16 tuổi ông trở thành chiến sĩ Giải phóng quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, sau đó cùng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 53 trở về tiếp quản Thủ đô. Tháng 4/1955, ông được lệnh đi tiếp quản Hải Phòng. Đầu năm 1956, chỉ huy 1 trung đội ra Đồ Sơn bảo vệ Tổng Bí thư Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khi có Luật nghĩa vụ quân sự, nhiều cán bộ, chiến sĩ ra quân, chuyển ngành, riêng ông tình nguyện ở lại huấn luyện tân binh phục vụ cho chiến trường...
Năm 1960, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và được cử đi học lớp Chính trị viên đầu tiên tại Trường Lục quân. Sau khi ra trường, ông được "chọn" đi làm nhiệm vụ đặc biệt... Và từ đó, cuộc đời ông gắn chặt với những con tàu, những cung đường biển, để rồi cùng đồng đội làm nên huyền thoại "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Ông là Đỗ Văn Sạn, nguyên Chính trị viên các tàu 143, 176, 56, Đoàn tàu Không số.
Trước mặt tôi bây giờ là một lão nông đã ngoài 70 với đôi mắt mờ đục, đôi tai nghễnh ngãng và đi lại không còn được nhanh nhẹn, nhưng phong cách, điệu bộ vẫn thư thái, điềm đạm mang đậm bản chất của người chính trị viên. Ông bắt chuyện tôi bằng một giọng chân chất của người tỉnh Thanh:
- Mi định hỏi tau cái chi? Già rồi nhớ răng được mà kể!
- Bác kể cho cháu nghe về kỷ niệm và những chiến công mà bác cùng đồng đội lập được trên những con tàu không số!
- Hỏi như rứa thì có nói cả ngày không hết chuyện. Thôi! Thế ni! Cái chi in đậm trong trí nhớ của bác, bác sẽ kể được không?
- Vâng! Như vậy thì tốt quá ạ.
Ông rít một hơi thuốc lá rồi nhả ra những lọn khói cuộn trắng căn phòng nhỏ. Gương mặt ông lúc nhíu lại, lúc giãn ra quyện chặt vào khói thuốc. Bao ký ức dồn về làm ông xúc động. Tôi vội hỏi:
- Cháu được biết, trước khi xuống tàu các bác thường làm "lễ truy điệu sống", nghi thức này diễn ra như thế nào? Liệu trước khi "ra trận" làm như vậy có "bi lụy" quá không?
- Thật ra, không có lễ truy điệu nào trước lúc lên tàu cả. Nói như vậy để xác định rõ trọng trách, tầm quan trọng và quyết tâm của mỗi chuyến đi. Do tính chất nhiệm vụ nên khi lên tàu phải biết chấp nhận gian khổ, sẵn sàng hy sinh, ai có biểu hiện dao động tư tưởng là loại liền. Chính vì vậy, khi bước chân lên tàu, từ đáy lòng mỗi người đã tự làm lễ truy điệu cho riêng họ. Tất cả những gì thuộc về riêng tư đều "bàn giao" lại cho người thân để không còn vướng bận, mà chỉ có khí phách hiên ngang đầy nghĩa khí. Nghĩ cũng lạ, xác định một đi không trở lại vậy mà ai cũng xung phong, không ai chùn bước. Bác còn nhớ, hồi đó có đồng chí bị ốm, sợ bị loại không được lên tàu, liền làm việc gấp đôi ngày thường để được cấp trên chú ý.
Thấy ông có phần phấn chấn hơn trong câu chuyện, tôi liền hỏi: Chuyến đi nào vai trò Chính trị viên của bác được thể hiện rõ nét nhất?
- Là Chính trị viên nên chuyến nào đi bác cũng thấy quan trọng, trong đó có một chuyến đi không thể nào quên được. Đó là năm 1968, bác được trên điều về làm Chính trị viên, Bí thư Chi bộ Tàu 56, đồng chí Nguyễn Văn Ba là Thuyền trưởng, đồng chí Nguyễn Sơn là Thuyền phó. Tàu 56 được lệnh vận chuyển vũ khí trang bị vào Bình Định. Gần một ngày hành trình êm xuôi, khoảng 6 giờ tối, tàu phát hiện có một máy bay. Điều lạ là máy bay sà xuống nhưng không lên, cán bộ, chiến sĩ trên tàu đều đoán có tàu khu trục của địch. Khi Tàu 56 cách bờ 25 hải lý thì phát hiện phía trước có đèn nháy. Bác đi nhiều nên có kinh nghiệm, liền đề xuất với thuyền trưởng: Tình hình có khả năng bị lộ, nếu tàu ta vào bờ sẽ không hoàn thành nhiệm vụ mà gây tổn thất lớn. Sau khi nhận định, bác triển khai họp cấp ủy. Cấp ủy nhất trí với nhận định của bác.
20h25', Thuyền trưởng quyết định cho tàu quay ra khơi. 12 giờ đêm, địch bắn pháo sáng, đồng loạt 3 tàu địch vây quanh đều rọi đèn pha về phía tàu ta. Bác lệnh cho báo vụ treo cờ Trung Quốc, bởi thời điểm này Nixon chuẩn bị đi Trung Quốc (đây là thời điểm nhạy cảm mà). Thấy vậy, địch tập trung soi đèn vào cờ, sau đó đánh điện hỏi: Tàu quốc tịch nước nào? Chở hàng gì?, Đi đâu? Dừng lại kiểm tra không chúng tôi bắn!
Tàu ta không phát tín hiệu gì, bác tranh thủ trao đổi với thuyền trưởng và thống nhất: Cho tàu đi đúng hướng 90o, không thay đổi. Không thấy ta phát tín hiệu, địch bắt đầu bắn như vãi đạn từ súng máy phòng không 12,7 ly. Tàu ta vẫn bình tĩnh quan sát. Thấy đường đạn cao, bác trao đổi ngay với Thuyền trưởng Ba: Địch bắn dọa, cán bộ, chiến sĩ trên tàu hết sức bình tĩnh, phải thi gan đấu trí với chúng. Nếu cho tàu dừng lại, chúng sẽ ép mình đầu hàng nên vẫn cho tàu tiến về phía trước. Địch tiếp tục bắn dọa ngay trước mũi tàu ta. Mặc kệ! Tiếp tục đi. Thỉnh thoảng, địch cho canô lao vào sát mũi tàu ta rồi quay ra. Chúng thực hiện nhiều lần như vậy nhưng không phát hiện được gì vì ta ngụy trang kín bằng lưới.
Khoảng 3h sáng, đang trong lúc khó khăn thì đơn vị điện hỏi lý do. Thay mặt cán bộ, chiến sĩ trên tàu, bác trả lời: Tôi đang bị địch bao vây, chúng đã bắn dọa nhiều lần nhưng tàu vừa đi, vừa tránh, vẫn đi hướng 90o. Vừa trả lời điện báo xong thì phát hiện một tàu khu trục của địch chặn trước mặt, cách tàu ta gần 3 hải lý. Trước tình hình đó, bác họp cấp ủy và thống nhất: Phải cho chúng một bài học. Đánh! Lập tức toàn tàu triển khai phương án chiến đấu, chuẩn bị bom chìm, bộc phá nổi và vũ khí sẵn sàng nổ súng khi có lệnh.
Bác chỉ định cho thuyền trưởng: Đồng chí cứ cho tàu đi thẳng, sẵn sàng đâm vào tàu địch và hạ lệnh bắn, tôi có nhiệm vụ điểm hỏa khối bộc phá khi tàu ta đâm vào tàu địch. Bằng mọi cách chúng ta không để tàu, người, hàng lọt vào tay giặc. Toàn tàu quyết chiến đấu đến cùng. Sau khi thống nhất trong chỉ huy, bác kêu gọi toàn tàu: Trước tình hình hết sức khẩn trương, cuộc chiến đấu giữa tàu ta và tàu địch sẽ không cân sức, thay mặt Chi bộ Đảng, tôi kêu gọi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên hãy dũng cảm chiến đấu, không sợ hy sinh để xứng đáng với sự tin tưởng của Tổ quốc và nhân dân.
Sau khi kêu gọi, toàn tàu đồng thanh một tiếng: Quyết chiến đấu! Mọi người hiên ngang, coi cái chết tựa lông hồng. Tất cả vào vị trí sẵn sàng cảm tử.
Con tàu rẽ sóng tiến về phía trước. Khoảng cách giữa tàu ta và tàu địch rút ngắn dần: Chiến sĩ tín hiệu thông tin cờ tay liên tục báo cáo: Cách tàu địch 2 hải lý, 1 hải lý, 100 m rồi... 80m. Tất cả đã sẵn sàng. Thuyền trưởng lệnh cho tàu tăng tốc độ. Bỗng tàu khu trục của địch vọt lên, chạy thoát ra khỏi hướng mũi tàu ta. Thấy tình thế thay đổi, Thuyền trưởng Ba lệnh cho tàu tăng tốc và giữ nguyên vị trí chiến đấu chờ lệnh. Khi tàu ta vượt qua tàu địch, chúng liền bắn xối xả. Và đến khoảng 5 giờ sáng, các tàu địch bắt đầu giãn ra. Trước khi rút lui, chúng còn "tiễn" tàu ta bằng mấy loạt đại bác.
Sau khi vượt qua được vòng vây của địch, bác nhận thấy một điều: cán bộ, chiến sĩ trên những con tàu không số không chỉ dũng cảm, gan dạ, sẵn sàng hy sinh mà còn dám đánh, biết đánh và quyết đánh Mỹ. Đây là bài học vô giá cháu ạ.
Nghe ông kể đến đây tôi mới hiểu, sau đôi mắt mờ đục, đôi tai nghễnh ngãng là một trái tim nhân hậu, một con người trí tuệ uyên thâm bản ngã, kinh nghiệm đầy mình. Tôi tự nhủ, lớp chính trị viên trẻ bây giờ nếu được ông truyền đạt kinh nghiệm và cho thêm "vài đường cơ bản" trong giáo dục, động viên bộ đội, chắc chắn sẽ giỏi lên rất nhiều. Chia tay ông trong một chiều hè đầy nắng, tôi thầm chúc ông sống lâu, sống khỏe, trở thành cây cao, bóng cả để lớp trẻ chúng tôi được học tập, noi theo.
Ghi chép của Trịnh Văn Dũng (An ninh thế giới, số ra ngày 23/12/2008)