Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:55:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975  (Đọc 77682 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2011, 09:18:20 am »

Với chiến thắng trên, Tiểu đoàn 186 đã được Bộ chỉ huy Miền tặng huân chương Quân công hạng ba. Vậy là tuy lực lượng ta ít, nhưng chất lượng tốt, chiến đấu kiên cường và lãnh đạo chỉ huy có quyết tâm cao, nắm được quy luật địch, phá đoán đúng và tạo ra những yếu tố bất ngờ (trên một trận địa có thể tổ chức đánh địch được nhiều lần) nên đã giành được thắng lợi lớn. Đây cũng là cách đánh về sau được vận dụng có hiệu quả ở các nơi trên chiến trường Quân khu VI.

Sau các trận đánh trên, Tiểu đoàn 186 đã phối hợp với Tiểu đoàn 145 và các lực lượng địa phương tiến công địch liên tục vào các ấp xung quanh Di Linh - Blao, đánh nhỏ trên đường 20 (đoạn giữa Di Linh - Bảo Lộc và Đa Oai đến đèo Bảo Lộc), phá hoại giao thông, pháo kích vào thị xã Bảo Lộc và đánh tiêu hao bọn biệt kích ở Tân Rai. Kết quả đã gây cho địch nhiều tổn thất và lúng túng, nội bộ và nhân dân ta tin tưởng phấn khởi.

Ở Bình Thuận: tại trọng điểm Nam Bình vào đợt Xuân, các lực lượng của tỉnh còn bị sượng, chưa có trận chủ động tiến công nào đáng kể, chỉ đánh nhỏ chống càn quét, tiêu hao địch. Phía Bắc Bình ngày 27 tháng 1 năm 1967 Tiểu đoàn 40 có một bộ phận chống càn quét ở huyện Phan Lý, đã diệt một trung đội biệt kích Mỹ, sát thương ba mươi hai tên. Đêm 19 rạng 20 tháng 2 năm 1967, Tiểu đoàn 840 đã mở màn hoạt động, tập kích vào bọn địch đang dũi ra lấn chiếm vùng giải phóng Tuy Tịnh (huyện Tuy Phong), đánh thiệt hại hai đại đội bảo an và hai đoàn bình định số 8 và số 11. Trận đánh tuy không gọn (do bao vây không chặt), nhưng đã làm bọn địch ở Tuy Phong hoảng sợ đào ngũ, hai đoàn bình định số 8 và số 11 tan rã; số còn lại không dám bung ra hoạt động như trước.

Sau đó Tiểu đoàn 840 phân tán, kết hợp với bộ đội địa phương và đội công tác hoạt động nhỏ, diệt ác, phá kìm, đánh bọn bình định, bao vây bắn tỉa, hỗ trợ cho nhân dân các ấp Phú Điền, Thanh Lương, Hội Tâm, Duồng,… đứng lên phá lỏng, phá rã kìm.

Ngày 10 tháng 3 năm 1967, ta tập kích vào trận địa pháo binh Mỹ (vừa kéo đến đóng dã ngoại ở ngã tư Long Lương (Tuy Phong) để yểm trợ cho bọn bình định lấn chiếm ở khu vực Tuy Tịnh, ga Sông Lõng Song. Diệt 40 tên Mỹ, phá hủy một xe và ba khẩu pháo (105 ly và pháo 175 ly), buộc chúng phải rút bỏ. Đánh địch vận chuyển trên đường số 1, diệt ba xe. Để khắc phục khó khăn trước mắt về thiếu đạn dược, tổ quân giới của tiểu đoàn đã sáng kiến sản xuất ra các loại mìn ĐH10, ĐH20 để có vũ khí chiến đấu liên tục. Tiểu đoàn đã phát động phong trào thi đua diệt Mỹ - ngụy, vận động rộng rãi và sáng tạo nhiều cách đánh (như phục kích đánh mìn, bắn tỉa, bắn máy bay,…) không để cho địch yên. Tổ đồng chí Nguyễn Văn Huấn, tiểu đoàn trưởng trinh sát của tiểu đoàn rất xông xáo táo bạo, luồn sâu đánh mìn, bắn tỉa ở các ấp Tuy Tịnh, Phú Điền làm cho chúng rất hoảng sợ bảo nhau phải coi chừng “thằng ba mắt”(1).

Tính chung trong đợt phân tán đánh nhỏ, lẻ, ta đã sát thương 202 tên, bắt sống 9 tề điệp, 2 dân vệ, phá hủy 3 khẩu pháo, 3 xe quân sự (có 1 xe kéo pháo) và bắn rơi 2 máy bay trực thăng.

Các tỉnh Ninh Thuận, Thuyên Đức cũng phát triển được thế chủ động tiến công. Đêm 3 tháng 2 năm 1967, trong lúc quân Mỹ ở Nam Triều Tiên càn sâu vào các khu căn cứ Anh Dũng, Tương Phúc, thì đội biệt động của Ninh Thuận đã luồn sâu vào Phan Rang, tập kích diệt gần một đại đội quân canh Mỹ, gây chấn động lớn. Đợt đánh địch ở ấp Phương Cựu, khu tập trung xóm Bằng; phục kích trên đường 11, diệt hai trung đội địch, phá hủy 4 xe, đánh sập 1 cầu, v.v.

Tuyên Đức diệt một trung đội thám báo ở ấp Quang Trung, tập kích bọn cố vấn Mỹ ở khách sạn Catina trong Đà Lạt, đánh vào khu kho quân cụ Quyết Tiến diệt trung đội dân vệ. Lực lượng của tỉnh và huyện còn đột đánh địch ở ấp chiến lược An Hòa, Phú Hội, phá lỏng kìm các ấp trên đường 21 kéo dài từ Thanh Bình đi Hoạt (Đức Trọng) và đánh địch vận chuyển trên đường 21 kép (từ Phi Nôm đi Đran).

Trong đợt Xuân 1976, các lực lượng ở phía sau (du kích căn cứ, du kích cơ quan, bộ đội sản xuất, bộ đội hành lang, v.v.) cũng đã tích cực bám đánh địch càn quét và bắn máy bay. Khắp nơi, từ buôn, làng đến cơ quan, đã chuẩn bị được tư thế sẵn sàng chiến đấu, nên khi địch càn đến đã chủ động đối phó, có bộ phận bám đánh địch có bộ phận lo di chuyển cơ quan, hướng dẫn dân tránh lánh. Nhờ đó đã tiêu hao được địch, bắn rơi được máy bay, hạn chế được quân Mỹ đổ quân lùng sục, rải chất độc hóa học, bảo vệ được dân, bảo vệ được kho tàng, hành lang sản xuất. Trong đợt càn quét ác liệt của địch từ giữa tháng 1 đến tháng 3 năm 1967, riêng du kích và lực lượng phía sau đã sát thương gần 1.500 tên Mỹ, chư hầu và quân ngụy, bắn rơi 20 máy bay, phá hủy 5 khẩu pháo 105 và 155 ly, 5 xe M113, giữ vững hầu hết các địa bàn căn cứ của Khu, tỉnh, huyện. Đã xuất hiện một số khu căn cứ du kích kiên cố, là những pháo đài chống Mỹ mà địch không thể lấn chiếm hoặc hủy diệt được (như căn cứ du Bác Ái Đông, nằm sát căn cứ không quân Thành Sơn). Ở đây, để bảo đảm an toàn cho sân bay quân Mỹ và Nam Triều Tiên, đã nhiều lần địch càn quét đánh phá ác liệt bằng bộ binh, bằng phi pháo và hóa học nhưng chúng đều bị thất bại. Đồng bào dân tộc Raglây ở đây đã trở thành một tập thể anh hùng kiên cường bất khuất, kiên quyết bám trụ núi rừng, đánh trả địch bằng mọi cách để bảo tồn mình cho đến khi giành thắng lợi hoàn toàn. Đặc biệt, phong trào bắn máy bay ở đây đã trở thành phong trào quần chúng, ông già, phụ nữ, trẻ em đều tranh nhau bắn máy bay địch và bắn rất giỏi, tiết kiệm từng viên đạn. Chẳng hạn như ông già Đuông đã bắn rơi 1 máy bay phản lực; như chị Tháp, chị Bui cũng bắn rơi máy bay phản lực; như em Hoài cũng hạ 1 máy bay phản lực(2).

Cũng trong đợt càn quét có tính chất hủy diệt này, trong mười bốn ngày đêm, quân và dân Bác Ái đã anh dũng đánh trả địch, đánh cả trong lẫn ngoài, bẻ gẫy cuộc càn của chúng; ta không một ai thương vong, một ai bị bắt; trái lại còn bắn rơi tại chỗ 42 máy bay các loại của địch. Đây là một cuộc chiến công kỳ diệu, được Bộ chỉ huy Miền nhiệt liệt biểu dương khen thưởng.


