Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:22:07 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975  (Đọc 77678 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #60 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:12:44 am »

Phối hợp với đợt hai tiến công vào Phan Thiết, bộ đội địa phương và dân quân du kích các địa phương như Hàm Tân, Hòa Đa và Thuận Phong… đã tích cực hoạt động, mở rộng vùng giải phóng.

Ở Hàm Thuận: ta bao vây uy hiếp chi khu Thiện Giáo, diệt bót cầu Móng, phá sập cầu Sông Trao và làm chủ khu vực này. Du kích xã hàm Đức phối hợp với bộ đội địa phương Thuận Phong và nhân dân bao vây uy hiếp đồn Tùy Hòa. Nhân dân các xã Hàm Liêm, Hàm Chính, Hàm Thắng, vùng lên truy bắt tề điệp ác ôn trong các xóm ấp, phát loa kêu gọi bọn đồn bốt lẻ hạ vũ khí đầu hàng cách mạng, hoặc bỏ súng về nhà làm ăn. Hốt hoảng trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng, bọn phòng vệ dân sự, cảnh sát, tề điệp đã tháo chạy bỏ trống đồn bót, nhiệm sở. Nhân dân đã vùng lên làm chủ khu vực Tam Giác và đường 8 (Đoạn từ Tân An đến Bình Lâm) và các vùng xung quanh, phá tan mọi hình thức kìm kẹp của địch.

Ở Ninh Thuận, Đại đội 311 đặc công đột nhập sân bay Thành Sơn lần thứ hai, diệt thêm một máy bay. Sau đó ta dùng pháo liên tục bắn phá sân bay, có những ngày sân bay gần như bị tê liệt, các loại máy bay không cất cánh. Tiểu đoàn 610 tiếp tục đánh địch mở phong trào ở các ấp La Chữ, Từ Tâm, Mộng Đức, Tuấn Tú, Hòa Thủy, phá đường ống dẫn dầu ở Ninh Chữ. Đồng thời, phối hợp với bộ đội huyện và dân quân du kích phá sập 25 cầu cống; đường 11 (Phan Rang đi Đà Lạt) bị cắt đứt 20 ngày đêm liên tục.

Trong những ngày ta tiến công thị xã Phan Thiết, các cơ quan Đảng các cấp và nhân dân hăng hái huy động sức ngươi, sức của tiếp tế lương thực, đạn dược, cõng cáng thương binh, v.v. Bà con tự động ghép thành đoàn, toán chia nhau làm các việc, nhiều chị em, nhiều cháu thiếu niên ở Đại Nẫm, Phú Tài, Hàm Liêm, Hàm Chính, Hàm Thạnh, Hàm Phú, Hàm Trí,… tự nguyên xung phong vào các đội dân công, hỏa tuyến vượt qua bom đạn địch, len lỏi vào tận các chốt của quân ta ở Chợ Gò, Trường Nữ tiểu học, Phú Thủy để tiếp tế cơm nước, chuyển thương binh và tử sĩ ra ngoài. Một số gia đình ở vùng ven và nội ô thị xã đã đón thương binh về nhà cứu chữa và che giấu, đến khi bình phục thì tổ chức đưa ra giao cho cách mạng, như bà má Ba Tôm ở Phú Mỹ, má Hai ở Phú Trinh, v.v.

Sau đợt hai, địch tăng cường Trung đoàn 44 ngụy và chiến đoàn 3/506 Mỹ cùng với lực lượng tiểu khu phòng thủ Phan Thiết, nhất là các mục tiêu trọng yếu.

Theo sự chỉ đạo của Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy, các đơn vị chuyển ra bám trụ ở vùng ven, vừa đánh địch bung ra, vừa ho những mũi thọc sâu đánh một số mục tiêu trong nội ô và Camp Êsépic, đồng thời tổ chức đánh địch, phá kìm, giành dân ở nông thôn.

Đêm 24 rạng ngày 25 tháng 2 năm 1968, Tiểu đoàn 840 tiến công yếu khu Phú Long và bám trụ đánh địch suốt ngày, đến 17 giờ chiều, địch phải rút chạy qua sông và dùng máy bay thả bom hủy diệt khu vực xung quanh yếu khu (thị trấn Phú Long).

Cùng thời gian, Tiểu đoàn 482 phối hợp với lực lượng thị xã Phan Thiết pháo kích vào Camp Êsépic trúng khu vực sân bay làm nổ tung kho đạn 300 tấn, cháy 3 xe quân sự và phương tiện thông tin địch.

Đêm 11 rạng 12 tháng 3 năm 1968, Tiểu đoàn 840 lại tập kích tiêu diệt và làm chủ yếu khu Phú Long lần thứ ba, đánh sập cầu Phú Long và tiếp tục chiếm giữ khu vực này. Bị thua đau, địch tung Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 44) và chi đoàn xe bọc thép 4/8 từ Phan Thiết ra ứng cứu, bị lọt vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 482 (được tăng cường Đại đội 30 hỏa lực Quân khu và bộ đội địa phương). Ta diệt Tiểu đoàn (Trung đoàn 44), đánh thiệt hại nặng chi đoàn 4/8 và tiêu hao một số đơn vị địa phương quân của địch. Thu nhiều vũ khí, đạn dược và trong đêm, ta huy động xe chở chiến lợi phẩm về vùng ta.

Kết quả hai đợt cao điểm Mậu Thân ở trọng điểm Phan Thiết và vùng ven phụ cận: Ta đã diệt 3.500 tên, diệt và đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 44) và chi đoàn bọc thép 4/8, 14 đại đội lẻ và 22 trung đội, phá hủy 4 kho xăng một triệu lít, một kho đạn 300 tấn; giải thoát 700 tù chính trị, bức rút 14 đồn bót, và phá banh nhiều ấp chiến lược. Hàng vạn quần chúng đã xuống đường, phối hợp chiến đấu với bộ đội bằng nhiều hình thức như truy bắt tề điệp, phát loa kêu gọi địch đầu hàng, bao vây uy hiếp đồn bót, phá ấp, phá kìm giành quyền làm chủ, tải thương, tải đạn tiếp tế bộ đội, góp phân giành thắng lợi lớn trong Xuân Mậu Thân. Đáng tiếc là: do công tác tổ chức, chuẩn bị của ta còn cập rập, chưa phổ cập nên không huy động được phong trào quần chúng rộng mạnh và đều khắp hơn nữa.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Hai, 2012, 08:08:54 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #61 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:13:12 am »

Ở trọng điểm Đà Lạt (Tiền phương B)

Ngày 29 tháng 1 năm 1968 nhận được lệnh tổng tiến công và nổi dậy, Bộ chỉ huy Tiền phương đã phải điều cấp tốc bộ đội địa phương của các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương,… tập trung vào trọng điểm Đà Lạt, chịu bỏ trống nông thôn.

Đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968, theo phương án tác chiến, ta tổ chức tiến công trên ba hướng với tinh thần “lực lượng đến được bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu”:

- Hướng chủ yếu: từ Tây Nam đánh vào tiểu khu và phát triển lên khu vực Tòa Hành chánh tỉnh, đánh chiếm các ty, sở, ấp Du Sinh,… Lực lượng lúc đầu chỉ có một đại đội (Tiểu đoàn 145) đến trước), Đại đội 899, Đại đội 852 biệt động thị xã.

- Hướng thứ yếu quan trọng: là Tây Bắc đánh vào dinh thị trưởng, khu trung tâm thị xã, chiếm khu chợ Hòa Bình, Ty Công an, chiếm cá phố Đa Cát, Phước Thành, Đa Phú, phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, tạo thế bám trụ và bàn đạp tiến công, nối hành lang thông với bên ngoài. Lực lượng gồm Đại đội 810 của tỉnh, Đại đội 820 đặc công, Đại đội 860 biệt động thị xã và 30 cán bộ chính trị. Dự kiến đi theo hướng này còn có đồng chí Phó bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Tỉnh đội phó vào lo công tác quân quản.

- Hướng thứ ba: từ phía Đông đánh vào chiếm khu Trại Hầm, phát triển vào khu Trường Võ bị quốc gia, Trung tâm Nguyên tử lực… lực lượng gồm Đại đội 870 bộ đội địa phương Lạc Dương, Đại đội 855 bộ đội địa phương Đơn Dương và đội công tác hướng Đông.

Nhưng cả ba hướng, đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968, do chưa được chuẩn bị sẵn sàng và đường xa nên không vào tiếp cận được, phải hoãn lại đến đêm 31 rạng ngày1 tháng 2 năm 1968 mới bước vào chiến đấu, chậm một ngày so với hiệp đồng chung toàn Khu và toàn Miền. Tiểu đoàn 186, đơn vị chủ công, đêm 4 tháng 2 năm 1968 mới đến kịp.

Thế phòng thủ của địch ở Đà Lạt tuy có những chỗ yếu và sơ hở, nhưng do ta vào chậm lực lượng lại ít, bị phân tán, nên địch đã được báo động, có điều kiện cố thủ những nơi trọng yếu, gây cho ta khó khăn.

