Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:47:50 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến tranh biên giới phía Bắc, 2/1979  (Đọc 640699 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
OldBuff
Moderator
*
Bài viết: 3053


Vì nhân dân quên mình


« Trả lời #20 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2008, 06:49:31 pm »

Ảnh dưới: Phòng chỉ huy phân đội. Các vị trí gồm: sĩ quan chỉ huy phân đội (tay cầm ống nói đọc lệnh), tiêu đồ 99 đi đường bay trên bàn tiêu đồ phương vị (đeo tai nghe), tiêu đồ 55 đánh dấu tọa độ hỏa lực và các nhân viên báo vụ, truyền hướng
Logged

Thượng tôn công lý - Chế áp cường quyền
OldBuff
Moderator
*
Bài viết: 3053


Vì nhân dân quên mình


« Trả lời #21 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2008, 06:52:07 pm »

Ảnh dưới: Đạn Hồng Kỳ 2 rời bệ phóng
Logged

Thượng tôn công lý - Chế áp cường quyền
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 14 Tháng Mười Một, 2008, 09:08:23 pm »

Hôm nay lục trong đống tài liệu lưu thấy cái chiến lệ này, nó "bình giảng" trận phòng ngự bảo vệ Đồng Đăng năm 1979. Chiến lệ đã được cắt bớt phần bảng kẻ gồm có địch, ta, kết quả chiến đấu,... Grin
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Mười Một, 2008, 09:11:22 pm gửi bởi dongadoan » Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
TQNam
Thành viên
*
Bài viết: 1267


« Trả lời #23 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 03:38:31 pm »

Chiến tranh Việt-Trung

Chiến tranh Trung-Việt diễn ra vào năm năm 1979 giữa hai lân bang của CHNDTH và Việt Nam. Sau một tấn công bất ngờ ngắn ngày vào miền Bắc Việt Nam, CHNDTH rút một tháng sau đó, và cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng.

Trong gia đoạn đầu của chiến tranh Việt -Pháp, Trung Quốc Cộng sản và Việt Nam đã liên kết chặc chẻ, với cùng mối nghi kỵ về sự cai trị của Pháp ở Việt Nam.  Trong quá trình xung đột cả CHNDTH và Liên Xô đều trợ giúp Việt Nam; những đồng chí chống kẻ thù thực dân.

Với cái chết của Stalin, tình hình đã thay đổi, theo đó mối quan hệ thù địch ngày càng tăng, và cuối cùng là sự phân hóa Trung-Xô. Kể từ lúc này về ngững người CS Việt Nam, từng bước nhích lại với Liên Xô. Cả hai Liên Xô và Trung Quốc tiếp tục tiếp tế cho miền Bắc Việt Nam trong các cuộc chiến tranh chống lại miền Nam, và phía Mỹ, Pháp, Úc ủng hộ miền Nam.

Người Xô-viết chào đón sự thay đổi này, và họ thấy Việt Nam như một cách để chứng tỏ mình là "thực lực" cộng sản hậu trường ở phương Đông. Trong bối cảnh này sợ hãi hiệu ứng domino của chính quyền Hoa Kỳ trong một chừng mực có vẽ là hữu lý, như người Xô-viết đã nổ lực trở lôi kéo các quốc gia đi theo họ. Vấn đề đối với sự diễn giải của Hoa Kỳ là những gì họ thấy như là một chuỗi thống nhất và lớn mạnh của sự bành trướng Cộng sản đã được mở rộng trong thực tế, ít nhất là sự quan tâm càng nhiều của Xô-viết trong việc cô lập CHNDTH.

Các mối quan hệ Việt-Xô là một phát triển đáng lo ngại đối với CHNDTH. Sự việc dường hết sức rõ ràng là người Xô-viết cố gắng để bao vây Trung Quốc.

 Sự đáp trả của CHNDTH có hai mặt: một mặt họ bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, cao nhất trong các cuộc họpcao cấp  với Henry Kissinger rồi sau đó là với Richard Nixon. Trong khi đó, họ cũng hỗ trợ các chế độ Khmer Đỏ do Pol Pot lãng đạo ở Cam-pu-chia. CHNDTH hỗ trợ Campuchia một phần là do nguyên nhân ý thức hệ, rồi một phần là để giữ cho Việt Nam "trong khung" giữa CHNDTH ở phía bắc và Campuchia ở phía Tây.

Sự thành công của hai lân bang tạo mộ tác động mạnh mẽ trong quan điểm của CHNDTH và Liên-xô trong khu vực: Sau sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn vào năm 1975, Việt Nam thì ổn định, trong khi Cam-pu-chia rơi vào sự hổn mang diệt chủng

Mặc dù Việt Nam và Khmer Đỏ đã từng hợp tác, các mối quan hệ đã xấu đi khi lãnh đạo Pol Pot nắm quyền lực và thiết lập Campuchia dân chủ. Chế độ Campuchia bắt đầu đòi "trả về" cho Cam-pu-chia một bộ phận đất đaibị "mất" hồi thế kỷ trước đó. Chẳng ngạc nhiên gì, Việt Nam từ chối lời yêu cầu, và Pol Pot đáp trả bằng cách thảm sát người Việt sống trong nội địa Cam-pu-chia, và vào năm 1978, hỗ trợ quân du kích người Việt Nam tấn công phía Tây Việt Nam.

Thực tế Campuchia được CHNDTH hỗ trợ, Việt Nam đã thăm dò Xô-viết những hành động có thể có. TXô-viết thấy đây là một cơ hội lớn; quân đội Việt Nam, vừa mớibước ra khỏi cuộc chiến chống Mỹ, có thể sẽ dễ dàng đánh bại lực lượng Campuchia. Điều này sẽ không chỉ bóc đi cái tư thế của CHNDTH - thế lực chính trị hàng đầu trong khu vực, mà đồng thời còn thể hiện lợi ích đang nổi lên của Liên-xô. Việt Nam đã được khích lệ một cách tương ứng đối với hệ quả ẩn sau đó; Lào đã là một đồng minh chặc chẻ; nếu Campuchia mà quay "trở lại," Việt Nam sẽ nổi lên như là một Siêu cường chủ yếu của khu vực, một đầu lĩnh chính trị nắm đa số ở Đông Dương.

Hẳn nhiên là CHNDTH hoàn toàn không hài lòng thế cuộc nầy, và họ phải xem xét xét đến các phản ứng có thể có. Trong một thời gian nhiều tháng liền trong năm 1978, người Xô-viết nói rõ rằng họ hỗ trợ Việt Nam chống lại sự tấn công của Campuchia. Họ cảm thấy nước cờ chính trị nầy có tác dụng loại Trung Quốc ra ngoài mọi sự đối đầu trực tiếp, trong khi nó cho phép Việt Nam và Campuchia đấu với nhau trong một chiến tranh ủy nhiệm của Trung-Xô.

Vào cuối năm 1978, Việt Nam xâm lân Campuchia. Như mong muốn, quân đội Việt Nam có kinh nghiệm và được trang bị tốt đã không khó mấy trong việt quét sạch  lực lượng Khmer Đỏ. Vào ngày 7/1/1979 quân đội Việt Nam đã loại lực lượng Cam-pu-chia chiếm Phnom Penh, kết thúc chế độ Khmer Đỏ.

Không cần biết tới Liên-xô, với sự hậu thuẩn của Hoa Kỳ, CHNDTH đã công khai phản đối ngày càng mạnh. CHNDTH thấy thật là đơn giản Liên-xô không có cách nào hỗ trợ trực tiếp cho Việt Nam chống lại họ; khoảng cách địa lỳ là quá lớn cho một sự hổ trợ hiệu quả, và bất kỳ sự tiếp viện nào cũng phải đi qua khu vực do CHNDTH và các đồng minh của Mỹ kiểm soát. Sự lựa chọn thực tế duy nhất mở ra cho Liên-xô là gián tiếp, tái khởi động chiến tranh biên giới âm ĩ ở phía Bắc Trung Quốc. Việt Nam là nhân tố quan trọng trong chính sách Xô viết, nhưng họ thấy chưa đủ quan trọng để đi đến chiến tranh toàn diện.

