu phát huy tác dụng ở một số địa bàn tác chiến trên các hướng Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn. Đó là các trận chiến đấu bảo vệ khu vực phòng ngự Tân Thanh của Đại đội 53, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 12 (17-2-1979); trận phòng ngự ở Đồng Đăng của Tiểu đoàn 4 bộ binh, Trung đoàn 12 (17 đến 22-2-1979); trận phòng ngự ở Tân Yên của Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 (17 đến 22-2-1979); trận phòng ngự của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 192 bộ đội địa phương tỉnh Hoàng Liên Sơn ở Nhạc Sơn (17 đến 18-2-1979); trận phòng ngự ở Quy Thuận của Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 567 bộ đội địa phương tỉnh Cao Bằng (17 đến 28-2-1979)…


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:34:00 am
Dựa vào hệ thống trận địa, vật cản, bộ đội ta tích cực đánh địch từ xa đến gần, tiêu hao lực lượng khi chúng tiếp cận công kích tiền duyên phòng ngự, tiêu diệt lực lượng đột nhập khu vực phòng ngự, đánh bại các thủ đoạn tiến công ban đầu của chúng. Các đơn vị chốt giữ khu vực phòng ngự được giao đã kiên cường chiến đấu, giữ vững trận địa, có nơi kéo dài hàng tuần như ở Đồng Đăng, Tân Yên (Lạng Sơn), Quy Thuận (Cao Bằng)… gây cho đối phương một số thiệt hại. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng hơn hẳn, trong những ngày đầu quân Trung Quốc cũng chiếm được một số địa bàn sát vùng biên giới trên các hướng Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên sơn… Quân và dân ta dựa vào thế trận phòng ngự, anh dũng chiến đấu ngăn chặn trên các hướng, không để quân Trung Quốc tiến sâu vào lãnh thổ nước ta. Nhiều trận chiến đấu bảo vệ các khu vực phòng ngự diễn ra quyết liệt như trận phòng ngự ở Pác Lũng của Đại đội 53 Tiểu đoàn 5, Sư đoàn 3 (27-2-1979); trận phòng ngự ở hai điểm cao 255 và 518 của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 118, Sư đoàn 343 (28-2 đến 1-3-1979); trận phòng ngự ở điểm cao 498 của Đại đội 10, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 124, Sư đoàn 345 (28-2 đến 1-3-1979)… Nhìn chung, hình thức tác chiến phòng ngự bước đầu đã phát huy hiệu quả, ta đã tiêu diệt được một bộ phận lực lượng, làm rối loạn đội hình tiến công, ngăn chặn bước tiến công của quân Trung Quốc, tạo điều kiện để phản công, tiến công khi có thời cơ.

Nhằm đánh tiêu diệt lực lượng chiếm đóng trái phép trên các địa bàn, không cho quân Trung Quốc mở rộng phạm vi lấn chiếm sâu vào nội địa, các lực lượng vũ trang ta đã đẩy mạnh các hoạt động tác chiến tập kích, phục kích, vận động tiến công trên nhiều huống ở biên giới Tây Nam cũng như biên giới phía Bắc. Tập kích thường tiến hành đánh vài các vị trí lúc đối phương sơ hở, bất ngờ tiêu diệt sinh lực. Đây là một hình thức chiến thuật thường được vận dụng trong giai đoạn cuộc chiến tranh đã diễn ra một thời gian. Sau khi đánh chiếm một số địa bàn, địch dừng lại củng cố, chuẩn bị mở các tiến công mới nhằm lấn chiếm các vị trí trọng yếu sâu trong lãnh thổ nước ta.

Quán triệt tư tưởng tiến công, các lực lượng vũ trang nhằm lúc kẻ địch sở hở bất ngờ tập kích, nhanh chóng tiêu diệt các vị trí đóng quân của chúng. Thủ đoạn vận động trong tập kích phổ biến là bao vây, thọc sâu, chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận tiến với tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ở biên giới Tây Nam, một số đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn thuộc các Sư đoàn 10, 320 (Quân đoàn 3), 341 (Quân đoàn 4) phối hợp với lực lượng vũ trang các Quân khu 7, 9 đánh các vị trí quân Pôn Pốt chiếm đóng trái phép ở một số vùng thuộc các tỉnh Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang tiêu diệt phần lớn lực lượng, đuổi chúng về bên kia biên giới.

Trên biên giới phía Bắc, phát huy cách đánh tập kích, lực lượng vũ trang ta tiến công vào các vị trí đóng quân của đối phương. Nổi bật là trên hướng Lạng Sơn, ta đã thực hiện nhiều trận tập kích đạt hiệu suất chiến đấu cao như trận tập kích Chậu Cảnh lần một của Tiểu đoàn 2 (18-2-1979) và lần hai của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 (20-2-1979), trận tập kích đồi Cây Xanh của Đại đội 1 thuộc Sư đoàn 3 (20-2-1979), trận tập kích Khuôn Phung của Đại đội 51, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 12 (23-2 đến 1-3-1979).

Bên cạnh hình thức tập kích lực lượng vũ trang ta còn vận dụng hình thức phục kích đánh chặn các đội quân trinh sát, thám báo đối phương trên các trục đường giao thông hoặc càn quét của chúng tàn phá các làng bản, cơ sở kinh tế vùng biên giới của ta. Chiến thuật phục kích từng bước được vận dụng có sự phát triển, từ phục kích những đơn vị nhỏ lẻ tiến lên tiêu diệt những đơn vị trung đội, đại đội. Các thủ đoạn chiến thuật vận dụng là chặn đầu, khóa đuổi, đồng loạt tiến công, thực hiện bao vây chia cắt tiêu diệt quân địch. Ở biên giới Tây Nam, lực lượng vũ trang ta tổ chức một số trận phục kích đánh quân Pôn Pốt đi lùng sục, tàn phá làng bản, hoa màu của nhân dân ta như trận phục kích làng Svay Chếk 2 của Trung đoàn 209, Sư đoàn 7, Quân đoàn 4 (9-7-1978)… Trên biên giới phía Bắc, ta cũng thực hiện một số trận phục kích như trận phục kích ở Tài Hồ Sìn của Trung đoàn 582 (26-2-1979); trận phục kích ở xã Xin Cái của Đại đội tự vệ 789 Mèo Vạc (cuối tháng 2-1979); trận phục kích ở Lũng Pảng của Đại đội 5, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 12 (3 đến 5-3-1979)…

Như vậy, vận dụng các hình thức chiến thuật phù hợp với quy mô lực lượng và điều kiện đặc điểm chiến trường biên giới, quân và dân ta đã đánh bại các hình thức chiến thuật trong chiến lược quân sự “đánh nhanh thắng nhanh” của đối phương, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Để đánh thắng địch, cùng với việc tiếp tục vận dụng kết hợp các cách đánh tập kích, phục kích, kể cả phòng ngự, lực lượng vũ trang ta phải đẩy mạnh cách đánh vận động quy mô lớn. Thủ đoạn chiến thuật này là cơ động nhanh, bao vây chặt, chia cắt hiểm, xung phong mạnh, đánh nhiều hướng, nhiều mũi đánh gần, đánh liên tục ngày đêm, mạnh dạn thọc sâu chia cắt, tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch như trận vận động tiến công địch ở làng Bà Vét 1 và Bà Vét 2 của Trung đoàn 1, Sư đoàn 341 (23-10-1977); trận vận động tiến công điểm cao 20 của Trung đoàn 28, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 (5-12-1977); trận vận động tiến công của Đại đội 1 và Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 12 (19-2-1979); trận vận động tiến công Làng Do của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 4 (27-2 đến 1-3-1979).


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:34:33 am
Nhìn chung, các hình thức chiến thuật được vận dụng khá phong phú với nhiều quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, đánh dấu bước phát triển của chiến thuật, thể hiện sự trưởng thành về trình độ tác chiến của các lực lượng vũ trang ta đạt hiệu suất chiến đấu ngày càng cao trên các loại địa hình vùng biên giới.

Để đánh bại địch, tiêu diệt từng bộ đội chủ lực của chúng, khôi phục các địa bàn bị chiếm đóng trái phép, chúng ta phải mở các chiến dịch phản công, tiến công với quy mô lực lượng lớn trên toàn tuyến, đẩy đối phương về bên kia biên giới. Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về việc hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, trong những tháng cuối năm 1978, quân và dân ta, nòng cốt là các Quân đoàn 2, 3, 4 và lực lượng lớn các quân chủng, binh chủng phía Nam phối hợp với lực lượng các Quân khu 5, 7, 9 mở các chiến dịch phản công, tiến công trên toàn tuyến biên giới.

Trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, các trận đánh với quy mô ở giai đoạn này phần lớn tác chiến trong đội hình chiến dịch. Các hình thức chiến thuật đã trở thành truyền thống như tập kích, phục kích, đánh vận động được các lực lượng vũ trang ta phát huy hiệu quả cao hơn, đánh theo kiểu chính quy hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn, gây thiệt hại nặng cho địch, đuổi chúng ra khỏi vùng biên giới Tây Nam.

Đối với cuộc chiến tranh trên biên giới phía Bắc, trước những đòn giáng trả quyết liệt của quân và dân ta và sự phản đối mạnh mẽ của dư luận quốc tế cũng như ở trong nước, Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân khỏi lãnh thổ Việt Nam. Phát huy truyền thống nhấn nghĩa và mong muốn củng cố hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân hai nước, Đảng và Chính phủ ta chỉ thị cho các lực lượng vũ trang toàn tuyến biên giới phía bắc ngừng mọi hoạt động quân sự để họ rút quân cùng các phương tiện chiến tranh về nước.

Nhìn lại tiến trình lịch sử chiến thuật của các lực lượng vũ trang ta trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc cho thấy, trong điều kiện chiến tranh nhân dân chống đội quân xâm lược kề sát nước ta, nhất là trên biên giới phía Bắc luôn có ưu thế về quân số, trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh, chiến thuật của ta không chỉ bó hẹp trong phạm vi nghiên cứu đơn thuần về bản chất, quy luật các trận chiến đấu tiến công, phản công, hay phòng ngự, mà phải nghiên cứu các hình thức tác chiến cụ thể trong từng trận đánh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang ta chiến đấu thắng lợi. Chiến thuật còn phải tập trung nghiên cứu các thủ đoạn chiến đấu và nghệ thuật chỉ huy, nhằm phát triển chiến thuật đạt hiệu suất cao nhất. Có thể nói, sự hình thành và phát triển của chiến thuật trong hia cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước, gắn liền với chiến thắng ngày càng lớn, thực hiện tiêu diệt từng bộ phấn inh lực địch, đánh bại từng âm mưu, thủ đoạn tác chiến của đối phương, góp phần cùng với chiến dịch, chiến lược, tạo nên những chuyển biến to lớn về cục diện chiến tranh, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

Tuy nhiên, quân Pôn Pốt và các thế lực thù địch vẫn phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân Campuchia, do đó, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam phải ở lại giúp quân đội cách mạng Campuchia và nhân dân bạn xây dựng, bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được. Trong khi đó, trên biên giới phía Bắc vẫn luôn có những diễn biến phức tạp, quân và dân ta vẫn tiếp tục phải tập trung một lực lượng lớn để xây dựng thế trận phòng thủ, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, sẵn sàng đối phó với tình huống có thể xảy ra một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Tình hình biên giới phía Bắc vẫn căng thẳng kéo dài đến những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.

Những năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng (1986-2000), nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có bước phát triển mới phù hợp với nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quân sự của Đảng. Trước đối tượng chiến lược cơ bản, lâu dài là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh một số vấn đề cơ bản trong đường lối quân sự, nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình mới, thực hiện chấn chỉnh một bước về tổ chức biên chế, giảm quân thường trực, đổi mới trong xây dựng lực lượng vũ trang, từng bước điều chỉnh thế bố trí chiến lược từ đề phòng chiến tranh xâm lược quy mô lớn sang đề phòng xung đột vũ trang quy mô nhỏ. Tiếp đó, chúng ta củng cố tổ chức biên chế, nâng cao sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, đặc biệt là sức chiến đấu của bộ đội chủ lực; đồng thời tiếp tục điều chỉnh thế bố trí chiến lược, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo nên sức mạnh tổng hợp làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch.

Những nội dung cơ bản về chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật tiếp tục được nghiên cứu, từng bước hoàn chỉnh phù hợp với thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng. Đây là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng trong quá trình chuẩn bị tiềm lực quân sự, quốc phòng đất nước, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:34:55 am
*
*   *

Trong 25 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, những nội dung cơ bản về quan điểm chỉ đạo xây dựng đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam hình thành và phát triển trong 30 năm chiến tranh giải phóng tiếp tục được kế thừa, phát triển ngày càng hoàn chỉnh đến một trình độ cao với những nội dung mang tính lý luận và thực tiễn rất phong phú, sáng tạo của Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX. Đó là quan điểm xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước; xây dựng nâng cao sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân, kết hợp xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân và an ninh nhân dân, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Đó là đẩy mạnh công tác xây dựng đi sâu nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự cả về lý luận và thực tiễn làm phong phú những vấn đề quan trọng về quân sự trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Đó là chiến lược làm chủ và tiến công, tiến công và làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ chiến trường, kết hợp chặt chẽ các loại hình chiến dịch giữa phòng ngự, phản công và tiến công, trong đó phản công và tiến công là chủ đạo, vận dụng sáng tạo các loại hình chiến thuật tập kích, phục kích, đánh vận động…, trong tiến công và phòng ngự trận địa, phòng ngự dã chiến… phù hợp với đối tượng tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.

Ba bộ phận tư tưởng quân sự (quan điểm chỉ đạo), khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự nêu trên là những nhân tố hết sức quan trọng cùng với một số bộ phận khác (tổ chức quân sự, hậu cần - kỹ thuật quân sự…) tạo nên sức mạnh của tiềm lực quân sự; đồng thời, cùng với các tiềm lực chính trị - tư tưởng, tiềm lực kinh tế, tiềm lực văn hóa, xã hội, ngoại giao… hợp thành sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, cũng như sức mạnh của chiến tranh nhân dân để quân và dân ta tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thắng lợi ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; tiếp đó, tạo thành sức mạnh cùng cả nước làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến tranh phá hoại nhiều mặt, “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Thắng lợi trên các lĩnh vực tư tưởng, khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam cùng với những thắng lợi khác đạt được trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những năm 1975-2000 khẳng định: Trong thất bại ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế còn kém phát triển, song biết đoàn kết chặt chẽ, dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác - Lênin, có đường lối cách mạng, đường lối quân sự và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, được nhân dân thế giới ủng hộ, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hoàn toàn có khả năng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:35:20 am
KẾT LUẬN

Lịch sử quân sự Việt Nam trong những năm 1975-2000 gắn liền với quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong 25 năm cuối thế kỷ XX. Trong những năm này, hoạt động quân sự Việt Nam diễn ra trong điều kiện đất nước thống nhất, có những biến đổi sâu sắc, thể hiện sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh được tăng cường, giữ vững ổn định chính trị, khẳng định con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và vị thế quốc gia Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.

Trong những năm đầu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạt động quân sự của quân và dân ta có nhiều điều kiện thuận lợi rất cơ bản, nhưng cũng có những khó khăn phức tạp mới. Đó là hậu quả chiến tranh hết sức nặng nề phải khẩn trương giải quyết trên hai miền Nam - Bắc, nhất là ở miền Nam; phải đối phó với kế hoạch “hậu chiến”, chính sách cấm vận kinh tế và phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, nước ta vốn có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chậm phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Những khó khăn, thử thách mới tưởng chừng không thể vượt qua nổi.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên định vững vàng, phát huy truyền thống yêu nước, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với đường lối đổi mới của Đảng, nên cau tinh thần tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó khăn, chủ động, sáng tạo trong khắc phục hậu quả chiến tranh, khắc phục thiên tai, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chỉ đạo khẩn trương khôi phục nền kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại trên hai miền Nam - Bắc, đặc biệt là nhanh chóng củng cố, ổn định tình hình miền Nam về mọi mặt, tạo tiền đề quan trọng thống nhất đất nước về mặt Nhà nước; tiếp đó, thống nhất về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội trên phạm vi cả nước.

Trong những năm đầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất (1975-1977), căn cứ vào đặc điểm tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo toàn dân và toàn quân khẩn trương chấn chỉnh tổ chức biên chế, điều chỉnh thế bố trí lực lượng trên các địa bàn chiến lược, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân; đồng thời, xây dựng kinh tế đất nước, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Thành tựu bước đầu của đất nước đạt được trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng, an ninh văn hóa, xã hội đã tạo nên tiềm năng mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau 2 năm (1975-1977) thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh, trong những năm 1977-1979, quân và dân ta buộc phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, phát huy sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, hoàn thành thắng lợi cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, xây dựng lại đất nước. Tiếp đó, quân và dân ta thực hành chiến đấu thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc.

Thắng lợi của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc khẳng định ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời, thể hiện sức mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhất là lực lượng tại chỗ của chiến tranh nhân dân địa phương và sức mạnh của cả nước. Qua hai cuộc chiến đấu này, quân và dân ta đã trưởng thành, tích lũy được những kinh nghiệm về nắm âm mưu, thủ đoạn của đối tượng tác chiến mới, về công tác tuyên truyền, giáo dục, về vận dụng phương châm và phương thức tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, chuẩn bị chiến trường, xây dựng thế trận, lãnh đạo, chỉ đạo và chỉ huy chiến đấu, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, kết hợp kinh tế với quốc phòng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm 1980-1985, đất nước ta vẫn trong tình trạng vừa có hòa bình, vừa phải đối phó với tình huống có thể xảy ra một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn và thường xuyên phủ phòng, chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Với sự nỗ lực to lớn, các lực lượng vũ trang và nhân dân cả nước đã khắc phục mọi khó khăn, thử thách, từng bước ổn định đời sống, xây dựng đất nước về mọi mặt, tăng cường xây dựng tiềm lực quân sự, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Được Đảng, Nhà nước và nhân dân chăm lo, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân đã không ngừng phát triển, lớn mạnh cả về lực lượng và tổ chức, được trang bị nhiều vũ khí mới, hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu, góp phần cùng toàn dân làm thất bại mọi âm mưu phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Đồng thời, quân và dân ta tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế đất nước, tích cực làm nhiệm vụ quốc tế, giúp nhân dân Lào và nhân dân Campuchia bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và xây dựng lại đất nước. Thành tựu đạt được trên nhiều lĩnh vực trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trong đó xây dựng tiềm lực quân sự, thế trận quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân là cơ sở, tạo tiền đề thuận lợi để quân và dân ta tiếp tục phấn đấu, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:35:41 am
Những năm 1986-2000, thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, xã hội… Đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vững vàng, tỉnh táo, nhạy bén trước những biến động của tình hình, luôn nắm vững quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào phân tích đánh giá đúng tình hình, kịp thời đổi mới tư duy về quân sự, quốc phòng, an ninh thời kỳ bảo vệ Tổ quốc và đề ra nhiều giải pháp phù hợp, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, phối hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại.

Cùng với việc xây dựng tiềm lực, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, trên cơ sở điều chỉnh bố trí thế phòng thủ của đất nước, tiến hành rút gọn và giảm một mức đáng kể lực lượng thường trực, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, vững vàng trong mọi tình huống, nỗ lực phấn đấu làm tròn chức năng đội quân chiến đấu, công tác, lao động sản xuất, góp phần cùng toàn dân bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời hoàn thành nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Campuchia và Lào.

Bên cạnh những thành tựu đạt được cũng còn những hạn chế, thiếu sót cần tập trung khắc phục. Những thành tựu, ưu điểm cũng như khó khăn, thiếu sót trong 10 năm 1975-1985 về các mặt, trong đó có cả quân sự, quốc phòng, an ninh đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh giá khách quan, đúng với tinh thần đổi mới “Nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật”. Trên cơ sở đó, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, các mặt hoạt động trên lĩnh vực quân sự nói riêng được các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và X của Đảng điều chỉnh, bổ sung, phát triển, đưa đất nước ta chuyển sang thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Trải qua 25 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân cả nước đã vượt qua nhiều khó khăn và thử thách, đổi mới và phát triển. Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện trong xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, làm nhiệm vụ quốc tế và xây dựng kinh tế, quốc phòng, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo thế và lực để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ thực tiễn 25 năm (1975-2000), hoạt động quân sự trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có thể rút ra một số nội dung cơ bản sau đây:

Một là, đường lối cách mạng, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn của Đảng là nguồn gốc của thành tựu và thắng lợi vẻ vang. Đảng ta đã xác định rõ hệ thống các quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo và chủ trương lớn của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1977, nhiệm vụ quân sự là phải nhanh chóng ổn định vùng mới giải phóng, chấn chỉnh tổ chức lực lượng, phòng thủ sẵn sàng chiến đấu; từ 1978-1989 là thời kỳ đất nước có chiến tranh, sau đó vừa có hòa bình, vừa có thể xảy ra chiến tranh; từ 1990-2000 là bảo vệ đất nước gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh tổ của Tổ quốc. Đường lối quân sự của Đảng là đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đường lối chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhằm thực hiện mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đây là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi và những bước trưởng thành của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên cơ sở vũ trang toàn dân, gắn với xây dựng quân đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trở thành lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời có lực lượng dự bị động viên hùng hậu được xây dựng quản lý, huấn luyện tốt cả về tinh thần chiến đấu và trình độ kỹ thuật, chiến thuật, tổ chức bộ đội địa phương với cơ cấu và quân số hợp lý; xây dựng dân quân tự vệ rộng khắp. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với các lực lượng vũ trang. Được Đảng, Nhà nước và nhân dân chăm lo xây dựng, trước những biến động phức tạp của tình hình, quân đội nhân dân luôn thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, vững vàng trong mọi tình huống, nỗ lực phấn đấu làm tròn chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, giữ vững và không ngừng phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:36:08 am
Ba là, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế. Quốc phòng, an ninh kết hợp chặt chẽ với kinh tế là một công cuộc đấu tranh về mặt quân sự và và các mặt chính trị, khoa học kỹ thuật, ngoại giao, thương mại, văn hóa, môi trường… có liên quan đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững chủ quyền quốc gia, dân tộc. Nội dung kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế, nhằm gắn kết giữa hai lĩnh vực kinh tế và quốc phòng, an ninh trong một tổng thể thống nhất, bảo đảm sự điều hành, quảy lý của Nhà nước, phát huy nguồn lực tổng hợp của quốc gia để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo cho chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, lợi ích của dân tộc được bảo vệ vững chắc. Đồng thời, kết hợp xây dựng tiềm lực quốc phòng với xây dựng lực lượng an ninh, đấu tranh quốc phòng gắn với đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, sẵn sàng đối phó, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Bốn là, chú trọng xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) trong hệ thống phòng thủ chung cả nước. Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là tổ chức quốc phòng, an ninh ở địa phương được xây dựng về mọi mặt theo một kế hoạch chung thống nhất, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, độc lập, tự lực, ngăn ngừa và đối phó có hiệu quả với mọi tình huống. Đây là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khu vực phòng thủ do Đảng, chính quyền và toàn dân thực hiện cả về lực và thế, vững toàn diện, mạnh trọng điểm, trong đó tập trung xây dựng cơ sở xã (phường), xây dựng các khu vực phòng thủ huyện (quận) vững chắc, các khu vực phòng ngự then chốt, các căn cứ hậu phương, căn cứ chiến đấu, bảo vệ được ác mục tiêu trọng điểm. Tất cả các khu vực phòng thủ đều được tập trung xây dựng vững mạnh về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự, an ninh, dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của cấp tỉnh (thành phố), tạo thành sức mạnh tổng hợp, trong đó tập trung chủ yếu vào những khu vực phòng thủ then chốt để phòng thủ địa phương, sẵn sàng phòng chống, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại, kể cả xâm lược của kẻ thù.

Năm là, kế thừa truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc, xây dựng và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại phù hợp với đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là thời điểm nổi bật trong hoạt động quân sự của quân và dân ta thời kỳ mới, đất nước thống nhất. Trên cơ sở xác định kịp thời đối tượng tác chiến, quân và dân ta đã quán triệt, vận dụng sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, giành thắng lợi ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Những nội dung cơ bản của nghệ thuật quân sự Việt Nam gồm cả về chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật tiếp tục được nghiên cứu, từng bước hoàn chỉnh phù hợp với giai đoạn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Như vậy, những vấn đề về lịch sử quân sự, cũng là hoạt động quân sự nổi bật được khái quát trên đây và một số hoạt động quân sự khác trong 25 năm cuối thế kỷ XX đã khẳng định sự phát triển của lịch sử quân sự Việt Nam lên một tầm cao mới, trên mọi phương diện.

*
*   *

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, lập nên nhiều thành tựu to lớn trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử quân sự Việt Nam 25 năm cuối thế kỹ XX là lịch sử đoàn kết cả nước, đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện xây dựng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc theo quan điểm chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tinh thần tự lực cánh sinh, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, quyết tâm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa những năm đầu thế kỷ XXI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, lần thứ X và các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương đã khẳng định: chúng ta phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trước tình hình đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã phấn đấu, thực hiện tốt các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới; đồng thời, định ra những yêu cầu mới về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với điều kiện và khả năng của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, xã hội với củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Lịch sử quân sự Việt Nam 25 năm cuối thế kỷ XX và những bài học kinh nghiệm quý báu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là cơ sở tạo tiền đề vững chắc để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục phát huy mạnh mẽ, sáng tạo, làm phong phú thêm kinh nghiệm và lịch sử quân sự Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:36:41 am
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Chỉ thị Về việc tăng cường sẵn sàng chiến đấu ở các tỉnh phia Bắc, ngày 6-1-1979, Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.

2. Báo cáo số 263/TM về Tổng kết xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh - thành phố 5 năm (1988-1992) thực hiện Nghị quyết số 02 và Chỉ thị số 20/CT của HĐBT, tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.

3. Báo cáo số 22/TM ngày 10-11-1990 về Tăng cường quốc phòng 5 năm (1991-1995), tài liệu lưu tại Văn phòng Bộ Tổng tham mưu.

4. Báo cáo công tác quân sự 5 năm (1991-1995), tài liệu lưu tại Cục Nhà trường, Bộ Tổng tham mưu.

5. Báo Quân đội nhân dân, ngày 7-1-1978.

6. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

7. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Thế giới thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

8. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

9. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

10. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân đội các nước Đông Nam Á, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006.

11. Bộ Quốc phòng - Trung tâm từ điển bách khoa quân sự: Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

12. Bộ Tổng tham mưu: Tổng kết tác chiến chỉ huy, tham mưu chiến lược trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

13. 50 năm lực lượng vũ trang Quân khu 1, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.

14. 50 năm lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-1995), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 114.

15. 60 năm những thành tựu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2-9-1945 – 2-9-1995), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

16. Các Đại hội Đảng ta (1930-1986), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.

17. Campuchia - Thắng lợi của một cuộc cách mạng chân chính, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979.

18. Trường Chinh: Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983.

19. Chiến lược diễn biến hòa bình của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế chống chủ nghĩa xã hội và chống Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Tổng cục II - Bộ Quốc phòng, 1993.

21. Chiến lược diễn biến hòa bình của Mỹ, Tổng cục II, Bộ Quốc phòng, 1993.

22. Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về chiến tranh và quân đội (sách dịch, tham khảo), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.

23. Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

24. Củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang trong tình hình mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992.

25. Chiến tranh Việt - Trung trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995.

26. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.

27. Nguyễn Anh Dũng: Về chiến lược quân sự toàn cầu của đế quốc Mỹ (1946-1990), Nxb. Sự thật, Hà Nộ, 19909.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36-54 (1975-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004-2007.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977.

33. Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979.

34. Võ Nguyên Giáp: Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1979.

35. Hà Giao: Cách mạng Campuchia và nghĩa vụ quốc tế của quân đội ta, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1982.

36. Kỷ yếu Hội thảo: Dân quân tự vệ Việt Nam 70 năm một chặng đường vẻ vang (28-3-1935 - 28-3-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

37. Kiên định đường lối đổi mới Việt Nam vững bước tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

38. Kiên quyết đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1981.

39. Kinh nghiệm chiến đấu biên giới Tây Nam, Cục Nhà trường, Bộ Tổng tham mưu, Hà Nội, 1994.

40. Kinh nghiệm chiến đấu của lực lượng công an vũ trang trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 1979, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.

41. Lịch sử Học viện Kỹ thuật (1966-2006), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006.

42. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

43. Lịch sử Sư đoàn bộ binh 330 Quân khu 9 (1976-2001), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

44. Lịch sử Đông Nam Á hiện đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

45. Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tóm lược), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

46. Lịch sử Học viện Lục quân (1946-1991), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.

47. Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Thái Nguyên (1975-2000), Bộ Chỉ huy quân sự Thái Nguyên xuất bản, 2004.

48. Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Phú Thọ (1945-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007.

49. Lịch sử Bộ đội biên phòng Hà Giang (1959-1989), Bộ đội biên phòng tỉnh Hà Giang xuất bản.

50. Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 3 (1976-2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

51. Lịch sử Bộ đội biên phòng Lào Cai, tập 1 (1959-1964), Bộ đội biên phòng tỉnh Lào Cai xuất bản, 1994.

52. Lịch sử Bộ đội biên phòng Lai Châu, tập 1 (1959-2003), Bộ đội biên phòng tỉnh Lai Châu xuất bản, 2004.

53. Lịch sử công binh Việt Nam (1945-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.


Tiêu đề: Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập 13 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (197
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Sáu, 2016, 07:37:05 am
54. Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân Quân khu 2 (1946-2006).

55. Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 2 (1976-1986), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

56. Lịch sử Bộ đội hóa học (1958-2008), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008.

57. Lịch sử Bộ đội biên phòng tỉnh Kiên Giang, tập 1, Bộ đội biên phòng tỉnh Kiên Giang xuất bản, 1997.

58. Lịch sử Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh (1959-1995), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1995.

59. Lịch sử Bộ đội đặc công Quân đội nhân dân Việt Nam (1945-2007), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007.

60. Lịch sử Bộ đội biên phòng, tập 1 (1959-1979), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1990.

61. Lịch sử Bộ đội thông tin liên lạc (1945-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hn, 2005.

62. Lịch sử Binh chủng Tăng Thiết giáp, tập 2 (1976-1999), Nxb. Quân đội nhân dân, Hn, 1999.

63. Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị ở Bộ Tổng tham mưu (1945-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008.

64. Lịch sử Học viện Chính trị quân sự (1951-2001), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

65. Lịch sử Học viện Quốc phòng (1976-2006), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006.

66. Lịch sử Học viện Quân y (1949-1999), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

67. Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

68. Lịch sử Campuchia, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995.

69. Lịch sử Cục Quân lực (1945-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

70. Lịch sử Cục Tác chiến (1945-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

71. Lịch sử Học viện Hậu cần (1951-2001), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

72. Lịch sử hiện đại Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

73. Lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam (1977-1999), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

74. Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Lạng Sơn trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1976-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.

75. Lịch sử mới của nước Mỹ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

76. Lịch sử Quân đoàn 1 (1973-2003), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

77. Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2004), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

78. Lịch sử Bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên - Quân đoàn 3 (1964-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

79. Lịch sử Quân đoàn 4 (1974-2004), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

80. Lịch sử Quân chủng Phòng không[/i], tập 3, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.

81. Lịch sử Sư đoàn 302 (1977-2007)¸ Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007.

82. Lịch sử Sư đoàn 306 (1978-1988), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.

83. Lịch sử Sư đoàn 315 (1979-1999), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.

84. Lịch sử Sư đoàn 317 (1979-1999), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

85. Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1960-1976), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

86. Lịch sử Sư đoàn 5 (1965-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

87. Lịch sử Sư đoàn bộ binh 2, tập 2 (1975-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

88. Lịch sử Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tập II (1975-2004), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

89. Lịch sử thế giới hiện đại, tập III (1945-1995), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996.

90. Lịch sử thế giới thời đương đại (1945-2000), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 2002.

91. Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

92. Lực lượng vũ trang tỉnh Cao Bằng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tập 3 (1976-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

93. Lưu Văn Lợi, 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996.

94. Quân ủy Trung ương: Chỉ thị sẵn sàng chiến đấu gửi các quân khu, quân đoàn, ngày 8-1-1979, Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng.

95. Quân khu 2 - 50 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành (1946-1996), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.

96. Quân khu 3 - Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Biên niên sự kiện: 1975-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

97. Quân khu 4 - Lịch sử thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

98. Tổng kết công tác 10 năm vận động quần chúng bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh biên giới vùng biển của Bộ đội biên phòng (1959-1999), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

99. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia - Viện Sử học: Thế giới những sự kiện lịch sử thế kỷ XX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.

100. Tạp chí Quân đội nhân dân (nay là Tạp chí Quốc phòng toàn dân), số 7-1976.

101. Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, tập III (1975-1995), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.

102. Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng - Biên niên sự kiện (1989-2004), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

103. Tổng cục Kỹ thuật - Biên niên sự kiện (1974-1981; 1988-1995), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987, 1997.

104. Viện Sử học: Việt Nam - Những sự kiện (1945-1986), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

105. Việt Nam - Những chặng đường lịch sử (1945-2005), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005.

106. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trên địa bàn Quân khu 3, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1986.