Ở hướng chủ yếu, đêm 31 tháng 1 rạng ngày 1 tháng 2 năm 1968, ta đã đánh chiếm cả khu vực Pasteur, Ty Mục súc, sáng hôm sau, rút ra trụ lại Hầm Đá - Nam Thiên đánh phản kích.

Đêm ngày 2 tháng 2 năm 1968 lực lượng đến thêm gồm có Tiêu diệt 145 (thiếu) đội đặc công 852, Đại đội 809, một bộ phận tiền trạm của Tiểu đoàn 186. Ta đã đánh chiếm được hai phần ba tiểu khu, vùng Pasteur, Du Sinh, Hầm Đá, làm chủ 9 ty, sở xung quanh tiểu khu.

Đêm ngày 4 tháng 2 năm 1968, toàn bộ lực lượng Tiểu đoàn 186, Đại đội 852, Đại đội 809 tiếp tục đánh chiếm tiểu khu và các ty, sở xung quanh. Nhưng ta vẫn đánh chiếm được ba phần tư tiểu khu và các ty sở, diệt trên 100 tên địch. Chúng chỉ còn ở một góc tây nam tiểu khu, nhưng nhờ đã điều thêm một tiểu đoàn có xe bọc thép đến chi viện, nên ta không dứt điểm được. Đến sáng ta chuyển ra chiếm giữ các ty, sở và tổ chức đánh phản kích. Trong lúc đó Tiểu đoàn 145 chuyển sang chốt giữ các ấp Du Sinh, Nam Thiên và Dinh 3.

Ngày 5 tháng 2 năm 1968, địch phản kích từ ba hướng (Sân bay Cam Ly, Dinh 1, Dinh 3) vào khu ta chiếm giữ nhưng bị ta chặn đánh, tiêu hao nên phải lui ra, dùng máy bay ném bom hủy diệt khu vực các ty, sở và Viện Pasteur. 16 giờ, ta chuyển lực lượng ra ngoài, chỉ để lại Tiểu đoàn 145 giữ các ấp Du Sinh, Nam Thiên, Saint-Jean, Dinh 3 cho đến ngày 8 tháng 2 mới rút. Kết quả trong đêm 4 tháng 2 và 5 tháng 2 năm 1968, ta đã diệt trên 250 tên địch, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 123 biệt động quân và lực lượng tại chỗ.

Ngày 10 tháng 2 nam 1968 bộ phận còn bám lại tập kích diệt địch ở Tân Lạc và pháo kích vào tiểu khu; ngày 11 tháng 2 đánh vào nhà đèn; ngày 12 tháng 2 năm 1968 tiếp tục tập kích bọn Mỹ ở đây.

Suốt trong những ngày bộ đội tiến công và bám trụ đánh địch, đồng bào ở Nam Thiên đã cơm nước tiếp tế cho bộ đội, du kích mật, phối hợp diệt ác, phục vụ dẫn đường, liên lạc, trinh sát nắm địch. Bộ đội ta thu dọn nhà cửa, cho heo gà ăn giúp các gia đình lánh cư, đã gây ảnh hưởng tốt trong đồng bào.

Ở hướng tây bắc ngay trong đêm 31 tháng 1 và ngày 1 tháng 2 năm 1968, ta chia ba mũi thọc sâu vào trung tâm thị xã. Một mũi đánh thẳng vào Dinh Tỉnh trưởng, diệt quân Mỹ, Nam Hàn và bọn bảo vệ. Một múi đánh vào Tỉnh đoàn Bảo an, nhưng đến khu chợ Hòa Bình trời sáng nên phải trụ lại đánh địch phản kích suốt ngày. Địch dùng máy bay hủy diệt, đốt phá khu chợ Hòa Bình. Một mũi đánh vào Ty công an, không dứt điểm được, phải chuyển qua đánh đài vô tuyến điện, Trường Hiến binh và trụ đánh phản kích suốt ngày.

Ngày 2 tháng 2 năm 1968, ta chuyển ra trụ ở Đa Cát, liên tục đánh địch phản kích cho đến ngày 1 tháng 2 năm 1968. Trong những ngày trụ lại Đa Cát, ta đã triển khai tiến công địch Lãnh địa Đức Bà, đánh thọc sâu vào các hướng đường Phan Đình Phùng, Trung tâm chính trị, Mã Thánh, Sân bay Cam Ly, quận Lạc Dương và làm chủ nhiều khu phố ở mảng Tây Bắc thị xã.

Đêm 31 tháng 1 rạng ngày 1 tháng 2 (tức là đêm mùng 2 rạng mùng 3 Tết), nhân dân ở Đà Cát, Đa Thành, Phước Thành, Đa Phú, Phan Đình Phùng, đã hội họp mít tinh động viên mọi người xuống đường phối hợp với chiến đấu cùng bộ đội. Bà con đưa cả bàn ghế, giường tủ ra làm chướng ngại vật. Sáng mùng ba Tết nhân dân tổ chức tuần hành, mang cờ, biểu ngữ, khẩu hiệu kéo vào chợ Hòa Bình, dọc đường được đông đảo quần chúng tham gia, đồng bào dự định làm cuộc biểu tình lớn ở trung tâm thành phố nhưng đến nửa đường Phan Đình Phùng bị địch cho máy bay và trực thăng oanh tạc, bắn chặn nên phải quay lại.

Đặc biệt trong những ngày bộ đội ta trụ lại Đa Cát, đồng bào phải dỡ nhà cửa, mang gỗ ván đến cùng bộ đội xây dựng công sự, hầm hào, tổ chức canh gác, phối hợp với bộ đội bắt bọn công an, cảnh sát đặc biệt, tề điệp ác ôn. Các em thiếu nhi đi trinh sát nắm tình hình địch, làm liên lạc giữa các cánh quân của ta.

Du kích mật cũng ra vùng Đa Cát nhận vũ khí về nội ô hoạt động. Đồng bào Đa Phú đã giúp đỡ nhiều cho đội hoàn phẫu và trạm xá cứu chữa thương binh.

Trong những ngày bị địch ném bom, bắn pháo, nhà cửa bị thiêu hủy đồng bào phải sơ tán về phía sau; nhưng vẫn còn nhiều cụ già, em gái ở lại lo tiếp tế và phối hợp chiến đấu với bộ đội, làm công tác, có một số đã hy sinh trong hầm cùng bộ đội.

Trong 11 ngày đêm bám trụ đánh địch phản kích (có ngày đánh 12 đợt liền, nhiều đợt đánh trả với 3 tiểu đoàn địch, có xe bọc thép, máy bay và pháo binh yểm trợ), cán bộ chiến sĩ ta đã chiến đấu ngoan cường, nhiều lần xung phong truy kích địch, thu vũ khí. Trong những đêm mùng 3, 5, 8 tháng 2 ta còn tổ chức đánh thọc sâu vào trung tâm thành phố, phối hợp với cánh Tây Nam diệt nhiều sinh lực và làm rối loạn hậu phương địch. Đã diệt hàng trăm tên, bắn cháy 3 xe bọc thép, bắn rơi 6 máy bay, bắt 9 lính và 56 tề điệp ác ôn.

Bộ đội ta vừa chiến đấu vừa làm công tác dân vận, chữa cháy cho nhà cửa, của cải, cứu chữa người bị thương, giúp dân tránh lánh ra khỏi vùng chiến sự. Ở khu chợ Hòa Bình có những tiệm vàng, tiệp đồng hồ bị địch bắn sập, anh em đã thu gom trả lại cho dân, không lấy, không xin cũng không nhận của cho. Binh lính địch đi lẻ thì bắt giữ lại, tuyên truyền giải thích chính sách rồi thả.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #62 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:13:51 am »

Ở hướng thứ ba (Đông Nam): đêm 31 tháng 1 năm 1968 ta tấn công vào Trại Hầm nhưng không đánh được phải rút ra. Đêm 3 tháng 2 có thêm Đại đội 815, ta tiến công vào khu hiến binh, nhà sĩ quan Mỹ ở đường Trần Hưng Đạo, trụ đánh phản kích liên tục đến chiều tối mới rút.

Đêm ngày 5 tháng 2 năm 1968, phối hợp với cánh chủ yếu (Tây Nam) lực lượng ta lại tiến công vào khu hiến binh, khu vực Nha địa dư, và trường trung học Yersin, chiếm khu vực Yersin và trụ lại đánh địch phản kích suốt hai ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1968; sau đó rút ra chốt Trại Hầm, đánh địch phản kích. Ở đây, nhân dân rất tận tình, vừa lo cơm nước, vừa lo băng bó, cứu chữa thương binh, cho con dẫn bộ đội bị lạc đường; đặc biệt có gia đình đã bí mật nuôi hai đồng chí hơn 10 ngày sau đó mới tổ chức đưa ra vùng ta.

Qua 8 ngày đêm chiến đấu liên tục và quyết liệt dưới bom đạn của địch, ngày 8 tháng 2, ở hai hướng Tây Nam và Đông Bắc, các lực lượng ta tạm lui ra ngoài để củng cố. Riêng hướng Tây Bắc vẫn còn bám trụ đánh địch tại một số khu phố cho đến ngày 11 tháng 2 mới chuyển ra (riêng Đa Phú ngày 12 tháng 2 năm 1968).

Tính chung qua đợt một ta đã diệt 1.450 tên có nhiều tên ác ôn, phá hủy 10 xe bọc thép, 12 xe quân sự, bắn rơi 11 máy bay, bắn bị thương 4 chiếc khác (có 1 phản lực); ở một số nơi địch rất hoang mang, như bọn sĩ quan trường Võ bị Quốc gia đã chuẩn bị cờ trắng đầu hàng. Ta làm chủ một số khu phố trong cả tuần lễ.

Ở vùng nông thôn phụ cận, quận lỵ Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương, bọn ngụy quân, ngụy quyền cũng hoang mang, dao động, ngó chừng thời thế.

Lực lượng ta tại chỗ tuy ít, nhưng cũng đã lợi dụng thời cơ sáp vào kết hợp vói nhân dân vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng tiến công binh vận, làm cho các đồn bót co lại.

Ở đường 20, đồng bào Quang Hiệp, Định An, K’Long A-B treo băng cờ, dựng cổng chào làm chướng ngại chặn đường, cán bộ ở trong ấp cả ngày đêm.

Ở đường 11, các thôn Xuân Sơn, Đắt Làng, Trường Sơn, Cầu Đất, tề xã và bọn lính đồn tháo chạy; Xuân Thành, Đa Quý, Đa Lộc đã tổ chức được chính quyền cách mạng. Tính chung, trọng dịp này ở hai xã Xuân Trường, Xuân Thọ có gần 200 thanh niên thoát ly tham gia kháng chiến.

Ở đường 21 kép (Dran - Phi Nôm) địch cũng tan rã, chỉ còn đồn M’Long. Ta phát động quần chúng các ấp Quảng Hiệp, Nam Hiệp, Nghĩa Hiệp và các xã dân tộc đứng lên phá kìm, xây dựng chính quyền cách mạng, mở ra được một mảng làm chủ, nhân dân tham gia chuyển lương thực cho bộ đội. Nhiều thanh niên đã thoát ly tham gia cách mạng.

Theo lệnh chung của Quân khu, đêm 17 rạng 18 tháng 2 năm 1968 ta lại mở đợt tiến công lần thứ hai vào Đà Lạt. Qua tiến công đợt một của ta, lực lượng địch bị tiêu hao nặng, sức chiến đấu giảm sút. Chúng đã phải tăng thêm đến một biệt đoàn cảnh sát, một tiểu đoàn cộng hòa, một tiểu đoàn biệt động quân cùng với quân Mỹ, Nam Hàn để giữ Đà Lạt.

Phía ta: tuy lực lượng có được củng cố sau đợt một nhưng quân số chưa được bổ sung. Tiểu đoàn 186 được chuyển sang hướng chủ yếu Tây Bắc, cùng với Đại đội 810 tỉnh, đội biệt động 860 có nhiệm vụ đột thẳng vào đánh chiếm khu trường chiến tranh chính trị, trận địa pháo, khu ấp Đa Thành; từ đó tiếp tục phát triển tiến công vào khu trung tâm thành phố. Nhưng vào đến tuyến Kim Thạch - Vạn Kiếp thì bị liên đoàn 2 biệt động quân ngăn chặn, phải đánh nhau với chúng. Từ ngày 18 tháng 2 đến ngày 20 tháng 2 năm 1968, đã đánh lui nhiều đọt phản kích tại đường Hai Bà Trưng, Vạn Kiếp và Đa Thành, diệt gần 200 tên, buộc chúng phải lùi vào phía thị xã. Đêm 18 rạng 19 tháng 2 năm 1968 ta lại tổ chức tấn công vào nội ô nhưng không kết quả. Suốt ngày 19 tháng 2 địch dùng phi pháo đánh vào trận địa ta, một bộ phận lực lượng ta bị mất sức chiến đấu, địch chọc thủng được phòng tuyến nên đến 21 giờ ta phải rút khỏi vùng Kim Thạch. Trong ngày ta diệt 150 tên địch, bắn cháy hai máy bay (có 1 phản lực).

Ở hướng Tây Nam, Tiểu đoàn 145 (thiếu), Đại đội 816, đội biệt động 820 đã đánh chiếm các ấp Du Sinh, Saint Jean, chiếm khu nhà đèn, pháo kích vào tiểu khu; nhưng cũng bị địch ngăn chặn, không phát triển được.

Ở hướng Đông, ta dùng đội công tác vào Đa Lộc - Trại Mát, dùng hỏa lực pháo kích vào trường Võ bị Quốc gia. còn Đại đội 870 và 815 thì về lại huyện Lạc Dương và Đơn Dương để mở phong trào ở nông thôn.

Ngày 21 tháng 2 năm 1968 trước tình hình địch đã tăng cường canh giữ Đà Lạt, Bộ chỉ huy Tiền phương quyết định chuyển phần lớn lực lượng Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 145 ra hoạt động ở nông thôn, trọng điểm là huyện Đức Trọng. Ở thị xã chỉ để lại đại đội 810 và các đội biệt động tiếp tục đánh nhỏ, kìm giữ địch. Cuối tháng 2 tập kích bọn cảnh sát dã chiến ở Phước Thành; ngày 1 tháng 3 năm 1968 tập kích vào sân bay Cam Ly (cháy hai phần ba sân bay).

Ở Đông thôn Đức Trọng thượng tuần tháng 3 năm 1968, Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 145 (thiếu) tập kích yếu khu cảnh sát Tùng Nghĩa, đánh diệt đồn Phú Hội, đánh thiệt hại hai đại đội bảo an từ chi khu Đức Trọng đi chi viện, tảo trừ các ổ đề kháng trong thị trấn… diệt 160 tên, làm chủ thị trấn Tùng Nghĩa.

Bộ đội địa phương và đội công tác các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương đã đánh phá giao thông và phá ấp, phá kìm, giành làm chủ được một số ấp trên các đường 21, 20, 11.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #63 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:15:26 am »

Kết quả trong cao điểm Mậu Thân 1968, tại trọng điểm Đà Lạt và Tuyên Đức, ta diệt 2.723 tên địch, diệt một tiểu đoàn biệt động quân số 23 (còn 26 tên) và đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn khác, 6 đại đội lẻ, trên 700 tên đào ngũ (có 178 sinh viên sĩ quan trường Võ bị Quốc gia và 200 sinh viên sĩ quan trường Chiến tranh Chính trị) bắt và diệt trên 40 tên ác ôn, bắn rơi 14 máy bay, bắn bị thương bốn chiếc khác, phá hủy 100 xe quân sự (có 10 xe bọc thép), bức rút 18 đồn bót, đánh sập 2 cầu, đánh cháy 2 kho xăng, đánh cháy hai phần ba sân bay Cam Ly, phá hủy trận địa pháo trường võ bị (3 khẩu) và đánh hỏng nhà máy đèn Suối Vàng.

Cùng với trọng điểm Đà Lạt, Lâm Đồng cũng cố gắng thực hành tổng tiến công và nổi dậy theo khả năng của địa phương mình để phối hợp với chiến trường chung toàn Khu, đã đột đánh vào thị trấn Di Linh, huy động nhân dân và du kích căn cứ ra phá hoại đường 20, làm gián đoạn vận chuyển của địch từng lúc và nhiều ngày. Kết hợp với tiến công quân sự, đã phát động quần chúng trong nhiều ấp nổi dậy rượt bắt tề vệ, chiếm trụ sở ấp, phá banh rào giành quyền làm chủ, mít tinh tuần hành kéo đến đồn bót trụ sở ngụy quyền đấu tranh trực diện với địch.

Ở các vùng căn cứ giải phóng cũ, các mặt sinh hoạt chính trị, sản xuất phục vụ kháng chiến đều có bước chuyển biến mạnh với khí thế sôi nổi chưa từng có, quần chúng đã tham gia đóng góp một số nhân lực đáng kể trong việc phục vụ tiền tuyến phá hoại giao thông; đồng thời vẫn đẩy mạnh sản xuất đưa diện tích rẫy lên ngang mức năm 1963 (là năm cao nhất). Đảng, Đoàn, du kích và các đoàn thể được phát triển và củng cố vững mạnh hơn.

Tính chung, toàn Quân khu trong đợt cao điểm tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, từ 31 tháng 1 năm 1968 đến 15 tháng 3 năm 1968 ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 11.000 tên địch; gần 8.800 tên bị diệt; 2.200 tên đào rã ngũ; ta diệt và đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn 1 chi đoàn xe bọc thép, 22 đại đội lẻ và 37 trung đội; bức hàng hai đồn, bức rút 37 đồn bót và phá nhiều ấp chiến lược; bắn rơi và phá hủy 60 máy bay; đánh hỏng 126 xe quân sự, có 37 xe bọc thép; đánh sập 52 cầu cống, cắt đứt làm gián đoạn từng lúc hầu hết các con đường quốc lộ và tỉnh lộ trong khu. Phối hợp với mũi quân sự quần chúng đã nổi dậy giải phóng 20 xã, 102 ấp với 50.850 dân và chuyển vùng tranh chấp lên làm chủ thật sự 53.700 dân; động viên được 700 thanh niên thoát ly, có 450 bổ sung cho lực lượng vũ trang.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt mùa Xuân 1968 ở miền Nam là một điểm son chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Đã làm cho Mỹ - ngụy bị một đòn thất bại nặng nề phải bàng hoàng, sửng sốt, giảm sút lòng tin vào khả năng chiến thắng. Còn nhân dân tiến bộ và các dân bộc bị áp bức thì vui mừng, tin tưởng.

Ở chiến trường Khu VI vào Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân đã cố gắng phối hợp tốt với cao điểm tổng tiến công và nổi dậy trong toàn Miền(1). Tuy sức ít nhưng đã nghiêm túc chấp hành chỉ thị: trên cùng một lúc tiến công vào hai thị xã lớn. Đánh chiếm và làm chủ được nhiều ngày, nhiều khu vực và mục tiêu đầu não quan trọng. Đây là một nỗ lực rất lớn của quân dân Khu VI. Tuy không dứt điểm được nhưng cũng đã gây được thiệt hại nặng nề cho địch, nhất là đã làm cho cơ quan đầu não cấp tỉnh của địch có lúc bị tê liệt, rối loạn, hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, rệu rã, thế và lực của địch trong khu bị đánh sụt xuống một bước nghiêm trọng.

Kế hoạch bình định nông thôn của địch đã bị đánh một đòn mạnh, nhiều nơi hệ thống kìm kẹp bị tan rã, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ với nhiều mức độ, góp phần cùng toàn Miền làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh.

Trong những ngày chiến đấu ác liệt, quần bám với địch ở trọng điểm những tấm gương xả thân vì dân vì nước “thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng của những người con quê hương Bình Thuận, Tuyên Đức, những con em từ hậu phương lớn vào đã để lại những ấn tượng tốt đẹp, không bao giờ phai mờ trong lòng nhân dân ở những vùng lâu nay nằm dưới ách kìm kẹp của địch. Khơi dậy lòng yêu nước, ý thức tự hào dân tộc, quê hương của các tầng lớp nhân dân rộng rãi.

Các lực lượng vũ trang trong khu một lần nữa khẳng định lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân và với dân tộc; sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua biết bao khó khăn thử thách, không quản ngại hy sinh, kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, tích cực đánh theo yêu cầu, quyết giành thắng lợi trong thời cơ lịch sử.

Nhưng đáng tiếc là do công tác tổ chức và chuẩn bị có khuyết điểm, do lực lượng vũ trang, chính trị tại chỗ còn quá yếu chỉ đạo ở một số địa phương chưa thật khẩn trương, mạnh bạo nên đã không gây cho địch thất bại nặng nề hơn nữa và giành về ta thắng lợi to lớn hơn nữa.

Mặc dù vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân trong khu đã đi vào những chiến tích lịch sử, với truyền thống khắc phục khó khăn, chiến đấu ngoan cường, tin Đảng, tin dân, quyết tâm giành thắng lợi, như một bản anh hùng ca bất diệt.


(1) Toàn Miền trong cao điểm Mậu Thân 1968 đã đồng loạt tiến công vào 40 thành phố và thị xã.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Hai, 2012, 02:41:48 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #64 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2012, 04:16:32 pm »

2. Liên tục tiến công và nổi dậy cùng toàn Miền và cả nước
đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đến quốc Mỹ


Cao điểm hè 1968 (tháng 5 đến 8 năm 1968)

Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ gởi điện khen “Quân và dân ta ở miền Nam đánh rất giởi, rất đều, rất nhịp nhàng, đánh khắp nơi và nơi nào cũng thắng to”, đồng thời căn dặn “Càng thắng lợi, càng nhiều gian nan, quân địch như con thú đến bước đường cùng, càng giẫy giụa điên cuồng, quân và dân ta càng phải tăng cường đoàn kết, kiên trì chiến đấu, đánh mạnh, đánh liên tục, giành thắng lợi to lớn hơn nữa”(1).

Hội nghị Trung ương Cục mở rộng lần thứ 6 (tháng 3 năm 1968) đã đánh giá qua thắng lợi tổng tiến công và nổi dậy ta đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện chưa từng có và đề ra chủ trương: “… kiên quyết giữ vững và không ngừng phát huy thắng lợi đã giành được… liên tục tiến công địch, phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ra sức tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch và thật nhiều phương tiện chiến tranh của Mĩ - ngụy…”.

Quán triệt và chấp hành lời dạy của Bác Hồ và Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 6, Hội nghị Khu ủy Khu VI đầu tháng 4 năm 1968 đã sơ kết 45 ngày tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 và đề ra nhiệm vụ hoạt động hè cho toàn Khu với quyết tâm rất cao:

- Loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 2 vạn tên địch, trong đó sát thương khoảng 14.000, bắn rơi và phá hủy 60 máy bay, đánh hỏng 40 xe bọc thép.

- Thường xuyên đánh phá mạnh vào các thị xã, hậu cứ sân bay, kho tàng của địch để tiêu hao, vây ép, làm tê liệt, tạo điều kiện tiến tới dứt điểm, nhất là các thị xã Đà Lạt, Phan Thiết.

- Giải phóng từ 130 đến 150 ngàn dân, nhất la giải phóng các vùng nông thôn trọng điểm của từng tỉnh.

- Triệt phá các con đường giao thông, nhất là đường số 1, 11, 10, 21, làm gián đoạn có thời gian, tiến tới cắt đứt hoàn toàn.
 
- Khẩn trương xây dựng lực lượng ba thứ quân (theo chỉ tiêu của Quân ủy Miền đề ra cho toàn Khu, xây dựng lực lượng chính trị tại chỗ và tuyển mộ 1.500 tân binh.

Để chuẩn bị vào đợt hè, lực lượng Khu được tăng thêm Tiểu đoàn 240 bộ binh (Bộ bổ sung) bố trí hoạt động cùng Tiểu đoàn 186 ở Tuyên Đức, Tiểu đoàn 145 (thiếu) trở về Lâm Đồng. Quân khu thành lập thêm đại đội 115 (đại đội nữ độc lập trực thuộc Quân khu có 130 đồng chí(2).

Tuyên Đức xây dựng và phát triển Đại đội 810 thành Tiểu đoàn 810 (thiếu), Lâm Đồng xây dựng thêm 1 đại đội bộ đội địa phương cho thị xã Blao (Đại đội 744), 1 đại đội bộ đội căn cứ. Trung đội nữ pháo binh (8-3) thuộc tỉnh). Ninh Thuận được tăng thêm 2 đại đội đặc công của Bộ bổ sung, chuyên trách đánh phá sân bay Thành Sơn. 1 Trung đội nữ 803 thuộc tỉnh Bình Thuận và Bắc Bình các bộ đội địa phương tỉnh, huyện cũng được sắp xếp lại bổ sung thêm quân số. Thành lập thêm Đại đội 3/430 Hàm Thuận, trung đội 68 nữ của Phan Lý, trung đội nữ thông tin và trung đội nữ pháo binh 483 trực thuộc tỉnh.

Sau những thất bại nặng nề và toàn diện trong Xuân 1968, trên toàn Miền, địch phải bỏ chiến lược 2 gọng kim “Bình định và tìm diệt”, chuyển sang chiến lược “quét và giữ” củng cố lại lực lượng, tăng cường phòng thủ bên trong, từng bước dũi ra các vùng ven, đẩy ta ra xa, giải tỏa thế bao vây, uy hiếp quanh thị xã. Khu chiến thuật 23 vẫn tiếp tục đưa chủ lực đến tăng viện cho Bình Thuận và Tuyên Đức; chúng lập thêm một số đơn vị địa phương quân mới, phát triển lực lượng phòng vệ dân sự ở các thị xã, thị trấn quan trọng (nhất là Phan Thiết - Đà Lạt); làm thêm công sự; giao thông hào, lập vành đai phòng thủ xung quanh; đẩy mạnh các hoạt động an ninh, cảnh sát truy đánh cơ sở cách mạng; khôi phục lại bộ máy kìm kẹp. Từng bước chúng sử dụng quân cơ động Mĩ - ngụy, đánh phá các bàn đạp đứng chân của các lực lượng ta và đánh sâu vào một số vùng giáp ranh và căn cứ, tăng cường đánh phá bằng phi pháo và chất độc hóa học.

Theo chỉ thị hoạt động phối hợp chung của Bộ Tư lệnh Miền, đợt cao điểm hè bắt đầu từ đêm 4 rạng ngày 5 tháng 5 năm 1968. Đợt này ta chủ trương chuyển Tiểu đoàn 840 ra Bắc Bình cùng với lực lượng địa phương tiến công mở mảng và kéo địch ra để diệt, tạo điều kiện thuận lợi cho Tiểu đoàn 482 và lực lượng địa phương ở phía Nam Bình Thuận bám giữ vùng ven, vây ép uy hiếp thị xã Phan Thiết, giành giữ nông thôn.


(1) Điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 4 tháng 2 năm 1968.
(2) Ban Chỉ huy Đại đội 115 có đồng chí Đào Thị Huệ, Đại đội trưởng; chị Sen, đại đội phó và chị Nga, Chính trị viên.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Hai, 2012, 02:42:03 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #65 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2012, 04:18:03 pm »

Mở đầu, đêm 4 rạng ngày 5 tháng 5 năm 19658, ta tập kích diệt bọn dân vệ và đánh chiếm thị trấn Chợ Lầu, ta cho một trung đội (Đại đội 440) trụ lại để đánh địch từ Lương Sơn ra. Nhưng bọn ở Lường Sơn không đi, mà bọn Sông Mao kéo vào. Cách chiến sĩ Đại đội 440 kiên cường bám trụ đánh trả quyết liệt, nhưng do lực lượng quá chênh lệch nên ta phải rút.

Đêm ngày 6 ta tăng thêm lực lượng chiếm lại chốt. Sáng ngày 7, một đại đội lính bảo an từ Phan Lý kéo vào bị Đại đội 440 nổ súng tiêu diệt gần hết, số còn lại tháo chạy.

Đến 15 giờ cùng ngày, 4 đại đội biệt kích từ Lương Sơn kéo ra giải tỏa định đánh bọc phía sau ta. Nhưng đội hình chúng lại lọt vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 840. Ta nổ súng diệt gọn 2 đại đội, 2 đại đội còn lại bị tiêu hao và tháo chạy. Ta thừa thắng truy kích địch trên quốc lộ 1 ngay giữa ban chiều, diệt thêm một số. Đồng bào dọc 2 bên đường không sợ “đạn lạc, tên bay” đã chạy ra hoan hô bộ đội giải phóng.

Từ ngày 8 tháng 5, ta đánh chiếm và làm chủ ấp Lâm Lộc và một phần thị trấn Phan Rí Cửa, vào các ấp Long Lễ, Hội Tâm để phát động, tổ chức quần chúng và trụ lại gài thế đánh địch phản kích, bảo vệ phong trào.

Cùng phối hợp với Tiểu đoàn 840, bộ đội địa phương Hòa Đa, Phan Rí, Tuy Phong đã đột nhập vào các ấp ven đường số 1 diệt ác, làm phá kìm, hỗ trợ đồng bào nổi dậy. Bị sức ép ngày 11 tháng 5 năm 1968 địch phải cấp tốc điều Tiểu đoàn 3/506 Mỹ và Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 44 ngụy từ Phan Thiết ra để giải tỏa cho Lâm Lộc và Phan Rí Cửa. Nhưng chúng đã bị Tiểu đoàn 840 bố trí trận địa gài sẵn (theo hình thái chiến thuật “chốt chặn kết hợp vận động”) đánh từ trưa đến chiều tại cánh đồng Hậu Quách gây thiệt hại nặng. Ngay từ đầu, đội hình chúng đã rối loạn, giữa bọn Mỹ và ngụy không chi viện được cho nhau. Chiều tối, quân Mỹ phải bỏ xác chết đồng đội tại trận địa rút, chạy về Chi khu Hòa Đa và sau đó trực thăng bốc về Camp Êsépic.

Sáng hôm sau, chúng cho phi pháo bắn nhiều giờ xuống cành đồng Hậu Quách, cho quận kỵ binh không vận 506 Mỹ xuống lấy xác.

Sau trận đánh, Tiểu đoàn 840 về rú quân ở khu vực Tầm Vu để ổn định và củng cố đơn vị. Sau 2 ngày địch dùng pháo binh, máy bay, pháo hạm ở biển bắn phá vùng quanh Bàu Mặn (Hậu Quách) đến Tầm Vu. Sáng ngày thứ 3 (15 tháng 5 năm 1965), Mỹ đổ quân đánh vào vị trí đứng chân của tiểu đoàn ở khu vực Tầm Vu, nhưng một lần nữa chúng lại bị thiệt hại nặng hơn; vì ta có lợi thế về địa hình, trận địa đã được chuẩn bị. Bị thương vọng nặng, tối hôm đó chúng phải vội vã rút bằng trực thăng về lại Phan Thiết, bỏ luôn cả xác lại trận địa; cả ngày tiếp theo chúng cũng không dám quay lại.

Vừa củng cố vừa chuẩn bị chiến đấu, sau đó tiểu đoàn cùng với bộ đội địa phương và các đội công tác tiếp tục làm chủ vùng Long Lễ, Lâm Lộc, và Phan Rí Cửa; gài đánh thiệt hại nặng 2 đại đội bảo an giữ chốt và cơ động của chi khu Hòa Đa; tạo thêm điều kiện thuận lợi cho các lực lượng địa phương, đội công tác, phát động quần chúng xây dựng thế làm chủ.

Vậy là qua tháng đầu của đợt hoạt động hè, ở hướng Bắc Bình, Tiểu đoàn 840 và bộ đội địa phương đánh 4 trận tập trung cấp tiểu đoàn và tiểu đoàn tăng cường, tiêu diệt và làm thiệt hại nặng 7 đại đội địch. Nhân dân nhiều xã, ấp ở Bắc Bình đã nổi dậy đấu tranh chính trị, binh vận phối hợp tốt với tiến công quân sự. Nổi bật là thị trấn Chợ Lầu. Ở đây, khi bộ đội nổ súng đánh địch thì đồng bào nhiều ấp nổi dậy đánh trống mõ liên hồi xông ra bao vây, đồn bót, uy hiếp địch, gây khí thế cách mạng sôi nổi. Đồng bào đã đốt hết trụ sở tề ngụy, phá bỏ các hình thức kìm kẹp trong các ấp chiến lược; rải truyền đơn, treo cờ. Mặt trận giải phóng miền Nam tại thị trấn. Địch bắn pháo ngăn chặn thì lập tức có hàng ngàn người kéo đến quận đấu tranh đòi bồi thường thiệt hại, đòi chấm dứt bắn pháo, đòi trả xác chồng, con, em bị chết trận, v.v. Đấu tranh sôi nổi, kéo dài, lôi cuốn cả binh lính địch tham gia, buộc tên quận trưởng phải xoa dịu.

Ở Nam Bình Thuận, Tiểu đoàn 482 cùng với bộ đội địa phương và du kích tiếp tục bám đánh địch ở vùng ven, giữ được vùng nông thôn phụ cận Phan Thiết và từng lúc lực lượng đặc công và hỏa lực đánh sâu vào thị xã Phan Thiết. Cuối tháng 5 năm 1968, địch cho xuất hiện loại xe M41 - M48 yểm trợ cho các tiểu đoàn cộng hòa bung ra phản kích ta trên chiến trường Tam Giác(1). Lực lượng ở đây lúng túng, có tư tưởng ngại xe tăng, nên Quân khu quyết định điều Tiểu đoàn 840 trở lại tăng cường cho Nam Bình Thuận.


(1) Sau Mậu Thân 1986, Mỹ cử tướng xe tăng Abram thay tướng Westmora Land làm Tư lệnh trưởng Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV) ở Sài Gòn. Từ đó Abram đã cho tăng cường mật độ sử dụng xe tăng trên các chiến trường toàn miền Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #66 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2012, 04:18:44 pm »

Trong các ngày 16 và 20 tháng 6 năm 1968, Tiểu đoàn 840 cùng với bộ đội địa phương đã gài thế đánh được 2 trận vào bọn càn quét, lấn chiếm lại Tân An và Phú Bình; đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 4/ Trung đoàn 44 ngụy và một số đại đội bảo an khác, có cả xe tăng yểm trợ. Đặc biệt trong ngày 20 tháng 6 năm 1968, Tiểu đoàn 840 đã bố trí trận địa với kế hoạch đánh cả xe tăng, phát huy các hỏa lực B40 - B41 bắn ngang sườn và chính diện của xe tăng địch, làm cháy tại chỗ 2 xe M41, số còn lại vội vã tháo lui. Trận này gây được lòng tin và mở ra phong trào đánh xe tăng rộng rãi ở chiến trường Bình Thuận.

Ở Tuyên Đức, vào đợt hè năm 1968, các lực lượng Khu, tỉnh, bộ đội địa phương huyện và các đội công tác phối hợp hoạt động đều, cả ở nông thôn và trong thị xã, nhất là 15 ngày đầu tháng 5 năm 1968. Trên đường 21 kéo dài, Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 240 đã vào hoạt động ở các khu ấp Thanh Bình, Gia Thạnh, phía bắc quận lỵ Đức Trọng. Với hình thức chiến thuật chốt chặn kết hợp với vận động, ta đã lần lượt kéo lực lượng của chi khu Đức Trọng và tiểu khu Tuyên Đức đến, diệt và làm thiệt hại nặng nhiều đại đội biệt động quân và một số đơn vị bảo an dân vệ; pháo kích vào chi khu làm tê liệt sân bay Liên Khương.

Kết hợp với tấn công quân sự, hàng ngàn đồng bào Thượng ở Khu và các ấp trên đường 21 kéo dài đã nổi dậy đánh trống, tập hợp nhau kéo lên quận đấu tranh đòi về ruộng đất cũ làm ăn, chống bắn pháo bừa bãi. Đây là nét mới trong phong trào đồng bào dân tộc ở khu vực này.

Tại thị xã Đà Lạt Tiểu đoàn 810 (thiếu) và các đội biệt động trong 15 ngày đầu tháng 5 năm 1968 đã 26 lần đánh vào 13 mục tiêu như Dinh Thị trưởng, cư xá Mỹ, một số ty, sở, trụ sở phường, 3 lần pháo kích sân bay Cam Ly, đánh hỏng nhà máy thủy điện Suối Vàng… gây mất ổn định trong thị xã. Bộ đội địa phương và các đội công tác Lạc Dương, Đơn Dương đánh tiêu hao các Đoàn bình định và bọn bảo an, dân vệ giữ ấp, giữ giao thông trên đường 21 kép, đường 11 và 20.

Tính chung trong 15 ngày đầu tháng 5 năm 1968, các lực lượng ở địa bàn Tuyên Đức đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 1000 tên địch, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 22 và tiêu hao Tiểu đoàn 11 biệt động quân, diệt 2 đại đội bảo an… bắn rơi 2 máy bay, phá hủy 7 xe quân sự, 2 pháo 105 ly, đánh sập 3 cầu, 5 trụ điện cao thế, thu 56 súng, 4 máy PRC10, diệt 23 tề ác, làm lỏng rã nhiều ấp chiến lược trên đường 20, 21, 11 trong đó có một số ấp chuyển lên làm chủ có mức độ.

Cuối tháng 5 năm 1968 địch tăng thêm cho Đà Lạt một tiểu đoàn cộng hòa và một bộ phận lực lượng Mỹ thộc Lữ đoàn 173 dù, có pháo 175 ly; sân bay Cam Ly được tăng cường thêm trực thăng thường trực. Tháng 6 năm 1968 chúng bắt đầu phản kích mạnh ở vùng ven giao thông, nhất là ở trục đường 21 kéo dài. Lực lượng a lúc này đang gặp khó khăn về lương thực, bộ đội phải ăn cháo, rau,… nên sức chiến đấu bị hạn chế, có chỗ đã bị địch lấn lại.

Lâm Đồng, Tiểu đoàn 145 cùng với lực lượng địa phương đánh được một số trận tốt trên đường 20 từ Blao đi Di Linh, gây thiệt hại nặng 4 đại đội địch.

Lực lượng ta ở Ninh Thuận nhiều lần đánh phá ống dẫn dầu từ Ninh Chữ đi Thành Sơn gây cháy 5 triệu lít xăng, pháo kích gây hư hại sân bay Thành Sơn đánh sập 9 cầu trên quốc lộ 1 và 11, 7 lần pháo kích và đánh nhỏ vào các mục tiêu trong thị xã Phan Rang, tập kích vào thị trấn Phú Quý và vũ trang tuyên truyền vào hầu hết các ấp mảng nam của tỉnh. Tuy nhiên, phần lớn các trận đánh chỉ tiêu hao địch, ít có trận đánh diệt gọn.

Nhìn chung trong đợt cao điểm hè 1968, toàn khu mở rộng hoạt động phá kìm giành dân ở các vùng nông thôn, đồng thời cũng giữ được mức vây ép thị xã. Tuy chưa đạt được yêu cầu về tiêu diệt địch, giành dân như mức đã đề ra (mới diệt được 8.545 tên, diệt và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn, 3 đại đội, bắn rơi và phá hủy 29 máy bay, đánh hỏng 70 xe, có 16 xe bọc thép, đánh sập 17 cầu, v.v.(1) Nhưng ta đã giữ và phát triển được thế tấn công và nổi dậy đều hơn, đã làm lỏng rã kìm và đưa lên tranh chấp thêm một số mảng mới ở Bắc Bình, Tuyên Đức, Ninh Thuận một số thị trấn như Chợ Lầu, Phan Rí Cửa, Phú Quý, Di Linh… làm chủ từng thời gian ngắn nhiều đoạn đường số 1, đường 20, đường 11. Rút được thêm thanh niên bổ sung cho lực lượng.

Tuy vậy lực lượng ta có hạn, lại phải hoạt động liên tục, ít có thời gian củng cố, một số nơi gặp nhiều khó khăn về mặt đảm bảo hậu cần, lương thực (Tuyên Đức) nên sức chiến đấu bộ đội bị giảm sút, một số vùng bị địch lấn chiếm lại.


(1) Theo số liệu cơ quan Bộ tham mưu Quân khu VI tổng hợp lúc bấy giờ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #67 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2012, 04:21:50 pm »

Cao điểm thu 1968

Tháng 6 năm 1968, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 7 đã đánh giá: “mặc dù ta còn khuyết nhược điểm nhất định, nhưng sau đợt 2 thế và lực của ta đều mạnh lên, chúng ta đang đứng trước thời có lớn có nhiều điều kiện đánh địch, làm cho chúng bị suy sụp hơn nữa nhằm giành thắng lợi lớn quyết định”.

Hội nghị đã đề ra phương hướng nhiệm vụ tiếp theo: phải làm cho toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân nhận rõ thắng lợi sau hai đợt tấn công và nổi dậy của toàn Miền, nhất là của hướng trọng điểm, nhận rõ thất bại và suy sụp mới của địch, nhanh chóng củng cố, phát triển lực lượng ta, liên tục tấn công và nổi dậy ở đô thị cũng như ở nông thôn tiếp tục đánh địch những cú nặng hơn(1). Hội nghị cũng đề ra chủ trương trước mắt là tiếp tục tấn công và nổi dậy, duy trì hoạt động thường xuyên, liên tục rộng mạnh với phương thức và sử dụng lực lượng thích hợp, đi đôi với tích cực củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, chính trị, tích cực chuẩn bị về mọi mặt cho các đợt lớn hơn.

Tháng 8 năm 1968, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định mở đợt 3 nhằm làm cho địch thua to hơn nữa về các mặt, đạt cho được mục tiêu chiến lược đề ra, giành thắng lợi quyết định về ta.

Ở Khu VI, sau đợt hè, địch ráo riết tăng cường lực lượng để chống trả và phản kích lại ta. Chúng đưa đến Tuyên Đức và Lâm Đồng một tiểu đoàn Mỹ (Tiểu đoàn 3/503), thành lập trung đoàn 53 (thiếu) thuộc Sư đoàn 23 đứng chân ở Ninh Thuận, xây dựng thêm 15 đại đội bảo an cho các tỉnh và bắt đầu ghép các đại đội bảo an thành liên đội. Lực lượng cảnh sát, bình định cũng tăng lên nhiều hơn. Đồng thời phát triển mạnh lực lượng phòng vệ dân sự với nhiệm vụ giữ ấp, để dân vệ và bỏ an cơ động đánh phá bên ngoài. Chúng tăng cường phòng thủ thị xã, hậu cứ, các đường giao thông, khôi phục lại đường sắt Ninh Thuận - Bình Thuận.

Đặc biệt là đẩy mạnh “quét và giữ” ưu tiên ở các vùng ven thị xã, thị trấn. Quanh thị xã Phan Thiết, địch lập “Khu chung cư” có hàng rào với nhiều chướng ngại, hầm hào và được canh gác khá chặt chẽ. Bên trong để bớt không khí ngột ngạt, chúng cho tổ chức rạp hát, chiếu phim, giải trí… để xoa dịu. Địch còn tổ chức chiến dịch “Phượng hoàng đồng tiến” để truy phá cơ sở, ngăn chặn việc thành lập chính quyền cách mạng và các hoạt động tiến công của ta.

Trong âm mưu bình định nắm dân ở các vùng dân tộc, địch tích cực mua chuộc sử dụng đồng bào dân tộc. Ở Tuyên Đức, xuất hiện lực lượng biệt kích người Thượng mang phù hiệu “Nhà Sàn”. Ở Ninh Thuận bọn Fulrô vận động đồng bào Chăm tổ chức “Đêm khóc mất nước” để khơi dậy hận thù dân tộc, đưa thanh niên sang học ở Campuchia và cử người đi họp với Fulrô ở Buôn Ma Thuột.

Chấp hành Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ 7 và chỉ thị hướng dẫn thực hiện của Quân ủy Miền, sau đợt Hè, Quân khu 1 mặt khẩn trương củng cố bộ đội, chuẩn bị cho cao điểm 3; mặt khác tranh thủ đẩy mạnh hoạt động thường xuyên để hỗ trọ phong trào và kìm giữ địch ở vùng ven thị xã.

Ở Bình Thuận, từ giữa tháng 7 năm 1968, Tiểu đoàn 840 và Tiểu đoàn 482, cùng với lực lượng địa phương Thuận Phong đánh ép địch ở đông bắc Phan Thiết gây thiệt hại nặng 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 44, 1 đại đội Mỹ và 4 trung đội dân vệ, bắn rơi 5 trực thăng, giữ được thế tranh chấp làm chủ từ Phú Long - Phước Thiện Xuân đến Tùy Hòa.

 Hướng Tuyên Đức Tiểu đoàn 186 phải lui về phía sau để củng cố, còn Tiểu đoàn 810 và các đội biệt động tiếp tục đánh nhỏ vào một số mục tiêu ở vùng ven và trong Đà Lạt, nhưng không mạnh nên địch đã bung ra đánh phá các bàn đạp.

Ninh Thuận hoạt động trong tháng 7 và đầu tháng 8 năm 1968 khá hơn, vừa đánh vào nội ô Phan Rang, kho xăng dầu và khu nhà Mỹ ở, cảng Ninh Chữ, pháo kích sân bay Thành Sơn, vừa phá kìm giải phóng xã Thương Diêm. Kết hợp vận động với tranh thủ tổ chức học tập chính trị, quân sự, chuẩn bị cho đợt hoạt động sắp tới.

Đầu tháng 8 năm 1968, Hội nghị Khu ủy mở rộng sau khi đánh giá tình hình trong Khu qua 2 đợt tiến công và nổi dậy đã đề ra nhiệm vụ hoạt động đợt 3 (thu 1968) là: Đánh gây thiệt hại nặng đối với cơ quan đầu não, các sân bay, kho xăng, hậu cứ, đánh chiếm một số chi khu, thị trấn, đồn bót, triệt phá các đường giao thông, kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận với đấu tranh vũ trang tiêu hao, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, nhất là ở cơ sở, tạo điều kiện mở rộng vùng giải phóng nông thôn và chuyển phong trào đô thị lên một bước mới. Thời gian cao điểm 3 (đợt thu) được trên ấn định là từ 17 tháng 8 năm 1968 đến cuối tháng 9 năm 1968.

Lúc này, được sự đồng ý của trên, Khu cho sát nhập Bắc Bình vào Bình Thuận, tách các huyện Hàm Tân, Tánh Linh, Hoài Đức ra thành lập tỉnh Bình Tuy (thống nhất theo địa lý hành chính của địch trực thuộc Khu).

Về lực lượng đến tháng 8 năm 1968 Quân khu dược trên bổ sung thêm đơn vị Tiểu đoàn 200c (thiếu) đặc công(2).


(1) Trích Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần tứ 6 (6 năm 1968) lưu trữ mật các bộ phận phía nam Viện Lịch sử quân sự.
(2) Bổ sung cho Khu 1 tiểu đoàn đặc công (Tiểu đoàn 200c) nhưng đi trên đường hành lang Miền điều một đại đội (Đại đội 1).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #68 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2012, 04:22:33 pm »

Mở đầu cao điểm 3, đêm 20 tháng 8 năm 1968 Quân khu sử dụng Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 145 cùng với lực lượng địa phương đánh diệt chi khu và quận lỵ Di Linh, trụ lại đánh phản kích, nhằm hỗ trợ và mở rộng diện phá ấp ở vùng này.

Chi khu Di Linh và các điểm xung quanh là vị trí mạnh và kiên cố, lãnh đạo chỉ huy quyết tâm cao, các đơn vị chiến đấu rất dũng cảm nhưng đánh không dứt điểm. Tiểu đoàn 186 đánh diệt được mục tiêu Chi khu nhưng lại bị hỏa lực tầm cao của Tòa hành chánh khống chế nên không phát triển được. Tiểu đoàn 145 đánh hỏng trận địa pháo binh nhưng không làm chủ được, 2 đại đội đặc công đánh khu công binh Mỹ không gọn. Gần sáng thương vong lại nhiều, không còn đủ sức phát triển và trụ lại đánh phản kích nên phải chuyển ra.

Tuy trận đánh chưa đạt yêu cầu, nhưng về diệt sinh lực và phương tiện địch có tác động lớn. Ta đã diệt 338 tên, đánh hỏng 4 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 5 xe M13 và M41, 9 xe quân sự khác. Đã làm cho hàng ngũ địch ở đây dao động mạnh, địch phải đưa 2 tiểu đoàn cộng hòa ở Tuyên Đức xuống ổn định tình hình.

Ở Tuyên Đức Tiểu đoàn 810 và các đội biệt động tiếp tục bám địa bàn ven Đà Lạt, đánh vào các mục tiêu trong thị xã, 2 lần tập kích hỏa lực gây nhiều thiệt hại cho quân Mỹ đóng ở đồi Nam Thiên, từng lúc cơ động đánh địch trên đoạn đường 20 từ ngã ba Phi Nôm đến Đà Lạt.

Bộ đội địa phương các huyện Đơn Dương, Lạc Dương, Đức Trọng bám đánh địch trên đường 11, đường 21 kéo dài, đường 21 kép. Vũ trang tuyên truyền phát động các ấp dọc đường. Tiểu đoàn 240 từng lúc đánh địch phá kìm ở khu vực Tùng Nghĩa - Phú Hội, nhưng chủ yếu là xây dựng, củng cố đơn vị và chống càn quét ở căn cứ.

Ở Bình Thuận, mở đầu đợt hoạt động Thu, Tiểu đoàn 840, Tiểu đoàn 482 và lực lượng thị xã đánh vào một số ấp chiến lược địch vừa mới củng cố trên vành đai phòng thủ thị xã Phan Thiết.

Đêm 20 tháng 8 năm 1968, Tiểu đoàn 840 tập kích địch ở khu tập trung Xuân Phong nhưng không dứt điểm. Nên chuyển qua bao vây đánh quân đên giải tỏa, gây thiệt hại nặng 1 đại đội Mỹ, diệt 1 xe tăng M41, bắn rơi 1 trực thăng. Ngày 25 tháng 8 năm 1968 Tiểu đoàn 840, Tiểu đoàn 842 cùng các lực lượng địa phương đánh chiếm khu chung cư Chung Chang và trụ lại đánh phản kích suốt ngày với 1 tiểu đoàn cộng hòa và một số đại đội bảo an có quân Mỹ hỗ trợ. Địch dựa vào xe tăng và xe bọc thép xông vào trận địa chốt của ta. Trung đội trưởng Nguyễn Trọng Nghĩa (thuộc Tiểu đoàn 840, sau này được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang) vừa bình tĩnh chỉ huy đơn vị đánh trả địch, vừa một mình bí mật áp sát chiếc xe tăng đi đầu, địch phát hiện định cho xe tăng lao tới nghiền nát anh, nhưng không kịp, một tiếng nổ của thủ pháo và tiếp theo là nhiều tiếng nổ rất đanh của lựu đạn, chiếc xe tăng M41 bị khựng lại và bốc cháy. Bọn bộ binh thấy vậy vội vàng tháo chạy bỏ lại xác xe tăng và nhiều xác lính trước trận địa ta. Qua 1 ngày chiến đấu, ta diệt 350 tên, đánh thiệt hại nặng 3 đại đội (có 1 đại đội Mỹ), bắn rơi 2 máy bay, bắn cháy 1 xe tăng M41; phía ta cũng bị hy sinh 23 đồng chí, bị thương 38 đồng chí.

Cùng lúc các đội đặc công và lực lượng thị xã đột nhập vào Phan Thiết đánh kho xăng, đánh các lô cốt mới xây trên vành đai phòng thủ, pháo kích vào Camp Êsépic phá hủy máy bay, kho tàng, diệt một số lính Mỹ. Bộ đội địa phương và du kích các huyện Hàm Thuận – Thuận Phong quần bám suốt ngày đêm đánh bọn lấn chiếm, tích cực tranh chấp với chúng ở các khu vực Tam Giác, Phú Long, Phước Thiện Xuân, bắc và đông bắc thị xã Phan Thiết. Nhân dân đã phối hợp với lực lượng vũ trang tổ chức diệt ác phá kìm, đấu tranh chính trị, làm binh vận ủng hộ bộ đội, chăm lo thương binh…

Để xây dựng truyền thống đánh thắng trận đầu cho Tiểu đoàn đặc công 200c, đêm ngày 19 tháng 9 năm 1968, Quân khu sử dụng Tiểu đoàn 200c cùng với một số đặc công của Đại đội 5 (Tiểu đoàn 840) làm nòng cốt, và 1 khẩu ĐKZ75, tiến công chi khu Hòa Đa. Sau 40 phút chiến đấu, ta diệt gọn chi khu và quận lỵ Hòa Đa, diệt 300 tên địch, bắt sống 25 tên, thu 40 súng, phá hủy 5 xe quân sự… Trận đánh giành được thắng lợi lớn, gây thối động đối với quân địch trong khu vực, hỗ trợ được phong trào ở mảng Bắc Bình, buộc địch phải đưa lực lượng Nam Bình Thuận ra đối phó. Bộ đã có điện khen chiến công đầu của Tiểu đoàn 200c.

Ninh Thuận pháo kích gây thiệt hại cho sân bay Thành Sơn đánh phá nhiều đoạn ống dẫn dầu của Mỹ từ Ninh Chữ đi Thành Sơn, làm cháy hơn nửa triệu lít xăng, dầu. Tiểu đoàn 610 và bộ đội địa phương huyện, du kích đánh vào các ấp địch bung ra lấn chiếm, đánh vào các thị trấn Phú Quý, Krong Pha, Cà Ná,… và trên các trục đường số 1, 11, giữ được thế tranh chấp với địch; đánh phá nhiều đoạn đường xe lửa Tháp Chàm - Đà Lạt và phối hợp với Bình Thuận đánh phá con đường sắt Bắc - Nam.

Bình Tuy, tuy mới được thành lập nhưng cũng đã cố gắng tham gia hoạt động phối hợp chung trong toàn Khu, đã đánh 51 trận, diệt gần 200 tên địch, thu 13 súng.

Kết quả chung trong đợt hoạt động Thu 1968, toàn Khu đã diệt được 6.250 tên địch, diệt và đánh thiệt hại nặng 10 đại đội, 48 trung đội, 2 đoàn bình định, đánh hỏng 14 xe tăng và xe M41, 3 khẩu pháo 105 và 155 ly, phá sập 53 cầu cống, làm tê liệt và gián đoạn giao thông đường số 1, 20, 11 từ 12 đến 15 ngày. Đường sắt Bắc Nam qua Ninh Thuận, Bình Tuy chưa nối lại được.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #69 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2012, 04:23:18 pm »

Các đợt hoạt động vũ trang của ta đã hỗ trợ cho quần chúng nhiều nơi nổi dậy, giành và giữ quyền làm chủ, đấu tranh cho quyền lợi dân sinh, dân chủ có kết quả. Ninh Thuận có hàng trăm người tổ chức đấu tranh nhập thị, kéo đến ngụy quyền tỉnh phản đối việc gom dân, rào ấp, khủng bố bắt bớ. Tại các xã Thương Diêm, Lạc Nghiệp, Ba Tháp, Mỹ Phong, Mỹ Hòa, Mỹ Thạnh,… trên 3.000 đồng bào đã đấu tranh kiên quyết, kéo dài cả tháng chống địch gom dân, dời làng - buộc địch phải nhượng bộ.

Ở Bình Thuận: hơn 600 người kéo lên quận lỵ tố cáo địch rải chất độc hóa học, đòi bồi thường thiệt hại nhân mạng, hao màu, đòi thả chồng, con, em bị bắt… Ở Lâm Đồng: quần chúng tổ chức được 8 cuộc (có trên 200 người, đa số là đồng bào dân tộc) kéo lên quận lỵ, thị xã đấu tranh đòi thả con em bị bắt lính, đòi nhận xác về chôn cất, chống bắn phá bừa bãi vào thôn ấp, đòi bán muối, gạo. Địch phải cam kết bán muối, gạo và hứa không bắn pháo vào ấp.

Ở các thị xã, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân cũng có bước chuyển biến mới: nơi nào cũng có phong trào đòi được đào hầm chống phi pháo trong nhà, chống lục soát nhà ban đêm, phản đối việc thành lập phòng vệ dân sự, v.v. Đặc biệt từ tháng 12 năm 1968 trở đi nổi lên phong trào công khai bàn tán thời sự, chống Mỹ - Thiệu - Kỳ - Hương, đòi chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình. Quần chúng (kể cả một bộ phận binh lính, nhân viên ngụy quyền) mạnh dạn dùng lý lẽ, đập lại luận điệu tuyên truyền chiến tranh tâm lý của địch. Trong thanh niên học sinh, sinh viên có phong trào chống văn hóa nô dịch, chống lệnh tổng động viên, đòi chủ quyền dân tộc, dưới hình thức mở hội thảo, ra kiến nghị, chuyền thư tay.

Lực lượng tại chỗ được phát triển, một số nơi đã xây dựng được Đảng, Đoàn. Trong đợt hoạt động thu, đã vận động được hơn 500 lính bỏ ngũ, xây dựng bồi dưỡng được một số cơ sở nòng cốt trong binh lính địch.

Ở vùng giải phóng và căn cứ, ta tiến hành hai cuộc vận động chính trị có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Một là cuộc vận động xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, được quần chúng tham gia sôi nổi, có 82 xã và trên 300 thôn ấp với trên 50.000 dân, lập ủy ban cách mạng xã, thôn và chuẩn bị lập chính quyền huyện. Việc này có tác dụng động viên thúc đẩy quần chúng thực hiện tốt các công tác kháng chiến, củng cố nâng cao lòng tin của quần chúng, đồng thời cũng có tác động đối với những người trong hàng ngũ địch.

Cuộc vận động chính trị thứ 2 là tổ chức học tập cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tình hình và nhiệm vụ theo tinh thần của Nghị quyết 6 và Nghị quyết 7 của Trung ương Cục và lời kêu gọi của Bác Hồ nhân ngày 20 tháng 7 năm 1968. Qua học tập đã dấy lên một không khí phấn khởi hồ hởi trong nhân dân khắp nơi hăng hái làm vụ mùa thắng lợi, lo chăn nuôi cải thiện đời sống tốt. Phong trào vệ sinh phòng bệnh, học tập văn hóa cũng dấy lên khá. Đặc biệt là phong trào du kích chiến tranh,xây dựng làng chiến đấu và phòng gian bảo mật. Ở Bình Thuận: du kích các xã Hồng Liêm, Hồng Sơn, Hồng Chính, Hàm Liêm qua một số đợt chống càn và đánh địch trên trục lộ giao thông số 1, sô 8 đã diệt trên 200 tên địch, phá hủy nhiều xe quân sự; du kích các xã phía bắc Hoài Đức đã tích cực bắn máy bay, hạn chế địch rải chất độc hóa học. Du kích Bác Ái, Anh Dũng của Ninh Thuận thay phiên nhau ra phía trước hoạt động. Du kích Lâm Đồng đã bắn rơi được máy bay và chống càn tốt.

Sự đóng góp của nhân dân cũng tăng lên: trong 3 tháng quý 3 năm 1968 toàn Khu thu được 27 triệu đồng (gần bằng số thu của 6 tháng đầu năm), rút được 110 thanh niên bổ sung cho bộ đội và huy động được hàng ngàn dân công phục vụ chiến trường từ 1-3 tháng.

Tóm lại, trong hoạt động Thu 1968, các lực lượng trong Khu đã kiên quyết khắc phục khó khăn, chấp hành mệnh lệnh, giữ và phát huy thế chủ dộng tiến công địch, phối hợp với toàn Miền.

Nhưng do sức ta có hạn, lại phải hoạt động liên tục dài ngày, có những đơn vị bị hao hụt nhưng không được bổ sung. Địch mặc dù bị tổn thất nhiều nhưng vẫn còn điều kiện bù đắp, còn được bọn bên trên hà hơi tiếp sức dể hoạt động “quét và giữ”, nên hoạt động của ta dần dần về sau có bị hạn chế. Mức tiêu hao tiêu diệt địch trong đợt Thu giảm so với đợt Hè (đợt Hè diệt 8545 tên, đợt Thu 6.250 tên). Ta đánh phá làm lỏng rã kìm được hơn 50 khu ấp chiến lược, nhưng lại có những vùng giải phóng bị địch gom xúc dân hoặc bị lấn chiếm trở thành vùng tranh chấp (so với đợt Hè dân vùng căn cứ giải phóng giảm mất 45.000 người và dân vùng tranh chấp tăng lên 44.000 người).

*
*   *

Tóm lại trong thời kỳ giữa năm 1965-1968 nhất là trong cao điểm Mậu Thân, cùng quân và dân toàn Miền và cả nước, quân và dân Khu VI đã trải qua những năm tháng chiến đấu cực kỳ gay go, gian khổ và ác liệt. Kẻ địch có quân số đông, trang bị mạnh, với âm mưu đè bẹp lực lượng ta trong thời gian ngắn bằng cuộc phản công chiến lược “Tìm diệt” và “Bình định”.

Ta mặc dù lực lượng ít lại có nhiều nhược điểm, khó khăn, nhưng trong các năm 1965-1967 đã từng bước ngăn chặn, đánh bại cuộc phản công chiến lược của Mỹ - ngụy và vào thời điểm Xuân Mậu Thân lịch sử đã quyết tâm vươn lên rập ràng với toàn Miền thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (nhất là đối với 2 trọng điểm Phan Thiết và Đà Lạt), tuy còn có nhiều khuyết nhược điểm nên kết quả bị hạn chế, nhưng cũng đã góp phần tích cực vào thắng lợi chung của toàn Miền trong cả nước, đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM