Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 02:35:49 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những chuyện chưa nghe, chưa biết-2  (Đọc 288337 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
fddinh
Thành viên
*
Bài viết: 324


Mít sờ tơ Khù văn Khoằm


WWW
« Trả lời #100 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2012, 05:40:05 pm »

Nhà văn Hoàng Hải Thủy, người đã làm chủ bút tạp chí Triển vọng của USIS trước đây cho biết các nhân viên người Mỹ ở USIS đã tung tiền bạc để tạo ra một đội ngũ phóng viên, văn nghệ sĩ có thể hoạt động phục vụ cho các ý đồ tâm lý chiến. Chẳng hạn USIS giúp ngân khoản cho một số nhà văn xuất bản báo. Tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo là một ví dụ. USIS đã trả hết tiền in, tiền giấy báo. Tiền bán báo Mai Thảo sử dụng để trả tiền bài viết.

Trong vụ xử án một nhóm văn nghệ sĩ của chế độ cũ hoạt động tuyên truyền phản cách mạng ở TP HCM năm 1984 có nhà văn Hoàng Hải Thủy, người đã làm chủ bút tạp chí Triển vọng của USIS trước đây.

Hoàng Hải Thủy sinh năm 1930 tại Hà Đông, tham gia kháng chiến chống Pháp năm 1947, về thành năm 1950, theo gia đình vào Sài Gòn năm 1951, lần lượt làm việc cho cơ quan Viện trợ Mỹ USOM, rồi nhật báo Sài Gòn mới, báo Tiền Tuyến, báo Chính Luận, Sống, Sóng Thần, rồi cuối cùng là USIS.

Trong một bản tự thuật, Hoàng Hải Thủy kể về một bài phóng sự đầu tiên trong đời như sau:

Năm 1955, biết tôi muốn về thăm Hà Nội, Tổng trưởng Thông tin Phạm Xuân Thái đặt yêu cầu và cấp tiền máy bay cho tôi đi Hà Nội.

Trở về Sài Gòn tôi đã viết phóng sự đầu tiên “Đường về Hà Nội đỏ”. Trong phóng sự này tôi đã trình bày những cảnh tiêu cực mà tôi thấy ở Hà Nội như cảnh các nhà buôn đều đóng cửa, bị cán bộ đến kiểm kê hàng hóa và trưng thu tiền thuế, cảnh các rạp chiếu bóng vắng khách, chỉ lèo tèo có dăm bảy người xem đa số là bộ đội từ xa về Hà Nội, những lời ca thán của giới tiểu thương trong số các gia đình chị tôi, cảnh những người đi ở mướn tối đến phải đi họp hoặc học tập chính trị trong các khu phố. Tôi xuyên tạc, tôi thổi phồng một số sự kiện khác như việc miền Bắc thiếu gạo, thiếu nhu yếu phẩm…

Báo Ngôn Luận trả tôi 5.000 đồng cho phóng sự này.

Bộ tem chiến dịch Chiêu Hồi.

Khi được báo Tiền Tuyến - tờ báo của quân đội Sài Gòn mời về, Hoàng Hải Thủy được giao viết nhiều kỳ phóng tác những tiểu thuyết trinh thám có chủ đề chống Cộng.

Nội dung của những tiểu thuyết này là diễn lại những cuộc đấu tranh bí mật giữa các điệp viên tư bản và các điệp viên xã hội chủ nghĩa. Điệp viên Anh - Mỹ được mô tả như những mẫu người hùng quang minh chính đại, còn điệp viên Liên Xô được tả như những mẫu người khát máu tàn ác. Tất nhiên là ở phần cuối truyện, các điệp viên Anh - Mỹ đều là người chiến thắng.

Hoàng Hải Thủy cho biết các nhân viên người Mỹ ở USIS đã tung tiền bạc để tạo ra một đội ngũ phóng viên, văn nghệ sĩ có thể hoạt động phục vụ cho các ý đồ tâm lý chiến. Chẳng hạn USIS giúp ngân khoản cho một số nhà văn xuất bản báo. Tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo là một ví dụ. USIS đã trả hết tiền in, tiền giấy báo. Tiền bán báo Mai Thảo sử dụng để trả tiền bài viết.

USIS cũng cấp giấy in cho một số báo, hội đoàn văn nghệ sĩ hoặc gửi hẳn sang Manila in cho một số tác phẩm hoặc một số báo. Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử thường nhận được những sự giúp đỡ như vậy. Một số người cộng tác thân thiết với Mỹ còn được mời đi dự hội thảo ở Mỹ, được đặt bài viết theo chủ đề của USIS và được trả nhuận bút rất cao. Khi dịch tiểu thuyết “Tầng đầu địa ngục” của Soljenitsin trong có 2 tháng, Hoàng Hải Thủy được trả 20.000 đồng, một số tiền khá lớn.

Hoàng Hải Thủy cũng tiết lộ một số văn nghệ sĩ đã được bố trí đưa đi Mỹ trước 30/4/1975 để tổ chức các tờ báo lưu vong như Phạm Kiêm Vinh, Đỗ Ngọc Yến, Đỗ Quý Toàn, Việt Định Phương, Nguyễn Thanh Hoàng…

Trong một tài liệu thu được ở Bộ Thông tin chiêu hồi, kế hoạch công tác tâm lý chiến trong 20 năm được tổng kết và hoạch định như sau:

Giai đoạn 1954-1960: Tuyên truyền Cộng sản tam vô, tàn ác, miền Bắc đói kém, bảy người leo một cọng đu đủ không gãy.

Giai đoạn 1961-1964: Quốc sách Ấp chiến lược tách dân ra khỏi quân đội cách mạng. Phô trương sức mạnh quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tổ chức Thanh niên chiến đấu tại các làng xã. Truyền đơn. Chiêu hồi.

Giai đoạn 1965-1969: Các đoàn Công dân vụ và Vũ trang tuyên truyền. Đoàn ngũ hóa thanh niên Công giáo và nhân dân tự vệ. Đoàn cán bộ xây dựng nông thôn. Thành lập trung tâm điều động tâm lý chính trị các quân khu, tiểu khu để phối hợp các cơ quan quân sự, dân sự. Tại quân khu 1,2,3 lập các trung đội võ trang tuyên truyền chiêu hồi. Các chương trình phát thanh đặc biệt của Đài Tiếng nói Tự do, Đài Gươm thiêng Ái quốc.

Giai đoạn 1970-1975: Đài Mẹ Việt Nam. Truyền đơn. Kế hoạch Tiếng gọi của Tổ quốc.

Để phục vụ cho các chương trình Tâm lý chiến của từng giai đoạn, chính quyền Sài Gòn đã chi cho bộ máy chiến tranh tâm lý dân sự và quân sự rất nhiều cơ sở kỹ thuật và phương tiện.

Để phát thanh thì dùng máy phát mạnh 10KW sóng trung có thể phát sóng trên toàn miền Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Đầu năm 1967, phát sóng 12 giờ một ngày. Năm 1970 tăng lên 46 giờ một ngày trên nhiều tần số. Riêng Đài Tiếng nói Hoa Kỳ phát 17 giờ một ngày cho riêng Bắc Việt Nam.  Từ giữa năm 1967 đến 1971, số giờ phát của đài này cho các chương trình vào Việt Nam còn tăng gấp ba lần với nhiều sóng khác nhau.

Tham gia vào các chiến dịch phát thanh do Mỹ chỉ đạo còn có Đài Châu Á Tự do đặt ở Nam Hàn.

Các cơ sở sản xuất ấn phẩm phục vụ chiến tranh tâm lý của quân đội Sài Gòn mỗi ngày sản xuất 1.000.000 truyền đơn khổ 11x14cm hoặc 100.000 bích chương khổ 44x57cm hoặc 100.000 sách loại tìm hiểu học tập khổ 11x14cm dày 16 trang không xếp đóng hoặc 50.000 quyển khổ 14x22 cm dày 16 trang hoặc 5.000 quyển 32 trang in khổ 21x27 cm hoặc 160.000 khẩu hiệu 22x27cm hoặc 50.000 phụ trang báo Tiền Tuyến 2 mặt, hai màu cỡ 44x57cm.

Theo Hãng AP tiết lộ ngày 20/11/1966 thì số truyền đơn mà Mỹ rải xuống miền Bắc Việt Nam đã đủ để cuốn hai vòng đường xích đạo, tức là dài 80.153.184km. Tháng 3/1969 đã rải 713,4 triệu tờ truyền đơn bằng máy bay và rải 3,3 triệu tờ bằng tay. Đến năm 1973 trung bình hàng tháng rải 60 triệu truyền đơn.

Máy bay C130 mỗi lần bay có thể rải được 11 triệu tờ truyền đơn. Trong các truyền đơn rải xuống miền Nam có rất nhiều tờ giấy thông hành có quốc kỳ 6 nước đồng minh Hoa Kỳ, Australia, Thái Lan, Tân Tây Lan, Nam Hàn, Philippines, có ảnh một lính Cộng hòa chỉ đường cho một bộ đội Cộng sản và lời kêu gọi bộ đội Cộng sản “quay về với đồng bào” do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký tên.

Trong các truyền đơn ném xuống miền Bắc có nội dung biện hộ cho sự ném bom dã man của Mỹ, kêu gọi nhân dân miền Bắc hãy lánh xa tất cả các mục tiêu quân sự và đường giao thông, kêu gọi nhân dân miền Bắc giúp đỡ phi công Mỹ bị bắn rơi và hứa thưởng 50 lạng vàng, có chữ ký của Bunker Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn.

Một trong những tờ truyền đơn mà cơ quan tâm lý chiến Mỹ và Sài Gòn cho là thành công nhất có lời kêu gọi binh lính Cộng sản quay về với gia đình, nói về nỗi khổ sở đói rét ở Trường Sơn, nỗi buồn chán và tâm tình nhớ quê hương với cả một bài thơ dài gửi mẹ ở hậu phương.

Cùng với truyền đơn, còn có hàng triệu tờ giấy bạc giả một đồng được thả xuống miền Bắc làm suy yếu lòng tin của nhân dân đối với đồng tiền Ngân hàng Việt Nam. Các đồng tiền giả này không cần giống y như tiền thật nhưng quan trọng là các dòng chữ kèm theo: Đồng tiền ngày càng mất giá và hàng hóa ngày càng khan hiếm, giá hàng sẽ còn lên cao. Tiết kiệm của bạn sẽ trở thành những mẩu giấy không có giá trị. Hoặc: Hãy đề phòng một cuộc đổi tiền tương tự năm 1959. Các bạn có thể mất hết của cải và kết quả mồ hôi nước mắt của các bạn.

Một trong những chiến dịch kéo dài và có quy mô rộng lớn khắp miền Nam là kế hoạch chiêu hồi lôi kéo cán bộ và chiến sĩ Quân giải phóng đầu hàng trở về với chính quyền Sài Gòn. Chương trình Chiêu hồi phát động dưới thời Đệ nhất Cộng hòa vào đầu năm 1963 dùng hai mẫu thực nghiệm: chương trình EDCOR của  Philippines để chiêu dụ lực lượng Cộng sản  Hukbalahap và chương trình của Sir Robert Thompson thuộc quân đội Anh để bình định Malaysia.

Bản tuyên cáo của  Ngô Đình Diệm ngày 17/4/1963 mở đầu chiến dịch Chiêu hồi bằng cách kêu gọi quân đội đối phương trở về với "chính nghĩa quốc gia". Chương trình này trực thuộc Bộ Công dân vụ dưới quyền của Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu và một thời mang tên Phong trào Chiêu tập Kháng chiến Lầm đường.

Sau năm 1963 thì phân ban Chiêu hồi trực thuộc Phủ Thủ tướng. Năm 1965 thì chuyển sang Bộ Thông tin. Sang thời  Đệ nhị Cộng hòa thì Chính phủ nâng Phủ Đặc ủy Dân vận Chiêu hồi thành Bộ Chiêu hồi riêng để điều hành hệ thống Chiêu hồi trên khắp 44 tỉnh thành của bốn  vùng chiến thuật. Mỗi tỉnh đều có Ty Chiêu hồi.

Năm  1967, chính phủ  Sài Gòn đưa ra chính sách "Đại đoàn kết". Theo đó thì các thành phần “hồi chánh” không những được giúp đỡ để tái định cư và đoàn tụ cùng gia đình mà còn được trưng dụng tài năng tương xứng với công việc ở bên kia chiến tuyến. Chính sách này chưa mấy đắc dụng thì cuộc  Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 xảy ra. Sự kiện này làm gián đoạn chương trình Chiêu hồi vì tình hình an ninh bất ổn, nhưng đến năm 1969 thì số lượng hồi chánh lại tăng, đạt tổng số 47.023 người cho năm 1969.

Trong thời gian từ năm 1963 đến 1973, chương trình Chiêu hồi thu nhận hơn 194.000 người hồi chánh.

Người hồi chánh được chuyển vào 1 trong hơn 200 trại để học tập chính trị trong thời gian từ 4 đến 6 tuần. Cùng lúc đó họ được phát quần áo và thức ăn, đến khi xuất trại thì trả về nguyên quán hoặc định cư ở những vùng ấn định. Một số được tuyển dụng vào Cục Tâm lý chiến.

Ngày  18/2/1973, Bưu chính Việt Nam Cộng hòa cho phát hành con tem "Chiêu hồi" trị giá 10 đồng, kỷ niệm người hồi chánh thứ 200.000.

Bộ máy chiêu hồi trong guồng máy chiến tranh tâm lý cũng được chính quyền Sài Gòn hết sức chú ý và đẩy lên mức phát triển cao nhất trong thời Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước ngày 30/4/1975, Bộ Chiêu hồi do Hồ Văn Châm làm Tổng trưởng đã có 53 trung đoàn chiêu hồi ở khắp các tỉnh thành với 80 đội chiêu hồi và quân số là 7.222 tên.

Trong cuốn “Những hoạt động phá hoại và lật đổ của CIA ở Việt Nam” tác giả Dương Thông và Lê Kim viết:

Theo nhận xét của nhiều nhân viên CIA đã từng làm cố vấn cho ngụy trong cơ quan chiêu hồi, lôi kéo những người thuộc lực lượng đối phương chạy sang hàng ngũ quốc gia không phải là vấn đề mới. George Soripheus một chuyên gia chiêu hồi của CIA đã từng làm một luận án về vấn đề này. Trong luận án này đã rút ra nhiều kinh nghiệm từ những bài học của quân đội Anh tại Malaysia sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai.

Edward Lansdale, một điệp viên CIA Hoa Kỳ làm cố vấn cho Tổng thống Philippines cũng đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc mua chuộc, lôi kéo dụ dỗ nhiều phần tử ly khai trong hàng ngũ quân đội giải phóng Hukbalahap do Đảng Cộng sản lãnh đạo quay trở về quy thuận Tổng thống Magsasay. Phòng Nhì của quân đội thực dân Pháp trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương 1946-1955 cũng đã thực hiện nhiều âm mưu thủ đoạn lôi kéo những phần tử thoái hóa trong lực lượng kháng chiến đầu hàng bọn chúng.

Như vậy có nghĩa là CIA đã kết hợp những kinh nghiệm của bản thân cộng với kinh nghiệm của đế quốc Anh và thực dân Pháp để hoàn chỉnh cái gọi là Công tác chiêu hồi mà chúng đã truyền lại cho chế độ Sài Gòn suốt từ thời Ngô Đình Diệm đến thời Nguyễn Văn Thiệu.

Những người đầu hàng phản bội chạy sang hàng ngũ địch đã được khai thác và sử dụng đắc lực vào công tác chiến tranh tâm lý trong bộ máy chiêu hồi. Bộ máy chiêu hồi của Mỹ và Sài Gòn đã dùng đến 50 chiếc máy bay OV10, O2B có máy ghi âm và băng ghi âm sẵn, đài phát công suất 1.000W ghi tiếng nói của các chiêu hồi viên bay và phóng thanh trên các hành lang, khu căn cứ để tác động vào tinh thần cán bộ chiến sĩ giải phóng.

***

Với âm mưu xảo quyệt và với mọi cố gắng đầu tư cho vũ khí chiến tranh tâm lý nhằm hỗ trợ cho quân đội giành thắng lợi trên chiến trường, cuộc chiến tranh tâm lý của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở nước ta trong suốt 20 năm, có nơi, có chỗ thu được kết quả nhất định, gây nhiều khó khăn, trở ngại cho cho cuộc kháng chiến thống nhất đất nước của dân tộc ta nhất là những thời điểm cách mạng gặp khó khăn.

Nhưng kết cục của cuộc chiến tranh giải phóng với chiến thắng 30/4/1975 cuộc chiến tranh tâm lý cũng như cuộc chiến tranh quân sự của đế quốc Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã thất bại thảm hại, không thể khuất phục nổi tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, ý chí bảo vệ độc lập tự do của nhân dân ta.

Một chuyên gia nghiên cứu xung đột ở Thụy Điển, Berty Hadmann đã rút ra nguyên nhân thất bại của cuộc chiến tranh tâm lý khổng lồ do Mỹ và đồng minh tiến hành ở Việt Nam là họ đã gặp phải một cuộc phản chiến tranh tâm lý của những người Cộng sản Việt Nam như là một chiến dịch chiến tranh tâm lý lớn nhất trong lịch sử được sự ủng hộ của dân chúng, được kết hợp với một mức độ rộng lớn và tài tình nhất trong lịch sử.

http://antg.cand.com.vn/vi-vn/hosomat/2011/12/76821.cand
Logged

Mít sờ tơ Khù văn Khoằm
2007CT06
Thành viên

Bài viết: 1


« Trả lời #101 vào lúc: 18 Tháng Giêng, 2012, 01:59:43 pm »

Kính gửi các chú các bác trong diến đàn.
Cháu thuộc lớp sinh sau đẻ muộn, kiến thức về lịch sử dân tộc ngoài sách vở nhà trường thì hầu như không có gì khác cả.
Gần đây cháu vào topic này
http://www.lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=23691
Quả thực cháu không biết phải biện bác thế nào vì những gì hiểu biết về vấn đề người bị xử chém thời Diệm của cháu ngoài câu"lê máy chém" trong sách giáo khoa thì chỉ còn 1 tý trong cuốn "miền nam Việt Nam từ sau trận Điện Biên Phủ" của cụ Nguyễn Khắc Viện, cùng  lần nhớ mang máng có thấy trong bảo tàng lịch sử quân sự, không thể đem ra ngay để chống chế được
Vậy cháu mong các ú, các bác nào có nhiều hiểu biết về giai đoạn này ra tay giúp đỡ để tránh tình trạng có người bị mơ hồ thật giả
Logged
fddinh
Thành viên
*
Bài viết: 324


Mít sờ tơ Khù văn Khoằm


WWW
« Trả lời #102 vào lúc: 18 Tháng Giêng, 2012, 02:42:07 pm »

Kính gửi các chú các bác trong diến đàn.
Cháu thuộc lớp sinh sau đẻ muộn, kiến thức về lịch sử dân tộc ngoài sách vở nhà trường thì hầu như không có gì khác cả.
Gần đây cháu vào topic này
http://www.lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=23691
Quả thực cháu không biết phải biện bác thế nào vì những gì hiểu biết về vấn đề người bị xử chém thời Diệm của cháu ngoài câu"lê máy chém" trong sách giáo khoa thì chỉ còn 1 tý trong cuốn "miền nam Việt Nam từ sau trận Điện Biên Phủ" của cụ Nguyễn Khắc Viện, cùng  lần nhớ mang máng có thấy trong bảo tàng lịch sử quân sự, không thể đem ra ngay để chống chế được
Vậy cháu mong các ú, các bác nào có nhiều hiểu biết về giai đoạn này ra tay giúp đỡ để tránh tình trạng có người bị mơ hồ thật giả
Xem cái này http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1229.msg19187#msg19187
và của bác altus http://ttvnol.com/f_533/1034157 đi
Logged

Mít sờ tơ Khù văn Khoằm
jasmine2011
Thành viên
*
Bài viết: 170


« Trả lời #103 vào lúc: 01 Tháng Hai, 2012, 01:19:46 pm »

Các bác cho em hỏi: Có phải trong KCCM, đáng lẽ chúng ta đã có thể dùng Mig-25 và tên lửa chống hạm để làm một vài trận Manvinat; nhưng vì lí do Mĩ dọa dùng bom nguyên tử nên Liên Xô đã không thể viện trợ cho Việt Nam? Nếu đúng thì có thể cho em cái nguồn được chứ ạ?
Logged
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #104 vào lúc: 01 Tháng Hai, 2012, 02:53:22 pm »

Các bác cho em hỏi: Có phải trong KCCM, đáng lẽ chúng ta đã có thể dùng Mig-25 và tên lửa chống hạm để làm một vài trận Manvinat; nhưng vì lí do Mĩ dọa dùng bom nguyên tử nên Liên Xô đã không thể viện trợ cho Việt Nam? Nếu đúng thì có thể cho em cái nguồn được chứ ạ?

Có lẽ cái này mãi mãi chỉ là "trà chanh - chém gió",  Grin
Logged

HAN_DCT
Thành viên
*
Bài viết: 149



« Trả lời #105 vào lúc: 01 Tháng Hai, 2012, 03:16:47 pm »

Các bác cho em hỏi: Có phải trong KCCM, đáng lẽ chúng ta đã có thể dùng Mig-25 và tên lửa chống hạm để làm một vài trận Manvinat; nhưng vì lí do Mĩ dọa dùng bom nguyên tử nên Liên Xô đã không thể viện trợ cho Việt Nam? Nếu đúng thì có thể cho em cái nguồn được chứ ạ?
Bạn thử vào www.bocphet.alo có khi sẽ tìm thấy đấy Grin
Logged

Biết rồi! Khổ lắm! Nói... nói cái gì ấy nhỉ?
Ca_Pố_Sai
Thành viên
*
Bài viết: 33



« Trả lời #106 vào lúc: 01 Tháng Hai, 2012, 03:59:36 pm »

Các bác cho em hỏi: Có phải trong KCCM, đáng lẽ chúng ta đã có thể dùng Mig-25 và tên lửa chống hạm để làm một vài trận Manvinat; nhưng vì lí do Mĩ dọa dùng bom nguyên tử nên Liên Xô đã không thể viện trợ cho Việt Nam? Nếu đúng thì có thể cho em cái nguồn được chứ ạ?
Đỏ: Bác cho em hỏi bác đọc/nghe từ nguồn nào/ai nói như thế? Bác trích dẫn hay nêu tên cụ thể nguồn hoặc người viết/nói như thế cho bác hộ em phát?

Cái đỏ bác làm không được thì cái xanh lá em có thể trả lời với bác là: Cướp ở đâu ra! Grin

Mà cái Mavinat đến tận năm 1982 lận, sớm hơn, quãng năm 1972 nếu có thì là bố của Mavinat chứ Mavinat tuổi gì so sánh.

Mig-23, đến giờ VN còn chưa có nói gì đến Mig-25 trong thời điểm những năm 60 - 70 của thế kỷ trước.
Logged
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #107 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2012, 12:12:30 am »

Nhân có cái bản đồ của bác TNTL

http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,23291.msg356080.html#msg356080

Em tranh thủ hỏi phát. Em đi Bà Nà, tức đỉnh 1487 trong bản đồ, thì khu vực thấp hơn định khoảng 30-50m, tại một góc khá bằng phẳng, có mấy căn biệt thự cổ, nhìn thẳng về biển được. Tại đây, anh hướng dẫn viên (đây là từ cái thời Bà Nà còn khá hoang sơ, chưa khai thác kinh khủng như bây giờ) có chỉ em cái hầm rượu của Pháp. Anh í bảo ngày xưa, QGP có đặt pháo tại vị trí này, khi cần giấu pháo thì kéo vào hầm. Chuyện này liệu có không ạ, theo em nhớ, lúc em đi, cái cửa hầm không bé thế này. Nhưng chuyện kéo pháo lên đến đỉnh cao trên 1400m, đường mòn ngựa đi (đường nhựa bây giờ, cũng toàn là cua tay áo, chơi vơi miệng vực, tầm daewoo lanos 4 chỗ, không có cửa leo được 1/3 đường), còn rừng nguyên sinh, liệu khả thi không  Grin

http://www.panoramio.com/photo/51972273

« Sửa lần cuối: 08 Tháng Hai, 2012, 12:20:43 am gửi bởi selene0802 » Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #108 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2012, 10:35:46 am »

Chuyện này selene tìm xem hồi ký của cụ Hoàng Đan, cụ Chu Huy Mân và một cụ quên tên nguyên Et e pháo binh 40 B3 sau sang chủ nhiệm pháo binh QK5 thời đó có nói đấy - tháo ra và vác lên lắp lại để trực xạ. Chính xác ở cuốn nào thì mình không nhớ. Còn một số bác cựu 304 thì xác nhận là có nhưng lâu rồi mình cũng không nhớ chính xác.
Logged
quangcan
Global Moderator
*
Bài viết: 3233



« Trả lời #109 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2012, 03:36:04 pm »

Trích dẫn
Anh í bảo ngày xưa, QGP có đặt pháo tại vị trí này, khi cần giấu pháo thì kéo vào hầm. Chuyện này liệu có không ạ, theo em nhớ, lúc em đi, cái cửa hầm không bé thế này. Nhưng chuyện kéo pháo lên đến đỉnh cao trên 1400m, đường mòn ngựa đi (đường nhựa bây giờ, cũng toàn là cua tay áo, chơi vơi miệng vực, tầm daewoo lanos 4 chỗ, không có cửa leo được 1/3 đường), còn rừng nguyên sinh, liệu khả thi không

Câu hỏi của selene0802, theo mình thì chưa đủ dữ kiện để có thể giải đáp rõ ràng? Ví dụ:
1. bác HDV du lịch kia không nói năm nào?
2. khái niệm pháo thì người không chuyên hiểu khác với anh em ta,  Grin, với họ thì cái gì cũng là pháo tuốt, kể cả cối (pháo cối).
3. pháo lên Bà Nà để bắn đi đâu, về Đà Nẵng hay về Thượng Đức?
4. thứ nữa là với một điểm cao lợi hại như vậy, ta đặt pháo kéo ra kéo vào vậy Mỹ - ngụy có nhìn nhận gì? đánh giá thế nào? Mình là nó thì mình lập cái căn cứ trên đó trước, cẩu pháo 105 lên mà bắn, kiểu như ở núi Bà Đen ấy,  Grin

Giải đáp 1 và 2 này:
Đánh giá về pháo binh ta tại mặt trận các tỉnh duyên hải Trung trung bộ mình thấy như sau:
- ngay từ đầu các đơn vị pháo binh vào QK V cũng đã có pháo (pháo 75), cối thì đa dạng; đặc biệt có A12 và đặc công nước chuyên dùng bám đánh sân bay Chu Lai, sân bay - cảng Đà Nẵng, các tổng kho quan trọng của địch. Tuy vậy, qua thực tế chiến trường nhận thấy không thể dùng pháo lớn do địch càn quá ác liệt, địa hình trống trải, không có căn cứ độc lập dấu pháo; nhất là dễ bị địch phát hiện hủy diệt, không phù hợp với chiến thuật tại vùng đồng bằng là "nhanh - gọn - bất ngờ - hiệu quả cao". Bạn có thể hình dung kiểu như E10 đặc công rừng Sác đánh mấy trận pháo kích ấy,  Grin. Hơn thế nữa, khi đi cùng bộ binh và tạo hiệu quả áp chế địch thì cối, hỏa tiễn, pháo mang vác cũng đã phát huy được tác dụng. Mình nhớ, ngay như sư đoàn 3 thì các chú đã phải chôn pháo 85mm, đánh cối; đến tận chiến dịch bắc Bình Định 1972, bảo vệ phòng tuyến Hoài Ân - Hoài Nhơn, thọc sát đường 1 thì ta mới thu được pháo 105 ly hình thành bộ phận pháo xe kéo (chú thích thêm rằng lúc đó ta đã làm chủ cả vùng rừng núi An Lão, Hoài Ân phía sau rồi đó). Hoặc như trung đoàn pháo binh 572 khi cùng sư đoàn bộ binh 711 đánh Cấm Dơi - Quế Sơn 1972 thì mới được Bộ cho vào pháo 130mm. Thế trận, địa hình, thời cơ và điều kiện thuận lợi nên từ đó ta mới trang bị và bổ sung cho F3, F2, F711 hay sau này là lữ đoàn 52 các đơn vị pháo lớn (105, 122, 130) và thành lập hẳn các trung đoàn pháo binh trực thuộc sư đoàn đấy nhé. Có phải Bộ không hiểu tác dụng của pháo lớn đâu,  Grin.

Giải đáp 3 và 4 này:
- bắn về Đà Nẵng thì nó cách 48km cơ đấy, liệu hiệu quả đến đâu? bắn về Thượng Đức à? đấy là một căn cứ kiên cố xung quanh nó có nhiều điểm cao án ngữ bảo vệ rồi đấy. Việc cẩu pháo lên không vấn đề gì với Mỹ ngụy nhưng liệu sử dụng nó thế nào đây cho hiệu quả?

Về ta:
- có thể nói đến cuối 1974 ta mới hình thành phương thức pháo binh bắn thẳng - tức là đưa pháo lớn (105ly) lên điểm cao chiến lược, chúc nòng bắn thẳng trực diện xuống căn cứ địch, uy lực khủng khiếp, hiệu quả cực cao. Ở khu 5 thì đó là kết quả của E68 F3 ở đường 19 tháng 3/1975, F304 ở Thượng Đức,.... đấy. Việc mang pháo lên thì hoàn toàn nhờ vào đôi tay, khối óc và công sức của người lính: dỡ ra mà vác lên từng bộ phận, lắp vào là bắn; cũng bõ công nhỉ. Vậy khi F304 mở toang cánh cửa Thượng Đức để tiến về Đà Nẵng rồi; các sư đoàn 2 + lữ đoàn 52 hành tiến về giải phóng Đà Nẵng trong thế chẻ tre: hành tiến đánh địch dọc đường 1, bỏ lại các xã hai bên, chọc thẳng về Đà Nẵng để tranh thủ thời cơ (chỗ này có chuyện sếp Chơn cách chức E trưởng E38 vì lề mề tiến chậm đó) thì có cần treo pháo lên Bà Nà? F304 cũng có cần treo pháo lên Bà Nà để bắn về Thượng Đức không khi đánh và làm chủ được các điểm cao xung quanh thì từ trên đó pháo 85 trực xạ đã đáng sợ lắm rồi,  Grin

- giai đoạn trước 1974 thì khi phụ trách bám đánh quân cảng, sân bay Đà Nẵng + Chu Lai thì ví dụ như tiểu đoàn 577 phải hậu cứ (thường là Hòn Tàu) vượt qua đường số 1, đặt trận địa sát các vùng ven đô, đánh nhanh và rút nhanh về hậu cứ trong đêm. Khi bị địch càn phá thì buộc phải cử một đơn vị xuống bám hẳn vùng đồng bằng, lực lượng gọn nhẹ + bắn không nòng; vị trí tốt nhất chắc chắn phải là các xã thuộc Điện Bàn rồi,  Grin. 577 thường sử dụng pháo ĐKB cải tiến, tầm bắn hiệu lực trong vòng 8-10km thôi.

Vậy đấy,  Grin
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Hai, 2012, 03:41:36 pm gửi bởi quangcan » Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM