BÌNH THƯỜNG HOÁ quan hệ hai nước:
Lịch sử chứng minh rằng chủ trương xuyên suốt của lãnh đạo của Trung Quốc là luôn muốn biến Việt Nam thành vùng “đệm” trong cuộc chiến với Pháp (1883-1954), Mĩ (1955-1975). Vì chủ trương chiến lược đó nên khi cần, Trung Quốc chỉ giúp Việt Nam đủ sức cầm cự chiến đấu chứ không đủ sức chiến thắng hoàn toàn. Trung Quốc cũng thừa biết vì thế kẹt “sanh dựa thần, thần dựa cây đa”, Việt Nam phải chấp nhận thực tế đó. Do vậy, dù muốn hay không, sau hồi quay lưng lại nhau, Việt Nam và Trung Quốc đều phải đối thoại và quan hệ với nhau.
Sau chiến sự 2/1979, từ tháng 4/1979 Đàm phán vòng 1 Việt Nam - Trung Quốc tại Hà Nội, đến tháng 01/1980, đàm phán vòng 2 tại Bắc Kinh. Không kết quả. Trung Quốc cắt cầu đàm phán. Từ đó đến cuối năm 1988, VN nhiều lần gửi công hàm hoặc thư đề nghị nối lại đàm phán, song Trung Quốc đều bác bỏ.
Những năm cuối thập kỷ 1980, thế giới có những biến chuyển lớn. Trong hoà hoãn giữa ba nước lớn, vai trò Trung Quốc lúc này vẫn lép nhất, hoà hoãn Xô - Mỹ phát triển mạnh nhất. Trong bối cảnh đó cả 2 nước Việt Nam và Trung Quốc đều có những thay đỏi về quan niệm để cải tiến mối quan hệ.
Ngày 08/07/1986 Hội nghị 32 BCTTW ĐCSVN ra Nghị quyết: chuyển sang giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ; giải quyết hoà bình vấn đề Campuchia. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (15-18/12/1986) đã sửa Lời nói đầu của Điều lệ Đảng, xoá chỗ nói về Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”. Ngày 20.5.88, BCT ra nghị quyết 13 chủ trương giải quyết vấn đề Campuchia trước năm 1990 và phấn đấu bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc . Nghị quyết nói rõ: “Phấn đấu bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc là một quá trình gay go, phức tạp, đòi hỏi có thời gian. Sau khi bình thường hoá, quan hệ hai nước khó trở lại ngay như những năm 50, 60. Cuộc đấu tranh tiếp tục dưới nhiều hình thức khác, không như tình trạng đối đầu như hiện nay… chúng ta phải luôn cảnh giác, chuẩn bị tốt về mọi mặt khi bước vào cuộc đấu tranh mới, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn xấu hòng làm suy yếu ta, “diễn biến hoàn bình”, chia rẽ, phá hoại nội bộ, chia rẽ 3 nước Việt nam, Lào, Campuchia… Cần phòng ngừa, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, chỉ thấy giới hạn Trung Quốc là bá quyền, không thấy Trung Quốc là XHCN; hoặc chỉ thấy Trung Quốc là XHCN mà không thấy bá quyền, bành trướng.” Ngày 26/06/1987 BTNG Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung Quốc chuyển thông điệp miệng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi lãnh đạo Trung Quốc đề nghị mở đàm phán bí mật hai nước. Ngày 28/8/1988, Quốc hội ra nghị quyết sửa Lời nói đầu của Hiến pháp, bỏ đoạn nói về Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, lúc này đã từng bước thích nghi với thế cục bớt căng thẳng với Việt Nam. Quan hệ Trung – Xô cải thiện chậm so với quan hệ Mỹ – Xô, làm cho vị trí của Trung Quốc bị yếu trong quan hệ giữa ba nước lớn nên TQ cần thích ứng mới. Sự điều chỉnh chiến lược này đã được xác định tại Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Bắc Đới Hà tháng 9 năm 1988, và được công khai hoá tại Quốc hội Trung Quốc tháng 3.89. Ngày 24.12.88, trả lời thư ngày 15.12 của Bộ trưởng ngoại giao ta, phía Trung Quốc mời một thứ trưởng ngoại giao Việt Nam tới Bắc Kinh để trao đổi ý kiến giữa thứ trưởng ngoại giao hai nước chuẩn bị cho cuộc gặp cấp ngoại trưởng Trung-Việt. Sau 10 năm đối đầu gay gắt và sau 8 năm một mực từ chối đàm phán với ta, đây là lần đầu Trung Quốc nhận đàm phán với Việt Nam về vấn đề Campuchia và về bình thường hoá quan hệ hai nước, thực hiện bước chuyển sách lược ở Đông Nam Á phục vụ cho việc chuyển chiến lược chung của Trung Quốc trên thế giới và trong quan hệ với Xô, Mỹ.
Từ 16-19/01/1989, Việt Nam nối lại đàm phán với Trung Quốc để cố gắng bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc đồng thời khẳng định thái độ ủng hộ Nhà nước Campuchia giữ vững thành quả cách mạng. Trong nửa đầu năm 1989, đã có hai vòng đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao giữa ta với Trung Quốc (Đinh Nho Liêm và Lưu Thuật Khanh) tại Bắc Kinh. Vòng đầu (16-19.1.89). Nhưng TQ vẫn có những tính toán sâu xa.
Ngày 21/10/1989 Bộ Chính trị ĐCSVN đã họp để nhận định về phát biểu của Đặng Tiểu Bình khi tiếp Kayson cuộc họp đã đi đến kết luận là: trong lúc Trung Quốc đang còn găng với ta, ta cần có thái độ kiên trì và thoả đáng, không cay cú, không chọc tức nhưng cũng không tỏ ra nhún quá. Sau đó, ngày 6.11.89, BTNG Nguyễn Cơ Thạch đã chuyển qua đại sứ Trung Quốc thông điệp miệng của TBT Nguyễn Văn Linh gửi Đặng Tiểu Bình, ngỏ ý mong sớm có bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đến ngày 12.12.89, Đại sứ Trung Quốc mới gặp BTNG Việt Nam chuyển thông điệp miệng của Trung Quốc trả lời TBT Nguyễn Văn Linh, vẫn đặt điều kiện cho việc nối lại đàm phán với ta: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo khác của Trung Quốc chân thành mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ Trung – Việt...Việc khôi phục quan hệ hữu nghị giữa hai nước chưa có thể cải thiện nếu bỏ qua vấn đề Campuchia” Về bình thường hoá quan hệ hai nước, phía Trung Quốc không mặn mà gì với gợi ý của ta về việc xích lại gần hơn giữa hai nước XHCN để cứu vãn sự nghiệp XHCN chung trên thế giới đang lâm nguy. Trung Quốc chỉ đặt quan hệ với Việt Nam trong khuôn khổ chung sống hoà bình như với các nước láng giềng khác.
Ngày 10/04/1990 BCT ĐCSVN họp bàn đề án đấu tranh ngoại giao về vấn đề Campuchia trong tình hình thế giới có biến đổi và chủ trương cải thiện hơn nữa mối liên kết với Trung quốc bảo vệ CNXH vì lợi ích chung của cả 2 bên. Ngày 29.8.90, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. Từ tháng 3.91, tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Trung – Việt đã tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề Campuchia. Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan trọng, trong đó có phương sách đối ngoại. Trong khi Việt Nam muốn cùng Trung Quốc “bảo vệ CNXH chống đề quốc” thì bạn đã xác định quan hệ với ta là 亲而不近,疏而不遠,争而不鬬 “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau, khẳng định hai bên là “đồng chí, không là đồng minh”. Ngày 08-10/08/1991 Vòng 5 đàm phán Việt – Trung cấp thứ trưởng tại Bắc kinh về bình thường hoá quan hệ.
Sau nhiều nỗ lực của quốc tế, Ngày 23/10/1991, Hiệp định hoà bình Campuchia được ký kết tại Paris (Pháp), là cơ hội để TQ và VN xích lại gần nhau hơn. Để chính thức việc bình thường hoá quan hệ hai nước, theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5.11.91, TBT Đỗ Mười và thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm chính thức nước CHND Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Như thế, “Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau... Quan hệ Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những năm 50-60...”