(1) Vì ở gần mí mắt đồng chí có thêm một cái sẹo sâu do vết thương nên được gọi là “thắng ba mắt”.
(2) “Báo cáo về xây dựng căn cứ địa và phát triển chiến tranh du kích ở huyện Bác Ái” tỉnh Ninh Thuận.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2011, 09:18:58 am »

Căn cứ Lê Hồng Phong (gọi là khu Lê) nằm ở đồng bằng ven biển Bình Thuận, nằm giữa tuyến đường số 1, đường sắt và bở biển, là căn cứ cực nam Trung Bộ trong thời kháng chiến chống Pháp, có truyền thống kiên cường, bất khuất. Bao lần địch đánh phá chà xát cả bằng B52, chất độc hóa học để hủy diệt, nhưng nhân dân vùng đất kiên trung này vẫn đứng vững luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu; từ ăn ngủ, sinh hoạt, hội họp, chăn nuôi heo gà, trâu bò đều ở dưới hầm. Việc bố trí chiến đấu, canh gác ngày đêm, kết hợp với sản xuất đều có kế hoạch chu đáo. Nên bất cứ lúc nào địch vào cũng phát hiện. Vào xuân 1967 đã đánh gãy cuộc càn của sáu tiểu đoàn địch (đại bộ phận là quân Mỹ và Nam Triều Tiên), có cả xe M113, không quân, pháo mặt đất, pháo hạm ngoài biển yểm trợ tối đa. Ta diệt 230 tên, phá hủy 2 xe M.113, bắn rơi 2 máy bay.

Ở vùng tranh chấp, vùng ven và trong các thị xã, thị trấn nổi lên phong trào: du kích mật kết hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích tạo thành một diện tiến công địch rộng rãi, thường xuyên hỗ trợ cho phong trào chính trị của quần chúng, buộc địch phải luôn luôn đối phó và không ổn định. Nổi nhất là phong trào du kích Hồng Thái, Hồng Liêm, Hàm Chính, Hàm Liêm, Hàm Đức (của Bình Thuận), phong trào du kích K3, K9 (của Lâm Đồng), phong trào du kích vùng 2 (của Ninh Thuận), v.v. Đặc biệt phong trào du kích vùng Tam Giác (huyện Hàm Thuận) đã được khôi phục và chuyển lên, cán bộ, đảng viên du kích bám địa bàn ấp xã, lãnh đạo quần chúng đấu tranh ba mũi, hình thành các vành đai du kích, bao vây các chốt Mỹ ở Bà Gò, Bàu Gia… từng bước vây lấn địch, diệt và khống chế bọn tề điệp. Do vậy, mặc dầu địch sử dụng cả quân Mỹ và quân ngụy vẫn không bình định được.

Phía bắc Bình Thuận: ngày 5 tháng 4 năm 1967, Đại đội 2 (Tiểu đoàn 840) dựa vào trận địa có công sự vững chắc, bám trụ ở tây ấp Tuy Tịnh, chiến đấu với một tiểu đoàn Cộng hòa đi càn quét từ 09 giờ sáng đến 19 giờ tối mới dứt tiếng súng. Đến trưa, chúng bị tổn thất nặng phải kêu cứu. Sau đó, một đại đội kỵ binh không vận Mỹ từ Phan Thiết ra tăng viện. Dùng trực thăng liên tục bắn và thả cối, phản lực đến giội bom vào trận địa ta để yểm trợ cho bộ binh tiến công. Nhưng các lần tiến công đều bị đánh bật ra. Đến chiều tối, chúng đành phải bỏ xác chết lại trận địa và rút lui. Trong đêm, pháo 155 ly từ căn cứ sông Mao liên tiếp bắn vào trận địa ta và hai lần B57 đến cắt bom. Ta đã đánh thiệt hại nặng 2 đại đội Cộng hòa, 1 đại đội Mỹ, sát thương 287 tên, bắn rơi 7 trực thăng, thu 25 súng gồm đại liên, trung liên, M79… ta hy sinh 8 đồng chí và bị thương 25 đồng chí.

Đây là thất bại đầu tiên của một tiểu đoàn cộng hòa và một đại đội kỵ binh không vận Mỹ trên chiến trường Bắc Bình Thuận, có cả các loại phản lực và pháo binh, trực thăng, yểm trợ tối đa với một lực lượng, đông hơn ta gáp nhiều lần. Và đây cũng là lần đầu tiên Đại đội 2 (Tiểu đoàn 840) dựa vào công sự, có giao thông hào trên một địa hình không lấy gì làm ưu thế lắm (rừng chồi thưa, hơi mấp mô, gần ấp chiến lược) nhưng đã chiến đấu rất ngoan cường, giữ vững được trận địa và tiêu diệt địch tại công sự. Từ đồng chí nuôi quân, y tá, quân khí viên đều tham gia chiến đấu, lấy súng địch đánh địch, giữ trận địa. Có lần, một trung đội bộ binh địch liều lĩnh chiếm một đoạn giao thông hào ở trận địa ta, đại đội trưởng Lê Văn Long và chính trị viên Nguyễn Hữu Sạt đã chỉ huy đánh bật địch ra khỏi công sự, diệt tại chỗ nhiều tên và khôi phục lại trận địa. Đặc biệt đã biểu hiện tinh thần tiết kiệm đạn dược, lấy súng địch đánh địch, chờ địch đến gần mới bắn, bắn từng loạt ngắn hai, ba viên để dành đạn đánh địch trong suốt cả ngày.

Trận đánh này có ý nghĩa mở ra khả năng ta trụ đánh địch dưới tầm phi pháo địch ác liệt. Các lực lượng của Quân khu và tỉnh đã vận dụng kinh nghiệm này cho các trận sau đó (trận Hàm Phú - Đồi Trúc).

Ngày 13 tháng 5 năm 1967, Tiểu đoàn 740 lại tập kích đánh thiệt hại nặng Đại đội biệt kích Lương Sơn, Đại đội 118 bảo an và một đoàn bình định ở ấp Châu Hanh; làm cho binh lính và bọn bình định còn lại ở đấy dao động, bỏ ấp chạy về quận. Trong chiến đấu, nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng và hiên ngang trước kẻ thù, phát huy được chủ nghĩa anh hùng cách mạng “Sống oanh liệt, chết vẻ vang” gây được ảnh hưởng tốt trong đồng bào Chăm (thuộc huyện Phan Lý, Bắc Bình. Sau trận này, đồng bào đã đấu tranh đòi địch bồi thường thiệt hại về trâu bò, nhà cửa…

Ở Lâm Đồng đêm ngày 25 tháng 5 năm 1967, Tiểu đoàn 186 đã tập kích vào lực lượng biệt kích Tân Rai đang dừng chân tại đồi Nguyễn Khánh (đồi núi ở ConxàĐờn), diệt gần hai đại đội biệt kích và hai trung đội thám báo, thu vũ khí. Sau trận này, số còn lại đã rã ngũ phần lớn. Cùng trong thời gian này, Tiểu đoàn 145 tập kích Tiểu đoàn 23 biệt động quân tại ấp Tân Bùi, diệt gần một trăm tên… Cùng những trận đánh nói trên, ta mở thêm nhiều ấp trên đường 20 sát thị xã Blao và thị trấn Di Linh.

Ở Bình Thuận: mặc dầu địch ra sức bình định trọng điểm, ta vẫn giữ được thế tranh chấp mạnh ở khu Tam Giác và Thuận Phong, đưa lên tranh chấp và làm lỏng kìm thêm một số mảng ở Bắc Bình, kiểm soát được đoạn đường số 1 từ Phan Thiết đi Hàm Tân, từng lúc làm gián đoạn từ đông bắc Phan Thiết đi Ninh Thuận. Tuyên Đức đã mở diện làm chủ ở mức độ ở nhiều ấp trên đường 21 kéo dài, đường 20 và đường 11. Ninh Thuận cũng mở thêm một số ấp tranh chấp ở mảng nam của tỉnh và làm lỏng kìm thêm một số ấp ở vùng sâu.

Trong ba tháng đầu năm 1967, bằng thủ đoạn càn quét, đánh phá ác liệt, dai dẳng, kết hợp với gián điệp, chiến tranh tâm lý, hù dọa, mua chuộc, địch đã gom xúc được 3.000 dân ở vùng giải phóng. Lực lượng ta về mặt bảo đảm vật chất, trang bị còn hạn chế; chưa bẻ gãy được chiến thuật tập kích bằng trực thăng đổ chụp của địch. Phong trào chính trị chính trị, binh vận chuyển lên không đều.

Đó là những khó khăn của ta khi phải đối đầu với tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực quân sự và kinh tế mạnh, lại cực kỳ ngoan cố, tàn bạo và xảo quyệt.
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:19:38 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2011, 09:19:31 am »

III. ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TIẾN CÔNG MÙA KHÔ
TRONG ĐÔNG - XUÂN 1967-1968
GIÀNH THẮNG LỢI LỚN TRONG QUÂN KHU

Do bị thất bại nặng trong cuộc phản công mùa khô lần thứ hai trên toàn Miền, lại bị các lực lượng vũ trang và nhân dân trong Khu liên tục tiến công, nên quân địch bắt đầu co lại, quân Mỹ rút bỏ một số chốt và cứ điểm ở vùng Tam Giác - Bình Thuận (8 năm 1967), nhịp độ càn quét vào vùng giáp ranh và sâu vào căn cứ có giảm.

Về ta, tuy đã giành thắng lợi trong Đông Xuân 1966-1967, nhưng phong trào chiến tranh du kích phát triển chưa đều, đấu tranh chính trị, binh vận còn yếu. Về quân sự, trình độ đánh tiêu diệt còn thấp, chưa đối phó có hiệu quả với chiến thuật tập kích bằng trực thăng đổ chụp của quân Mỹ.

Tháng 5 năm 1967, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 đề ra nhiệm vụ quân sự cho toàn Miền là: “… ra sức phát huy thắng lợi, khắc phục mọi khó khăn, khuyết điểm, mở ra một cao trào mới của chiến tranh nhân dân, đẩy mạnh chủ động tiến công và phản công liên tục của các thứ quân, tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực Mỹ - ngụy và chư hầu… đẩy địch vào thế bị động phòng ngự nghiêm trọng hơn, xây dựng ba thứ quân lớn mạnh để theo kịp đòi hỏi tình hình; tạo điều kiện giành thắng lợi ngày càng lớn, tiến lên tổng tiến công và nổi dậy thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương”. Quán triệt và thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương và Trung ương Cục, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy đã đề ra nhiệm vụ quân sự trong năm 1967-1968 là: “… ra sức động viên quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, tăng cường đoàn kết, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh tiến lên mạnh mẽ. Đồng thời phải nâng trình độ tác chiến tập trung lên tới quy mô thích hợp, để đáp ứng được yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới… Tích cực đánh phá vùng kiểm soát của địch, giải phóng nông thôn còn lại, đẩy mạnh phong trào thị xã, thị trấn lên, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng căn cứ… Trước mắt, đập tan kế hoạch mùa khô sắp tới của chúng, đồng thời xây dựng mình trưởng thành nhanh chóng, làm thay đổi tương quan có lợi cho ta, tạo cơ sở vững chắc tiến lên cùng toàn Miền đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong mọi tình huống”.

Nghị quyết còn nhấn mạnh: Về tác chiến còn hai vấn đề lớn cần tập trung giải quyết lúc này là đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm “bình định” của Mỹ - ngụy, phải diệt đại bộ phận quân ngụy và đánh gãy cho được chiến thuật trực thăng vận của Mỹ.

Suốt mùa hè 1967, các địa phương vẫn liên tục hoạt động cho đến đầu mùa mưa. Bình Thuận đã khôi phục lại được thế tiến công của Tiểu đoàn 482 và bộ đội địa phương huyện, thị xã; đã tiến công tiêu diệt một số đại đội, trung đội cộng hòa, bảo an, dân vệ ngay tại vùng sâu Tam Giác, Xuân Phong, Tân Điền, Cầu Bến Lội, Tùy Hòa, Ngã Hai, Gò Bồi, Văn Mỹ; buộc địch phải rút bỏ một số cứ điểm của Mỹ ở vòng ngoài như: Nỗng Kàtang, Núi Một… co về lo phòng thủ bên trong.

Ở Bắc Bình, Tiểu đoàn 840 với lực lượng địa phương, du kích hoạt động từ Tuy Phong đến Hòa Đa, Phan Lý đã diệt hai đại đội và ba trung đội bảo an, một trung đội dân vệ, căng kéo địch chi viện cho nam Bình Thuận.

Ninh Thuận mùa mưa năm 1967 lại ghi thêm một số chiến công nữa của quân và dân Bác Ái. Trong hai ngày 9 và 10 tháng 6, Bác Ái Đông đã đánh gãy bốn lượt trực thăng đổ quân tập kích vào thẳng căn cứ. Riêng trận ngày 10 tháng 6 đã bắn rơi 5 máy bay (4 trực thăng 1 L19), bắn bị thương 4 chiếc khác, đánh bại thảm hại cuộc đổ bộ của 47 trực thăng có sự yểm trợ của phản lực oanh kích.

Từ ngày 24 tháng 6 đến 2 tháng 7 năm 1967, Bác Ái lại tiếp tục đánh bại hoàn toàn cuộc đổ quân càn quét của trên 4.000 quân Mỹ và Nam Triều Tiên với hàng trăm lượt phi cơ, hàng chục đại bác yểm trợ; đã diệt 170 tên, làm bị thương 333 tên (phần lớn bằng vũ khí thô sơ, hầm chông, cạm bẫy); bắn rơi 30 máy bay các loại và bắn bị thương 10 chiếc khác. Ở đồng bằng Ninh Thuận, để chi viện cho du kích Bác Ái, ta đã đánh phá ống dẫn dầu từ cảng Ninh Chữ về sân bay Thành Sơn, diệt ác phá kìm ở những ấp: Phương Cựu, La Chữ, Thái Giao, Từ Tâm.

Cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1967, toàn quân khu mở đợt đồng loạt phá cuộc bầu cử tổng thống và hạ nghị viện của ngụy; nhiều cuộc vũ trang tuyên truyền tán phát truyền đơn, căng biểu ngữ mở mít tinh vạch tội ác giặc Mỹ và tay sai, vạch âm mưu bầu cử bịp bợm đã diễn ra khắp nơi. Đồng thời đột nhập đánh địch ở vùng sâu, nhất là trong ngày bầu cử, đễ hỗ trợ cho phong trào. Nhân dân nhiều nơi đã đồng tình hưởng ứng; nhất là thị xã Đà Lạt và các vùng phụ cận (Di Linh, Tuy Phong, Hòa Đa, Thuận Phong, Hàm Thuận) nhiều lần đã lấy cớ tình hình không có an ninh để không chịu đi bỏ phiếu hoặc làm bôi bác lấy lệ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2011, 09:22:14 am »

Hạ tuần tháng 10 năm 1967, quân khu mở hội nghị học tập chính trị(1) cho cán bộ trung, cao cấp toàn quân khu, do Thường vụ Khu ủy chủ trì, nhằm quán triệt Nghị quyết tháng 5 năm 1967 của Trung ương Cục.

Cuộc chỉnh huấn chính trị lần này có sức động viên tư tưởng mạnh mẽ sâu sắc: khí thế “Sức mạnh Phù Đổng”, “Cơ hội một ngày bằng 20 năm”, “Sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp Cách mạng”; - nhằm đảm bảo cho toàn quân vươn lên đẩy mạnh tiến công địch, giành thắng lợi quyết định, trước mắt là giành thắng lợi lớn trong Đông Xuân 1967-1967. Những lời phát biểu đầy tâm huyết của các đơn vị chủ lực quân khu (trước Thường vụ Khu ủy - Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu) đều thể hiện rõ quyết tâm thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của đơn vị mình.

Cùng với việc trên, toàn quân khu cũng tổ chức học tập trong cán bộ và tuyên truyền giáo dục trong nhân dân về tình hình và nhiệm vụ mới.

Liền sau hội nghị này, các đơn vị vừa triển khai chỉnh huấn chính trị cho cán bộ và chiến sĩ vừa khẩn trương chuẩn bị chiến trường về mọi mặt để bước vào hoạt động. Hai vấn đề lớn lúc bấy giờ đặt ra cho trọng điểm Bình Thuận là phải đánh cho được bọn bung ra càn quét, lấn chiếm, giải tỏa giao thông và đánh gãy cho được chiến thuật “trực thăng đổ chụp” của quân Mỹ. Quân khu quyết định chuyển tiểu đoàn 840 từ Bắc Bình vào đứng hoạt động ở nam Bình Thuận.

Lúc này ở hướng đông bắc Phan Thiết, địch đang bung ra càn quét hai bên quốc lộ 1, đường sắt, triển khai xây dựng cứ điểm hành quân Bàu Ốc (cách Phan Thiết 34 ki-lô-mét) để làm nơi tung quân ra càn quét, đánh vào các căn cứ du kích, giải tỏa giao thông trên đoạn đường số 1 và đường sắt từ Phan Thiết đi Ninh Thuận.

Quân khu hạ quyết tâm: phải đánh gãy ý đồ của địch ngay từ đầu, giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 840 chuẩn bị trận đánh tiêu diệt cứ điểm hành quân Bàu Ốc ngay trong khi chúng còn đang xây dựng và tập kết quân.

Sau hơn một tuần chuẩn bị các mặt và phương án tác chiến đã được xác định, Quân khu tăng cường thêm lực lượng phối thuộc chiến đấu (đại đội 450 bộ đội địa phương Thuận Phong làm lực lượng dự bị và lực lượng phục vụ)(2), bổ sung thêm vũ khí, đạn dược khá đầy đủ.

Đêm 7 rạng ngày 8 tháng 11 năm 1967, lực lượng ta từ các hướng, các mũi đồng loạt tập kích vào các cụm cứ điểm hành quân đối ngoại hỗn hợp Mỹ - ngụy ở Bàu Ốc. Sau bốn mươi lăm phút chiến đấu quyết liệt, bằng các mũi thọc sâu, ta đã đánh dứt điểm, làm chủ chiến trường và thu vũ khí. Lực lượng ở đây gồm tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 44 Sư đoàn 23), một chi đoàn tăng thiết giáp, một đại đội công binh Mỹ, một đại đội bảo an, hai đại đội biệt kích Lương Sơn, hai trung đội thám báo và một số đơn vị khác thuộc vùng chiến thuật 2 (mới hành quân đến chiều tối ngày 7 tháng 11 để hôm sau cùng hành quân càn quét). Số địch bị diệt gần 700 tên. Hầu hết các đơn vị địch đã bị diệt hoặc đánh thiệt hại nặng. 47 xe quân sự bị bắn cháy và phá hủy trong đó một chi đoàn xe bọc thép bị diệt gọn), 4 máy bay trực thăng bị bắn rơi. Địch buộc phải bỏ kế hoạch càn quét và rút bỏ luôn cứ điểm hành quân dã chiến Bàu Ốc.

Trận mở màn Đông Xuân 1967-1968 thắng lợi ở Bình Thuận đã có tác dụng thối động mạnh đối với hàng ngũ địch và phong trào quần chúng trong Quân khu.

Đây cũng là trận đánh tốt, không những thể thiện được khí thế của cán bộ, chiến sĩ qua chỉnh huấn chính trị, mà còn thể hiện sự tiến bộ của tổ chức và chỉ huy chiến đấu(3). Lực lượng chiến đấu được tổ chức thành nhiều mũi đột kích mạnh, trang bị gọn nhẹ (gồm AK, RBD, thủ pháo, lựu đạn, B40 - B41, mìn ĐH 10 - ĐH 20) để đủ sức đánh địch co cụm với số lượng đông dày đặc, mà ta phải đột kích liên tục từ ngoài vào trung tâm. Không có hỏa lực của cấp trên chi viện, Tiểu đoàn tổ chức trận địa hỏa lực gồm hai khẩu cối 82 ly, hai ĐKZ 75 ly, hai đại liên; đã hợp đồng với du kích tổ chức các tổ bắn máy bay bằng trung liên và súng trường từ Phan Thiết lên và khống chế các bãi đổ trực thăng xung quanh.

Trận đánh diễn ra hoàn toàn chủ động và bất ngờ. Ta đánh nhanh, diệt gọn. Sau khi dứt tiếng súng, ta làm chủ và thu dọn. 15 phút sau từng tốp trực thăng Mỹ từ Camp Êsépic theo đường số 1 bay ra, đã hối hả rải đạn pháo và bắn xối xả ngay xuống trận địa, không cần quần đảo quan sát. Đây là lối “Yểm trợ tối đa” của kỵ binh không vận Mỹ khi biết đồng minh của chúng đã bị tiêu diệt.

Chiến thắng Bàu Ốc đã làm nức lòng quân, dân Bình Thuận và cực nam Trung Bộ; đã được bộ chỉ huy Miền nhiệt liệt khen ngợi và tặng thưởng huân chương Quân công hạng hai. Nhiều cán bộ, chiến sĩ được Bộ Tư lệnh quân khu tặng thưởng huân chương Chiến công.

Với tinh thần chiến đấu liên tục và thừa thắng, Quân khu chỉ đạo thực hiện kế hoạch đánh phá chiến thuật “trực thăng đổ chụp” của quân Mỹ ở chiến trường Hàm Thuận (trận Phú Sơn). Lực lượng sử dụng cho đợt hoạt động gồm Tiểu đoàn 482 và một đại đội tăng cường của Tiểu đoàn 840, Đại đội 430 bộ đội địa phương huyện Hàm Thuận và du kích xã Hàm Phú do Ban chỉ huy tiền phương tỉnh trực tiếp chỉ huy(4).


(1) Tại Sở chỉ huy quân khu “Đồi 400” ở về phía tây bắc Bình Thuận.
(2) Cán bộ chiến sĩ khung nhà trường Quân chính Quân khu và lực lượng sản xuất phía sau.
(3) Tiểu đoàn trưởng Lê Du, chính trị viên Võ Đắc Nhi.
(4) Đồng chí Phạm Văn Kha, tỉnh đội trưởng và đồng chí Lê Văn Hiền chính trị viên tỉnh đội Bình Thuận chỉ huy với sự tham gia của đồng chí Phan Văn Hược, chủ nhiệm chính trị Quân khu và đồng chí Dương Thước Tường, tham mưu phó Quân khu.
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:20:07 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2011, 09:22:53 am »

Theo kế hoạch ngày 22 tháng 11 năm 1967, Tiểu đoàn 482 và Đại đội 430 phục kích đánh chi đoàn tăng trên đường số 8 (đoạn phía bắc Ma Lâm); đại đội tăng cường của Tiểu đoàn 840 bố trí đánh trực thăng đổ chụp chặn đường lui của quân ta tại Phú Sơn (Hàm Phú); nhưng chi đoàn tăng không đi. Ta kiên trì ém phục và tổ chức nghi binh. Ngày 23 tháng 11 năm 1967 Tiểu đoàn 3 kỵ binh không vận Mỹ đã mắc mưu, hung hăng đổ quân xuống Phú Sơn nơi ta đã tổ chức trận địa sẵn.

Với kinh nghiệm đánh Mỹ đã có với quyết tâm và lòng tự tin, toàn đơn vị đã nổ súng chiến đấu kiên cường, đánh gãy nhiều đợt trực thăng đổ quân tập kích của địch cả phía trước và phía sau. Cứ sau mỗi đợt bị thất bại, chúng lại lui ra dùng nhiều tốp trực thăng và phản lực thả bom, thả đạn cối, bắn rốc két vào trận địa ta, rồi lại đổ quân thêm xông lên, nhưng đều bị ta đánh trả quyết liệt, đến chiều tối phải rút lui. Ta đã diệt gọn một đại đội Mỹ, đánh thiệt hại nặng một đại đội Mỹ khác và một đại đội ngụy, diệt tại chỗ 180 tên, bắn rơi 8 máy bay trực thăng. Ta hy sinh ba đồng chí.

Vậy là trên chiến trường Bình Thuận, ta đã đánh thắng liên tiếp một trận với đối tượng là kỵ binh không vận Mỹ (trận trước, ngày 5 tháng 4 năm 1967 ở Tuy Tịnh). Qua thắng lợi này bộ đội ta rất phấn khởi, tin tưởng ở khả năng đánh Mỹ và thắng Mỹ. Tuy vận, vẫy còn bộc lộ chỗ yếu là có bộ phận ta chưa thật dũng mãnh xung phong xuất kích diệt địch trước trận địa.

Phát huy thắng lợi, sau trận Phú Sơn, lực lượng ta phát triển chiến đấu xuống vùng tam giác và tiếp tục câu nhử đánh quân Mỹ “đổ chụp”.

Tuy bị đánh đau, có dè dặt, thận trọng hơn, nhưng với tính cuồng vọng, ỷ vào sức mạnh binh khí, kỹ thuật, vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 9 tháng 12 năm 1967, trực thăng không vận Mỹ lại đổ quân xuống đồi Trúc (đỉnh núi bắc Hàm Thuận) để chiếm cao điểm rồi đánh xuống các đơn vị đóng quân bên dưới. Nhưng không ngờ chúng lại sa vào trận địa cảnh giới của trung đội 3 (đại đoàn 3, Tiểu đoàn 840). Thế là trận chiến đấu xảy ra quyết liệt, gần một đại đội bị diệt và 4 trực thăng bị bắn rơi. Ta hy sinh 8 bị thương 6 đồng chí.

Hai trận đánh Mỹ ở Phú Sơn và đồi Trúc tuy quy mô không lớn, nưng bước đầu đã đánh gãy được chiến thuật “trực thăng đổ chụp” của quân kỵ binh không vận Mỹ, khiến chúng không còn dám nghênh ngang như trước. Các loại trực thăng “cán gáo” cũng không còn tự do lùng sục khắp mọi nơi. Tình hình đó đã làm cho quân ngụy bắt đầu co lại, thuận lợi cho các lực lượng vũ trang và chính trị ở địa phương bám sát địa bàn phá ấp, giành dân, mở vùng.

Cùng thời gian này, ở Lâm Đồng, Tiểu đoàn 145 và các lực lượng địa phương tiếp tục đánh địch, mở phong trào xung quanh Blao và trên trục đường 20 từ đông Blao đến tây Di Linh. Tháng 12 năm 1967 lại chặn đánh quân Mỹ đi càn quét để ngăn chặn hành lang qua đường 20 của ta.

Tiểu đoàn 186 phát triển về phía đông Di Linh lên vùng Tà In - La Hoan của Tuyên Đức. Đây là vùng giếp giáp với bốn tỉnh (Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận) lâu này còn nằm trong sự kiểm soát của địch. Tháng 11 năm 1967 Tiểu đoàn đã cùng với lực lượng địa phương K3, đánh diệt 3 đại đội bảo an, đánh thiệt hại nặng hai đại đội cộng hòa, bắn rơi ba trực thăng, mở ra một số ấp lõm kìm và tranh chấp như: Động Bò, Phú Hiệp, Tam Bố, v.v.

Đêm 8 tháng 12 năm 1967, Tiểu đoàn 186 lại tập kích đồn Tà In (đồn bảo an có từ thời Pháp, khống chế phần lớn khu vực này). Sau mười lăm phút chiến đấu, ta diệt hoàn toàn bọn bảo an chốt giữ đồn, thu toàn bộ vũ khí, bắt sáu tù binh, phá hủy đồn. Ngày hôm sau, địch cho trực thăng chở bọn sĩ quan tham mưu, có cả cố vẫn Mỹ và một trung đội trinh sát của tiểu khu xuống thị sát; lại bị Tiểu đoàn 186 bao vây tiêu diệt gần hết, bắn rơi hai trực thăng.

Sau đó tiểu đoàn tiếp tục bám lại khu vực K67, cùng với đội công tác phát động quần chúng xây dựng vùng giải phóng. Tháng 1 năm 1968, quân Mỹ đổ quân càn quét, lại bị đánh làm thiệt hại một đại đội, bắn rơi 4 trực thăng, buộc phải rút bỏ cuộc càn. K67 được giải phóng mở ra một bàn đạp mới và đường hành lang ở khu vực này, tạo thuận lợi để tiến vào vùng sâu, vùng yếu của Tuyên Đức.

Ở Ninh Thuận và Bắc Bình, các lực lượng tỉnh huyện và du kích đã đột ấp đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ, phá ấp, phá kìm, đánh bọn bung xia lấn chiếm bình định, nhất là mở các bàn đạp và thị xã, thị trấn.

Trong năm 1967, ta đánh tốt nhưng việc tuyển tân binh tại địa phương đạt thấp (cả năm 1967 toàn Quân khu chỉ tuyển được 200 tân binh) nhưng nhờ được Bộ. bổ sung cho 814 cán bộ và chiến sĩ nên quân số có tăng thêm so với cuối năm 1966.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2011, 09:24:10 am »

Để hỗ trợ cho phong trào chiến tranh nhân dân địa phương phát triển, khắc phục tình trạng bất đồng đều giữa các chiến trường, Quân khu đã ưu tiên bổ sung quân số cho bộ đội tỉnh, huyện. Năm 1967 ngoài việc chuyển Tiểu đoàn 145 của Quân khu thành bộ đội địa phương tỉnh Lâm Đồng, bổ sung Tiểu đoàn 610 (miền Bắc mới vào) cho tỉnh Ninh Thuận và xây dựng bộ đội địa phương huyện, thị được 12 đại đội và 19 trung đội. Quân khu còn chú trọng phát triển các phân đội đặc công, biệt động, công binh và bộ đội nữ. Lực lượng từ Quân khu đến tỉnh, huyện được nâng cao thêm chất lượng chiến đấu để khắc phục sự thiếu hụt về số lượng.

Lực lượng du kích so với thời kỳ cao nhất là giữa năm 1966 không giảm, nhưng có lúc bị xáo trộn do trải qua đấu tranh giằng co ác liệt, một số du kích mật phải chuyển ra địa hình, một số phải theo dân chuyển từ nơi này qua nơi khác.

Phần lớn cán bộ các cấp, các ngành được học tập, tập huấn, bồi dưỡng về tình hình nhiệm vụ, về âm mưu, thủ đoạn của địch, học tập tư tưởng và tác phong chiến đấu, các hình thức chiến thuật, v.v. Các trường Quân chính của Quân khu, của tỉnh tiếp tục bổ túc và đào tạo cán bộ từ đại đội, trung đội, tiểu đội, cán bộ thôn xã, cán bộ sơ cấp thuộc ngành hậu cần. Quân khu còn mở hội nghị du kích chiến tranh, hội nghị tổng kết công tác vùng sau lưng địch.

Trong năm 1967, Kinh tài và Hậu cần Quân khu tỉnh đã mở được cửa khẩu trên đường 20, đường số một để rút hàng từ vùng địch ra. Nhờ đó đã giải quyết được những nhu cầu về lương thực, thuốc men, muối vải - và một số nhu yếu phẩm khác cho các lực lượng vũ trang và cơ quan dân chính Đảng trong toàn khu.

Giữ vững tuyến hành lang vận tải của Đoàn H.50 Quân khu

Vào những năm đầuu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Khu VI, việc trang bị vũ khí, khí tài cho các lực lượng chủ yếu giải quyết bằng đánh lấy của địch và tự sản xuất một phần (các loại mìn, lựu đạn, đạn và quân cụ…); nhưng sau này do tình hình phát triển nên đòi hỏi phải tổ chức việc tiếp nhận sự chi viện của miền Bắc về vũ khí, đạn dược qua con đường hành lang chiến lược Bắc - Nam.

Vì vậy tháng 4 năm 1967, Quân khu quyết định tổ chức đoàn vận tải H.50 để đáp ứng nhu cầu phục vụ chiến trường, giữ vững tuyến hành lang chiến lược từ biên giới qua tỉnh Phước Long, chuyển hàng và đưa người về khu, tỏa đi các tỉnh và ngược lại.

Đây là một tuyến đường xuyên qua rừng núi dài trên ba trăm ki-lô-mét, phải vượt qua nhiều sông suối, đèo dốc, phải qua hai con đường chiến lược 14 và 20, thường xuyên bị địch ngăn chặn, phục kích. Cho nên, đối với đoàn vận tải, chuyển được một chuyến hàng là một đợt chiến đấu, luôn luôn đụng đầu với địch, phải đánh mà đi, phải mở đường để đến, rất vất vả.

Quân số của đoàn có lúc lên 700, 800 người, phần đông là cán bộ, chiến sĩ nam làm nòng cốt. Có đại đội hoàn toàn là nữ, hăng hái thoát ly theo tiếng gọi của Tổ quốc, sẵn sàng chấp nhận “3 khoan”(1).

Thời gian đầu, suốt cả chiến trường chủ yếu là mang vác, gùi, cõng với 10 đến 20 ki-lô-gam bằng sắt trên vai. Từng lúc do yêu cầu chiến trường, có những chị em đã mang đến 40, 50 hoặc 60 ki-lô-gam như các chị Nguyễn Thị Hương, Phạm Thị Thu, Phạm Thị Hương, Lê Thị Thính, Võ Thị Túc… Nhiệm vụ hết sức nặng nhọc, gian khổ, hiểm nguy nhưng không làm cho anh chị em sờn lòng, nản chí; khi cần hy sinh vì nhiệm vụ thì không một chút do dự, đắn đo ví dụ như chị Nguyễn Thị Xuân trung đội phó cùng đơn vị tải đạn vượt qua trảng trống, trong lúc toàn đơn vị vừa vượt qua trảng bám vào rừng, riêng chị và một đồng chí nữa còn ở ngoài trảng bị trực thăng từ xa phát hiện lao đến bắn xối xả, chị không do dự tách ra khỏi đội hình chạy lùi về sau để kéo địch đuổi theo, đảm bảo cho toàn đoàn và vũ khí được an toàn. Riêng chị đã bị địch bắn và hy sinh anh dũng. Đại đội chiến sĩ thi đua Quân khu năm 1972-1973 đã tuyên dương hành động anh hùng của chị.

Những năm 1973, 1974 trên vài cung đoạn, đoàn H.50 được bổ sung bằng xe đạp thồ, có đoạn có xe ô tô hoặc ca nô máy. Anh chị em đã nâng mức thồ hàng từ 80 đến 160 ki-lô-gam. Đặc biệt, như chị Phạm Thị Thu đã nâng lên 195 ki-lô-gam, mặc dù chị chưa biết đi xe đạp.

Riêng trong năm 1967 đầu 1968, đoàn vận tải H.50 đã tải về đến Quân khu một khối lượng súng đạn khá lớn: 2977 khẩu súng bộ binh và các loại súng đạn B40, B41, cối 82, ĐK 57ly và ĐK 75ly… Do đó, chất lượng trang bị của các loại quân được nâng lên, chiến đấu được liên tục. Ngoài ra, đoàn còn đưa đón các đoàn cán bộ qua lại và chuyển anh em thương bệnh binh đến đường hành lang chiến lược để ra miền Bắc.

Đoàn còn phải sản xuất tự túc một phần lương thực, thực phẩm, cứu giúp và bảo vệ đồng bào các buôn dọc theo hành lang.

Rõ ràng đoàn vận tải H.50 đã đóng góp công lao to lớn vào chiến công của quân dân Khu VI ở chiến trường.


(1) Khoan có người yêu, khoan có chồng (nữ), khoan có vợ (nam), khoan có con.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:10:21 am »

IV. THỰC HIỆN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
TRONG NĂM 1968

Vào cuối năm 1967, cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã phát triển đến đỉnh cao(1) và đã bị thất bại nặng nề. Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ đã bị quân và dân miền Bắc tiếp tục chống trả thắng lợi.

Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 12 năm 1967 nhận định: “do những thất bại có tính chất chiến lược của Mỹ ở miền Nam và do những thắng lợi to lớn của ta, trong Đông Xuân này, địch khó có khả năng mở cuộc tiến công mùa khô lần thứ ba. Xu hướng tình hình cả năm 1968 là chúng càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước”.

Về phía ta, Bộ Chính trị đánh giá: “Chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược, chiến thuật. Lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử chiến tranh giải phóng của ta… Tình hình ấy cho phép có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của ta sang một thời kỳ mới: “Thời kỳ giành thắng lợi quyết định”.

Căn cứ vào những nhận định đó, nghị quyết của Bộ Chính trị nêu: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân trong cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh của ta lên một bước phát triển cao nhất bằng tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định…”.

Ở Khu VI cuối năm 1967 đầu năm 1968, trong lúc đang phải đối phó với cuộc càn dài ngày của địch vào căn cứ Bình Thuận, Lâm Đồng và triển khai kế hoạch Đông Xuân, thì ngày 8 tháng 1 năm 1968, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu nhận được quyết định của Trung ương Cục, Quân ủy Miền về cuộc tổng tiến công và nổi dậy theo tinh thần Nghị quyết tháng 12 năm 1967 của Bộ Chính trị. Đồng chí Phó tư lệnh Miền (Tám Kiến Quốc) xuống truyền đạt miệng (trên đường đi, vướng lúc địch càn, nên đồng chí gặp Quân khu chậm mất một tuần).

Nội dung nêu rõ: Quyết tâm của Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền là tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy các cấp và diệt một bộ phận quân Mỹ, chiếm các thành phố và thị xã chính, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, làm chuyển biến cục diện chiến trường, giành thắng lợi quyết định. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy có thể diễn biến theo ba khả năng:

- Làm gọn được các thành phố - thị xã.

- Thành phố, thị xã chỉ dứt điểm được một số.

- Chuyển ra giành đại bộ phận nông thôn.

Nhưng cuối cùng thì nhấn mạnh quyết tâm thực hiện khả năng một, cũng không nói chia nhiều đợt (nhiều đợt mới nói sau này). Riêng đối với Quân khu VI là phải cố gắng tập trung dứt điểm hai trọng điểm: Phan Thiết và Đà Lạt, mà Phan Thiết là trọng điểm một.

Sau khi trao đổi, quán triệt quyết tâm của Trung ương Cục và Quân ủy Miền, phân tích tình hình địch ta trong Khu(2), có tính thời điểm chiến lược chung và xác định trách nhiệm đối với thời cơ lịch sử, mặc dù trước mắt còn có nhiều khó khăn, địch đang ra sức đánh phá ngăn chặn ta; Với tinh thần các nơi trong Miền làm được, Khu VI tin mình cũng sẽ làm được, và Thường vụ Khu ủy, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu hạ quyết tâm: “Phối hợp chung với toàn Miền trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy sắp đến, Quân khu tập trung sức đánh dứt điểm hai thị xã lớn là Phan Thiết và Đà Lạt mà Phan Thiết là trọng điểm một”.

Lực lượng sử dụng ở hướng Phan Thiết gồm: Tiểu đoàn 840, tiểu đoàn 482 và các đơn vị đặc công của Bình Thuận, lực lượng vũ trang thị xã và lực lượng chính trị ở địa phương.

Lực lượng sử dụng ở hướng Đà Lạt gồm: Tiểu đoàn 186, Tiểu đoàn 145 (thiếu) điều từ Lâm Đồng lên, cùng với lực lượng đặc công biệt động thị xã của tỉnh Tuyên Đức, lực lượng chính trị địa phương.

Đi đôi với dứt điểm hai thị xã Phan Thiết và Đà Lạt, cố gắng giải phóng toàn bộ nông thôn của hai tỉnh Bình Thuận - Tuyên Đức và hướng phát triển tiếp theo là các tỉnh Ninh Thuận - Lâm Đồng.

Do nhận được chỉ thị chậm (8 tháng 1 năm 1966), thời gian chuẩn bị ít, nên việc triển khai các mặt rất cập rập. Hơn nữa, vì công tác tổ chức kế hoạch và chuẩn bị sẵn sàng cũng có thiếu sót, nên khi được lệnh (29 tháng 1) thì các đơn vị chủ công chưa sẵn sàng và chưa đến kịp mục tiêu(3). Việc đánh chậm là mất thời cơ, yếu tố bất ngờ không còn, hợp đồng chiến đấu giữa các trọng điểm, các hướng chưa kịp có kế hoạch. Nhưng nhờ công tác động viên chính trị sâu sắc trong chỉnh huấn tháng 10 năm 1967: “Giành thắng lợi to lớn trong Đông Xuân 1967-1968” tiến lên với quyết tâm “giành thắng lợi quyết định” và trước thời cơ lịch sử “một ngày bằng hai mươi năm”, với lòng tin ở sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, với tinh thần chấp hành mệnh lệnh cao, dám xả thân và đánh theo yêu cầu; nên các cấp, các đơn vị trong toàn Quân khu đã bước vào tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 hết sức kiên quyết mạnh bạo, theo tinh thần “kịp bao nhiêu đánh bấy nhiêu, kịp lúc nào đánh lúc ấy”, tích cực giải quyết khâu tổ chức hiệp đồng trong quá trình chiến đấu để liên tục tiến công địch.


(1) Cuối năm 1967, Mỹ đã vào miền Nam xấp xỉ 50 vạn quân (9 sư đoàn, 5 lữ đoàn), nếu tính cả quân ngụy và chư hầu của Mỹ thì tổng số quân tăng lên 1,1 triệu quân.
(2) Địch ở Quân khu có trung đoàn 44 (sư đoàn 23), một tiểu đoàn cộng hòa, một tiểu đoàn biệt động quân, 110 đại đội bảo an, 2 đại đội  28 trung đội dân vệ, 85 đoàn Bình Định, 2 đại đội công binh, 8 trung đội pháo binh, 2 chi đoàn   8 chi đội xe bọc thép, 4 hải thuyền, quân Mỹ có 5 lữ đoàn, trung đoàn 30 Bạch mã Nam Triều Tiên, tiểu đoàn 3, 1 sư đoàn không vận 40 chiếc, 2 chi đoàn xe bọc thép và nhiều máy bay phản lực oanh tạc.
(3) Đêm 28 tháng 1 năm 1968 cơ yếu nhận lệnh của Trung ương Cục, trong lúc đồng chí Bí thư Khu ủy đi Tuyên Đức, đồng chí Tư lệnh Quân khu được phân công trực đang đi công tác Bắc Bình. Trong đêm liên lạc phải đi ba tiếng đồng hồ xuống cơ quan tỉnh Bình Thuận báo cho đồng chí Lê Văn Hiền Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Bí thư Bình Thuận về cơ quan Khu nhận lệnh - 5 giờ ngày 29 tháng 1 lệnh của Miền mới chuyển xuống các tỉnh và đơn vị, 14 giờ ngày 29 tháng 1 đồng chí Tư lệnh về đến cơ quan, kế hoạch cụ thể mới được bắt đầu triển khai.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:11:06 am »

1. Đợt một tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968:

Ở trọng điểm Phan Thiết (tiền phương A)

Theo kế hoạch: đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 (tức đêm 1 rạng 2 Tết Mậu Thân) ta tổ chức tiến công vào thị xã thành ba cánh:

- Cánh một: đảm nhận hướng chủ yếu, lực lượng gồm Tiểu đoàn 840, đại đội 3/481 đặc công thị xã Phan Thiết, một bộ phận lực lượng chính trị của tỉnh và thị xã. Từ hướng đông đánh thẳng vào Tiểu khu, Toàn Hành chánh, Tỉnh đoàn bảo an và các ty, sở xung quanh. Đồng chí Phạm Kha (phó chỉ huy trưởng tiền phương) làm chỉ huy trưởng, đồng chí Phan Văn Hược (phó chính ủy) làm chính ủy.

- Cánh hai: hướng chủ yếu quan trọng, lực lượng gồm: tiểu đoàn 482 (thiếu), đại đội 2/481, đại đội trinh sát, đại đội trợ chiến tỉnh, một số cán bộ chính trị. Đồng chí Phạm Hoài Chương (chính trị viên phó tỉnh đội) làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Bốn (Bí thư thị ủy Phan Thiết) làm Chính ủy. Từ phía Bắc theo đường số 8 đánh diệt đồn Trịnh Tường, phát triển đánh chiếm biệt khu Bình Lâm (trại Quang Trung) và trại Đinh Công Tránh, chiếm và kiểm soát các ty, sở đến tiểu khu.

- Cánh ba: từ phía Tây Nam, lực lượng gồm: đại đội 1/481, đại đội 3 (Tiểu đoàn 482) đại đội 480 Phan Thiết, đại đội 30 trợ chiến Quân khu (đồng chí Nguyễn Hội chỉ huy trưởng, đồng chí Lương Bá Hải tức Như chính trị viên); đánh vào Camp Êsépic, cổng chữ Y, chi cảnh sát Châu Thành, lữ quán Anh Đào nhà bọn cơ quan MAAG Mỹ, phối hợp cùng cánh một và hai chiếm toàn bộ khu hữu ngạn sông Cà Ty và phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

Quyết tâm chung của Khu và tỉnh là dứt điểm thị xã.

Thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, (mặc dù cánh chủ yếu ở hướng đông bước vào chiến đấu chậm) để phối hợp chung với toàn Miền, đúng 0 giờ ngày 31 tháng 1 năm 1986 các đơn vị thuộc cánh hai theo đường 8 từ hướng Bắc nổ súng đánh vào đồn Trịnh Tường. Sau một ngày đêm chiến đấu liên tục quyết liệt, ta chiếm hai phần ba đồn, đánh bật các đại đội bảo an 208, 954 và lực lượng tiểu khu ra ngoài. Sáu lần địch phản kích, có cả xe tăng, pháo binh và máy bay yểm trợ, nhưng vẫn không chiếm lại được đồn. Đến 16 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1968 địch bị thiệt hại nặng, chúng dùng máy bay ném bom hủy diệt khu này. Ta lui ra củng cố lại lực lượng và tiếp tục tiến công Trịnh Tường đêm 1 rạng ngày 2 tháng 2 năm 1968. Sau đó thấy không dứt điểm được, nên ta chuyển qua bao vây đồn, làm chủ khu phố và đánh trả nhiều đợt phản kích của địch.

Trước tình hình nguy ngập của Phan Thiết, Khu 23 chiến thuật phải điều trung đoàn 44 và chi đoàn xe bọc thép 4/8 từ Vĩnh Hảo vào ứng cứu. Đêm ngày 3 tháng 2 năm 1968, ta rút ra bám trụ ấp Xuân Phong, tiếp tục chiến đấu với xe tăng và bộ binh Mỹ phản kích từ khu vực nhà thương, xóm Gò lên.

Ở cánh một, hướng chủ yếu: 24 giờ ngày 2 tháng 2 năm 1968, từ hướng Đông ta nổ súng đánh tan bọn địch ngăn chặn bên ngoài, đánh chiếm hai phần ba khu vực Tỉnh đoàn bảo an, Ty cảnh sát, Câu lạc bộ Quân nhân, và uy hiếp Tiểu khu Bình Thuận. Chiến sự nơi đây nổ ra dữ dội nhất. Bấp chấp bom pháo địch, ta trụ đánh phản kích trong cả ngày 3 tháng 2 năm 1968. Đêm 3 rạng ngày 4 tháng 2 năm 1968, ta tổ chức lực lượng đột phá vào Tỉnh đoàn bảo an, pháo kích vây ép Tòa hành chánh, Tiểu khu. Địch chống trả quyết liệt, nên trong ngày ta chỉ chiếm được các khu vực xung quanh (như Ty Canh nông, Ty Mục súc, Ty Chiêu hồi, Ty Lâm vụ, khu vực trường Phan Bội Châu, Chùa Giác Hoa) - và làm chủ khu vực xung quanh Tiểu khu. Đên 16 giờ địch dùng máy bay thả bom xăng hủy diệt để giải tỏa áp lực của ta. Qua hai ngày đêm ta tiêu diệt được nhiều địch và bắn cháy hai xe bọc thép tại chỗ.

Cùng lúc tiểu đoàn 482 tiếp tục đánh vào trại Đinh Công Tráng, dùng hỏa lực ĐKZ, B40, B41 nã vào đồn, diệt nhiều địch, giết tên đại úy Nguyễn Hữu Chí - Chỉ huy trưởng chi khu Châu Thành. Cả ngày 4 tháng 2 năm 1968 lực lượng ta trụ lại nhà bác Xì (phố 30 căn), địch cố thủ trong vị trí không dám bung ra phản kích. Qua các cuộc chiến đấu trên, ta diệt tại chỗ hàng trăm tên bảo an (của các đại đội 208, 954 một bộ phận trung đoàn 44 chủ lực ngụy, đơn vị biệt kích Mỹ, thu 30 súng các loại.

Cùng thời gian nổ súng của cánh hai, cánh ba ta đã đánh vào Camp Êsépic, hậu cứ chiến đoàn 3/506 Mỹ và cổng chữ Y, diệt một số tên, bắn cháy kho xăng hơn nửa triệu lít, làm tê liệt hoạt động của Camp Êsépic. Sau đó, ta trụ lại ấp Phú Phong, đánh với trực thăng vũ trang và bộ binh Mỹ kéo đến phản kích, diệt một trung đội Mỹ, bắn rơi hai trực thăng. Đêm 3 rạng 4 tháng 2 năm 1968 ta tiếp tục tiến công vào chi cảnh sát xã Châu Thành, trụ sở phường Đức Nghĩa, lữ quán Anh Đào, nhà bọn cơ quan MAAG Mỹ và trụ lại khu vực này. Địch dùng L19 và trực thăng đánh vào các chốt của ta; đồng thời cho xe bọc thép và bộ binh vào phản kích. Ta vừa chữa cháy cho dân vừa đánh trả máy bay và đẩy lùi các đợt phản kích bằng bộ binh của địch, giữ vững vị trí chốt. Tối đến, ta rút ra vùng ven để giải quyết thương binh liệt sĩ và chuẩn bị cho đợt tiến công mới.

Mặc dù ở trọng điểm Phan Thiết bước vào Mậu Thân 1968 lúc đầu có bị chệch choạc, nhưng vẫn là nơi chiến sự đã nổ ra quyết liệt nhất. Địch đã dùng cả pháo ở hạm đội và máy bay oanh tạc thẳng vào các khu phố dân cư ở nội thị như Bình Hưng, Phú Trinh, Đức Nghĩa và ngoại ô như Xuân Phong, Đại Nẫm, bất chấp sinh mạng của nhân dân, gây nhiều đám cháy, làm sập đổ nhiều nhà cửa. Nhân dân phải chạy lánh ra khỏi vùng chiến sự. Nhưng cũng còn khá nhiều bà con ở lại với bộ đội, phát hiện địch, chỉ mục tiêu địch chính xác, cùng bộ đội làm công sự tránh phi pháo, đánh địch, cứu chữa nhà cháy và lo tiếp tế cơm nước cho bộ đội, v.v…
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Hai, 2012, 02:41:13 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:11:40 am »

Qua bốn ngày đêm chiến đấu quyết liệt và liên tục, lực lượng ta đã đánh chiếm nhiều khu vực, mục tiêu quan trọng ở nội ô, gây cho địch nhiều thiệt hại. Nhưng Mỹ - ngụy đã tăng cường lực lượng phòng thủ các mục tiêu đầu não, và tiến hành phản kích mạnh cả bằng bộ binh, cơ giới và phi pháo. Số thương vong của ta khá lớn, nhất là ở cánh chủ yếu, thương binh chưa đưa về phía sau được, đạn dược cũng không được bổ sung. Do đó, đến ngày 3 tháng 2 năm 1968 (đêm mùng 5 tết), tại sở chỉ huy tiền phương Quân khu ở vùng ven (xóm Mía Tam giác) đã có cuộc họp giữa đồng chí Bí thư Khu ủy với các đồng chí Đảng ủy Tiền phương: chủ trương chuyển ra vùng ven để giải quyết thương binh tử sĩ, củng cố lực lượng. Nhưng các lực lượng ta vẫn bám ở vùng ven để vây ép địch trong thị xã, đánh bọn bung ra phản kích và nã pháo cối vào các mục tiêu trong thị xã.

Trong khi các lực lượng tiến công vào thị xã thì ở các nơi khác, du kích tại chỗ, du kích vùng giải phóng, vùng căn cứ, anh em ở cơ quan khu, các đoàn sản xuất, đều bung ra hoạt động hoặc xung phong tham gia vào các đơn vị chiến đấu. Nhờ vậy mà các lực lượng được kịp thời bổ sung để tiếp tục bước vào đợt chiến đấu mới.

Đặc biệt là có trung đội Thiếu sinh quân, các cháu đã nhất mực xin các chú chỉ huy được đi chiến đấu diệt Mỹ - ngụy, không chịu công tác ở phía sau. Được bổ sung trong đội hình chiến đấu của Tiểu đoàn 482 (tỉnh), khi giáp mặt với quân Mỹ lấn ra ở ấp Xuân Phong, các em đã chiến đấu rất hăng, diệt gọn một trung đội, thu 20 súng (trận ngày 3 tháng 2 năm 1968). Sau này qua chiến đấu nhiều em đã trưởng thành nhanh cóng và là những cán bộ tiểu đội, trung đội đại đội chiến đấu, có em chiến đấu hy sinh rất dũng cảm.

Đại đội 430 địa phương Hàm Thuận, cùng du kích các xã Hàm Phú, Hàm Trí đánh diệt bọn dân vệ ở cây số 18 trên trục đường số 8; ta thu toàn bộ vũ kũ khí, sau đó phát động quần chúng đưa lên thế làm chủ. Du kích xã Hàm Thạnh đánh bọn dân vệ ở Văn phòng, bao vây uy hiếp khu vực Mường Bán.

Ở Bắc Bình: bộ đội địa phương phối hợp với các đội công tác đánh vào Phan Rí Cửa, Chợ Lầu, diệt bọn cảnh sát, bắt một số tên ác ôn, phản động quần chúng.

Phối hợp với trọng điểm, đêm ngày 31 tháng 1 năm 1968 lực lượng đặc công Ninh Thuận đột nhập vào thị xã Phan Rang diệt bọn quân cảnh ngụy, thu 7 súng. Một bộ phận khác đột nhập vào sân bay Thành Sơn bắn cháy một máy bay Đacôta. Tiểu đoàn 610 tiến công địch ở La Chữ, Mộng Đức, Nhuận Đức, căng kéo địch, hỗ trợ cho trọng điểm Phan Thiết - Đà Lạt.

Trong khi lực lượng ta chuyển ra vùng ven tiếp tục ép địch trong thị xã, vừa củng cố lực lượng, vừa mở rộng vùng nông thôn, chuẩn bị cho cuộc tiến công mới, thì nhận được chỉ thị của Miền: mở đợt hai vào ngày 17 tháng 2 năm 1968, trọng điểm vẫn là Phan Thiết và Đà Lạt.

Ở Trọng điểm Phan Thiết; vào đợt tiến công này, công tác chuẩn bị và tổ chức làm được chu đáo hơn, lực lượng các cánh, các mũi đều được điều chỉnh, bổ sung và được tăng cường thêm vũ khí, đạn dược, được động viên khí thế với quyết tâm cao và công tác tổ chức hiệp đồng chiến đấu được chặt chẽ hơn.

Cánh chủ yếu: Tiểu đoàn 840 được tăng cường Đại đội 3 (Tiểu đoàn 4820, Đại đội 30 trợ chiến Quân khu, từ hướng Đông công kích thẳng vào khu trung tâm (Tiểu khu, Tòa hành chánh, Tỉnh đoàn bảo an, khu lao xá…).

Cánh hai: Tiểu đoàn 482 (thiếu) cùng hai đại đội đặc công của thị xã và đại đội 1/430 huyện Hàm Thuận, từ hướng Bắc thọc sâu đánh thẳng vào biệt khu Bình Lâm, cơ quan ban chỉ huy hành quân của địch, trụ sở quận trấn, Ty bưu điện…

Cánh ba: gồm lực lượng của thị xã và được tăng cường thêm đại đội 489 của Bắc Bình vào đánh chiếm khu hữu ngạn, pháo kích vào Camp Êsépic.

Sau đợt tiến công lần một, địch đã tăng cường Trung đoàn 44 và chi đoàn 4/8 phòng thủ Phan Thiết, lực lượng chiến đoàn 3/506 Mỹ thường xuyên bung ra vùng ven để ngăn chặn ta và sẵn sàng chi viện cứu nguy cho quân ngụy tại chỗ.

Mặc dù vậy, với quyết tâm cao, với tinh thần dũng cảm ngoan cường của cán bộ và chiến sĩ, đêm 17 rạng ngày 18 tháng 2 năm 1968, các cánh một và hai vừa tránh địch vừa đánh dẹp địch trên đường tiếp cận đã nhanh chóng đưa đội hình thọc sâu vào khu trung tâm.

Cánh một: ở hướng Đông đánh chiếm được các mục tiêu bao quanh Tiểu khu và Tòa hành chính, Ty cảnh sát, Nhà bưu điện, Kho xây dựng, Ty Công chánh, khu vườn hoa (nơi có tháp nước), Nhà trường Chính Tâm; tích cực công kích các mục tiêu đầu não. Đặc biệt vào lúc 2 giờ ngày 18 tháng 2 năm 1968, Đại đội 3 (Tiểu đoàn 840) đã đánh chiếm khu nhà Lao, giải thoát trên 700 cán bộ và đồng bào bị giam giữ (sau khi giải thoát đã có 150 đồng chí xung phong gia nhập vào đội hình của Đại đội 3 (Tiểu đoàn 840) và cầm súng chiến đấu ngay tại chỗ).

Trước tình hình bị uy hiếp mạnh, địch dùng cả xe tăng, máy bay và pháo hạm phản kích, song lực lượng ta vẫn ngoan cường, bám trụ, đánh suốt ngày, chiếm thêm Phòng Tuyển mộ của Sư đoàn 23 ngụy.

Cánh hai: từ hướng bắc tiến công vào biệt khu Bình Lâm, trụ sở quận trấn, Ty Bưu điện. Sau hai giờ chiến đấu, ta chiếm và làm chủ ấp Phú Trinh, Ty Y Tế, Ty Lao động, trụ sở đoàn y tế Đài Loan.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 21 Tháng Giêng, 2012, 09:12:09 am »

Suốt ngày 18 tháng 2 năm 1968, cuộc chiến đấu đã diễn ra gay go, ác liệt, địch và ta đã đánh chiếm và giành giựt nhau từng khu phố, từng vị trí. Mỹ đã dùng cả pháo hạm ngoài biển, pháo mặt đất, trực thăng vũ trang, máy bay phản lực, khu trục oanh tạc tối đa để hủy diệt và ngăn chặn ta phát triển tiến công. Tên đại tá Trương Quang Ân Khu chiến thuật 23 đã đáp trực thăng đến Phan Thiết trực tiếp chỉ huy Trung đoàn 44 phản kích, giải tỏa áp lực của ta xung quanh Tiểu khu, Tòa Hành chính và trại Quang Trung. Bên hữu ngạn, cánh ba không vào chiếm lĩnh được nên quân Mỹ từ khu hữu ngạn đánh sang trường nữ tiểu học để giải tỏa áp lực cho trại Quang Trung.

16 giờ chiều ngày 18 tháng 2 năm 1968, địch dùng máy bay và pháo tập trung oanh kích hủy diệt khu Lao Xá, gần sát với Tiểu khu, nơi mà Đại đội 3 (Tiểu đoàn 840) đã chiếm giữ trong ngày và đánh trả quyết liệt với Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 44) ngụy. Các đợt phản kích của địch đều bị thất bại (Đại đội 3 (Tiểu đoàn 840) được tuyên dương Đơn vị anh hùng).

Ngày 19 tháng 2 năm 1968, chiến đoàn 3/506 Mỹ từ phía hữu ngạn tiến qua sông, đánh mạnh vào khu vực Bình Hưng, nhằm phản kích vào bên sườn phải của cánh một. Nhưng nhờ phán đoán chính xác được hướng phản kích của địch, nên trong đêm ta đã cho điều chỉnh lại thế bố trí lực lượng, tổ chức trận địa phòng ngự tại ấp Bình Hưng, có điểm tựa phòng tăng vững chắc. Suốt ngày 19 tháng 2, đã đánh lui nhiều đợt phản kích của xe tăng và bộ binh Mỹ, có máy bay và pháo binh yểm trợ, diệt bộ binh và bắn cháy xe tăng địch, giữ vững trận địa và bảo vệ được thương binh.

Qua hai ngày đêm chiến đấu ác liệt và gần 100 thương binh còn nằm tại Sở chỉ huy của cánh tại Bình Hưng, đạn dược phía sau không thiếp tế lên được, nên đêm 19 tháng 2 năm 1968, ta quyết định tạm thời lui ra vùng ven (Kim Ngọc) giải quyết thương binh, tử sĩ và chờ lệnh của Bộ Chỉ huy Tiền phương.

Ở Cánh hai: ta còn tiếp tục bám trụ khu Chợ Gò, Trưởng Nữ tiểu học, khu phố 30 căn, đường Hải Thượng Lãn Ông,… đánh trả quyết liệt bọn địch phản kích. Đồng bào ở khu vực Trường Nữ tiểu học, đường Trần Cao Vân, Chợ Gò,… đã hết lòng ủng hộ bộ đội. Nhiều người đem gỗ ván trong nhà ra cho bộ đội làm hầm hào, công sự. Điều này làm cho bộ đội ta càng thêm quyết tâm bám trụ và tiến công diệt địch.

Bị thiệt hại nặng, địch phản kích điên cuồng, ném bom, bắn hỏa tiễn bừa bãi vào các khu dân cư trong thị xã, vào những nơi bộ đội ta bám trụ. Nhiều cán bộ và chiến sĩ ta đã chiến đấu rất dũng cảm, gan dạ. Đồng chí Tra, cảnh vệ Sở Chỉ huy cánh hai, một mình diệt 20 tên và đẩy lùi một mũi phản kích của địch. Trung đội trưởng Từ Văn Tư (sau này được tuyên dương anh hùng quân đội), khi phát hiện xe tăng địch đang thọc vào đội hình của ta, liền áp sát xe địch, dùng thủ pháo đánh cháy xe tăng và bắn gục 6 tên Mỹ; anh bị thương cả hai chân nhưng vẫn tiếp tục chỉ huy trung đội chiến đấu và khẩn thiết kêu gọi anh em: “Nếu có chết ta hãy quay đầu về hướng giặc mà chết”. Noi gương Từ Văn Tư, cả trung đội đồng loạt xông lên đánh bật quân địch ra khỏi chốt, giữ vững trận địa. Trung đội trưởng Vũ Hưu (sau này được tuyên dương anh hùng quân đội) mặc dù bị thương nặng vẫn cố gắng bò xuống các cụm chốt để chỉ huy đơn vị, đánh bật hàng chục đợt phản kích của địch; đồng chí đã anh dũng hy sinh khi đánh bật quân địch ra khỏi chốt cuối cùng.

Riêng cánh ba bị nước thủy triều dâng lên quá lớn nên không vượt được qua sông Cà Ty để tiến công vào phía hữu ngạn, phải trụ lại bến đò Giang Thánh, tạo thế vây ép thị xã. Đêm 19 tháng 2 đơn vị trợ chiến đã pháo kích trúng vào đội hình quân Mỹ đang tập trung ở vườn hoa Đức Nghĩa, gây cho chúng một số thương vong.

Qua bốn ngày đêm bám trụ đánh địch trong nội ô, lực lượng ta ở khu lao xá Bình Hưng, khu Chợ Gò, Trường Nữ tiểu học,… đã bẻ gãy tát cả các đợt phản kích của địch, có xe tăng máy bay và pháo binh yểm trợ, diệt hàng trăm tên. Trong quân sử của quân lực Việt Nam Cộng hòa chúng phải cay đắng thú nhận: “Mỗi lần giội bom xuống, tiến vào thì quân đội Mỹ lại bắn dội ra không vào được. Trong hai ngày 18 và 19 tháng 2 năm 1968 lực lượng Hoa Kỳ không làm chủ được khu vực này, ngoại trừ phía đường Hải Thượng Lãn Ông tiến được đôi chút”. Đây cũng là lời thú nhận sự thiệt hại nặng nhất về người và vật chất của chúng trong Mậu Thân 1968 ở Phan Thiết.

Đêm 21 tháng 2 năm 1968, được lệnh Bộ chỉ huy Tiền phương, toàn bộ lực lượng ở Phan Thiết rút ra vùng ven bám trụ, tiếp tục đánh địch đi giải tỏa, mở phong trào nông thôn và tạo thế vây ép thị xã.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM