II. Hoạch định biên giới giữa Campuchia và quận Hà Tiên, ngày 5-4-18761 Từ ngã ban giữa kênh Vĩnh Tế với rạch Cái Dứa là điểm ranh giới của Campuehia với hai quận Châu Đốc và Hà Tiên, đường biên giới đi theo bờ Bắc kênh Vĩnh Tế đến chỗ kênh tiếp nước ở rạch Giang Thành, ở Prek Cros, ở điểm gọi là Giang Thành, đi qua Prek Cros và đi tiếp theo đường dây điện thoại đến khi gặp đường thành luỹ ở phía Bắc và đi về phía Bắc của núi đá gọi là "Mũ Lông"; từ điểm đó, đường biên giới đi theo đường thành luỹ đến gặp biển ở điểm Hòn Táo.
Ngày 5 tháng 4 năm 1876.
Ký tên: Trắc địa viên phụ trách kiểm tra đường biên giới Campuchia.
Đã duyệt: Giám đốc Sở địa chính (đăng ký ngày 5-8-1886, số 1047 - C).
III. Biên bản điều chỉnh việc hoạch định biên giới Campuchia với quận Hà Tiên, ngày 28-11-18882 Ngày 28-11-1888.
Chúng tôi, Gilly, trắc địa viên chính của Sở Đo đạc chịu trách nhiệm kiểm tra theo Thông tư của Giám đốc Sở Đo đạc ngày 20 tháng 11 vừa qua, được sự trợ giúp của:
Ông Blanc, thư ký thay mặt Quận trưởng Hà Tiên;
Ông Krug, trắc địa viên Sở Đo đạc, uỷ viên Tiểu ban hoạch định biên giới Hà Tiên;
Các ông Chánh tổng Thanh Gi và Hà Thanh, Các hương chức chính của các làng Tân Thanh, Tiên Khánh, Tra Câu và Mỹ Đức.
Đã thừa nhận trên thực địa ranh giới được dùng làm đường biên giới giữa Campuchia và quận Hà Tiên.
Ranh giới này là chủ đề của Biên bản hoạch định được gửi vào tháng 4 năm 1876, đã được quy định rõ như sau:
“Từ cửa kênh Vĩnh Tế với rạch Cái Dứa tại điểm ngoặt ranh giới giữa Campuchia với hai quận Châu Đốc và Hà Tiên, đường biên giới đi theo bờ Bắc của kênh Vĩnh Tế đến điểm tiếp nước của kênh trên rạch Giang Thành ở Prech Cros, ở điểm Giang Thành, vượt qua rạch và đi theo đường dây điện thoại đến gặp đường thành luỹ xa nhất ở phía Bắc và đi qua phía Bắc mỏm núi đá gọi là Mũ Lông. Từ điểm này, đường biên giới đi theo đường thành luỹ ra đến biển ở điểm gọi là Hòn Táo" - (Trích Biên bản hoạch định biên giới Campuchia với quận Hà Tiên ngày 05 tháng 4 năm 1876).
Giữ nguyên ranh giới cũng như biên giới được thể hiện trong biên bản nói trên, lô cốt Giang Thành được xây dựng năm 1885, đại bộ phận làng Tiên Khánh, hơn một nửa các làng Tân Thành và Tra Câu và một phần làng Mỹ Đức thuộc lãnh thổ Campuchia.
Hai trong các làng Tiên Khánh và Tân Thành hoàn toàn là người An Nam và làng thứ ba Tra Câu là Campuchia.
Ông Krug, trắc địa viên của Sở Đo đạc, chịu trách nhiệm hoạch định ranh giới quận Hà Tiên, được giao nhiệm vụ tháng 1 năm 1889, dựa vào bản đồ Nam Kỳ và Campuchia tỷ lệ 1/300.000 và làm trắc đạc tỷ lệ 1/20.000 biên giới giữa Campuchia và quận Hà Tiên.
Các hoạt động này không được tiến hành với sự có mặt các nhà chức trách Campuchia, nhưng trắc địa viên hoạch định đã mời Phu Nghẹt, tỉnh trưởng tỉnh Peam chứng kiến hoạt động này, mặc dù ông này từ chối nhưng đồng ý việc đặt các cọc mốc trên ranh giới từ biển đến rạch Giang Thành; trắc địa viên thực hiện đã tìm thấy các cọc mốc đó.
Đoạn biên giới giữa rạch Giang Thành và ranh giới Châu Đốc về phía Campuchia ở cách rất xa các vùng đất trồng trọt và có dân cư, là vùng đầm lầy, bỏ hoang, chỉ có vại bụi tràm rải rác và vài bụi tre, chắc hẳn vì vùng đó không quan trọng lắm nên tỉnh trưởng Peam không đặt cọc.
Xuất phát từ vịnh Xiêm, đường ranh giới - biên giới theo thể hiện của trắc địa viên hoạch định và chúng tôi xác nhận tại thực địa là đường luỹ xuất phát từ biển đi theo chân núi phía Bắc núi Hòn Táo nhỏ, đi qua phía Bắc mỏm đá "Mũ Lông" cách mỏm đá khoảng 300 mét, đi theo chân núi phía Bắc núi Thạch Động, chân núi phía Bắc núi Thị Vạn vòng qua mỏm núi xa nhất về phía Đông theo chân núi đến khi gặp đường cái quan ở điểm khởi đầu rạch Thị Vạn.
Trên toàn bộ đoạn này, cần lưu ý:
1. Các cọc ranh giới, có ghi chú bằng chữ Hán và chữ Campuchia nói rõ mục đích của cọc, được đặt ở phía Campuchia cách chân thành luỹ từ 20 mét đến 100 mét và do đó đường thành luỹ hoàn toàn nằm trên lãnh thổ Nam Kỳ.
2. Đường ranh giới - biên giới này cũng là đường ghi trong biên bản hoạch định năm 1876; nhưng đến đường cái quan, theo tài liệu này, đường biên giới tiếp tục đi theo đường luỹ đến đường điện thoại và theo đường này đến rạch Giang Thành rồi đi theo bờ Bắc kênh Vĩnh Tế đến ranh giới Châu Đốc (xem bản phác hoạ đính theo).
Theo bản đồ do trắc địa viên hoạch định Hà Tiên lập, các chỉ dẫn của các chánh tổng và các hương chức của các làng giáp giới hữu quan và theo các thông tin do tỉnh trưởng tỉnh Peam cung cấp cho trắc địa viên thực hiện, đặc biệt là theo các cọc mà Phu Nghẹt đã đặt trên đường biên giới mà tất cả các đương sự đều thừa nhận, hoặc dựa vào điểm cuối cùng nói ở trên, nằm giao nhau giữa đường thành luỹ và đường cái quan là nguồn của rạch Thị Vạn, đường biên giới đi theo đường cái quan dài khoảng 6.800 mét theo hướng Đông Bắc đến đầm lầy lớn gọi là "bưng Cau Trâm Nai" đến cọc mốc A. Từ cọc mốc A, đường biên giới rời khỏi đường cái quan ở bên trái để đi theo bờ Đông Nam đầm lầy lớn nói trên, đi qua các cọc B, C, D để bung Cau Trâm Nai về phía Campuchia; và đến rạch Cai Thun ở cọc E đặt cách khoảng 60 mét trước điểm rạch phân đôi; từ cọc E đường biên giới đi theo đường thẳng của rạch Cái Thun đến cửa rạch Giang Thành mà người Campuchia gọi là Prek Cros.
Từ cửa rạch Cái Thun đổ vào rạch Giang Thành trắc địa viên hoạch định cho đường biên giới hiệp ước do uỷ ban hoạch định đặt năm 1876 ở điểm mà ranh giới các quận Châu Đốc và Hà Tiên đi đến đường biên giới ở phía Bắc kênh Vĩnh Tế cách kênh khoảng 1.090 m.
Ở đoạn cuối này, đường ranh giới - biên giới do các hương chức An Nam chỉ có khác nhiều so với đường thể hiện trên bản đồ của trắc địa viên hoạch định. Theo chỉ dẫn của các hương chức, từ cửa rạch Cái Thun đổ vào rạch Giang Thành, đường ranh giới - biên giới theo dòng rạch Giang Thành đến rạch Mo Cua nhỏ, cách khoảng 340 mét ở nơi đổ vào của kênh Vĩnh Tế, ngược rạch Mo Cua dài khoảng 200 mét, đi theo một đường công ước thẳng đến điểm F nằm trên đường do trắc địa viên hoạch định vạch và từ điểm F, theo đường thẳng đến mốc 124.
Các vùng đất nằm giữa ranh giới do ông Krug lập và đường do các hương chức An Nam chỉ ra là không canh tác được, chạy đến đầm lầy với các bụi tràm rải rác và vài bụi tre.
Về phía Campuchia, các vùng trồng trọt và dân cư sinh sống cách đường biên giới hơn 10 kém, trong khi về phía Nam Kỳ, lô cốt Giang Thành, khu dân cư và các vùng đất canh tác chỉ cách rạch Mo Ca dưới 300 mét.
Làm xong ở Hà Tiên ngày 29 tháng 11, theo năm ở trên.
TỈNH TRƯỞNG TRẮC ĐỊA VIÊN CHÍNH THỨC
THƯ KÝ ĐỊA HẠT CỦA SỞ ĐO ĐẠC VÀ KIỂM TRA
(Đã ký) (Đã ký)
TRẮC ĐỊA VIÊN SỞ ĐO ĐẠC CHỊU TRÁCH NHIỆM HOẠCH ĐỊNH HÀ TIÊN
(Đã ký)
CÁC TRƯỞNG LÀNG TIÊN KHÁNH, TÂN THÀNH, TRA CẦU, MỸ ĐỨC
(Đã ký)
CÁC TỔNG TRƯỞNG THANH GHI VÀ HÀ THANH
(Đã ký)
-------------
1. 2. Văn bản số 3 đính theo: Uỷ ban Pháp-Khơme, Các yêu sách lãnh thổ của Campuchia đối với Nam Kỳ, Ghi chú cho ông Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, 11/5/1949, CAOM, JNDO/GGI/64387