Ngày 15/2 CHNDTH tuyên bố công khai ý định xâm lược của họ vào. Vài nhà quan sát đã nhận ra tầm quan trọng có tính biểu trưng của ngày này, nó đánh dấu sự chấm dứt hliêu lực Hiệp ước Trung-Xô 1950, và vì vậy, lần đầu tiên CHNDTH có thể "chính danh" xâm lược một đồng minh của Xô viết mà không vi phạm điều ước mình tham gia.  Lý do kê ra cho sự xâm lăng là sự ngược đãi sắc tộc tưởng tương đối với thiểu số người Hoa ở Việt Nam và sự chiếm đóng quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Hai ngày sau ngày 17 tháng Hai, một lực lượng to lớn với khoảng 90.000 quân có xe yểm hỗ trợ của Quân Giải phóng Nhân dân TQ tiến vào miền Bắc Việt Nam. Nhiều đơn vị tinh nhuệ Việt Nam đang ở Campuchia, họ trấn giữ vùng đất mới chiếm được. Chính phủ Việt Nam chỉ còn lại một lực lượng khoảng 100.000 quân thường trực và các đơn vị biên phòng khu vực phía Bắc. QĐGPNDTQ tiến sâu bốn mươi km vào Việt Nam, với các trận đánh diễn ra chủ yếu ở các tỉnh Cao Bằng, Lào Cai, và Lạng Sơn. Họ đã mở cánh cửa tiến vào Hà Nội rồi tuyên bố nhiệm vụ trừng phạt của họ đã đạt được, và bắt đầu rút lực lượng vũ trang. Quá trình rút quân hoàn tất trước ngày 16/3. Việt Nam tuyên bố rằng họ đã đánh bại đạo quân 600.000 người của Trung Quốc.

Cho đến ngày nay, cả hai phía xung đột đều mô tả mình là người chiến thắng. Có sự tranh cải về số thương vong  và Việt Nam cho rằng Trung Quốc có 60.000 người bị thương và 20.000 tử vong. Trung Quốc nói họ bị thương từ  20.000 đến 30.000 người Việt Nam thiệt hại khoảng 40.000 đến 60.000 người.

Ngoài ra còn có tranh luận về những người " chiến thắng" trên khía cạnh chính trị. Câu trả lời hầu như chỉ phụ thuộc vào mục tiêu định trước của mỗi bên. Nếu mục đích của CHNDTH là nhằm Việt Nam rút khỏi Cam-pu-chia thì họ không thành công – bởi có một số đơn vị nhất định đã rời Campuchia để đánh nhau với Trung Quốc nhưng Cam-pu-chia vẫn nằm dưới sự chiếm đóng quân sự của Việt Nam thêm một thời gian. Cũng như thế, các tranh chấp biên giới giữa CHNDTH và Việt Nam đã không được giải quyết. Tuy nhiên, nếu các mục tiêu của CHNDTH đơn thuẩn là sự trừng phạt, cuộc chiến tranh có vẻ thành công hơn. Ngoài ra còn có các nhận định rằng CHNDTH toan tính một cuộc kiểm tra ý chí của Liên Xô, nước đã cam kết bảo vệ Việt Nam - nếu như vậy, thì cái liên minh này có lẽ đã được chứng minh là không hề có, ví như Liên Xô đã không có một sự trợ giúp trực tiếp cho Việt Nam trong xung đột. Có thể là một số người phản đối, song, ngay cả khi không có sự giúp đỡ cần thiết, Liên-xô và Việt Nam đều cho rằng Việt Nam đã đánh bại đạo quân Trung Quốc 600.000 ngưới.

Di sản của cuộc chiến là lâu dài, đặc biệt đối với Việt Nam. Các cuộc đụng độ nhỏ thỉnh thoảng tiếp diễn trên biên giới trong những năm 1980. Quan hệ giữa hai láng giềng chỉ được cải thiện vào đầu những năm 1990 sau sự sụp đổ của Liên Xô.

Chiến tranh cũng tạo ra một cuộc di cư của thiểu số Hoa kiều tại Việt Nam, những người bị phân biệt đối xử. Họ chạy trốn như "những thuyền nhân" và được tái định trong nhiều khu Hoa kiều và trong các cộng đồng châu Á ở Úc, Châu Âu, và Bắc Mỹ.

Ở CHNDTH, cuộc chiến tranh này ít được nói đến. Trong sách giáo khoa lịch sử Việt Nam, chiến tranh được xem là một sự đụng độ biên giới nhỏ, nó được đề cập đến trong đôi hoặc ba dòng.  Chỉ những người già ở các tỉnh phía Bắc biết rõ về cuộc chiến.

Nguồn: http://www.chinadetail.com/History/MilitaryDevelopmentSinoVietnameseWar.php

Logged
TQNam
Thành viên
*
Bài viết: 1267


« Trả lời #24 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2008, 03:50:12 pm »

Sự xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam - tháng Hai 1979

Bruce Elleman

Các mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu xấu đi nghiêm trọng vào giữa thập niên 1970.Sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ Kinh tế (Comecon) do Liên-xô chi phối và ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô năm 1978, Trung Quốc đính cho Việt Nam cái danh "Cuba phương Đông" và gọi Hiệp ước nầy là một liên minh quân sự. Các biến cố dọc theo biên giới Trung-Việt Nam tăng lên thường xuyên và dữ dội hơn. Tháng mười hai 1978 Việt Nam xâm lược Campuchia, nhanh chóng lật đổ chế độ Pol Pot do Bắc Kinh ủng hộ, và chiếm đóng nước nầy.

Cuộc tấn công bất ngờ hai mươi chín ngày của Trung Quốc vào Việt Nam trong tháng Hai 1979 là một phản ứng lại với cái mà Trung Quốc coi là một loạt hành động và chính sách khiêu khích của phía Hà Nội.  Những điều nầy bao gồm sự thân mật của Việt Nam với Liên Xô, sự kỳ thị Hoa kiều sống tại Việt Nam, "giấc mơ đế quốc " có tính bá quyền tại khu vực Đông Nam Á và khước từ nổ lực của Bắc Kinh trong việc hồi hương Hoa kiều ở Việt Nam về Trung Quốc.

Cuộc tấn công bất ngờ hai mươi chín ngày của Trung Quốc vào Việt Nam trong tháng Hai 1979 là một phản ứng lại với cái mà Trung Quốc coi là một loạt hành động và chính sách khiêu khích của phía Hà Nội. Những điều nầy bao gồm sự thân mật của Việt Nam với Liên Xô, sự kỳ thị Hoa kiều sống tại Việt Nam, "giấc mơ đế quốc " có tính bá quyền tại khu vực Đông Nam Á và khước từ nổ lực của Bắc Kinh trong việc hồi hương Hoa kiều ở Việt Nam về Trung Quốc.

Vào tháng Hai 1979 Trung Quốc tấn công hầu như toàn tuyến biên giới Việt -Trung trong một chiến dịch ngắn ngày và giới hạn với lực lượng trên bộ. Trung Quốc tấn công vào rạng sáng ngày 17/02/1979 với bộ binh, xe tăng và pháo binh. Không lực đã không tham gia lúc đó cũng như trong suốt cuộc chiến. Trong vòng một ngày, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã tiến sâu vào Việt Nam khoảng tám km trên toàn mặt trận.  Sau đó bước tiến chậm lại và hầu như sa lầy bời sự kháng cự mạnh mẽ của Việt Nam và do những khó khăn trong hệ thống hậu cần của Trung Quốc. Vào ngày 21/02/1979, có một bước tiến ở Cao Bằng vùng cực bắc và ở các nơi khác, đặc biệt là khu vực tuing tâm Lạng Sơn.  Quân Trung Quốc đã tiến vào Cao Bằng ngày 27/02, nhưng thành phố này chưa thất thủ cho đến ngày 02/03. Lang Son fell two days later. Lạng Sơn thất thủ hai ngày sau đó.  Ngày 05/03, Trung Quốc nói rằng Việt Nam đã bị trừng trị đích đáng, họ thông báo rằng chiến dịch đã hoàn tất. Bắc Kinh tuyên bố "bài học" đã kết thúc và QGPNDTQ rút hoàn toàn vào ngày 16/03.

Hà Nội miêu tả sau cuộc tấn công biên giới bất ngờ là Bắc Kinh đã thất bại về quân sự nếu không nói là thất bại hoàn toàn. Hầu hết các nhà quan sát nghi rằng Trung Quốc sẽ mở một cuộc chiến khác với Việt Nam trong tương lai gần. Gerald Segal, trong cuốn sách Trung Quốc bào chữa, của mình hồi 1985 đã kết luận rằng cuộc chiến chống Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc đã thảm bại: "Trung Quốc không ép được Việt Nam rút quân [từ Campuchia về], không thành công trong việc kết thúc xung đột biên giới, không loại được mối nghi ngờ về sức mạnh của cường quốc Xô-viết, không xóa được hình ảnh Trung Quốc chỉ là con hổ giấy, và không lôi kéo được Hoa Kỳ vào một liên minh anti-Xô-viết. Tuy nhiên, Bruce Elleman cải lại rằng," một trong những ghi điểm cơ bản về ngọại giao đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là đã phô ra thấy những lời bảo đảm của Xô viết về quân sự cho Việt Nam chì là dối trá. Theo lăng kính nầy, chính sách của Bắc Kinh đã thực sự thành công về ngoại giao, một khi Moscow không can thiệp tích cực, và như vậy nó cho thấy cái hạn chế thực tế của các Xô-Việt hiệp ước. Trung Quốc đã đạt được một thắng lợi có tính chiến lược trong tương lai bằng cách giảm thiểu khả năng về một cuộc chiến hai mặt trận với Liên-xô và Việt Nam. "

Sau chiến tranh cả hai phía Trung Quốc và Việt Nam tái tổ chức việc  bảo vệ biên giới của mính. Năm 1986 Trung Quốc triển khai hai mươi năm đến hai mươi tám sư đoàn  đơn vị và Việt Nam là ba mươi hai sư đoàn dọc theo đường biên giới chung.

Cuộc tấn công 1979 đã xác nhận sự sáng suốt của Hà Nội khi cho rằng Trung Quốc là một mối đe dọa. QĐNDVN kể từ đó có một yêu cầu cao, dự trù kế hoạch, mà theo đó Trung Quốc có thể trở tấn công lần nữa và lần nầy không phải hành quân bộ mà là có thể lái xe vào đến Hà Nội. Các chiến tranh biên giới đã làm tăng cường các quan hệ Việt-Xô. Vai trò quân sự của Liên-Xô tại Việt Nam trong năm 1980 tăng lên, như họ cung cấp vũ khí cho Việt Nam; hơn nữa, tàu Xô viết hay cập các cảng Đà Nẵng và vịnh Cam Ranh, và máy bay trinh sát Liên-xô hoạt động bên ngoài không phận Việt Nam. Việt Nam đáp trả chiến dịch của Trung Quốc bằng cách biến các huyện dọc theo biên giới Trung Quốc thành "pháo đài thép" do các đội quân trú đóng có trang bị đầy đủ và huấn luyện tốt. Tổng cộng, ước lượng có khoảng 600.000 quân đã được bố trí để đối phó với các hoạt động của Trung Quốc và sẵn sàng chặn đứng một cuộc xâm lược khác Trung Quốc. Khó xác định chính xác qui mô hoạt động ở biên giới, nhưng các chi phí của Việt Nam là khá lớn.

Cho đến trước năm 1987 Trung Quốc đã bố trí chín quân đoàn (khoảng 400.000 quân) trên khu vực biên giới Việt-Trung, kể cả dọc theo bờ biển. Họ cũng tăng cường hạm đội và định kỳ diễn tập đổ bộ ở đảo Hải Nam đối diện với Việt Nam, do đó cho thấy một cuộc tấn công trong tương lai có thể là từ biển.

Sự xung đột ở mức độ thấp tiếp tục dọc theo biên giới Trung-Việt như hai bên tiến hành pháo kích và do thám cao điểm trong khu vực núi non biên giới.  Các vụ chạm súng ở biên giới gia tăng dữ dội trong suốt mùa mưa khi Bắc Kinh nổ lực giảm thiểu áp lực của Việt Nam đối với quân kháng chiến Campuchia.

Từ đầu năm 1980, Trung Quốc theo đuổi những điều mà một số nhà quan sát mô tả như là một chiến dịch nữa bí mật chống lại Việt Nam, đó là mức cao hơn trong một loạt các sự cố biên giới nhưng ở mức dưới quy mô một chiến tranh có giới hạn. Việt Nam gọi nó là "chiến tranh phá hoại nhiều mặt." Các quan chức Hà Nội đã mô tả các cuộc tấn công bao gồm quấy rối thường xuyến bằng cách pháo kích, cho các phân đội bộ binh nhỏ xâm nhập vào nội địa, xâm nhập hải phận, gài mình và thả thủy lội trên đất liền và dưới biển. Hoạt động bí mật của Trung Quốc (về mặt "phá hoại") đa phần hướng đến các dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới. Theo báo chí Hà Nội, các nhóm thám báo Trung Quốc phá hoại có hệ thống những nơi sản xuất nông nghiệp tập trung miền núi cũng như các cảng đường sông, giao thông vận tải, phương tiện thông tin liên lạc. Các hoạt động tâm lý chiến là một phần tất yếu của chiến dịch, chính những gì Việt Nam gọi là "phá hoại kinh tế" - khuyến khích của dân làng Việt Nam ở dọc biên giới đi buôn lậu, đầu cơ tiền tệ, và tích trữ hàng tiêu dùng.

Nguồn: http://www.globalsecurity.org/military/world/war/prc-vietnam.htm
Logged
TQNam
Thành viên
*
Bài viết: 1267


« Trả lời #25 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2008, 01:49:51 pm »

Quan hệ Trung-Xô và Xung đột Trung-Việt tháng hai 1979

Bruce Elleman  20 tháng tư 1996

Gerald Segal, trong cuốn sách năm 1985 của mình Trung Quốc bào chữa, kết luận rằng chiến chống Việt Nam 1979 của Trung Quốc đã được hoàn toàn thất bại: "Trung Quốc đã ép buộc một Việt Nam rút quân [khỏi Campuchia], bất thành việc kết thúc các vụ chạm súng ở biên giới, không loại bỏ được mối ngờ vực về sức mạnh của lực lượng Xô-viết, không xua được hình ảnh Trung Quốc là một giấy Hổ, và không thành công để lôi kéo Hoa Kỳ vào một liên minh chống Xô-viết. "

Trong một nỗ lực thử thách quan điểm này thì chính sách của Bắc Kinh là một thất bại, bài viết nầy cố định vị lại vai trò trung tâm rằng quan hệ Trung-Xô đóng vai trò quyết định tấn công Việt Nam. Và quan trọng nhất là, chính sách nầy cố tự khẳng định khi mà thời gian tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam là 17 tháng hai đã xâu chuổi với dịp 29 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh, và Tương trợ Trung-Xô 1950.

Có một điều cần nhắc lại rằng ngày 14 tháng hai 1950 Bắc Kinh và Moscow đã ký một hiệp ước 30 năm qua bao gồm những điều khoản mật hỗ trợ Liên bang Xô-viết như là một lãnh đạo của phong trào cộng sản trên thế giới.  Khi Moscow về sau nầy chối thương thuyết lại việc tranh chấp lãnh thổ Trung-Xô đã dẫn đến các vụ chạm súng trên biên giới Trung-Xô, và quan trọng nhất là trong thời gian cuối thập niên 1960.

Các nhà nghiên cứu phương Tây học rất hay bỏ qua sự kiện nầy mà ngay cả trong thời gian này đã có căng thẳng Trung-Xô, Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh, và Tương trợ  Trung-Xô 1950 vẫn còn nguyên hiệu lực trong suốt thời kỳ bất ổn nầy nầy.  Ít nhầt theo quan điểm của Bắc Kinh, Hiệp ước Trung-Xô 1950 là công cụ chính mà Moscow đã cố gắng áp cái "bá quyền" đối với Trung Quốc.

Moscow đã quan tâm rõ rệt đến những gì có thể xảy ra trong thời hạn 30 năm của Trung-Xô hiệp ước.  Đầu từ năm 1969, Liên bang Xô-viết thường xuyên yêu cầu Trung Quốc để thay thế hiệp ước 1950 bằng một hiệp định mới.  Trong năm 1978, lực lượng vũ trang Xô-viết đã được tăng cường dọc biên giới Trung -Xô và Trung-Mông. Moscow cũng gây áp lực lên Bắc Kinh để đạt thỏa thuận trên bằng cách tăng cường quan hệ ngoại giao với Hà Nội, ký kết một hiệp ước phòng thủ 25 năm với Việt Nam ngày 3 tháng 11 năm 1978 .

Tuy nhiên, thay vì thoái lui, Trung Quốc công bố ý đồ xâm lược Việt Nam vào 15 tháng hai 1979, chỉ mấy ngày nữa chấm dứt hiệu lực Hiệp ước Trung-Xô 1950 rồi họ đã tấn công ba ngày sau đó. Khi Moscow không can thiệp, Bắc Kinh công khai tuyên bố rằng các Liên bang Xô-viết đã rủ bỏ rất hàng loạt lời hứa hỗ trợ Việt Nam. Sự bất thành của Liên bang Xô-viết trong việc hổ trợ Việt Nam đã khích lệ Trung Quốc để công bố vào 3 tháng 4 1979 chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh, và Tương trợ Trung-Xô 1950.
Thay vì xem xét sự việc theo sự giả định cuộc xâm lược  năm 1979 Trung Quốc vào Việt Nam đã hoàn toàn thất bại, bài viết nầy sẽ cố gắng trình bày cho thấy rằng một trong những mục tiêu ngoại giao chính đằng sau mục tiêu tấn công của Trung Quốc là phơi bày sự đảm bảo hỗ trợ quân sự của Xô viết cho Việt Nam là một gian trá. Theo nhãn quan này, chính sách của Bắc Kinh thực sự là một thành công ngoại giao, một khi Moscow không tích cực can thiệp, và như vậy cho thấy những giới hạn thực tế của hiệp ước quân sự Xô-Việt. Từ đó, bài viết này sẽ đề xuất rằng Trung Quốc đã đạt được một thắng lợi chiến lược bằng cách giảm thiểu khả năng trong tương lai về một cuộc chiến hai mặt trận chống Liên xô và Việt Nam và một thắng lợi ngoại giao bằng việc chấm dứt Hiệp ước Trung-Xô 1950.

Bài viết cũng sẽ đánh giá lại các tuyên bố của Bắc Kinh rằng sự thất bại của Liên-xô trong việc can thiệp chống Trung Quốc đã chứng minh rằng Liên-xô chỉ là một con "gấu giấy Bắc cực."  Gần đây tài liệu mật lưu trữ từ phía Liên-xô thiên về ủng hộ lời tuyên bố của Trung Quốc, yêu cầu bồi thường, nổi lên một  câu hỏi quan trọng có chăng năm1979 Bắc Kinh ngay từ đầu đã nhận định chính xác triệu chứng của sự phân rã trong nội bộ của Moscow, mà cuối cùng sự phân rã nầy đã đưa chính phủ Xô viết sụp đổ năm 1991 -- một vài năm trước đó một bằng cớ tương tự của sự phân rã này chỉ có trong các rạp hát ở châu Âu mà thôi.  Nếu vậy, có khả năng tồn tại điều ‘bắt đầu sự kết thúc' Chiến tranh Lạnh thực sự đã xảy ra ở Châu Á.

Sơ lược Lịch sử Quan hệ Trung-Xô cuối thập niên1960

Mối quan hệ Trung-Xô đến cuối thập kỷ 1960 đã xấu đi không chỉ do bất đồng gây gắt từ chuyện Ngoại Mông, mà còn vì một lọat tranh chấp lãnh thổ dọc theo biên giới Trung-Xô. Trong thực tế, những xung đột nầy ẩn bên dưới các mối quan hệ Nga-Trung Quốc trong suốt một thế kỷ qua, kể từ khi nước Nga đế quốc buộc Trung Quốc ký kết một loạt các điều ước nhượng một vùng lãnh thổ rộng lớn. Theo SCM Paine trong cuốn sách sắp xuất bản Các đối thủ đế quốc: "Với Trung Quốc, các mất mát về lãnh thổ vật chất rất lớn: một khu vực lớn hơn phần lãng thổ  Hoa Kỳ ở hữu ngạn ông Mississippi chính thức trở thành lãnh thổ Nga hay, trong trường hợp của Ngoại Mông, một nước do Xô viết bảo hộ."

Sau cuộc cách mạng Trung Quốc 1949, Trạch Đông đi Moscow để thương lượng một hiệp ước chính thức với Stalin. Sau hai tháng, Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh, và tương trợ Trung-Xô đã được hoàn tất và ký vào ngày 14 tháng hai 1950. Trong thời hạn của hiệp ước này là ba mươi năm, và Điều sáu qui định rỏ rằng nếu một bên ký kết không thông báo ý định chấm dứt hiệp ước vào năm cuối cùng của hiệp ước thì liên minh sẽ măc nhiên được gia hạn tiếp năm năm.

 Trên thực tế, bản hiệp ước Trung-Xô được công bố không có nhiều điều khỏan bí mật. Mùa đông 1995 ấn bản Nghiên cứu Lịch sử bang  dịch quốc tế thời Chiến tranh Lạnh bao một bản mô tả của Mao về các bí mật đàm phán Trung-Xô:

Trong quá trình đàm phán, từ sáng kiến của Stalin, Liên-xô đã cố gắng độc chiếm đường sắt Trường Xuân (i.e. Harbin) của Trung Quốc. Sau, tuy nhiên, sau đó đã quyết định đồng khai thác . . . đường sắt, ngòai ra CHNDTH đã chuyển cho hải quân Liên-xô cảng Port Arthur, và bốn công ty liên doanh đã được mở tại Trung Quốc. Theo sáng kiến của Stalin,. . . Mãn Châu và Tân Cương thiực tế đã chuyển thành vùng ảnh hưởng của Liên-xô.

Vì vậy, mặc dù phiên bàn công bố Hiệp ước Trung-Xô 1950 đã được biết đến từ lâu, một số điều khỏan bí mật của nghị định thư cũng đã được ký kết; đến nay, các nghị định thư này không bao giờ được công bố. (Bruce Elleman, "Kết thúc đặc quyền ngọai giao tại Trung Quốc: trường hợp của Liên Xô, 1917-1960," Republican Trung Quốc (sắp tới, mùa xuân 1996)

Ngày 15 tháng Hai 1950, Mao cũng bất đắc dĩ đồng ý công nhận "tình trạng độc lập" của CHND Mông Cổ. Sự công nhận nầy khác xa việc nhìn nhận của Mông Cổ hoàn thành độc lập khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, kể từ đó Mao tin chắc rằng, chính phủ Xô viết hứa hẹn sớm để Mông Cổ trở về với Trung Quốc. Dựa vào khiếu nại về sau của Mao, Mao phải nhận được bảo đảm từ Stalin rằng tình trạng của Mông Cổ, cũng như việc định vị chính xác biên giới Trung-Mông và Trung-Xô, sẽ được thảo luận tại cuộc họp trong tương lai. Vì vậy, việc Moscow từ chối mở các cuộc đàm phán với Bắc Kinh cuối cùng đã dẫn đến xung đột biên giới trong những năm 1950 và 1960. Mặc dù đường biên giới các Trung-Mông đã được giải quyết vào năm 1962, Mao công khai tố cáo Liên-xô xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc và phản đối Liên-xô viết kiểm soát của Mông Cổ: "Liên Xô, dưới cái cớ đảm bảo sự độc lập của Mông Cổ, trên thực tế đã đã đặc quốc gia nầy dưới thống trị của họ."

Trong thời gian cuối thập niên 1960, trong một loạt các sự cố biên giới dọc theo con sông Amur Ussuri Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) cho thấy sự kiên trì đáng ngạc nhiên trong việc chống chống Hồng quân. Các xung đột nầy chỉ trong phạm vi nhỏ và kết quả thì không kiểm chứng được, nhưng chúng đã dẫn đến các xung đột lãnh thổ sau nầy ở Tân Cương dọc biên giới Trung Quốc với Liên bang Xô-viết.

Mặc dù sự căng thẳng trong quan hệ Trung-Xô rất lớn mà nhiều học giả Tây coi nó như là một "phân liệt," Hiệp ước 1950 Trung-Xô tiếp tục tồn tại. Trong thực tế, hiệp ước này, bao gồm các điều khoản công khai các giao ước bí mật, nó vẫn còn là nền tảng mà theo đó quan hệ Trung-Xô được thực hiện. Tuy nhiên cái nền tảng nầy không ổn định ngay từ đầu, bởi lẽ  Liên-xô từ chối trà lại cho ban lãnh đạo cộng sản Trung Quốc những thứ đã chiếm được từ thời Nga. Người ta có thể cho rằng đây mới là vấn đề, chứ không phải bất kỳ lý do nào khác đưa ban lãnh đạo Trung Quốc đến việc kết án Liên-xô "bá quyền" ở Viễn đông. Nó cũng lý do dận đến sự hục hặc trong  quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam trong những năm 1970.
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Mười Một, 2008, 10:00:58 pm gửi bởi TQNam » Logged
TQNam
Thành viên
*
Bài viết: 1267


« Trả lời #26 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2008, 01:51:10 pm »

Quan hệ Trung-Xô viết trong những năm 1970

Tranh chấp Trung-Xô biên giới cuối thập niên 1960 gây bồi rối đặc biệt cho Moscow và Bắc Kinh, cả hai phía Liên Xô và Trung Quốc bấy giờ đã là cường quốc hạt nhân; có vẻ có một sự nhất trí không chính thức tìm kiếm điều không bên nào dùng đến không lực.  (Christian F. OSTERMANN, "Bằng chứng mới về các chấp biên giới Trung-Xô ," Chiến tranh Lạnh Lịch sử ban giao dịch quốc tế Dự án Bulletin, ấn bản kỳ V (mùa xuân 1995), 186-193.)

Các xung đột biên giới Trung-Xô có hệ lụy xã hội rất lớn, dù thế nào, buộc cả hai quốc gia để hướng khó tìm ra được nguồn lực để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân có thể có hoặc cho một sự leo thang quân sự trong tương lai tương lai dọc biên giới.  Niềm tin mới của QGPNGTQ là họ có thể chống trả Hồng quân đã tạo cơ hội cho Bắc Kinh trong năm 1971 áp dụng một sáng kiến ngoại giao mới  bằng cách thúc đẩy phát triển các mối quan hệ thân thiện với Hoa Kỳ.

 Ngoài ra, Trung Quốc cố gắng hết sức để cải thiện các quan hệ của họ với Nhật Bản, khi ký kết một hiệp ước được vào năm 1978, một hiệp ước phê phán chính sách ngoại giao của Liên Xô ở Châu Á bằng cách đặc biệt quy kết "bá quyền." Cuối cùng, tình hình căng thẳng Trung-Xô cũng sản sinh ra nhiều cuộc chiến tranh ủy nhiệm ở Đông Nam Á; chẳng hạn như xung đột giữa Campuchia và Việt Nam cuối thập niên 1970, cũng như buộc Trung Quốc để chấp nhận vai trò một cường quốc khu vực, quyền lực, với cái màn hay ho nhất của nó là việc xâm lược Việt Nam 1979 nhầm làm xói mòn sự ảnh hưởng đang phát triển của Liên xô.

 Trong suốt những năm 1970, sự căng thẳng Trung-Xô vẫn ở mức cao.  Trong thời gian này, Moscow cố gắng thuyết phục Bắc Kinh thương lượng một thỏa thuận mới mà có thể hỗ trợ, hoặc thậm chí thay thế Hiệp ước Trung-Xô 1950.  Bắt đầu từ năm 1969 và 1970, Moscow đề nghị hai bên cam kết không để tấn công lẫn nhau, và đặc biệt là không bao giờ sử dụng vũ khí hạt nhân. Khi Bắc Kinh đã bất kỳ quan tâm trong này theo, tuy nhiên, năm 1971, Moscow đề nghị rằng hai nước ký một hiệp ước mới không dùng vũ lực đối với nhau.  Sau đó, năm 1973 Moscow thể hiện mối quan tâm của mình bằng một đề xuất cụ thể hai nước ký một hòa ước bất tương xâm; Bắc Kinh tiếp tục bỏ qua bước đi trước của Moscow.

 Khi sắp kết thúc Hiệp ước 30 năm Trung-Xô, những nỗ lực của Liên-xô nhầm  thay thế hiệp ước này tăng lên đáng kể.  Ví dụ, ngày 24 tháng hai năm 1978, Moscow công khai đề nghị rằng hai vấn đề chính phủ ra một tuyên bố của các nguyên tắc mà có thể điều chỉnh các mối quan hệ Trung-Xô.  Công bố có tính nguyên tắc sẽ bao gồm: 1) bình đẳng, 2) tôn trọng lẫn nhau và toàn vẹn lãnh thổ, 3) không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, và 4) không sử dụng vũ lực.  Moscow rõ ràng hy vọng rằng một tuyên bố như vậy có thể thay thế Hiệp ước Trung-Xô 1950 để điểu chỉnh kỷ luật các mối quan hệ Trung-Xô.  Mục đích cơ bản của lời đề nghị của Liên-xô, bằng cách nào đó, rõ ràng là để giới hạn, hoặc thậm chí để giảm ảnh hưởng của Trung Quốc đang tăng lên khắp Châu Á.  (Theo Chang Pao-min, thực chất các chính sách của Xô viết hướng tới Trung Quốc lại hấp dẫn Việt Nam hơn cả, khi trích dẫn lởi phát biểu của một quan chức Việt Nam: "Mối quan tâm mạnh mẽ hiển nhiên của Liên-xô đồng nhất với quan tâm của Việt Nam - giảm bớt ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực này của thế giới. "Chang Pao-min, Campuchia giữa Trung Quốc và Việt Nam (Singapore, nxb Đại học Singapore, 1985), tr 46-47.)

 Bắc Kinh từ chối mọi đề nghị của Moscow, tuy nhiên, trong suốt thiệp niên 1970 sự chỉ trích của Trung Quốc đối với Liên-xô đã trở nên trực tiếp hơn.  Ví dụ, vào tháng hai 1974, Mao Zedong công khai kêu gọi "thế giới thứ ba" chống lại cái gọi là " thế giới thứ nhất" trong trường hợp này bao gồm cả USSR và Hoa Kỳ.  Song, sau khi cái chết của Mao, lời phát biểu của Renmin Ribao ngày1 tháng mười một 1977, xác định Liên-xô là kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc, trong khi Hoa Kỳ bấy giờ đã được xem là một đồng minh. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa - đặc biệt là bao gồm cả Việt Nam ( "Phân tích mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc sau 1975 và quan hệ của Việt Nam trước khi liên kết với Liên-xô có thể truy tìn ra sức đề kháng của Việt Nam đối với áp lực của Trung Quốc để tồn tại." Ramesh Thaku và Carlyle Thayer, Quan hệ của Liên-xô với Ấn Độ và Việt Nam (New York, nxb St Martin's, 1992, tr 287.) - cũng đã được coi là đồng minh tiềm tàng trong đề nghị "mặt trận thống nhất " chống Liên-xô.  Cuối cùng, vào ngày 26 tháng ba năm 1978, Bộ Ngoại giao Trung Quốc yêu cầu Moscow rằng, ngoài việc nhìn nhận sự tồn tại của "khu vực tranh chấp" dọc theo biên giới Trung-Xô, phải rút hoàn toàn quân Xô viết khỏi CHNd Mông Cổ, cũng như rút quân trên toàn bộ tuyến biên giới Trung-Xô.

 Trong trả lời yêu cầu của Trung Quốc, Leonid Brezhnev, Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương ĐCSLX, viếng thăm Siberia đầu tháng tư năm 1978, và thông báo rằng các thiết bị mới, tiên tiến hơn đã được cung cấp cho các đơn vị tên lửa dọc theo biên giới Trung-Xô.  Những vũ khí mới, Brezhnev tuyên bố, sẽ là phương tiện "bảo vệ bản thân và bạn bè xã hội chủ nghĩa của chúng ta trườc sự xâm lược riềm tàng từ bất cứ đâu"  Ngay sau đó, vào ngày 12 tháng tư năm 1978, Ulan Bator cũng công khai phản đối yêu cầu của Bắc Kinh, rằng việc tăng quân Xô viết dọc theo biên giới Trung-Mông xuất phát từ yêu cầu của Mông Cổ để đối phó với việc Trung Quốc gia tăng tập trung quân ở phía nam biên giới.

 Các sự kiện cho thấy khá rõ ràng, đến năm 1978 biên giới Trung-Xô căng thẳng đột ngột, chủ yếu do Xô viết tăng quân dọc theo biên giới Trung-Xô và tại CHND Mông Cổ. Ở một góc độ rộng hơn, tình hình này có thể được giải thích bởi nỗ lực tiếp theo của Moscow nhầm gây áp lực Bắc Kinh không chấm dứt Hiệp ước Trung-Xô 1950, Hiệp ước có thể được chấm dứt ngay vào đầu năm 1979, hay - tốt hơn - thương lượng một mới hiệp ước vạch ra các các nguyên tắc làm nền tảng cho mối quan hệ Trung-Xô trong tương lai.  Brezhnev cảnh báo rằng ông sẽ sử dụng quân đội Xô viết chống lại Trung Quốc, với tư cách " những nười bạn xã hội chủ nghĩa" của Moscow, ông cũng cảnh báo cho Bắc Kinh bỏ tay ra khỏi CHND Mông Cổ cũng như các đồng minh của  Moscow ở Đông Nam Á.

 Trung Quốc không chỉ không oằn mỉnh dưới áp lực ngoại giao và quân sự của Liên-xô, Bắc Kinh còn cố gắng tạo áp lực ngược về ngoại giao đối với Moscow bằng cách tích cực củng cố các mối quan hệ với cả hai Hoa Kỳ và Nhật Bản.  Người ta có thể cho rằng, chính sách của Bắc Kinh đã thành công của hai, kết quả Bắc Kinh đạt thỏa thuận với Washington và Tokyo. Đối với Moscow, có vẻ rõ ràng rằng caác thỏa thuận mới của Trung Quốc là nhắm tới việc chống Liên-xô, kể từ khi - trong trường hợp của Trung-Nhật hiệp ước ít nhất - hai bên đặc biệt lên án "CN bá quyền", một từ Trung Quốc thường dùng ám chỉ CN bá quyền Liên=xô.  Câu trả lời của Liên-xô là tăng cường quan hệ ngoại giao với tất cả các quốc gia Đông Nam Á bao quanh Trung Quốc, và quan trọng nhất trong số d0ó là với Việt Nam.
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Mười Một, 2008, 11:05:20 pm gửi bởi TQNam » Logged
TQNam
Thành viên
*
Bài viết: 1267


« Trả lời #27 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2008, 10:45:13 am »

Quan hệ Trung-Xô và Việt Nam trong suốt tháng hai 1979

Mặc dù Trung Quốc có thể không phải là người tham gia cuộc xung đột tại Việt Nam trong những năm 1960 và năm 1970, sự hỗ trợ kinh tế và các vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam phát một vai trò rất quan trọng.  Trung Quốc không chỉ đã gửi quân đến Việt Nam để giúp duy trì hệ thống tiếp vận, mà Bắc Kinh ước tính các khoảng hỗ trợ cho Hà Nội những năm 1950-1978 là hơn 20 tỷUSD.  (King C. Chen, Cuộc chiến của TQ với Việt Nam, 1979 (Stanford, CA, nxb Hoover Institution, 1987, tr 27). Do đó không gì khó hiểu, vì sao Bắc King có thể phật lòng trước sự cải thiện các mối quan hệ giữa Moscow và Hà Nội hồi cuối thập niên

Điều này đặc biệt đúng sau khi hai nước ký kết một hiệp ước tương trợ tháng 11 năm 1978 mà cụ thể là nhằm vào Trung Quốc.  Theo nhận định của một nhà nghiên cứu, khối liên minh Xô-Việt nầy biến Việt Nam thành “cái chốt” trong “nổ lực kiềm chế Trung Quốc" của Liên bang Xô-viết  (Robert A. Scalapino, "Các ảnh hưởng chính trị của Liên bang Xô-viết ở Châu Á", Donald S. Zagoria, Chính sách Xô viết ở Đông Á (New Haven, nxb Yale University, 1982), 71.) Từ nhản quan nầy của Bắc Kinh, do đó , việc cố gắng bao vây Trung Quốc của Moscow về mặt ngoại giao là khá thành công. Thực tế nầy làm bùng phát cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc trong tháng hai 1979.

Mặc dù các mối quan hệ ngoại giao giữa Bắc Kinh và Hà Nội trong những năm 1960 và đầu những năm 1970 nó chung là tốt, sự khác nhau giữa chính sách của Trung Quốc và Việt Nam tăng lên tháng tư 1975 sau khi Sài Gòn sụp đổ.  Tháng Chín của năm đó, Lê Duẩn, TBT Đảng Cộng sản Việt Nam, đã công du Bắc Kinh và trong một loạt các cuộc họp sau khi Lê Duẩn đến, sự việc trở nên rõ ràng là Trung Quốc đã rất quan tâm về các quan hệ chặc chẻ của Việt Nam với Liên bang Xô-viết.  Mặc dù quan hệ tiếp tục xấu đi trong những năm tiếp theo, sự rạn nứt giữa Trung Quốc và Việt Nam đầu tiên đã trở nên rõ ràng khi hàng ngàn Hoa kiều thiểu số bắt đầu chạy trốn khỏi Việt Nam trong mùa xuân và mùa hè ca 1978.  Ngoài ra, các tranh chấp lãnh thổ về quần đảo Hoàng Sa, cũng như sự xâm lược Cam-pu-chia của Việt Nam ngay trước đó cũng tác động đến sự căng thẳng Trung-Việt.

Trong khi đó, mùa hè năm 1978 đã xuất hiện thêm nhiều dấu hiệu về sự hợp tác Xô-Việt Nam, như  Việt Nam đề nghị trở thành một thành viên của Comecon. Ngoài ra, các nguồn chính phủ Hoa Kỳ báo cáo rằng tháng tám 1978 độ hơn 4000 cố vấn Liên-xô đã có mặt tại Việt Nam .  Trong tháng 9 năm 1978, Liên bang Xô-viết bắt đầu xúc tiến vận chuyển vũ khí sang Việt Nam, cả bằng đường không và đường biển, bao gồm "máy bay, tên lửa, xe tăng, và đạn dược”.  Cuối cùng, tất cả các dấu hiệu cải thiện quan hệ Xô-Việt đưa đến kết quả vào 3 tháng 11 năm 1978, khi Việt Nam và Liên bang Xô-viết ký kết một Hiệp ước Hữu nghị Hợp tác.  Không nghi ngờ gì nữa hiệp ước này là nhắm tới Trung Quốc, khi điều sáu của hiệp định nêu rằng Việt Nam và Liên bang Xô-viết sẽ "ngay lập tức có sự tham khảo ý kiến với nhau", nếu một trong hai bên bị "tấn công hay bị đe dọa tấn công ... nhầm loại bỏ mối đe dọa đó."  Được biết, hiệp ước cũng bao gồm một mật ước thức cho phép lực lượng vũ tranh Xô-viết sử dụng các phi trường và hải cảng quân sự của Việt Nam"  (Ramesh Thaku và Carlyle Thayer, Quan hệ của Liên-xô  với Ấn Độ và Việt Nam (New York, nxb St Martin's, 1992, tr 61.)

Mặc dù Việt Nam cho rằng họ ký hiệp ước này với Liên-xô nhầm chặn đứng CN phiêu lưu của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ở Bắc Kinh rỏ ràng thấy hiệp ước này như là một phần nỗ lực của Moscow tạo áp lực Trung Quốc xuống nước và khôi phục các điều khoản bất bình đẳng của Hiệp ước Trung-Xô1950.  Nếu Liên-xô có thể tạo một thế đứng ở ĐNÁ, họ có thể đe dạo Trung Quốc cả hai phía bắc và phía nam biên giới.  Nếu thành công, chính sách này có thể cung cấp cho Moscow một đòn bảy đủ mạnh để Bắc Kinh phục hồi, hoặc ít nhất tái thương thuyết Hiệp ước Trung-Xô 1950 theo những điều kiện của Moscow.  Một chỉ báo sớm về mối lo của Bắc Kinh đối với Hiệp ước Xô-Việt đã được Renmin Ribao vlên tiếng cảnh báo rằng Moscow đang dùng Việt Nam chống lại Trung Quốc như trước đây - và không thành công - từng làm với  Cuba để tạo áp lực ngoại giao đối với Hoa Kỳ.  Bắc Kinh cũng cảnh báo mục tiêu tối hậu của Moscow là "đặt toàn bộ Đông Dương dưới sự kiểm soát của họ."

Bằng cách ký hiệp ước phòng thủ Xô-Việt ngày 3 tháng 11 năm 1978, Liên-xô hy vọng sử dụng các quan hệ của họ với Việt Nam để tạo thế vượt trội và lấn ép Trung Quốc. Sự quan tâm chính của Trung Quốc là, nếu các chính sách của Liên-xô ở Việt Nam thành công, thì chính phủ Xô viết có thể tạo một cái thòng lọng về chiến lược và quân sự đối với Trung Quốc.  Kể từ khi có sự rạn nứt Trung-Xô, và đặc biệt là từ khi có các xung đột biên giới Trung-Xô viết cuối thập niên 1960, là mục tiêu cơ bản của Bắc Kinh là xây dựng tiềm năng quân sự riêng của mình để đối mặt với the Hồng quân Liên Xô, mục tiêu mà họ gặc hái được nhiều từ giữa đến cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, khi quân số QGPNDTQ theo báo cáo tăng mạnh đến 3,6 triệu người.  Về ngoại giao, Bắc Kinh, tiếp tục cố gắng lấn Moscow bằng cách chính thức bình thường hóa quan hệ của họ với Washington vào ngày 1 tháng giêng 1979.  Ramses Amer đã kết luận rằng các đồng minh mới của Liên-xô và Trung Quốc đã được liên kết chặt chẽ: "Vì vậy, liên minh chiến lược này đã hình thành trong những tháng cuối cùng của năm 1978, một liên minh Xô-Việt, và một liên minh Trung-Mỹ, và họ sẽ thành công trong khoảng một thập kỷ".

Do mối quan hệ Trung-Mỹ vào đầu năm 1979, mối quan tâm của Moscow về một cuộc chiến tranh hai mặt trận với Mỹ-nước lãnh đạo  lực lượng NATO ở phía tây và lực lượng Trung Quốc ở phía đông đã được tăng cường.  Điều này có thể đã thuyết phục Moscow để tăng các hỗ trợ cho Việt Nam tiếp tục xâm lược Cam-pu-chia, một sự kiện mà Robert Ross đã liên kết chặt chẽ với việc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam, khi ông tranh luận rằng sự bất ồn của đồng minh thyân cận của Trung Quốc ở Cam-pu-chia liên quan mật thiết tới Bắc Kinh. Trong khi Bắc Kinh không sẳn lòng can thiệp trực tiếp vào Cam-pu-chia để chặn đứng sự xâm lặng của Việt Nam, sự xâm lược quân sự của Trung Quốc cộng với tranh chấp lãnh thổ Trung-Việt Nam trong thực tế hòan tòan "trùng khớp" với việc Việt Nam xâm lược ở Cam-pu-chia.  Ross kết luận thêm rằng việc tiếp tục tranh chấp đối với Cam-pu-chia và biên giới Trung-Việt Nam có một "liên quan hữu cơ," như các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảnh báo Việt Nam đừng suy nghĩ sai lầm rằng Trung Quốc là "yếu và dễ bắt nạt."

Tuy nhiên, trong phân tích cuối cùng,  Việt Nam là một quốc gia tương đối nhỏ về cả hai mặt dân số và sức mạnh quân sự, rồi hầu như chắc chắn việc các cố vấn Xộ-viết đột ngột đến Việt Nam với số lượng lớn - một ước tính giữa 5000-8000 người vào năm 1979 - và một số lượng rất lớn hàng quân sự đã báo điềm gở ngay lập tức cho chiến lược an ninh của Trung Quốc; như vậy, theo King C. Chen: "Không có được liên minh Xô-Việt, không thể có chiến tranh mười sáu ngày giữa Trung Quốc và Việt Nam". Trong lời thú nhận rằng của hợp tác quân sự của Liên-xô với Việt Nam can hệ chặc chẻ đếnTrung Quốc, Đặng Tiểu Bình công bố công khai công nhận rằng việc "liên minh quân sự" mới Xô-Việt này thực sự là một phần của mục tiêu dài hạn của Liên-Xô nhằm "bao vây Trung Quốc."

Sau sự việc ký kết Hiệp ước Xô-Việt ngày 3 tháng mười một 1978, Bắc Kinh đã tìm cách bẻ gãy cố gắng này của Xô viết nhằm bao vây Trung Quốc. Vì vậy, nỗi sợ hãi bị Moscow đánh thọc sường  là cú hích đưa Bắc Kinh đến hành động.  Rõ ràng, bước đầu tiên của Trung Quốc là nhằm thử thách để quyết tâm của Liên-xô để xem họ có giữ vững lập trường của hiệp ước với Việt Nam hay cho xuống nuớc và chấp nhận thất bại.  Đặng Tiểu Bình thậm chí đã báo Tổng thống Carter hồi tháng một 1979 rằng một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ "phá vỡ các tính toán chiến lược của Xô viết..." Từ đó, thậm chí Ross còn kết luận rằng trong sự phấn khích xâm lược thành công của Việt Nam ở Campuchia, nó là hệ quả phá vòng vây Liên-xô của Trung Quốc [điều nầy] đã giới hạn sự xâm lược của Việt Nam. "
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Mười Một, 2008, 04:03:50 pm gửi bởi TQNam » Logged
TQNam
Thành viên
*
Bài viết: 1267


« Trả lời #28 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2008, 04:03:19 pm »

Chiến tranh Trung-Việt 1979

Lực lượng vũ trangTrung Quốc xâm lược Việt Nam ngày 17 tháng hai 1979.  Mặc dù động cơ chính xác cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn cần giải thích, mối quan tâm của Bắc Kinh là hiệp ước phòng thủ hai mươi năm năm của Moscow với Hà Nội có thể dẫn đến việc người Xô viết quân sự hóa biên giới Trung-Việt thì chắc chắn đó là một yếu tố chủ yếu. Moscow lẽ cũng hy vọng rằng hiệp ước của họ với Hà Nội sẽ làm quân đội Trung Quốc sẽ chệch hướng ra khỏi phía Bắc, như vậy, sẽ làm suy yếu sự phòng thủ của quân đội Trung Quốc dọc theo biên giới Trung-Xô suy yếu đi.

Tuy nhiên niềm hy vọng Moscow đã bị đụng chạm khi Bắc Kinh quyết định tấn công Việt Nam.  Sau khi chỉ ba tuần lễ đánh nhau, Trung Quốc đã rút quân và tranh chấp trên biên giới Trung-Việt Nam vẫn chưa được giải quyết.  Đối với hầu hết các nước khác, như vậy hành động quân sự của Trung Quốc hiển hiện là một thất bại.  Song, nếu mục tiêu tấn công thực sự ẩn sau của Trung Quốc là nhằm phô bày ra sự hổ trợ quân sự của Xô viết cho Việt Nam như là một gian lận, rồi sau đó sự từ chối can thiệp của Liên-xô đã chấm dứt thực sự hiệp ước phòng thủ Xô-Việt.  Vì vậy, Bắc Kinh đã đạt được một thắng lợi có tính chiến lược rõ ràng bằng cách bể gãy sự bao vậy của Xô viết và loại bỏ mối đe dọa một cuộc chiến hai mặt trận của Moscow.

 Ngày 15 tháng hai 1979, không chỉ là ngày kỷ niệm 29 năm ngày thỏa thuận của Mao-Stalin về  Mông Cổ mà còn là ngày đầu tiên Trung Quốc đã có thể chính thức công bố chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh, và tương trợ Trung-Xô, Đặng Tiểu Bình tuyên bố rằng Trung Quốc đã lên kế hoạch tấn công có giới hạn vào Việt Nam.  Để ngăn Xô viết can thiệp nhân danh Việt Nam, hôm sau Đặng cảnh báo Moscow rằng Trung Quốc đã chuẩn bị cho một chiến tòan diện chống Liên bang Xôi-viết; chuẩn bị cho xung đột này, Trung Quốc đặc tòan bộ quân đội của mình dọc theo biên giới Trung-Xô trong tình trạng báo động chiến tranh khẩn cấp, thiết lập một BTL mới ở Tân Cương, và thậm chí cho di tản ước khoảng 300.000 dân thường khỏi biên giới Trung-Xô. (Chang Pao-min, Campuchia giữa Trung Quốc và Việt Nam (Singapore, nxb Đại học Singapore, 1985, tr 88-89).

Ngoài ra, số lớn quân thường trực Trung Quốc (vào hơn một triệu rưỡi quân) đã được bố trí dọc theo biên giới Trung-Xô.  (Robert A. Scalapino "Châu Á trong Bối cảnh toàn cầu: Vấn đề chiến lược đối với Liên Xô," trong Richard H. Solomon và Masataka Kosaka, eds., Bình luận quân sự Viễn đông Xô-viết (Dover, MA., nxb Auburn, 1986, tr 28.)

Đúng như đã hứa, Trung Quốc tấn công quân sự chống Việt Nam bắt đầu vào ngày 17 tháng hai 1979, chỉ ba ngày kể từ ngày kỷ niện 29 năm Hiệp ước Trung-Xô1950.  Như Đặng đã thông báo, ngay từ ban đầu Trung Quốc tiến hành một hành động hạn chế chống lại Việt Nam.  Trung Quốc không chỉ bố trí rất nhiều đơn vị tinh nhuệ nhất dọc theo biên giới Trung-Xô, Bắc Kinh còn quyết định không triển khai khoảng 500 chiếc tiêm kích và oanh tạc cơ đồn trú  trong khu vực.  Đáp trả cuộc tấn công của Trung Quốc, các Liên-xô đã gửi nhiều tàu hải quân và khởi động cầu không vận đến Việt Nam.  Ngày 22 tháng hai 1979, đại tá N.A. Trarkov, túy viên quân sự quân Xô viết tại Hà Nội, thậm chí đe dọa rằng Liêng bang Xô-viết sẽ " thực hiện nghĩa vụ theo hiệp ước Xô-Việt", tuy nhiên ở nơi khác, các nhà ngọai giao Xô viết nói rõ rằng Liên-xô sẽ không can thiệp chừng nào xung đột vẫn còn là hạn chế.  (John Blodgett, "Việt Nam: quân tốt của Xô-viết hay nội lực?" Trong Rodney W. Jones và Steven A. Hildreth, Sức mạnh Quốc phòng và An ninh trong thế giới thứ ba (New York, Praeger Publishers, 1986), 98). Liên-xô rõ ràng không có ý định mạo hiểm một cuộc chiến tòan diện với Trung Quốc vì lợi ích của Việt Nam.

Sau ba tuần tấn công mãnh liệt, Trung Quốc đã có thể khẳng định họ đã chiếm được ba trong sáu thị xã của Việt Nam - Cao Bằng, Lạng Sơn, và Lào Cai – tiếp giáp Trung Quốc.  Mặc dù lực lượng Trung Quốc với tổng số hơn một phần tư triệu người, Việt Nam chuyển sang chiến thuật du kích để chống một chiến thắng nhanh của Trung Quốc.  Khi Bắc Kinh công bố ý định rút quân của họ vào ngày 5 tháng ba 1979, như vậy, ta thấy rằng rằng các mục tiêu chính của cuộc tấn công này chưa đạt được; cụ thể là tiềm năng quân sự của Việt Nam đã không bị Trung Quốc gây thiệt hại nặng.  Sau đó, biên giới Trung-Việt vẫn căng thẳng, sau gần ba tuần lễ đánh nhau, Trung Quốc đã rút quân khỏi Việt Nam.

Đối với nhiều nhà quan sát nước ngoài, hóa ra rằng cuộc tấn công của Trung Quốc chống Việt Nam đã kết thúc và thất bại hoàn toàn.  Nhưng, như Banning Garrett đã quan sát một cách chính xác, là "Trung Quốc đã chứng tỏ rằng họ có thể tấn công một đồng minh Xô viết mà không bị trả đủa từ “con gấu giấy Bắc cực '. "  (Banning Garrett, " Tam giác chiến lược và cuộc khủng hoảng Đông Dương " trong David WP Elliott,., Xung đột Đông Dương lần thứ III, (Boulder, CO, nxb Westview Press, 1981, tr 212.)

Trên thực tế, từ bằng chứng Liên-xô không tích cực can thiệp vì lợi ích của Việt Nam, Trung Quốc đã đoan chắc rằng việc chấm dứt Hiệp ước Trung-Xô 1950 của họ cũng sẽ không dẫn đến chiến tranh. Từ đó, ngày 3 tháng tư 1979, Bắc Kinh đã thông báo ý định của mình chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh, và Tương trợ Trung-Xô 1950. Mặc dù sau đó các cuộc đàm phán Trung-Xô đã được chính thức mở trong tháng mười 1979, sự xâm lược của Xô-viết vào Afghanistan đã tạo cho Trung Quốc một cái cớ gọi hủy các cuộc họp trong tương lai, từ đó cản trở bất kỳ lời yêu ngay lập tức thương lượng một hiệp ước ngoại giao Trung-Xô mới nào.

Bởi động cơ chính xác ẩn đằng sau cuộc xâm lược của Trung Quốc 1979 vào Việt Nam vẫn còn chưa rõ, các nhà nghiên cứu cuộc xung đột này đã đưa ra nhiều giả thuyết nghe khá tin cậy. Có lẽ phổ biến nhất là Trung Quốc muốn "trừng phạt" Việt Nam vì xâm lược Cam-pu-chia, nơi được xem  là một nước chư hầu chính thức của đế chế Trung Quốc. Các vấn đề Trung-Việt khác, chẳng hạn như tranh chấp lãnh thổ đối với quần đảo Hòang Sa hay sự di cư ồ ạt của Hoa Kiều từ Việt Nam, cũng đóng một vai trò lớn. Tuy nhiên điều thuyết phục hơn cả là một số tương đối nhỏ học giả cãi lại rằng quyết định của Việt Nam đẩy mạnh mối quan hệ gần gũi hơn với Liên-xô mới là lý do chính đằng sau tấn công của Trung Quốc.

Trong số những học giả đưa ra giả thuyết hành động của Trung Quốc là một lời đáp lại đối với hiệp ước phòng thủ Xô-Việt ngày 3 tháng mười một 1978, đã có một loạt các diễn giải như liệu chính sách của Trung Quốc là một thành công hay thất bại Ví dụ, theo Gerald Segal, chính sách của Trung Quốc thất bại vì nó đã không đưa hiệp ước phòng thủ Xô-Việt đến một "thử thách cơ bản"  Robert Ross cũng kết luận rằng chính sách của Trung Quốc là một thất bại, mặc dù ông được thêm tích cực hơn Segal bởi công nhận chiến tranh Trung-Việt là cuộc chiến tranh tiên kể từ 1949, rằng Trung Quốc đã sử dụng vũ lực trong khi lãnh thổ của họ này không đe dọa trực tiếp. Như vậy, chứng tỏ rằng Trung Quốc giờ đã có khả năng "hành động như một cường quốc khu vực với các lợi ích khu vực."  Cuối cùng, Banning Garrett và Nayan Chanda còn tích cực hơn, ít nhất là công nhận lời tuyên bố của Trung Quốc là cuộc chiến Trung-Việt ngắn ngủi là một thành công vì nó chứng minh được rằng Liên-xô là một "con gấu giấy Bắc cực" một khi Moscow từ chối để thực hiện nghĩa vụ để hiệp ước can thiệp vì lợi ích của Hà Nội.
 Có lẽ quan điểm tích cực nhất đối với cuộc xung đột Trung-Việt là từ Chang Pao-min.  Theo Chang, khi xem xét một xung đột này từ quan điểm của Bắc Kinh, thì hiệp ước phòng thủ Xô-Việt 1978 rõ ràng là một mối đe dọa cho an ninh của Trung Quốc.  Liên bang Xô-viết không chỉ hy vọng sử dụng hiệp ước này để thiết lập một "hệ thống an ninh tập thể ở châu Á" mà còn nhằm vào Trung Quốc, nhưng các mối quan hệ quân sự của họ với Việt Nam đã được mô tả như là một cố gắng để "đe dọa và cố trói chặt Trung Quốc từ phía nam". Theo đánh giá nầy, Việt Nam được mô tả trong tài liệu sau nầy của  Trung Quốc như là "con dao Liên Xô đâm sau lưng Trung Quốc."  Chang như quan sát, do đó, xung đột Trung-Việt phải được xem như là một phản ứng đối nổ lực của Liên Xô trong việc sử dụng Việt Nam "nhằm kềm chế và bao vây Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á... [vậy từ cái thế đó] là một mối đe dọa nghiêm trọng từ phía nam của Trung Quốc."

Các lý lẽ trình bày trong bài này có xu hướng tới quan điểm rằng chiến tranh tháng hai 1979 của Trung Quốc với Việt Nam là một thành công. Sau khi Bắc Kinh đoan chắc rằng Moscow sẽ không can thiệp vì lợi ích của Hà Nội, điều này đã khuyến khích Bắc Kinh đọan tuyệt với Moscow hoàn toàn; sự đọan tuyệt nầy có thể thấy rỏ nhất có thể được nhìn thấy tuyên bố  chấm dứt Hiệp ước Trung-Xô 1950 vào 3 tháng tư năm 1979 của Bắc Kinh. Bằng chứng cuối cùng là các chính sách của Trung Quốc tại Việt Nam đã được gắn kết chặc chẻ với Liên-xô, Amers đã lưu ý một cách chính xác rằng quyết định hồi 1988 của Trung Quốc lọai mối quan hệ biên giới của mình với Việt Nam ra khỏi vấn đề của Cam-pu-chia tương ứng hầu như trùng khít với nỗ lực của Gorbachev bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và cải thiện mối quan hệ của Liên-xô với các nước ASEAN. Do đó, bằng cách bẻ gảy sự bao vây và lọai trừ sự đe dọa của Moscow về một cuộc chiến tranh hai mặt trận, Trung Quốc đã đạt được một thắng lợi chiến lược quan trọng đối với Liên-xô.
Logged
rongxanh
Thành viên
*
Bài viết: 2085

Mơ về nơi xa lắm.


« Trả lời #29 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2008, 08:49:02 pm »

Em chen ngang bác TQNam 1 tý nhé:
Cái này xưa đưa lên ttvn, đã được bác Altus dịch qua tiếng Việt
-------------
Em trích từ cuốn chiến tranh VN-TQ, tiếng Ba Lan, thấy có 1 số sơ đồ pót lên cho các bác xem.
-----------------
Tôi xin lược dịch một số đoạn trong cuốn:
Trung Quốc – Việt Nam
NXB Altair, Warszawa 1995, 49 trang, ISBN: 83-86217-16-2, số 17 trong loạt sách ‘Các trận chiến lớn nhất thế kỷ hai mươi’
Tác giả: Zygmunt Czarnotta và Zbigniew Moszumański
Sách có thể down từ mạng ed2k
ed2k://|file|[T%2017]%20Czarnotta%20Zygmunt%20-%20Chiny-Wietnam.pdf|4331322|68ECE922A9B8CB60D543F6AD12F12A42|/
=====
Trang 1 đến trang 18 chép các thông tin chung về bối cảnh tình hình chính trị, lịch sử, địa lý hai nước, cuộc chiến ở Campuchia v.v. Tôi bắt đầu từ trang 19.
Ngày 8/2/1979 lãnh đạo Trung Quốc thành lập hai mặt trận: Mặt trận phía Bắc và Mặt trận phía Nam. Việc này là cần thiết để TQ có thể cùng một lúc tấn công Việt Nam và phòng thủ biến giới với Liên Xô. TQ ước tính rằng lực lượng LX tại vùng biên giới có ít nhất 43 sư đoàn. Trong trường hợp bị lực lượng này đe dọa, TQ sẽ kháng cự bằng quân của các quân khu phía bắc (Thẩm Dương, Bắc Kinh, Tế Nam, Lan Châu và Tân Cương), khoảng 75 sư đoàn. Số quân này tạo thành Mặt trận phía Bắc, chỉ huy là Lí Đức Sinh, tư lệnh quân khu Thẩm Dương).
Mặt trận phía Nam được thành lập từ các đơn vị của các quân khu Côn Minh, Quảng Đông, Thành Đô, được bổ sung thêm quân từ Vũ Hán và thiết giáp, pháo binh, công binh của quân khu Triết Giang. Chỉ huy trưởng là tư lệnh QK Quảng Đông Hứa Thế Hữu, chỉ huy phó là tư lệnh QK Côn Minh Dương Đắc Chí, tham mưu trưởng là tư lệnh không quân Trương Đình Phát.
****
Sơ đồ trang 20 (đọc từ trên xuống dưới)
[Cơ cấu tổ chức quân đội TQ tấn công VN 17/02/1979]
[Mặt trận Nam]
Tư lệnh: Hứa Thế Hữu
Phó tư lệnh: Dương Đắc Chí
TMT: Trương Đình Phát
[Tập đoàn quân Vân Nam] [Tập đoàn quân Quảng Tây]
[Tổng cộng quân số trên mặt trận VN: 5 quân đoàn, trong đó: 15-16 sư đoàn bộ binh, 5-6 sư đoàn biên phòng, khoảng 200,000 quân, 500 xe tăng, 700-750 máy bay]
[trong quá trình xung đột lực lượng TQ tăng lên tới 8 quân đoàn, trong đó có 29-31 sư đoàn bộ binh và biên phòng]
[Toàn bộ quân số của TQ tại thời điểm tháng 02/1979: khoảng 114 sư đoàn bộ binh, 12 sư đoàn thiết giáp, ? sư đoàn pháo binh]
(hết sơ đồ)
****

« Sửa lần cuối: 28 Tháng Mười Một, 2008, 08:54:27 pm gửi bởi rongxanh » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM