phuockhanh
Thành viên
Bài viết: 658
|
|
« Trả lời #254 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2015, 10:26:26 pm » |
|
(tiếp) Sau khi chiếm phum Han Chây, chúng tôi tổ chức đi kiểm tra toàn bộ khu vực địch bố phòng. Chúng bố trí phòng ngự dọc theo con suối chảy ra sông Mê-kông. Lính Pôn Pốt lấy chiếu, gối trong nhà dân trải ngay xuống đất, bên những chiếc hố chiến đấu sơ sài. Cơm nắm và cả những con gà đã thịt không kịp mang theo vất bừa bãi. Đi ngược theo dòng suối, đến những thửa ruộng có nhiều cây thốt nốt trồng bốn chung quanh bờ, ở một góc ruộng có mấy xác chết mặc quần áo đen, trương phình, hai tay bị trói, mấy con chó hoang đang tranh nhau cắm xé xác. Chúng tôi không dám đến gần, đứng từ xa nhìn những con chó ngoạm thịt tha đi mà thấy rờn rợn, người nổi da gà. Theo du kích nói họ là những người đi lấy lúa về cho gia đình, bị lính Pôn Pôt bắt được, tra tấn dã man rồi chúng đem bắn chết. Đêm hôm đó Tiểu đoàn 4 đứng chân tại Han-Chây. Ăn cơm tối xong tôi xuống Tiểu đoàn bộ nắm tình hình sẵn sàng chiến đấu, được anh em trinh sát cho ăn đường thốt nốt lấy từ chum ở nhà kho trong khu nhà ăn tập thể. Đường thốt nốt ngọt dịu, thơm, không khé cổ. Đất nước Căm Pu Chia cây thốt nốt được trồng khắp mọi nơi, từ nam lên bắc, từ đông sang tây. Trồng ven đường, trồng trong phum (làng) và sau này trên đường chiến đấu, chúng tôi thấy nhiều nhất vẫn là trồng trên bờ ruộng. Cây thốt nốt nhìn từ xa giống như cây cọ, cao như cây dừa. Để trèo lên nhanh và an toàn người ta buộc những cây tre (ở Việt Nam dùng để đan lát, quê tôi gọi tre hóa), để nguyên mấu, buộc nối tít lên tới ngọn cây thốt nốt. Người ta trèo lên theo cây tre để buộc những ống tre lồ ô để hứng nước từ quả thôt nốt chảy ra. Nước nguyên chất của quả thốt nốt tôi chưa được uống, nhưng nghe nói là mát và có vị thơm đặc biệt. Trong phum không có dân. Chắc là lính Pôn Pốt lùa đi theo chúng. Gia súc chỉ còn gà vịt, tối gà về đậu đầy trên cành cây trong vườn. Dưới bờ sông Me Kông tôi thấy một tốp bộ đội đang lúi húi ở mép nước, anh em đang thịt gà. Ừ! Cái món này thì khoái rồi. Có điều cán bộ mà “năng nổ” quá thì không hay, dễ để lại tiếng nên cả tôi và cán bộ trong ban chỉ huy tiểu đoàn cứ tảng lờ để anh em làm. Thôi thì bồi dưỡng một chút cho quân khỏe có sao. Tuy là vi phạm chính sách đấy. Tôi ngồi xuống chỗ cậu trung đội trưởng thông tin đang ôm chiếc đàn ác-cooc nhỏ chỉ bằng nửa cái ba lô đang tập kéo, cậu ta bảo vớ được trong căn nhà bỏ không. Tôi chẳng biết gì về đàn nhị nhưng thấy chiếc đàn nhỏ xinh rất thích, muốn mang theo nhưng lại e cán bộ trong trung đoàn dị nghị; mà cũng nghĩ “nhỡ sẩy ra làm sao” thì để lại tiếng chẳng thơm nên lại thôi. Món gà đã xong, ai ăn được bao nhiêu cứ vào nồi quân dụng mà lấy. Dù rất háo ăn nhưng cố lắm tôi cũng chỉ ăn hết cái tỏi gà đã thấy ngán. Xuống các tiểu đoàn khoái hơn trên trung đoàn bộ là cái khoản “tự do”. Sáu giờ sáng ngày hôm sau tiểu đoàn tiếp tục tiến quân về Bến-Kết. Trên đường không vấp sự kháng cự nào của địch, chúng đã rút chạy. Bến Kết tuy là thị trấn nhỏ nhưng có nhiều nhà hai ba tầng, có xưởng cưa, xưởng sửa chữa ô tô, có xưởng đóng thuyền…tất cả đã trở thành hoang tàn, đổ nát. Lác đác có số ít người dân trụ lại. Các đại đội được phân công tỏa đi lùng sục, truy quét trong vòng 1 đến 2 cây số. Chúng tôi đi kiểm tra trong thị trấn. Trong một ngôi nhà có ba xác chết, hai trong ba người là con gái không mảnh vải che thân, có lẽ chết do bị lính Pôn Pốt hãm hiếp. Xác còn nằm vắt trên giường. Các ngôi nhà đều bị lục soát, đồ đạc bị vứt tung toé. Bên kia bờ sông Mê Kông dân ra đứng nhìn sang rất đông và chỉ ngày hôm sau họ đi thuyền, xuồng máy về, có cả một chiếc tàu hút bùn chở đầy dân từ hướng Công Pông Chàm chạy về. Họ đi lánh nạn quân Pôn Pốt, bây giờ quê hương được giải phóng, cùng kéo nhau trở về. Tiểu đoàn 4 ở lại để ngày hôm sau bắt liên lạc với Trung đoàn 1 rồi mới rút về. Bộ phận Trung đoàn bộ có xuồng máy chở về Kông Pông Chàm. Chiến sự phát triển mau lẹ. Ngay từ sau khi chiếm được Phnong-pênh các mũi nhọn đột phá của Sư 10 có xe tăng, xe thiết giáp, pháo binh chi viện tiến công như vũ bão, đập tan mọi sự kháng cự của địch, chọc thủng tất cả các tuyến phòng ngự trên trục đường quốc lộ. Có ngày tiến xa cả trăm cây số. Không thể ngăn chặn bước tiến quân của ta buộc quân Khme-Đỏ dạt ra hai bên đường quốc lộ, dùng chiến thuật đánh du kích, tập kích những bộ phận chốt bảo vệ đường, hoặc xe chạy trên đường. Trung đoàn 66 của Sư đoàn 10 đã giải phóng tới tỉnh lỵ Xiêm Riệp, đang phát triển về tỉnh Bát Tam Bang. Ngày 9-2-1979 tôi được giao nhiệm vụ về Sư đoàn bộ ở gần ngã ba đường 7 và đường 6 để nhận xe chuyển quân của Trung đoàn 2 về hướng Xiêm Riệp. Khi Trung đoàn 66 trên đường tiến về Xiêm Riệp có cuộc tao ngộ chiến với quân Pôn Pốt đang tiến về tiến về Xiêm Riệp. Ngày đó chúng chỉ nghe kể vắn tắt, nhưng sau này được kể cụ thể và chi tiết hơn. Khi trung doàn 24 đã đánh chiếm thị xa Kôngpôngthôm thì trung đoàn 66 được lệch ngay trong đêm tiến về hướng Xiêm Riệp trong đội hình binh chủng hợp thành, xe tăng T54, pháo 105ly, pháo phòng không 37ly cùng xe chỏ bộ binh tiến. Đêể lừa địch lệnh không đội mũ và lấy khăn mặt quấn lên trán (khăn mặt của bộ đội nhuộm xanh lá cây, to và dài) thoảng nhìn giống như lính Pôn Pốt. Đoàn quân đang tiến về Xiêm Riệp thì phát hiện một đoàn xe cua quân Pôn Pốt từ đường nhánh nhập vào đội hình của ta. Lênh trên cho bộ phận trước địch tăng tốc chạy lên vọt len trước, bộ phận phía sau chậm lại để cho toàn bộ quân Pôn Pốt lọt vào giữa lúc đầu chúng vẫn lầm tưởng là quân của chúng, đén khi chúng phát hiện thì chúng đã bị kẹp vào giữa bị ta nổ súng. Diệt và bắt sống trên một trăm tên thu nhiều xe chở vũ khí. Đấy là những trận giao chiến của Sư đoàn 10 sau khi ta chiếm được Phnong Pênh. Trước sức tấn công mãnh liệt của ta lính Khme-Đỏ hầu như bỏ chạy khỏi thành phố thị xã. Sau khi tôi làm việc với ban tác chiến Sư đoàn xong, trở ra gặp ngay anh Xê đang đứng ở sân. Anh kéo tôi sang chỗ anh nghỉ ngơi chờ ngày giờ có xe. Gặp anh lần này là lần thứ tư từ khi tôi vào chiến đấu. Giữa hai chúng tôi như có duyên với nhau hay sao đấy. Xa rồi lại gặp, gặp rồi lại xa tới bốn lần. Cuộc gặp gỡ để tôi lại nhớ hồi đánh Mỹ tôi và anh Luật ở Trung đoàn 24 cũng giống như thế này, có khác chăng tôi và anh Luật cứ ở cùng nhau rồi xa, xa rồi lại về ở cùng nhau, cũng tới bốn lần. Không biết hai người đồng đội này có duyên nợ gì với tôi mà để lại trong ký ức những kỷ niệm tôi cho là lạ thế? Sang chỗ anh anh kể có hai gia đình người Việt Nam, đang muốn tìn đường về nước. Anh bảo tôi khi có xe về Kông Pông Chàm thì cho họ về cùng. Anh dẫn tôi sang gặp họ. Hai gia đình chỉ có 4 người. Gia đình thứ nhất là hai ông cháu, ông lão 72 tuổi, cháu gái 12 tuổi tên Nho, ông lão tôi không hỏi tên. Ông bị lòa, đi đâu cháu dắt ông. Ông nói xõi tiếng Khme, đứa cháu không biết nói tiếng Việt. Chính hai cái trái ngược đó đã cho hai ông cháu còn sống đến ngày nay. Ông kể là trước đây có cộng tác với chính quyễn Nguyễn Văn Thiệu. Khi biết chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sẽ sụp đổ nên năm 1972 ông đưa cả gia đình sang Căm Pu Chia sinh sống. Là viên chức chính quyền cũ ở Miền Nam nên ông bảo Thiệu không có Mỹ không tồn tại được. Ông nói Mỹ có máy bay bay rợp trời, đánh cả ra Miền Bắc mà còn thua “Cộng sản” nữa là Thiệu - nguyên văn từ ông nói. Ông đi khỏi Việt Nam để lánh “nạn” (ý ông nói lánh nạn là sợ ta thắng sẽ đàn áp) sang đây lại gặp họa lớn. Gia đình ông ở Phnôm- Pênh, tất cả con và cháu là 12 người, sau khi bị chế độ Khme-Đỏ đuổi ra khỏi nhà ở thành phố- ông kể- hàng vạn người bồng bế, gồng gánh, chen chúc nhau trên đường ra khỏi thành phố. Ai chống lại bị lính Pôn Pốt bắn chết ngay tại chỗ. Giữa dong người loạn lạc hai ông cháu bị lạc gia đình cho đến bây giờ chẳng biết ai ở đâu? Mà khi chúng phát hiện nguopwif Việt nam chắc sẽ bị giết chết. Hai ông cháu sống những ngày dài khổ cực trong công xã của Khme-Đỏ, nay ông muốn về quê hương Việt Nam ở tỉnh Tây Ninh. Gia đình thứ hai là một cô gái tên Tiên, khoảng hai mươi, hai mốt tuổi, có hai chị em, đứa em gái mười tuổi, tên Hường. Hai chị em sống sót được do sự cưu mang của người dân Căm Pu Chia tốt bụng ở phum gia đình cô sinh sống. Cô kể gia đình cô có 8 người, bố mẹ sống ở Căm-Pu-Chia đã lâu. Cô có người anh trai đầu (gọi anh hai) vào bộ đội pháo binh Trung đoàn 40 của Việt Nam từ năm1970, từ đó chưa biết tin. Sau cô có 4 đứa em. Cách đây sáu tháng, vào tháng 8-1978 hai chị em cô đi xay lúa về, vừa đến gần ngõ thì người hàng xóm báo nhà cô đang bị Ăng- ca bao vây. Hai chị em hoảng hốt dắt nhau chạy vào rừng. Thế là cả gia đình, gồm bố mẹ, 3 đứa em bị bắt đi giết chết. Cô đoán chắc có kẻ nào đó chỉ cho chúng biết nhà cô là người Việt Nam. Từ trước tới nay gia đình đều nói tiếng Khme. Từ hôm đó hai chị em cô cứ tối lâu mới về một nhà tốt bụng xin cơm ăn, ngủ nhờ, sáng hôm sau lại chạy vào rừng sớm. Cuộc trốn chạy kéo dài tưởng là vô vọng, chẳng biết sẽ đi đến đâu nếu như hôm đó không gặp bộ đội Việt Nam đi lùng sục tàn quân Pôn Pốt. Cô kể hai chị em đang nằm ôm nhau trong khu rừng cây thưa thớt, trong cái lều, bên bụi cây, che bằng tấm bạt tránh mưa nắng thì nghe thấy người nói tiếng Việt Nam, giọng Bắc. Sự bất ngờ làm cô xúc động người nổi da gà, linh tính lại mách bảo cô điều gì đó để cô đứng lên nhìn và nhận thấy nhiều người mặc quần áo xanh lá cây, đội nón cối. Đúng là bộ đội Việt Nam rồi! Cổ cô nghẹn lại vì quá súc động, cô gọi, kêu thì đúng hơn. Các anh nhận ra tiếng người gọi. Hỏi lại, hai chị em chạy nhào đến. Đôi bên xúc động đến nghẹn ngào! Gặp các anh, được các anh kể là bộ đội mình sang giúp nhân dân Căm Pu Chia thoát khỏi chế độ Khme Đỏ. Niềm vui làm cô trào nước mắt vì qúa sung sướng. Cô xin theo các anh về đây. Bây giờ cô không còn ai, nguyện vọng muốn về Việt Nam tìm người anh trai, cô nói tên nay tôi không còn nhớ. Theo đề nghị của anh Xê, tôi đưa cả hai gia đình về chỗ dân đang trú ngụ ở một ngôi nhà gần chỗ sư đoàn bộ, chờ khi có xe về thị xã Công Pông Chàm cho họ đi theo. Năm giờ sáng ngày hôm sau, tôi gọi họ ra lên xe của tôi. Về đến thị xã Công Pông Chàm cho họ xuống xe và không quên dặn là khi gặp xe bộ đội thì hỏi xin về ngã ba Krếnh, rồi từ đó hỏi tiếp về Tây Ninh. (còn tiếp)
|