Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc => Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước... => Tác giả chủ đề:: caytrevietnam trong 09 Tháng Hai, 2008, 01:06:34 am



Tiêu đề: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: caytrevietnam trong 09 Tháng Hai, 2008, 01:06:34 am
Cách đây đúng 37 năm Bộ tư lệnh hải quân đã giao cho đoàn 125 – đơn vị “tàu không số” một nhiệm vụ đặc biệt “tối mật”: vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí vào miền Nam, góp phần chi viện kịp thời cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của đồng bào miền Nam.

Bốn tàu C.43, C.56, C165, C.235 đã vinh dự được nhận nhiệm vụ này. Cả bốn tàu đều gặp địch sau đó… Và con tàu đã đi vào huyền thoại của hải quân Việt Nam bằng cuộc chiến đấu dũng cảm của các thủy thủ trên vùng biển địch…

… Một ngày sau khi C.56 rời bến, ngày 27-2-1968, tàu 235 nhổ neo tại một căn cứ khác của đoàn 125 – căn cứ A3 vào đúng 11g 30 phút. Đây là chuyến đi thứ hai của C.235 trong tháng hai. Chuyến thứ nhất, tàu xuất phát vào ngày 6-2 nhưng hành trình của tàu luôn bị máy bay và tàu chiến dịch theo dõi, vì vậy tàu buộc phải quay trở lại căn cứ. Lần này điểm tập kết 14 tấn “hàng” là bến Hòn Hèo thuộc hai xã Ninh Phước, Ninh Vân (Khánh Hòa). Đây là khu vực cực kỳ hiểm trở - cách Nha Trang 12km về phía Bắc, luồng hẹp, nhiều đá ngầm, có núi cao bao bọc phía ngoài, và vô cùng nguy hiểm – gần quân cảng Cam Ranh, hang ổ của hải quân địch; có hai căn cứ rada gần đó cùng với tàu chiến, máy bay trinh sát chỉ điểm, tàu tuần tiễu hoạt động gần như 24/24 giờ.

Tàu 235 là tàu cao tốc, chạy bốn máy, tốc độ trung bình 12 hải lý/giờ do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy gồm 20 cán bộ chiến sĩ trẻ. Chính trị viên tàu là Nguyễn Tương, người cùng quê hương Điện Bàn với Phan Vinh. Trước chuyến đi này con trai đầu lòng của anh vừa tròn 4 tháng tuổi.

Nhật ký của C.235

Đi hai ngày, hai đêm trên vùng biển quốc tế, đến ngày 29-2-1968 vị trí C.235 ở ngang vùng biển Nha Trang.

- 18 giờ ngày 29-2: máy bay trinh sát của địch phát hịên ra tàu 235.

- 20 giờ cùng ngày, 235 vẫn quyết định chuyển hướng vào bờ.

- 22 giờ 30 phút, 235 điện về Sở chỉ huy: “Cách bờ 19 hải lý, gặp tàu và máy bay địch bám. Phan Vinh”.

- 23 giờ, C.235 bắt đầu tiến vào bờ. Phát hiện ra 235, hải quân vùng 2 duyên hải ngụy lập tức điều ba tàu chiến Ngọc Hồi, H.Q 12, H.Q 617 và bốn tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển phía Bắc Nha Trang với ý định bắt sống C.235.

- 23 giờ 30 phút: tất cả đèn trên tàu địch đều tắt. Chúng phục kích, theo dõi 235 bằng rada. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh quyết định điều khiển 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đã đến được bến (xã Ninh Phước) lúc 0 giờ 30 phút ngày 1-3-1968. Nhưng hoàn toàn không có người của bến ra đón 235. Không chần chừ thuyền trưởng Vinh ra lệnh khẩn trương cho hàng xuống nước để bến có thể vớt sau. Các bao hàng đóng gói đặc biệt được các thủy thủ lần lượt vần xuống. Chừng một giờ sau hàng trên tàu vơi dần. Lúc này là 1 giờ 30 phút sáng 1-3. Phía ngoài, ba tàu loại lớn và 4 tàu nhỏ của địch vẫn đang khép chặt vòng vây.

- 1 giờ 40 phút sáng 1-3-1968: thuyền trưởng Phan Vinh đột ngột ra lệnh ngừng thả hàng. Anh đưa tàu chạy ven bờ để nghi binh vị trí bến nhận hàng. Tàu chiến dịch lập tức đuổi theo. Tất cả tàu địch đồng loạt bật đèn pha và điện cho nhau: tàu nào không bật đèn là tàu “Việt cộng”. Tàu 235 lọt vào tình thế ngặt nghèo. Trước mặt là núi chắn sừng sững. Sau lưng, bảy tàu chiến địch dàn hàng ngang chặn lối ra. Cuộc săn đuổi tàu 235 mà sau này bọn địch gọi là “chiếc tàu ma” đã bắt đầu diễn ra…

Bài tường thuật trên đài tự do

Hồi 13 giờ ngày 24-3-1968 đài Tự do có giới thiệu bài “tường thuật đặc biệt” về một trận đánh trên biển với “Việt cộng”: “… Đây là bài tường thuật vụ đuổi bắt chiếc “tàu ma” ở Nha Trang… Hồi 1 giờ 36 phút, chiến hạm Ngọc Hồi dùng rada phát hiện được tàu địch, H.Q 12, H.Q 617 và các thuyền ta tìm cách chặn bắt tàu trên. Lúc này tàu ta được lệnh thắp đèn, tàu không thắp đèn là tàu địch bị khép chặt vào giữa, trong là bờ cạn.

Lúc 2 giờ ngày 1-3 cách Hòn Hèo năm hải lý, tàu lạ chạy vào bờ lẩn trốn chạy vào bờ lẩn trốn. Đến 2 giờ 30 phút các tàu ta được lệnh đồng loạt bắn các loại súng nhỏ từ 12 li 7 trở xuống với ý định bắt sống tàu địch. Các pháo lớn bắn vào bờ không cho địch trên tàu tẩu thoát, đồng thời gọi phi cơ đến thả hỏa châu soi sáng. Biết không thể nào tẩu thoát, Việt cộng ở trên tàu và ở trên bờ đã phản pháo.

Lực lượng trên bờ của địch khoảng một tiểu đoàn, có lẽ đã nhận nhiệm vụ yểm trợ tàu. Biết vậy, các chiến hạm của ta đã được lệnh bắn pháo lớn vào tàu địch. Sau ba mươi phút chống trả, tàu địch bốc cháy. Lúc này phi cơ được gọi đến bắn phá dọn đường ở dọc biển cho một cuộc lục soát. Đến 2 giờ 41 phút chỉ huy trưởng vùng 2 chiến thuật chỉ thị đổ bộ ngay trước khi trời sáng, nhưng vì hỏa lực Việt cộng bắn ra dữ dội nên lực lượng đổ bộ phải rút lui chờ quân chi viện…”.

Nhật ký C.235 từ 1 giờ 50 phút sáng 1-3-1968…

… Dưới ánh đèn pha gay gắt, tàu địch được lệnh bắn xối xả vào C.235… Trong ánh chớp lập lòe thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh lái tàu chạy sát vào bờ, chỉ huy anh em chiến đấu. Các thủy thủ dùng DKZ và súng 14 li 5 bắn về phía địch… Những tàu cỡ nhỏ của địch không chịu đựng nổi hỏa lực của C.235, dần dần dạt ra vòng ngoài. Nhưng chỉ trong chưa đầy nửa giờ chiến đấu đã có 5 đồng chí hi sinh, bảy đồng chí bị thương, trong đó có cả thuyền trưởng Phan Vinh…

- 2 giờ 20 phút ngày 1-3-1968: thuyền trưởng Phan Vinh có ý định phá vòng vây. Anh suy nghĩ, ra khơi sẽ dễ cơ động đối phó với địch. Nếu cần thì có thể áp sát tàu địch và cho giật kíp ba tấn bộc phá đã gài sẵn, phá 235 cùng với tàu địch… Tàu 235 đột ngột tăng tốc rồi lao vọt ra cửa vịnh. Ngay lập tức pháo địch từ các khu trục hạm tập trung hỏa lực nã vào 235. Giữa lưới lửa đỏ bỏng rát đó, 235 mỏng manh luồn lách như một chiếc lá… Một quả đạn pháo trúng gần buồng máy, 235 sựng lại rồi dừng hẳn: máy tàu đã hỏng nặng. Phương án 2 – phá vòng vây thế là không thành. Tàu 235 đang cách bờ độ 100m. Phan Vinh quyết định cho tất cả rời tàu bơi vào bờ. Kíp hẹn giờ nổ đã được vặn đến con số 15 phút.

- 2 giờ 40 phút ngày 1-3-1968: một cột lửa bùng lên, kế đó là một tiếng nổ khủng khiếp, chấn động tới tận Nha Trang. Sức công phá của ba tấn thuốc nổ khiến C. 235 bị đứt làm đôi. Một nửa chìm xuống biển, nửa còn lại văng lên lưng chừng núi Ba Nam (xã Ninh Vân). Kinh ngạc tột độ, bọn địch cuống cuồng gọi máy bay đến bắn phá cày nát vùng ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235.

- 3 giờ sáng ngày 1-3-1968: bọn địch từ tàu đổ bộ lên bờ sục sạo nhưng đã bị thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ - hai người cuối cùng rời khỏi 235, đón đầu, kiên cường đánh trả nên chúng đành rút lui, chờ viện binh. Ở một cánh lên bờ khách chỉ còn lại thuyền phó Đoàn Văn Nhi và 6 thủy thủ: Mai, An, Thật, Phong, Khung, Tuyến. Đã có 11 anh em hi sinh.



… Những ngày sau đó bảy người còn lại của C.235 – vừa bị thương, không lương thực, không nước uống dìu nhau đi vào khu vực Hòn Hèo. Họ bị kiệt sức dần. Đến ngày thứ 11 Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Chiều hôm đó Thật và An đi tìm Khung, bị lạc. Ngày thứ 12 Thật tìm được du kích ở bến. Hôm sau, An, Tuyến, Mai, Phong cũng liên lạc được với du kích. Mọi người quay lại đón thuyền phó Nhi đang nằm đợi trong rừng. Nhưng anh đã không còn ở đó nữa. Những gì còn lại chỉ là một mảnh bông băng đã khô máu, một mảnh áo rách…



Con tàu gồm 20 anh em, giờ chỉ còn lại 5 người: Thật, Phong, Mai, An, Tuyến. Năm con người sức tàn lực kiệt ấy đã nương tựa nhau cùng vượt Trường Sơn. Và sáu tháng sau họ đã trở lại miền Bắc, tiếp tục nhiệm vụ của mình…



Những phút cuối cùng của thuyền trưởng Phan Vinh



Trích tường thuật của đài Tự Do về trận đánh ở Hòn Hèo: “… Các phi tuần, trực thăng, khu trục võ trang được gọi đến bắn phá. Cuộc lục soát bắt đầu. Một toán từ phía Bắc xuống, toán khác từ dọc đồi phía Nam tiến lên khu vực Tân Định, một lực lượng khác gồm 4 tàu dàn hàng ngang tiến vào vịnh HQ.12, HQ.617 tiếp tục bắn phá yểm trợ vào sườn núi và đưa lực lượng thủy quân lục chiến vào bờ cùng hỗ trợ…”.



Trích tạp chí Lướt sóng của hải quân ngụy: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ đã đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt cộng gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hi sinh với con tàu bằng khối lượng hàng chục tấn bộc phá, không để lại một dấu vết…”.



… Ở gần chỗ tàu nổ, lúc gần sáng, địch đổ quân xuống, lùng sục. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã đoán được ý định của địch, chốt chặn sẵn ở đó để những anh em khác rút an toàn. Cả hai anh đều bị thương khá nặng nhưng đã ngoan cường trụ vững chống trả các đợt tấn công của một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên ở cả hai mũi tiến công. Phan Vinh và Thứ đã ở ngay giữa hai gọng kìm của địch. Chiến đấu độ nửa giờ, vết thương ngày một nặng, sức lực cạn kiệt, súng không còn đạn, các anh đã hi sinh. Bọn địch từ hai cánh quân tiếp tục nổ súng bắn vào nhau, thương vong cả hai phía khá nhiều, chúng buộc phải điện về chỉ huy sở “đã gặp địch mạnh, buộc phải rút lui”…



… Hơn nửa tháng sau đó năm anh em thủy thủ đoàn 235 đã tìm được nơi diễn ra trận đánh cuối cùng của Phan Vinh và Ngô Văn Thứ. Các anh vẫn ở trong tư thế nằm vươn người về phía trước như giữa lúc chiến đấu ghìm hai cánh quân địch. Dấu vết còn lại sau trận chiến ác liệt là những hố đạn sâu hoắm, những thân cây ngã gục, cháy loang lổ… Năm đó thuyền trưởng Phan Vinh vừa tròn 35 tuổi, chưa một lần yêu…



Chuyến đi này 15 cán bộ chiến sĩ của tàu 235 đã yên nghỉ ở Hòn Hèo. Bốn con tàu của đoàn 125 ra đi làm nhiệm vụ, chỉ có tàu 56 trở lại. Tàu 165 với 18 cán bộ chiến sĩ, trong đó có 15 đảng viên, 3 đoàn viên đã cảm tử ra đi sau khi điểm hỏa phá tàu và phá hủy ba chiếc tàu của địch. Tàu 43 đã bắn chìm và bắn hỏng một tàu, bắn rơi một máy bay địch, sau đó các thủy thủ đã phá hủy tàu…



… Hai năm sau ngày hi sinh, tháng 8-1970 liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh đã được Quốc hội và Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tên anh đã được đặt cho một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đảo Phan Vinh nằm ở 8 độ 56 phút vĩ bắc và 113 độ 38 phút kinh đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 430 hải lý…



(Dựa theo tư liệu của lữ đoàn 125, tư liệu trích từ sách Đường mòn trên biển của nhà văn Nguyễn Tử Đương và lời kể của đại tá Trần Phong – nguyên trợ lý tham mưu tiểu ban tác chiến đoàn 125 giai đoạn 1968…)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: bamhinh trong 06 Tháng Tám, 2008, 03:23:38 pm
Em đã đọc qua cuốn này lâu rồi, "Ký sự miền đất lửa": Nào trận Dốc Miếu - Cồn Tiên, nào Vĩnh Linh khói lửa, nào Đường mòn trên biển, rất tuyệt các bsc ạ.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: vinaheart trong 06 Tháng Tám, 2008, 04:39:15 pm
Các bác tìm đọc tiểu thuyết Biển Gọi đi


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: HuuTrang trong 08 Tháng Tám, 2008, 10:02:19 pm
Các anh ơi, cho em hỏi đảo Phan Vinh giờ có còn thuộc quyền kiểm soát của hải quân nhân dân Việt Nam không ạ
Nếu còn thì tốt quá, đó sẽ là một "tượng đài" không thể bị phá huỷ


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Tunguska trong 08 Tháng Tám, 2008, 10:36:41 pm
Các anh ơi, cho em hỏi đảo Phan Vinh giờ có còn thuộc quyền kiểm soát của hải quân nhân dân Việt Nam không ạ
Nếu còn thì tốt quá, đó sẽ là một "tượng đài" không thể bị phá huỷ

Có!
http://www.qdnd.vn/qdnd/baongay.bdvn.36002.qdnd (http://www.qdnd.vn/qdnd/baongay.bdvn.36002.qdnd)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 11:01:08 am
Trích từ bút ký "Có một con đường mòn trên biển Đông" của nhà văn Nguyên Ngọc, Tuổi Trẻ online đăng.
Xin giới thiệu cùng các bác.

Xác minh một truyền thuyết


Chúng ta đang đi tìm một con đường. Con đường ư? Trên trái đất này ai đếm hết được những con đường. Hàng ức, hàng triệu, hàng tỉ. Một nhà văn lớn, cũng là nhà tư tưởng lớn có nói: “Người đi trên mặt đất thì thành đường”.

Rất đúng! Nhưng còn người đi trên biển, trên mặt nước xanh phẳng lì đang trải ra trước mắt kia? Biển không để lại dấu vết, không để lại đường mòn. Biển xóa tất cả. Chỉ còn lại mặt nước mênh mông, phẳng lì, bí mật, câm lặng. Mãi mãi câm lặng.

Còn không dấu vết một con đường?

Câu chuyện của chúng ta hôm nay là câu chuyện về một con đường như thế, ngày xưa hoàn toàn câm lặng, hôm nay vẫn còn câm lặng, và rồi chắc sẽ mãi mãi ngày càng chìm sâu vào câm lặng, đến vĩnh hằng, ngày càng chìm sâu vào phẳng lì của biển và phẳng lì của thời gian nếu chúng ta không đánh thức nó dậy, không cố cùng nhau lần tìm ra nó trong thăm thẳm của biển, của thời gian và của ký ức biết ơn.

Con đường ấy là như vậy đó, con đường bí mật xuyên biển Đông vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam thời chiến tranh chống Mỹ.

Chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm của mình giữa cuộc sống hôm nay bộn bề, tấp nập, ngổn ngang... Và cũng phải nói trước điều này: những cái mốc để chúng ta có thể bấu víu vào đấy mà đi tìm, lần ra sự tích cũ chẳng còn bao nhiêu cả. Tư liệu, chứng cứ cũ hầu như chẳng còn gì đáng kể. Chúng đã chìm sâu trong câm lặng của mặt nước không biết nói.

Tài liệu lưu trữ trong các kho bảo mật hoặc đã mục nát, hoặc đã thất lạc gần hết. Những chiếc tàu xưa chẳng còn. Nghe nói ở đâu đó trong một vàm rạch hoang vắng tận cuối mũi Cà Mau còn xác một con tàu, may mà chưa bị bán làm sắt vụn, nhưng cũng đang tan thành gỉ nát vì thời gian và nước mặn...

Còn những con người? Người đã hi sinh, mãi mãi vùi thân trong biển sâu. Người đã qua đời sau chiến tranh vì già yếu, vì những di chứng của chiến tranh. Những người còn lại thì đang tản mác khắp đất nước, trong những xóm làng, những kênh rạch hẻo lánh đâu đó. Họ vốn vô danh. Hôm qua vô danh vì sự khắc nghiệt của nhiệm vụ. Hôm nay vô danh trong ồn ào cuộc sống đua chen.

Ta đi tìm chính những con người ấy.

Là ai? Ta chưa biết.

Trong tay chúng ta lúc này chỉ có mỗi một tài liệu nhỏ: tập phác thảo lịch sử Lữ đoàn Hải quân 125, chắc là được viết khá vội và quả thật còn khá thô sơ.

Đây là chứng cứ đầu tiên về thiên huyền thoại một thời. Dấu vết đầu tiên về một huyền thoại có thật, được ghi lại trên những trang giấy ố vàng. Một tập sách khổ rộng, không dày, giấy xấu, in roneo. Có trang còn chen cả chữ viết tay, mực tím đã phai mờ: hẳn có ai đó đã sửa chữa, bổ sung. Ngay từ những trang đầu tiên ta gặp một con số: năm 1959, và một tên người: đồng chí Võ Bẩm.

Năm 1959: đó là một con số không thể quên. Một cái mốc lịch sử: miền Nam đứng dậy. Và cuộc chiến tranh bắt đầu. Vì sự sống còn của dân tộc. Và miền Nam gọi.

Có ai ngày ấy không nghe thấy tiếng gọi đó, của máu, của nước mắt, của ý chí tự do, độc lập và thống nhất. Của Chợ Được, của Vĩnh Trinh, của Hướng Điền, của Trà Bồng, của Bến Tre...

Miền Nam gọi súng. Miền Nam đòi súng.

Con đường xẻ dọc biển Đông

Có thể tìm được đồng chí Võ Bẩm hôm nay tại căn nhà số 25 Phan Đình Phùng, Hà Nội.

Đó là một cụ già tóc đã bạc phơ, nhưng vẫn còn rất rõ dáng nét của một con người đậm chắc, quắc thước. Vầng trán rộng, cương nghị. Cặp mắt tinh anh và trầm tĩnh. Hao hao cái dáng vẻ những người chiến sĩ khởi nghĩa thời Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám.

Một buổi chiều Hà Nội giờ tan tầm. Tấp nập xe cộ trên đường. Những cây sấu già. Những cây bằng lăng nở đầy hoa tím. Ông cụ ấy nhớ lại:

- ... Đó là vào đầu năm 1959. Chúng tôi được Bác Hồ gọi lên. Bác nói: miền Nam đã đứng dậy. Miền Nam đang gọi. Phải nhanh chóng đưa súng đạn vào cho bà con trong đó. Bác giao nhiệm vụ cho chúng tôi: phải bằng mọi cách mở đường vào Nam. Chấp hành chỉ thị của Bác, tháng 5-1959 con đường Bắc - Nam xẻ dọc Trường Sơn được mở. Bắt đầu là một con đường mòn. Gọi là đường 559 vì nó ra đời tháng 5-1959. Còn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh. Bác từng nói: Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được độc lập...

Song song với con đường xẻ dọc Trường Sơn, tháng 7-1959 ta quyết định mở cả con đường Bắc - Nam xẻ dọc biển Đông. Bởi vì đi trên biển nguy hiểm hơn nhưng cũng nhanh hơn. Tiếng gọi của chiến trường cấp bách quá...

Đường biển Đông là mạo hiểm, là tử địa, đúng vậy. Nhưng cũng là bất ngờ. Với lại ta từng có kinh nghiệm rồi: trong kháng chiến chống Pháp ta cũng đã có một con đường vận chuyển vũ khí bí mật xuyên biển Đông từ Khu 5 vào Nam bộ.

Tháng 7-1959 chúng tôi thành lập một tiểu đoàn lấy tên là 644, giả danh là “tập đoàn đánh cá miền Nam” đóng tại cửa sông Gianh, do đồng chí Lưu Đức và đồng chí Hà Văn Xá chỉ huy, chuyên lo tổ chức đưa thuyền bí mật chở vũ khí vào Nam. Chuyến đi thí nghiệm đầu tiên xuất phát từ cửa sông Gianh đúng đêm 30 tháng chạp năm 1959, nhằm vào chân đèo Hải Vân, Quảng Nam...

- Ai đã đi chuyến đầu tiên ấy?

Anh Bẩm ngồi lặng hồi lâu.

- Không, tôi không thể nhớ... Chuyến ấy thất bại. Thuyền mất tích. Chắc là tất cả đã hi sinh... Chắc mãi mãi không còn ai biết tên tuổi họ... Tôi chỉ biết người đã nằm chờ đón chuyến thuyền bí mật ở chân đèo Hải Vân suốt một tháng ròng mà không đón được. Người ấy là Nguyễn Chơn, tổng tham mưu phó hiện nay...

Cửa sông Gianh. Lịch sử có những nghịch lý thật kỳ lạ và lý thú. Sông Gianh, con sông của Trịnh - Nguyễn phân tranh, của một thời chia cắt đất nước đau đớn kéo dài hơn trăm năm. Nơi nào đây, trên hai bờ con sông hiền hòa này, từng đối mặt hai đội quân thù nghịch của một cuộc tử chiến huynh đệ.

... Rồi cũng chính con sông này, cái cửa sông có bãi cát trắng phau này, lại là điểm bắt đầu của một con đường máu mủ nối liền Bắc - Nam thống thiết và mạo hiểm thời đánh Mỹ.
Chúng ta lần theo hai ven sông, qua những xóm làng chài, những cồn cát, những bến phà, những rừng phi lao ngày đêm hát trong gió... Cố tìm lại một chút dấu vết của cái năm tháng lịch sử ấy, năm 1959, của cái “tập đoàn đánh cá miền Nam”, cái tiểu đoàn 644 ẩn danh, bí mật một thời ấy.

Tuyệt đối không còn tìm thấy gì.

Các cụ già bảo:

- Không, bọ không hề nghe nói...

Cả những người lính thủy của đơn vị hải quân hôm nay đang đóng giữ cửa biển này:

- Không, không từng có con đường bí mật nào bắt đầu từ đây cả...

Những hàng phi lao, có cây đã thành cổ thụ kia, có thể bàn tay một người thủy thủ trong số những người thủy thủ đã mất tích trên biển Đông cái đêm sóng gió 30 tết ấy đã từng đặt tay lên lớp vỏ cây này, mân mê, trìu mến, như muốn nói một lời từ biệt trước lúc lên đường đi vào cõi mịt mùng biển đen, mười phần nắm chắc trước sự hi sinh đến tám, chín phần... Nhưng tiếng hát của hàng phi lao trong gió, dẫu có muốn kể lại kỷ niệm thống thiết xưa, hôm nay ta nào có nghe hiểu được.

Tức là cuộc đi tìm, lần theo con đường vô hình xưa cũ của chúng ta, vừa mới bắt đầu đã có cơ tắc lại.

Ta đành từ giã sông Gianh ra đi.

Đi về đâu?





Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 11:05:16 am

Tìm người vô danh

Năm 1959, những ngày đen tối và quyết liệt, khi cách mạng miền Nam từ trong máu và nước mắt, trong đau thương và chết chóc đang gượng mình đứng dậy, ra sức chuyển đêm thành ngày.

Câu chuyện của Nguyễn Chơn

Tỉnh ủy bí mật Quảng Nam, bấy giờ thật sự chỉ còn là một nhóm người đói khát mà cháy bỏng ý chí và khát vọng, đang náu mình trong một khu rừng sâu dưới chân ngọn núi Chúa. Cái tỉnh ủy bí mật ấy có một ban quân sự. Gọi là quân sự, kỳ thực chỉ là một nhúm vũ trang mà số người đếm được trên đầu ngón tay, do anh Nguyễn Chơn phụ trách. Họ có một điện đài hết sức thô sơ...

Một đêm nọ, cái điện đài ấy nhận được một bức điện bí mật từ Hà Nội chuyển vào: “Trung ương gửi cho các đồng chí Quảng Nam một số súng bằng đường biển. Thuyền sẽ vào bến Hố Chuối dưới chân đèo Hải Vân. Hãy cử người đón, từ đêm mồng một Tết âm lịch”.

Nguyễn Chơn được giao nhiệm vụ đi đón chuyến vũ khí đó. Ngày trốn trong hang đá. Đêm ra ngồi trên những tảng đá hoang vắng, tê buốt, chong mắt nhìn ra biển đen, sục tìm bóng dáng một con thuyền.

Đêm nào cũng vậy. Gạo hết. Cả củ chuối rừng cũng đã đào ăn hết.

Một đêm. Hai đêm. Ba đêm... Mười đêm... Hai mươi đêm... Một tháng ròng...

Thuyền không đến. Súng không đến. Còn người?

Anh Nguyễn Chơn nói:

- Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không hề được biết những người tôi phải đi đón ngày ấy là ai.

Im lặng một lúc lâu rồi anh lại nói:

- Có lẽ chỉ có thể đoán rằng những thủy thủ đó chắc phải là người Quảng Nam, hẳn quê một làng, một xã nào đó cũng quanh chân đèo này thôi, có thể từng là dân đánh cá rất am hiểu biển bờ núi non ở đây, hẳn người ta phải chọn những người như vậy để đưa con thuyền bí mật vào bến này...

Một người vô danh

Ước đoán đó của anh Nguyễn Chơn bỗng gợi lên cho chúng tôi một ý tưởng: có thể tìm ra, ít nhất là đôi chút dấu vết của những người thủy thủ vô danh đã biệt tích mãi mãi ấy, ở đâu đó trong các xóm làng ven chân ngọn đèo này chăng?

Chúng tôi la cà trong làng chài Nam Ô. Gặp các mẹ, các bà, các cụ già... Và kỳ lạ thay chúng tôi tìm ra, không phải là một dấu vết mà là một con người. Một thủy thủ của chuyến đi đầu tiên huyền thoại ấy. Con người ấy còn sống. Một ngư dân làng chài Nam Ô hôm nay: anh Huỳnh Ba.

Đó là một người đã hơn 60 tuổi, tóc muối tiêu, chân mày đã có sợi bạc. Ngồi lẫn trong đám ngư dân trên bãi biển hôm nay thật khó nhận ra ở anh một nét gì đặc biệt, thậm chí anh còn có vẻ hơi lẩn khuất trong đám người ồn ào.

Chỉ thật tinh mới có thể dần dần nhận ra điều này: anh không có hoặc là đã đánh mất đi nét tính cách thường gặp phổ biến ở những người dân biển: khoáng đạt, ồ ạt, liều lĩnh, ồn ào, ăn sóng nói gió, bạt mạng. Ở anh là sự trầm tĩnh, suy tính, cẩn trọng. Đôi mắt rất kín đáo, luôn quan sát, dò xét, tính toán. Anh nói chậm và nhỏ, ít lời, như cân nhắc từng lời nói ra.

Tất cả ở anh đều thể hiện một tính cách chín chắn, cẩn trọng, có lẽ đúng hơn nữa: cảnh giác. Sự gan dạ, có thể là sự gan dạ đến quyết liệt, gan lì ẩn sâu trong đôi mắt màu nâu đục nặng trĩu suy tư.

Ngày ấy, người ta đã chọn một con người như vậy để tiến hành chuyến mở đường đầu tiên mạo hiểm xuyên biển Đông: một con người đã từng trải trong hoạt động địch hậu, biết giấu dưới cái vẻ mộc mạc, giản dị, bình thường, tầm thường bên ngoài của mình sự mưu trí vừa liều lĩnh quyết liệt vừa cẩn trọng, và cái quyết tâm có thể còn rắn hơn cả sắt thép.

Tiểu đoàn 644, hay có khi còn gọi là đơn vị 759, tức là cái “tập đoàn đánh cá miền Nam” mạo danh đóng ở cửa sông Gianh ngày ấy, tập hợp toàn những con người như vậy đấy, không nhiều.

Một số ra Bắc từ ngày tập kết 1954, một số ở lại trong Nam, là đảng viên được bố trí nằm vùng hoạt động bí mật trong lòng địch, rồi sau đó vượt tuyến ra Bắc theo một mật lệnh phát ra từ một trung tâm chỉ đạo nào đó mà chính họ cũng không hề biết.

Huỳnh Ba thuộc loại thứ hai. Anh là đảng viên, được bố trí ở lại nằm vùng. Và giữa năm 1959 Huỳnh Ba nhận được lệnh bí mật tìm đường vượt tuyến, qua sông Hiền Lương, ra Bắc... Anh trở thành một trong những chiến sĩ đầu tiên của “tập đoàn đánh cá miền Nam” ở cửa sông Gianh.

Ở đấy họ đi đánh cá thật sự cùng với ngư dân địa phương để ngụy trang. Và bí mật đóng thuyền: những chiếc thuyền đánh cá hệt kiểu thuyền Quảng Nam, ở Quảng Nam người ta gọi là ghe bầu.

Những ngày tháng chạp năm 1959. Ở “tập đoàn đánh cá miền Nam” tại cửa sông Gianh, người ta khiêng, chất đống những thùng hàng bọc vỏ thiếc, những bó súng quấn vải dầu chống thấm.

4 giờ chiều.

Trên bến sông Gianh, 10 con người, năm người đi tiễn năm người sẽ lên đường. Chén rượu chia tay. Những cái nắm tay siết chặt, rất có thể là lần cuối cùng.

Cánh buồm được kéo lên, trắng nhờ trong đêm đen.

Một cơn gió bất ngờ ào đến.

Chiếc ghe giả rời bến, lao ra khơi, lao vào đêm đen.

Và mất hút trong màn đêm đặc kín.

Bên chiếc máy điện tín thô sơ, một cô báo vụ viên đang hối hả gõ nhịp máy. Bức điện viết:

Gửi Tỉnh ủy Quảng Nam,
Thuyền rời bến 30 tết. Dự kiến đến sau hai ngày. Đón tại Hố Chuối chân đèo. Nhận được báo cáo...

Chuyến đi mở đường

Anh Huỳnh Ba kể lại với chúng tôi câu chuyện năm xưa của anh trên một chuyến anh rủ chúng tôi cùng đi biển đánh cá. Câu chuyện được rì rầm kể lại trên biển đêm yên tĩnh.

- Chúng tôi có năm người: anh Nguyễn Xanh, quê Tam Kỳ, về sau đã hi sinh. Anh Trần Mức, quê Quảng Ngãi, về sau có về làm cán bộ huyện đội Mộ Đức, Quảng Ngãi, cũng đã hi sinh. Anh Huỳnh Sơn, người Thăng Bình, đã hi sinh. Anh Nguyễn Nử, người Duy Nghĩa, Duy Xuyên, cũng đã hi sinh.

Và tôi. Nay còn lại mỗi mình tôi.

Tất cả chúng tôi đều từng là thủy thủ trong các đội thuyền chở vũ khí bí mật từ Khu 5 vào Khu 6 và Nam bộ thời chín năm chống Pháp. Thời ấy chúng tôi từng có kinh nghiệm: ra đi vào đúng những ngày dông bão lớn, biển động hoặc những ngày tết. Ấy là những lúc địch xao nhãng tuần tra trên biển. Giờ đây cũng vậy, ra đi đúng đêm 30 tết.

Đêm thứ nhất, tức đêm giao thừa, đã phải vật lộn với gió cấp 5, cấp 6. Đến sáng mồng 1 thì trời xuống gió to hơn: cấp 7, cấp 8. Vẫn ra sức chống chèo. Khoảng 12 giờ trưa, bị gãy mất tay lái. Nhưng chúng tôi còn một tay lái dự phòng. Đến trưa mồng 2 thì gãy tiếp tay lái thứ hai. Kéo lên sửa mấy lần không được. Bây giờ thì đành thả trôi.

Sáng mồng 4, tôi nhận ra đảo Lý Sơn cách chừng 6- 7km. Biển đã lặng. Biển lặng thì dân Lý Sơn đổ ra đánh cá nhiều. Mà bọn thuyền địch cũng ra. Tức là có nguy cơ bị bắt. Chúng tôi quyết định thủ tiêu hàng hóa. Tất cả có 6 tấn: 500kg vải, 400kg nilông đi mưa và thuốc men, chủ yếu là thuốc chống sốt rét. Còn lại toàn súng đạn. Vứt hết xuống biển. Có một nguyên tắc: tuyệt đối không để hàng rơi vào tay địch...

4g30 chiều hôm đó chúng tôi bị bắt. Đã bàn với nhau trước: chúng tôi là thuyền đánh cá, bị bão trôi dạt vô đây. Tất nhiên là chúng không tin. Bị giam ở đảo Lý Sơn một tuần. Rồi đưa về Đà Nẵng nhốt hai tháng rưỡi. Rồi vào Tổng nha Sài Gòn. Rồi Chí Hòa. Lao Chí Hòa đầy quá lại gửi qua lao Gia Định.

Đầu năm 1961 về Phú Lợi. Năm 1964 nhà lao Phú Lợi giải tán, tôi ra Côn Đảo. Ở Côn Đảo, lâu lâu lại bị gọi về Sài Gòn tra khảo, khai thác. Trước sau tôi ra Côn Đảo tất cả 12 lần... Cho đến cuối năm 1974 tôi được thả ra. Bệnh tật, xơ xác. Lần mò về được đến Nam Ô cũng vừa là ngày giải phóng Đà Nẵng, 29-3-1975...

Sau chuyến mở đường đầu tiên thất bại, có một cuộc họp đã diễn ra bên tấm bản đồ lớn, đất và biển miền Nam. Rồi một bức điện tuyệt mật được đánh đi từ cơ quan đầu não tối cao:

Gửi Trung ương Cục và tất cả các tỉnh ven biển miền Nam,

Các tỉnh tổ chức cho thuyền bí mật vượt biển ra Bắc, báo cáo tình hình bến bãi, tình hình địch bố phòng ven biển và tuần tiễu trên mặt biển. Rồi trực tiếp dẫn tàu vào...

Một hành trình mới xuyên biển lại bắt đầu, từ phía Nam ra...



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 11:07:59 am

Đi về hướng sao Bắc Đẩu

Trong tài liệu lưu trữ của Lữ đoàn Hải quân 125 có ghi một số tên những người đầu tiên đã đi xuyên biển từ phía Nam ra tìm bắt liên lạc với Trung ương theo bức điện chỉ thị tuyệt mật ngày ấy: Bông Văn Dĩa, Tư Mau, Đặng Văn Thanh, Lê Hà...

Nhưng khi chúng tôi tìm đến nơi thì chỉ còn có thể đến nghiêng mình trước nấm mộ đồng chí Bông Văn Dĩa ở Rạch Gốc, Cà Mau và đồng chí Tư Mau ở Rạch Giá, Kiên Giang.

Những nấm mộ thì im lặng. Chúng tôi đã đến quá muộn!...

Song cũng còn may: một anh bạn chúng tôi, là nhà văn, có cho chúng tôi đọc mấy cuốn sổ tay ghi chép của anh khi anh tìm về Rạch Giá gần 10 năm trước, được gặp đồng chí Tư Mau lúc ông còn sống và được làm việc với ông.

Đó là những trang ghi chép vội, một thứ tư liệu mộc, chưa hề được nhào nặn, pha chế. Nhưng chính vì thế mà còn giữ được ít nhiều vẻ tươi nguyên của một vỉa quặng vừa được xới lên từ những lớp sâu của thời gian.

Chuyện kể của đồng chí Tư Mau, trích từ những trang ghi chép:

Đi tìm ông Hai Địa

“Tôi được biết tên anh Hai Địa tức đồng chí Bông Văn Dĩa lần đầu tiên vào năm 1957 hay 1958. Mới biết tên, nhưng ấn tượng hết sức đậm. Câu chuyện thế này: hồi bấy giờ anh Ba Duẩn, tức đồng chí Lê Duẩn, ở Kinh Năm, một con rạch nhỏ tận cuối mũi Cà Mau.

Địch đánh phá ác liệt lắm, cả vùng U Minh mênh mông là vậy mà hầu như không còn chỗ an toàn, lúc về Kinh Năm là nơi cuối cùng. Nhưng rồi Kinh Năm cũng bị lộ. Tôi ở bộ phận bảo vệ anh Ba. Anh Ba bảo:

- Lộ rồi. Phải đi thôi!

- Đi đâu bây giờ?

Anh Ba nói:

- Còn một chỗ. Còn một người có thể tin cậy: anh Hai Địa ở Rạch Gốc. Rạch Gốc là đất có thể nương náu. Đó là căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai hồi 1941. Chính Hai Địa là cơ sở của đồng chí Phan Ngọc Hiển, từng tham gia cướp chính quyền Hòn Khoai về sau bị tù Côn Đảo. Ở Côn Đảo, mỗi lần chúng tôi bị địch kéo ra đánh thì Hai Địa xông ra chịu đòn thay... Phải đi tìm Hai Địa...

Vậy là chúng tôi đi. Một chiếc vỏ lãi, ba người: anh Ba, tôi và ông Hắc Hổ chèo thuyền. Chèo suốt một ngày tới Rạch Gốc. Nhưng Hai Địa không có nhà, anh ấy đang đi hoạt động trên miệt Cần Thơ. Chị Hai cho chúng tôi ăn cơm. Ngồi được một lúc thì có mấy thanh niên tới. Họ cứ nhìn chằm chằm anh Ba, rồi lân la hỏi thăm tình hình phong trào.

Anh Ba kéo tôi ra ngoài, bảo: “Thế là lộ rồi, phải đi thôi...”. Vậy là chúng tôi lại ra đi... Tức là lần đó tôi không gặp được anh Hai Địa. Nhưng lời anh Ba Duẩn thì tôi vẫn nhớ: đó là con người có thể tin cậy trong lúc khó khăn cùng cực của cách mạng.

Năm 1961 tôi làm chính trị viên tiểu đoàn bảo vệ Khu ủy Khu 9 vẫn đóng quanh quẩn vùng Bạc Liêu, Cà Mau. Tôi được biết Trung ương có chỉ thị các tỉnh ven biển miền Nam cho thuyền vượt biển ra Bắc để tính chuyện chở vũ khí về. Bấy giờ âm thầm nhưng sôi nổi lắm.

Bà Rịa cho thuyền ra, do anh Năm Đông tổ chức. Trà Vinh thì cử sáu đồng chí, mang bí danh là Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi. Bến Tre cho thuyền ra do anh Tư Thắng phụ trách. Khu 6 cũng cử anh Đặng Văn Thanh đi ra, theo đường Trường Sơn. Bạc Liêu cử hai thuyền, do anh Bông Văn Dĩa làm bí thư chi bộ... Các chuyến ra đều rất gian nan.

Thuyền Bà Rịa bị địch bắt ở Nha Trang, sau thoát được lại trôi dạt vào đảo Hải Nam. Thuyền Trà Vinh gặp bão lớn, phải đốn bỏ cả cột buồm, trôi dạt sang tận Hương Cảng... Riêng anh Hai Địa dạt vô bờ biển Quảng Bình, bị dân quân ta bắt, tưởng là biệt kích ngụy, đánh cho một trận và giam chặt.

Anh Hai Địa nhất định không tiết lộ nhiệm vụ, chỉ một mực yêu cầu giải về Trung ương, trực tiếp gặp anh Ba Duẩn. Mãi mới được chuyển về huyện. Lại giam. Rồi chuyển về tỉnh. Anh Hai Địa dọa đồng chí công an tỉnh: “Các đồng chí không đưa tôi đi gặp đồng chí Lê Duẩn ngay, sau này lỡ việc lớn, phải chịu trách nhiệm”. Vừa may lúc đó anh Ba Duẩn đang đi công tác ở Quảng Bình. Tỉnh ủy báo cáo:

- Có người trong Nam ra, tự xưng tên là Hai Địa, đòi gặp trực tiếp đồng chí, không chịu khai báo gì nữa.

- Ở đâu? Ở đâu?...

Vậy là hai người gặp được nhau, hai người bạn tù Côn Đảo mấy mươi năm trước. Họ ôm chầm lấy nhau...

Đầu năm 1962, tôi được lệnh đồng chí Vũ Đình Liệu gọi lên, giao nhiệm vụ:

- Đồng chí Bông Văn Dĩa ra bắt liên lạc với trung ương nay đang trên đường trở về. Đồng chí dẫn một tiểu đội xuống Rạch Gốc đón và đưa đồng chí Dĩa về đây báo cáo... Đã biết mặt Bông Văn Dĩa chưa?

Tôi bảo:

- Chưa gặp nhưng đã biết.

Khai thông con đường biển Đông

Chúng tôi xuống Rạch Gốc, chờ 10 ngày thì thuyền anh Hai Địa về. Tôi đưa anh lên ngay khu ủy báo cáo. Nghe báo cáo có các anh Ba Bường, Ba Hương, Mười Thơ, Vũ Đình Liệu. Trung ương nhận định tình hình bến bãi trong này như anh Hai Địa ra báo cáo là chưa cụ thể, chưa bảo đảm. Chưa thể đưa tàu vào.

Cần về khảo sát và ra báo cáo lại. Cần khảo sát cả các đảo ven bờ và ngoài khơi, cả đảo Trường Sa, có thể dùng một số đảo làm trạm trung chuyển, lập kho bí mật, trung ương đưa tàu vào đấy, các tỉnh miền Nam dùng thuyền nhỏ ra lấy chở về...

Khu ủy quyết định thành lập một ban chỉ huy cho công tác đặc biệt này do anh Ba Hòa làm trưởng ban, tôi làm phó, đưa một đại đội được chọn lọc kỹ xuống căn cứ ở vùng rừng Cà Mau và giao anh Hai Địa cùng tôi đi khảo sát các đảo.

Chúng tôi dùng thuyền máy Arona, đi bốn người: anh Hai Địa, tôi, anh Tranh, anh Huynh, ra cửa Rạch Gốc, xuôi xuống Hòn Chuối, tạm nấp ở đó, đến 4 giờ chiều thì bắt đầu nổ máy chạy suốt đêm, 5 giờ sáng hôm sau đến đảo Thổ Chu.

Bấy giờ là tháng năm ta, chúng tôi cập gần đảo, tạm dừng, pha trà uống. Đang uống trà, chợt giật mình thấy một chiếc ghe nhỏ từ trong bờ đảo chèo ra. Cập ghe lại hỏi thăm, biết đấy là ông Năm Lặc, người Rạch Giá, ra đây câu đồi mồi. Thổ Chu rất nhiều đồi mồi.

Ông Năm Lặc cho biết bà con miệt Rạch Giá, Hà Tiên vẫn thường ra đây bắt đồi mồi, hoặc đi đánh cá các nơi thường ghé về đây phơi cá trước khi chuyển về đất liền. Cũng có người ra đây tìm trứng nhàu...

Chúng tôi quanh quẩn ở quần đảo Thổ Chu mấy ngày, cuối cùng đi đến kết luận: không ổn! Đây không hoàn toàn là đảo hoang, người đi lại khá nhiều, phức tạp, không thể lập kho vũ khí bí mật.

Đành bỏ Thổ Chu, đi Trường Sa. Trường Sa có một số đảo hoang, nhưng nhiều nước nhòm ngó, lại càng quá xa bờ, bất tiện hơn nhiều.

Lại quay về ven vịnh Thái Lan, miệt khơi Rạch Giá, Hà Tiên. Vùng biển này có hơn trăm đảo lớn nhỏ, nay ta gọi là huyện Kiên Hải. Đảo lớn thì đông dân, đảo nhỏ không nhiều người ở nhưng quá gần bờ, người đi lại luôn. Chúng tôi lần khắp, tính đi tính lại thấy không xong... Vậy là phương án lấy các đảo làm trạm trung chuyển không thành...

Về báo cáo, khu ủy chỉ thị: vậy thì quay lại nghiên cứu các bến. Lại ra đi. Lần mò suốt dọc từ miệt bờ biển Sóc Trăng, Bạc Liêu xuống tới mũi Cà Mau, rồi từ mũi Cà Mau lần lên hướng Rạch Giá, Hà Tiên. Nắm tình hình địch, tình hình dân, dò các lạch, đêm đêm mò ra đo độ sâu lúc nước cường, lúc nước ròng.

Tìm ra cửa lý tưởng nhất là cửa Bồ Đề, lạch sâu 3,8m, tàu ta có thể vào thong thả. Các cửa Rạch Gốc, Hố Bỏ Gùi, Vàm Lũng, Vàm Cái Su cạn hơn nhưng lúc nước cường vẫn vào được, lại có lạch kín, rừng đước dày, có thể đào ụ giấu tàu và lập kho lớn chứa vũ khí...

Sau chuyến khảo sát này, khu ủy quyết định cử hai thuyền ra báo cáo trung ương, một chiếc do anh Hai Địa phụ trách xuất phát tại cửa Rạch Gốc ngày 24-7-1962, một chiếc tôi phụ trách xuất phát sau hai ngày. Đi hai thuyền là đề phòng mất một vẫn còn một.

Anh Hai Địa đi trót lọt, đến cửa Việt ngày 29-7.

Còn tôi đến ngang Đà Nẵng cách bờ 50km thì bị tàu địch rượt đuổi suốt một ngày, đến 10 giờ đêm 30-7 thì bị chúng bắt...

Bị giam ở Đà Nẵng một năm trường. Đến tháng 6-1963 mới được tha. Lần về tới chiến khu Bạc Liêu thì anh Hai Địa đã chở được chuyến tàu gần 50 tấn súng đạn về bến Rạch Gốc.

Con đường biển Đông đã chính thức được khai thông.

Và cả một mạng lưới các bến liên hoàn từ Bà Rịa dài suốt đến Cà Mau đã được hình thành. Riêng vùng Rạch Gốc - quê anh Hai Địa - đã được tổ chức thành một khu căn cứ hoàn chỉnh chặt chẽ”.

Những chuyến tàu mạo hiểm đã xẻ dọc biển Đông, đưa súng đạn cho người đang cần súng đạn để chiến đấu và tự vệ. Tiếng miền Nam gọi khẩn thiết đã giục giã ra khơi những con tàu lớn hơn. Và một người lính đã được chọn lựa cho nhiệm vụ tuyệt mật này.

Một câu chuyện lạ lùng và cảm động…



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 01:50:20 pm
Câu chuyện của người lính già


Từ Hải Phòng, qua phà Bính, rẽ về tay trái khoảng mươi cây số sẽ gặp một vùng đất có dáng dấp trung du: những cụm đồi nối nhau thoai thoải, cao dần về hướng đông bắc.

Làng xóm nằm ven đồi, thượng gia hạ điền: trên đồi là nhà, có vườn, dưới chân là ruộng. Len lỏi vào các xóm làng chen chúc ấy, thỉnh thoảng có thể gặp dấu vết những căn hầm lớn khoét sâu vào sườn đồi.

Có hầm đã sập, nhưng cũng có hầm còn khá nguyên vẹn, gỡ đi vài lớp rêu phong xanh rì có chỗ còn có thể nhận ra cả dấu xẻng công binh xén sâu vào lớp đất bazan đỏ sậm: chính nơi đây một thời từng là căn cứ địa, là sở chỉ huy của một đơn vị thường được những người ít nhiều có liên quan nhắc đến một cách tò mò và thán phục: đơn vị “những con tàu không số”. Còn những người trong cuộc thì biết rõ tên tuổi của nó: Lữ đoàn Hải quân 125.

Người thủy thủ già ở lại

Những người lính của cái lữ đoàn bí mật huyền thoại một thời đó, những sĩ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, những thuyền trưởng, thủy thủ, báo vụ viên, thợ máy... ngày ấy từ khắp đất nước tập hợp về đây, nay đều đã đi xa.

Người đã hy sinh, mãi mãi biệt tích trên biển Đông, người đã chuyển ngành, người đã về hưu... Duy còn một người vẫn ở lại đây. Một người lính thủy già, quê tận Cà Ná, tít tận miền Phan Thiết trong cực Nam Trung bộ xa xôi: anh Đặng Văn Thanh.

Thường vẫn vậy trong những trường hợp này: có một mối tình sâu đậm nào đó đã giữ chân người lính bôn ba lại nơi làng quê hẻo lánh này. Trường hợp Đặng Văn Thanh chính là như vậy. Sau những chuyến mạo hiểm trên biển lớn, anh thường trở về nơi này, chỉ huy sở của các con tàu không số, báo cáo công tác hay nghỉ ngơi lấy sức dăm ngày.

Chính trong một căn hầm chỉ huy khoét sâu vào lòng đồi nay đã sạt lở gần hết, anh đã gặp một chị hội trưởng phụ nữ xã có đôi mắt lá răm sắc dài. Hỏi thăm mới biết đó là một người vợ liệt sĩ. Họ quen nhau, ân cần và kín đáo chăm sóc cho nhau. Chị thấy bồn chồn lo lắng mỗi lần anh từ giã ra đi, lao ra biển khơi mịt mùng. Chị hao gầy đi những ngày chờ đợi.

Và như sống lại, tươi tắn, tinh khôi, đôi mắt lá răm cố giấu một niềm hạnh phúc không kìm nổi mỗi lần anh trở về... Cho đến ngày cuối chiến tranh, họ trở thành vợ chồng...

Bây giờ thì người thủy thủ già đã thật sự trở thành một bác nông dân chính cống. Nhà anh chị nằm ven sườn đồi. Trước sân là cái giàn mướp sai quả, giàn mướp không phải đan bằng tre mà là một tấm lưới cũ giăng giữa mấy cây cột chống bằng sắt gỉ. Phía ngoài sân là chiếc giếng rất sâu, gàu được kéo bằng ròng rọc hẳn lấy được về từ một chiếc tàu cũ nào đó. Cạnh đấy là ao cá, anh Thanh bảo mỗi mùa thu được hàng 5-6 tạ cá mè...

Chúng tôi ngồi với nhau giữa sân, trên chiếc nong lớn, quanh mâm rượu có một chai cuốc lủi to bự và mấy con cá khô nướng làm mồi chị Thanh đã chu đáo dọn sẵn cho chúng tôi. Anh Thanh nói:

- ...Sau hiệp định Genève 1954, tôi không đi tập kết mà được lệnh ở lại nằm vùng hoạt động. Rồi tôi được giao nhiệm vụ giả đi đánh cá, điều tra kỹ vùng Mũi Đèn và về khu ủy báo cáo cụ thể tình hình sông nước, bến bãi, tình hình địch bố phòng tuần tra trên đất trên biển ra sao, tình hình dân. Làm xong thì có liên lạc đến, dẫn lên rừng, về chỗ anh Lê, anh Hiền. Đồng chí liên lạc dặn trước khi đi phải sắm sẵn nilông, võng dù, hănggô.

Tôi cũng nghĩ chắc lên rừng thì phải có đủ những thứ đó chứ không ngờ... Lên đến nơi, ở trạm giao liên vài ngày thì một buổi chiều thấy anh Lê và anh Hiền ra, tay xách mấy chai rượu cần và một hănggô cơm nếp. Hai anh ở lại suốt đêm ấy rỉ rả nói chuyện. Anh Hiền bảo:

- Anh Thanh mấy năm nay vất vả, sức yếu lắm rồi, mắt mờ, tóc rụng hết. Nay khu ủy quyết định Thanh phải ra Bắc nghỉ một thời gian, chữa bệnh, học hành, rồi sẽ trở về phục vụ. Thanh cứ đi, đừng suy nghĩ gì. Cách mạng miền Nam còn dài. Cứ đi, rồi sẽ trở về, trên có cho ít súng đạn, tìm cách mang về cho anh em trong này càng tốt...

Khu ủy giao cho Thanh cái phong bì này, phải giữ thật kỹ, trường hợp bất trắc nhất thiết không để rơi vào tay giặc, dù hi sinh cũng phải bảo đảm thủ tiêu trước khi ngã xuống. Ra đến Hà Nội chỉ được giao tận tay một người là đồng chí Võ Nguyên Giáp.

Hai nhiệm vụ từ đại tướng Võ Nguyên Giáp

Tôi đi đường Trường Sơn gần tám tháng mới ra tới miền Bắc, tới Quảng Bình thì có xe con đón thẳng về Hà Nội. Lúc ở 105 Quán Thánh, lúc ở Ban Thống nhất trung ương, loanh quanh luẩn quẩn chẳng biết làm gì, không được ra đường, chỉ ăn uống bồi dưỡng, thỉnh thoảng xe đưa đi khám bệnh rồi đưa về, lại loay hoay một mình trong phòng.

Đó là khoảng cuối năm 1961... Cho đến một bữa chiều, tôi đang ở Ban Thống nhất thì có người đưa xe đến đón bảo đi có việc. Xe chạy quanh co một lúc thì đến một ngôi nhà, sau này tôi mới biết là số nhà 36 Lý Nam Đế. Người dẫn đường đưa tôi lên tầng hai, vào một căn phòng rộng, có một chiếc bàn lớn và bốn cái ghế bành.

Trên bàn bày sẵn bánh kẹo, bia, nước ngọt. Một người mặc quân phục nhưng không đeo quân hàm bảo: “Đồng chí ngồi nghỉ, chờ một lúc”.

Vài phút sau cửa phòng mở, một người bước vào, chắc đậm, quần kaki, áo lụa ba túi. Tôi đứng dậy nhưng không biết là ai. Người mặc quân phục - sau này tôi biết là sĩ quan tham mưu - nói:

- Báo cáo thủ trưởng, đây là đồng chí Đặng Văn Thanh, vừa ở Khu 6 ra.

Rồi anh quay lại phía tôi:

- Đây là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đồng chí Thanh chào đại tướng đi...

Tôi sững sờ.

Đại tướng bước lại bắt tay tôi, rồi ôm lấy cả hai vai tôi:

- Đồng chí Thanh ngồi xuống đi. Nào, đã lâu lắm tôi không được nghe giọng nói Phan Thiết. Nào ngồi xuống. Và nói chuyện cho chúng tôi nghe đi.

Đại tướng tự tay bóc thuốc và rót nước cho tôi:

- Đồng chí Thanh đi đường mất mấy tháng? Sức khỏe bây giờ thế nào? Đã đi khám bệnh chưa?... Anh Lê, anh Hiền có khỏe không?

Tôi đứng dậy:

- Thưa đại tướng, có cái phong bì này anh Hiền dặn tôi chỉ được đưa tận tay đại tướng...

Ông cầm phong bì nhưng đặt xuống bàn.

- Bây giờ đồng chí Thanh kể chuyện cho chúng tôi nghe đã. Tình hình trong ấy thế nào? Bà con ta sống thế nào? Địch hoạt động thế nào? Nhất là nói kỹ tình hình ven biển từ Khánh Hòa vào tới Mũi Đèn. Nói thật cụ thể.

Người sĩ quan tham mưu dẹp mấy cái cốc và trải ra trên mặt bàn một tấm bản đồ lớn. Đại tướng đưa cho tôi một cây bút chì vót nhọn:

- Đây, đồng chí báo cáo đi, chỉ rõ từng chỗ trên bản đồ...

Tôi cầm cây bút, đứng sững trước tấm bản đồ rất lâu. Người sĩ quan tham mưu nhắc:

- Đồng chí Thanh bình tĩnh nói đi.

Tôi quay nhìn đại tướng, lắp bắp mãi mới nói được mấy tiếng:

- Báo cáo... Báo cáo đại tướng... Tôi... tôi không biết chữ...

Căn phòng bỗng lặng ngắt.

Các anh biết không, lúc đó tôi thấy mình có lỗi vô cùng. Đại tướng cũng đứng lặng hồi lâu. Rồi ông nói với người sĩ quan tham mưu, giọng trầm xuống hẳn:

- Anh em ta trong ấy vậy đó...

Ông cầm lấy cây bút chì từ tay tôi, kéo tôi lại cạnh ông:

- Bây giờ thế này nhé, tôi sẽ chỉ từng chỗ trên bản đồ và đồng chí sẽ kể cho chúng tôi biết rõ tình hình từng nơi. Đây này, cái vạch màu đỏ này là đường số 1. Đây là Phan Rang. Đây là Phan Thiết. Còn chỗ này, cái mũi nhọn này, Thanh nhìn rõ không, là Mũi Đèn. Còn đây là Vũng Găng. Đây là Cà Ná...

Như vậy đấy, đêm ấy đại tướng ở lại với tôi rất khuya. Và, các anh biết không, tôi đã kể lại với đại tướng không phải chỉ tình hình các vùng tôi từng biết, từng sống, từng hoạt động. Tôi đã kể với đại tướng tất cả cuộc đời tôi. Từ ngày là thằng bé mồ côi cha mẹ, 8 tuổi đã làm nghề lặn cá ở biển Cà Ná...

Đại tướng ngồi nghe, thỉnh thoảng mới nhắc một câu:

- Thanh uống nước đi đã.

... Cho đến khi người cán bộ tham mưu rời quyển sổ ghi chép đứng dậy nói:

- Báo cáo thủ trưởng, đã 1 giờ sáng...

Đại tướng cũng đứng dậy. Ông nói:

- Cám ơn, cám ơn đồng chí Thanh...

Lần này ông không bắt tay tôi mà ôm chặt cả hai vai tôi. Ông nói:

- Bây giờ đồng chí Thanh có hai nhiệm vụ, tôi giao nhé, phải làm kỳ được. Một: chữa bệnh, bồi dưỡng cho thật khỏe. Tóc rụng hết cả rồi đây này... Hai: phải đi học. Học chữ và học chuyên môn. Khi nào hoàn thành nhiệm vụ, báo cáo cho tôi biết... Thôi, về đi. Đêm nay ngủ thật ngon...

Vậy là anh Đặng Văn Thanh đi học. Lớp học chỉ một thầy một trò. Sau ba tháng biết đọc biết viết thì được chuyển sang học hàng hải, la bàn..

Một nhiệm vụ mới đang chờ đợi anh.



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 01:54:39 pm

Những con tàu không số
Xong cái đận học hành ấy, xe lại chở anh Đặng Văn Thanh về 83 Lý Nam Đế. Anh Thanh kể: “Nằm chờ ở Lý Nam Đế khoảng một tuần, một hôm anh Đoàn Hồng Phước cho gọi tôi lên cùng 12 người nữa, tất cả đều là đảng viên, toàn người Khu 5, Khu 8 và Khu 9, đều lớn tuổi hơn tôi.

Tàu không số

Anh Phước nói:

- Đã đến lúc chuẩn bị lên đường. 13 đồng chí thành một đội, một chi bộ. Đồng chí Thanh là chính trị viên, bí thư chi bộ. Đồng chí Thêm là thuyền trưởng. Đồng chí Năm là máy trưởng.

Ngày hôm sau có một đồng chí người gầy, cao, về sau tôi mới biết là đồng chí Nguyễn Văn Vịnh, chủ nhiệm Ban Thống nhất trung ương, đến liên hoan chia tay, rồi chúng tôi được chở xuống Đồ Sơn, vào thẳng khu vực cấm ở Pagodon và được nhận tàu.

Người ta gọi đơn vị chúng tôi là “đơn vị tàu không số”. Đó là một cách gọi để nhấn mạnh tính chất bí mật của đơn vị này, công tác này. Thật ra thì các tàu đều có số hiệu chính thức riêng của mình, ghi rõ trong sổ sách mật của đơn vị nhưng không ghi trên thân tàu. Còn trên thân tàu thì ghi số hiệu giả, thường xuyên thay đổi. Chúng tôi mang theo đầy đủ các loại sơn, đến mỗi vùng biển lại sơn lại số hiệu giống như các con tàu đánh cá ở những vùng biển ấy.

Riêng về mục tàu bè của chúng tôi cũng là cả một câu chuyện lịch sử khá dài. Chiếc đầu tiên chở được 15 tấn vũ khí vào Nam chính là chiếc ghe lưới Bạc Liêu do đồng chí Bông Văn Dĩa mang ra trong chuyến dò tìm đường ra Bắc báo cáo. Chiếc ấy đồng chí Dĩa để lại ở Quảng Bình, đã hư nát nhiều.

Bấy giờ còn một chiếc ghe lưới tương tự như vậy nữa do các anh ở Trà Vinh đem ra. Ta quyết định sửa chữa lại để đi những chuyến mở đường đầu tiên. Hải quân đi thuê sửa chữa thì dễ lộ nên ta phải nhờ đồn công an vũ trang Quảng Bình đứng ra thuê công trường gỗ Quảng Bình sửa chữa phần vỏ và Nhà máy cơ khí 6-1 Đồng Hới làm phần máy.

Chắc anh em công nhân công trường gỗ Quảng Bình và Nhà máy cơ khí 6-1 Đồng Hới trong khi làm công việc này cũng nghĩ là công an vũ trang cần một số ghe lưới kiểu miền Nam để tuần tra vùng biển giới tuyến, không hề ngờ đến con đường đi và mục đích thật của nó.

Trong khi đó xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng được lệnh gấp rút đóng bốn tàu gỗ lớn hơn, trọng tải trên 30 tấn, có buồm kết hợp với máy đẩy, đặc biệt máy đẩy phải là loại máy đẩy của Mỹ chứ không dùng loại của xã hội chủ nghĩa.

Vỏ tàu toàn gỗ tốt: sến, trai, dền dền, chịu đựng được sóng to giữa biển lớn; còn máy đẩy thì anh em đi sục tìm khắp nơi, thậm chí có cả chỉ thị của thủ tướng chính phủ huy động tất cả cơ sở, cuối cùng mới tìm được một máy Grey Marin của Mỹ 220 sức ngựa, lắp cho một chiếc. Ba chiếc còn lại đành phải lắp máy Suda của Tiệp Khắc, có dáng dấp hơi giống máy các nước phương Tây sản xuất.

Chiếc tàu gỗ thứ nhất do đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy xuất phát từ bến Đồ Sơn ngày 8-4-1962, đến bến Đầm Chim, Cà Mau ngày 18-4-1962.

Như vậy tàu chúng tôi được nhận là chiếc tàu gỗ thứ hai.

Chúng tôi 13 anh em đến Pagodon Đồ Sơn, xuống xem tàu rồi lên bờ nghỉ ngơi, tiếp tục ăn uống bồi dưỡng, không phải làm gì cả. Đêm đến mới bắt đầu chuyển hàng xuống tàu, nhưng không phải chúng tôi chuyển mà toàn là cán bộ, khoảng hơn chục người, cấp đại tá, có cả tướng. Chuyển suốt một đêm mới được hơn nửa tàu.

Mờ sáng tàu phải chạy vào núp kín trong một gành đá, tối hôm sau mới trở lại bến, lại tiếp tục chuyển. Ngày hôm sau nữa, đúng 8g tối chúng tôi xuất phát.

Ra khơi mùa biển động

Cái nghề này là vậy, chúng tôi ra đi bao giờ cũng đúng giữa mùa gió đông bắc, như vậy thuận gió thuận nước, lại biển động sóng lớn, việc tuần tra của địch trên biển có phần sơ hở hơn.

Chúng tôi nhằm hướng đảo Hải Nam chạy thẳng ra, càng ra khơi sóng càng to, gió càng lớn. Anh em chúng tôi toàn là dân chài, làm ăn trên biển đã dạn dày, vậy mà lần này say sóng nhừ tử gần hết, mửa mật xanh mật vàng, có anh còn mửa ra cả máu.

Ra khỏi đảo Hải Nam 100 hải lý thì máy hỏng. Loay hoay sửa mãi, được một lúc lại hỏng. Tàu rất khẳm, chúng tôi họp cấp ủy, bàn đi tính lại mãi, cuối cùng quyết định quay trở lại... Mất tất cả 22 ngày lênh đênh mới trở lại được Đồ Sơn. Anh em rất buồn. Trên xuống động viên và rút kinh nghiệm, sửa chữa máy móc.

Rồi chúng tôi lại ra đi. Vẫn sóng to gió lớn đến nỗi không nấu được cơm, chúng tôi phải ăn bánh đa thay cơm. Hai ngày hai đêm, vừa qua khỏi vĩ tuyến 17 thì máy vô tuyến điện bị hỏng. Chúng tôi họp bàn quyết định không trở lại nữa, cứ vượt sóng mà đi. Sóng lớn phủ hai bên, tàu chúng tôi trông như một chiếc tàu ngầm...

Ngày thứ tư thấy Nha Trang. Đến đêm sau thì thấy có một ngọn đèn pha, cách chừng 8 hải lý. Anh em bảo là đèn pha Kê Gà, nhưng tôi quan sát kỹ, khẳng định là pha Vũng Tàu. Pha Vũng Tàu chớp ba, từ ngày ở nhà tôi đã thuộc. Vậy là phải nhanh chóng chuyển hướng ngay...

Đến 11g trưa thì chúng tôi bắt được bờ, một dải xanh mờ nhạt ở chân trời phía tây. 2g chiều, một thủy thủ quê Bến Tre nhận ra được cửa Gành Vàng, tức là trên Rạch Gốc chừng 10 hải lý. Mừng quá, chúng tôi cứ bắt bờ xuôi dần xuống. Tới ngang Rạch Gốc thì kéo cờ ám hiệu: một cờ đen, một cờ trắng, hình vuông, theo kiểu cờ ghe đánh cá của đồng bào. Một lúc sau có ba ghe máy cũng kiểu cờ đen trắng từ trong bờ chạy ra. Tất cả chúng tôi đều ùa lên boong tàu, reo to:

- Ta đây rồi! Ta đây rồi!

Ba chiếc ghe máy dẫn tàu chúng tôi vào cửa, theo những đường lạch quanh co và luồn thẳng vào rạch có vòm đước kín bưng. Tôi chưa kịp bước lên bờ thì một người thấp đậm, béo khỏe, mặt tròn chạy thẳng xuống tàu ôm chầm lấy tôi:

- Hoan hô! Hoan hô!

Đấy là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Bông Văn Dĩa.

Nguyên tắc bí mật

Đồng chí Bông Văn Dĩa lúc này đã về phụ trách bến, cùng với đồng chí Tư Mau. Dần dà tôi mới hiểu ra: các anh đã tổ chức cả một hệ thống bến đón liên hoàn từ mạn Trà Vinh, Sóc Trăng xuống đến tận mũi Cà Mau, chặt chẽ, qui mô do một đơn vị lớn lấy tên là Đoàn 962 phụ trách.

Anh Dĩa kéo chúng tôi lên bờ, khui bia, rượu Rồng Xanh liên hoan mừng thắng lợi, sò huyết Cà Mau ngon nổi tiếng cứ luộc từng thúng mà ăn.

Chúng tôi nghỉ lại bến gần một tháng. Bến được tổ chức rất qui củ, có khu nghỉ riêng cho thủy thủ, có bệnh xá, kho vũ khí, kho lương thực, có bảo vệ vòng trong vòng ngoài vững vàng. Lúc này địch mở chiến dịch “Tình thương” lùng ráp vũng Đất Mũi. Khu ủy tăng cường một tiểu đoàn xuống, đánh một số trận, giữ vững khu căn cứ. Tiểu đoàn này được lệnh phải bảo vệ chiếc tàu của chúng tôi bằng bất cứ giá nào, nhất quyết không cho địch đến gần và phát hiện.

Chúng tôi sống rất thoải mái, chỉ có hai điều hạn chế: thiếu nước ngọt (chúng tôi là thủy thủ từ miền Bắc vào được ưu tiên phát mỗi ngày 10 lít nước ngọt, còn anh em tại chỗ chỉ được 1 lít). Và nguyên tắc bí mật rất nghiêm. Tuyệt đối không ai được bước chân ra khỏi khu căn cứ. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Mỗi người chỉ được biết công việc của mình, chỉ ở trong khu vực của mình, không được lân la sang các khu vực khác.

Bấy giờ cả một vùng rừng khá rộng từ Rạch Gốc đến Đất Mũi ở cuối chót Năm Căn thực tế thành một khu cấm địa hết sức nghiêm ngặt, là một khu vực bến đón và kho vũ khí bí mật lớn của ta. Hình như kẻ địch có đánh hơi, nghi ngờ, nhưng không tài nào mon men đến được.

Dân trong vùng này thưa và toàn là cơ sở lâu năm, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Nghe nói đôi khi có người ở bên ngoài vô tình đi lọt vào vùng này liền bị lưới canh phòng bí mật của anh em giữ lại và từ đó bắt buộc phải ở lại đây, phân công phục vụ trong một bộ phận nào đấy cho đến hết chiến tranh.

Cuộc sống trong khu căn cứ này nghiêm ngặt là thế, nhưng cũng không phải là khô khan đâu. Vẫn rất sôi nổi và vui. Thậm chí còn có cả chuyện yêu đương, cưới vợ, gả chồng, sinh con đẻ cái nữa. Một thế giới kỳ lạ trong rừng đước âm u, bí hiểm...”.

Anh Thanh còn đi nhiều chuyến nữa, vào Bến Tre, Trà Vinh, Bà Rịa… không phải bằng tàu gỗ mà bằng những con tàu sắt trọng tải 100 tấn. Trên những con tàu không số ấy, cậu bé mồ côi thất học ngày nào đã trở thành anh hùng quân đội.

Cũng như anh, ở Trà Vinh có một người cũng được tuyên dương anh hùng. Cuộc chiến đấu trên biển của thuyền trưởng Hồ Đức Thắng sách đã ghi; nhưng sử sách nào sẽ ghi lại cuộc chiến đấu âm thầm của người vợ, chiến đấu trong đơn độc và tủi nhục…



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 01:57:26 pm

Phía sau người anh hùng


Ở Trà Vinh có một thuyền trưởng từng chiến đấu trên biển Đông đã được tuyên dương anh hùng quân đội, nay cũng đã nghỉ hưu: anh Ba Thắng, tức Hồ Đức Thắng. Theo chỉ dẫn của các đồng chí ở đoàn 962, tức đơn vị hải quân nay đóng ở Trà Nóc, Cần Thơ, chúng tôi tìm đến anh Ba Thắng.

Cuộc chiến đấu trên biển của người anh hùng

Anh Ba Thắng thuộc lớp người đầu tiên mở đường biển Đông.

Hồi 1960-1961, khi ở Bà Rịa bác Năm Đông và má Mười Rìu xuôi ngược tổ chức bến bí mật trong lòng giặc, ở Cà Mau anh Hai Địa và anh Tư Mau rong ruổi đi nghiên cứu hàng trăm hòn đảo từ Trường Sa qua Kiên Hải đến Thổ Chu, từ Ninh Thuận Đặng Văn Thanh lội bộ vượt Trường Sơn ra Hà Nội... thì Tỉnh ủy Trà Vinh cũng gửi một thuyền vượt biển bí mật ra bắt liên lạc với trung ương.

Thuyền Trà Vinh có sáu người, lấy tên theo một khẩu hiệu, một quyết tâm lớn: Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi. Ba Thắng chính là người thứ năm trong số này.

Thuyền Trà Vinh vượt biển ra Bắc, gặp bão, trôi dạt sang tận Macau, rồi được trả về Hà Nội qua cửa khẩu Bằng Tường. Cũng như nhiều anh em khác từ chiến trường ra, Ba Thắng được cho đi học, bắt đầu từ i tờ, rồi học hàng hải, cuối cùng tập trung về đoàn tàu không số bắt đầu tham gia cuộc chiến đấu lớn trên biển.

Ba Thắng đã đi trước sau trên 20 chuyến, hầu hết các bến bí mật ở miền Nam thời ấy anh đều đặt chân đến: Rạch Gốc, Gành Hào, Bồ Đề, Hố Bỏ Gùi, Vàm Lũng, Kinh Năm... Gay go, nguy hiểm nhất là các bến ở miền Trung: Lộ Diêu, Phổ An, Phổ Quang, Sa Kỳ, Hòn Hèo, Hòn Khói, Vũng Rô... Sử dụng đủ các loại tàu: tàu gỗ do xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng cung cấp, tàu sắt Quảng Châu, tàu cao tốc những năm về sau này.

Khi con đường vận chuyển trên biển bị lộ, bọn Mỹ đã triển khai một bộ phận hải quân và máy bay thuộc hạm đội 7 phối hợp với hải quân ngụy ráo riết ngăn chặn, tàu ta không thể đi theo địa văn, tức là đi tương đối gần bờ, lấy các rặng núi trong đất liền làm chuẩn để định hướng nữa, mà phải đi vòng ra rất xa, sang tận sát quần đảo Philippines, vòng xuống đến vùng Palawan sát hải phận Indonesia, từ đó men theo eo biển Malacca ngược lên vịnh Thái Lan, và bất ngờ dùng tốc độ cao đâm thẳng vào vùng mũi Cà Mau...

Đã có hàng chục trận phải đánh nhau với tàu địch trên biển, cho nổ tàu phi tang, nhảy xuống biển mà bơi, hoặc cho tàu đâm thẳng luôn vào bờ, vừa đánh địch vừa đốt tàu, rồi tìm đường về căn cứ...

Suốt đêm chúng tôi mới đến và sáng hôm sau anh Ba Thắng kể cho chúng tôi nghe tất cả những chuyện ấy. Rồi anh dẫn chúng tôi ra bến, chính cái bến ngày xưa tàu ta từng bí mật đổ vũ khí vào.

Buổi tối chúng tôi trở về nhà anh Ba Thắng. Chị Ba nấu cháo gà đãi chúng tôi. Và trong khi chúng tôi ngồi uống rượu, chị lui cui dọn dẹp, cho heo ăn, đập xơ dừa một lúc rồi chị đi nghỉ sớm.

Anh Ba Thắng rủ chúng tôi bắc ghế ra sân ngồi hóng mát. Đêm ở đây yên tĩnh đến có cảm giác như ta đã tách hẳn ra khỏi thế giới tất tả chung quanh. Sự yên tĩnh cho ta cái thanh thản trầm lắng và dễ khiến con người trở nên suy tư.

Anh Ba Thắng đột ngột nói:

- Suốt ngày hôm nay tôi đã kể các anh nghe cuộc chiến đấu trên biển của chúng tôi. Bây giờ tôi sẽ kể với các anh một cuộc chiến đấu khác, chắc không ghi trong bất cứ sổ sách nào đâu...

Cuộc chiến đấu không có tiếng súng

... Hồi 1961, lệnh rút sáu anh em chúng tôi để vượt biển ra Bắc là lệnh trực tiếp của tỉnh ủy, hết sức bí mật, ngay trong tỉnh ủy cũng chỉ có một, hai đồng chí thường vụ trực tiếp lo công việc này biết, còn huyện ủy, xã ủy, chi bộ địa phương đều hoàn toàn không hay biết. Chỉ nghe nói là mấy anh em tôi được rút đi thoát ly, còn đi đâu, làm gì không ai rõ. Vợ tôi lúc đó đã là đảng viên trong chi ủy mà tôi cũng không dám hé răng tâm sự chút gì...

Tôi ra Bắc, rồi đi tàu bí mật trở về khắp các bến, như tôi đã kể các anh nghe. Đến chuyến thứ năm mới được trở về đúng bến Trà Vinh này. Tới bến cất hàng, giấu tàu xong xuôi, chúng tôi rút vào rừng nghỉ một tuần.

Ngày tôi ra đi vợ chồng tôi mới có một mặt con. Vợ tôi là chi ủy viên, hoạt động bí mật trong ấp chiến lược, nhớ và lo lắm. Nhưng tuyệt đối không hề dám nghĩ tới chuyện thư từ liên lạc, đừng nói gì đến về thăm, gặp mặt...

Đến chuyến thứ chín, cuối năm 1964, tôi lại được trở về bến Trà Vinh. Lần này đồng chí phụ trách bến gọi tôi lên, hỏi:

- Có muốn gặp vợ không?

Tôi chắc anh ấy thử mình nên trả lời:

- Không dám nghĩ tới chuyện đó đâu. Tùy tổ chức thôi.

Ai dè các anh thương, lần này quyết bố trí cho vợ chồng tôi gặp nhau thật.

Công phu lắm. Phải phái một chị giao liên hợp pháp về tận làng tôi, nói với vợ tôi là trên rút đi công tác đặc biệt, công tác gì không được biết. Vợ tôi phải giả đi buôn ở Cần Thơ. Giao liên dẫn đi vòng vo mấy ngày, chuyển từ giao liên này qua giao liên khác mấy lần, cuối cùng mới đến bến.

Anh em rất chu đáo. Điều kiện ở bến khó khăn vậy mà các anh vẫn bố trí cho vợ chồng tôi một “căn lều hạnh phúc” trong một khu rừng kín. Ở với nhau được hai ngày... Rồi vợ tôi lại vòng lên Cần Thơ, mua một ít hàng linh tinh trước khi trở về nhà. Còn tôi vài ngày sau xuống tàu...

Từ đó cho đến hết chiến tranh tôi còn đi nhiều chuyến, nhưng toàn đi Cà Mau và Khu 5, không còn chuyến nào được trở lại Trà Vinh. Cũng không hề nhận được tin tức gì của vợ con nữa...
Tôi thiệt là cái thằng vô tâm các anh ạ. Nhớ thương vợ con thì luôn canh cánh bên lòng, nhưng không hề đoán nghĩ được những gì sẽ xảy ra với vợ tôi sau lần chúng tôi gặp nhau trong rừng đó...

Mãi đến sau 1975 giải phóng miền Nam rồi tôi về thăm nhà mới biết: thì ra lần ấy gặp nhau trở về vợ tôi có thai. Cơ sự bỗng trở nên hết sức phức tạp. Việc tôi ra Bắc, rồi đi tàu biển chở vũ khí về, địa phương, huyện, xã, tỉnh, chi bộ, bà con làng xóm tuyệt đối không ai biết. Việc tôi có trở về bến Trà Vinh càng không ai biết.

Đối với mọi người, kể cả các đồng chí trong đảng bộ địa phương, cả với cha mẹ tôi, vợ tôi là vợ của một chiến sĩ quân giải phóng đang đánh Mỹ ở đâu đó. Vậy mà bây giờ, đùng một cái, người đàn bà ấy lại có chửa! Với ai? Chỉ có thể là chửa hoang!

Lúc đầu vợ tôi còn lúng túng che giấu, hi vọng một cách hão huyền biết đâu bất ngờ tôi có thể công khai trở về. Nhưng rồi bụng càng ngày càng to, không thể che giấu được nữa. Cha mẹ tôi khinh bỉ và đau khổ. Chi bộ gọi lên kiểm điểm. Nói với chi bộ thế nào bây giờ? Cuối cùng cô ấy khai liều: lâu nay đi buôn ở Cần Thơ, lỡ có dan díu với một người ra cơ sự này!

Cha mẹ la chửi, chi bộ lên án đành cắn răng chịu đựng. Chi bộ quyết định kỷ luật: khai trừ, đuổi ra khỏi Đảng, đình chỉ công tác. Các anh có hiểu được một người đảng viên sống trong lòng địch mà bỗng mất hết đảng, mất hết cả gia đình, xóm giềng, lủi thủi một mình ôm cái bụng chửa, rồi sinh con, nuôi con một mình chống lại với tất cả... là thế nào không? Vợ tôi sinh được một đứa con gái, giọt máu của chúng tôi. Nhưng cha mẹ tôi không cho nó lấy họ tôi.

Vậy đó, kéo dài hơn 10 năm trời. Cho đến ngày giải phóng miền Nam. Và tôi trở về...

Anh Ba Thắng ngừng lời. Tất cả chúng tôi đều im lặng.

Chúng tôi tìm về bến Trà Vinh để gặp một người anh hùng và nghe những sự tích anh hùng của anh trên biển Đông, những trận chiến đấu độc đảm, dữ dội, ác liệt của anh giữa trùng khơi sóng gió. Nhưng hóa ra lại gặp một con người khác, một sự tích khác. Một sự tích không hề có súng nổ, có sóng to, gió lớn biển khơi, thậm chí một sự tích gần như không lời.

Một người đàn bà âm thầm chịu đựng tất cả, hoàn toàn cô đơn, dằng dặc hơn 10 năm trời, để khư khư cắn răng giữ kín một điều ngày ấy vô cùng thiêng liêng: bí mật của con đường biển Đông.

Đặng Văn Thanh và chú Năm Sao từng kiên gan chịu đựng trên con tàu mắc cạn, sẵn sàng hi sinh nổ tung tan xác cùng con tàu, phi tang tất cả cũng là để gìn giữ cho được điều bí mật sinh tử ấy. Họ đã trụ vững suốt một ngày.

Đặng Văn Thanh trở thành anh hùng quân đội.

Còn chị Ba ở tận cuối Trà Vinh, chị đã trụ vững hơn 10 năm. Và trong cô đơn tuyệt đối.
Sử sách nào sẽ ghi lại sự tích này?

Một vùng cát trắng, lơ thơ bông cỏ lông chông khô cháy. Người đàn bà ấy đi trên cát, nắm tay một đứa bé. Chị Ba Thắng và đứa con gái bé bỏng của chị. Lủi thủi, cam chịu hai mẹ con... Có ai ngờ chủ nghĩa anh hùng có khi lại có diện mạo lầm lũi như thế đó...

Những con tàu không số tăng dần theo năm tháng. Năm 1964, 1965 mỗi tuần đều có những chuyến ra khơi. Từ biển Bắc, hàng ngàn tấn súng đạn theo những chuyến đi mạo hiểm ấy đã đến với các bến đợi ở miền Trung, miền Nam.

Con đường chiến lược có nguy cơ bị rò rỉ ngay từ điểm xuất phát. Và nỗi lo rình rập mỗi ngày…



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 01:59:12 pm

Bí mật một con đường

Việc lớp chiến sĩ nghĩa vụ quân sự này có mặt ở Lữ đoàn 125 khoảng năm 1964 là một dấu hiệu cho thấy đến lúc này tuyến vận chuyển bí mật trên biển Bắc - Nam đã phát triển khá lớn: số anh em từ các tỉnh trong Nam vượt biển ra và anh em miền Nam tập kết lấy từ các đơn vị trong và ngoài quân đội về không còn đủ nữa.

Đơn vị đã phải tuyển thêm ngày càng đông những chiến sĩ hải quân quê miền Bắc. Tất nhiên chọn lựa rất kỹ: những người gan dạ, vững chắc, tin cậy nhất. Nguyễn Long An nói:

- Lúc tôi về đơn vị, con đường trên biển của ta có thể nói đã khá tấp nập. Tôi xin nói vài con số: Năm 1962 tổng số tàu đi là năm chiếc, chở được cho miền Nam 810 tấn vũ khí. Năm 1963 tổng số tàu đi 22 chiếc, chở được 1.318 tấn. Năm 1964 tổng số tàu đi 49 chiếc, chở được 2.971 tấn và 113 khách. Riêng hai tháng đầu năm 1965 tổng số tàu đi tám chiếc, chở 408 tấn và 23 khách.

Tức là đến cuối năm 1964 đầu 1965, gần như tuần nào cũng có tàu xuất phát từ Đồ Sơn, Hòn Gai, Hạ Long, Bái Tử Long, Móng Cái, Tiên Yên, nhằm vào các bến Khu 5 và Nam bộ: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bà Rịa, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá. Hệ thống bến đi và bến đến cũng đều mở rất rộng.

Ngoài súng đạn, tàu còn chở cả “khách”. Khách đây là những đồng chí cán bộ thường ở cấp khá cao, cần đi công tác khẩn vào miền Nam hoặc từ các chiến trường miền Nam ra trung ương báo cáo, họp hành. Đi đường Trường Sơn phải mất hai, ba tháng trời. Đi tàu biển của chúng tôi nhiều nhất chỉ mất một tuần...

Mật độ tàu đi lại dày đặc như vậy thì nguy cơ lộ bí mật con đường chiến lược đặc biệt này cũng ngày càng lớn. Có thể nói là mối lo nơm nớp từng ngày. Mà bí mật thì có thể rò rỉ từ những kẽ hở rất nhỏ, rất khó lường.

Một bí mật cao hơn tất cả  

Có một chuyện thế này: tàu chúng tôi khi đi vào chở vũ khí rất nặng nên tàu khẳm, đi tương đối đằm. Khi trở ra lại đi tàu không, tàu nhẹ quá, gặp sóng to gió lớn rất chông chênh. Cho nên khi trở ra chúng tôi thường chất đủ thứ linh tinh lên tàu cốt cho nặng: đất đá, than củi, bất cứ thứ gì...

Một lần vô tình anh em chở ra cả một tàu toàn cây dừa nước. Dừa nước Nam bộ thiếu gì. Chở về đến căn cứ của đoàn ở phía trên bến Bính, Hải Phòng rồi đổ bừa xuống đấy... Và quên bẵng đi...

Không ngờ dừa nước là thứ cây rất khỏe. Chỉ một thời gian sau cả một vùng bờ sông phía sau căn cứ bến Bính đã thành một bãi dừa nước rậm rạp, bạt ngàn. Vậy mà chúng tôi bận bịu bao nhiêu công việc chẳng ai để ý.

Cho đến một hôm, có một anh công nhân quê Nam bộ tập kết làm việc ở một nhà máy gì đó bên Hải Phòng, một buổi chiều chắc là nhớ nhà, nhớ quê hương, đi lang thang một mình dọc bờ sông, tình cờ thấy mấy trái dừa nước trôi bập bềnh trên mặt sông.

Anh nhặt lấy, đêm về chợt nghĩ: ở miền Bắc rất hiếm dừa nước. Mấy trái dừa nước này đúng là dừa Nam bộ rồi. Ai mang nó ra đây? Tại sao lại trôi dạt tận bờ sông này?...

Mấy hôm sau anh tẩn mẩn mò đi ngược bờ sông và khám phá bãi dừa nước của chúng tôi. Anh lân la tìm gặp anh em chúng tôi, hỏi: “Có phải các anh đã vào tận Nam bộ mang giống dừa này ra đây không?”.

Thật là nguy to! Tin tức ấy được báo cáo ngay lên Bộ tư lệnh Hải quân, rồi lên tận trung ương. Đoàn chúng tôi bị chỉnh một trận ra trò, được lệnh phá sạch ngay hết bãi dừa nước nọ và phải tổ chức bí mật theo dõi ráo riết anh công nhân nặng lòng nhớ quê hương kia...

Cũng may, theo dõi rất lâu không thấy có động tĩnh gì khác, chắc anh công nhân ấy rồi cũng vô tình quên đi chuyện mấy trái dừa nước, hoặc anh là người có ý tứ, đã biết giữ kín sự khám phá và mối nghi ngờ của mình, không tiết lộ thêm với ai khác... Những ngày ấy khắc nghiệt như thế đó, một tình cảm quê hương thật đẹp thế cũng lại rất có thể trở thành nguy hiểm cho cả một sự nghiệp lớn ta từng biết bao công phu xây dựng, gìn giữ...

Còn một khía cạnh khác nữa cũng rất tế nhị, phức tạp. Ngày ấy tất cả chúng tôi đều còn rất trẻ, hầu hết chưa có gia đình riêng, chuyện yêu đương không thể tránh hết được. Không thể cấm đoán nhưng quả thật mọi mối quen biết của chúng tôi đều bị giám sát rất khắt khe. Chúng tôi biết và hiểu yêu cầu khắc nghiệt của công tác này đòi hỏi phải như vậy.

Một lần cơ quan bảo vệ báo cáo một thủy thủ trong một chuyến đi phép đã gặp và yêu một chị y tá ở Bệnh viện Việt Trung trên Hà Nội tên là Phúc. Và hình như chị Phúc có biết về công việc của lữ đoàn. Cán bộ bảo vệ đi điều tra, không xác minh được điều gì rõ rệt. Nhưng cậu thủy thủ nọ biết mối lo của đoàn liền lẳng lặng cắt đứt và trốn biệt người yêu.

Chị Phúc cuống quít bổ đi tìm khắp nơi, đau khổ vì đây là mối tình đầu của chị... Về sau cậu thủy thủ ấy hi sinh, mất tích trên vịnh Thái Lan. Chắc chị Phúc mãi mãi không bao giờ biết gì nữa về người lính thủy đẹp trai đã đến một lần với chị rồi vĩnh viễn biệt tăm ấy...

Có trăm nghìn câu chuyện như vậy, trăm nghìn hi sinh thầm lặng, vô danh như vậy, ngày ấy.Ngày ấy, đối với mỗi chúng tôi, bí mật của con đường là thiêng liêng, là cao hơn tất cả.
Phương châm công tác trên biển của chúng tôi là: bí mật, bất ngờ, tránh chạm địch đến cùng để hoàn thành nhiệm vụ, khi cuối cùng không tránh được thì chiến đấu đến cùng, không để địch lấy tàu, lấy hàng, lấy tài liệu, không để địch bắt sống.

Về sau có sửa lại: “Trong trường hợp bị địch bắt, giữ vững khí tiết của người cộng sản, đấu tranh để tìm mọi cách tiếp tục nhiệm vụ”. Rồi sau lại bổ sung: “Trong trường hợp lạc đến các nước Đông Nam Á, bị bắt thì đấu tranh tìm mọi cách gặp sứ quán ta để trở về tiếp tục nhiệm vụ”.

Như vậy nghĩa là một mặt hết sức kiên trì giữ đến cùng bí mật của con đường, song mặt khác chúng tôi cũng đã nghĩ đến khả năng một ngày nào đó không thể tránh phải chạm địch, đối mặt với chúng. Mật độ hoạt động ngày càng lớn, càng dày, cái ngày ấy càng đến gần.
Và cuối cùng ngày ấy đã đến thật: ngày 16-2-1965. Ngày hôm đó bùng nổ vụ Vũng Rô.

Vũng Rô, vùng đất hiểm yếu ấy nằm gần bên thành phố Nha Trang, cũng gần bên Cam Ranh - căn cứ hải quân của Mỹ ngụy. Trước khi xảy ra sự kiện ngày 16-2-1965, bất ngờ và táo bạo, những con tàu không số đã chọn Vũng Rô làm nơi cập bến, chuyển lên bờ hàng trăm tấn súng đạn. Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 1964…



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 02:01:34 pm

Vũng Rô - bến đậu trong lòng địch

Câu chuyện của Nguyễn Long An đưa chúng tôi trở về với một vùng đất hiểm yếu và ác liệt vào bậc nhất trong mấy cuộc chiến tranh đã qua: vùng Vũng Rô.

Điều bất ngờ ở nơi nguy hiểm nhất

Con đường thiên lý số 1 và đường xe lửa xuyên Việt Bắc - Nam, đến chặng cuối tỉnh Phú Yên đầu tỉnh Khánh Hòa thì gặp một rặng núi lớn, một cánh tay vạm vỡ của dãy Trường Sơn vươn ra biển Đông, chắn ngang.

Đường xe lửa phải chui qua một hầm dài. Còn đường thiên lý trên bộ thì quanh co leo lên một ngọn đèo cao ngất, hiểm trở: đèo Cả - một trong những ngọn đèo cao nhất ở nước ta và là ngọn đèo cao cuối cùng trên quốc lộ 1 Bắc - Nam. Bên này là núi lớn, tiếp liền với rừng già, nối lên tận Trường Sơn. Bên kia là biển sâu hoắm.

Ngay giữa đỉnh đèo nhìn xuống theo hướng đông, thăm thẳm dưới hàng trăm thước sâu là một vịnh biển tuyệt vời: gần như hình tròn, rộng và sâu, ba mặt vách đá dựng đứng, mặt thứ tư nhìn ra biển lại có hai hòn đảo nhỏ như hai tấm bình phong che chắn: một cảng biển tuyệt vời cho những con tàu đại dương hàng vạn tấn... Đó chính là Vũng Rô.

Không biết ai là người đầu tiên đã táo bạo nghĩ đến việc dùng Vũng Rô làm bến đón các con tàu không số của chúng ta. Thật hết sức mạo hiểm: quá gần một thành phố lớn là Nha Trang, cũng quá gần Cam Ranh là căn cứ hải quân lớn nhất miền Nam của Mỹ ngụy.

Con đường chiến lược số 1 thì chạy ngay trên đỉnh đèo Cả, chỉ cách vài trăm mét, xe quân sự của địch qua lại suốt ngày đêm như mắc cửi. Lại cũng quá gần khu du kích Hòa Hiệp phía bắc và chiến khu Hòn Hèo, Hòn Khói phía nam, là vùng địch rất chăm chú theo dõi và thường xuyên càn quét đánh phá...

Nhưng trong chiến tranh thường vẫn vậy: nơi nguy hiểm nhất cũng có thể là nơi bất ngờ. Nghệ thuật chiến tranh, đặc biệt trên con đường biển Đông gian nan này, là biết và dám đi vào kẽ hở bất ngờ ấy, dám mạo hiểm để giành thắng lợi...

Nguyễn Long An kể:

- ... Vậy là đến giữa năm 1964, ta quyết định phương án táo bạo ấy: lấy Vũng Rô làm một bến lớn cho Khu 5. Chuyến đầu tiên do anh Hồ Đắc Thạnh, thuyền trưởng hải quân, quê ở Qui Nhơn, chỉ huy. Tàu đi xa ra ngoài biển quốc tế. Đến đúng tọa độ, chờ sẩm tối, đột ngột chuyển hướng, dùng tốc độ cao đâm thẳng vào đúng Vũng Rô, 11 giờ đêm phải đến bến.

Hòa Hiệp là vùng du kích mạnh của ta. Lực lượng du kích và bộ đội địa phương ta do một đồng chí thường vụ tỉnh ủy - anh Sáu Suyền - chỉ huy nhanh chóng băng qua dãy núi dưới chân hòn Vọng Phu và mỏm Đá Bia, đến chực sẵn ở bến.

Tàu vừa đến bến, toàn bộ lực lượng được tổ chức rất chặt chẽ, lập tức ùa xuống, bốc dỡ, một bộ phận ngay trong đêm vượt đường số 1 chuyển thẳng lên các dãy núi có rừng rậm ăn liền với căn cứ của ta ở phía tây trên dãy Trường Sơn. Số hàng còn lại không chuyển kịp trong đêm thì cất giấu trong các hang đá gần bến.

Rừng ở đây thưa, toàn cây gai lúp xúp nhưng lại nhiều hang đá... Tàu dỡ xong hàng tức tốc quay ra ngay, vừa sáng lại đã ra đến vùng biển quốc tế...

Chuyến đầu thắng lợi, phấn khởi lắm. Đi tiếp chuyến thứ hai, thứ ba, thứ tư...

Một lần liều lĩnh...

... Tôi về lữ đoàn, được phân công làm chiến sĩ cơ điện, tháng 12-1964 đi chuyến đầu tiên, tàu số 43 vào Cà Mau. Lần đầu còn rất lúng túng, nhờ các anh đi trước dìu dắt. Đi về mất một tháng, an toàn.

Bấy giờ đã gần tết, lại có lệnh chuẩn bị đi tiếp. Từ Đồ Sơn vào Cà Mau. Chuẩn bị sắp xong thì chiều 30 tết bỗng có lệnh điều sang tàu khác, số 401, tập kết ở Hòn Gai, do anh Lê Văn Thêm làm thuyền trưởng, anh Phan Văn Bảng làm chính trị viên, chuẩn bị đổ bộ vào Khu 5, Vũng Rô.

Đúng đêm mồng 1 Tết Ất Tỵ, tức ngày 2-2-1965, chúng tôi rời bến. Đi vào ngày tết là lúc địch sơ hở. Chuyến này, thấy tình hình địch có vẻ hơi khác thường: ban ngày, cứ 5-6 tiếng một lần lại có một máy bay địch bay dọc theo thân tàu, lúc cao lúc thấp. Đêm, lại thấy tàu thủy địch kèm, chiếc phía trước, chiếc phía sau. Nhưng chúng tôi đi trên vùng biển quốc tế nên cứ bình thản, treo cờ như tàu buôn. Sau này chúng tôi mới biết lúc đó địch đã đánh hơi và nghi ngờ. Chúng đã bắt đầu theo dõi...

Tối 15-2, chúng tôi đến điểm chuyển hướng... Chạy ra một lúc, anh Thêm khẳng định đã đúng nam Tuy Hòa, cách bờ 40 hải lý. Chúng tôi vào sát bờ, cứ men theo những chấm đèn điện dọc bờ mà đi. Biển ở đây có cái lợi là nước sâu, tàu ta cứ chạy men bờ, chen vào giữa các tàu đánh cá của dân.

Qua khỏi Tuy Hòa, thấy rõ đỉnh núi Vọng Phu và hòn Đá Bia: đêm ấy là 14 âm lịch, trăng rất sáng. Anh Thêm là thuyền trưởng lão luyện. Vòng qua mỏm Vọng Phu chúng tôi vào sát bờ hơn và lọt vào đúng Vũng Rô. Nhưng do phải chạy vòng vo lúc tối nên đến bến có chậm, đã gần 3g sáng.

Lập tức bốc dỡ, cất hàng. Nhưng tàu gần 100 tấn. Không tài nào bốc kịp trước trời sáng.
Xử trí thế nào đây?

Thường khi gặp tình huống này, an toàn nhất là cất được một phần hàng, còn lại cứ để đấy, đến trước 4g, chậm nhất là 5g sáng, quay tàu chạy ra vùng biển quốc tế, tối sẩm lại quay vào cất nốt.

Nhưng đêm ấy chúng tôi lại không chọn cách đó: chúng tôi quyết định cứ cất cho hết hàng đến sáng bạch, rồi ngụy trang, giấu tàu ngay tại bến, ở lại bến suốt ngày sau.

Vì sao lúc bấy giờ chúng tôi lại chọn phương án mạo hiểm ấy?

Có lẽ vì rất nhiều nguyên nhân. Từ năm 1962, mở đầu con đường này đến nay, chưa chuyến nào bị lộ. Về căn bản, địch chưa hay biết gì.

Riêng cảng Vũng Rô, mấy chuyến liền đều trót lọt, an toàn.

Tình hình ấy rõ ràng khiến chúng tôi sinh chủ quan.

Lúc bấy giờ chúng tôi chưa thể biết được điều này: bọn địch tuy chưa nắm được quả tang việc vận chuyển bí mật trên biển của ta, nhưng dần dà chúng đã chú ý một hiện tượng có phần khác thường: du kích các vùng ven biển Khu 5 ngày càng đánh mạnh, được trang bị một số vũ khí khá hiện đại: súng AK, súng cối cá nhân, đại liên, có khi cả trọng liên 12 li 7, cả súng bắn tăng B40. Đạn thì ê hề.

Số súng đạn này chính là anh chị em du kích ven biển của ta trong khi vận chuyển lên trên cho bộ đội chủ lực đã ranh ma “chôm” bớt một phần. Bọn địch đã có đặt câu hỏi: phải chăng có một con đường đưa vũ khí bí mật từ miền Bắc vào, đổ bộ lên các bến ven biển khu vực này? Chúng đang chăm chú theo dõi...

Chúng tôi quyết định ở lại bến hôm ấy có lẽ cũng có phần vì các bến miền Nam đối với chúng tôi ngày đó bao giờ cũng có sức hấp dẫn rất mạnh. Tình cảm của anh chị em du kích, cán bộ, đồng bào mà những lần trước chúng tôi chỉ thoáng gặp vài giờ trong đêm, không kịp nhìn mặt, không kịp cả nắm tay, tình cảm đó đối với chúng tôi thắm thiết vô cùng. Một giọng nói miền Nam thì thào trong gió biển đêm. Một khuôn mặt thoáng mờ dưới ánh trăng khuya... Và cả không khí chiến trường ngày ấy có gì đó thật thiêng liêng... Ở lại được một ngày trên mảnh đất cháy bỏng và yêu thương này, giữa những con người này, hạnh phúc biết bao.

Anh Thêm, anh Bảng và nhiều thủy thủ trong đoàn đều là người quê Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa. Có người vợ con chỉ ở cách bến năm, mười cây số. Không có chuyện lén về thăm nhà đâu, nhưng được ở lại một ngày, hít thở một chút không khí quê hương đang chiến đấu, ước ao thầm kín mà cháy bỏng đó dễ gì cầm lại được. Một chút liều lĩnh, đã sao...

Vậy đó. Ban chỉ huy tàu quyết định ở lại. Và chúng tôi đều đồng tình. Tự mình cố dẹp đi mọi lo ngại...



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 02:03:20 pm

Bùng nổ sự kiện Vũng Rô

Chúng tôi dỡ hết hàng thì trời đã sáng bạch. Nhanh chóng chuyển hàng vào các hang đá. Và giấu tàu.

Mỏm đá lạ trên vách núi

Vũng Rô ba bề vách đá dựng đứng. Trên những vách sừng sững ấy, thỉnh thoảng có những chòm cây mọc bám vào đá, lơ lửng giữa không trung hay sát mặt nước.

Chúng tôi cho tàu áp sát vào một vách đá đen gồ ghề và chặt những cành cây lớn phủ kín. Từ trên nhìn xuống chẳng khác gì một mỏm đá hơi nhô ra, có một chòm cây lá mọc từ vách đá che phủ.

6g sáng...

Trên đỉnh đèo Cả, ngay từ mũi tàu ta nhìn lên, cách vài trăm mét là một đồn địch lù lù. Nhìn ra phía biển, cách 500m là một đồn địch khác: đồn Mũi Điệng.

Thật tình lúc này rất lo nhưng lại tự an ủi: càng ở ngay trước mũi chúng càng bất ngờ. Chúng không thể nghĩ ta dám vào tận đây đâu.

7g sáng, có ba chiếc trực thăng từ phía nam bay ra...

Trong chiến tranh, những sự kiện vang dội nhất lắm khi lại bắt đầu từ một ngẫu nhiên không đâu. Ngày hôm ấy một ngẫu nhiên như vậy đã xảy đến, mãi về sau này, sau năm 1975 giải phóng miền Nam rồi, qua tài liệu của địch chúng tôi mới biết.

Ngày 15-2-1965, tức là đúng cái ngày chúng tôi đến điểm chuyển hàng trên vùng biển quốc tế ngang Phú Yên, Khánh Hòa, trên chiến trường Khu 5 đã diễn ra một trận đánh lớn đặc sắc: trung đoàn 2, sư đoàn 3 quân giải phóng Khu 5 chặn đánh tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn địch tại đèo Nhông thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

Gần chục xe tăng của địch bị bắn cháy tan tành. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Khu 5 quân ta sử dụng súng chống tăng B41. Số súng này do chính các tàu ta đưa vào Khu 5 trong những chuyến trước.

Thương binh địch ngổn ngang trên trận địa đèo Nhông. Chúng phải dùng trực thăng chở về các bệnh viện ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Bệnh viện Quy Nhơn cũng chật cứng rồi, chúng lại phải chuyển về Nha Trang.

Chính trên một chiếc trực thăng UH1B tải thương đó, bay dọc đường số 1 ven biển từ Quy Nhơn về Nha Trang, lúc qua đèo Cả khoảng 12g trưa, viên phi công đã tình cờ nhận thấy “một mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây Vũng Rô” mà những ngày trước chưa hề thấy. Hắn liền báo về bộ chỉ huy quân đoàn 2 ngụy ở Nha Trang.

Phải nói công tác tham mưu của bọn này rất chặt chẽ, tỉ mỉ. Ngày nào cũng có hai lượt máy bay trinh sát bay chụp ảnh suốt dọc vùng ven biển. Đối chiếu các không ảnh chụp những ngày trước, chúng thấy quả là “mỏm đá lạ trên vách núi phía tây Vũng Rô” mới xuất hiện từ sáng nay.

Bấy giờ là khoảng 1g chiều. Một máy bay trinh sát từ phía Nha Trang ra, quần mấy vòng trên Vũng Rô rồi bắn một quả mù đúng vào chỗ ta giấu tàu. Lập tức hai chiếc khu trục AD6 lao tới, bổ nhào, ném một loạt bom xăng trúng tàu. Tất cả lớp lá ngụy trang của ta bốc cháy rừng rực. Tan khói, toàn bộ hình tàu lộ ra rõ mồn một.

Từ đó đến sẩm tối, hàng chục tốp khu trục liên tiếp đến ném bom. Tới 5g chiều thì tàu chìm hoàn toàn.

Cuộc đụng độ không cân sức

Trước đó, khoảng 4g chiều, tôi được lệnh cùng đồng chí máy trưởng tìm mọi cách xuống tàu để đánh bộc phá. Trong tàu đã đặt sẵn một khối bộc phá 500kg, đảm bảo giật nổ tung tàu, phi tang. Khối bộc phá này bố trí ở khoang máy.

Chúng tôi vượt qua bom đạn mù mịt, tiếp cận được tàu nhưng không vào được khoang máy. Tàu bị trúng bom nghiêng hẳn về một bên, cửa khoang máy chúi xuống phía đáy vịnh, bị sức ép mạnh của nước, chúng tôi lặn xuống nhiều lần không cách nào mở ra được.

Tối, máy bay địch lại đến thả pháo sáng. Mặc pháo sáng, chúng tôi trở lại tàu, lặn xuống, cố lấy hết số súng đạn còn lại trong tàu.

Mờ sáng hôm sau địch lại đến ném bom.

Tối 17-2, quân khu phái xuống một tiểu đội công binh, dùng 1 tấn bộc phá quyết phá tan tàu, thủ tiêu tung tích. Nhưng giật nổ bộc phá xong, chúng tôi trở lại xem thấy tàu chỉ vỡ đôi.

Chiều 17-2 có hiện tượng mới: một chiếc tàu LSM405 của địch có hai tàu chiến PC04 và DCE2 yểm trợ từ phía biển tiến vào, đồng thời trực thăng đổ hai tiểu đoàn bộ binh chiếm các đỉnh cao quanh vịnh. Chúng dùng bộ binh từ các điểm cao đánh xuống, kết hợp tàu thủy đổ bộ, cả máy bay liên tục ném bom yểm hộ. Về sau này chúng tôi mới biết thêm: một tên tướng ngụy từ Sài Gòn bay ra trực tiếp chỉ huy trận này.

Lực lượng ta lúc này chỉ có một trung đội du kích Hòa Hiệp, hai tiểu đội bộ đội địa phương huyện và 18 thủy thủ, trong đó thuyền trưởng Thêm đã bị thương. Chúng tôi chia nhau đánh chặn không cho địch đến gần chỗ tàu và các hang đá còn giấu một số hàng từ các chuyến trước chở vào chưa kịp chuyển đi hết.

Suốt các ngày 17, 18 và 19 địch cố đổ bộ lên bờ mấy lần đều bị ta đánh bật lại. Đến chiều 19, một đại đội địch mới đặt chân được lên bờ. Ta vẫn tiếp tục bám đánh, ngày từng tổ đánh chặn, đêm tập kích bọn địch trú quân trên các đồi trọc. Cứ như vậy suốt các ngày 20, 21, 22 và 23.

Sáng 24, địch lại đổ thêm quân, triển khai từ đường số 1 và các điểm cao phía nam, phía bắc đánh xuống, siết vòng vây chúng tôi lại.

Nhận định lực lượng đã quá chênh lệch, đêm 24 chúng tôi dùng mìn phá nổ hết các hang đá chứa hàng và tổ chức thoát khỏi vòng vây.

Giai đoạn mới sau Vũng Rô

Anh Trần Phong, nguyên tham mưu trưởng Lữ đoàn 125, nói với chúng tôi:

- Vụ Vũng Rô là sự kiện lớn trong lịch sử con đường biển Đông. Nó chấm dứt một giai đoạn hoàn toàn bí mật của con đường này. Nhưng đương nhiên nó không kết thúc con đường, không dập tắt được quyết tâm lớn của chúng ta dùng biển Đông làm con đường quan trọng vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam đang ngày càng đánh lớn hơn. Nó chỉ mở ra một giai đoạn mới của quyết tâm đó. Gian nan hơn, ác liệt hơn, mặt đối mặt thi gan với kẻ thù trên mặt biển mênh mông.

Chúng tôi ráo riết theo dõi động tĩnh của địch.

Tháng 4-1965, tức chỉ gần hai tháng sau vụ Vũng Rô, chúng đã bắt đầu triển khai một chiến dịch mang tên Market time, phân công rõ ràng: hải quân ngụy tuần tiễu ven bờ, hải quân Mỹ, tức một bộ phận quan trọng hạm đội 7, ngăn chặn ngoài khơi. Một lực lượng đặc nhiệm của quân đội ngụy được tổ chức lấy tên là lực lượng 115, gồm bảy tàu khu trục hộ vệ, hai tàu quét mìn, hai tàu vận tải đổ bộ cỡ lớn, năm máy bay trinh sát.

Hải quân Mỹ thì đưa vào công việc này 54 tàu hiện đại. Đến tháng 9-1965, chúng lại tăng thêm năm tàu tuần tiễu ngoài khơi, 30 tàu tuần tiễu trên sông, chín tàu tuần tiễu ven bờ. Toàn bộ vùng ven biển miền Nam được tổ chức lại thành chín khu vực chiến đấu và năm trung tâm giám sát lớn...

Còn ta? Ta tạm dừng một thời gian để rút kinh nghiệm; ráo riết tổ chức, huấn luyện lại lực lượng; tăng thêm 12 tàu cao tốc. Cần có tàu cao tốc là vì chiến thuật thay đổi: tàu đi đến những vùng biển rất xa, đánh lạc hướng địch, rồi bất ngờ dùng tốc độ rất cao lao thẳng vào bờ, thời gian tàu đi trên vùng biển thuộc miền Nam do địch kiểm soát sẽ rất ngắn, vào bờ cất hàng xong, lại dùng tốc độ cao vượt qua thật nhanh vùng biển địch kiểm soát, lao ra vùng biển quốc tế an toàn.

Đó chính là để hạn chế khả năng chạm địch, buộc phải đánh địch trên biển hết sức bất lợi. Hạn chế chứ không loại trừ hoàn toàn được. Bởi Mỹ dùng máy bay trinh sát ngày đêm kiểm soát vùng trời rất rộng, tàu ta rời bến miền Bắc là nó có thể phát hiện được rồi và sẽ theo dõi ta suốt hành trình dài, chờ khi ta vào hải phận miền Nam là vây đánh...

Nghĩa là sau Vũng Rô, tiếp tục đi trên con đường biển Đông sẽ là một trò chơi ú tim lớn, ta hết sức cố gắng lừa địch, tránh địch, nhưng đồng thời cũng sẵn sàng chấp nhận đánh địch trên biển khi không còn khả năng nào khác.

Tháng 10-1965, tiếp tục mở lại con đường.

Một thời kỳ mới của con đường biển Đông đã bắt đầu...

Trò chơi ú tim trên biển Đông ngày càng quyết liệt. Từ 1966-1972, hầu như không chuyến đi nào của tàu không số là hoàn toàn yên ổn, trót lọt...

Nhưng cuộc chiến đấu thì không dừng lại. Vũng Rô hiểm yếu bị phát hiện thì những bãi cát dài trống trải ven biển miền Trung lại được tìm làm bến đậu. Mấy mươi năm sau, nhà văn Nguyên Ngọc đã tìm về một bến đậu như vậy ở tỉnh Quảng Ngãi. Cũng từ đây ông nghe thấy không chỉ tiếng gầm của súng đạn...



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 02:05:15 pm

Một câu chuyện tình


Ngày 8-3-1965, tức là chưa đầy một tháng sau vụ Vũng Rô, sư đoàn thủy quân lục chiến đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng phía bắc tỉnh Quảng Nam, mở đầu cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam.

Ít lâu sau, một sư đoàn thứ hai đổ tiếp vào Chu Lai phía nam tỉnh Quảng Nam. Rồi sư đoàn không vận số 1 nổi tiếng của Mỹ đổ vào Bình Định. Rồi các sư đoàn, lữ đoàn Nam Triều Tiên khét tiếng gian ác tràn vào suốt dọc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa...

Chiến trường Khu 5 trở thành một trong những chiến trường ác liệt nhất của toàn bộ cuộc chiến tranh. Khu 5 khao khát đòi súng. Nhưng vận chuyển đường biển bí mật cho Khu 5 cũng là khó khăn nhất, thậm chí có thể nói là mối lo trăn trở nhất của những người chỉ huy, và là nỗi lo sợ ngay ngáy của những cán bộ thủy thủ được giao nhiệm vụ đi làm công việc mạo hiểm này.

Vậy tiếp tế cho Khu 5 bằng cách nào? Chỉ còn một cách: vào bãi ngang.

Bãi ngang tức là những bãi cát dài ven biển dọc suốt miền Trung. Vô cùng trống trải, nhưng vì rất dài, hàng mấy trăm cây số, chỗ nào cũng phẳng lì tăm tắp, nên địch cũng chẳng biết tập trung vào chỗ nào mà đề phòng, ngăn chặn. Chúng ta chơi trò ú tim với địch trên suốt mấy trăm cây số bãi ngang này vậy!

Chúng tôi lần tìm về một bãi ngang như vậy: bãi ngang Phổ An, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Một bà cụ ở Phổ An bảo chúng tôi:

- Có, có một lần tàu mình vào đây, tại bãi ngang này. Anh em mình phá tàu và đánh nhau với tụi ngụy. Rồi bà con bọn tui nuôi giấu mấy ngày liền, trước khi bắt được liên lạc đưa anh em lên núi... Tui còn nhớ một anh chỉ huy người Nam bộ tên là Tư Thắng... Không biết bây giờ còn sống không?...

Tư Thắng còn sống. Ở Lữ đoàn 125 chúng tôi đã tìm hỏi được địa chỉ của anh: Tư Thắng, tức Nguyễn Đức Thắng, hiện ở Trà Nóc, Cần Thơ. Cả chị Sáu Thùy nữa, vợ anh. Câu chuyện tình yêu của họ cũng từng nổi tiếng một thời trong các đơn vị của con đường bí mật biển Đông.

Cú sét đánh

Tháng 9-1963 tôi (Tư Thắng) đi chuyến đầu tiên, làm thuyền phó, thuyền trưởng là anh Châu người Khu 5, vào bến Kiến Vàng, Cà Mau. Chuyến thứ hai đi tàu sắt, cũng vào Kiến Vàng. Chuyến thứ ba định đi bến Khâu Băng, Bến Tre nhưng bị lệch hướng, cuối cùng vào bến Trà Vinh, cũng trót lọt. Chuyến thứ tư đi tàu số 43, lại vào Kiến Vàng...

Anh Tư Thắng liếc nhìn chị Thùy, hơi cười, còn chị Sáu Thùy thì lườm anh. Rồi chị ý tứ đứng dậy bỏ đi đâu đó.

- Chính chuyến này mới sinh sự đây các anh ạ. Không biết sao mà lần này chúng tôi gặp bão nhiều thế. Trên đường vào sáu trận bão liên tiếp. Nhưng rồi cũng vào tới nơi trót lọt. Ngày ấy đi trên biển gian nan, vất vả, hiểm nguy, nhưng người thủy thủ đã vô đến bến thì sướng như tiên. Đến bến, chúng tôi được coi như những anh hùng, như con cưng.

Bấy giờ ở bến có một số chị em cấp dưỡng, y tá, trong đó có Sáu Thùy, tức là nhà tôi bây giờ đây. Tôi để ý thấy Sáu Thùy chăm sóc tôi có phần nhiều hơn những anh em khác, cách thức chăm sóc, ánh mắt cũng khác, lời ăn tiếng nói cũng khác.

Con gái miền Tây rất lạ các anh ạ, không biết các anh có nhận xét thấy không, rất mộc mạc, thùy mị, nhưng cũng ráo riết, dữ dội. Hay là chiến tranh khiến con người như vậy, tôi cũng không hiểu hết được. Sự bất trắc, cái chết gần kề khiến mọi sự bỗng trở nên đau đớn hơn, mong manh hơn mà cũng lại da diết, quyết liệt hơn chăng? Ngay từ lần gặp mặt thứ hai, tức là bữa cơm thứ hai ở bến, tôi đã thấy cô ấy gần như muốn bộc lộ tất cả với tôi, không cần che giấu gì nữa...

Còn tôi, tôi nghe nhà văn các anh bảo có cái gọi là “cú sét đánh”. Tôi đã bị một cú sét đánh như vậy. Tôi yêu từ đầu nhưng cố kìm mình lại bằng cách bông đùa. Tôi nghĩ tôi đã đi vào cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu cảm tử rồi, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, đem cột cuộc đời người ta vào mình làm gì, càng yêu thương người ta bao nhiêu thì càng phải cắn răng lại mà rứt ra bấy nhiêu... Nói thế chứ không dễ đâu.

Năm ấy, 1964, tôi 30, Sáu Thùy 20, tính thật đúng ra là mới 19, con gái miền Tây sông nước, 19, nói thật các anh, ngon lành hừng hực. Tôi cố tự nén mình bằng cách nằm lì dưới tàu, đến giờ ăn cũng không lên. Nhưng như thế càng nguy vì cô ấy cho là tôi ốm, lại mang cơm nước thuốc men xuống tàu, và ở đấy chỉ có hai chúng tôi... Nhùng nhằng như vậy cho đến ngày tàu quyết định rời bến ra Bắc.

Tôi nghĩ, vừa mừng vừa đau đớn: Thôi, như vậy là thoát, như vậy là hết! Ngày hôm đó mọi công việc đã chuẩn bị xong, công việc cuối cùng là ngụy trang tàu cũng đã làm xong thì 6 giờ tối, mở đài Hà Nội bỗng nghe tin bão khẩn cấp. Thế là đành ở lại. Một tuần. Rồi lại bão nữa. Rồi tiếp bão nữa. Không biết sao năm đó bão nhiều thế. Hay là cái số chúng tôi nó vậy?... Tàu phải nằm lại bến suốt một tháng. Và kéo dài một tháng trời thì sự chống chọi trong tôi đuối dần, không còn sức nữa.

Sáu Thùy cũng vậy. Con gái miền Tây ghê gớm, đánh giặc dữ dằn mà yêu thương cũng dữ dội. Chúng tôi đã đến với nhau không cưỡng lại nổi. Thực tế đã nên vợ nên chồng. Tôi cũng không biết nếu không phải là trong chiến tranh, trong hoàn cảnh khác yên ổn, hòa bình, thì chúng tôi có thế không? Cũng có khi chính là cuộc chiến đấu sinh tử, đầy bất trắc mất còn đã làm cho tình yêu càng mãnh liệt cũng nên...

Hết bão, tôi trở ra Bắc, mang theo lý lịch của Sáu Thùy để báo cáo đơn vị xin cho chúng tôi chính thức xây dựng với nhau. Ngày ấy đối với chúng tôi là phải như thế. Chúng tôi là một đơn vị đặc biệt, những người lính đặc biệt, phải được quản lý đặc biệt. Mọi ngóc ngách trong đời sống riêng tư đều phải được đoàn thể kiểm soát chặt chẽ. Tôi mang lý lịch Sáu Thùy ra báo cáo, tổ chức đồng ý ngay.

Biển Đông cách biệt

Tưởng mọi việc êm xuôi, nhưng rồi hết trục trặc này đến trục trặc khác, lần nào cũng gần đến phút cuối cùng mới nảy ra trục trặc, tôi lỡ hết chuyến này tới chuyến khác, không còn có dịp nào trở lại Kiến Vàng, Cà Mau nữa. Rồi vụ Vũng Rô, rồi bãi ngang ác nghiệt Khu 5... Thỉnh thoảng có chuyến tàu khác vào Kiến Vàng hay có tàu từ Kiến Vàng ra Bắc, chúng tôi vẫn thư từ cho nhau.

Thư từ thống thiết nhưng cách biệt cả một biển Đông sóng gió! Anh em thủy thủ bọn tôi nhiều thằng nghịch như quỉ sứ, có lần tàu từ Kiến Vàng ra, Sáu Thùy gửi cho tôi thư kèm một gói quà, dọc đường bọn quỷ sứ nắn xem thử, thấy mềm mềm, chúng nó giở ra coi thử. Thì thấy... bà ấy gửi ra cho tôi... mấy cái đồ lót phụ nữ kín đáo nhất của mình!... Phụ nữ miền Tây, các anh coi, có ghê gớm không! Đã yêu thì như đám cháy lớn, muốn đốt cháy hết cả biển Đông không chơi...

Khoảng cuối năm 1967 đầu 1968, bẵng đi một thời gian khá dài địch đánh phá căng thẳng, tàu ta không vào được bến Kiến Vàng. Thư từ giữa hai chúng tôi cũng đứt đoạn. Sáu Thùy nóng ruột như điên như dại. Cô ấy nảy ra một ý định ghê gớm: đi tìm tôi.

Các anh nghĩ coi: đang giữa cuộc chiến tranh mênh mông, chiến trường miền Nam đang lúc ác liệt nhất, miền Bắc lúc này cũng đang thời kỳ chiến tranh phá hoại, bom đạn mịt mù, vậy mà một người đàn bà, một người con gái ở tận cuối mũi Cà Mau, ở nơi chót vót tận cùng đất nước, một mình lên đường, thân gái dặm trường, băng qua tất cả, khói lửa, đạn bom, cái chết, dư luận, cả “kỷ luật” nữa, không cần gì hết, quyết đi tìm một người đàn ông, một người con trai ở đâu đó tít tận đầu kia đất nước cũng đang cháy lửa chiến tranh.

Một cuộc đi vô cùng liều lĩnh, vô cùng phiêu lưu, hầu như chẳng có chút lôgic nào cả. Nếu có thì chỉ có một thứ lôgic: lôgic kỳ lạ của tình yêu... Không biết các anh nghĩ thế nào, chứ riêng tôi thì tôi vẫn nghĩ có khi chính vì có những cái lôgic kỳ lạ như vậy mà chúng ta đã đi qua được cuộc chiến tranh chống Mỹ khủng khiếp đấy...

Chị Sáu Thùy lại đã lặng lẽ trở lại ngồi bên cạnh chúng tôi từ bao giờ, im lặng, trầm tĩnh nghe câu chuyện huyền thoại về chính mình, về tình yêu của mình, do chồng đang kể lại. Trầm tĩnh, bình lặng, như là đang nghe kể về một ai đó khác, về một huyền thoại nào đó khác. Huyền thoại về tình yêu của người con gái VN trong chiến tranh.

Chúng tôi trân trọng quay lại nhìn khuôn mặt chị: khuôn mặt một người phụ nữ miền Tây Nam bộ, đã luống tuổi nhưng vẫn còn giữ nét duyên dáng đậm đà của con gái miền Tây, một khuôn mặt hầu như chẳng có gì đặc biệt, khác biệt, như trăm ngàn khuôn mặt các cô gái miền sông nước ta vẫn gặp hằng ngày ở đây, phúc hậu, hiền lành, đằm thắm, thậm chí có cả một chút cam chịu nữa, duy chỉ có ở đuôi mắt, nhìn kỹ lắm mới nhận ra, một nét rắn rỏi và đắm đuối kín đáo và da diết...

Anh Tư Thắng:

- Các anh tính có ghê không: cuối 1967 bả quyết lên đường đi tìm tôi. Đi tìm ở đâu?... Đi ra Bắc!...

Hàng năm ròng đi tìm anh, chị Sáu Thùy chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác, cứ từng chặng một, để lần tìm ra Bắc. Cho đến tháng 2-1968, một tin cơ mật lộ ra: một con tàu không số vào gần bến Cà Mau thì bị nổ tung, tất cả đều hi sinh. Đinh ninh có anh trong chuyến đi ấy, chị Sáu Thùy lên gặp cấp ủy, đầu bịt khăn trắng xin được để tang chồng…

Nhưng lúc này tàu của anh Tư Thắng liên tục chạm địch khi đi vào bãi ngang Khu 5. Năm 1967 phải đánh giáp lá cà trên biển, năm 1968 bị địch chặn đánh bằng cả tàu chiến, trực thăng và xe tăng... Mãi đến đầu năm 1972, phương thức vận chuyển mới đã đưa đến một bất ngờ…



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 02:07:15 pm

Cuộc chiến đấu đưa họ lại gần nhau

Vẫn ở cái hiên ấy của nhà anh Tư Thắng. Vẫn giọng nói hiền lành, đều đều của anh:
- ... Đúng là sau tám năm dài chúng tôi mới tìm được nhau. Nói là “chúng tôi tìm lại nhau” thì cũng được. Nhưng có lẽ đúng hơn phải nói: chính sự diễn biến kỳ lạ trên con đường biển Đông đã đưa chúng tôi lại đến với nhau.

Số là thế này... Sau chuyến đi bãi ngang Đức Phổ, Quảng Ngãi thả hàng đánh nhau phá tàu, lội ngược Trường Sơn trở ra Bắc, tôi còn tiếp tục đi một số chuyến nữa, về Khu 5 và Nam bộ. Nhưng các anh biết đấy, ngày càng khó khăn.

Cho đến nỗi chúng tôi thường lựa chính những lúc có sóng to bão lớn trên biển Đông mà đi, những lúc đó địch mới sơ hở. Tàu ta do xưởng 3 Hải Phòng đóng là tàu cỡ chịu sóng cấp 5, vậy mà có lần chúng tôi đi cấp 12. Tàu vượt sóng, khắp thân tàu kêu răng rắc, có lần sập cả hầm hàng xuống... Quyết tâm đến vậy đó, nhưng thực tế vẫn ngày càng bế tắc...

Tôi nhớ đâu đến khoảng đầu năm 1970 thì một số anh em chúng tôi nghe phong thanh trong Nam, phía cuối Cà Mau, ngoài đơn vị 962 tức là hệ thống bến do anh Bông Văn Dĩa phụ trách, đã có bộ phận tách ra thành lập một đơn vị khác, lấy tên là 371 do anh Tư Mau phụ trách...

Tàu không số “ra công khai”

Đầu năm 1972, tôi bỗng bất ngờ nhận được lệnh điều về chỗ anh Tư Mau. Bấy giờ là ở Đá Bạc, Quảng Ninh. Anh Tư Mau phổ biến nhiệm vụ: đoàn 371 tiếp tục công cuộc vận chuyển vũ khí trên biển Đông nhưng bằng một phương thức hoàn toàn khác, trước nay chưa bao giờ dùng: phương thức hoạt động hợp pháp.

Tức là tất cả chúng tôi sẽ “ra công khai”, sống công khai giữa xã hội miền Nam, trong vùng địch, với giấy tờ giả, tất nhiên, và sẽ chở vũ khí từ Bắc vào Nam trên những chiếc tàu cũng chạy công khai, với sổ sách, hồ sơ giả!

Những anh em chúng tôi được chọn về đây đều quê Nam bộ, phần lớn rút từ miền Nam ra Bắc để tham gia công tác ở lữ 125 từ đầu những năm 1960, cũng có đôi người như tôi là dân tập kết. Nhưng dẫu là tập kết hay rút ra hồi 60 thì chúng tôi đều đã có một thời gian khá dài sống ở miền Bắc, lại ở bộ đội, quen một lối sống hoàn toàn xa và khác với lối sống trong vùng địch chiếm, trong xã hội miền Nam.

Không ai trong chúng tôi từng có kinh nghiệm hoạt động hợp pháp bí mật trong lòng địch. Từ tác phong, cách đi đứng, cư xử, xưng hô, ăn nói, chào hỏi, cả đến chơi bời nữa..., tất cả đều sẽ phải thay đổi, phải học lại hết.

Chúng tôi sẽ dùng những tàu đánh cá hoàn toàn giống như tàu đánh cá của đồng bào miền Nam lúc bấy giờ, loại nhỏ, tối đa là 50 tấn, trang bị hoàn toàn như tàu đánh cá thật, chỉ có một chỗ khác: đáy tàu có hai lớp, giữa hai lớp ấy chèn đầy súng đạn của hậu phương lớn miền Bắc gửi cho chiến trường miền Nam.

Tháng 7-1972 anh Bảy Cứng đi thử chuyến đầu tiên. Trên hải phận miền Bắc, đi ban đêm để tránh máy bay địch phát hiện nghi ngờ. Vào hải phận miền Nam thì phải ra vẻ thật thong dong đúng y như tàu đánh cá bình thường của dân. Đợi đến đêm, bất ngờ đâm vào bến Đầm Cùng. Thành công!

Tôi đi tiếp chuyến thứ hai, có Tư Kỷ làm máy trưởng, Hai Hoàng, Tám Ca và sáu anh em nữa. Chúng tôi xuất phát từ Đá Bạc, vòng qua cảng Dinh Cơ thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc. Lúc này B52 đang đánh Hải Phòng ráo riết nên ta phải xuống hàng ở Hải Nam. 1 giờ sáng thì gặp anh Tư Mau. Chiếc anh Tư Mau đi trước, tôi theo sau, cách chỉ năm ba trăm mét.

Gần tới Vũng Tàu thì gặp một tàu lớn của địch bám theo. Anh Tư Mau chủ động vòng tàu lại, gặp nó, trình giấy tờ đầy đủ. Nó không bắt, nhưng cũng không cho đi, bảo cứ chờ đấy đã. Anh Tư bảo chúng tôi: phải rất bình tĩnh. Nó chưa cho đi, ta cứ dừng lại thả lưới, coi như không có chuyện gì. Đêm, chúng tôi cho tàu ngủ lại.

Sáng, thấy tàu địch đã hơi lảng ra xa, chúng tôi làm ra vẻ thả một mẻ lưới. Tàu địch vẫn bám theo, mãi đến ngang Sài Gòn, nó mới chịu bỏ. Chúng tôi tiếp tục chạy đến ngang Trà Vinh, lại gặp một chiếc FCM của địch chặn lại xét hỏi. Anh Tư kẹp một xấp tiền vào cuốn sổ tàu đưa cho nó. Nó gật gù, trả lại cuốn sổ tàu và cho đi. Chúng tôi về tới sông Ông Đốc. Đây là một bến cá lớn, tàu thuyền của đồng bào và cả tàu địch rất nhiều. Chúng tôi cứ tự nhiên vào thả neo.

6 giờ tối chúng tôi nhổ neo, chạy về Đầm Cùng (căn cứ của 371). Chúng tôi cùng anh em bến bốc hàng, từ 8 giờ tối đến 3 giờ sáng, tất cả được 30 tấn. Cũng chính tại đây, Đầm Cùng, tôi đã gặp lại nhà tôi, Sáu Thùy. Cũng là nhờ anh Tư Mau cả đấy. Con người ấy tình nghĩa vô cùng...

Hạnh phúc ở Đầm Cùng

...Phương thức hoạt động của đoàn 371 như vậy là một phương thức rất đặc biệt, cho nên tổ chức phải rất chặt chẽ. Nguyên tắc là giữa 125, 962 và 371 phải cách biệt, không được biết đến nhau. Các bến cũng phải chia ra, bến của 962 riêng, bến của 371 riêng, tuyệt đối không dính dáng đến nhau về tổ chức, không được dùng chung bến.

Tôi về 371, mọi liên quan đến 962 cũng đều phải cắt hết. Còn Sáu Thùy thì éo le vậy, lại ở 962.

Khi tôi về Đầm Cùng, tức là miệt rừng U Minh Thượng phía tây mũi Cà Mau thì cô ấy lại đang ở bến Rạch Gốc chỗ anh Hai Dĩa, tức miệt rừng U Minh Hạ bên phía đông mũi Cà Mau. Mà không hề biết tin nhau...

Nhưng có một người biết: đó là anh Tư Mau. Chỉ có anh Tư Mau mới được quyền đôi khi qua lại quan hệ công tác với chỗ anh Hai Dĩa. Anh Tư đã gặp Sáu Thùy ở đấy.

Một hôm, tôi vừa đi một chuyến chở hàng về thì anh Tư gọi lên. Anh hỏi:

- Tao hỏi thật chuyện này nhé, mày với Sáu Thùy bây giờ thế nào? Còn gắn bó với nó không? Hay mất liên lạc từ đó đến giờ, tám năm rồi, đã gặp cô nào khác ngoài Hà Nội hay Hải Phòng?...

Tôi nói thật với anh Tư rằng quả thật tôi chẳng còn mấy hi vọng gặp lại Sáu Thùy nữa. Thời gian xa cách, quả có lúc gặp người này người khác ở ngoài Bắc, cũng toàn là những người tốt cả, có lúc tôi đã có ý định hay là gửi gắm cuộc đời mình ở đâu đó... Nhưng rồi không được, không sao được. Biết chuyện gặp lại Sáu Thùy gần như vô vọng, bây giờ làm nhiệm vụ đặc biệt kiểu này càng vô vọng hơn, nhưng quên thì dẫu cố lắm vẫn không quên nổi...

Anh Tư cười:

- Hay là tao điều nó về đây, muốn không?

- Nhưng cô ấy bây giờ ở đâu?

- Bên chỗ anh Hai Dĩa...

Anh Tư Mau đích thân sang bàn với anh Hai Dĩa. Sáu Thùy được lệnh rời 962 đi nhận công tác khác. Lúc đầu Sáu Thùy không chịu đi. Vì cô nghĩ chỉ có ở chỗ 962 may ra mới còn có ngày gặp lại tôi. Anh Hai Dĩa phải làm dữ lắm, cuối cùng cô ấy mới chịu. Chịu mà buồn lắm.
Anh Tư Mau về báo lại với tôi. Tôi mừng quá. Và ngóng chờ.

Cho đến một bữa, tháng 9-1972, khoảng 4 giờ chiều, tôi đang ở trong đồng thì có liên lạc chạy vô báo có cô Sáu Thùy đến tìm. Tôi vội chèo xuồng ra. Thì thấy cô ấy đang đứng trong lùm chuối chỗ anh Tư Mau nhìn ra. Anh Tư Mau không hề nói trước với cô ấy tôi ở đây, đến đây sẽ gặp tôi. Tôi vứt mái chèo, nhảy phóc lên bờ, chạy lên. Nhưng tôi chợt dừng lại. Tám năm. Tôi đã già đi nhiều. Đen cháy. Râu ria xồm xoàm. Liệu cô ấy có còn nhận ra?

... Nhưng mà cô ấy nhận ra ngay.

Con gái miền Tây ghê gớm lắm nghe các anh, dám ôm hôn bừa vậy giữa đồng trống, người ta đầy bốn chung quanh...

Đêm đó chúng tôi ở với nhau. Hai ngày sau anh Tư Mau và anh Năm Rẫy bấy giờ là chỉ huy phó tổ chức đám cưới cho chúng tôi. Đoàn 962 gửi cho 1.000 đồng tiền ngụy. Bên này các anh cho 1.500 đồng.

Các anh bố trí cho vợ chồng chúng tôi một căn nhà hạnh phúc. Đó là căn lều của bộ phận cơ yếu, trong một lùm chuối. Chúng tôi sống với nhau được 15 ngày. Rồi tôi đưa Thùy về cơ quan của cô ấy tức bộ phận y tế ở hố Rạch Già. Còn tôi thì trở về bến của tôi ở hố Lồng Đèn.

Thỉnh thoảng một, hai tuần Thùy lại xin phép sang thăm tôi, một mình chèo xuồng, gặp nước xuôi phải chèo từ sáng sớm, chiều mới đến nơi. Gặp nước ngược thì nửa đêm mới đến. Mà có ở với nhau được nhiều đâu, một đêm, nửa đêm. Rồi cô ấy lại một mình chèo về. Mà biệt kích lội rừng thì nhan nhản. Mỗi lần tiễn cô ấy ra về, tôi lại thấp thỏm suốt ngày, chỉ sợ bất thần nghe một loạt súng nổ ở đâu đó, trên các kênh rạch chằng chịt trong rừng...

Ít lâu sau cô ấy có thai. Và chúng tôi có đứa con trai đầu lòng, đặt tên là Nam. Hôm cô ấy sinh, tôi băng rừng đi thăm, rồi lại lội bộ băng rừng suốt ba tiếng đồng hồ trở về để kịp đi một chuyến công tác khẩn.

Trong câu chuyện của mình, anh Tư Thắng nhắc đến nhiều người, nhiều hi sinh thầm lặng mà không kể ra thì anh không thể yên lòng. Như câu chuyện về cô bác sĩ trẻ ấy. Anh Thắng chỉ biết chị tên là Thùy Trâm người Hà Nội, chị chỉ huy bệnh xá huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, chị giấu đi một nỗi đau riêng và trụ bám “gan lì đến kỳ lạ, kỳ quặc suốt chục năm trời trên vùng đất hẹp bị đánh nát như băm ấy”, cho đến ngày chị hi sinh...

Có cố gắng đến mấy thì mãi mãi vẫn còn những người anh hùng vô danh thôi! Người trong cuộc chiến đấu ngày ấy còn nói vậy thì người hôm nay biết tìm họ ở đâu?

Cuộc sống đã quên và đang tiếp tục lãng quên... Bởi thế câu chuyện về một hòn đảo mang tên một người anh hùng là một câu chuyện hiếm hoi lạ lùng... Anh Tư Thắng bảo, bây giờ may ra chỉ còn một người sống sót để kể lại.



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 02:09:25 pm

Sự tích đảo Phan Vinh

Vẫn là mặt biển xanh mênh mông, phẳng lì ấy. Nhìn kỹ lắm, mãi mới nhận ra, trên sợi chỉ tít tắp chân trời, một vệt nhỏ nhô lên khỏi mặt nước mong manh như một vệt móng tay.

Chong mắt nhìn thật kỹ nữa, hóa ra cái vệt móng tay mong manh trên đường chân trời ấy là một hòn đảo. Một hòn đảo san hô, nhỏ xíu giữa đại dương mênh mông, một hòn đảo đang hình thành, chưa hình thành xong, lúc triều lên thì biến mất dưới mặt nước, lúc triều thấp lại nhô lên... Một chút Tổ quốc ở nơi xa xôi. Một đảo nhỏ, trong số những đảo nhỏ nhất của quần đảo Trường Sa.

Hòn đảo bé tẹo ấy có tên là đảo Phan Vinh. Trên tấm hải đồ lưu giữ ở phòng tham mưu lữ đoàn hải quân 125 có ghi tên đảo ấy.

Trong số hàng nghìn, hay bao nhiêu nghìn hòn đảo lớn nhỏ ở nước ta, có lẽ đây là hòn đảo duy nhất mang tên họ một con người. Theo chỗ chúng tôi dò tìm, hỏi han kỹ nhiều nơi, không có một quyết định nào của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt tên như vậy cho hòn đảo này cả.

Thì ra trong đời sống hiện đại của chúng ta, các truyền thuyết vẫn tiếp tục ra đời và tồn tại. Và cũng như tự ngàn xưa, truyền thuyết là do nhân dân vô danh sáng tạo ra. Các truyền thuyết bao giờ cũng khuyết danh. Tên Phan Vinh được đặt cho hòn đảo nhỏ trong dải Trường Sa phảng phất một không khí truyền thuyết.

Tác giả của nó là những người lính bí mật trên con đường biển Đông. Một người nào đó, trên một chuyến đi biển xa nào đó, có thể là một chuyến đi bến Rạch Gốc, Kiến Vàng, Sông Đốc, Gành Hào Cà Mau, nhưng lại phải đi vòng vo đến tận sát Philippines, Sumatra, Singapore, Malaysia... đã ghé qua hòn đảo nhỏ chơ vơ hoang vắng này. Và nhớ bạn, anh lấy tên người bạn đã hi sinh mà gọi thành tên đảo...

Rồi người ta truyền nhau, người này truyền người kia, và cái cách gọi tình cờ nhưng sâu lắng của người lính biển nọ cứ đi vào lòng người, in sâu ở đấy, ngày càng sâu, không gì xóa đi được nữa.

Nhưng trong số những chiến sĩ biển Đông đã hi sinh trong cuộc chiến đấu bí mật trên con đường mòn kỳ lạ này thời chống Mỹ, còn có hàng trăm người khác mà có lẽ sự nghiệp và hành vi anh hùng chẳng hề thua kém, sao chỉ có tên một người đã trở thành tên một hòn đảo của Tổ quốc? Hẳn con người này phải có điều gì để được đọng lại sâu hơn cả, đậm hơn cả, sắc hơn cả trong tâm trí mọi người...

Người hôm nay còn có thể nói với chúng ta về Phan Vinh - theo lời chỉ dẫn của anh Tư Thắng - là Nguyễn Long An, chúng tôi đã tìm gặp được anh ở Hải Phòng...

Nguyễn Long An kể:

Một chân dung phác thảo

Đúng như các anh nói, ở đơn vị chúng tôi trong cuộc chiến đấu biển Đông thời ấy không thiếu gì những người anh hùng. Nhưng nếu được phép chỉ chọn một người mà tất cả chúng tôi cảm phục nhất, tôn trọng nhất, lại yêu quí gần gũi nhất thì tôi chắc ai cũng sẽ chọn anh Phan Vinh.

Anh ấy dũng cảm vô song, tất nhiên rồi, tài năng nữa, tất nhiên rồi, nhưng có lẽ điều này đối với tất cả chúng tôi còn ấn tượng đậm hơn: đó là một con người vô cùng hào hiệp, một cách hết sức tự nhiên, như là trời sinh ra vốn vậy, không hề cố tình, cố gắng, sắp đặt, suy tính. Tôi không biết diễn đạt thế nào nữa. Thôi, chỉ xin nói thế này: gặp một người chỉ huy như vậy, lập tức thấy mình có thể giao phó cả sinh mệnh của mình cho anh ấy không chút phân vân. Gặp một người bạn như vậy có thể yên tâm suốt đời...

Cũng có thể nói anh Phan Vinh có một tính cách đặc biệt mạnh mẽ, rõ rệt: bao giờ cũng hết mình. Chơi thì chơi hết mình, làm việc hết mình, đối với bạn hết mình, chiến đấu hết mình, mà trong công tác lại hết sức nghiêm khắc, lại đẹp trai, thông minh.

Anh ấy quê Điện Bàn, Quảng Nam. Tham gia công tác từ năm 16 tuổi, làm liên lạc cho huyện ủy... Năm tôi được gặp anh, anh khoảng 30. Tôi có một may mắn lớn: vào lính, được gặp ngay một người chỉ huy là anh. Tôi thuộc lớp chiến sĩ quê miền Bắc, tức là lớp lính nghĩa vụ quân sự đầu tiên được bổ sung về 125.

Lớp chúng tôi có học hành khá, nhưng kinh nghiệm từng trải thì hoàn toàn chưa có chút gì. Chuyến đầu tiên tôi đi tàu 43, làm báo vụ, vào Cà Mau. Máy bay, tàu chiến địch bám riết, hoang mang thì tôi không đến nỗi hoang mang, nhưng rất lúng túng. Nhờ các anh đi trước chỉ vẽ ân cần.

Chuyến thứ hai của tôi chính là chuyến Vũng Rô.

Rồi đến chuyến tàu 235 do anh Phan Vinh chỉ huy đi bến Hòn Hèo, Hòn Khói, Khánh Hòa, đúng dịp tổng tấn công Mậu Thân.

Bước vào trận đánh lớn

Anh Phan Vinh là người được giao điều khiển chiếc tàu cao tốc đầu tiên do Trung Quốc viện trợ. Thủy thủ đoàn được thành lập gồm 21 người tuyển chọn từ các đơn vị về. Kéo sang Trung Quốc học một thời gian, anh Vinh học rất xuất sắc, cán bộ hải quân Trung Quốc cũng phải phục. Xong lại kéo về VN, cải dạng tàu thành tàu đánh cá gần giống như tàu đánh cá của Nhật, sơn trắng.

Đơn vị còn được bổ sung thêm ba đồng chí ở lữ 126 tức đặc công nước, chúng tôi học cả kỹ thuật đặc công đánh nhau dưới nước, và cả kỹ thuật bộ binh đánh nhau trên bờ. Đặc biệt, tôi chú ý trong suốt thời gian chuẩn bị, anh Vinh có ý thức tạo cho thủy thủ đoàn 21 người chúng tôi gắn bó với nhau như một gia đình, mà anh Vinh là người anh lớn.

Sau này tôi mới hiểu điều ấy cần thiết cho chúng tôi biết chừng nào; khi lâm vào hoàn cảnh chiến đấu quyết liệt, mất còn, chúng tôi đã thành một tập thể thật sự ruột thịt.

Đúng Tết Mậu Thân chúng tôi nhận nhiệm vụ, và cho cơ động tàu sang một bến của Trung Quốc gần biên giới ta, cho tàu ta cập lẫn với một số tàu cao tốc của Trung Quốc để đánh lạc hướng máy bay trinh sát Mỹ.

Ngày 10-2-1968 chúng tôi lên đường. Nhưng đến cách bờ biển Khánh Hòa khoảng trên 10 hải lý, nhận được điện từ chỉ huy sở ở Thủy Nguyên báo đã lộ, phải quay về bến Hải Khẩu, Trung Quốc.

Ngày 27-2 lại lên đường.

Theo dõi tình hình địch, chúng tôi nhận thấy lần này chúng hành động có khác. Máy bay trinh sát chúng bay rất cao, ngày bốn hay năm lần, từ phía Philippines hay Guam sang và quay trở lại. Tàu chiến Mỹ không bám theo ta liên tục mà cứ độ tám tiếng đồng hồ mới đảo qua một lần trước mũi tàu ta, nhưng không chạy gần.

22 giờ đêm 27-2 anh Vinh quyết định từ ngoài khơi xa cho tàu mở tốc lực đâm thẳng vào hải phận miền Nam. 23 giờ thì bắt được đảo Hòn Tre. Thấy rõ tám tàu địch giăng thành hai tuyến trong và ngoài. Nhìn thấy cả đèn điện thành phố Nha Trang sáng trưng. Anh Vinh cho tàu lách qua hàng tàu địch ngăn chặn, đâm vào bến. Rất đúng bến Hòn Hèo. Mười hai giờ khuya, chúng tôi bắt đầu thả hàng. Thả được tất cả 30 tấn, phần lớn là súng và đạn B40, B41. Tất cả anh em trên tàu đều lao vào thả hàng, cố gắng thả cho được thật nhiều.

Lúc này anh Vinh nói:

- Ta len vào đến đây, tàu địch đã giăng hai lớp sau lưng rồi, phải nói thật điều này: khả năng tàu ta thoát ra khơi được rất ít. Chắc đến 90% là phải chiến đấu. Có thể hi sinh lớn, nhưng lúc này chiến trường đang tổng tấn công, cần súng đạn hơn bao giờ hết. Ta thả được càng nhiều hàng cho anh em trong này càng quí...

Đến 1g sáng thả hàng xong. Chúng tôi điện báo kết quả về sở chỉ huy lữ đoàn và nhận ngay được điện của anh Phúc chính ủy:

“Lữ đoàn biểu dương các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Chờ các đồng chí trở ra an toàn thắng lợi”.

Một lát sau lại nhận được điện lữ đoàn thông báo tàu anh Tư Thắng ở Quảng Ngãi và tàu anh Ba Râu ở Trà Vinh đang bị địch đánh.

Anh Phan Vinh bảo:

- Ta cũng sẵn sàng đi thôi.

Chúng tôi bắt đầu quay tàu ra. Biển ở đây luồng lạch rất ác, có một rạch sâu bề ngang đúng 40m, chỉ cần lệch một chút là tàu cưỡi lên bãi san hô ngay. Hai chiếc tàu địch đã án ngữ ngay giữa luồng.

Anh Vinh hét lệnh chiến đấu. Vừa nổ súng vừa tiến. Chuyến này tôi đứng máy số một. Nghe lệnh anh Vinh, tôi vừa đẩy cần ly hợp tiến thì nghe toàn tàu rung lên dữ dội. Địch tập trung bắn ngay vào khoang máy quyết liệt. Trên boong, ta cũng nổ tất cả các cỡ súng... Mười phút, máy tàu ta tê liệt. Anh Trương Văn Mùi, máy trưởng, đứng cạnh tôi, bị trúng một viên đạn vào ngực, hi sinh ngay, ngã vào cần gạt, khiến tàu dạt luôn vào bờ.

Các tàu địch áp lại, lúc này có đến hàng chục chiếc. Đánh nhau suốt một tiếng đồng hồ.

Lúc luyện tập ở nhà, anh Vinh đã dự kiến mấy phương án: thả hàng xong là cơ bản hoàn thành nhiệm vụ rồi, nếu sau đó lộ, bắt buộc phải chiến đấu, không ra khơi được thì cho tàu lao vào quân cảng của địch ở Nha Trang, cho nổ tàu phá tung cảng. Hoặc không vào được cảng thì đâm thẳng tàu ta vào một tàu địch to nhất, nổ tàu, phá tan tàu địch và hi sinh...

Nhưng bây giờ những phương án ấy không còn thực hiện được nữa: máy tàu đã bị tê liệt, tàu không còn cơ động được. Chỉ còn một phương án cuối cùng: phá tàu, rút lên bờ chiến đấu.



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 02:11:18 pm

Cuộc chiến đấu cuối cùng của người anh hùng

Lúc này ở dưới khoang máy chỉ còn tôi (Nguyễn Long An) và anh Thứ, người Hải Dương, cũng là thợ máy. Sau một tiếng đồng hồ chiến đấu, bây giờ nghe súng đã lặng đi.

Thứ đã bị thương ở tay, tôi băng cho Thứ, nghe xương cánh tay anh lạo xạo. Tôi cũng bị thương ở chân, cũng chưa kịp sờ kỹ xem vết thương cụ thể thế nào, nhìn xuống chỉ thấy máu bê bết, cứ tạm buộc túm ở đùi.

Phá tàu

Tôi bảo Thứ:

- Nếu anh em đã hi sinh hết, thì nhiệm vụ phá tàu chỉ còn anh với tôi. Chúng ta đã thề trên tàu còn một người còn hơi thở thì quyết không để tàu sa vào tay địch.

Bộc phá đặt ở khoang mũi và khoang lái. Thứ giữ tay cho tôi đu người xuống khoang mũi, ở đấy có một khối bộc phá 800 kilô. Tôi quyết định bấm kíp hẹn giờ 1 tiếng. Tính như vậy lúc lên boong tìm thấy anh em nào bị thương, sống sót, có thể đưa anh em ra khỏi tàu trước khi tàu nổ.

Kíp hẹn giờ, chiếc đồng hồ nhỏ xíu, tôi bấm rồi, rất lạ, bốn bề ầm ĩ - lúc này không nghe súng ta bắn nữa nhưng địch vẫn bắn - vậy mà tôi nghe rõ tiếng tích tắc... Vừa xong thì thấy anh Vinh từ trên đài chỉ huy xuống. Anh Vinh bị thương, băng trắng toát cả đầu.

Anh bảo anh em ta chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu nên tổn thất nhiều. Tôi báo cáo đã bấm kíp nổ khối bộc phá 800 kilô. Anh bảo: “Được”. Rồi tự tay anh đi đặt tiếp 12 kíp nổ nữa. Anh bảo: “Cho chắc chắn”. Anh Vinh rất lạ, tình hình đến nước này mà tôi thấy anh vẫn bình tĩnh như không. Anh đi thu dọn gọn gàng mọi thứ, đốt hết giấy tờ, tài liệu.

Rồi tất cả chúng tôi lên boong và lần lượt rời tàu. Lúc này bọn địch đã hơi dãn ra xa. Chắc chúng sợ ta cho nổ tàu thì chúng cũng tiêu. Chúng tôi lợi dụng tình hình đó dìu nhau bơi vào bờ. Vừa chạm chân đến chỗ cạn thì khối bộc phá đầu tiên nổ. Tan khói, quay lại nhìn kỹ, thấy đuôi tàu vẫn nổi.

Tôi nằm chờ đến 30 phút nữa, thật ra lúc này rất lo, nếu khối bộc phá còn lại bị tịt ngòi thì tôi phải làm cách sao đây bơi trở ra tàu, dùng ngòi nổ khác quyết phá cho nổ kỳ hết. Ba mươi phút sau thì khối bộc phá cuối cùng nổ. Toàn bộ tàu hoàn toàn biến mất. Anh em chúng tôi lên bờ.

Giữa vòng vây của địch

Đến 6 giờ sáng thì nghe ầm ầm, rồi chỉ một lúc đầy trời trực thăng. Chúng bắt đầu đổ quân. Bây giờ đang mùa khô, cả đảo chỉ độc một loại cây gai lúp xúp, lá rụng hết, còn trơ gai cằn cỗi. Mới tảng sáng trời đã nắng chói chang. Chúng tôi phải bứt cỏ che bớt lưỡi lê súng cho đỡ sáng và bố trí phòng ngự vòng tròn. Ước lượng địch khoảng hơn 2 tiểu đoàn, toàn bọn Nam Triều Tiên.

Lúc đầu tôi nghĩ thế trận của anh em chúng tôi như thế này là chỉ còn một nước tử chiến và tất sẽ hi sinh hết: chúng tôi chỉ một nhúm người ở giữa, địch vây kín bốn bề. Chúng tôi chiếm được đỉnh đồi, có ưu thế hơn, nên có thể kéo dài cầm cự, nhưng cũng chỉ là kéo dài thôi chứ không hi vọng gì thoát được vòng vây.

Nhưng một lát sau thì bỗng phát hiện một tình huống bất ngờ: bên trái chúng tôi, cách không xa, chợt nghe tiếng AK nổ. Đúng là anh Phan Vinh rồi. Tiếng súng sắc gọn, dứt khoát, từng loạt rất ngắn, có khi chỉ điểm xạ từng viên một, đanh, ác, quyết liệt. Anh Phan Vinh đánh giặc từ năm 13 tuổi, trưởng thành từ vùng địch hậu nổi tiếng Điện Bàn, Quảng Nam.

Nhạy cảm quân sự của anh rất tinh, sắc. Nghe tiếng súng từ sáng đến giờ, tuy không nhìn thấy nhưng anh đã nhận định bộ phận anh em chúng tôi do anh Nhi (thuyền phó) chỉ huy đang trụ trên đỉnh đồi. Vậy anh và anh Thứ, cả hai đều đã bị thương nhưng vẫn còn sức chiến đấu, sẽ tạo thành một mũi bên sườn phối hợp cùng chúng tôi và thế trận sẽ trở nên khác hẳn.

Nhờ có hai mũi hỗ trợ nhau như vậy chúng tôi trụ suốt được một ngày. Đêm, lợi dụng pháo sáng, chúng tôi tìm cách luồn qua vòng vây địch. Bọn địch đóng rất dày, hầm hố đào chằng chịt, chỉ cách nhau 5-7m một hố... Đến khoảng 10 giờ đêm thì chúng tôi chuyển sang được một đồi khác, cách chừng 100m.

Chúng tôi cứ lần về hướng tây mà đi, di chuyển hết sức chậm vì tất cả đều bị thương, địch thì lùng sục ráo riết. Tuyệt không còn gì ăn. Mấy ngày đầu đói ghê gớm nhưng rồi cũng lạ, cái ăn tự nó dần dần không đòi hỏi nữa, chỉ có cái khát hành hạ. Phải tự uống nước giải của chính mình... Đến ngày thứ bảy, thật ra chúng tôi mới di chuyển được 600 hay 700m, lại chạm địch, đánh nhau một trận. Rồi lui được lên một ngọn đồi có đá.

Bấy giờ cậu Khung, Mai Văn Khung, người quê Thái Bình, chiến sĩ hàng hải, khát quá không chịu nổi nữa, tự đái ra mà uống, nhưng rặn mãi cũng không còn giọt nào. Khung xin mò xuống suối tìm nước. Nghe có tiếng nước róc rách thật, càng kích thích cái khát dữ dội. Khung vừa đi được khoảng 30m thì nghe súng nổ. Chạm địch rồi! Tôi ôm súng lao xuống cố cứu Khung. Tôi bắn liền mấy loạt, ném cả lựu đạn nữa, nhưng khi bò xuống đến nơi thì không còn thấy dấu vết gì nữa. Khung đã bị địch bắt!

Bọn địch bắt được Khung, đoán được hướng đi của ta nên lại ráo riết tổ chức tấn công truy đuổi. Anh Nhi bảo:

- Tình thế này ta ở lại đây là sẽ bị hủy diệt hết. Bây giờ giao đồng chí An làm đoàn trưởng dẫn anh em tiếp tục đi tìm liên lạc với địa phương. Còn tôi ở lại đây, bám tình hình và nếu địch đuổi theo thì sẽ cố đánh chặn.

Chúng tôi đành chia tay anh Nhi ra đi. Tôi lục lọi khắp các túi, tất cả “gia tài” chỉ còn mấy viên vitamin B1 đưa lại cho anh Nhi...

Chúng tôi lại lần mò đi, quanh quẩn suốt ba ngày đêm. Hòn Hèo là bán đảo, nên loay hoay thế nào một đêm lại ra sát mép biển và lần qua một hòn đảo nhỏ khác.

Ngày thứ 10 chúng tôi nằm giữa một bãi cát chơi vơi, thế nào lại đúng một ổ kiến đỏ. May quá, tôi đã nghe các anh lớn phổ biến kinh nghiệm cứ bắt luôn kiến mà ăn, nhai rau ráu, không ngờ tỉnh ra. Đêm lại mò xuống mép biển bắt được mấy con ốc, đập ra ăn sống...
Ngày thứ 11 vẫn không thấy tăm hơi anh em địa phương. Thỉnh thoảng nghe súng nổ đâu đó, không xa. Tôi bảo:

- Chỗ nào địch nổ súng, tức là ở đó có lực lượng ta. Ta cứ hướng súng nổ mà đi, nhất định sẽ tìm ra.

Anh em đồng ý. Chúng tôi đi, đến khoảng 3 hay 4 giờ chiều thì thấy một bóng người ngoài mép biển, ở khu vực về sau này mới biết là xã Ninh Diêm.

Tôi cho anh em dừng lại, bố trí sẵn sàng yểm trợ, còn tôi một mình mò xuống. Tôi bảo Tuyến, chiến sĩ hàng hải, và Mai, chiến sĩ điện công: nếu là địch, chúng bắt tôi thì cứ bắn bừa vào. Diệt được địch cho anh em thoát, tôi có hi sinh còn hơn bị bắt.

Xuống đến gần, thấy rõ một người đàn ông mặc quần áo bà ba. Anh ta hoảng hốt bỏ chạy. Tôi phải ra oai, kéo cò, dọa. Rồi hô ám hiệu. Anh ta trả lời đúng. Hỏi ra, anh ta thuộc lực lượng an ninh huyện.

Tôi gọi tất cả anh em xuống. Anh ta cho chúng tôi mỗi người mấy quả ổi. Anh em các bộ phận của huyện đóng bí mật rải rác ở vùng núi Hòn Hèo, Hòn Khói này cũng rất đói, toàn phải ăn rau rừng. Anh này đang đi tìm hái ổi rừng ăn trừ bữa thì gặp chúng tôi. Anh em chúng tôi nhịn đói cả chục ngày rồi, bây giờ ăn ổi vào té re gần chết...

Chúng tôi về chỗ cơ quan an ninh huyện, rồi từ đó bắt được liên lạc với bộ phận bến do anh Kiến phụ trách. Mới biết 12 ngày nay các đồng chí ở bến cũng tỏa đi tìm chúng tôi mà không gặp.

Tôi cùng các đồng chí ở bến trở lại những ngọn đồi mấy hôm trước để tìm các đồng chí còn thiếu. Trở lại chỗ anh Nhi thấy súng ống bị đập phá tan tành nhưng không tìm được anh Nhi. Đi một đoạn xa nữa thì tìm thấy xác anh Phan Vinh và anh Thứ.

Quanh chỗ anh Vinh nằm rất nhiều dấu vết bông băng đỏ thấm máu khô và súng đạn của bọn Nam Triều Tiêu vỡ nát. Còn anh Vinh, nhìn tư thế, có thể đoán ra anh đã đánh đến viên đạn cuối cùng, và anh đã rút chốt quả lựu đạn cuối cùng để bọn giặc xô lại định bắt sống thì thả cần nổ lựu đạn, diệt địch và hi sinh...

Chúng tôi chôn cất các anh ngay tại chỗ. Núi đá, nhưng chúng tôi cố đào thật sâu. Và trên mỗi nấm mộ cắm một tấm bia nhỏ ghi tên tuổi quê quán từng người. Những anh em miền Nam thì ghi quê hương thật. Còn anh em miền Bắc thì ghi quê hương kết nghĩa...

Chỗ anh Vinh nằm, trên đồi cao, nhìn thẳng ra biển Đông...

***

Nguyễn Long An nói: “Trận ấy chúng tôi hi sinh 12 đồng chí, mất tích một và bị địch bắt một”.

Có một câu hỏi: “Có đắt quá không? Một sự hi sinh quá lớn như vậy, để thả được chừng 30 tấn súng đạn xuống biển, rồi về sau anh em ở bến mò vớt lên chừng được một nửa, mươi, mươi lăm tấn?”.

Các anh ạ, những câu hỏi như vậy chỉ đặt ra sau chiến tranh khi mọi sự đã yên bình, và chúng ta có thể ngồi với nhau bình tĩnh, thong thả, bên mâm rượu thế này... Còn ngày ấy đối với chúng ta, đối với chúng tôi, tôi nhớ không có câu hỏi ấy. Đối với anh Phan Vinh không có câu hỏi ấy...


Sau cơn mưa trời lại sáng



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quydede trong 22 Tháng Tám, 2008, 02:38:06 pm
Vậy là đã hết phần trích đăng bút ký "Có một con đường mòn trên biển Đông" của nhà văn Nguyên Ngọc trên báo tuổi trẻ, báo đăng 13 kỳ. Bác nào có đầy đủ số hoá lên www.quansuvn.net (http://www.quansuvn.net) đi.

Hồi trước nghe đọc truyện đêm khuya của Đài TNVN, họ đọc truyện "Biển gọi" của (tự nhiên quên mất
tên tác giả, bác nào nhớ bổ sung cho em phát, hình như là Hồ Phương), viết về đoàn tàu không số, hay phết.
Bác nào còn sách cũ số hoá luôn đê. Đã để ý đi lùng tìm cuốn này trong các quán sách cũ mà không thấy.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Tư, 2009, 01:17:49 pm
Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân (1961 - 2001)

 (http://www.quansuvn.net/index.php?topic=3256.msg47724#msg47724)
Trích dẫn
Tàu 198 do thuyền trưởng Vũ Tấn Ích và chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch chỉ huy. Tàu xuất phát ngày 6 tháng 7 năm 1967. Đêm 14 tháng 7, tàu 198 gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây. Tàu 198 đánh trả và cơ động vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi).

Song do không tổ chức hủy tàu được nên bị địch lấy nguyên tàu. Anh em lên bờ, đi bộ ra miền Bắc. Trong trận này, chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp hy sinh. Đây là nỗi đau nhức nhối của Đoàn 125 trên con đường vận chuyển vũ khí vào Nam. Sau này, Đảng ủy đoàn và cán bộ tàu 198 đã kiểm điểm sâu sắc sự việc này.

Hành trình của tàu 198 (theo tài liệu Mỹ).


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Tư, 2009, 01:20:59 pm
Một số hình ảnh (nguồn: pcf45.com)

Tàu 198 sau khi bị bắt giữ

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/skunkalpha1c.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/sandwich.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/skunkalpha3c.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/skunkalpha7c.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/sa07rh.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/trawler2.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/at_anchor.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/boneyard.jpg)



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: chiangshan trong 28 Tháng Tư, 2009, 01:28:36 pm
Vũ khí bị tịch thu:
- 3 đại liên 12,7mm (.50 cal).
- 975 súng trường AK-44 (chắc là K-44).
- 189 súng trường tự động AK-56 (chắc AK Tàu).
- 25 súng chống tăng B-40.
- 9 trung liên K-53.
- Hơn 700.000 viên đạn bộ binh.
- Hơn 5.000 viên đạn 12,7mm.
- 996 viên đạn cối 82mm.
- 6 viên đạn ĐKZ 57mm.
- 213 viên đạn B-40.
- 1.960 mìn chống bộ binh.
- 1.250 lựu đạn.
- 484 thủ pháo.
- Hơn 4,5 tấn thuốc nổ C4 và TNT.
- Nhiều kíp nổ, ngòi nổ, pin...


(http://pcf45.com/trawler/aftermath/skunkalpha4c.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/box-2.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/trawler1.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/trawler3.jpg)

(http://pcf45.com/trawler/aftermath/trawler4.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 26 Tháng Sáu, 2009, 01:06:37 pm
Trước hết tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh các Anh hùng, liệt sĩ.
Xin kính chào các anh, các chị, đồng đội và các bạn
Trong những năm kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, chúng ta thường nghe thấy hai câu nói: "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" và "Rạch Biển Đông cứu lấy sơn hà". Câu đầu chủ yếu nói về Đoàn 559 - Đường Hồ Chí Minh trên Trường Sơn, Đơn vị Anh hùng LLVTND. Còn câu sau chủ yếu nói về Đoàn 125 - Đường Hồ Chí Minh trên biển, Đơn vị hai lần Anh hùng LLVTND. Những năm gần đây, câu "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" vẫn thường được nhắc nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng câu thứ hai thì rất ít khi được nhắc đến nữa.
Tối qua (25/6/2009) Ban Liên lạc Hội truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển thành phố Hà Nội chúng tôi có cuộc gặp gỡ rất vui vẻ và đầy cảm động với người anh, người đồng đội Hồ Đắc Thạnh mà tên tuổi của anh gắn liền với địa danh Vũng Rô lịch sử. Chúng tôi có nói đến việc chuẩn bị các hoạt động kỉ niêm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển vào dịp tháng 10/2011, chúng tôi thấy cần phải mở topic này để các CCB đoàn tàu không số cả nước, cùng các bác trong QSVN và những ai quan tâm hoặc có kỉ niệm gì về con đường huyền thoại này có điều kiện trao đổi thông tin với nhau.
Rất mong nhận được sự tham gia nhiệt tình của các bác, các anh, các chị và toàn thể các bạn


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 26 Tháng Sáu, 2009, 02:33:53 pm
Chào đồng đội! Rất hoan nghênh bạn đã mở chương mục mới này. Xin trích dẫn một số ý kiến của thành viên QSVN :
----------------------------------------------------------------------------
"Tàu không số" là một câu chuyện đặc biệt xếp vào hàng trở thành huyền thoại. Diễn đàn ta giờ có một nhân vật từ huyền thoại bước ra.
Phúc lắm, phúc lắm thay!
Hai năm trong HQ chắc là bác tau khong so sẽ có rất nhiều chuyện về các trận chiến của HQ. Em chỉ biết về đoàn tàu không số qua các tác phẩm văn học và sách báo, giờ có bác trong diễn đàn bọn em sẽ biết được nhiều hơn qua câu chuyện kể của bác. Em mong bác khỏe và thường xuyên vào diễn đàn
--------------------------------------------------------------------------
Tôi với anh sẽ đưa các câu chuyện huyền thoại của các bác cựu TKS lên QSVN để mọi người biết đến những chiến công thầm lặng, sự hy sinh cao cả, cả sự mất mát thiệt thòi đáng buồn của những thủy thủ tàu không số mà trước kia do lý do phải giữ bí mật không được phép nói ra lên  chương mục này. Tạm biêt - Tàu không số


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: hatuyenha trong 26 Tháng Sáu, 2009, 02:50:44 pm
Hoan nghênh các bạn CCB hải quân trong QSVN chúng tôi những người lính ở các mặt trận khác nồng nhiêt đón chào các hồi ức quí báu của các bạn và những người anh hùng.Rất cám ơn các bạn.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 27 Tháng Sáu, 2009, 08:33:47 am
Trích lịch sử đoàn 125 HQ - TKS
----------------------------------------------------------------------------
Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5 năm 1959, Tổng Quân ủy quyết định lập một cơ quan nghiên cứu mở đường vận tải trên bộ để đưa lực lượng, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Tháng 7 năm 1959, Tổng Quân ủy quyết định tổ chức đường vận tải trên biển. Đây là một trong những nhiệm vụ lớn đầu tiên, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam

Bắt đầu từ đây, xuất hiện những con tàu không số (Tàu không số : Thực ra tàu nào cũng có số, nhưng khi vào chiến trường, để giữ bí mật, đã xoá hết dấu vết, không mang số. Mọi thứ mang theo như đường, đồ hộp, sữa, thuốc lá, xà phòng... đều không có nhãn, đều không có số và vì vậy mọi người quen gọi là “tàu không số") lúc ẩn, lúc hiện như thần thoại, tiếp tế được nhiều  vũ khí cho chiến trường. Và bắt đầu tử đây, lịch sử dân tộc lại ghi thêm một nét độc đáo, sáng tạo trong cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh chống đế quốc Mỹ, giải phóng đất nước: đường Hồ Chí Minh trên biển. Cùng với con đường bộ xuyên Trường Sơn, con đường thủy xuyên Biển Đông đã góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. “

---------------------------------------------------------------------------
Trước khi nhổ neo lên đường đều phải đề ra các phương án ( đây là một ví dụ )
 haiphươngánchiếnđấu:

- Thứ nhất, nếu đưa được hàng vào bến an toàn, sẽ tìm cách hủy tàu và đi theo đường bộ để trở lại đơn vị.

- Thứ hai, nếu lạc đường, lạc hướng thì thả hàng xuống biển để giữ bí mật con đường vận tải biển. Trường hợp bị địch bắt, cho nổ mìn phá thuyền.
Đêm đầu, thuyền chạy thẳng ra vùng biển quốc tế với ý định tứ đó sẽ đi dần vào chân đèo Hải Vân. Ngày hôm sau gió to, sóng lớn, thuyền có nguy cơ bị lật. Sáu người cố chèo chống nhưng thuyền cứ dạt mãi về phía Nam. Đã vậy lại gẫy mất một lái. Với đà này, chưa rõ thuyền sẽ trôi về đâu. Hồi kháng chiến 9 năm, đã có thuyền vận chuyển theo phương thức này trôi dạt sang Philippin. Đến ngày thứ 3, thuyền lạc vào Cù Lao Ré, tức đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). Mọi người định cho thuyên ngược lên thì tay lái còn lại gẫy nốt. Gió bắt đầu lặng. Tàu tuần tiễu và tàu đánh cá của dân ra biển đông. Loay hoay ở đây sẽ lộ Thuyền trưởng Nguyễn Bất quyết định, để giữ ý đồ chiến lược con đường vận chuyển trên biển, phải phi tang hàng theo phương án đã định. Năm tấn súng đạn và thuốc men được anh em lần lượt thả xuống biển. Mọi người tiếc đến chảy nước mắt, nhưng không còn sự lựa chọn nào khác. Chiều hôm đó, 6 thủy thủ trên thuyền bị bắt. Tuy có giấy tờ làm ăn hợp pháp do tổ chức lo và khai rất khớp rằng đi đánh cá bị lạc, song địch vẫn tách ra, giam mỗi người một nơi. Đầu tiên họ bị giam ở Đà Nẵng, rồi bị chia ra, có người bị giải về Sài Gòn, có người bị giam ở Phú Lợi, có người bị đầy đi Côn Đảo. Sáu người đi trên chuyến thuyền, 5 người lần lượt hy sinh hoặc mất do bệnh tật, chỉ có anh Huỳnh Ba, năm 1974 còn sống trở về (Hiện nay đồng chí Huỳnh Bá đang sinh sống tại quê hương ở Nam Ô - Đà Nẵng).







Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 27 Tháng Sáu, 2009, 10:13:54 am
Chào cả nhà. Tôi xin mượn lời nhà văn Nguyên Ngọc qua đoạn trích dưới đây từ cuốn sách của ông viết về Đoàn tàu không số, về Đường Hồ Chí Minh trên biển để nói lên suy nghĩ và mong muốn của các CCB Tàu không số chúng tôi:
"Mặt biển xanh, bao la, phẳng lì. Đường chân trời tít tắp như một sợi chỉ. Nhìn kĩ lắm, mãi mới nhận ra, trên sợi chỉ tít tắp chân trời ấy, một hòn đảo nhỏ xíu, gợn lên trên mặt nước như một thoáng vệt móng tay mờ...
Đây là câu chuyện về một con đường.
Chúng ta đang đi tìm một con đường.
Con đường ư? Trên trái đất này, ai đếm hết được những con đường. Hàng ức, hàng triệu, hàng tỉ.
Một nhà văn lớn, cũng là nhà tư tưởng lớn có nói: "Người đi trên mặt đất thì thành đường". Rất đúng!...Nhưng còn người đi trên biển, trên mặt nước xanh phẳng lì đang trải ra trước mắt kia? Biển không để lại dấu vết, không để lại đường mòn. Biển xóa tất cả. Chỉ còn lại mặt nước mênh mông, phẳng lì, bí mật, câm lặng. Mãi mãi câm lặng.
Câu chuyện của chúng ta hôm nay là câu chuyện về một con đường như thế, ngày xưa hoàn toàn câm lặng, hôm nay vẫn còn câm lặng, và rồi chắc sẽ mãi mãi ngày càng chìm sâu vào câm lặng, đến vĩnh hằng, ngày càng chìm sâu vào phẳng lì của biển và phẳng lì của thời gian.
Nếu chúng ta không đánh thức nó dậy, không cố cùng nhau lần tìm ra nó, trong thăm thẳm của biển, của thời gian và của kí ức biết ơn.
Con đường ấy là như vậy đó, con đường bí mật xuyên Biển Đông vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam thời chiến tranh chống Mĩ...
Cũng có thể ngày ấy, cũng như chúng tôi những người lính ở chiến trường, bạn ít nhiều cũng đã nghe đến con đường này rồi, một cách mơ hồ, phong thanh, như một truyền thuyết, nửa thực nửa hư, nửa tin nửa ngờ.
Cuộc đi này cũng có thể coi như là cuộc đi tìm xác minh một truyền thuyết.
Bạn có muốn đi cùng với chúng tôi không?
Nào, xin mời, ta lên đường"


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: hatuyenha trong 27 Tháng Sáu, 2009, 11:10:36 am
Hay quá bạn ạ,tiếp tục bạn nhé rất cảm động.Rất cám ơn bạn và những người đang nhớ lại đồng đội và con đường huyền thoại nhưng có thật trên biển Đông.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 27 Tháng Sáu, 2009, 10:37:09 pm
BẾN NGHIÊNG
(Thương mến tặng các liệt sĩ Tàu Không Số)

Bến nghiêng nằm cuối sườn đồi
Đồ Sơn thầm lặng một thời chiến tranh
Chỉ có tàu mới hiểu anh
Chỉ có biển tỏ ngọn ngành tàu đi
Bạc đầu, sâu mắt những khi
Sóng chồm ôm gọn tàu đi như ngầm
Bến bờ xa, bến bờ gần
Ra đi là đã gửi thân phận rồi...
Giờ tìm lại các anh tôi
Tuổi xuân một thuở nổi trôi nơi nào?
Tấc đất chẳng có cắm sào
Biển mênh mông với ngàn sao trên trời.
...
Bạn bè ơi!
Các anh ơi!
Lính Tàu Không Số ai người nỡ quên.
                           
                           Đồ Sơn tháng 10 - 2008)                       
                            Tác giả: Trần Hậu Vệ
                                 (CCB TKS)
Ghi chú: Bến Nghiêng - nơi xuất phát những con tàu của đoàn Tàu Không Số chở vũ khí "rạch" Biển Đông vào chi viện cho chiến trường miền Nam trong những năm đánh Mĩ


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 28 Tháng Sáu, 2009, 04:17:44 pm
Di tích Bến tàu Không số K15 Đồ Sơn: Bài ca đi cùng năm tháng
23.02.2009 14:37
 
Bến tàu Không số
Nhiều người biết đến Đồ Sơn với những bãi tắm thơ mộng và những rừng thông xanh mướt, song còn ít người biết đến nơi đây ẩn chứa nhiều di tích lịch sử. Đó là bến Nghiêng, nơi những tên lính thực dân Pháp cuói cùng rút khỏi miền Bắc năm 1955. Đó là Bến tàu không số K15 dưới chân đồi Nghinh Phong thuộc khu 3 Đồ sơn, nơi xuất phát của những con tàu không số chở hàng hóa, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ, vừa được Bộ văn hóa – Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.


Cách đây gần nửa thế kỷ, năm 1959 quân đội ta đã thành lập hai đường vận chuyển chiến lược nhằm chi viện sức người sức của cho đồng bào và chiến sỹ miền Nam, một trên bộ và một trên biển, vượt núi Trường Sơn và xuyên biển Đông. Sau gần bốn tháng chuẩn bị, ngày 8/4/1962, chuyến tàu trinh sát và mang chỉ thị của Trung ương về mở đường vận chuyển chiến lược trên biển do đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy đã đến được miền Nam, mở hướng chi viện mới hiệu quả, bảo đảm bí mật, bất ngờ.



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 28 Tháng Sáu, 2009, 05:25:23 pm
Vài tư liệu về Đường Hồ Chí Minh trên biển
- Đường Hồ Chí Minh trên biển, tuyến vận tải biển chiến lược từ miền Bắc vào một số tỉnh miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ được mở chính thức theo quyết định của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng với lực lượng vận tải nòng cốt là Đoàn 759 (sau đổi thành Đoàn 125 thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân), còn được gọi là Đoàn Tàu không số, đơn vị 2 lần Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
- Theo chỉ thị của Bộ Chính trị (7/1961), lần lượt một số tỉnh miền Nam cử các đội thuyền ra Bắc nhận vũ khí và trở về an toàn (Bến Tre 11/6/1961, Cà Mau 7/8/1961, Bà Rịa 18/8/1961,...)
-Ngày 14/9/1962 tàu Phương Đông 1 của Đoàn 759 thực hiện thành công chuyến vận chuyển đầu tiên từ cảng Đồ Sơn đến bến Vàm Lũng (tỉnh Cà Mau).
- Đến tháng 2/1965, toàn tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển đã thực hiện thành công 88 chuyến với hơn 5.000 tấn vũ khí được vận chuyển cho các chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, Liên khu 5). Đặc biệt ngày 29/11/1964, Đoàn Tàu không số đã vận chuyển vũ khí vào Bà Rịa để trang bị cho một trung đoàn bộ binh kịp tham gia chiến dịch Bình Giã (2/12/1964 - 3/1/1965).
- Ngày 15/2/1965, sau sự kiện Vũng Rô, Mĩ và quân đội ngụy Sài Gòn mở chiến dịch "Phiên chợ" để ngăn chặn. Từ đó tuyến đường được mở rộng ra hải phận quốc tế đến gần vùng biển các nước Philippin, Malaixia, Inđônêxia.
- Đến năm 1973, Đoàn Tàu không số đã tổ chức được 1.879 lượt tàu thuyền, vượt hàng triệu hải lí trong sự bao vây, phong tỏa gắt gao của địch, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí, trang bị kĩ thuật, thuốc chữa bệnh, 80.026 cán bộ chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam, chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến của Mĩ và quân ngụy Sài Gòn.
- Từ tháng 2/1972  Đoàn Tàu không số lại được giao thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ mới: rà phá thủy lôi ở vùng biển Hải Phòng - Đông Bắc (1973), vận chuyển bộ đội, xe tăng và các loại vũ khí, khí tài từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975; tham gia giải phóng các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa thuộc quần đảo Trường Sa (4/1975), Cù Lao Thu thuộc tỉnh Ninh Thuận và đón các chiến sĩ cách mạng từ Côn Đảo trở về đất liền (tháng 4 và 5/1975).
- Đoàn có 3 tập thể (tàu 42, tàu 41, tàu 154) và 5 cá nhân (Bông Văn Dĩa, Nguyễn Phan Vinh (liệt sĩ), Nguyễn Văn Hiệu (liệt sĩ), Hồ Đức Thắng, Đặng Văn Thanh) được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
- Đoàn trưởng và chính ủy đầu tiên: Đoàn Hồng Phước, Võ Huy Phúc


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 30 Tháng Sáu, 2009, 11:57:22 am
Cửa biển Lộc An- điểm hẹn đường Hồ Chí Minh trên biển
[/b]
 
 Cửa biển Lộc An thuộc địa phận hai xã Lộc An, huyện Long Đất và Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Di tích lịch sử cách mạng cửa biển Lộc An trải dài 15km thuộc hạ lưu sông Ray, con sông bắt nguồn từ suối Gia Liên. Dọc hai bên sông Ray là màu xanh bạt ngàn của khu rừng nguyên sinh nhiệt đới ngập mặn.

Với vị trí chiến lược quan trọng, ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cửa biển Lộc An đã trở thành tuyến giao thông nối liền giữa miền Bắc và miền Đông Nam Bộ. Vào tháng 9/1946 tại cửa biển Hồ Tràm, xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, cách Lộc An 5km về phía bắc, chuyến hàng của Trung ương chở vũ khí đã cập bến an toàn góp phần quan trọng giúp quân và dân tỉnh Bà Rịa gây dựng, phát triển lực lượng vũ trang đánh thực dân Pháp. Từ 1952 vùng biển này là địa bàn hoạt động của tiểu đoàn 230 - tiểu đoàn vận chuyển hàng chiến lược cho miền Đông Nam Bộ.

Đầu 1961, Trung ương Cục miền Nam, sau khi nghiên cứu địa hình đã quyết định chọn cửa biển Lộc An làm điểm đón tàu vận chuyển vũ khí của “Đường Hồ Chí Minh trên biển” từ miền Bắc vào.

Chuyến tàu đầu tiên vào cửa biển Lộc An của Đoàn Tàu không số là chuyến tàu gỗ mang số hiệu 41 chổ 18 tấn vũ khí do đ/c Lê Văn Một làm thuyền trưởng và đ/c Đặng Văn Thanh làm chính trị viên được khởi hành đêm 26/9/1963 từ cảng Bính Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng) chạy ngược về phía đảo Hải Nam (Trung Quốc) rồi quay mũi tàu theo hải phận quốc tế để tới phía Nam. Rạng sáng 2/10/1963 tàu cập bến Lộc An. Khi con nước cường đang lên mạnh, thuyền trưởng Lê Văn Một cho nổ máy tăng ga hết tốc lực để chạy đua với con nước vì trời đã sắp sáng. Gần tới bến thì một cồn cát ngầm nhô lên chặn mũi con tàu lại. Trời sáng dần. Ban chỉ huy đoàn vận chuyển đã huy động lực lượng chuyển toàn bộ số vũ khí về địa điểm đã qui định; đến 10 giờ trưa thì số hàng trên tàu đã giải tỏa an toàn. Lúc này, chiếc máy bay trinh sát của địch quần đảo nhiều lần, nhưng chúng chỉ thấy chiếc ghe mắc cạn và mấy ngư dân ở trần đang phơi lưới!

Toàn bộ số vũ khí của chuyến tàu này đã bổ sung kịp thời cho các đơn vị vũ trang của tỉnh Bà Rịa-Long Khánh mở rộng vùng giải phóng và góp phần giành thắng lợi trong chiến dịch Bình Giã (2/12/1964-3/1/1965), đòn tiến công quan trọng đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-ngụy trên chiến trường miền Nam.



Đăng Vinh (CCB TKS)
[/i][/b]


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: hobichha trong 30 Tháng Sáu, 2009, 04:03:08 pm
Cháu xin chào các cô chú BLLHTTDHCMTB tp Hà Nội!
Vừa rồi có dịp theo ba Thạnh ra thành phố Hà Nội được gặp các cô chú trong BLL cháu rất xúc động trước tình cảm đồng chí, đồng đội mà các cô, chú và ba cháu dành cho nhau. Được biết các cô chú có website " quân sử Việt Nam" hôm nay cháu truy cập thử thế nào. Không ngờ cũng hoành tráng ra phết.
Cháu rất xúc động khi đọc được topic này - Topic riêng cho "Đường Hồ Chí Minh trên biển" - Topic nói về những con người như các cô, chú và ba cháu.
Cháu rất muốn được đọc nhiều bài viết về các cô chú trong chiến đấu ( thời xưa) cũng như trong làm kinh tế ( thời nay ).
Cháu hy vọng trong thời gian tới topic của cô chú sẽ phát triển hơn nữa và cháu cũng mong muốn được góp sức mình vào website cũng như topic này.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: dongadoan trong 30 Tháng Sáu, 2009, 06:51:19 pm
Bác magiang đang "tư liệu hóa" topic tại box hồi ký đấy nhé! Hôm nay em vừa nói chuyện với bác tau khong so, đề nghị hai bác thống nhất lại phương pháp đi ạ! ;D


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 30 Tháng Sáu, 2009, 09:55:07 pm
Tôi chàng trai trẻ một thời lóng ngóng, hồi cuộc sống con tươi nguyên như tờ giấy trắng, với biết bao mơ mộng tuổi trẻ,....và bây giờ đã 65 mùa xuân, tóc điểm bạc mái đầu, đã nếm đủ chua cay vinh nhục của cuộc đời, vẫn bồi hồi xao xuyến như cái thuở ban đầu là anh lính hải quân giữa biển khơi mênh mông sóng nước, khi nhớ về thời tuổi trẻ, "một thời máu và hoa" cùng con đường Hồ Chí Minh trên biển, trên những con tàu Không Số. Chào tất cả Đồng đội, những ai còn ai mất...., xin luôn nhớ đến nhau!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 30 Tháng Sáu, 2009, 10:03:34 pm
Tưởng nhớ hương hồn anh!
         
  Thắm thoát từ đêm anh hy sinh (28.9.1972) đến hôm nay nữa là đã 37 năm. 37 năm anh đi xa nhưng trong tâm trí chúng tôi, thì anh vẫn còn đó: một Phạm Phong Đê quắc thước, nhanh nhẹn; một Phạm Phong Đê có nước da rám nắng, rắn chắc của cư dân đánh cá Quảng Bình; một Phạm Phong Đê cùng lứa tuổi U19 với tôi và 3 người bạn thân: Kiêm, Nhu, Chư, rời căn cứ huấn luyện Thuỷ thủ Viễn dương K35 (Đồ Sơn- Hải Phòng) vào một ngày cuối tháng 10. 1964 về bổ sung cho tàu không số (TKS) mang mật danh 56. Tàu do đại uý Lê Quốc Thân  làm thuyền trưởng; trung uý Đỗ Như Sạn làm chính trị viên và các thuyền phó: Nguyễn Đức Thắng (nay đại tá anh hùng LLVT), Nguyễn Văn Ngọc (đã hy sinh 1972) đều là những cán bộ thuyền giỏi của đơn vị.

  Trưa hôm ấy 5 chúng tôi vừa đặt chân xuống boong tàu thì thuyền phó Ngọc đã gọi đến phát cho mỗi người 2 bộ quần áo bà ba, 1 chiếc mũ tai bèo, 1 chiếc khăn rằn và nhiều thứ quân trang, quân dụng khác...Thế là trong chốc lát, chúng tôi từ một chiến sĩ Hải quân miền Bắc trở thành những chiến sĩ giải phóng quân miền Nam thực thụ. Để thích nghi với môi trường tác chiến trên biển, thuyền trưởng Thân tận dụng thời gian cho cả tàu tập dượt lại các phương án chiến đấu... Tôi, Đê, Nhu và Chư, mỗi người được phân công phụ trách 1 khẩu súng 12 li 7, 1 khẩu hoả tiễn vác vai và mỗi người còn chịu trách nhiệm điểm hoả các khói thuốc TNT đã đặt sẵn ở các khoang hàng...Riêng anh Hồ Văn Kiêm (nay là đại tá Lữ Đoàn trưỡng- đã nghỉ hưu) thì được phân công phụ trách hàng hải số 2, kiêm tiếp đạn và phụ đặt kíp nổ với tôi vào 2 quả bom chìm, khói mù ở phía sau lái tàu. (Còn tiếp.....)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 30 Tháng Sáu, 2009, 10:31:39 pm
  Khi đã hoàn tất mọi công việc, chiều đó cả tàu ăn vội bữa cơm thân mật gọi là liên hoan nhẹ, rồi ai nấy trở về vị trí chuận bị cho tàu rời bến. Theo kế hoạch thì tàu 56 chờ cho đợt gió mùa thuyên giảm mới xuất phát; nhưng chiến trường đang cần gấp vũ khí nên tàu phải hành quân sớm. Thế là đêm hôm đó (29.10.1964) tàu 56 rời “Bến Nghiêng”- Đồ Sơn- chở 54 tấn vũ khí thẳng hướng vào chiến trường miền đông Nam Bộ, mà bến đến là căn cứ Rừng Tràm thuộc xã Phước Hải, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, cửa ngõ phía đông của thành phố Sài Gòn.

  Gần 2 tuần tàu hành trình trong sóng to, gió lớn, cơm cháo ăn thất thường, nhưng ai nấy đều giữ vững vị trí công tác. Đặc biệt là anh Phạm Phong Đê, người được mệnh danh “vua sóng” đã xông xáo xung phong xuống bếp nấu ăn. Anh còn cầm lái thay cho một số đồng chí sức khoẻ yếu  nhiều giờ liền. Khi tàu vào đến bến, anh và một số thuỷ thủ khác lại nhảy xuống hầm hàng bốc vũ khí với lực lượng bến, nhờ thế mà 54 tấn hàng được giải phóng nhanh, tàu sớm trở lại cập bến miền Bắc. Về căn cứ chưa nghỉ được bao nhiêu ngày, thì Trung Ương lại tiếp tục giao nhiệm vụ cho tàu 56 đi tiếp chuyến thứ 2... Nếu kể cả chuyến tàu võ gỗ vào trước đó nữa là 3 chuyến. 3 chuyến vũ khí vào bến Bà Rịa trong một thời gian ngắn đã trang bị cho 1 Trung đoàn quân chủ lực của ta, đủ sức chiến đấu với 1 Trung đoàn thiện chiến của Mĩ, có cơ giới yểm trợ ở chiến dịch Bình Gỉa (12.1964). Trận đánh ấy, ta đã tiêu diệt hoàn toàn Trung đoàn Mĩ đầu tiên trên chiến trường miền Nam.

  Nhắc lại những chuyến vượt biển vào chiến trường đầy gian khó, tôi  càng nhớ anh Phạm Phong Đê- chàng trai xứ biển Quảng Bình (xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch)- người thường đặt dây câu sau lái mỗi khi tàu đến vùng biển nước sâu, và anh đã nhiều lần tóm được những con cá ngừ Đại dương to bự. Anh cũng là người siêng năng mò cua, bắt tôm ba càng trong rừng ngập mặn Phước Hải- Bà Rịa, cải thiện bửa ăn cho đơn vị mỗi lần tàu mắc kẹt con nước phải nằm lại bến. Với đức tính cần cù chịu khó, siêng năng nên đến đầu năm 1966, thì chi bộ tàu kết nạp anh vào Đảng Cộng sản. Trước vinh dự và trách nhiệm của người lính TKS, anh Phạm Phong Đê càng đề cao trách nhiệm trong những lần diễn tập bắn đạn thật. Anh cũng thường xuyên trao đổi, góp ý với tôi về kinh nghiệm bắn đón sóng; kinh nghiệm bắn máy bay tầm thấp; bắn tàu tuần tiểu ven sông, ven biển..., nhờ thế mà mỗi lần diễn tập bắn đạn thật trong điều kiện sóng gió to, anh và tôi đều đạt được điểm cao.

  Anh Đê còn vui vẽ, tâm tình cởi mở với tôi về quê hương, gia đình và cả mối tình đầu của anh nữa. Có lần anh kể về người vợ vừa mới cưới của anh: đó là chị Ngô Thị Kim Hồng (Đại Phong, Lệ Thuỷ, Quảng Bình) em ruột của anh Ngô Đức Thái- đồng hương với anh Đê, lại ở cùng đơn vị  nhưng  khác tàu (anh Thái ở tàu 176, hy sinh 30.7 1971). Chuyện tình của anh Đê với chị Hồng, như tôi biết cũng đầy lãng mạn và cao thượng vô cùng: Bởi ngày đó (1966- 1967) khu 4 đang là trọng điểm bắn phá của máy bay Mĩ. Nhưng anh chị đã lai nhau trên chiếc xe đạp cà tàng, vượt gần ngàn cây số từ Hà Nội về quê tuyến lửa Quảng Bình, làm lễ cầu hôn trước hai gia đình nội, ngoại (ngày ấy chị Hồng đang là học viên cảnh sát trường Công an Hà Nội). (Còn tiếp)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: bigradeon trong 01 Tháng Bảy, 2009, 03:20:36 am
Cháu chào các chú các bác, cháu đọc quân sử lâu nhưng hầu như chỉ đọc bài vì kiến thức quá hạn hẹp. Rất vui vì quân sử càng ngày càng mở rộng, cả tầm vóc lẫn quy mô, như thế này bọn nhóc chúng cháu biết thêm nhiều thứ, đặc biệt hiểu thêm về những gì cha anh đã phải hy sinh cho sự toàn vẹn của đất nước.
Nhắc đến tàu không số, ngày xưa cháu còn ở Nha Trang, cụ thể là đường Trần Quang Khải, gần nhà cháu có 1 bác tên là Vân ( họ và tên lót cháu không nhớ được) người miền Trung, lấy vợ người Cam Ranh ( bác ấy sau này bị bà này lừa hết , cả cái nhà cũng không cho ở) bác ấy đã mất được mấy năm, bây giờ còn sống chắc cũng tầm 7x, ngày xưa cũng đi tàu không số, cháu còn nhớ có lần được lên Tivi, bác nào đính chính dùm cháu với ah! Cảm ơn các bác, các chú!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: hatuyenha trong 01 Tháng Bảy, 2009, 08:19:47 am
Xin chào CCB tàu không số thế hệ 4x trantienve@,mừng quá khi đọc bài của anh ,vì tôi hay tủi thân mãi mà không tìm được một nic của thế hê 4x,hôm  nay thì gặp rồi mà lại CCB Hải quân của tàu không số mới oách chứ,thật đáng tự hào.Chúc mừng anh đã vào nhập   đại gia đình QSVN net,rất mong được biết nhiều hồi ức của  anh và đồng đội .Chúc anh và gia đình khoẻ.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 01 Tháng Bảy, 2009, 08:37:46 am
Cháu chào các chú các bác, cháu đọc quân sử lâu nhưng hầu như chỉ đọc bài vì kiến thức quá hạn hẹp. Rất vui vì quân sử càng ngày càng mở rộng, cả tầm vóc lẫn quy mô, như thế này bọn nhóc chúng cháu biết thêm nhiều thứ, đặc biệt hiểu thêm về những gì cha anh đã phải hy sinh cho sự toàn vẹn của đất nước.
Nhắc đến tàu không số, ngày xưa cháu còn ở Nha Trang, cụ thể là đường Trần Quang Khải, gần nhà cháu có 1 bác tên là Vân ( họ và tên lót cháu không nhớ được) người miền Trung, lấy vợ người Cam Ranh ( bác ấy sau này bị bà này lừa hết , cả cái nhà cũng không cho ở) bác ấy đã mất được mấy năm, bây giờ còn sống chắc cũng tầm 7x, ngày xưa cũng đi tàu không số, cháu còn nhớ có lần được lên Tivi, bác nào đính chính dùm cháu với ah! Cảm ơn các bác, các chú!

Chào cháu bigradeon! Chú rất vui vì cháu có nhận thức rất tốt về lịch sử dân tộc về cha ông mình - Điều mà giờ đây không phải thanh niên nào cũng hiểu đựơc. Chú chúc cháu luôn thành công và may mắn trong cuộc sống. Trong vài ngày nữa chú sẽ tìm được Bác Vân người lính TLS có số phận cuối đời hẩm hui. Rất mong đuọc gặp cháu nhiều trên Websid này.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: lixeta trong 01 Tháng Bảy, 2009, 10:17:54 am
Chào các bác!
Các bác có quen bác này không?

Thuyền trưởng của 9 chuyến tàu không số
QĐND - Thứ Ba, 30/06/2009, 1:29 (GMT+7)

QĐND Online - Từ thuở thiếu thời, chàng trai quê Bình Thới, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi Vũ Tấn Ích đã ao ước có ngày được đi trên những con tàu lớn khám khá bí mật của đại dương bao la. Năm 1948, vừa tròn 18 tuổi, ông nhập ngũ, đầu quân tại Trung đoàn 108 hoạt động trên chiến trường Khu 5. Sau khi tập kết ra Bắc, ông được cử đi đào tạo thuyền trưởng ở Trung Quốc, tốt nghiệp được phong quân hàm trung uý - bổ nhiệm làm thuyền trưởng thuyền 5 Phân đội 1, Đoàn 130 Hải quân.

Cũng như bao con em miền Nam tập kết, “ngày Bắc, đêm Nam”, ông luôn mong ước đến cháy lòng ngày trở về chiến đấu giải phóng quê hương. Và ước mơ ấy đã trở thành hiện thực. Đầu năm 1963 Vũ Tấn Ích được giao nhiệm vụ làm thuyền trưởng kiêm chính trị viên và bí thư chi bộ Đội 6, chỉ huy con tàu do Xưởng đóng tàu III Hải phòng (Bộ giao thông vận tải) sản xuất. Đây là chuyến tàu sắt thứ 2 của Đoàn 759 vận chuyển vũ khí vào miền Nam bằng đường biển. Tối 12-4-1964, tại Quảng Ninh, 12 cán bộ chiến sĩ Đội 6 đều là con em Khu 5 và Nam Bộ được Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng và Trung tá Đoàn Hồng Phước, Đoàn trưởng Đoàn 759 gặp mặt, liên hoan, tiễn đưa đến tận mép nước. Từ đây, cả đội bơi thuyền cao su ra tiếp nhận con tàu trọng tải 100 tấn (chở gần 60 tấn vũ khí) đang neo đậu tại Hòn Kẽm, vịnh Bãi Cháy. Trước khi chia tay, Trung tướng Trần Văn Trà căn dặn thuyền trưởng Vũ Tấn Ích: “Đồng chí là người chỉ huy độc lập, cao nhất, quyết định xử trí mọi tình huống. Phải nắm chắc phương châm chiến đấu: Bám bờ là thế trận, bám bờ là chiến thắng. Tôi chờ tin thắng lợi của các đồng chí”.
CCB Vũ Tấn Ích kể chuyện tàu không số

Để bảo đảm tuyệt mật, mọi tư trang có nhãn mác hoặc dấu hiệu liên quan đến miền Bắc đều phải để lại. Con tàu được nguỵ trang như tàu ngư dân đánh bắt xa bờ, có cá khô, ngư lưới cụ và rất nhiều biển số khác nhau để thay đổi liên tục trong suốt hành trình. Khẩu trung liên gắn ở đuôi tàu được che chắn dưới vỏ bọc ống khói tàu buôn. Mặc dù có trọng tải lớn nhưng phương tiện hàng hải được trang bị khá thô sơ, ngoài hải đồ, chỉ có 1 ống nhòm, 1 la bàn, thước song song bằng gỗ, máy vô tuyến điện sóng ngắn 108 liên lạc với trung tâm bằng tín hiệu moóc và 1 đèn pin để bắt tín hiệu với đất liền. Đây là lần đầu tiên ông Ích chỉ huy tàu hành tiến phương Nam. Đường đi còn lạ lẫm, sóng to gió cả song lo nhất là phải luôn căng thẳng đấu trí với quân thù. Gần chục ngày lênh đênh trên biển, con tàu vào bến Bến Tre như đã định. Song hai đêm liền không bắt được tín hiệu với bến, trên bờ pháo địch bắn liên tục, gần bờ 4 tàu địch thay nhau tuần tiễu. Thuyền trưởng quyết định cho tàu tạm lánh ra hải phận quốc tế, đêm đến xuôi về hướng Nam. Hôm sau tiếp cận 1 thuyền đánh cá của dân, biết đây là vùng có quân giải phóng, ông hạ lệnh cho tàu cập bờ. Nguỵ trang tàu và triển khai phương án SSCĐ xong, ông cùng 1 đồng chí nữa lội vào bờ, may mắn gặp ngay chỉ huy bến Bông Văn Dĩa. Lúc này ông mới biết đã vào bến Bạc Liêu. Lực lượng của bến chờ sẵn nhanh chóng dùng xuồng ba lá bốc hàng suốt 2 ngày 1 đêm. Trả hàng xong, con tàu khẩn trương trở lại miền Bắc. Anh em trên bến lưu luyến tiễn đưa và tặng cho đoàn mấy buồng dừa nước. Lúc vào hàng nặng lo mắc cạn, lúc ra tàu quá nhẹ cứ chòng chành, phải bơm thêm nước vào. Đến ngày 4-5-1963, con tàu cùng đoàn thuỷ thủ đã trở về đúng nơi xuất phát. Chuyến đi thành công hơn cả mong đợi. Thuyền trưởng Vũ Tấn Ích cùng tập thể tàu được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai. Tiếp đó ngày 1-6-1963, Đội 6 lại lên đường.

Trong vòng 4 năm từ 1963 đến 1967, thuyền trưởng Vũ Tấn Ích đã chỉ huy 9 chuyến tàu không số. Ông kể: “Kham khổ, nhọc nhằn, những sự cố trên đường, những lần gặp địch, những lúc lạc bến, những ngày thả trôi đói, khát, say sóng… tôi đều nếm trải. Ra đi là xác định cảm tử nhưng chúng tôi luôn giữ nghiêm kỷ luật, nêu cao trách nhiệm, quyết tâm vượt mọi gian khổ hy sinh đưa vũ khí đến đích, vì miền Nam thân yêu. Trước khi lên đường, để giữ được bí mật hoàn toàn, không ai được tiếp xúc với bạn bè, người thân. Có đồng chí ra Bắc tập kết, xa nhà đã gần chục năm, nay về lại mảnh đất chôn rau cắt rốn mà không được bước lên bờ. Có đồng chí bất ngờ thấy vợ trong đoàn dân công ra chuyển vũ khí, đã lánh mặt xuống khoang tàu, ngậm ngùi nhìn qua cửa sổ trông lên… Tuy nhiên, không phải chuyến đi nào cũng xuôi chèo mát mái. Trong chuyến thứ ba, trên đường vào bến Cà Mau, ngang qua vùng biển Vũng Tàu, máy trưởng Tống Bửu Kiên báo cáo hết dầu, tàu chết máy. Kiểm tra phía sau, không phát hiện vết dầu loang. Liên lạc về Trung tâm không nhận được tín hiệu trả lời, tôi như ngồi trên đống lửa. Tình thế này buộc phải thả nổi con tàu, phương án 1 chờ trung tâm cử tàu tiếp dầu, phương án 2 chờ gặp tàu ngư dân mua dầu. 2 tuần mà chúng tôi cảm thấy dài hơn hai năm. Một trưa nọ, đồng chí Điển, thuỷ thủ tàu bỗng la lên có ngửi thấy mùi dầu, tôi đi kiểm tra, quyết định gỡ tấm bạt che hàng lên. Thì ra do đường ống dẫn bị bể, dầu chảy vào kho hàng. Sau khi kéo hàng lên mặt bong, bịt lỗ hổng, chúng tôi múc từng xô dầu đổ vào khoang chứa. Tàu lại tiếp tục chạy, về đến bến mới hay, Trung tâm đã triển khai cho một số tàu sau khi trả hàng mua dầu đi tiếp tế cho chúng tôi.

Đau đớn nhất là chuyến đi xuất phát ngày 6-7-1967, sau 11 ngày trên biển, gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây, chúng tôi vừa đánh trả vừa cơ động vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi). Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và Phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp nhận nhiệm vụ ở lại huỷ tàu, tôi và các anh em khác lên bờ đi bộ ra miền Bắc. Do bộc phá không nổ, 2 anh đã hy sinh, con tàu bị rơi vào tay địch. Đây là nỗi đau nhức nhối của Đoàn 125 Hải quân trên con đường vận chuyển vũ khí vào Nam và là vết thương luôn bỏng rát trong trái tim tôi, đến tận bây giờ”.

Sau chuyến đi đau thương đó, ông Vũ Tấn Ích chuyển lên bờ công tác. Năm 1982 nghỉ hưu với quân hàm trung tá, cán bộ Phòng tác chiến Quân khu 5 song ông vẫn tích cực tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương nơi cư trú (phường Hoà Thuận Đông, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng). Và trong ký ức người CCB đã ở tuổi “xưa nay hiếm” ấy vẫn nguyên vẹn những kỷ niệm về một thời trai trẻ gắn bó cùng những con tàu không số trên con đường huyền thoại - đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Nguồn: http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/56/58/58/82108/Default.aspx

Chúc các bác mạnh khỏe và có nhiều câu chuyện hay cho QSVN! ;D


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: DepTraiDeu trong 01 Tháng Bảy, 2009, 10:55:17 am
CBB
 Vũ Tấn Ích

(http://www.qdnd.vn/Upload//phucthang/2009/6/29/290609Thang13.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tranlam99 trong 01 Tháng Bảy, 2009, 11:23:49 am

Đau đớn nhất là chuyến đi xuất phát ngày 6-7-1967, sau 11 ngày trên biển, gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây, chúng tôi vừa đánh trả vừa cơ động vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi). Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và Phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp nhận nhiệm vụ ở lại huỷ tàu, tôi và các anh em khác lên bờ đi bộ ra miền Bắc. Do bộc phá không nổ, 2 anh đã hy sinh, con tàu bị rơi vào tay địch. Đây là nỗi đau nhức nhối của Đoàn 125 Hải quân trên con đường vận chuyển vũ khí vào Nam và là vết thương luôn bỏng rát trong trái tim tôi, đến tận bây giờ”.

Sau chuyến đi đau thương đó, ông Vũ Tấn Ích chuyển lên bờ công tác. Năm 1982 nghỉ hưu với quân hàm trung tá, cán bộ Phòng tác chiến Quân khu 5 song ông vẫn tích cực tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương nơi cư trú (phường Hoà Thuận Đông, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng). Và trong ký ức người CCB đã ở tuổi “xưa nay hiếm” ấy vẫn nguyên vẹn những kỷ niệm về một thời trai trẻ gắn bó cùng những con tàu không số trên con đường huyền thoại - đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Nguồn: http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/56/58/58/82108/Default.aspx

Chúc các bác mạnh khỏe và có nhiều câu chuyện hay cho QSVN! ;D

Các bác tầu không số à, theo tôi hiểu thì bác Vũ Tấn Ích đã bị kỷ luật sau vụ này phải không?


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 01 Tháng Bảy, 2009, 12:19:51 pm
Chào bạn Tranlam99!
Tôi xin cung cấp thông tin này: Mục tiêu chiến lược của ta thời đó là chuyên chở được vũ khí vào chiến trường vùng sâu, xa nơi các con đường vận chuyển khác không đến được và yêu cầu tối cao là Tuyệt đối bí mật[. Khi bị lộ phải hủy tàu, huỷ hàng không để địch bắt vì nếu bị bắt tàu, bắt người sẽ lộ con đường chiến lược này ( Con đường này đi ngay trước mũi địch nên chúng không ngờ tới ) Chính vì vậy việc bị địch bắt sống con tàu đầy hàng về triễn lãm ở Sài Gòn là một tổn thất rất lớn của đoàn TKS - Bạn hiểu đúng đấy.  Nhưng đối với chúng ta họ là những con người cảm tử của một thời anh hùng đáng để con cháu chúng ta ngưỡng mộ. tạm biệt bạn


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: chiangshan trong 01 Tháng Bảy, 2009, 12:34:44 pm
Một số hình ảnh về tàu 198 sau khi bị địch bắt ở Ba Làng An: http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1179.msg97618#msg97618


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 01 Tháng Bảy, 2009, 03:18:43 pm
   Sau thời gian anh Đê và chi Hồng kết hôn, đội tàu 56 chúng tôi liên tục nhận nhiệm vụ chở vũ khí vào chiến trường. Có chuyến tàu lọt thỏm vào vòng vây địch, như chuyến tết Mậu Thân 1968: Tàu 56 bị 3 con tàu khu trục Mĩ sơn màu ghi xám, đến bây giờ nếu tôi nhớ không nhầm, thì các tàu đó có số hiệu: 2882, 2884 và 2886; chúng bắn uy hiếp tàu ta như vãi đạn. Chốc chốc chúng lại đánh tín hiệu bắt ta phải dừng máy, để chúng cho người sang kiểm tra. Tình thế hết sức căng thẳng, chúng tôi ai nấy xác định: Sẽ là những người lính cảm tử trước bầy tàu giặc! Tôi và anh Đê cùng với các chiến hữu đã thực thi mệnh lệnh của thuyền trưởng: Nhanh chóng đặt kíp nổ vào các khối thuốc TNT, vào các quả bom chìm, thuỷ lôi và khói mù... Nhưng cuối cùng chúng chỉ bắn đe doạ, chứ chúng không không chủ trương bắn tiêu diệt. Vì mấy tháng trước đó chúng đã bắn nhầm nhiều tàu đánh cá của các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan...Ấy thế nhưng cũng  phải mất đến 3 ngày chúng mới từ bỏ hẳn kế hoạch đeo bám TKS 56. Và thế là đêm tết ấy, chúng tôi thoát được cái chết trong gang tấc; nhưng 3 con tàu của đồng đội chúng tôi: T235, T165 và T43 thì đành phải chấp nhận phương án: chiến đấu đến viên đạn cuối cùng!

   Thấm thoát từ cái đêm Tết đó đến hôm nay là đã 41 năm. Thời gian lùi về dĩ vãng đã xa, nhưng trong tâm trí tôi thì vẫn nhớ lắm hình ảnh anh Phạm Phong Đê bất chấp sóng gió, bất chấp đạn thù, anh vẫn tranh thủ bò đến vị trí tôi nhắc nhở: “Hãy bình tỉnh mà tra kíp nổ cho chính xác! Hãy bình tỉnh mà bắn cho trúng mục tiêu, để chúng biết trình độ của những pháo thủ TKS, Vệ nhé”! Anh cũng không quên nhắc lại câu nói đùa mà thường ngày tôi và anh tếu táo: Nếu trong cuộc chiến đấu lỡ một trong hai đứa hy sinh, thì đứa sống sót có nhiệm vụ về báo lại cho gia đình của đứa mất biết! Nhưng tôi nghĩ: nếu cái đêm ấy mà chúng nổ súng bắn tiêu diệt thật sự, thì cả khối thuốc TNT sẽ nỗ tung con tàu 56 ra thành những mảnh nhỏ; xác chúng tôi sẽ tan ra hoà trong biển cả, chứ còn ai sống nữa mà về quê hương?...Nhưng rất may là cái đêm ấy tàu 56 đã kịp phủ lưới đánh cá lên những ụ súng, trước khi chúng ập đến. Hơn nữa “màn kịch” giả danh tàu đánh cá nước ngoài diễn quá ngoạn mục, nên đến bây giờ tôi mới là nhân chứng kể cho bạn đọc biết về những chuyến đi “không hẹn ngày trở lại” của TKS! 

   Và, điều tôi kể trên không may đã đến với anh Phạm Phong Đê (thiếu uý, thuyền phó): Anh đã ngã xuống trong một chuyến đi khi tàu đang trên đường vào chiến trường miền Nam, đêm 28.9.1972. Phần mộ anh ngày đó theo như đồng đội kể, thì anh đã được ban chỉ huy tàu đem vào mai táng trên một hòn đảo nhỏ thuộc vùng biển đông Bắc của Việt Nam (bởi chuyến đó tôi đã lên khỏi tàu và đang là học viên của một Học viện Quân sự).

   Sau năm 1975, tôi có ý định xin phép đơn vị trở ra miền Bắc và tìm đến gia đình anh ở Quảng Bình để báo tin và kể về cuộc đời anh hùng của anh Đê cho chị Hồng (vợ anh Đê) biết. Nhưng chiến tranh biên giới phía Nam, phía Bắc lại nổ ra dồn dập nên kế hoạch đó tôi chưa thực hiện được. Và, đến hôm nay thì sức khỏe đã không cho tôi có cơ hội được thực hiện nguyện ước đó...

   Nhân ngày Thương Binh Liệt sĩ (27.7.2009) năm nay, tôi viết bài báo này coi như một nén tâm nhang thắp cho anh Phạm Phong Đê- người bạn thân của tôi và nhiều đồng đội, một thời cùng vào chiến trường miền Nam trên TKS 56 Anh hùng.
                                                                 Trần Hậu Vệ (Trần Tiền Vệ)- nguyên thuỷ thủ TKS 56


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 01 Tháng Bảy, 2009, 04:09:33 pm
Sau chuyến tàu đó như tôi biết, đ/c ích bị kỷ luật khiển trách nội bộ (do Tư lệnh Qchủng chỉ đạo) bởi lúc đó có thể nói là rất hiếm cán bộ thuyền được chọn lựa về đoànTKS. Nên đành chấp nhận sự lỗi lầm hết sức lớn: bởi từ vụ của đ/c Ích trở đi, đoàn TKS phải chịu nhiều tổn thất mất mát lớn, mà tiêu biểu là những chuyến đi của các tàu 235, 165, 43 và cả tàu 56 của tôi trong cái đêm Tết mậu thân 1968: 3 con  tàu ra đi trong dịp đó duy nhất chỉ có tàu 56 của chúng tôi thoát hiểm được. Nhưng các đ/c có biết không: tàu 56 đã mưu mẹo đánh lừa được 3 tàu khu trục mỹ đêm hôm đó và cả 3 ngày sau, khi tàu tôi treo cờ Nhật Bản chạy lên hướng đảo Ô-ki-na-oa, chúng mới buông tha con mồi. Thật lòng, không sợ mất ruột mà nói, thì Bác Ích rất có công, nhưng cũng có tội:Bởi không ai như bác một mình làm hỏng cả 3 con tàu (2con mắc cạn phải huỷ ngoài đảo Trường Sa;1 con không đánh bộc phá dứt điểm ở bến Ba Làng, nên địch đã lấy toàn bộ vũ khí tàu 198 về sài Gòn khoe mẻ với dân chúng: cái gọi là sức mạnh của Quân lực Việt Nam cộng hoà...
     Nhưng cái gì đã qua thì nó đã xa, nhắc lại chỉ thêm đau lòng đồng đội. Bởi thế, nay đ/c hỏi thì tôi xin có đôi lời mạo muội...rất mong đồng chí thông cảm, nếu có gì chưa thoả mạn thì xin hỏi thêm những người trong cuộc vậy. Kính chúc đ/c khoẻ- Trần Hậu Vệ (bút danh là Trần Tiền Vệ).
     


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: chiangshan trong 01 Tháng Bảy, 2009, 05:51:32 pm
Chú cho cháu hỏi, TKS của ta lúc đó vũ trang như thế nào ạ?


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tranlam99 trong 01 Tháng Bảy, 2009, 06:12:48 pm
Các bác tàu không số à, cảm ơn các bác đã cho biết rõ thông tin, tôi nghĩ sau những chiến thắng đều luẩn quất đâu đó những hy sinh mất mát và cả thất bại nữa. Là con người, là chiến sỹ và kể cả những người cảm tử cũng có thể có thất bại - phải không các bác. Chính những lời kể sự thật mới là nhửng dòng máu và hoa .


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: rongxanh trong 01 Tháng Bảy, 2009, 08:40:24 pm
Cái này em đã post tại Topic Kỷ vật các chiến sỹ trong KCCM

http://www.quansuvn.net/index.php?topic=5149.0

nay em đưa lại lên đây

----------------------------------

Tiếp về 1 chuyến tàu của Đoàn tàu không số (Lữ đoàn 125 Hải Quân) vận chuyển vũ khí cho miền Nam, không may bị địch phát hiện và đánh chìm.

DIễn biến như sau:

Vào ngày 16/2/1965, phi công trực thăng Mỹ bay dọc theo bờ biển Nam Việt Nam đã phát hiện ra 1 con tàu lạ, là tàu vận tải, tải trọng cỡ 100 tấn, đ][cj che phủ rất cẩn thận ngoài khơi tỉnh Phú Yên. Máy bay chiến đấu đã tiếp cận con tàu và đã bị súng máy bắn lên từ bong tàu và từ trên bờ. Lực lượng không quân VNCH đã tấn công con tàu, đồng thời binh lính VNCH cũng được điều đến khu vực. Họ đã tiêu diệt con tàu sau khi có sự chống trả nhỏ từ phía con tàu.

Con tàu đã bị chìm ở vùng nước nông. Tài liệu tìm thấy trên tàu và trên thân thể của 1 vài lính Bắc Việt trên tàu đã xác định con tàu đến từ Bắc Việt Nam. Tờ báo tìm thấy trên cabin nguồn gốc từ Hải Phòng và đề ngày 23/1/1965. Khoảng 100 tấn vũ khí đã được tìm thấy gần tàu, gồm:
- Khoảng 1 triệu viên đạn súng bộ binh
- Hơn 1000 lựu đạn
- Khoảng 250 kg thuốc nổ TNT
- 2000 viên đạn súng cối 82mm
- 500 lựu đạn chống tăng (đạn B40?)
- 500 viên đạn DKZ 57
- Hơn 1000 viên đạn DKZ 75
- 1 DKZ 57
- 2 trọng liên
- 2000 súng Mauser 7.95 mm
- Hơn 100 carbin 7.62 mm
- 1000 súng tiểu liên
- 15 súng trung liên
- 500 súng trường
- Khaỏng 250 kg dụng cụ y tế (Mang nhãn hiệu từ Bắc Việt, TRung Cộng, Tiệp Khắc, Đông Đức, Liên Xô và các nước khác).

Đây là ảnh tàu, vị trí bị đắm:

(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/KCCM/125-2.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: rongxanh trong 01 Tháng Bảy, 2009, 08:40:51 pm
Tiếp...

Sổ Sức khỏe của 1 chiến sỹ đã hy sinh trên tàu:
(Trong 1 tài liệu khác mang cùng tên, thể hiện Quân đội Nhân dân VN cho phép thượng sỹ (Segt?) Nguyen Hoang Long được rời Hải Phòng vào tháng 11/1964)

(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/KCCM/1251.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: rongxanh trong 01 Tháng Bảy, 2009, 08:41:28 pm
Tiếp

Hải đồ tìm thấy trên con tàu:

(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/KCCM/1252.jpg)



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: rongxanh trong 01 Tháng Bảy, 2009, 08:41:49 pm
Các giấy tờ tìm thấy trên thân thể quân nhân Nguyễn Hoàng Long:
Giấy nghỉ phép của quân nhân Nguyễn Hoàng Long. Phần đầu tài liệu cho thấy quân nhân này thuộc đơn vị 1270 QUân đội nhân dân Việt Nam. Nguyễn Hoàng Long đã rời Hải Phòng từ khoảng 19/9 đến 25/9/1965.
Phía dưới là 1 trang từ giấy tờ ghi chép của Đảng Cộng sản của trung sỹ Nguyễn Hoàng Long, chứng tỏ là quân nhân của Sư đoàn 338. Một chú thích khác "làm nhiệm vụ tại phương xa - on mission in distant areas", cách diễn đạt sử dụng tại Hà Nội nghĩa là Nam Việt Nam.


(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/KCCM/1253.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: rongxanh trong 01 Tháng Bảy, 2009, 08:42:12 pm
Ảnh trên là nhãn tìm thấy trên 1 trong số nhiều hộp hàng quân sự tìm thấy tại vị trí tàu chìm, chứng tỏ nguồn cung cấp là Hà Nội.
Ảnh dưới là 1 phần tài liệu thu được trên tàu, cho thấy nó thuộc về Cơ quan chỉ huy Hải quân Bắc Việt, đoàn 125. Nó chú thích K35, có thể là số hiệu của con tàu hoặc đơn vị này.

(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/KCCM/1254.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 01 Tháng Bảy, 2009, 11:16:15 pm
Tàu không số ngày ấy được trang bị hỏa lực cũng đủ mạnh:Tàu cao tốc (tốc độ cao 20- 25 h/ly/giờ), giả dạng tàu chở hàng, có 2 cabine thì được trang bị 3 khẩu súng máy 14li 2 nòng, ngoài ra còn có hỏa tiễn vác vai, súng DKZ và súng AK cá nhân. Đặc biệt lượng chất nỗ TNT thì khá nhiều, để khi cần lao thẳng tàu ta vào tàu giặc, rồi chập giây điện cho cả khối thuốc nổ, tiêu diệt luôn cả tàu đối phương. Thế đấy các bạn trẻ. Hẹn dịp sau tôi sẽ kể nhiều hơn. Chào các bạn!  ::)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 02 Tháng Bảy, 2009, 12:08:34 pm
Chào đồng đội!
Đoàn tàu không số ( Đường Hồ Chí Minh trên biển ) và đoàn 559 ( Đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ ) là anh em song sinh do Bộ chính trị, quân ủy trung ương chỉ thị thành lập vào năm 1959.
Nhân dịp nguyên trung tướng Đổng Sỹ Nguyên - Tư lệnh đoàn 559 đến nghỉ dưỡng tại Tuàn Châu. Hội truyền thống Đường HCM trên biển đã đến thăm hỏi. Đ/C Đổng Sỹ Nguyên cho biết do phải giữ bí mật nên hoạt động của TKS không được phép công khai vì vậy các đồng chí phải nhanh chóng tuyên truyền những thông tin, hoạt động, thành tích của TKS để nhân dân cả nước biết thêm. Hiện nay chỉ còn ít nhân chứng về việc lập con đường vận chuyển vũ khí vào chiến trường miên nam bằng đường  biển.
Ảnh Hội truyền thống đường HCM trên biển thăm Trung tướng Đổng Sỹ Nguyên tại Tuần Châu. Cac bac sua giup cho anh to ra, toi loay hoay mai ma khong duoc(

(http://i688.photobucket.com/albums/vv250/quanlem08/IMG_2834.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 02 Tháng Bảy, 2009, 02:58:30 pm
   Dẫu biết đồng đội của chúng tôi ngày ấy đi về Nam trên những con tàu không số (TKS), không may gặp tàu địch phong toả chặn đánh, ai hy sinh thì được bỏ vào trong một cái túi ni-lon, còn được gọi là quan tài, rồi theo nghi thức của của người lính TKS: thả xuống biển để tàu tiếp tục hành trình về phía trước. Bây giờ đi tìm lại bạn là chuyện hết sức khó khăn, bởi lính tàu làm gì có đất đai, có mồ mã... Âý thế nhưng ngày đó chúng tôi vẫn đặt niềm tin và hy vọng ở những con sóng biển, với những luồn nước thuỷ triều, biết đâu những bàn tay vô hình đó sẽ nâng đỡ đưa bạn mình vào mọi bến bờ...Vì thế, từ sau ngày đất nước thanh bình, Hội CCB Đoàn TKS ở 3 miền Bắc, Trung, Nam vẫn tổ chức đi tìm kiếm đồng đội!

   Và những chuyến đi gần đây của Đoàn CCB ở khu vực miền Trung (Đà Nẵng- Quảng Nam), do trung tá Vũ Tấn Ích nguyên thuyền trưởng, hiện về hưu ở Đà Nẵng, và trung tá thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh, ở Phú Yên làm trưởng đoàn, đã dẫn anh em về các bến tàu vào trước đây, tìm hiểu xác định được một số mộ chí đồng đội, ngày ấy đã trôi dạt vào bờ và đã được nhân dân vớt lên chôn cất chu đáo: Đó là mộ liệt sĩ Phạm Chuyên Nghiệp, nguyên thuyền phó tàu 198, hy sinh vào đêm 14.7. 1967 tại địa phân xã Bình Châu, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi). Thi hài anh Nghiệp là một trong số những thủy thủ may mắn trôi dạt vào bờ và đã được anh em dân quân du kích vớt lên chôn cất chu đáo.

   Người có công chăm sóc phần mộ liệt sĩ suốt 35 năm nay là bác Nguyễn Tường, nguyên Bí thư chi bộ thôn Bình Châu trong thời đánh Mĩ, bác đã lập bia mộ, vẽ sơ đồ hết sức chu đáo, nên hôm chúng tôi vào không phải lần mò tìm kiếm mất nhiều thời gian. Vào một ngày đầu tháng 7. 2002, gia đình liệt sĩ Nghiệp ở thôn An Lão, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) vào đưa hài cốt anh về quê, ai nấy không cầm nỗi nước mắt về tấm lòng của gia đình bác Nguyễn Tường và bà con ở thôn Bình Châu nói riêng, nhân dân Quảng Ngãi nói chung, đã coi sóc mộ liệt sĩ Nghiệp suốt 35 năm nay.

   Ở bến Lộ Giao (Bình Định) vào cuối năm 1962, có một chiếc tàu gỗ do các đồng chí Châu, Đạt, Hường chỉ huy, chở 20 tấn vũ khí vào. Tuy chuyến ấy tàu bị mắc cạn ngoài cửa biển, nhưng hàng hoá thì đã được dân quân du kích địa phương giải phóng lên bờ an toàn, sau đó tàu được phá huỷ, giữ được bí mật tuyệt đối. Nhưng một số thủy thủ khi lên bờ đã bị địch phục kích sát hại. Vì thời gian đã quá lâu, chiến tranh bom đạn kẻ thù cũng đã san lấp, làm mất vị trí mộ chí của các anh, nên hôm nay chúng tôi đi kiếm tìm đã nhiều lần vẫn không có kết quả. Một số đồng đội đi trên các con TKS mang mật danh 41, 176, 43...vào các bến Đạm Thuỷ (Phổ An- Quảng Ngãi), Bình Đào (Quảng Nam), Hố Chuối (Đà Nẵng)...vào các năm chiến trường đang ở vào giai đoạn ác liệt, nên khi các anh ở lại cảm tử với con tàu, thi thể các anh đều tan biến, hoà trong sóng nước. Như trường hợp các thuỷ thủ Dương Văn Lộc, thôn Sâm Linh, xã Tam Quan, huyện Núi Thành (Quảng Nam); Trần Văn Nhợ, quê Cát Khánh, huyện Phù Cát (Bình Định)...sau khi đặt kíp nổ phá huỷ tàu, thi thể của các anh duy nhất chỉ có một ống chân văng lên bờ. Cái ống chân đó, ngày ấy một số anh em du kích nói là chân của chú Lộc. Nhưng sau này gia đình của liệt sĩ Lộc nói, đó là chân của chú Nhợ quê ở Bình Định (bởi theo như lời một số anh em du kích ngày đó nói, cái chân đó có nhiều lông (theo lời nói của anh Dương Văn Thưởng- con liệt sĩ Lộc, lúc đó công tác ở huyện uỷ Tam Kỳ).

   Đối với liệt sĩ Phạm Long, quê Mỹ Tài, Phù Mỹ (Bình Định) hy sinh vào ngày 3.11.1967 trong khi làm nhiệm vụ trinh sát mở bến mới ở Quảng Ngãi, thì Đoàn CCB Hồ Đắc Thạnh, hiện ở thành phố Tuy Hoà (Phú Yên), đã tìm được mộ chí. Và đồng chí Thạnh đã thông báo cho thân nhân liệt sĩ, hiện sinh sống ở thành phố HCM ra cất bốc, đem về nghĩa trang thành phố mai táng, cách đây đã 6 năm. Trường hợp 15 liệt sĩ hy sinh ở bến Vũng Rô, trên con TKS 235, do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh, anh hùng LLVTND quê ở xã Điện Nam, huyện Điện Bàn (Quảng Nam); và chính trị viên Nguyễn Văn Tương, quê Điện Hoà, Điện Bàn chỉ huy đêm Tết Mậu Thân 1968, thì hầu như thi thể của các anh, đều tan biến đi cùng với xác con tau, ngay cái đêm định mệnh huyền thoại ấy! Nhưng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, có nhiều gia đình người thân của liệt sĩ tìm đến Hội CCB ở khu vực Đà Nẵng hỏi về mồ mã, nơi chôn cất mai táng liệt sĩ để cất bốc đem về quê quán. Nhưng chúng tôi cũng hoàn toàn bất lực, đành chia sẽ với các gia đình niềm tiếc thương vô hạn...

   Hôm nay nhân ngày T.B.L.S (27.7. 2009), với tấm lòng biết ơn vô hạn của mình đối với những đồng đội một thời cùng đi về Nam trên con Tàu không số, tôi viết bài này xin được coi như một nén tâm hương, kính dâng lên hương hồn tất cả các anh.  (Trần Hậu Vệ)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tuaans trong 02 Tháng Bảy, 2009, 03:10:22 pm
Bác đưa lên làm gì!
Bây giờ bên Hải quân còn nhiều chuyện lắm chưa đến lúc chăm chút cho 1 cá nhân như thế đâu!  :(


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 02 Tháng Bảy, 2009, 03:31:58 pm
Bác đưa lên làm gì!
Bây giờ bên Hải quân còn nhiều chuyện lắm chưa đến lúc chăm chút cho 1 cá nhân như thế đâu! 

Theo bạn thì lúc nào là lúc cần đưa những câu chuyện này ra? Vào QSVN, vào chương mục xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước là để kể về những hồi ức, những kỷ niệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chúng ta có tham gia giải quyết công việc của HQ đâu? . TKS


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tuaans trong 02 Tháng Bảy, 2009, 03:53:42 pm
Àh, tui nói bạn rồng xanh í, không nói bác đâu!

Còn chuyện của bác kể mà không có tư liệu hình ảnh, nhân chứng, vật chứng đi kèm giống bạn rồng xanh đã pót thì em nghĩ đưa vào hồi ức - hồi kí cũng phải!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 03 Tháng Bảy, 2009, 10:33:44 am
(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/1.jpg)

Tưởng nhớ hương hồn anh!
         
Liệt sĩ Phạm Phong Đê hy sinh ngày 28.9.1972, thuỷ thủ TKS mang mật danh 56.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 03 Tháng Bảy, 2009, 11:00:05 am
Cái này em đã post tại Topic Kỷ vật các chiến sỹ trong KCCM

http://www.quansuvn.net/index.php?topic=5149.0

nay em đưa lại lên đây

 Chào đồng đội Rồng Xanh! Tôi thực sự ngạc nhiên ( xốc ) khi thấy các tư liệu bạn pot lên về tàu không số chúng tôi. Trong bài đầu mục lính 1972 tôi viết về cảm tưởng lần đầu tiên xuống tàu tôi được thuyền trưởng dẫn đi giao nhiệm vụ và chỉ dẫn các vị trí trên tàu. Tôi có nói không biết chuyến tàu đó sẽ đi đâu nhưng tôi nhìn thấy những hòm đạn, những hộp các tong ghi dòng chữ Máu khô - Hội LHPN Việt Nam gửi phụ nữ khu 9 thì tôi đoán là đi Cà Mau nhưng không biết là tàu chở nhiều loại hàng giá trị đến vậy. Cũng có thể những tài liệu này đã ở sách báo hoặc trang WEB nào đó nhưng mình chưa được biết. Đồng đội chỉ cho tôi mục nào nói về những chuỵện như vậy nhé. Cảm ơn nhiều

Cảm ơn bạn nhiều. TKS


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 03 Tháng Bảy, 2009, 03:57:23 pm
Rất vui vì bác Trantienve (và cả Tranhauve) gia nhập QSVN. Vậy là nhờ QSVN bác đã "xóa mù tin học" rồi đấy. Mong rằng một ngày gần đây QSVN lại đón thêm các thành viên mới là Trần Tiền Đạo và Trần Thủ Môn thì hay quá ta.
Đọc các kí ức của bác, tôi thấy xúc động quá. Hi vọng sẽ đều đặn được đọc nhiều kỉ niệm sâu sắc của bác


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 05 Tháng Bảy, 2009, 10:42:42 am
Xin chào và ... Rất cảm ơn bạn quydede, bạn Rồng Xanh!
Là lớp sau của TKS, nhập ngũ năm 1972, chỉ được tham gia 2,3 năm trên tàu, không đi thành công một chuyến nào vào miến nam nhưng tôi được vinh dự sống và làm việc với phần lớn những người trong câu chuyện đã được bạn số hóa đưa lên. Người trong cuộc thời điểm đó cũng không biết hết những câu chuyện đó đâu các bạn ạ vì lý do bí mật và không có thông tin như bây giờ. Tàu nào đi lâu lâu không thấy về là chúng tôi truyền tai nhau " Đi toi rồi" Chủ nghĩa anh hùng cách mạng về TKS thể hiện trên truyện, thơ của các nhà văn thật hoành tráng còn chủ nghĩa anh hùng cách mạng của những người trong cuộc là: Nhiệm vụ. Có lệnh là đi, may thì sống trở về để lại tiếp tục đi cho đến ngày thống nhất. Người lính nào cũng có kỷ niệm đáng kính trọng, trong số các anh cựu TKS còn sống nhiều người chưa kể hoặc chưa được đưa lên sách báo. Ở HN cũng có một liệt sỹ tên là Nguyễn Hữu Hùng quê ở Tay Mỗ HN đã hy sinh trong một chuyến chở hàng vào nam nhưng chưa ai viết về anh ấy. Tôi đang tìm tài liệu để viết. Hội TKS chúng tôi mới chỉ đến thắp hương hàng năm vào ngày giỗ của anh ấy mà thôi. Còn hơn một chục cựu TKS những năm 60 mà chuyện của họ nghe như đùa mà lại thật 100% đang sống ở HN. Tôi sẽ cố gắng viết và đưa chuyện của họ lên diễn đàn này.  Một lần nữa cảm ơn các bạn đã quan tâm và pot những tư liệu quý giá của đoàn tàu không số chúng tôi lên QSVN. Năm 2011 nhà nước sẽ kỷ niệm trọng thể ngày mở con đường vận chuyển vũ khí trên biển đông như kỷ niệm ngày truyền thống đoàn 559, Hẹn gặp lại các bạn 


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 05 Tháng Bảy, 2009, 05:07:12 pm

Xin post bài viết "Đường Hồ Chí Minh trên biển: Diệu kỳ con đường mang tên Bác" của tác giả Nguyễn Bá trên báo "Cà Mau online"

Chuyến mở đường lịch sử trên biển mang tên Bác Hồ vĩ đại của Cà Mau khởi hành chiều 1/8/1961 từ bến Cá Mòi - mũi Cà Mau, do đồng chí Bông Văn Dĩa (Thuyền trưởng - Bí thư chi bộ) cùng thủy thủ đoàn gồm 7 người: Tư Phước, Năm Tân (Năm Kỷ), Sáu Dũng, Bảy Cựa, Ba Thành, Tư Đáng, Tư Quang. Chuyến đi do một bộ phận trực thuộc Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Đạo (Bảy Đường) và đồng chí Nguyễn Thanh Trầm (Tư Lưới) tổ chức. Đồng chí Phan Ngọc Sến - Mười Kỷ (Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau) thay mặt Khu ủy và Tỉnh ủy trực tiếp giao nhiệm vụ, xuống tận bến tiễn đưa
 
Tàu vượt qua giông tố (vì phải đi ngoài khơi, cách bờ cự ly cho phép 300 cây số, để xa tầm quan sát dầy đặc của địch), tới cửa Nhật Lệ - Quảng Bình chiều tối ngày 7/8/1961. Chỉ 6 ngày xuyên biển, ngư phủ - chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa Bông Văn Dĩa đã nối liền Nam Bắc bằng chiếc ghe gắn máy (có buồm) trong niềm vui khôn xiết của Bác Hồ, của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bộ Tổng tham mưu, Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam. Chiếc ghe thần thánh ấy mang ý chí và tấm lòng Cà Mau ra Hà Nội, gắn lại sợi dây cách bức hơn nửa thập kỷ - từ ngày ta tập kết quân ở bến sông Ông Đốc chuyến cuối cùng (8/2/1955).
Chuyến đi bước ngoặt, nối liền bắc - nam
Đón nhận các đồng chí vào lòng miền Bắc, ngày 11/8/1961, người đầu tiên là đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều cán bộ cao cấp khác, cùng trao đổi tình hình nhiệm vụ và chuẩn bị cho những chuyến vận chuyển vũ khí Bắc - Nam, tạc vào lịch sử vệ quốc anh hùng. Ngày 10/4/1962, Trung ương cử Trung tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh cùng đồng chí Đoàn Hồng Phước (Đoàn 125 Hải quân Việt Nam) tổ chức chuyến trở về Nam (với chiếc ghe cũ, được gia cố lại) cùng thủy thủ đoàn gồm 6 người: Bông Văn Dĩa, Năm Kỷ, Tư Phước, Sáu Dũng, Bảy Cựa và Hai Tranh (đoàn Trà Vinh, cũng ra Bắc nhận vũ khí như Cà Mau, nhưng được điều qua đoàn Cà Mau về Nam lần đó).
Thuyền trưởng Hai Dĩa ghi nhớ mệnh lệnh và mật hiệu, mật mã của Bộ Tư lệnh hải quân và chỉ thị của Trung ương gởi cho Khu ủy Khu 9, Tỉnh ủy Cà Mau (phải nhớ, không được ghi chép giấy bút, tuyệt đối giữ bí mật). 7 giờ sáng ngày 15/4/1962, ghe chở sứ mạng của Tổ quốc chiến đấu, vượt qua cù lao Thu. Ngày 18/4/1962 vào đến cửa Vàm Lũng - Rạch Gốc, xã Tân Ân an toàn.
Một trung đội có vũ trang do đồng chí Phan Văn Nhờ (Tư Mau, sau là Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân) chỉ huy đến đón ghe đồng chí Hai Dĩa từ miền Bác trở về. Các anh Mười Khẩn (Bí thư Khu ủy), Tư Bình, Bảy Thạng, Mười Kỷ và nhiều anh khác trong Khu ủy, Quân khu ủy đến nghe đoàn thủy thủ báo cáo. Từng chi tiết nhỏ nhất đến ý kiến chỉ đạo của Trung ương được tất cả tiếp nhận từng lời, trân trọng và vui sướng đến trào nước mắt. Tây Nam Bộ và Nam Bộ kiên trung Thành đồng Tổ quốc như lớn mạnh hơn lên, dù chưa nhận vũ khí ngay trong chuyến này - chuyến sứ giả.
Trở về tọa độ cũ xóm Cái Xép, xã Viên An, đồng chí Bông Văn Dĩa cùng đồng chí Bảy Đường, Tư Mau bàn tính cách tìm bến trung chuyển (nơi thích hợp đổ vũ khí do Hải quân Việt Nam - Đoàn tàu 125 chuyển vào) để từ đó phân phối các nơi.
Lưu danh bến vàm lũng
Chuyến đi tìm bãi bến này gồm 4 đồng chí: Hai Dĩa, Tư Mau, Hai Tranh và Sà Vĩnh (đảng viên, gốc Thái Lan), khởi đi chiều 19/5/1962 - ngày sinh của Bác. Đến nhiều hải đảo gần xa khắp vịnh Thái Lan (Thổ Chu, Hòn Ông, Hòn Bà, Nam Du, Hòn Nồm, Hòn Chuối, Hải Tặc...) nhưng không có nơi nào hội đủ yêu cầu làm bến trung chuyển của ta. Thế nên, theo đề xuất của đồng chí Bông Văn Dĩa, ban lãnh đạo nhất trí chọn Vàm Lũng (thuộc rạch Kiến Vàng, xã Tân Ân).

Cửa Lũng được thăm dò lại, đo đạc độ sâu, chiều rộng khi nước lớn, ròng, rông, kém. Độ che phủ, độ dầy của cây rừng, an toàn dân cư, thói quen săn bắn, đánh cá, mua bán của ghe xuồng các nơi... Nói chung Lũng là bến lý tưởng, được chọn làm bến 1 (Giá Lồng Đèn gần đó là bến 4). Khu ủy báo cáo Trung ương bến này. Các đồng chí Tư Đức (Nguyễn Văn Phán), Ba Hòa, Sáu Toàn (Chung Thành Châu), Bảy Đường... trực tiếp xuống bãi, chuẩn bị nơi ăn ở, kho bãi và thành lập Ban chỉ đạo.
Đồng chí Bông Văn Dĩa lại được Trung ương gọi đích danh ra Hà Nội để bàn việc vận chuyển. Lại một chiếc ghe 6 tấn (gắn máy và buồm) rời Vàm Lũng ngày 26/7/1962 (với 6 người: Hai Dĩa, Sáu Danh, Sáu Thông, Năm Kỷ, Bảy Cựa, Sà Vĩnh). Đồng chí Hai Dĩa làm Bí thư chi bộ với 3 đảng viên trong thủy thủ đoàn là Năm Kỷ, Sáu Danh và Sà Vĩnh.
Chuyến này cũng gặp giông bão dữ dội, ghe nhỏ yếu lại không có hải đồ và la bàn, phải vượt đối thủ thiên nhiên cường bạo. Phải thắng biển bằng lý tưởng cách mạng và tài đi biển truyền đời của người Cà Mau - "đi đến nơi, về đến chốn" như lời chúc của Võ Đại tướng. Đêm 1/8/1962 ghe tới Nam Định, lại gặp đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư, báo cáo tận tường về đặc điểm Vàm Lũng và đồng chí Bông Văn Dĩa nhận nhiệm vụ kẻ đường thần tốc hành quân cho Đoàn 125 Hải quân Việt Nam.
Một đội vận tải đặc nhiệm được thành lập gồm: Lê Văn Một (Út Một) - thuyền trưởng, Năm Sao - máy trưởng, Tư Bé - máy phó, Hai Sơn, Ba Hùng (đoàn Bến Tre), Sáu Lai, Sáu Rô (người tập kết), Thanh Đen (Bà Rịa), Ba Thành, Năm Kỷ và Hai Dĩa (đoàn Cà Mau); Tám Kết (đoàn Trà Vinh). Mười hai chiến sĩ ưu tú được chọn cho chuyến vận chuyển vũ khí về Nam đầu tiên - do đồng chí Hai Dĩa làm Bí thư chi bộ.
Bình minh ngày 20/10/1962, ngày đánh dấu sự kiện lịch sử tuyệt đẹp này. Anh hùng Bông Văn Dĩa viết từ 2/10/1980: "8 giờ đêm 11/10/1962, chúng tôi rời bến Đồ Sơn - Hải Phòng đi theo đường kẻ trên bản đồ. Đến đảo Hải Nam thì gặp gió mùa đông bắc thổi mạnh, nên phải đi theo đường kẻ số 2. Đi đến Hòn Đồ phía cù lao Thu thì máy trục trặc, chúng tôi phải thả trôi một đêm để sửa máy, nhưng vẫn không chạy mau được như cũ.
Đến 6 giờ ngày 16/10/1962, tàu chúng tôi vào Lũng (ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân), gặp đoàn xuồng của đồng chí Tư Đức (Nguyễn Văn Phán). Gặp nhau rất mừng rỡ. Khi tàu lọt vô tới cửa Lũng thì tôi lập tức báo tin vui cho Đoàn 125 Hải quân và Trung ương biết là chúng tôi tới nơi an toàn. Đưa tàu vào đến nơi quy định là rạch Chùm Gọng, đậu xong, lập tức cho người của ta đem ghe xuồng tới bốc sang hàng (tức vũ khí), cộng chung 35 tấn".
Nối dài con đường huyền thoại
Một chuyến đi trót lọt "đến nơi đến chốn an toàn" nhờ trí tuệ và công sức của cả lực lượng Dân Chính Đảng và Hải quân Việt Nam cả hai khu vực bến bãi hai đầu Nam - Bắc, với sự phối hợp nhịp nhàng chưa từng thấy...
Chương mở đầu sử tích coi như suôn sẻ. Thật ra không phải chỉ nhẹ nhàng, đơn giản như những dòng sử ta từng viết. Thực tế chiến trường bấy giờ cam go, gian khổ, hiểm nguy không sao phục hiện được. Ngoài bão tố mà phương tiện ta bé nhỏ, còn tàu chiến, hải thuyền và các loại máy bay trinh sát biển, các hạm đội lớn nhỏ của giặc neo đậu từng chùm như thành phố ở khắp vùng biển. Hạm tàu Ma-đốc, Mixway với 170 tàu tuần, phóng lôi, tuần dương hạm lớn nhỏ cộng với 5.000 hải thuyền, chúng khả dĩ kiểm soát từng thước biển. Thế mà ta vượt qua tất cả. Kỳ diệu thay, con đường mang tên Bác Hồ vĩ đại trên biển - vận chuyển vũ khí Bắc - Nam.
Khơi dòng bởi chuyến đầu trót lọt, Trung ương lập tức cho 3 tàu theo con đường mà đồng chí Bông Văn Dĩa đã vạch và đã đi thành công. Việc tiếp đón 3 tàu sau vào Lũng cũng chu đáo, an toàn. Hàng trăm tấn vũ khí ngời thép xanh hân hoan xếp vào kho bến, chờ phút ra trận với chiến sĩ giải phóng quân khắp chiến trường Tây và Đông Nam Bộ, chiến trường Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Bến Tre, Vĩnh Long, Rạch Giá, Đồng Tháp... Từ kho Biện Nhạn (thuộc xã Viên An Đông, huyện Ngọc Hiển) tỏa đi khắp nơi…./.





Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 05 Tháng Bảy, 2009, 10:26:02 pm
(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/54167.jpg) Năm chiến sĩ còn lại trong trận chiến đấu năm 1968 của tàu 235 tại vùng biển Hòn Hèo (Nha Trang): Lê Duy Mai, Hà Minh Thật, Nguyễn Long An, Nguyễn Văn Phong, Lâm Quang Tuyến - Ảnh tư liệu.

    Dẫu bây giờ ở nơi này, nơi kia người ta dựng lên hàng trăm, hàng ngìn cái miếu thờ và trong miếu có bày đủ lễ vật, kể cả của ngon vật lạ...thì theo lời anh Hà Minh Thật, năm trong số 18 thuỷ thủ sống sót trên con tàu không số (TKS) 235 do người anh hùng thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy đánh nhau với nhiều tàu chiến Mỹ- ngụy ở Hòn Hèo (Nha Trang) đêm 28.2.1968, cách đây 41 năm, thì cái miếu thờ của má Phú Yên lập trên rẩy bắp, cùng với những cái miếu của các “bác tài” (lái xe) xây dựng dọc trên Đèo Cả (đèo nằm tại ranh giới giữa tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa)  là "linh thiêng” và có ý nghĩa nhất. Bởi nó là những cái “kho hậu cần” cung cấp cho các chiến sĩ quân giải phóng nằm phục kích quân giặc hay khi họ lạc đơn vị; như trường hợp năm thuỷ thủ trên con tàu không số, đó là các anh: Nguyễn Long An, Lâm Quang Tuyến, Lê Duy Mai, Nguyễn Văn Phong và Hà Minh Thật.

     Bằng giọng trầm ấm, sâu lắng và biết ơn, anh Hà Minh Thật kể tiếp câu chuyện đầy cảm động về cái miếu thờ:

     Thời gian đầu người nào người ấy vết thương còn rỉ máu, mình mẩy còn đau nên chưa ai lê bước ra khỏi mép biển, đành phải cố thủ trong cái hang đá nằm dưới chân Đèo Cả. Nguồn sống chính của các anh lúc này nhờ vào những ngọn lá, đọt chuối và những lễ vật dâng cúng trong cái miếu thờ của các “bác tài” dựng nên nơi những đoạn đườg thường xảy ra tai nặn. Trong những cái miếu thờ đó có đủ các loại hoa quả, nắm cơm, gói bánh và có cả gói muối trắng, lon nước ngọt...nhờ thế mà năm thuỷ thủ mới có cái ăn hàng ngày. Thời gian sau, địch phát hiện ra được một phần đầu mũi tàu của ta do hai anh Vinh và Thứ (sĩ quan máy) cảm tử ở lại giật bộc phá bay lên nằm trên núi Bà Nam, cách hang các anh ở khoảng chừng 800m, thì tụi địch ngày nào cũng đem quân đến càn. Vì thế các anh ai nấy cố sức lê bước vào “căn cứ” mới ở sâu trong rừng Phú Yên. Sống trong rừng tuy an toàn nhưng lại xa nguồn nước biển, xa các miếu thờ (kho hậu cần” trên Đèo Cả...

      Để có nước muối rửa vết thương cho đồng đội và có miếng ăn hàng ngày cho năm anh em, anh Hà Minh Thật, lúc ấy là người khoẻ nhất hội, phải bằng mọi giá đi tìm cho ra “kho hậu cần” mới. Và tình cờ một buổi sáng, Thật đang trèo hái quả trên một ngọn cây cao trong rừng, thì nhìn thấy dưới chân núi có một cái miếu thờ trong rẩy của đồng bào. Và tối đó Thật rủ anh Vũ Long An rẽ cây rừng, luồn qua những đồi lau lách, xuống tận cái miếu và các anh đã “vớ” được gói bánh bích quy, một nải chuối đem về “căn cứ” cho các bạn cùng ăn. Rồi đêm hôm sau, đêm hôm sau nữa; lại tiếp đến cái đêm hôm sau...hai anh lần xuống cái “kho hậu cần” nhận đồ tiếp tế của người chủ rẩy về ăn, lần này có thêm mấy lon sữa bò...

     ...Dẫu biết hai con “ma rừng” đích thị là “người trần mắt thịt”, nhưng người chủ rẫy vẫn chưa biết rõ là người đằng mình hay người đằng lính cộng hoà? “Mà lính cộng hoà (lính nguỵ) tràn được vào rẫy thì chúng sẽ càn hết cả gốc lẫn ngọn, chứ bọn chúng không chỉ lượm trái, đào cũ nên đây chỉ là những chiến sĩ giải phóng của ta” (người chủ rẫy nghĩ thế)! Nhưng để xác minh cho tường tận, một hôm người chủ rẫy ở lại đến tận khuya để được tiếp xúc với người rừng. Và đêm ấy An, Thật bò xuống, rồi lần đến miếu thờ, bổng có một bà má già xuất hiện trong lùm cây chủ động hỏi: “Các con có phải là người đằng mình không?” Tình huống đột ngột quá, nhưng các anh biết tiếng người má đã già nên có phần vững tin hơn, bèn đáp lễ: “Thưa má, chúng con là người đằng mình ạ!”.

       Nghe tiếng nói, má biết các anh đều là người miền Bắc, nên mạnh dạn sáp lại gần, nói như khóc: “Các con lạc rừng lâu ngày chưa?” Hai anh đáp lễ: “Thưa má, bốn tháng rồi ạ”...

      Từ đêm ấy trở đi trong cái miếu thờ của má Phú Yên không chỉ có lương thực, thực phẩm mà còn có cả những gói bông băng và thuốc chữa bệnh nữa. Có đầy đủ nguồn tiếp tế của má, năm thuỷ thủ ai nấy ngày càng khoẻ ra, vết thương mấy anh em bị nặng đã lên da non, gân cốt đã trở lại thế “cường tráng”. Và tối hôm đó cả năm người kéo xuống rẫy đễ tạ ơn má và xin má một ít muối ăn, lương thực và thuốc chữa bệnh cùng với một tấm bản đồ Phú Yên để các anh có cơ sở luồn sâu trong rừng, tìm đến đường giao liên trên dãy Trường Sơn...

       Thể theo nguyện vọng của các con, mấy ngày má Phú Yên về đồng bằng chuẩn bị đầy đủ các mặt hàng đó, rồi má tự gùi lên rẫy tập kết tất cả các thứ vào cái miếu thờ. Và theo đúng hẹn, các anh xuống miếu nhận hàng và lên đường luôn trong đêm trăng thượng tuần sáng vằng vặc trên những ngọn cây, đỉnh núi...

       Chuyện lâm nạn của năm anh em thuỷ thủ TKS 235, và cái miếu thờ của má Phú Yên dưới chân Đèo Cả ngày ấy đến nay đã 41 năm. Và má Phú Yên ngày đó của chúng con giờ chắc không còn nữa, nhưng hình ảnh má thì chúng con vẫn khắc ghi vào trong tim. Và muôn đời chúng con không quên cái miếu thờ của má trên rẩy, và nhớ cả những cái miếu thờ của các “bác tài” lập nên trên Đèo Cả.
(Ghi chép của Trần Hậu Vệ)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: chiangshan trong 05 Tháng Bảy, 2009, 10:56:47 pm
Trích tổng kết tháng 2/1968 của HQ Mỹ:

Tàu cá vào sâu phía nam nhất định cập bến cách mũi Cà Mau khoảng 40 dặm về phía đông-đông bắc gần cửa sông Cua Bo De (?). Tàu cá bỏ qua mọi yêu cầu cũng bắn cảnh cáo và giao tranh nổ ra giữa tàu xâm nhập với lực lượng Market Time. Ngay sau 02h00 ngày 1/3, sau khi trúng nhiều phát đạn 5 inch và .50, tàu bốc cháy và chìm.

Tàu cá thứ 2 cập vào 1 vũng phía đông bắc Nha Trang khoảng 10 dặm lúc 02h00 ngày 1/3. Tàu cá này sau đó nổ súng vào lực lượng Market Time. Các đơn vị Market Time bắn lại liên tục và mọi nỗ lực nhằm bắt sống con tàu này đều thất bại. Lúc 02h31 chiếc tàu cá bị phá hủy hoàn toàn sau khi trúng 5 phát đạn cối 81mm.

Lúc 02h14 ngày 1/3, tàu cá thứ 3 mắc cạn ở vùng biển phía bắc miền trung, cách Chu Lai khoảng 40 dặm về phía đông nam. 1 lần nữa giao tranh nổ ra, và lúc 02h35 khi sắp bị bắt sống, tàu cá đã tự phá hủy.

Tàu cá thứ 4 bị lực lượng Market Time giám sát đã không đi vào lãnh hải và thay đổi hành trình hướng ra biển. Các đơn vị giám sát bờ biển tiếp tục theo dõi tàu cá này.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: altus trong 06 Tháng Bảy, 2009, 12:00:49 am
Các giấy tờ tìm thấy trên thân thể quân nhân Nguyễn Hoàng Long:
Giấy nghỉ phép của quân nhân Nguyễn Hoàng Long. Phần đầu tài liệu cho thấy quân nhân này thuộc đơn vị 1270 QUân đội nhân dân Việt Nam. Nguyễn Hoàng Long đã rời Hải Phòng từ khoảng 19/9 đến 25/9/1965.
Phía dưới là 1 trang từ giấy tờ ghi chép của Đảng Cộng sản của trung sỹ Nguyễn Hoàng Long, chứng tỏ là quân nhân của Sư đoàn 338. Một chú thích khác "làm nhiệm vụ tại phương xa - on mission in distant areas", cách diễn đạt sử dụng tại Hà Nội nghĩa là Nam Việt Nam.

Hmm, thế mà tôi cứ nghĩ các cụ đi tàu không số là phải giữ bí mật chặt chẽ lắm, những giấy tờ kiểu này là phải bỏ lại hết chứ.  :-\


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 06 Tháng Bảy, 2009, 08:29:02 am


Hmm, thế mà tôi cứ nghĩ các cụ đi tàu không số là phải giữ bí mật chặt chẽ lắm, những giấy tờ kiểu này là phải bỏ lại hết chứ.  :-\
[/quote]
----------------------------------------------------------------
Chào đồng đội! Đồng đội nheo mày .. Hmm đúng là thủ trưởng rồi. Thủ trưởng ạ, tôi không dám trách liệt sỹ Long nhưng quả thật đối với bản thân tôi mỗi lần đi công tác vào nam đều phải bỏ lại toàn bộ giấy tờ có liên quan đến miền Bắc. Thư từ chỉ được viết khi đã về bến và đều qua chính trị viên tàu kiểm tra và gửi đi, mình không được tự gửi. Có thể Đ/C Long đã vô tình không chấp hành quy định của đơn vị. Thủ trưởng bỏ quá cho nhé, nhưng cũng nhờ sự cẩu thả mà lại biết được nhân thân của người chết - là đ/c Long. Những người chấp hành tốt khi hy sinh trở thành vô danh. Đó cũng là nghịch lý VN thủ trưởng ạ. Chúc thủ trưởng khỏe mạnh. TKS


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: hatuyenha trong 06 Tháng Bảy, 2009, 10:09:54 am
Cám ơn câu chuyện của bác Trantienve@,thật cảm động khi bà má Phú Yên dưới chân Đèo  Cả đã bí mật nuôi dưỡng năm chiến sĩ tau không số còn sống sót.Chiến sỹ ta dũng cảm kiên cưòng,dân ta yêu nước bằng những hành động cụ thể"các con có phải người đằng mình không?",thật giản dị.Bà má nghèo,bình dị thương các anh lính miền  Bắc còn sống sót bí mật chăm lo cho các con,thật vĩ đại khi bà má đâu có cần vinh danh ?Thương các  đứa con "đàng mình"như con mình dứt ruột đẻ ra.Mặc dù bây giờ bà  má có thể không còn nhưng các "con đàng mình" đã có lần nào đi tìm lại má để thăm hỏi chưa ? có biết tên má không?
trong suốt mấy chục năm qua.Đúng là tình Quân Dân như  cá với nước.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 07 Tháng Bảy, 2009, 08:49:52 am
Xin giới thiệu với các bác CCB Tàu không số và bạn đọc QSVN cuốn "Đường mòn trên biển" của NXB Quân đội Nhân dân, xuất bản năm 1986, số hóa của TramtimdungcamHP: http://www.quansuvn.net/index.php?topic=690


Chỉ cần đưa link là được rồi bác ơi!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 07 Tháng Bảy, 2009, 02:06:15 pm
(http://image.motofunvn.com/images/A8z51247.jpg)
CCB Tàu không số dâng hương tưởng niệm Anh hùng Bông Văn Dĩa tại mộ ông


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 07 Tháng Bảy, 2009, 03:14:39 pm
(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/bacsan.jpg) 16 tuổi ông trở thành chiến sĩ Giải phóng quân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, sau đó cùng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 53 trở về tiếp quản Thủ đô. Tháng 4/1955, ông được lệnh đi tiếp quản Hải Phòng. Đầu năm 1956, chỉ huy 1 trung đội ra Đồ Sơn bảo vệ Tổng Bí thư Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khi có Luật nghĩa vụ quân sự, nhiều cán bộ, chiến sĩ ra quân, chuyển ngành, riêng ông tình nguyện ở lại huấn luyện tân binh phục vụ cho chiến trường...

Năm 1960, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và được cử đi học lớp Chính trị viên đầu tiên tại Trường Lục quân. Sau khi ra trường, ông được "chọn" đi làm nhiệm vụ đặc biệt... Và từ đó, cuộc đời ông gắn chặt với những con tàu, những cung đường biển, để rồi cùng đồng đội làm nên huyền thoại "Đường Hồ Chí Minh trên biển". Ông là Đỗ Văn Sạn, nguyên Chính trị viên các tàu 143, 176, 56, Đoàn tàu Không số.

Trước mặt tôi bây giờ là một lão nông đã ngoài 70 với đôi mắt mờ đục, đôi tai nghễnh ngãng và đi lại không còn được nhanh nhẹn, nhưng phong cách, điệu bộ vẫn thư thái, điềm đạm mang đậm bản chất của người chính trị viên. Ông bắt chuyện tôi bằng một giọng chân chất của người tỉnh Thanh:

- Mi định hỏi tau cái chi? Già rồi nhớ răng được mà kể!

- Bác kể cho cháu nghe về kỷ niệm và những chiến công mà bác cùng đồng đội lập được trên những con tàu không số!

- Hỏi như rứa thì có nói cả ngày không hết chuyện. Thôi! Thế ni! Cái chi in đậm trong trí nhớ của bác, bác sẽ kể được không?

- Vâng! Như vậy thì tốt quá ạ.

Ông rít một hơi thuốc lá rồi nhả ra những lọn khói cuộn trắng căn phòng nhỏ. Gương mặt ông lúc nhíu lại, lúc giãn ra quyện chặt vào khói thuốc. Bao ký ức dồn về làm ông xúc động. Tôi vội hỏi:

- Cháu được biết, trước khi xuống tàu các bác thường làm "lễ truy điệu sống", nghi thức này diễn ra như thế nào? Liệu trước khi "ra trận" làm như vậy có "bi lụy" quá không?

- Thật ra, không có lễ truy điệu nào trước lúc lên tàu cả. Nói như vậy để xác định rõ trọng trách, tầm quan trọng và quyết tâm của mỗi chuyến đi. Do tính chất nhiệm vụ nên khi lên tàu phải biết chấp nhận gian khổ, sẵn sàng hy sinh, ai có biểu hiện dao động tư tưởng là loại liền. Chính vì vậy, khi bước chân lên tàu, từ đáy lòng mỗi người đã tự làm lễ truy điệu cho riêng họ. Tất cả những gì thuộc về riêng tư đều "bàn giao" lại cho người thân để không còn vướng bận, mà chỉ có khí phách hiên ngang đầy nghĩa khí. Nghĩ cũng lạ, xác định một đi không trở lại vậy mà ai cũng xung phong, không ai chùn bước. Bác còn nhớ, hồi đó có đồng chí bị ốm, sợ bị loại không được lên tàu, liền làm việc gấp đôi ngày thường để được cấp trên chú ý.

Thấy ông có phần phấn chấn hơn trong câu chuyện,  tôi liền hỏi: Chuyến đi nào vai trò Chính trị viên của bác được thể hiện rõ nét nhất?

- Là Chính trị viên nên chuyến nào đi bác cũng thấy quan trọng, trong đó có một chuyến đi không thể nào quên được. Đó là năm 1968, bác được trên điều về làm Chính trị viên, Bí thư Chi bộ Tàu 56, đồng chí Nguyễn Văn Ba là Thuyền trưởng, đồng chí Nguyễn Sơn là Thuyền phó. Tàu 56 được lệnh vận chuyển vũ khí trang bị vào Bình Định. Gần một ngày hành trình êm xuôi, khoảng 6 giờ tối, tàu phát hiện có một máy bay. Điều lạ là máy bay sà xuống nhưng không lên, cán bộ, chiến sĩ trên tàu đều đoán có tàu khu trục của địch. Khi Tàu 56 cách bờ 25 hải lý thì phát hiện phía trước có đèn nháy. Bác đi nhiều nên có kinh nghiệm, liền đề xuất với thuyền trưởng: Tình hình có khả năng bị lộ, nếu tàu ta vào bờ sẽ không hoàn thành nhiệm vụ mà gây tổn thất lớn. Sau khi nhận định, bác triển khai họp cấp ủy. Cấp ủy nhất trí với nhận định của bác.

20h25', Thuyền trưởng quyết định cho tàu quay ra khơi. 12 giờ đêm, địch bắn pháo sáng, đồng loạt 3 tàu địch vây quanh đều rọi đèn pha về phía tàu ta.  Bác lệnh cho báo vụ treo cờ Trung Quốc, bởi thời điểm này Nixon chuẩn bị đi Trung Quốc (đây là thời điểm nhạy cảm mà). Thấy vậy, địch tập trung soi đèn vào cờ, sau đó đánh điện hỏi: Tàu quốc tịch nước nào? Chở hàng gì?, Đi đâu? Dừng lại kiểm tra không chúng tôi bắn!

Tàu ta không phát tín hiệu gì, bác tranh thủ trao đổi với thuyền trưởng và thống nhất: Cho tàu đi đúng hướng 90o, không thay đổi. Không thấy ta phát tín hiệu, địch bắt đầu bắn như vãi đạn từ súng máy phòng không 12,7 ly. Tàu ta vẫn bình tĩnh quan sát. Thấy đường đạn cao, bác trao đổi ngay với Thuyền trưởng Ba: Địch bắn dọa, cán bộ, chiến sĩ trên tàu hết sức bình tĩnh, phải thi gan đấu trí với chúng. Nếu cho tàu dừng lại, chúng sẽ ép mình đầu hàng nên vẫn cho tàu tiến về phía trước. Địch tiếp tục bắn dọa ngay trước mũi tàu ta. Mặc kệ! Tiếp tục đi. Thỉnh thoảng, địch cho canô lao vào sát mũi tàu ta rồi quay ra. Chúng thực hiện nhiều lần như vậy nhưng không phát hiện được gì vì  ta ngụy trang kín bằng lưới.

Khoảng 3h sáng, đang trong lúc khó khăn thì đơn vị điện hỏi lý do. Thay mặt cán bộ, chiến sĩ trên tàu, bác trả lời: Tôi đang bị địch bao vây, chúng đã bắn dọa nhiều lần nhưng tàu vừa đi, vừa tránh, vẫn đi hướng 90o. Vừa trả lời điện báo xong thì phát hiện một tàu khu trục của địch chặn trước mặt, cách tàu ta gần 3 hải lý. Trước tình hình đó, bác họp cấp ủy và thống nhất: Phải cho chúng một bài học. Đánh! Lập tức toàn tàu triển khai phương án chiến đấu, chuẩn bị bom chìm, bộc phá nổi và vũ khí sẵn sàng nổ súng khi có lệnh.

Bác chỉ định cho thuyền trưởng: Đồng chí cứ cho tàu đi thẳng, sẵn sàng đâm vào tàu địch và hạ lệnh bắn, tôi có nhiệm vụ điểm hỏa khối bộc phá khi tàu ta đâm vào tàu địch. Bằng mọi cách chúng ta không để tàu, người, hàng lọt vào tay giặc. Toàn tàu quyết chiến đấu đến cùng. Sau khi thống nhất trong chỉ huy, bác kêu gọi toàn tàu: Trước tình hình hết sức khẩn trương, cuộc chiến đấu giữa tàu ta và tàu địch sẽ không cân sức, thay mặt Chi bộ Đảng, tôi kêu gọi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên hãy dũng cảm chiến đấu, không sợ hy sinh để xứng đáng với sự tin tưởng của Tổ quốc và nhân dân.

Sau khi kêu gọi, toàn tàu đồng thanh một tiếng: Quyết chiến đấu! Mọi người hiên ngang, coi cái chết tựa lông hồng. Tất cả vào vị trí sẵn sàng cảm tử.

Con tàu rẽ sóng tiến về phía trước. Khoảng cách giữa tàu ta và tàu địch rút ngắn dần: Chiến sĩ tín hiệu thông tin cờ tay liên tục báo cáo: Cách tàu địch 2 hải lý, 1 hải lý, 100 m rồi... 80m. Tất cả đã sẵn sàng. Thuyền trưởng lệnh cho tàu tăng tốc độ. Bỗng tàu khu trục của địch vọt lên, chạy thoát ra khỏi hướng mũi tàu ta. Thấy tình thế thay đổi, Thuyền trưởng Ba lệnh cho tàu tăng tốc và giữ nguyên vị trí chiến đấu chờ lệnh. Khi tàu ta vượt qua tàu địch, chúng liền bắn xối xả. Và đến khoảng 5 giờ sáng, các tàu địch bắt đầu giãn ra. Trước khi rút lui, chúng còn "tiễn" tàu ta bằng mấy loạt đại bác.

Sau khi vượt qua được vòng vây của địch, bác nhận thấy một điều: cán bộ, chiến sĩ trên những con tàu không số không chỉ dũng cảm, gan dạ, sẵn sàng hy sinh mà còn dám đánh, biết đánh và quyết đánh Mỹ. Đây là bài học vô giá cháu ạ.

Nghe ông kể đến đây tôi mới hiểu, sau đôi mắt mờ đục, đôi tai nghễnh ngãng là một trái tim nhân hậu, một con người trí tuệ uyên thâm bản ngã, kinh nghiệm đầy mình. Tôi tự nhủ, lớp chính trị viên trẻ bây giờ nếu được ông truyền đạt kinh nghiệm và cho thêm "vài đường cơ bản" trong giáo dục, động viên bộ đội, chắc chắn sẽ giỏi lên rất nhiều. Chia tay ông trong một chiều hè đầy nắng, tôi thầm chúc ông sống lâu, sống khỏe, trở thành cây cao, bóng cả để lớp trẻ chúng tôi được học tập, noi theo.

Ghi chép của Trịnh Văn Dũng (An ninh thế giới, số ra ngày 23/12/2008)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tuaans trong 07 Tháng Bảy, 2009, 03:26:23 pm
Bài của bác trantienve chưa nhắc đến bức ảnh chụp 5 người, bác kể thêm đi ạ!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 07 Tháng Bảy, 2009, 03:54:54 pm
Ảnh này tôi lấy từ tư liệu "Lịch sử Đường HCM trên biển". Được biết, 5 chiến sĩ chụp bức ảnh này sau khi bắt được liên lạc với giao liên Trường Sơn.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 08 Tháng Bảy, 2009, 04:14:49 pm
Chào đồng đội!
Ở ngay HN cũng có liệt sỹ của đoàn tàu không số. Anh là Nguyễn Hữu Hùng sinh năm 1951 quê Tây Mỗ Từ Liêm HN. Anh hy sinh ngày 11.4.1971. Con tàu của anh ra đi mà không trở về. Anh chưa có vợ. Vào ngày giõ của anh chúng tôi -những cựu binh TKS tại HN lại đến thắp hương tưởng nhớ hương hồn anh.
       Ảnh Hội TKS đến tặng trao Huân chương chiến sỹ giải phóng và biểu tượng của đoàn TKS cho gia đình liệt sỹ Nguyễn Hữu Hùng.

(http://i688.photobucket.com/albums/vv250/quanlem08/IMG_0387-1.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Hungnt_E1F2 trong 08 Tháng Bảy, 2009, 04:32:49 pm
 ...Ảnh Hội TKS đến tặng trao Huân chương chiến sỹ giải phóng và biểu tượng của đoàn TKS cho gia đình liệt sỹ....
Có thắc mắc chút bác TKS:
Thường Huân chương các loại do cấp Chính Phủ hay ít nhất là Bộ (Quốc Phòng) trao tặng cá nhân hay tập thể có thành tích chiến đấu.
Mà Huân chương Chiến sỹ Giải phóng là do cấp nào tặng (truy tặng) hả bác?
Còn thấy tin bác đưa kia hơi khó hiểu, có thể hiểu đúng là Hội TKS ở HN chuyển giao từ đơn vị cũ, tấm Huân chương Chiến sỹ Giải phóng giao lại cho gia đình LS phải không bác?


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 09 Tháng Bảy, 2009, 11:08:51 am
Có thắc mắc chút bác TKS:
Thường Huân chương các loại do cấp Chính Phủ hay ít nhất là Bộ (Quốc Phòng) trao tặng cá nhân hay tập thể có thành tích chiến đấu.
Mà Huân chương Chiến sỹ Giải phóng là do cấp nào tặng (truy tặng) hả bác?
Còn thấy tin bác đưa kia hơi khó hiểu, có thể hiểu đúng là Hội TKS ở HN chuyển giao từ đơn vị cũ, tấm Huân chương Chiến sỹ Giải phóng giao lại cho gia đình LS phải không bác?
[/quote]
------------------------------------------------------------------------------------
Chào đồng đội!
         Thắc mắc của đồng đội chính là niềm kiêu hãnh, tự hào của Đoàn TKS. Tôi chưa biết cách số hóa văn bản lên nhưng Bác tìm giúp Hướng dẫn số 971/HD-CT ngày 06 tháng 8 năm 2008 của Tổng cục chính trị QDND Việt Nam về việc Khen thưởng Huân huy chương chiến sỹ giải phóng đối với cán bộ chiến sỹ Đoàn 125 " Đoàn tàu không số". Trong đó quy định cán bộ chiến sỹ trực tiếp làm nhiệm vụ trên tàu không số có ít nhất một chuyến chở hàng vào các bến ở miền Nam ( từ cửa Tùng trở vào ) trong thời gian từ 30/4/1975 trở về trước được tặng Huân huy chương chiến sỹ giải phóng theo quy định về tặng Huân huy chương CSGP. Bộ tư lệnh HQ đã tổ chức lễ trao Huân huy chương chiến sỹ giải phóng đối cho chúng tôi nhân ngày truyền thống 23/10/2008 tại BTL Hải quân ( Đại diện các đơn vị, cá nhân ) còn hội HN chúng tôi ra bến K15 Đồ Sơn nơi con tàu không số dầu tiên xuất phát làm lễ dâng hương các anh hùng liệt sỹ và chụp ảnh lưu niệm. Xin pot tấm ảnh đó để các đồng đội mừng cho chúng tôi. Xin cảm ơn đồng đội. Xin khất đồng đội văn bản và huy chương của tôi vào dịp gần đây để tôi còn học cách số hóa nhé.

(http://i688.photobucket.com/albums/vv250/quanlem08/IMG_4258.jpg)
(http://i688.photobucket.com/albums/vv250/quanlem08/IMG_4257.jpg)
(http://i688.photobucket.com/albums/vv250/quanlem08/IMG_4270.jpg)



 


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 10 Tháng Bảy, 2009, 10:47:33 am

Chuyện kể về "Đường mòn trên biển": huyền thoại những con tàu

Trong 10 năm từ 1962 đến 1972, tại bến Đồ Sơn (Hải Phòng) đã có gần một trăm lượt con tàu bí mật của Đoàn 125 xuất phát, vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, phương tiện và hàng trăm cán bộ chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần làm nên nhiều chiến công vang dội. Bến Đồ Sơn còn được gọi mật danh là “K.15”.

Nơi xuất phát những con tàu bí mật vào Nam
[/b]
Ngày 18/8/1960, một con tàu gỗ gắn máy thủy động cơ xuất phát từ Cồn Tra (xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, Bến Tre) mở đường đầu tiên (thời kỳ chống Mỹ) ra Bắc để xin chi viện vũ khí. Trên tàu này gồm có 8 đồng chí, do ông Lê Công là Bí thư chi bộ kiêm thuyền trưởng. Mật khẩu vượt biển vào lãnh hải miền Bắc xã hội chủ nghĩa là: “Đơn vị 106B đi tìm anh 3D”. Sau 4 ngày đêm vượt trùng dương, tàu của ông Lê Công đến miền Bắc an toàn, cuộc hải hành trên được hoàn toàn giữ kín. Sau khi ở lại Bắc gần hai năm để học đường lối, chủ trương của Đảng các thành viên trên tàu Lê Công được đưa đến bến Đồ Sơn (K.15) chờ bố trí tàu vận chuyển vũ khí vào Nam.
Tại Cà Mau, ngày 20/7/1961, ông Bông Văn Dĩa (người Cà Mau) được Khu ủy Khu 8 và Tỉnh ủy Cà Mau cử ra Bắc cũng bằng con đường biển trên để liên hệ Trung ương chở vũ khí vào Cà Mau. Cũng giống như tàu của ông Lê Công, số chiến sĩ trên tàu của nhà cách mạng Bông Văn Dĩa được bố trí đến bến Đồ Sơn, chờ lệnh xuất phát về Nam.
Tại bến Đồ Sơn, đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ gắn máy mang tên “Phương Đông 1” chở 30 tấn vũ khí do thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy, xuất phát lên đường vào Nam. Trước khi xuất phát, đích thân các nhà lãnh đạo Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đến bến cảng Đồ Sơn động viên cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Đồng chí Phạm Hùng nói: “Các đồng chí là những người đầu tiên mở ra con đường biển Bắc - Nam này. Nó cũng giống như trên Trường Sơn kia, các đồng chí là những người tiên phong đi khai sơn phá thạch”. Sau 5 ngày vượt biển Đông, ngày 16/10/1962, tàu đến cửa Bồ Đề và cặp bến Vàm Lũng (xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) an toàn. Đây là chuyến chở vũ khí đầu tiên vào Nam bằng đường biển và con đường vận tải chiến lược trên biển Đông chính thức ra đời. Sau này, ông Bông Văn Dĩa được tuyên dương Anh hùng các LLVT Nhân dân.
Kế đến, ngày 11/11/1962, tàu của ông Lê Công được lệnh trở vào Nam, chở theo 75 tấn vũ khí. Ngày 18/11/1962, tàu cặp bến an toàn tại Vàm Lũng (Cà Mau). Đây là chuyến thứ hai chở vũ khí vào Nam thành công sau chuyến đầu tiên “Phương Đông 1” của ông BôngVăn Dĩa. Tàu trên còn có mật danh là "Phương Đông 2”.
Sau những chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên do chính các chiến sĩ từ miền Nam xin chi viện, từ cuối năm 1962 đến 1972, tại Đồ Sơn (Hải Phòng) đã có gần 100 lượt tàu của Đoàn 125 HQ xuất phát “chở hàng” chi viện cho chiến trường miền Nam. Điểm đến là các bến: Tân Ân (Cà Mau), Thạnh Phong (Bến Tre), Vũng Rô (Phú Yên), Lộc An (Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu), Đức Phổ, Sa Kỳ, Ba Làng An (Quảng Ngãi). Tất cả đã vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí và hàng trăm cán bộ cốt cán; góp phần làm nên nhiều chiến thắng vang dội. Hiện nay, di tích còn lại của bến Đồ Sơn (K.15) là 15 trụ bê-tông cầu cảng, cách mép bờ khoảng 30m. Còn trên bờ còn lại là một số nền móng kho hàng, bể nước.

Những bến tiếp nhận vũ khí Bắc - Nam ít được nhắc đến
[/b]
Ngoài những bến đã được báo chí nhắc đến nhiều như Thạnh Phong (Bến Tre), Vàm Lũng (Cà Mau), Vũng Rô (Phú Yên)... thì bến đến Lộc An và các bến đến tại Quảng Ngãi vẫn lặng lẽ theo năm tháng dù rằng trước đó, các bến tiếp nhận này đã góp phần rất lớn vào các chiến công tại miền Đông Nam bộ và Khu 5.
Bến Lộc An nay thuộc xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa-Vũng Tàu). Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đoàn 125 HQ đã tổ chức 3 chuyến tàu cặp bến thành công, vận chuyển 109 tấn vũ khí, kịp thời trang bị cho quân dân các tỉnh miền Đông, Khu 6 tham gia các chiến dịch, góp phần làm nên chiến thắng như trận Bình Giã, Đồng Xoài, Dầu Tiếng, Bầu Bàng (1965). Có thể kể đến" Chuyến 1: Ngày 26/9/1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 gồm 12 chiến sĩ do thuyền trưởng Lê Văn Một (vào Nam lần hai) và Chính trị viên Đặng Văn Thanh chỉ huy, chở 18 tấn vũ khí vào bến Lộc An. 3 giờ sáng ngày 2/10/1963, tàu cặp bến an toàn, lực lượng địa phương (Đoàn 1500) đã chờ sẵn ở bến để bốc hàng. Lúc này thủy triều bắt đầu rút làm tàu mắc cạn, gần đó là đồn địch (đồn Phước Hải); nhưng cán bộ, chiến sĩ tàu 41 đã mưu trí, dũng cảm bảo vệ an toàn con tàu và bến bãi. Chuyến 2: Ngày 29/11/1964, tàu mang số hiệu 56, gồm 16 chiến sĩ do thuyền trưởng Nguyễn Quốc Thắng và chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Tàu 56 chở 44 tấn vũ khí, cặp bến Lộc An an toàn, và chuyến hàng chiến lược này đã kịp thời trang bị cho các đơn vị chủ lực miền Đông, Khu 6 tham gia mở đợt 2 chiến dịch Bình Giã (1/1965). Chuyến 3: Vẫn tàu 56. Tàu do thuyền trưởng Lê Quốc Thân và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy, chở 47 tấn vũ khí xuất phát vào ngày 27/1/1965 và cặp bến Lộc An an toàn vào đêm 1/2/1965. Số vũ khí chở vào lần này tiếp tục trang bị cho quân dân Khu 6 tham gia giai đoạn 3 chiến dịch Bình Giã. Ngày 7/3/1965, chiến dịch Bình Giã kết thúc thắng lợi đã làm thất bại cơ bản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy, mở ra thời kỳ mới cho cách mạng miền Nam.
Nhưng các bến đến tại Quảng Ngãi mới thật mang nhiều ấn tượng. Tại đây, Đoàn 125 HQ đã tổ chức 4 chuyến (2 chuyến vào bến Đức Phổ, 1 chuyến vào bến Sa Kỳ, 1 chuyến vào bến Ba Làng An). Cả 4 chuyến đều gặp địch, cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã anh dũng chiến đấu, hủy tàu để không lọt vào tay địch và sau đó anh em thủy thủ vượt ngược Trường Sơn ra miền Bắc trở về đơn vị. Chuyến 1 (vào Đức Phổ - Quảng Ngãi): Ngày 19/11/1966, tàu mang số hiệu 41 được lệnh chở 59 tấn vũ khí vào Đức Phổ, trên tàu có 17 chiến sĩ, do thuyền trưởng Hồ Đắc Thanh và Chính trị viên Đặng Văn Thanh chỉ huy. Trên đường vượt biển, gặp thời tiết xấu nên tàu phải dừng lại nhiều lần trên biển. Đến đêm 23/11, tàu tiếp tục đi và đêm 26/11 tàu đến bến qui định, thả hàng trong điều kiện sóng to gió lớn. Rạng sáng 27/11, lúc tàu chuẩn bị quay ra thì bị mắc cạn. Để giữ bí mật, Chi ủy và chỉ huy tàu quyết định hủy tàu. Có điều tàu nổ không đúng thời gian đặt chất nổ làm 2 chiến sĩ hy sinh là Trần Nhợ và DươngVăn Lộc. Trong khi đó 15 thành viên còn lại, đã vào được đến bờ, sau đó tất cả đi bằng đường bộ, vượt dãy Trường Sơn và mãi đến 4 tháng sau mới trở về đơn vị an toàn. Chuyến 2 (vào Sa Kỳ): Ngày 14/3/1967, tàu 43 do thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn, được lệnh chở 50 tấn vũ khí vào Sa Kỳ - Quảng Ngãi. 2 giờ sáng ngày 18/3/1967, khi tàu còn cách Sa Kỳ vài chục hải lý, anh em trên tàu thấy tàu địch bám theo tàu ta, còn trên không thì máy bay địch quần thảo, thả pháo sáng liên hồi, làm sáng rực cả một vùng biển đêm. Trước tình hình nguy cấp trên, anh em thủy thủ trên tàu quyết định phá vòng vây đưa tàu vào bến. Khi phá vòng vây, 3 tàu chiến địch bám theo, tàu 43 buộc phải nổ súng và cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra sau đó. Tàu chiến địch gọi điện cho nhiều máy báy đến yểm trợ. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra 3 giờ liền, tàu ta bị trúng đạn nặng, tình thế mỗi lúc thêm bất lợi, nếu tiếp tục chiến đấu, trời sẽ sáng và nhất định địch sẽ tăng cường lực lượng vây tàu ta. Nhận định vậy nên cấp ủy và chỉ huy tàu quyết định hủy tàu để không lọt vào tay địch. Hủy tàu xong, anh em thủy thủ bơi vào bờ an toàn rồi tìm đường trở ra Bắc. Chuyến 3 (vào Ba Làng An): Ngày 6/7/1967, tàu 148 gồm 18 đồng chí, do đồng chí thuyền trưởng
Nguyễn Tấn Ích và Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch chỉ huy, chở 56 tấn vũ khí vào Quảng Ngãi. Vào đêm 11/7, trên đường đi, tàu 148 gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây, tàu 148 đánh trả và cơ động vào bến Ba Làng An. Địch đánh tàu ta bị thương nặng, Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và thuyền phó Phạm Chuyên Nghiệp hy sinh trong lúc chiến đấu. Ta không phá hủy được tàu và địch cho quân đến kéo tàu đi. Anh em thủy thủ còn lại bơi được vào bờ rồi đi bộ trở ra miền Bắc. Chuyến 4 (chuyến lần thứ hai vào Đức Phổ): Ngày 27/2/1968, tàu 43 gồm 16 đồng chí được lệnh chở 37 tấn vũ khí vào bến Đức Phổ (Đội tàu 43, sau chuyến đi lần trước đã chiến đấu anh dũng với địch, hủy tàu và trở lại miền Bắc anh em trong tàu được nhận một tàu mới, vẫn mang tên 43). Tàu 43 vẫn do thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Ngày 29/2, khi tàu 43 đến gần bến Đức Phổ, cách bờ khoảng chục hải lý thì gặp cùng lúc 6 tàu địch và trực thăng tấn công tàu ta. Anh em trên tàu tổ chức đánh trả. Ta bắn rơi 1 trực thăng của địch, trong khi ta đã hy sinh 3 đồng chí: Vũ Văn Ruệ, Võ Nho Tòng và Phạm Văn Rai. Biết lực lượng địch đông, nếu tiếp tục chiến đấu địch có khả năng cướp tàu ta, nên chỉ huy lệnh cho anh em rút lên bờ và hủy tàu. Anh em còn lại trở về miền Bắc an toàn. Đây là lần thứ hai anh em chỉ huy, thủy thủ tàu 43 lại đi bộ, vượt Trường Sơn trở ra Bắc.
Từ năm 1968 đến 1972, Đoàn 125 HQ chuyển hướng, tập trung vận chuyển vũ khí Bắc - Nam vào sâu tận biển Nam bộ, chủ yếu đến bến Thạnh Phong (Bến Tre) và Tân Ân (Cà Mau). Đến ngày 21/11/1970, tàu 176 do đồng chí Lê Xuân Ngọc làm thuyền trưởng và đồng chí Trần Thành Trung là Chính trị viên chỉ huy bị lộ khi sắp vào bến Thạnh Phong (hủy tàu, ta hy sinh 10 đồng chí) từ đó, các tàu vận chuyển chuyển hẳn vào cặp bến ở các bến thuộc xã Tân Ân. Tại các bến ở Thạnh Phong và Cà Mau, còn là nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt, anh dũng của cán bộ, chiến sĩ vận tải Đoàn 125 HQ anh hùng và quân dân địa phương với máy bay, tàu chiến, các cuộc hành quân qui mô lớn của địch để bảo vệ tàu và hàng. Các trận chiến đấu đó là những tấm gương cao đẹp về phẩm chất và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của cán bộ, chiến sĩ Hải quân, đồng thời nói lên tính chất khốc liệt, đầy khó khăn nguy hiểm của công tác vận chuyển vũ khí bằng đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần đưa đến ngày đại thắng 30/4/1975.
Tác giả: Phan Lữ Hoàng Hà
(Theo "Việt Báo.vn")


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: lixeta trong 10 Tháng Bảy, 2009, 02:17:24 pm
...Ảnh Hội TKS đến tặng trao Huân chương chiến sỹ giải phóng và biểu tượng của đoàn TKS cho gia đình liệt sỹ....
Có thắc mắc chút bác TKS:
Thường Huân chương các loại do cấp Chính Phủ hay ít nhất là Bộ (Quốc Phòng) trao tặng cá nhân hay tập thể có thành tích chiến đấu.
Mà Huân chương Chiến sỹ Giải phóng là do cấp nào tặng (truy tặng) hả bác?
Còn thấy tin bác đưa kia hơi khó hiểu, có thể hiểu đúng là Hội TKS ở HN chuyển giao từ đơn vị cũ, tấm Huân chương Chiến sỹ Giải phóng giao lại cho gia đình LS phải không bác?

Giải đáp giúp quê:

-Cấp tặng HC: Hội đồng cố vấn CPCMLT Cộng hòa miền Nam VN

(http://i627.photobucket.com/albums/tt353/datavehu/HC001.jpg)

- Người ký: Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ



(http://i627.photobucket.com/albums/tt353/datavehu/HC002.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 10 Tháng Bảy, 2009, 04:05:55 pm
(http://image.motofunvn.com/images/Cj617320.jpg)
Cửa biển Vàm Lũng - nơi vào ra của nhiều con tàu thuộc đoàn tàu không số chở hàng từ Bắc vào Nam trong những năm đánh Mỹ
(Ảnh của báo "Cà Mau online")


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 10 Tháng Bảy, 2009, 04:16:58 pm
Tôi có sự nhầm lẫn: Ảnh trên là Cửa biển Thạnh Phong (Bến Tre) chứ không phải cửa biển Vàm Lũng (Cà Mau) và nguồn là của "Việt báo.vn"
Thành thật xin lỗi bạn đọc


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 11 Tháng Bảy, 2009, 03:58:08 pm
                                                                   
    Điều không lý giải được

        Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa lý giải được về sự sống của 17 cán bộ, thuỷ thủ trên con tàu không số (TKS) mang mật danh 56 trong đêm Tết Mậu Thân 1968, cách đây 41 năm?
        Đó là điều hết sức ngạc nhiên, bởi đêm đó có rất nhiềuc tàu chiến Mỹ, nguỵ đồng loạt bật đèn pha cực mạnh, đồng loạt nổ súng và đồng loạt triển khai đội hình vòng vây TKS 56!. Và, hình như đêm giao thừa ấy chúng đói khát lắm, nên tàu nào cũng muốn chạy hết tốc lực để được đến  nuốt “con mồi” sớm nhất...
      Nhưng để thoát  được những phút giây căng thẳng đó; để không chết trong đêm Tết ấy, trước hết chúng tôi rất biết ơn người chính trị viên (CTV) có cái tên cứng như hòn sỏi: Đỗ Như Sạn, anh là lính hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, hiện về hưu hưởng lương thiếu tá ở quê: Thiệu Sơn, Thiệu Hoá, ( Thanh Hoá).


   Đêm chết chóc

     
      Tàu không số “56” là một trong 4 con tàu nhận nhiệm vụ chở vũ khí vào tiếp tế cho quân và dân miền Nam trong dịp tết Mậu Thân 1968. Bến vào của tàu 56 là cửa biển Lộ Giao (Bình Định). Đêm ấy gió mùa nỗi lên rất to, sóng bạc đầu phủ trắng xoá mặt biển. Con tàu 56 chẳng khác nào chiếc võ tre bấp bênh trong dòng nước xoáy. Nhưng đã quá quen với điều kiện tác chiến nên các thuỷ thủ ai nấy đều kiên định vững vàng, sẵn sàng chiến đấu nếu địch phát hiện ra vị trí thả hàng của ta (phương châm vào các bến Khu 5: hàng được thả xuống toạ độ, sau đó du kích đưa thuyền đánh cá ra vớt chở vào bờ)). Tàu 56 vẫn thẳng hướng bến Lộ Giao, và theo như lời thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba, còn có biệt danh Ba Râu (anh nhiều râu nên anh em thường gọi Ba Râu, nay đã mất vì bệnh hiểm nghèo) nếu không có gì cản trở thì tàu 56 sẽ vào bến trả hàng đúng giờ “G”. Nhưng thật bất ngờ, tàu đang ngon trớn và chỉ cách điểm thả hàng chừng 25 hải lý, thì trước hướng tiến của tàu xuất hiện những ánh đèn pha cực mạnh quét tới. Ban chỉ huy hội ý chớp nhoáng và quyết định cho tàu quay sang hướng khác; nhưng hướng khác cũng bị chúng nó chặn; lại một hướng khác nữa...cũng không tránh khỏi những con mắt cú võ...
-   Tàu ta đã lọt vào vòng vây của chúng- thuyền trưởng nói.
-   Ta phải hết sức bình tỉnh- CTV nhắc nhở.
-   Hành động đối phó? thuyền truởng hỏi ban chỉ huy:
-   Nếu chúng nó cố tình bắn tiêu diệt? ta đánh trả quyết liệt!
   Những con tàu chiến Mĩ, nguỵ ngày một đến gần, nhiều ánh đèn pha cực mạnh như muốn khoét sâu vào các khoang hàng xem “tàu đánh cá” chở  những gì?
     Trước tình huống bất ngờ ấy, Thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba nói như hét với các cán bộ, thuỷ thủ: “Chuẩn bị chiến đấu!”  Thực thi lệnh của chỉ huy, các vị trí khẩn trương tra kíp nổ vào các khối thuốc TNT, các quả bom chìm, khói mù và triển khai các khẩu súng: ĐKZ, B40, hoả tiển vác vai, lựu đạn chống tăng...sẵn sàng chờ lệnh! Tôi và  hàng hải số 2 Hồ Văn Kiêm (nay là Đại tá, Lữ Đoàn trưởng TKS-đã nghỉ hưu) dưới sự chỉ huy của thuỷ thủ trưởng Nguyễn Văn Hoa, nhanh chóng hoàn tất mọi công việc và chỉ chờ lệnh điểm hoả!
     Những khẩu pháo 14 ly 5, pháo 37 ly của địch không ngừng khạc ra những hòn đạn đỏ quạch tuôn tới tấp đến tàu 56. Nhưng phần nhiều chúng bắn vòng cầu chứ không bắn thẳng vào mục tiêu nên tàu 56 vẫn “sống” khoẻ. Ngoài tiếng súng, những ánh đèn pha cực mạnh mỏng, sắc như lưỡi gươm; cũng có thể ví như những tia chớp thè cái lưởi dài thật dẽ sợ. Tất cả, tất cả những thứ vũ khí đó, nó đều tập trung đến tàu 56.
     Mặc! Tàu 56 vẫn kiên định lập trường thi gan với chúng. Đạn từ những con tàu Tuần dương lại tuôn xối xã đến tàu ta, nhiều thuỷ đã bị thương, y tá Trần Văn Việt không quản nguy hiểm chạy đến các vị trí băng bó, cầm máu cho từng người. Thuyền trưởng Ba nhìn xuống mặt boong thấy một số thuỷ thủ áo quần đã thấm máu, anh bặm môi, tay dơ cao định chém xuống và hô...bắn!  Nhưng CTV Đỗ Như Sạn đã kịp giữ tay thuyền trưởng lại, nói như thét:
-      Khoan! Anh Ba!
-      Hãy chờ thêm ít phút!
-      Đợi đến bao giờ nữa?
-      Nó chưa chủ trương bắn tiêu diệt ta!
-      Sao đồng chí biết?
-      Nếu nó bắn tiêu diệt, thì chúng đã bắn ngay loạt đạn đầu!
-      Thế CTV để anh em bị thương bao nhiêu người nữa? CTV Sạn chùng giọng: “Tôi biết anh rất thương đồng đội. Nhưng nhiệm vụ của ta không lấy chiến đấu làm chính, mà là mưu mẹo đánh lừa địch, giữ bí mật đến cùng con đường vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam”! Lại những quả đạn pháo 57 ly bắn đến tàu 56. Do cự li quá gần nên tiếng nổ đã kích nổi tàu 56 lên khỏi mặt nước, khiến cho cả khối thép uốn mình run bần bật theo vòng xoáy của chân vịt. Nguy cơ các khối bộc phá có thể tự  kích nổ như một số tàu đã gặp! CTV Đỗ Như Sạn đề nghị với ban chỉ huy, là cho các vị trí rút kíp nổ ra khỏi các khối thuốc.Tàu địch lại bắn rát hơn.CTV Đỗ Như Sạn lại trấn an: “Các đồng chí cứ bình tỉnh, nó bắn chưa chắc đã trúng, trúng chưa chắc đã chết!” Chúng tôi ai nấy như được tiếp thêm sức mạnh nên vững tin hơn. Đêm càng về khuya trời càng lạnh, sóng gió càng lớn khiến ai nấy run cầm cập, một số anh em yếu sóng nôn  thốc nôn tháo.Tôi nhìn qua CTV Sạn thấy anh ói ra nước vàng, tự dưng nước mắt tôi chảy ra... Lại một chiếc Tuần dương nữa đến gần. Đêm tối chúng tôi nhìn nó như hòn đảo trôi, chạy cắt ngang hướng tiến tàu 56. Thuyền trưởng Ba thấy “ngon ăn” bèn nói với chiến sỹ hàng hải Phạm Phong Đê (anh đã hy sinh 1972), là cho máy tăng hết tốc độ lao thẳng vào nó! Nhưng CTV Đỗ Như Sạn đã kịp ngăn lại...Chúng lại tiếp tục bắn uy hiếp và đánh tín hiệu hỏi tàu ta mang quốc tịch nước nào? Chạy từ đâu tới? Chở hàng gì? Bắt ta phải dừng máy để chúng sang kiểm tra?...CTV Đỗ Như Sạn nói dứt khoát với báo vụ số 1: Nghuyễn Văn Nghiệp, là không được trả lời! Nếu trả lời thì nó sẽ truy tận gốc, trốc tận rễ, rồi vô tình ta tự bạch với nó là “con ở bụi này”...       
       Nhưng các thủy thủ đều nghĩ, sớm muộn gì thì cũng đánh nhau! Cũng hy sinh thôi, bởi chúng đã bắt quả tang tàu “đánh cá” của ta đã vào sâu trong bến Lộ Giao- vùng quản lý của quân giải phóng. Thế nhưng CTV Sạn, với phương châm còn đánh lừa được địch thì còn thi gan, đấu trí với nó. Một số thuỷ thủ lại trúng đạn thù nhưng chưa nặng, còn chiến đấu tốt. Tâm lý lúc này ai cũng muốn được nổ súng, ai cũng muốn được làm nên một phút huy hoàng trước khi chết.  Nhưng đối với CTV Đỗ Như Sạn, thì anh cho cái chết lúc này chưa cần thiết; bởi nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam đang cần đến những con người và những con tàu... Mặt khác nói đến cái chết sợ anh em hoang mang ảnh hưởng đến sức chiến
đấu, nên anh giữ bí mật cả những cái túi nilon (quan tài lính TKS) mang theo chuyến
này; đến cả những bức điện từ căn cứ gữi đến thông báo về chiến sự của các tàu: T235 vào bến Vũng Rô, T165 vào bến Vàm Lũng (Cà Mau) và T43 vào bến Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã bị định bắn chìm, có tàu đã hy sinh không còn một ai...
        Dẫu biết ngàn cân treo sợi tóc, sự sống của con tàu và 17 thuyền viên rất mong manh, nhưng CTV Sạn vẫn đặt nềm tin vào thắng lợi! Nếu thắng được trận này- anh nghĩ, ta sẽ  rút ra được bài học “ứng xử trên biển đông” cho các con tàu trong đơn vị, lấy đó làm phương châm hành động.cho những chuyến đi sau “Sự kiện Vũng Rô-1968”, mà anh em hay  nói đùa: “một đi không trở lại”...
        Trời càng sáng dần, tàu địch đã bớt hung hăng, thuyền trưởng Ba cho tàu ta quay ra biển đông, đi hướng 90 độ. Theo sự chỉ đạo của Căn cứ và đối sách của cấp uỷ tàu: Khẩn trương kéo những tấm lưới đánh cá phủ lên các khẩu pháo, phủ kín các hầm hàng; đồng thời cho thuỷ thủ lấy những con cá gỗ ra móc lên các mảng lưới để đánh lừa địch.Các thuỷ thủ còn kéo lá cờ “mặt trời” của Nhật lên trên cột cao nhất ..Làm xong mọi công việc nghi trang thì trời sáng bảnh.  Lúc này bầy tàu chiến đã tản bớt, chỉ con 3 tàu Tuần dương, sơn màu ghi xán, to như những hòn đảo nổi, và ba chiếc máy bay đen sì của Hạm đội 7 Mĩ vẫn bám theo “con mồi”; nếu bây giờ trí óc tôi không lẫn, thì các con tàu đó có số hiệu: 2882, 2884 và 2886: (qua bài viết này, những người lính Mĩ nếu có điều kiện và còn sống, thì xin liên hệ gặp lại nhau cho vui- N.V).
       Theo chỉ đảo của căn cứ, tàu 56 vẫn tiếp tục chạy ra biển đông mà hướng đến là đảo Ô-Ki-Na-Oa Nhật Bản. Tuy thế 3 tàu Tuần dương và mấy chiếc máy bay Mĩ vẫn đeo bám dai  như đỉa đói, làm cho những chiến binh trên những chiến hạm đó chừng như đã quá mệt mỏi, nên các pháo thủ đều nằm gục lên bệ pháo, chẳng thèm nhìn ngó đến tàu chúng tôi. Dẫu thế, các thuỷ thủ của ta vẫn đề cao cảnh giác: vừa thả câu, vừa vá lưới và luôn thường trực bên các khẩu pháo để khi cần là nổ súng...
      Hết một đêm căng thẳng, đến một ngày sóng gió phủ phàng, tàu 56 vẫn vững vàng hành tiến. Lại một ngày đêm nữa trôi qua. Rồi một ngày đêm nữa...Đến sáng ngày thứ tư, khi tàu 56 sắp vào vùng biển Nhật Bản, thì 3 con tàu Tuần dương và mấy chiếc phi cơ chiến đấu Mĩ  mới từ bỏ hẳn con mồi.
      Từ ngày thứ tư trở đi, chúng tôi ai nấy thở phào nhẹ nhỏm, bởi đã thoát được cái chết. Tàu 56 lại quay hướng về căn cứ  mang theo 17 thuỷ thủ, tuy có bị thương nhưng sức khoẻ vẫn còn có khả năng nhận nhiệm vụ đi tiếp...

   Khúc hồi tưởng

        Thấm thoát từ cái đêm không chết ấy đến hôm nay đã 41 năm, 17 cán bộ chiến sĩ trên con TKS 56 ngày đó, và các năm sau này... nhiều người đã hy sinh; nhiều người đã mất vì tuổi già, và nhiều người cũng đã qua đời vì bệnh hiểm nghèo... Số sống đến giờ chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nhưng mà cuộc sống của “lính không số” thì quá ư gian nan và thiệt thòi. CTV Đỗ Như Sạn của tôi cũng không ngoài sự truân chuyên vất vã đó: Anh lên bờ  (1975) với quân hàm đại uý, trên điều động về làm chính uỷ trường kĩ thuật Cát Lái, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Đến đầu thập niên những năm 1980: khi “phong trào bằng cấp nước ngoài” thịnh hành, thì anh được trên cho về nghỉ chế độ hưu ở quê nhà, quân hàm  hưởng lương tương đương thiếu tá. Sau bao nhiêu năm biền biệt xa quê, xa gia đình vợ con nay mới được về đoàn tụ. Nhưng nỗi mừng vui vừa chớm khoé miệng thì đã vội tắt: Người vợ thân yêu của anh lâm bệnh nặng và đã qua đời ngay trong năm đó. Thế là cảnh “gà trống nuôi con” trong những năm kinh tế ngặt nghèo, khiến cho thể xác anh teo tóp, đôi mắt anh mờ đục, hai tai anh nghểnh ngãng...Tuy vậy nhưng với cái khí chất của người CTV có bản lĩnh vững vàng, anh đã giữ vững tay lái cho con “ thuyền gia đình” vượt lên tất cả...
          Với tôi: nỗi thương nhớ, sự kính phục và cả sự biết ơn người CTV Đỗ Như Sạn thì không bao giờ quên được! Nhờ có anh “giữ vựng ngọn cờ ” mà anh em chúng tôi thoát được cái chết trong đêm Tết ấy. Thế nhưng nhớ anh để mà nhớ, thương anh để mà thương chứ giúp anh về kinh tế thì chúng tôi cũng không hơn gì đại uý Đỗ Như Sạn:
“Chín năm kháng chiến gian lao,
Hai mốt năm đánh Mĩ bốn sao gạch dài,
Về quê cày cuốc miệt mài,
Vẫn nghe tiếng sóng bên tai thì thầm”...

                                                                         
                                                                           Sông Hồng: một chiều giông 7. 2009
                                                                                  (Trần Hậu Vệ CCB tàu KS)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 11 Tháng Bảy, 2009, 04:00:45 pm
Chú thích: Bác Chính Trị Viên Đỗ Như Sạn còn có tên gọi là Đỗ Văn Sạn!  :) Quê quán của Bác Sạn tôi giới thiệu ở trên có thể chưa chính xác lắm, do lâu ngày quá tôi không còn nhớ rõ. Đồng đội nào biết xin cung cấp thông tin giúp tôi nhé. Cảm ơn các đồng đội!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 11 Tháng Bảy, 2009, 04:47:27 pm
Anh Đỗ Văn Sạn hiện đang sống tại phường Bắc Sơn, thị xã Sầm Sơn tỉnh Thanh Hóa, chỉ cách nhà nghỉ của Đoàn an dưỡng 296 khoảng chưa đầy một km. Trong dịp đi nghỉ hè hồi cuối tháng 4 - đầu tháng 5/2009 vừa rồi tôi đến chỗ anh Nhu chơi và cùng anh Nhu đến nhà anh Sạn chơi. Sau đó tôi còn đến nhà anh Sạn, anh Nhu 3 - 4 lần nữa. Rất vui. Anh Nhu ở phường Trung Sơn, Sầm Sơn Thanh Hóa, cách Đoàn an dưỡng 296 khoảng hơn 1 km. Anh Sạn vẫn khỏe, rất chăm thể dục và đi bộ đều đặn, ngày 2 lần sáng và chiều. Mỗi tội tai anh hơi nặng. Chuyện của gia đình anh Sạn khi ở Triệu Sơn rất dài và rất thương tâm, tôi sẽ nói sau. Hiện tại anh Sạn sống cùng vợ thứ 2 cũng quê ở Sầm Sơn và 1 con trai đang học năm cuối trường Đại học Hồng Đức Thanh Hóa, chắc tháng 8 này ra trường
Xin nói thêm, nhà anh Sạn ở gàn ủy ban phường Bắc Sơn, đến ủy ban hỏi ai cũng biết anh Sạn cả


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 14 Tháng Bảy, 2009, 03:57:57 pm
Sau mười năm báo tử

 

(VOV) - Đã có một buổi lễ truy điệu dành cho anh và đồng đội, khi đơn vị được tin con tàu đã anh dũng đối đầu với Hạm đội 7 của Mỹ và hy sinh trên vùng biển Cà Mau cuối trời Tổ quốc.
Bằn bặt tin tức, giữa những mất mát khốc liệt của cuộc chiến tranh, đơn vị, gia đình, người thân đều chẳng còn chút hy vọng nào nữa. Nhưng một chiều mùa thu của hơn mười năm sau trận đánh ấy, anh đột ngột trở về...

Thầy giáo trẻ và lá đơn viết bằng máu
[/b]
Năm 1964, trong không khí sục sôi đánh Mỹ, xếp lại những trang giáo án chứa chan bầu nhiệt huyết, tạm biệt giảng đường, mái trường Đại học Hàng hải mến thương, cất sâu vào trong tim mối tình đầu vừa chớm nở..., thầy giáo trẻ Lê Xuân Khảm tình nguyện vào chiến trường. Với lá đơn ghi bằng máu của mình, anh được về với những con tàu không số huyền thoại, tham gia vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam, bằng đường Hồ Chí Minh bí mật trên biển Đông.
Trong chuyến đi thứ 3 của mình, cũng là chuyến đi “định mệnh” lần ấy, từ tàu 121, Lê Xuân Khảm được bổ sung về tàu số 69, làm nhiệm vụ đưa vũ khí vào Khu 9 (Cà Mau) trong vai trò thợ máy. Tàu 69 được cải dạng là tàu nghiên cứu khoa học biển của nước ngoài, trên tàu được “trang bị các loại máy móc, thiết bị rất hiện đại” nhưng thực tế trên tàu chỉ có một máy chính và một số dụng cụ hàng hải thô sơ như thước đo độ góc (xích-tăng), la bàn... Vượt qua mấy ngàn hải lý trong sóng gió của thời tiết xấu và tránh địch, tàu 69 đã vào bến an toàn. Khi giao hàng xong, tàu quay ra gần đến Côn Đảo thì bất ngờ bị địch phát hiện và tấn công.
Trận đánh không cân sức giữa một bên là Hạm đội 7 của Mỹ được trang bị lực lượng hùng hậu và vũ khí tối tân với một bên là tàu Không số quân số ít, vũ khí thô sơ. Dù vậy cán bộ, chiến sĩ trên tàu vẫn bám trụ, chiến đấu kiên cường, sẵn sàng hy sinh cùng con tàu chứ nhất quyết không để tàu rơi vào tay địch, không thể để lộ bí mật con đường trên biển…
Sau mấy ngày đêm cầm cự quần nhau với địch, người bị thương thay thế vị trí người hy sinh, đến đêm ngày 1/1/1967, tàu 69 chạy vào được cửa sông Vàm Lũng (Cà Mau) thì thoát khỏi vòng vây của địch. Anh em trên tàu hy sinh và  mất tích gần hết, con tàu bị hư hỏng nặng, không đủ sức quay về Bắc được nữa.
Lê Xuân Khảm cùng số chiến sĩ còn lại của tàu 69 gia nhập vào đơn vị quân giải phóng, tham gia chiến đấu trên chiến trường U Minh. Chiến tranh, điều kiện thông tin liên lạc khó khăn, chiến trường lại nằm giữa rừng tràm mênh mông, cho nên anh Khảm “bặt vô âm tín” với đơn vị cũ và gia đình từ đó.
Ai cũng buộc phải tin rằng anh và đồng đội đã hy sinh cùng con tàu. Đơn vị cũ làm lễ truy điệu và gửi tư trang còn lại của anh về cho gia đình.
Người cha già run run lần giở chiếc ba lô của con trai, nước mắt ông lặng lẽ rơi xuống chiếc áo bộ đội bạc màu,  sờn rách. Ông cảm nhận được từ chiếc áo hơi ấm quen thuộc của đứa con trai thân yêu, nó đang thật gần mà cũng thật xa vời. Ông nghĩ, đơn vị đã gửi tư trang về cho gia đình, thế cũng có nghĩa là con trai của mình không bao giờ còn trở lại nữa. Ông lặng lẽ thắp nén hương lên bàn thờ và lầm rầm cầu khấn, mong tổ tiên phù hộ cho đứa con trai ông được thanh thản ở nơi chiến trường xa.
Người con gái anh yêu trước khi ra chiến trường đã trở thành cô giáo, sau nhiều năm khắc khoải chờ đợi mà vẫn bặt tin người yêu, cũng đành chôn chặt vào tim những kỉ niệm của mối tình đầu để đi tìm bến bờ hạnh phúc mới.
Nước mắt ngày trở về
[/b]
Ngày 30/4/1975 lịch sử, dõi nhìn theo bóng những người con của xóm làng may mắn trở về từ chiến trường mà không thấy đứa con trai yêu quý của mình, lòng cha mẹ Lê Xuân Khảm thêm héo hắt.
Thế rồi, có ai ngờ, một buổi chiều cuối thu năm ấy, anh đã trở về. Anh trở về sau mười năm mất tích, trong nỗi mừng vui, sung sướng khôn xiết của người thân. Người mẹ già cứ sờ nắn những vết thương chằng chịt trên khuôn mặt, trên cơ thể con trai mà khóc như chưa bao giờ được khóc, bởi lâu nay bà chỉ dám khóc và gọi tên anh trong những đêm mơ. Bà khóc rồi bà lại cười, bởi con trai bà đây, bằng xương bằng thịt, chững chạc trong bộ quân phục màu xanh. Người mẹ còn tự hào hơn nữa khi giờ đây con trai mình đã là thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Sông Hồng anh hùng.
Rồi, hạnh phúc đã mỉm cười với anh khi anh bén duyên với một cô giáo trường làng, là bạn thân của cô em gái. Một đám cưới đơn sơ mà ngập tràn hạnh phúc được tổ chức nơi quê nhà, năm ấy chú rể 39 tuổi. Sau ngày vui hạnh phúc, để lại người vợ trẻ nơi quê nhà, anh lên đường trở về đơn vị rồi tiếp tục sang chiến trường Campuchia làm nhiệm vụ quốc tế, với những trận đánh mới mà sự khốc liệt cũng không kém.
Từ Mekong đến Phnompenh
[/b]
Đó là trận đánh quyết định, tấn công vào thành phố Phnompenh đêm mùng 7 tháng Giêng năm 1979. Sau nhiều ngày tấn công tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 của ta với sự yểm trợ của không quân, hải quân, thiết giáp, trong đó đặc biệt có sự góp sức của Tiểu đoàn Sông Hồng, do Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm chỉ huy đã đánh bật quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí trọng yếu dọc theo tỉnh lộ 13. Sau khi đã làm chủ được sông Mekong, thừa thắng, quân ta đánh thẳng vào giải phóng thủ đô Phnompenh, giúp giải thoát nhân dân Campuchia  khỏi sự đàn áp của quân Khmer Đỏ. Trong hồi ký của mình, Thượng tướng Hoàng Cầm nhận định: “Nếu không có sự hỗ trợ của Hải quân thì Quân đoàn 4 không thể tiến nhanh vào giải phóng Phnompenh như thế...” Nhận định của Thượng tướng Hoàng Cầm đã khẳng định vai trò to lớn của lực lượng hải quân, trong đó có sự góp công của Tiểu đoàn Sông Hồng với người chỉ huy tài ba Lê Xuân Khảm. Hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, Tiểu đoàn Sông Hồng hành quân từ miền Tây Nam bộ ra miền Bắc để nhận nhiệm vụ mới tại Thủ đô Hà Nội.
Trải qua gần 20 năm lăn lộn khắp các chiến trường vào Nam ra Bắc, nhiều lần đối mặt với cái chết trong gang tấc, đã từng “được làm lễ truy điệu sống”, Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm lại trở về với mái trường ĐH Hàng hải thân yêu. Với nhiệm vụ là trợ lý hiệu trưởng, dù sức khoẻ không cho phép ông trực tiếp đứng trên bục giảng nữa nhưng tấm lòng, tình thương yêu của người thầy, người chiến sỹ trong ông vẫn luôn hướng về học sinh.
Tôi gặp thầy giáo - Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm trong dịp ông cùng đồng đội trở lại thăm chiến trường xưa tại đất mũi Cà Mau. Ông xúc động chỉ cho chúng tôi biết nơi con tàu 69 của ông nằm lại ngày ấy, cửa sông Vàm Lũng như một chứng tích vẫn còn đây mà đồng đội của ông giờ đang ở nơi nào...! Chúng tôi cùng thầy Khảm thắp nén hương thơm, thả cánh hoa tươi xuống dòng sông cửa biển để tưởng nhớ những người đã hy sinh, những người đã hiến dâng  máu xương của mình cho ngày độc lập. Tình yêu biển của ông mãi còn được thắp sáng bởi hai người con trai của ông - hai người thuyền trưởng của những con tàu lớn, hiện đại hôm nay đang giữ gìn và nối tiếp truyền thống anh dũng của cha ông./.
Việt Anh (Theo TNVN)
(Báo "Đất Mũi online")
[/i]


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 14 Tháng Bảy, 2009, 10:50:16 pm
(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/8.jpg)

Bác Nguyễn Tường, người đã chăm sóc phần mộ liệt sĩ TKS suốt 35 năm, và nhà văn Đình Kính. Ảnh do Trần Hậu Vệ chụp.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 14 Tháng Bảy, 2009, 10:56:42 pm
(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/5.jpg)

Tôi Trần Hậu Vệ, tuổi 19 với màu áo lính Hải quân!

"Xưa thời sóng gió đại dương,
Say mê với những chiến trường gần xa;
Nay về thì tuổi đã già,
Biết làm chi để giúp nhà hỡi em?!"


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 14 Tháng Bảy, 2009, 11:11:23 pm
(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/7.jpg)

Ảnh chụp năm 1964, một số chiến sĩ tàu 56 sau chuyến Bà Rịa về, chụp kỷ niệm cùng các thủ trưởng đoàn TKS (đoàn 125): Hàng đứng, từ phải sang, thứ nhất là CTV Đỗ Như Sạn, thứ 3 là Chỉnh ủy Võ Huy Phúc, thứ 5 Lữ đoàn trưởng Huỳnh Công Đạo, đứng cuối là Trưởng phòng tuyên huấn Nguyễn Văn Phát; Hàng ngồi, từ phải qua, thứ 2 là thuỷ thủ Trần Hậu Vệ, thứ 3 là thuỷ thủ Hồ Văn Kiêm (nay là đại tá Lữ trưởng 125 đã về hưu). Các thuỷ thủ còn lại đều đi tàu 121....


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 16 Tháng Bảy, 2009, 12:15:41 pm
(http://image.motofunvn.com/images/9Ov21967.jpg)
14 người lính của tau 43 đã được chị Đặng Thùy Trâm chăm sóc chữa trị tại bẹnh xá Đức Phổ. Người ngồi thứ hai từ trái qua phải là ông Lư Công Hào
Kí ức của một người lính Tàu không số
Những chuyến tàu bi tráng
Một người trong số đó là ông Lưu Công Hào - thủy thủ của tàu 43 lữ đoàn 125 hải quân. Gần 40 năm đã qua, những ký ức về chị Thùy vẫn vẹn nguyên trong ông, hơn thế ông đã nâng niu gìn giữ những kỷ vật của chị Thùy.
Gọi là "tàu không số" nhưng thật ra các tàu đều có số hiệu tại đơn vị, chỉ khi tiến hành thâm nhập vào miền Nam để tiếp tế vũ khí mới tùy theo từng vùng biển đi qua mà con tàu có thể mang nhiều số hiệu khác nhau.
Con tàu vận tải vũ khí vào Đức Phổ mang số hiệu 43 là một trong bốn con tàu tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam dịp tổng tấn công xuân Mậu Thân 1968 (ba chiếc kia là tàu 235 do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy vào Hòn Hèo, Khánh Hòa; tàu 165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy đi vào bến Vàm Lũng, Cà Mau; và tàu 56 do thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba - Ba Râu - chỉ huy vào bến Lô Giao, Bình Định).
Bốn tàu ra đi nhưng chỉ có tàu 56 trở về, ba chiếc còn lại đều đụng độ với đối phương và hủy tàu. Trận đánh của tàu 43 sau này được thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng kể lại với nhà văn Nguyên Ngọc khi ông đi làm bộ phim Đường mòn trên biển Đông và trong câu chuyện ấy thuyền trưởng Thắng đã kể về nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm...
Và từ sợi dây mong manh ấy nối dài đến khi những trang nhật ký của chị Thùy "trở về" vào năm ngoái thì miền ký ức của người lính tàu không số chợt bừng thức. Ông Hào đã ngắm nhìn lại cuốn sổ nhỏ ngày xưa, tấm hình chị Thùy chụp khi còn là học sinh ở Hà Nội.
Sau trận chiến không cân sức với đối phương khi tàu vừa chuẩn bị quay mũi lao vào bến để xuống hàng ở Đức Phổ, ban chỉ huy quyết định hủy tàu, có ba anh em trên tàu hi sinh là Vũ Văn Ruệ, Võ Nho Tòng và Phạm Văn Rai, còn 14 chiến sĩ nhưng bị thương mất 11 người, chính bà con ở thôn Quy Thiện, xã Phổ Hiệp đã cưu mang đùm bọc anh em trong những ngày nguy khốn đó.
Sau mười ngày đêm nằm dưới hầm bí mật, trên mặt đất đối phương ập vào làng càn quét truy tìm nhưng không sao tìm thấy dấu vết. Thật kỳ lạ, lòng dân nơi đây đã che chở an toàn cho tất cả. Sau đó các thương binh được anh em du kích cáng lên bệnh xá, nhưng hai đêm liền đều gặp phục kích phải quay lại, đêm thứ ba mới thoát được. Hơn một ngày rưỡi xuyên rừng, vào chiều tối hôm sau các anh em thủy thủ của tàu 43 mới đến được bệnh xá của chị Thùy.
Một tháng ở bệnh viện
Ký ức của ông Hào vẫn còn vẹn nguyên hình ảnh của bệnh xá giữa rừng ấy. Hai ngày sau khi các chiến sĩ “đoàn tàu không số” lên đến bệnh xá thì chị Thùy mới đi công tác về.
Nhìn vết thương của anh em, chị không cầm được nước mắt: “Các anh đã về đến đây cứ yên tâm điều trị, nhanh chóng phục hồi sức khỏe để còn tiếp tục chiến đấu”.
Chiến trường Khu 5 cũng như cả chiến trường miền Nam sau Tết Mậu Thân vô cùng khốn khó và khốc liệt. Những thương binh như ông Hào được tiêu chuẩn là ăn cơm với rau má chấm cá chượp, còn chị Thùy và các anh em trong bệnh xá phải ăn độn khoai lang.
Nạn đói lại hoành hành bà con đồng bào miền tây Quảng Ngãi, những ngày ấy toàn bệnh xá đều thực hiện khẩu lệnh: Vì đồng bào Ba Tơ, mỗi người dành nửa khẩu phần ăn của mình để cứu đói cho bà con dân tộc thiểu số.
Những chuyến đi về đồng bằng nhận lương thực, thuốc men lên để chăm sóc thương binh dạo ấy vô cùng nguy hiểm vì bị phục kích, rình rập, bơ gạo mang lên đến bệnh xá lại chia ra một nửa để cứu đói cho đồng bào.
Gian khó vậy nhưng ai cũng lạc quan, niềm lạc quan bắt đầu từ chị Thùy, từ tấm lòng của chị, những tâm sự của chị và cả những dự định tương lai của chị.
Ngay trong những ngày ấy, chị Thùy viết lưu bút cho người lính trẻ Lưu Công Hào mà chị coi như đứa em trai, chị đã mơ đến một ngày không xa “chị sẽ đến Đồ Sơn nghỉ mát, và một buổi chiều nào đó trên bãi biển Đồ Sơn chị lại được gặp em, được nắm tay em (cánh tay đau đã làm em mất ngủ mấy đêm ở trạm này lúc ấy đã lành từ lâu rồi em nhỉ...)”.
Gần 40 năm rồi, ông Hào vẫn nhớ những buổi trưa, tranh thủ ánh nắng hiếm hoi chị Thùy mang dụng cụ y tế, bông băng ra phơi. Sợ máy bay phát hiện, ông Hào trèo lên cây kéo kín tán lá ngụy trang, tiếng chị Thùy nhẹ nhàng nhắc: “Cẩn thận Hào nghe, cẩn thận kẻo ngã đấy em nhé”...
Những ngày sau đó, khi một số anh em thương binh hồi phục, các anh vào rừng chặt những cây gỗ thẳng, đều đặn làm thành những chiếc ghế nhỏ tặng bệnh xá, làm những lan can để anh em thương binh vịn tay tập đi lại, làm cả một khu nghỉ ngơi cho thương binh (những chiếc ghế này đã được chị nhắc đến trong những dòng nhật ký hôm chia tay). Đó là những ngày rất đẹp trong ký ức anh lính trẻ Lưu Công Hào dù mỗi ngày phải luôn đối mặt với muôn vàn hiểm nguy.
Một tháng điều trị ở bệnh xá qua mau, rồi một buổi chiều anh em thủy thủ của “đoàn tàu không số” nhận lệnh lên đường, không biết tự bao giờ chị Thùy đã chuẩn bị đầy đủ tăng, võng, balô, ruột tượng đựng gạo... để anh em vượt Trường Sơn ra Bắc, trở lại với những con tàu để tiếp tục chi viện vũ khí cho chiến trường Nam bộ.
Ngày chia tay, chị Thùy đã nắn nót ghi vào cuốn sổ nhỏ của Lưu Công Hào ngoài những dòng lưu bút là địa chỉ của người em gái Đặng Phương Trâm, địa chỉ gia đình để anh lính trẻ khi về đến Hà Nội sẽ ghé thăm...
Sau ba tháng vượt Trường Sơn, những người lính đã về đến hậu phương, nhưng công việc của những người lính tàu không số luôn là một bí mật đặc biệt, ông Hào không thể đến thăm gia đình chị Thùy và cô em gái Phương Trâm như chị Thùy dặn dò.
Rồi những chuyến đi vào Nam tiếp tục cho đến ngày hòa bình. Những dòng chữ và tấm hình chị Thùy tặng ông Hào vẫn gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng. Bây giờ, cuốn sổ tay bé tí với những dòng lưu bút, tấm hình chị Thùy tặng đã được ông Hào trao lại cho Bảo tàng Hải quân (tại thành phố Hải Phòng), đặt ở một vị trí trang trọng, thảng hoặc ông Hào lại vào nhìn để nhớ về một phần đời không thể nào quên.
LÊ ĐỨC DỤC
(Theo Việt báo.vn)



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 20 Tháng Bảy, 2009, 09:38:43 am
Hồi kí của một cựu chiến binh tàu không số

Ong Nguyễn Xuân Thơm, nguyên Hàng hải số 1, đội tàu số 5, Thuyền trưởng 121, 621, 653, 673 (không số) Hải đoàn 2, đoàn 125, nguyên Tiểu đoàn trưởng 7 Anh hùng thuộc Hải đoàn 1, Hạm đội 171, Phó chủ tịch Hội Truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc, Trưởng Ban liên lạc truyền thống tàu không số khu vực TP Hồ Chí Minh.Trong hồi kí của mình, ông kể về 2 chuyến đi chở vũ khí vào Bến Tre và Cà Mau. Chúng tôi xin giới thiệu với ban đọc QSVN về hai chuyến đi này của ông

Chuyến đầu tiên vào Vàm Khâu Băng (Bến Tre)


 Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất; đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã đến cơ quan Đoàn 759 để khen ngợi, đồng thời trực tiếp giao nhận nhiệm vụ tiếp theo cho những chiếc tàu sắt số 5 mới hạ thủy của đoàn tàu không số. Trung ương Cục miền Nam cũng tỏ ý rất phấn khởi khi Trung ương Đảng đã sử dụng tàu sắt tương đối hiện đại chi viện vũ khí cho chiến trường miền Tây Nam Bộ
Đội tàu số 5 được biên chế 18 người, gồm: Thuyền trưởng Trần Phong, Thuyền phó Nguyễn Đức Dục, Lê Văn Thêm, Chính trị viên Đăng Văn Thanh, thủy thủ là Huỳnh Văn Tiến, hàng hải là tôi - Nguyễn Xuân Thơm. Máy trưởng Lê Thành Tô, Quyết, Lợi, Hoàng. Báo vụ: Di, Vinh, cùng một số đồng chí khác. Hầu hết là cán bộ tập kết và quân giải phóng miền Nam ra.
Tàu sắt số 5 do Xưởng đóng tàu 3 Hải Phòng đóng mới. Đây là loại tàu 100 tấn, chiều dài 30 m, ngang 5,80 m, độ sâu mớn nước 2,5 m.
Tàu được chia ra bốn ngành riêng biệt.
Ngành thứ nhất là ngành hàng hải được biên chế 2 người, hàng hải số 1 và hàng hải số 2 do tôi chịu trách nhiệm quản lý trang thiết bị hàng hải. Ngành thứ hai là ngành boong, 5 người, có 1 người phụ trách là thủy thủ trưởng, 3 khẩu 12,7, đội trưởng và y tá. Ngành thứ 3 là báo vụ được biên chế 2 báo vụ. Ngành thứ 4 là ngành cơ điện, được biên chế 5 người (một máy trưởng, 3 máy 1, 2, 3 một chấm dấu).
Cán bộ tàu là một thuyền trưởng, 3 thuyền phó, 1 chính trị viên. Nhiệm vụ của chiếc tàu sắt số 5 chuyến đi này là vào Bến Tre (cửa Khâu Băng).
Ngày 17/7/1963, tàu xuất phát tại K15 Đồ Sơn. Trước một ngày, đội thuyền viên được xe ca đưa từ số 3 đường Thành Hà Nội xuống Đồ Sơn để tiến hành công tác chuẩn bị nhận bàn giao tàu đã xuống đầy hàng, dầu, nước, thực phẩm và các trang thiết bị.
Thuyền trưởng nắm giữ chặt chẽ 2 ngành hàng hải và ngành máy, chính trị viên nắm giữ chặt 2 ngành báo vụ và boong. Một thế mạnh của những người đi biển xa, đường dài (đi B) là không bị say sóng.
Tôi và một số đồng chí khác ít bị say sóng nên khi đi biển gặp sóng to, gió lớn mình có thể làm tốt việc của mình và giúp đỡ cho đồng đội, làm thay việc làm của họ để bảo đảm hành trình con tàu đi biển được liên tục không bị gián đoạn. Thuyền trưởng Trần Phong lần đầu tiên đi biển xa dài ngày không chịu được sóng gió.
Tuy trước khi về đoàn tàu không số anh đã được đào tạo sĩ quan hải quân tại Trung Quốc và đã kinh qua nhiệm vụ thuyền trưởng nhiều năm, nhưng chưa có dịp đi biển xa dài ngày bao giờ.
Đợt đi biển lần này đúng vào mùa gió Tây Nam rất mạnh, cấp 6, 7 (tháng 7). Tàu phải chạy ngược sóng, ngược gió làm cho những người say sóng càng khó chịu và dễ nôn mửa hơn.
Tôi là người phụ trách hàng hải, luôn quan tâm đặc biệt hướng lái theo la bàn của mỗi ca trực 4 tiếng đồng hồ, theo dõi chỉ số máy tính đường các ca ghi chép khi giao ca, tổng hợp, khi thuyền trưởng hỏi đến sẽ cung cấp kịp thời.
Do đó, bất kỳ lúc nào, hàng hải với thuyền trưởng cũng như bóng với hình, không kể trong ca hay ngoài ca, thuyền trưởng ới một cái là có ngay, nhất là lúc tàu bị lạc bến.
Lúc bấy giờ, cán bộ, chiến sĩ đoàn tàu không số chưa được học tập và ứng dụng thiên văn hàng hải nên chỉ áp dụng phương pháp đi biển theo dự đoán nhích dần, do đó việc lạc bến không thể tránh khỏi.
Theo dự đoán, sau 6 ngày đêm tàu sẽ đến điểm chuyển hướng vào vàm Khâu Băng thuộc tỉnh Bến Tre. Nhưng buồn thay, vị trí tàu thực tế không phải như dự đoán mà bị tuột lại 40 hải lý.
Vì lẽ đó khi tàu tiếp cận bờ không đúng, mà vào đúng cửa đại, cửa tiểu gần phía Vũng Tàu. Trong chuyến đi này có người địa phương Bến Tre là đồng chí Huỳnh Văn Tiến, thủy thủ trên tàu.
2 giờ sáng ngày 3/8/1963, Ban chỉ huy tàu hội ý, xin ý kiến chi ủy nhất trí thực hiện phương án táo bạo, bắt người trên ghe đánh cá của dân, đưa lên tàu mình làm người dẫn đường, tránh các cồn cạn (Bến Tre có nhiều cồn cát ngoài khơi rất nguy hiểm, nếu không khéo sẽ bị mắc cạn và bị địch phát hiện, không hoàn thành nhiệm vụ).
Sau khi có người dân dẫn đường, tàu chạy về hướng Nam về vàm Khâu Băng, khoảng cách 40 hải lý. Khi tàu lọt vào vàm Khâu Băng thì đã 7 giờ sáng.
Thấy tàu sắt to lớn lần đầu vào Bến Tre, nhân dân đang làm đồng ùa nhau chạy ra 2 bên bờ rạch Khâu Băng vẫy tay reo hò vui mừng. Tàu số 5 đưa sâu vào rạch lá dừa nước và cây mắm.
Người của bến tập trung ngụy trang ngay lập tức vì nếu chậm trễ, trưa nắng lên máy bay địch đi tuần tra phát hiện được thì vô cùng nguy hiểm.
Mọi việc diễn ra êm đẹp. Chiếc tàu sắt đầu tiên vào Bến Tre đưa được hơn 62 tấn vũ khí cho chiến trường quê hương Đồng Khởi, cho niềm khát khao của Nữ tướng Nguyễn Thị Định anh hùng.
Đêm 8/8/1963, tàu được lệnh rời Bến Tre trở ra Bắc. Sau 7 ngày tàu về lại đến K15 Đồ Sơn, giao cho K15 trông coi.
Anh em đội tàu chúng tôi được xe ca đưa lên Hà Nội nghỉ ngơi an dưỡng, lấy lại sức lực để chuẩn bị cho những chuyến đi tiếp
 
NGUYỄN XUÂN THƠM
(CCB Tàu không số)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 20 Tháng Bảy, 2009, 10:42:48 am
Chúng tôi xin giới thiệu tiếp hồi kí của ông Nguyễn Xuân Thơm về chuyến đi thứ hai
Vào bến Vàm Lũng (Cà Mau)


Ngày 10/10/1963, Đoàn 759 cho xe ca chở anh em Đội tàu số 5 chúng tôi từ số 3 đường Thành Hà Nội xuống K15 Đồ Sơn để làm công tác chuẩn bị.
Biên chế vẫn giữ nguyên như cũ. Chuyến thứ hai này chúng tôi được giao nhiệm vụ vào bến Vàm Lũng - Cà Mau.
Mọi diễn biến của chuyến đi thứ 2 cũng giống như chuyến đi đầu tiên, chỉ có khác nhau về thời điểm (tháng 10). Thời điểm khác nhau thì thời tiết cũng khác nhau đôi chút.
Những ngày tàu đi vào hướng Nam ít bị sóng vỗ mạnh vào mũi tàu mà dường như sóng đẩy lái tàu nhiều hơn. Máy chạy êm hơn, ít rùng mình hơn chuyến đầu tiên.
Theo dự đoán, sau 7 ngày đêm, tàu sẽ đến điểm chuyển hướng vào cửa Vàm Lũng. Đêm hôm đó, toàn bộ anh em trên tàu căng mắt ra quan sát đèn Hòn Khoai mà không thấy đâu cả, cũng không thấy rặng cây đước mũi Cà Mau.
Chuyến đi này người địa phương nhận dạng mục tiêu bờ là tôi, xuất thân từ bến Vàm Lũng mà ra. Tôi có nhận định là tàu đang đi vượt khỏi Hòn Khoai trên 30' nên không thấy đèn Hòn Khoai và bờ đâu cả (cự ly chiếu sáng đèn Hòn Khoai là 30').
Lúc này đồng chí Bí thư chi bộ triệu tập chi bộ họp khẩn cấp, lấy biểu quyết chọn một trong hai, cho tàu vào hay quay ra khơi đợi đêm sau vào. Lúc này tôi mới là đảng viên chính thức được một tháng tuổi Đảng, với trách nhiệm là người địa phương nhận dạng mục tiêu địa hình thực địa có chính xác hay không đồng nghĩa với thành công hay thất bại.
Theo ý kiến của tôi, đây là vùng biển phía Nam Hòn Khoai nên cho tàu chạy hướng 000o.0. Sau một tiếng đồng hồ sẽ bắt được đèn Hòn Khoai và sau đó thẳng hướng vào cửa Rạch Gốc, cách cửa Vàm Lũng 7 km về phía Nam, nếu thuận lợi ta cho vào cửa Rạch Gốc luôn.
Ở đó có đông ngư dân, thuyền bè đông đúc, quân ta dễ trà trộn với ngư dân, dễ che mắt địch hơn. Chi bộ nhất trí biểu quyết cho tàu vào.
Đúng như dự đoán, 5 giờ sáng tàu bắt được Hòn Khoai, thẳng vào cửa Rạch Gốc. Đúng 7 giờ tới cửa, do thủy triều xuống tàu không vào được, thả neo phía cửa Bắc.
Xuồng ở bên anh Ba Cụt ra, tổ chức cho bốc hàng. Một chiếc máy bay L19, loại trinh sát từ Hòn Khoai bay vào qua ngang cửa Rạch Gốc thẳng về hướng thị xã Cà Mau, tàu kéo cờ ba sọc ngụy quyền Sài Gòn che mắt địch.
Từ 9 giờ đến 12 giờ hôm đó (ngày 16/10/1963), anh Ba Cụt ở bến Cà Mau huy động ghe đánh cá của ngư dân Rạch Gốc chạy như con thoi vào ra chuyển tải những thùng đạn, bó súng còn thơm mùi thép mới.
Chuyển được 1/2 số súng đạn trên tàu vào bờ, tàu nổi lên, thủy triều bắt đầu lớn. Tàu 55 nhổ neo chạy thẳng vào cửa Rạch Gốc, vào khỏi cửa 100 m, bên trái có Rạch Tắc, cho tàu vào đậu, ngụy trang tạm thời, đợi đến tối nước lên cao nhất, đưa tàu vào ngã ba Dinh Hạn (ngọn cửa Vàm Lũng), ngụy trang kỹ lưỡng chờ bốc hàng tiếp.
Sau ba ngày tàu bốc hàng xong, tàu chuẩn bị xuất bến đi về miền Bắc. Lần này khác hơn lần trước, hàng dằn mũi tàu là củi đước, "sản vật" của rừng Cà Mau. Năm ngày sau khi rời khỏi cửa Vàm Lũng - Cà Mau, tàu chúng tôi về đến K15 Đồ Sơn an toàn.
Sau hai chuyến vận chuyển vũ khí, bài học kinh nghiệm quý giá mà tập thể cán bộ, chiến sĩ Đội tàu số 5 chúng tôi rút ra là: Quy luật thiên nhiên vùng biển Đông của bờ biển Việt Nam là hai luồng thời tiết gió mùa khác nhau: gió mùa Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 9, gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Ở biển Đông Việt Nam, gió mùa thổi mạnh có khi lên đến cấp 6, cấp 7. Sóng cao đến 4-5 m là chuyện thường.
Do đó, tàu đi trên biển Đông, khi mũi tàu đội sóng thì mỗi giờ tàu bị sóng nước đẩy lùi lại 0,5 hải lý hoặc ngược lại. Đó là bài học kinh nghiệm thực tế cho cánh thuyền trưởng của chúng tôi sau này, cho các chuyến đi tiếp theo. Chúng tôi áp dụng bài học kinh nghiệm thực tế trên để đưa con tàu đi đúng bến không còn lạc đường, lạc bến nữa.
Từ chuyến thứ 3 trở đi, Thuyền trưởng là Nguyễn Phan Vinh, Thuyền phó La Minh Tốt, các ngành khác được giữ nguyên như cũ. Trong 3 chuyến đi vào Trà Vinh, cửa Ba Động, tôi còn nhớ có một chuyến chở đồng chí Lê Đức Anh, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và một đại úy pháo binh cùng đoàn tùy tùng, một nhà báo, mang theo máy quay phim, chụp ảnh toàn cảnh những hoạt động của con tàu không số từ trên boong, buồng lái, ca-bin xuống đến khoang máy.
Sau đó cuộn phim đó có gởi theo tàu đem về Hà Nội lưu giữ bí mật. Chúng tôi mong đến ngày thống nhất nước nhà sẽ được xem cuộn phim đó, nhưng không thấy phổ biến trên phương tiện thông tin đại chúng.
Những chiếc tàu Đoàn 759 (tàu không số) như những cái bóng âm thầm lặng lẽ rời bến rồi cặp bến. Những chuyến đi đầy khó khăn gian khổ và căng thẳng. Không chỉ đấu trí với địch mà còn phải vượt qua sóng to, gió lớn, vượt qua thử thách của thiên nhiên. Nhưng trên tất cả là phải vượt lên chính mình.
Thiếu thốn nhọc nhằn, những sự cố trên biển, những lần gặp địch, những lúc lạc bến, những ngày thả trôi, đói ăn lương khô, khát uống nước lã, lúc say sóng, nắng, mưa chúng tôi đều trải qua trong mỗi chuyến đi. Ra đi là xác định cảm tử, sẵn sàng hy sinh, nhưng những cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 không hề nản chí.
Mỗi chuyến đi là một dấu ấn, làm đẹp thêm trang sử của Đoàn 759 (Đoàn 125) đoàn tàu không số, đoàn tàu Hải quân nhân dân Việt Nam hai lần anh hùng.
Ngày 17/9/1964, tạm biệt tàu số 5, tôi và một số anh em quân giải phóng miền Nam (tất cả 24 người) đã qua thử thách được Đoàn 759 đưa về K35 Đồ Sơn học văn hóa. Ngày 13/2/1965 về trường sĩ quan Hải quân đào tạo cán bộ thuyền, tạm xa đội tàu số 5 thân thương, nơi rèn luyện tôi trở thành cán bộ như ngày hôm nay./.
 
NGUYỄN XUÂN THƠM
 (CCB Tàu không số)




Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 21 Tháng Bảy, 2009, 02:07:16 pm
Những chuyến tàu bi tráng
Một người trong số đó là ông Lưu Công Hào - thủy thủ của tàu 43 lữ đoàn 125 hải quân.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ông Lưu Công Hào ( Phải ) và MaGiang ( Trái )
(http://i688.photobucket.com/albums/vv250/quanlem08/IMG_2831.jpg)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Xin pot lai câu chuyện về trân đánh của tàu ông Hào với tàu địch tại bến Đức Phổ. Sau đó 14 thủy thủ bị thương đã được bệnh xá Đặng Thùy Trâm cứu chữa


Hôm qua chúng tôi họp mặt ở Tuần Châu, anh hỏi tôi dạo này có hay liên lạc với anh Nhu không? ( Anh Nhu là thuyền phó của tàu tôi những năm 1972, 1973 ). Tôi bảo anh hôm nào lên Hà Nội thì “ rú còi “ cho bọn tôi. Anh nói vào ngày giỗ Đặng Thuỳ Trâm tớ đều lên HN thắp hương. Tôi hỏi vết thương của anh bây giờ còn đau không? Anh vạch bụng chỉ cho sết sẹo và nói : Trong này còn 4 mảnh đạn đang sống chung với anh, những hôm trở trời là biết ngay. Dạo đó BS Trâm chưa gắp ra được. Sao anh biết Trâm? Anh bảo khi báo đài đưa Nhật ký Đặng Thùy Trâm lên anh mới hồi tưởng lại thời gian điều trị ở trạm xá Đức Phổ cũng có một nữ Bác Sỹ tên Trâm. Anh giở cuốn sổ tay ra xem lại thì đúng vì khi đó sau khi rời trạm xá ra Bắc chị Trâm và các anh em bệnh xá đều ghi lưu niệm vào cuốn sổ của anh. Chị Trâm còn gửi quà về gia đình ghi rõ địa chỉ, tên mẹ tên cha của Trâm nhưng khi ra Bắc do nguyên tắc bí mật tổ chức không cho gặp bất cứ ai. Vui chuyện anh kể về trận đánh nhau với máy bay tàu chiến Mỹ năm 1967 - trận đánh mà duyên phận đã đưa anh vào trạm xá Đức Phổ - Trạm trưởng là bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm.
Anh kể : Hôm đó ( tháng 2/1967) Tàu 43 bắt liên lạc với bến Đức Phổ Quảng Nam để bốc hàng, khi chỉ cách bờ chừng 2hải lý thì  bị địch phát hiện, quây bắt. 6 tàu chiến và 2 máy bay lên thẳng quây tàu, gọi loa chiêu hồi, chiêu hàng. Thuyền trưởng Thắng ra lệnh phá vòng vây, chạy vào bờ và đánh trả theo phương án đã định. Anh Hào và các thuỷ thủ: Nhu ( Hiện ở Đồ Sơn Thanh Hoá ) Ruệ ( Thái Bình ) Tòng, Rai ôm DKZ và AK lên boong tàu. Ngay loạt đạn bắn trả đầu tiên của các anh, hai chiếc máy bay lên thẳng hốt hoảng vọt lên cao. Biết không thể chiêu hàng được tàu Việt cộng 6 chiếc tàu đồng loạt trút đạn vào tàu ta. 2 máy bay chao liệng nhả đạn vào ca bin tàu. Rai trúng đạn ngay trên Boong. Anh Tòng chạy lại cứu Rai liền trúng đạn gục xuống chồng lên người Rai. Máy bay địch vừa bay ra, lợi dụng phút ngừng bắn, Hào và Nhu chạy ra cứu Rai, Tòng nhưng cả 2 đã chết. Hai anh khiêng xác đồng đội định đưa xuống hầm tàu nhưng hoả lực địch quá mạnh nên lại phải ôm súng đánh trả. Máy bay địch quay lại phóng rốc két, vãi đạn lên tàu, máy bay bay thấp và gần đến mức còn nhìn thấy rõ mặt phi công.Thuỷ thủ trên tàu kiên cường bắn trả. Một trong 2 máy bay trúng đạn loạng choạng bay vút lên cao rồi đâm sầm xuống biển. ( Đến lúc này lực lượng Bến và bà con địa phương mới biết là tàu ta đánh nhau với tàu địch, lúc trước mọi người tưởng là địch diễn tập. Bến liền cử lực lượng  đến tiếp ứng, chi viện cho anh em tàu)  Cay cú trước thất bại. Địch gọi máy bay và pháo từ tàu chiến ngoài khơi trút đạn vào tàu ta. Hàng loạt đạn 20 ly từ máy bay trút xuống ca bin. Ruệ Hàng hải số 1 trúng đạn chết ngay tại chỗ, ông Thắng quát: Hào vào lái, đưa tàu vào  bờ. (Anh là hàng hải số 2). Con tàu chồm lên, xoay ngang xoay dọc oằn oại trước sóng biển và mưa đạn từ tàu chiến và máy bay địch. Từng loạt đạn 20 ly từ máy bay bắn vào ca bin tàu. Một viên đạn sượt trục tay lái chệnh huớng ghim thẳng vào bụng anh. Bụng đau rát máu chảy ướt dẫm áo quần. Anh cố ghìm lái cho tàu hướng vào bờ truớc khi ngất lịm. Bon địch quyết tâm bắt sống tàu 43. Chúng huy động tiếp bộ binh và xe tăng đến bến. Súng trên tàu và máy bay địch ngừng bắn vì sợ bắn vào bộ binh trên bờ. Trong khoảng thời gian ngừng bắn ít ỏi thuyền trưởng Thắng quyết định cho huỷ tàu. Không để cho địch bắt sống tàu, ông ra lệnh cho anh em rời tàu. Chờ anh em còn sống xuống nước xong ông điểm hoả mìn huỷ tàu rồi nhảy xuống biển cùng anh em bơi vào bờ. Không hiểu sức mạnh nào đã đưa được 14 anh em vừa bị thương vừa kiệt sức bơi được vào bờ. Rất may lực lượng Bến đến kịp nhanh chóng đưa anh em vào hầm bí mật ẩn nấp cứu chữa. Bộ binh, xe tăng đich vừa đến bờ thì dưới biển một tiếng nổ long trời lở đất vang lên. Chiếc tàu tan thành trăm mảnh tung lên rồi chìm dần xuống biển. Mặt biển lênh láng dầu của con tàu vỡ tràn ra, cháy bốc khói đen kịt. Rất nhiều mảnh tàu vỡ, súng đạn và cả xác thuỷ thủ tung lên bờ. Bà con kể lại trong những vật văng lên bờ có cả những mảnh thây người và một đùi người còn nguyên. Địch đã gom toàn bộ mảnh tàu vỡ, mảnh thây người và những thứ văng lên bờ rồi đặt bộc phá cho nổ tung, quay phim chụp ảnh đưa lên báo rêu rao chiến công tiêu diệt tàu Việt cộng. Lại nói về các chiến sỹ còn sống sót được anh em bến đưa vào hầm ẩn nấp, anh Hào nhớ được một nữ du kích chị tên là Phượng đã khiêng anh vào hầm. Năm 2005 anh Hào đã vào thăm lại nơi con tàu đã chìm, nơi đồng đội đã hy sinh, nơi anh bị thương và được cứu sống trong vòng tay bà con Sa Huỳnh. Anh đã gặp lại chị Phượng nguời đã cất dấu và cấp cứu anh và đồng đội. ( Chị Phượng đang sống tại thôn Sa Huỳnh huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Nam) 10 ngày sau các đ/c Bến mới luồn qua vòng vây kẻ thù đưa các chiến sỹ TKS bị thương ra trạm xá của Đặng Thuỳ Trâm. Tại trạm xá anh đựợc chính tay BS đặng Thuỳ Trâm mổ, chữa trị Sau 1 tháng, khi sức khoẻ bình phục cả đội lại vượt Trường Sơn về đơn vị tiếp tục những chuyến tàu chở hàng vào miền Nam.  Anh cười rổn rảng: Ngày đó không được trạm xá cứu chữa thì chắc cũng chết vì vết thương nhiễm trùng thôi. Tôi bình luận : Người như Anh sóng biển đông không vùi dập được, đạn Mỹ không giết được thì anh còn phải sống đến trăm tuổi. Chúng tôi lại nâng ly, ưỡn ngực hứng gió biển Tuần Châu. TKS ngày 29/6/2009




Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 21 Tháng Bảy, 2009, 02:17:33 pm
 Tư liệu kèm bài viết về ông Nguyễn Xuân Thơm
                     Ông Thơm đứng bên trái cạnh chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Phú Trọng
(http://i688.photobucket.com/albums/vv250/quanlem08/IMG_0436.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 21 Tháng Bảy, 2009, 02:50:12 pm
Cám ơn TKS về tấm ảnh mình chụp chung với anh Lưu Công Hào


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: lixeta trong 21 Tháng Bảy, 2009, 02:55:13 pm
Có bài về tàu 41:

http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/56/58/58/83856/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 21 Tháng Bảy, 2009, 03:58:44 pm
Có bài về tàu 41:

http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/56/58/58/83856/Default.aspx
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Cảm ơn Bác lixeta đã pot bài về tàu 41. Tôi và anh bạn cùng cơ quan ngồi xem, anh bảo: Vượt trường Sơn thì có gì là ghê gớm đâu? bọn tao qua lại Trường Sơn như  cơm bữa. Đúng vậy, đối với lính bộ binh vượt Trường Sơn là chuyện quá bình thường vì không vượt Trường Sơn thì làm sao mà vào được chiến trường, nhưng đối với những người lính TKS, chuyện vượt TS ra Bắc lại là kỷ niệm rất đáng nhớ thậm chí rất đau buồn vì chỉ hủy tàu, bị địch đánh chìm tàu ... mới phải bơi vào bờ để vượt TS trở về đơn vị. Ở trang đầu của mục lính 1972 tôi đã kể kỷ niệm đầu tiên khi xuống con tàu không số chất đầy hàng chẩn bị vào Nam, trong đó tôi bày tỏ sự khâm phục anh Bích người thủy thủ hiền lành đã 2 lần vượt TS ra Bắc để rồi lại tiếp tục xuống tàu chở hàng vào chiến trường miền Nam. Cùng một sự việc nhưng ý nghĩa khác nhau và quan niệm của mỗi người về nó cũng khác nhau phải không các Bác. TKS


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 22 Tháng Bảy, 2009, 12:43:22 pm
Tôi ủng hộ ý kiến của TKS, vì lính Tàu không số đi bộ vượt Trường Song ra Bắc để trở về đơn vị là điều hiếm thấy cũng chẳng khác gì lính bộ binh đi Tàu không số vượt Biển Đông ra Bắc để nhanh chóng trở về đơn vị cũ, nơi huấn luyện rồi lại vào Nam chiến đấu (tôi chưa thấy có trường hợp nào như vậy. Nhưng Tàu không số chở cán bộ cao cấp quân đội ta ở chiến trường B ra Bắc họp hoặc công tác thì đã có nhiều rồi


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: ahuuls trong 24 Tháng Bảy, 2009, 12:01:46 am
Anh hùng Phan Vinh:
BẢN ANH HÙNG CA BẤT TỬ TRÊN VÙNG BIỂN HÒN HÈO

21 tuổi nhập ngũ, 35 tuổi hy sinh, đó là hai dấu ấn trong quân ngũ của Trung úy, thuyền trưởng tàu Hải quân Nguyễn Phan Vinh (1933 - 1968). Năm 1970, anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã được mang tên anh, đảo Phan Vinh.

Gia đình người anh hùng

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta đã có một con đường xẻ dọc Trường Sơn mà hễ nhắc đến là lại liên tưởng tới những sự tích thần kỳ. Song ngoài con đường ấy, còn có một con đường khác nữa, đó là con đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam trên biển Đông với một nét độc đáo, sáng tạo như thần thoại, với biết bao kỳ tích cảm động về lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình của những người chiến sĩ “Đoàn tàu không số” và tình cảm gắn bó keo sơn với quân dân các bến đỗ ở miền Nam. Đó là con đường huyền thoại: Đường Hồ Chí Minh trên biển và tên tuổi Phan Vinh liền với tên đường.

Phan Vinh, người con ưu tú của mảnh đất Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam (cũ) sinh ra trong một gia đình cách mạng. Tháng 3/1968, anh hy sinh ở Hòn Hèo thì cuối năm ấy, cha của anh, người du kích tên là Nguyễn Đức Mẫn cũng hy sinh trong một trận chống càn tại quê nhà. Mẹ anh mất trước đó 5 năm, (năm 1963) vì bị địch bắt, đánh đập, tra khảo dã man.

Năm bà ra đi cũng là năm người con trai thứ hai, Nguyễn Đức Lân ngã xuống trên chiến trường Quảng Nam. Người duy nhất còn lại trong gia đình là anh Nguyễn Đức Xử. Một người bạn của tôi trong đợt đi làm phim về “Tàu không số” kể chuyện đã được nghe anh Xử nói về người em trai của mình: “Phan Vinh tuy là con út trong gia đình, nhưng ngay từ nhỏ đã là người cứng cỏi, quyết đoán, và đặc biệt là giàu lý tưởng”.

Có lẽ chính từ cái cứng cỏi, quyết đoán và giàu lý tưởng cách mạng đó đã làm nên một Phan Vinh với chiến công trên vùng biển Hòn Hèo.

Tàu 235 - Bản anh hùng ca bất tử trên vùng biển Hòn Hèo

Hòn Hèo là tên chung chỉ vùng biển và dãy núi chạy qua hai xã Ninh Phước, Ninh Vân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Hòn Hèo cách Nha Trang khoảng hơn chục cây số đường biển. Nơi đây, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội đã hy sinh cùng con tàu 235 vào năm 1968.

Thời kỳ đó, kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường “cực kỳ nguy hiểm” này. Không quân, Hải quân Mỹ và quân đội Sài Gòn tung lực lượng khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên mặt biển đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia từng tổ bố trí tàu chiến ngăn chặn và lắp đặt rađa quét sóng đêm ngày. Trên trời và trong đất liền cả đêm lẫn ngày, chúng cho lính và máy bay trinh sát, tuần tra, canh phòng.

Anh Long An, một trong năm người sống sót đã kể lại chuyến đi của tàu 235.

- 11 giờ 30 phút ngày 27/2/1968, tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm. Một tài liệu của Pháp viết rằng, tàu muốn ra vào Hòn Hèo phải có những tay thuyền trưởng lão luyện, với trên dưới 20 năm tuổi nghề.

Trung úy Nguyễn Phan Vinh tuy chưa có tuổi nghề cao nhưng được tin cậy chỉ huy con tàu này. Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ: Chính trị viên Nguyễn Tương, thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi; thuyền phó 2: Võ Tá Tu; máy trưởng: Trương Văn Mùi; thợ máy: Ngô Văn Thứ, Nguyễn Minh Hải, Trần Lộc; thợ điện: Lê Duy Mai; báo vụ: Phạm Trường Nam, Doãn Quang Ruyện; rađa: Trần Thọ Thuyết; thủy thủ: Ngô Văn Dầu, Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật, Đào Quang Ty; hàng hải: Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến; y tá: Hoàng Văn Hòa; cơ yếu: Nguyễn Văn Dũng và tôi, thợ máy.
 


Trước giờ nhổ neo Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện nên đội hình còn lại 20 người. Chúng tôi đi hai ngày đêm trên vùng biển quốc tế. Tối 29/2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào bờ. Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, HQ12, HQ 617 và 4 tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống...

Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điểu khiển tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1/3. Anh quyết định thực hiện phương án hai, cho thả hàng xuống nước để quân dân ở bến mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt lăn xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây ở phía sau, phía trước là núi.

Phan Vinh cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân chừng độ mươi hải lý, nhằm mục đích giữ bí mật không để lộ vị trí thả vũ khí. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội rồi bật đèn pha và gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu, và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.

Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu. Anh tự băng bó và vẫn đứng trong buồng lái động viên mọi người chiến đấu. Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.

Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100 mét, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu. Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ.

20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1/3, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khối thuốc nổ khiến tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm xuống biển, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Sau những phút giây bàng hoàng, địch gọi máy bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục.

Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, và cuối cùng, lực kiệt, vết thương ngày một nặng, súng không còn đạn, các anh đã hy sinh. Số thủy thủ của tàu 235 còn lại 7 người, đó là thuyền phó Nhi và 6 thủy thủ: Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến và tôi. Tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo.

Mười ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới hay Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng. Nhưng anh không còn ở đó nữa, chỉ thấy mảnh áo rách và cuốn băng cá nhân, máu đã khô...

Về sự kiện này, tạp chí “Lướt sóng” của Hải quân quân đội Sài Gòn viết: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết”...

Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng 14 đồng đội thân yêu đã anh dũng hy sinh trên vùng biển Hòn Hèo. Khi ấy Nguyễn Phan Vinh mới ở tuổi 35. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng những người lính biển và quân dân cả nước.

Kể đến đây, anh Long An lặng đi, đôi mắt đỏ hoe. Đưa tay gạt những giọt nước mắt, anh nói tiếp:

- Phan Vinh là một thuyền trưởng giỏi, anh đã có 11 chuyến vận chuyển vũ khí thành công, dũng cảm, quyết đoán, sống chân thành, được anh em quý mến. Tôi chỉ tiếc chẳng giữ được chút kỷ vật nào của người thuyền trưởng anh hùng ấy
theo http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/truyenthong/2006/10/51404.cand?Page=2

--------------------------------------------------------------------------------


Những dòng thư đầy ắp niềm tin và lý tưởng cách mạng

Điều mà anh Long An day dứt phần nào đã được giải tỏa bởi tại Cơ quan Bảo tàng Hải quân hiện còn lưu giữ những bức thư của Phan Vinh gửi người bạn thân là anh Trần Phong (đồng chí Trần Phong - nguyên quyền Đoàn trưởng Đoàn 125 Hải Quân). Trần Phong và Phan Vinh là đôi bạn thân. Họ cùng quê, cùng tập kết ra Bắc, cùng học ở Trung Quốc và cùng về Quân chủng Hải quân làm thuyền trưởng. Những lá thư anh viết khi đang ở tại căn cứ trên nước bạn, chuẩn bị cho những chuyến đi.

Lá thư anh Phong nhận ngày 26/10/1967 có đoạn:

“Chúng ta phải là những con lạc đà trên bãi sa mạc, mỗi bước đi, mỗi vết chân của chúng ta vì sự nghiệp của Đảng, chúng ta phải là những chiếc cầu chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất. Và khi cần thiết ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân. Thời gian, thời gian sẽ ủng hộ chúng ta...".

Lý tưởng cách mạng cao đẹp của anh và của thế hệ thanh niên thời đó, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh cho cách mạng. Các anh đã dấn thân vào chiến trận với một tâm hồn sôi nổi, giàu nhiệt huyết. Không phải một tấm gương mà hàng ngàn, hàng vạn tấm gương “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trên mặt biển, vì sự nghiệp chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Lá thư gửi tháng 1/1968, trước khi anh hy sinh một tháng:

Phong thân!

Mình không ngờ đến nơi đây. Mùa hè đã qua mà nóng ghê, nhưng đâu có nóng bằng cõi lòng người chiến sĩ. Mọi việc ở đây diễn ra bình thường, rất mong ngày “thượng lộ”, ấy thế mà cứ ăn chực nằm chờ mãi, kể cũng ê. Còn những gì tiếp theo nữa thì để lịch sử trả lời. Hẹn gặp Phong vào một ngày vinh quang, điều đó khẳng định.

...Phong hãy giúp mình biên thư cho anh Xử. Khi nào có dịp mình sẽ biên thư sau, hoặc sẽ có dịp gặp. Mình không muốn biên thư vì mình nghĩ rằng mọi riêng tư lúc này sẽ làm con người ta khó bước tới. Tình cảm đó có lẽ để dành cho sau chiến tranh. Bây giờ thì mình chỉ có một tình cảm duy nhất là hãy bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, con người hoàn toàn không sợ ràng buộc bởi những mối dây nào khác.

Thằng Thạnh sắp cưới vợ, mình không có gì làm quà. Phong mở trong gói đồ mình để lại, lấy chiếc khăn tay, lọ nước hoa nói rằng mình gửi tặng mối tình đó. Phong chuyển lời hỏi thăm và chúc mừng đôi bạn xinh đẹp ấy...

Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi.

Cách đây 40 năm, Phan Vinh và thế hệ thanh niên của đất nước đã đi vào chiến trận với tinh thần lạc quan bởi họ luôn nung nấu một lý tưởng cao đẹp, một niềm tin chắc chắn rằng sự hy sinh vì nghĩa của mình sẽ được nối tiếp, và sẽ thành công. Trong số các anh, có anh không còn nữa nhưng niềm tin và lý tưởng mà các anh tâm nguyện còn sống mãi

theohttp://vnca.cand.com.vn/vi-vn/truyenthong/2006/10/51404.cand?Page=2






Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: trantienve trong 25 Tháng Bảy, 2009, 11:47:07 pm
(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/DSC00112.jpg) Tác giả trước di tích "Bến Nghiêng", sân khấu chính của buổi Đại lễ

(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/DSC00117.jpg) Quang cảnh chính của buổi Đại lễ

(http://i557.photobucket.com/albums/ss13/tranlethuy09/DSC00097.jpg) Những thế hệ khác nhau của lính TKS hội ngộ trong ngày tổ chức Đại lễ, người lính già đứng giữa là Chính Trị Viên tài ba Đỗ Như Sạn. Ảnh kích cỡ hơi lớn, tôi không biết chỉnh nhỏ, mong các đồng đội thông cảm điều chỉnh thanh bar để xem hết hình.

     Với nghĩa cử “uống nước nhớ nguồn, đời đời biết ơn các anh hùng liệt sĩ Tàu không số”, tối 23.7.2009, Sở Điện lực Hải Phòng kết hợp với lãnh đạo thành phố, lãnh đạo Bộ Tư Lệnh Hải quân, đã tổ chức đêm Đại lễ cầu siêu, thả hoa đăng tưởng nhớ vong linh những anh hùng liệt sĩ Tàu không số (TKS), một thời không quản hy sinh gian khổ, vượt qua mọi phòng tuyến ngăn cản của địch, vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam, và nhiều người đã ngã xuống trên con đường Hồ Chí Minh huyền thoại ấy.

     Đại lễ cầu siêu trước sự hiện diện của hàng ngàn người dân, cùng đông đảo các tăng ni phật tử đất cảng. Đặc biệt sự hiện diện của hàng trăm người lính Hải quân đủ các thế hệ, đến các cựu thuỷ thủ TKS ở các tỉnh, thành lân cận như: Hà Nội, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định...cũng tề tựu về “Bến Nghiêng” (Đồ Sơn) đông đủ, khiến cho đêm cầu siêu trang nghiêm, hoành tráng.

     Với bàn tay tài hoa của nhà tổ chức: chung quanh khuôn viên Bia tưởng niệm TKS đã được bài trí, tái hiện lại cảnh những con tàu lần lượt rời “Bến Nghiêng”, âm thầm lặng lẽ ra đi vào chiến trường không một cuộc liên hoan, không một người đưa tiển...Cứ thế, cứ thế họ âm thầm ra đi trong tiếng nhạc trầm buồn thống thiết, khiến cho ai nấy đứng trên bến cảng lặng im, đâu đó bật lên những tiếng khóc thương nhớ... Tôi đưa mắt nhìn sang chị Liên- vợ anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu (người chính trị viên kiên cường dũng cảm, một mình ở lại tàu điểm hoả phá huỷ phương tiện, và anh đã cùng con TKS 645 đi vào cõi bất tử, trưa ngày 23. 4. 1972) thấy hai hàng nước mắt chị tuôn xuống thấm đẩm cả vai áo. Đứng bên phải chị Liên là người chính trị viên đầu bạc: Đỗ Như Sạn, 78 tuổi cùng thời với chồng chị, từ Thanh Hoá ra dự lễ, ông cũng có chung tâm trạng bùi ngùi xúc động, cúi đầu mặc niệm, cầu siêu cho những linh hồn bạn bè một thuở... Đối với lớp “lính sinh viên-1972” bổ sung về đoàn TKS sau những năm cuối của cuộc chiến tranh, nhiều người cũng đã trải qua những chuyến đi đầy gian khổ, ác liệt trên con đường huyền thoại ấy; họ thấu hiểu hơn ai hết về những máu xương đồng đội mình nằm lại nơi biển cả đại dương, nên ai nấy mắt đều rớm lệ. Nhà Doanh nhân thành đạt nhất của hội CCB TKS, anh Đào Hồng Tuyển, từ đảo Tuần Châu (Quảng Ninh) đến dự Đại lễ, cũng không kìm nỗi xúc động mỗi khi nghe tiếng kèn đồng của đội Quân nhạc tấu lên khúc nhạc hồn tử sĩ...

       Là “phó nháy nửa mùa” như tôi, cũng không dấu được dòng cảm xúc khi đưa ống kính đến trước hàng trăm khuôn mặt đang nhoè nước mắt; Đến đông đảo các Tăng ni phật tử chăm chú khấn vái trước bàn thờ; Đến đội hình tiêu binh bồng súng trang nghiêm trước lễ đài, đến cả mấy chục em thiếu nhi xếp hàng thẳng tắp, tay cầm những ngọn nến đang cháy, cúi sát đầu mặc niệm vong linh của các ông, các bác, các thuỷ thủ TKS, một thời chưa xa đã ngã xuống trên con đường Hồ Chí Minh trên biển đông!

      Và Lễ cầu siêu được kết thúc bằng một biển hoa đăng lấp lánh thả vòng quanh những con tàu, như muốn nói với các chiến sĩ TKS đã yên nghĩ vĩnh hằng dưới đáy biển đông là nhân dân, đồng đội, thế hệ trẻ của các anh hôm nay, cùng với các con cháu mãi mãi khắc ghi công lao, máu xương của các liệt sĩ, một thời đã nhuộm đỏ nước biển đông cho đất nước Việt Nam sạch bóng quân thù!

                                                                                                   
Trần Hậu Vệ- CCB tàu KS 


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: vovanha trong 26 Tháng Bảy, 2009, 12:02:46 am
Những chuyến tàu bi tráng
Một người trong số đó là ông Lưu Công Hào - thủy thủ của tàu 43 lữ đoàn 125 hải quân.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ông Lưu Công Hào ( Phải ) và MaGiang ( Trái )
(http://i688.photobucket.com/albums/vv250/quanlem08/IMG_2831.jpg)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Xin pot lai câu chuyện về trân đánh của tàu ông Hào với tàu địch tại bến Đức Phổ. Sau đó 14 thủy thủ bị thương đã được bệnh xá Đặng Thùy Trâm cứu chữa


Hôm qua chúng tôi họp mặt ở Tuần Châu, anh hỏi tôi dạo này có hay liên lạc với anh Nhu không? ( Anh Nhu là thuyền phó của tàu tôi những năm 1972, 1973 ). Tôi bảo anh hôm nào lên Hà Nội thì “ rú còi “ cho bọn tôi. Anh nói vào ngày giỗ Đặng Thuỳ Trâm tớ đều lên HN thắp hương. Tôi hỏi vết thương của anh bây giờ còn đau không? Anh vạch bụng chỉ cho sết sẹo và nói : Trong này còn 4 mảnh đạn đang sống chung với anh, những hôm trở trời là biết ngay. Dạo đó BS Trâm chưa gắp ra được. Sao anh biết Trâm? Anh bảo khi báo đài đưa Nhật ký Đặng Thùy Trâm lên anh mới hồi tưởng lại thời gian điều trị ở trạm xá Đức Phổ cũng có một nữ Bác Sỹ tên Trâm. Anh giở cuốn sổ tay ra xem lại thì đúng vì khi đó sau khi rời trạm xá ra Bắc chị Trâm và các anh em bệnh xá đều ghi lưu niệm vào cuốn sổ của anh. Chị Trâm còn gửi quà về gia đình ghi rõ địa chỉ, tên mẹ tên cha của Trâm nhưng khi ra Bắc do nguyên tắc bí mật tổ chức không cho gặp bất cứ ai. Vui chuyện anh kể về trận đánh nhau với máy bay tàu chiến Mỹ năm 1967 - trận đánh mà duyên phận đã đưa anh vào trạm xá Đức Phổ - Trạm trưởng là bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm.

Lịch sử của một con tàu, một trận đánh và những con người...Lịch sử được tái hiện qua từng trang viết của Bác !  Hơn 40 năm đã trôi qua và lịch sử hiển hiện đâu đây. Xin cảm ơn tác giả .


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 26 Tháng Bảy, 2009, 09:31:19 am
Xin chú thích thêm cho bức ảnh của tác giả Trần Tiền Vệ (người đứng thứ 3 từ phải sang):
Từ trái sang, người đứng thứ 3 và cạnh anh Đỗ Như Sạn là anh Trần Văn Hữu, hiện là Chủ tịch Hội truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc, một trong các chủ lễ của Đại lễ cầu siêu, người đứng thứ hai là anh Cao Văn Liên, CCB Tàu không số, tác giả cuốn sách "Lữ đoàn cảm tử" (Đoàn Tàu không số), hiện là PGS, TS Khoa Lịch sử Đảng Học viện Báo Chí tuyên truyền, người đứng ngoài cùng là anh Nguyễn Tuấn Hùng, cậu lính cưng của nguyên thuyền trưởng Trần Văn Hữu những năm 1972 - 1973, hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị, giám đốc công ty tư nhân Giang Nguyên. Từ phải sang, người đứng giữa anh Đỗ Như Sạn và anh Trần Tiền Vệ là anh Văn Đình Nhu là nguyên thuyền phó với đầy ắp những kỷ niệm của TKS những năm 1972 - 1973, người đứng thứ 2 là anh Phạm Hòa, thế hệ cán bộ Tàu không số cùng thời với các anh Trần Văn Hữu, Trần Tiền Vệ, Văn Đình Nhu, hiện là ủy viên BCH Hội truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc, người giữ tay hòm chìa khóa của Hội


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: vovanha trong 26 Tháng Bảy, 2009, 10:42:26 am
Kính bác Magiang ! Nhìn hình bác còn nét trận mạc quá ! Còn chiến tốt bác nhỉ !
Chúc Bác và tất cả những người đã làm nên huyền thoại " 559 trên biển " luôn khỏe và vững tay chèo cuộc đời cũng như bàn phím  .


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: hatuyenha trong 26 Tháng Bảy, 2009, 10:55:10 am
Cám ơn bác TrầnhauVê@ đã đưa buổi đại lễ cầu siêu trang trong,linh thiêng, ấm áp đầy tình nghĩa,đầy tình người và hình ảnh rõ nét của các thế hệ CCB Tàu không số bất tử.Thật cảm động  sau 34 năm các bác tổ chức được tại "Bến Nghiêng" ,nơi trước đây các thế hệ tàu không số ra đi âm thầm lặng lẽ một đại lễ cầu siêu.Vừa đọc,vùa khóc và cứ để cho nước mắt tự do  trong những ngày này,cám ơn  bạn Magiang@ đã chú thích rõ ràng từng người từng người một   những anh lính hải quân dũng cảm bất tử đáng kính trọng đáng vinh danh.Mong các anh sống khỏe sống vui sống lâu và sống thêm cả cho các đồng đội đã hy sinh.
Xin thắp một nén tâm  hương tưởng nhớ tới những những  liệt sỹ Hải  quân Tau không số đã hi sinh . Các anh sống mãi trong lòng người thân,bạn bè, đồng đội và cả  Tổ quốc Việt nam thân yêu.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 26 Tháng Bảy, 2009, 04:53:06 pm
Kính bác Magiang ! Nhìn hình bác còn nét trận mạc quá ! Còn chiến tốt bác nhỉ !
Cám ơn bác vovanha đã quá khen. Thực ra lâu ngày được gặp mặt thủ trưởng và đồng đội cũ thì thấy đời vui và khỏe ra vậy thôi. Chứ đã về hưu rồi thì lấy đâu mà "chiến tốt" được. Tuy nhiên, như người ta thường nói, hãy cố gắng để chỉ "về hưu từng bộ phận" thôi phải không bác vovanha


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Haitanphongthu trong 26 Tháng Bảy, 2009, 08:30:23 pm
Các báo ở Tàu không số. nếu biết có thể cho em biết bác Đào hồng Tuyển Khi còn tham gia HQ thế nào không nhỉ.Bác ấy cũng là thủy thủ tàu không số đó. hiện bác ấy làm CTHDQT ỏ khu du lịch Tuần Châu mà


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 27 Tháng Bảy, 2009, 10:53:12 am
 Rất tiếc là do quá bất ngờ nên chúng tôi đã không kịp “chớp” lại hình ảnh cái ôm đầy xúc động với những giọt nước mắt tràn mi của anh Trần Tiền Vệ, nguyên thủy thủ với anh Đỗ Như Sạn, nguyên chính trị viên tàu 56 trong chuyến đi cuối tháng 2 đầu tháng 3/1968 phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nỗi dậy Mậu Thân , khi họ bất ngờ được gặp nhau trước giờ Đại lễ cầu siêu hôm 23/6 vừa rồi.
Trong cuộc gặp này, họ cùng nhau ôn lại những kỉ niệm không bao giờ quên trước những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh  mà giữa sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Hai anh em kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện về những bức điện trao đổi giữa Sở chỉ huy mà đại diện là Đoàn trưởng  Đoàn Tàu không số, ông Huỳnh Công Đạo với con tàu 56 mà đại diện là chính trị viên Đỗ Như Sạn. Tôi thấy không gì hơn là xin pot lại nguyên văn những bức điện trên

Ngày 29 tháng 2
Tàu 56 báo cáo về Sở chỉ huy:
“- 6 giờ, gặp 6 máy bay cắt  ngang hướng đi từ Đà Nẵng đến Gu-am”.
- 10 giờ, một máy bay NAVY ở độ cao 200m, lượn 5 vòng chụp ảnh. 10 giờ 20 nó vào bờ. Tàu vẫn giữ hướng đi – Sạn”.

Điện từ Sở chỉ huy: “Điều chỉnh tốc độ. Không vào sớm hơn – Đạo”.

Điện từ tàu về: "17 giờ, 1 tàu chặn trước  mũi, ta tránh sang trái. 1 máy bay đến lượn vòng. 17 giờ 30, tàu chiến đang đi về phía ta - Sạn”.

“19 giờ, gặp 9 tàu địch. Tránh hơn 2 giờ. Chi bộ quyết định vào. Xin chỉ thị - Sạn".

Điện tử Sở chỉ huy: "Bình tĩnh xử lý. Nếu địch bám sát, không ăn được, nghi binh đánh lạc hướng, bảo đảm cho đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ - Đạo”.
Ngày 1 tháng 3.

Điện từ tàu về:

“18 giờ 23 phút, gặp 11 tàu địch bám sát. Tránh không được. 23 giờ vẫn bám sát. Nhận định, có thể lộ. Trở ra chờ thời cơ - Sạn”.

“3 tàu địch dọi đèn pha gọi dừng máy. Máy bay thả pháo sáng. Chúng tôi vẫn đi - có thể chiến đấu - Sạn”

Điện tử Sở chỉ huy: "Tránh né quay ra. Ngay mai chờ lệnh - Đạo”.

Điện từ tàu: "Địch chặn đường, cách bờ 40 hải lý. Ba tàu địch đang đuổi theo tôi - Sạn”.

Điện từ Sở chỉ huy: "Bình tĩnh. Tàu 68 địch theo 3 ngày liền vẫn không việc gì. Ngụy trang cho tốt - Đạo”

Ngày 2 tháng 3

Lúc 3 giờ 30, điện từ tàu: "Địch bám sát, bắn doạ. Tàu đi hướng 90o. Treo cờ Nhật Bản. Sẵn sàng chiến đấu. Xin chỉ thị - Sạn”

Chỉ thị của Sở chỉ huy lúc 3 giờ 50: "Bình tĩnh. Địch doạ. Chúng không dám đánh ngoài khơi - Đạo”.

6 giờ 40, điện tử tàu : “Máy bay lượn vòng, bắn khiêu khích - Sẵn sàng chiến đấu - Sạn ".

Mệnh lệnh từ Sở chỉ huy: "Tránh ra Biển Đông - Đạo”. Một lúc sau, điện tiếp: "Báo cáo: hiện ở đâu? địch ra sao? Nếu căng, không đi vội - chuyển  hướng đông đi về - Đạo”.

12 giờ 15 phút, điện từ tàu: “Lúc 12 giờ, tàu ở kinh  độ 111o36, vĩ độ 14o19 hướng đi 90o. Vẫn  còn một chiếc tàu địch bám liên tục. Tinh thần anh em tốt - Sạn”.

Lệnh từ Sở chỉ huy lúc 14 giờ 10: “Bình tĩnh động viên anh em cho tốt. Địch khiêu khích, không dám đánh ở công hải, nhưng phải cảnh giác cao. Cho trở về - Đạo”.

Điện từ tàu lúc 17 giờ: "13 giờ, có 3 tàu địch theo. Gặp 3 máy bay địch đi về phía Đà Nẵng. Đi về theo hướng tàu buôn Trung Sa, Tây Sa - Sạn” (Đoạn trên viết theo hồ sơ lưu giữ - nguyên văn và được trích từ cuốn “Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân” của tác giả Đình Kính).


Qua nội dung những bức điện trên, chúng ta thấy rõ: nhờ chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên; kiên quyết, chủ động và sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ huy; bình tĩnh, khôn khéo và linh hoạt trong các tình huống khẩn cấp, phức tạp; nên tàu 56 đã giữ được thế hợp pháp trên vùng biển quốc tế, tuy phải quay trở về nhưng đã nghi binh đánh lạc hướng, thu hút sự chú ý và lực lượng địch về phía mình, góp phần tạo cho đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ, bảo vệ được con tàu cùng 37 tấn vũ khí, giữ được bí mật tuyến đường và đặc biệt hơn là giữ được tính mạng của 17 cán bộ chiến sĩ trên tàu trở về căn cứ an toàn, chuẩn bị cho những chuyến đi mới. Qua đó một lần nữa cho ta thấy rõ vai trò của người chính trị viên trong hoàn cảnh chiến đấu quan trọng biết nhường nào.

Nhìn anh Sạn với cái vẻ già nua, hóm hém ở cái tuổi 78, chúng tôi thấy toát lên ở ông sự từng trãi, bản lĩnh và kinh nghiệm đầy mình. Chúc ông – một con người mà sóng gió đại dương không vùi dập nổi, bom đạn quân thù không không khuất phục nổi, được bách niên giai lão.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tuaans trong 27 Tháng Bảy, 2009, 11:39:32 am
Đây là đảo Phan Vinh đang được xây dựng công sự phòng thủ. Đảo được VN đóng quân sau 1988. Hình được chụp trước 1995.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 29 Tháng Bảy, 2009, 11:24:24 am
(http://image.motofunvn.com/images/ACp42305.jpg)

Người thuyền trưởng Tàu không số và 6 lần vượt biển
[/b][/u]
TPCN - Cả phố một thời gian dài không ai biết trong một ngõ nhỏ ở thành phố Hải Phòng có vị thuyền trưởng từng 6 lần cùng đồng đội đưa những con tàu không số, đưa vũ khí vào Nam an toàn góp phần làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển.
 
Tháng 9/1964, Hoàng Hữu là thuyền phó tàu 154 - loại tàu 100 tấn, vỏ sắt hai đáy do xưởng 3 Hải quân đóng để thực hiện nhiệm vụ vận tải hàng hoá chi viện cho chiến trường miền Nam.
Để đảm bảo bí mật, tất cả cán bộ, chiến sỹ trên tàu đều mang bí danh. Tàu có cấu tạo hai đáy, ra tới hải phận quốc tế, giả làm tàu đánh cá.
Trên tàu gài thuốc nổ với 4 hệ thống phá tàu, tùy tình hình cụ thể để bảo toàn tính mạng cán bộ chiến sỹ cũng như bí mật phương tiện vũ khí đạn dược.
Chuyến đầu tiên vượt biển của CCB Hoàng Hữu vào ngày 16/10/1964, mang tên “Nguyễn Văn Trỗi”, gồm 2 tàu 154 và 167 của Đoàn vận tải B. Tàu khởi hành lúc 1 giờ đêm, lấy “hàng” ở bến Bính Đồng, Thủy Nguyên, Hải Phòng.
Sau đó tàu ra Bãi Cháy, hiệu chỉnh thành “tàu không số”. Thời điểm đó chưa có tên gọi đường Hồ Chí Minh trên biển. Trên tàu có 42 cán bộ chiến sỹ, thuyền trưởng là đồng chí Đinh Đạt người Quảng Ngãi (đã hy sinh), chính trị viên Nguyễn Văn Đức người Bến Tre, thuyền phó số 2 là Đỗ Bé - sau này là Cảng trưởng cảng Ba Son.
Trên tàu chở các loại vũ khí như tiểu liên, súng trường và tên lửa bộ binh… tất cả được giấu dưới đáy tàu thứ nhất. Trong đáy tàu thứ hai dùng ngư lưới cụ nguỵ trang súng 12 li 7, ĐKZ, bom chìm, khói mù để sẵn sàng chiến đấu.
Tất cả cán bộ chiến sỹ đều ăn bận đồ bà ba. Tàu hóa trang giống hệt như một tàu đánh cá, đi qua một cảng của Trung Quốc để tiếp thêm dầu và lấy thêm bánh mỳ, táo lê… rồi ra vùng hải phận quốc tế. Vận tốc khoảng 10 hải lý/h, 14 ngày lênh đênh, gần như cả tàu say sóng.
Riêng CCB Hoàng Hữu không sao. Nhiều lần gặp tàu địch nhưng chúng đều bị “lừa” đây là tàu cá. Tàu cập vào bến giữa Trà Vinh và Bến Tre, chui vào lạch rộng, nước sâu.
Từ chỉ huy đến chiến sỹ đều mừng rơi nước mắt, không chỉ vì 100 tấn vũ khí đạn dược đã lên bờ trót lọt mà vì đã tìm ra lộ trình trên biển cho những chuyến hàng sau.
Khi trở về, để đủ tải, tàu chở dừa nước, có buồng dừa nhiều quả nặng tới năm, bảy chục cân. Đến Thuỷ Nguyên, để giữ bí mật, nửa đêm phải đem dừa quả chôn xuống bãi sông. Bây giờ những nơi đó đã trở thành rừng dừa là thế!
Chuyến thứ hai khởi hành 3/1965, vào Cà Mau. Nhiều lần tàu địch áp mạn soi mói, các “ngư dân” trên tàu cũng đã sẵn sàng quyết tử cùng với con tàu nhưng rất may địch không phát hiện được gì nên đã bỏ đi. Chuyến này cũng trót lọt 100 tấn vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường.
Chuyến thứ ba xuất phát 10/1965, vào Năm Căn, có đặc công nước đi cùng. Xin nói thêm, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tàu không số được chia thành nhiều nấc, mỗi nấc là một phương án tác chiến.
Đơn cử, giao hàng xong, về an toàn là hoàn thành 100%, mang hàng vào, giao hàng an toàn nhưng không ra được là hoàn thành 50%. Và còn một nấc nữa, vào nhưng không cập bến phải thả hàng ngoài bãi cũng là đạt yêu cầu.
Lần thứ ba này, tàu của CCB Hoàng Hữu bị địch vây rát quá đành phải thực hiện phương án thả hàng khi cách bờ Năm Căn khoảng 4 hải lý. Thả hàng ngoài biển cũng là một nghệ thuật của các đơn vị tàu không số. Cứ 5 hòm đạn xuyên với nhau bằng dây ni lon.
Mỗi kiện hàng có buộc một phao tròn bằng nhựa sơn màu trắng lớn hơn ấm chiếc chuyên nước. Chuyến ấy tàu thả gần hết 100 tấn vũ khí đạn dược. Ngay đêm đó tổ đặc công nước đi trên tàu đã ở lại cùng với lực lượng địa phương lặn xuống mò phao chuyển lên thuyền nhỏ đưa vũ khí đạn dược vào bờ.
Chuyến thứ tư khởi hành đầu năm 1966, CCB Hoàng Hữu đã là thuyền trưởng. Lần này, tàu chở hàng loại mới. Vẫn đi theo lộ trình cũ. Tình hình mỗi ngày mỗi khó khăn nguy hiểm hơn. Phía địch có 4 trạm ra đa quét gần như kín mặt biển.
Cùng với tàu tuần tiễu, máy bay trinh sát quần đảo đêm ngày, trực thăng có lúc bay cách mặt biển chỉ 20 m. Chuyến này ngoài vũ khí, tàu còn chở các tướng lĩnh quân đội vào chiến trường: 2 sĩ quan cấp tướng và 3 sĩ quan cấp tá. Tàu đóng cửa, kéo bảy tám lớp vải che.
Còn duy nhất một cửa tròn nhỏ để thuyền trưởng chỉ huy. Có những lúc trên hải phận quốc tế, hai tàu địch ép hai mạn sườn, thậm chí gọi đúng tên cũng phớt lờ. Trên tàu gài hết kíp nổ cùng với 4 hệ thống phá, sẵn sàng xoá mọi dấu vết khi tình hình xấu xảy ra.
Khoảng nửa đêm tàu đã cập vào khu vực Bến Tre, đưa an toàn số cán bộ cao cấp và vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường. Đây là một nhiệm vụ nặng nề nhất và cũng thành công nhất!
Chuyến thứ 5 xuất phát vào tháng 4/1968, lần này đi bằng tàu nhỏ nhanh, lộ trình sát bờ, chở 7 tấn hàng do thuyền trưởng trực tiếp lái. Lần này, “hàng” chủ yếu là tên lửa bộ binh, thuốc nổ cực mạnh, sức công phá rất lớn.
Đội hình có 2 tàu do CCB Hoàng Hữu làm phân đội trưởng kiêm thuyền trưởng tàu số 1, tàu số 2 do thuyền trưởng Võ Đán lái. Lái tàu này đòi hỏi có sức khoẻ rất tốt.
Tàu chạy với tốc độ 80 hải lý/h, cột nước cao tới 25 m. 15h chiều ăn cơm, 18h tàu ở Long Châu, 23h tàu đã “bay” đến Cù Lao Chàm (Đà Nẵng), giao hàng xong ra ngay, sáng đã về tới căn cứ Đồ Sơn. Sau một đêm bay trên biển, người khỏe như Hoàng Hữu mà vẫn mỏi mệt rã rời, lên bờ tưởng như không bước đi được nữa.
Những chuyến vận tải kiểu “đặc công” như thế, đã cung cấp kịp thời vũ khí đặc biệt cho chiến trường, góp phần tạo lên những cơn “bão lửa” dội xuống căn cứ Chu Lai, Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn... làm cho kẻ địch kinh hồn bạt vía.
Chuyến thứ 6 đi vào cuối năm 1968, vẫn bằng phương tiện tàu nhỏ nhanh, chuyến này vào Quy Nhơn, chở tên lửa bộ binh, chất nổ mạnh, tiểu liên, súng ngắn giảm thanh trang bị cho biệt động…
Đây cũng là chuyến đi cuối cùng của thuyền trưởng Hoàng Hữu. CCB Hoàng Hữu cho biết, không thể kể hết được những nguy hiểm, khó khăn của những người chiến sỹ trên tàu không số.
Song bằng tinh thần quả cảm, mưu trí sáng tạo, trong lịch sử oanh liệt của những con tàu không số Hải quân Việt Nam đã có nhiều tàu, nhiều chuyến vượt biển thành công.
Tiêu biểu như tàu của đồng chí Đỗ Bé, 18 lần hoàn thành nhiệm vụ, góp phần chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam vũ khí đạn dược, tạo lên một huyền thoại đường mòn trên biển.
CCB Hoàng Hữu đã về hưu được 30 năm. Cả phố một thời gian dài không ai biết trong ngõ nhỏ này có một thuyền trưởng tàu không số - một thuyền trưởng mưu trí, dũng cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc.
Đến thăm gia đình CCB Hoàng Hữu, chúng tôi không khỏi xúc động trước những tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh quên mình của các chiến sỹ trên tàu không số và nỗi đau mất mát trong chiến tranh của gia đình ông.
Người anh trai duy nhất của CCB Hoàng Hữu đã hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ và người con trai của CCB Hoàng Hữu cũng đã hy sinh trong cuộc chiến đấu trên chiến trường Cămpuchia.
Cả hai cuộc chiến tranh đã đi qua bao nhiêu năm rồi nhưng đến bây giờ, gia đình vẫn ông chưa tìm được phần mộ của những người thân yêu dấu của mình.
Ghi chép của Lã Quý Hưng
[/i]
(Theo báo “Tiền phong chủ nhật 24/12/2006)
[/i]




Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 02 Tháng Tám, 2009, 09:56:00 pm
http://image.motofunvn.com/viewimage.php?file=/images/hT825650.jpg
Ông Trần Văn Hữu, Chủ tịch Hội truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc nhận tặng phẩm của ban giám đốc cảng Sài Gòn trong chuyến đi thăm lại chiến trường xưa của các CCB TKS hồi tháng 3/2008


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 02 Tháng Tám, 2009, 10:07:09 pm
http://image.motofunvn.com/viewimage.php?file=/images/hT825650.jpg
Ông Trần Văn Hữu, Chủ tịch Hội truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc nhận tặng phẩm của Ban Giám đốc Cảng Sài Gòn trong chuyến đi thăm lại chiến trường xưa của các CCB TKS hồi tháng 3/2008
(Ảnh tư liệu của Hội)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: meomuop trong 03 Tháng Tám, 2009, 01:15:03 am
Bác magiang ơi!
Bác sửa lại cái link trên thành http://image.motofunvn.com/images/hT825650.jpg thì mới ra hình được bác!
(http://image.motofunvn.com/images/hT825650.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tran479 trong 03 Tháng Tám, 2009, 08:14:23 am
Tàu chạy với tốc độ 80 hải lý/h,.Không biết có lầm không????,Tàu thiết kế hệ động lực bằng gì mà vận tốc kinh thế???Bây chừ mà có tàu này trang bị cho hải Quân thì tốt biết mấy??? Khoãng 125 Km/h là vận tốc ...mơ ước cũa tất cả nhà thiết kế và đóng tàu cao tốc...


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tuaans trong 03 Tháng Tám, 2009, 09:12:58 am
Thời gian đã qua lâu, các bác tàu không số, nhiều người làm to, có điều kiện về tư liệu lưu trữ ... các bác cứ để anh em trong Quân sử đọc suông mãi những bài báo như trên ư?


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Trungsy1 trong 03 Tháng Tám, 2009, 09:23:41 am
Đúng vậy! Chúng em rất muốn các bác tự kể những câu chuyện của mình nó mới sinh động hấp dẫn

Có khi không phải tấn công, đổ bộ hay quyết liệt huỷ tàu hy sinh  ... mà các bác cứ kể một ca khó khắc phục máy hỏng, hay cải thiện câu cá trên hành trình thì đọc cũng thú bác ơi!

Chờ những câu chuyện bình thường của chính các bác

Chúc các bác khoẻ và đều tay viết  :D


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: magiang trong 03 Tháng Tám, 2009, 10:27:20 am
Cám ơn meomuop đã chỉ bảo và giúp tôi gửi ảnh. Tối qua vì bà xã giục đi nghỉ sớm, thành thử vội vàng, khi gửi ảnh không xem trước nên sai Link.
Chào bác Tran479, thực ra khi post bài “Người thuyền trưởng…”, tôi cũng đã nghi ngờ về tốc độ tàu cao tốc. Tôi nghĩ tốc độ 80km/giờ thì đúng hơn, nhưng không có điều kiện liên lạc với bác Hoàng Hữu và tác giả để hỏi lại.
Chào các bác Tuaans và Trungsy1. Các bác góp ý rất đúng. Chúng tôi có dự định tập hợp tư liệu để biên soạn cuốn “Kỷ niệm sâu sắc của các CCB Tàu không số” và sẽ xuất bản vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống (1961 -2011) nên đã phát động và đang động viên các CCB Tàu không số cả nước, đặc biệt là các bậc tiền bối, lão thành viết bài. Nhưng có lẽ cần thêm thời gian và điều kiện mới có kết quả mong muốn. Mong các bác QSVN gắng đợi


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: DepTraiDeu trong 03 Tháng Tám, 2009, 10:37:58 am
Tàu chạy với tốc độ 80 hải lý/h,.Không biết có lầm không????,Tàu thiết kế hệ động lực bằng gì mà vận tốc kinh thế???Bây chừ mà có tàu này trang bị cho hải Quân thì tốt biết mấy??? Khoãng 125 Km/h là vận tốc ...mơ ước cũa tất cả nhà thiết kế và đóng tàu cao tốc...

Hehe đại ca ơi, theo em biết thì chạy 40 lý đã khủng khiếp lắm rồi. Mà nghe nói là 80 lý/h thì cột nước 25m, vậy 40 lý chắc cột nước 12.5m quá!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 03 Tháng Tám, 2009, 11:08:59 am
Đúng vậy! Chúng em rất muốn các bác tự kể những câu chuyện của mình nó mới sinh động hấp dẫn

Có khi không phải tấn công, đổ bộ hay quyết liệt huỷ tàu hy sinh  ... mà các bác cứ kể một ca khó khắc phục máy hỏng, hay cải thiện câu cá trên hành trình thì đọc cũng thú bác ơi!

Chờ những câu chuyện bình thường của chính các bác

Chúc các bác khoẻ và đều tay viết  :D
--------------------------------------------------------------------------------------
Chào đồng đội! Các bác cựu TKS nay đã già, ít có điều kiện sử dụng mạng Internet. Đồng đội thông cảm nhé. Chuyện nào được phép các Bác già chúng tôi mới sửa hoặc viết lại trên cốt chuyện của các bác ấy, thông thường phải đưa nguyên văn.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tran479 trong 03 Tháng Tám, 2009, 11:27:31 am
Ừm ,mấy tàu chiến cao tốc hiện nay thiết kế chạy 45 lý/h là .... sướng lắm rồi ! .Đó là tốc độ tối đa chạy ...chết lúc chiến đấu ,chỉ chạy được thời gian ngắn.
Mấy ông nhà báo kể lại chiến công kiểu.....máy bay đậu núp trong mây ...chờ máy bay Mỹ hahahaha.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: DepTraiDeu trong 03 Tháng Tám, 2009, 11:48:14 am
Ừm ,mấy tàu chiến cao tốc hiện nay thiết kế chạy 45 lý/h là .... sướng lắm rồi ! .Đó là tốc độ tối đa chạy ...chết lúc chiến đấu ,chỉ chạy được thời gian ngắn.
Mấy ông nhà báo kể lại chiến công kiểu.....máy bay đậu núp trong mây ...chờ máy bay Mỹ hahahaha.

Tàu chạy từ 15h tới 23h thì đến Cù lao Chàm, tốc độ 80 lý/h, vị chi là 8h x 80 lý/h = 640 lý.
Thực tế khoảng cách từ Hải Phòng vào tới Đà Nẵng theo đường chim bay trên biển là hơn 300 lý, nếu tính dôi dư đi lượn lờ thì khoảng 400 lý. Vậy thì liên tục 8h với tốc độ 80 lý/h thì đã có khả năng vào tới Nha Trang luôn rồi.
Nói chung là nhà báo nói cũng phải nghe chọn lọc. :D


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: vovanha trong 03 Tháng Tám, 2009, 11:54:05 pm
Mấy ông nhà báo kể lại chiến công kiểu.....máy bay đậu núp trong mây ...chờ máy bay Mỹ hahahaha.
Tội quá bác Tran479 ! Nhà báo viết rằng " Năm 1983 Pốt lấy Chùa Preah Vihear " nữa kìa ! Không biết lúc đấy em và 300anh em D1E95 ở đâu không biết nữa ?? ;D ;D ;D . Kinh quá !


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: shmel trong 09 Tháng Tám, 2009, 02:53:38 pm
http://antg.cand.com.vn/vi-VN/tulieu/2009/7/69973.cand

Cái chết của một người anh hùng Đoàn tàu không số

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/thanhbinh1/4_anhhung875.jpg)

Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.

Người dẫn dắt chúng tôi vào "câu chuyện cổ tích" ấy chính là con trai cả của Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Trong căn phòng nhỏ nằm sâu trong một ngõ vắng trên đường Cát Bi, đã khuya lắm rồi, anh thong thả kể cho chúng tôi nghe những kỷ niệm về người cha. Nguyễn Đình Phương - tên anh - đêm nay dường như không thể ngủ. Niềm xúc động vừa tìm được hài cốt người cha sau 37 năm hy sinh ngập tràn trong ánh mắt, trong giọng kể của Phương.

Thật lạ. Mãi tới những ngày đi viết phóng sự này, tôi mới tìm được câu trả lời cho một băn khoăn của chính mình sau rất nhiều năm tháng, rằng vì sao cuộc Chiến tranh Vệ quốc của dân tộc ta lại được gọi là một cuộc CHIẾN TRANH THẦN THÁNH. Hóa ra rất giản dị, bởi chỉ có những con người với "trái tim như ngọc sáng ngời", chỉ có những VỊ THÁNH "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" - chỉ có họ mới có thể viết nên trang sử vàng chói lọi và làm nên chiến thắng lẫy lừng của cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm ròng rã ấy.

Một trong những con người đó, một trong những VỊ THÁNH đó là nhân vật chính của câu chuyện mà tôi sẽ kể dưới đây. Ông là Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Chính trị viên của Đoàn tàu không số.

Đêm nghe chuyện kể của con trai người liệt sĩ

Bạn tôi, vốn là lính thông tin Sư đoàn 324 thời đánh Mỹ, cứ réo rắt "phôn" suốt cả tuần, cứ nằng nặc gọi tôi xuống ngay Hải Phòng, để cùng chia sẻ với gia đình người bạn ông dưới đó một niềm vui, một nỗi xúc động vô bờ bến. Số là gia đình người bạn đó hôm cuối tháng 3/2009 vừa tìm được hài cốt của người chồng, người cha mình là Anh hùng LLVTND-Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu. "Đây là người liệt sĩ duy nhất cho tới nay tìm được hài cốt trong tổng số 97 liệt sĩ của Đoàn tàu không số hy sinh thời chống Mỹ" - ông bạn tôi nhấn mạnh qua điện thoại.

Nắng nóng là thế suốt cả tháng 6, suốt cả tuần qua, thế mà buổi chiều hôm đi Hải Phòng ấy, bỗng mưa rào ào ạt. Đường 5 có những lúc nhòe đi trong mưa. Cái gạt nước làm việc không ngưng nghỉ một phút nào suốt cả trăm cây số từ Hà Nội xuống. Bù lại là mát mẻ. Bù lại là bụi bặm rác rưởi được giũ sạch.

(http://www.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/thanhbinh1/1_1trong875-400.jpg)

Một trong những chiếc tàu không số trên đường vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam. (Ảnh do hải quân Mỹ chụp).

Xuống tới đất Cảng đã là xẩm tối. Phố xá Hải Phòng sạch tinh khôi. Dưới ánh đèn cao áp trắng xanh, dưới sắc phượng vĩ sau mưa thắm đỏ như hồng ngọc, lối xóm Hải An chợt như chìm trong huyền ảo. Và trong cái không khí đầy thanh tịnh tinh khiết ấy, tôi được đắm chìm vào câu chuyện về người Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu - một "câu chuyện cổ tích" của thời chống Mỹ, mới đây thôi mà sao có lúc như là xa xôi lắm?

Người dẫn dắt chúng tôi vào "câu chuyện cổ tích" ấy chính là con trai cả của Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Trong căn phòng nhỏ nằm sâu trong một ngõ vắng trên đường Cát Bi, đã khuya lắm rồi, anh thong thả kể cho chúng tôi nghe những kỷ niệm về người cha. Nguyễn Đình Phương - tên anh - đêm nay dường như không thể ngủ. Niềm xúc động vừa tìm được hài cốt người cha sau 37 năm hy sinh ngập tràn trong ánh mắt, trong giọng kể của Phương.

Kỷ niệm những ngày ấu thơ bên cha ùa về, như ngọn gió lành từ biển ngoài kia đêm đêm lại mơn man thổi vào đất liền, khiến cho người đàn ông 51 tuổi đời này dường như trở lại những ngày tuổi 14 - ngày cha anh ra khơi và mãi mãi không về.

Phương sinh năm 1958, học hết phổ thông là đi học Công an, rồi làm lính trinh sát, rồi cán bộ điều tra, và bây giờ là Thượng tá, Phó trưởng Công an quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Suốt gần 40 năm qua, dù bận rộn học hành, dù vất vả công tác, dù hiểm nguy đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng trong sâu thẳm trái tim Phương vẫn khôn nguôi một ước nguyện thiêng liêng: làm sao tìm được hài cốt của người cha đã hy sinh trên biển năm 1972, tháng 4 ngày 24. Đấy cũng là một khát vọng có lúc đã lạnh ngắt vô vọng trong đáy lòng người mẹ già và 3 đứa em Phương sau bao kiếm tìm non nửa thế kỷ.

"Cha tôi sinh năm 1932, quê xã Thăng Phương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam - Phương kể. Năm 16 tuổi, ông đã tham gia du kích đánh Pháp ở quê nhà. 18 tuổi, ông vào bộ đội. Năm 1954, khi 22 tuổi, ông tập kết ra Bắc, rồi xuất ngũ về công tác tại Xí nghiệp đánh cá Hạ Long - Hải Phòng và kết hôn với mẹ tôi - một cô gái đất Cảng. Năm 1961, ông tái ngũ và trở thành một trong những người lính đầu tiên của đường Hồ Chí Minh trên biển, trở thành Chính trị viên của một con tàu của Đoàn tàu không số chuyên vận tải vũ khí, đạn dược vào Nam...". Phương bắt đầu câu chuyện về người cha thân yêu như đọc những dòng trích ngang lý lịch ("Bệnh nghề nghiệp" chăng?).

Nhưng rồi, chợt ấm áp, chợt nồng hậu, chợt thăm thẳm suy tư, Phương bồi hồi kể về những ngày cuối bên cha. "Tôi nhớ rất rõ ngày hôm ấy là ngày 16/3/1972, vì nó liên quan đến một cái mốc lịch sử của chiến tranh. Đúng một tháng sau ngày ấy - ngày 16/4/1972 - là hôm Không quân Mỹ bắt đầu rải thảm B-52 xuống Hải Phòng, mở đầu chiến dịch sử dụng không quân hủy diệt các thành phố lớn ở miền Bắc trước khi phải ngồi vào bàn Hội nghị Paris 1973 - Phương bắt đầu dòng hồi tưởng.

Là chính trị viên, nói như từ mà thế hệ chúng tôi hay dùng, cha tôi "Bôn-sê-vích" lắm. Ông rất nghiêm khắc với bản thân và cả với mẹ con chúng tôi. Suốt 13 chuyến tàu vận chuyển vũ khí vào Nam trước đó, ông không hề nghỉ lấy một ngày ở nhà trước lúc ra khơi. Tất cả thời gian và tâm trí ông dành cho những chuyến vượt biển của tàu không số. Đối với ông, không có ngày nghỉ, không có gì quan trọng hơn là những tấn vũ khí chuyển vào Nam đánh giặc.

(http://www.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/thanhbinh1/5_giadinh875-400.jpg)

Gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu chụp năm 1964. (Ảnh do gia đình cung cấp).

Nhưng cái lần ấy, cái lần trước chuyến tàu thứ 14 đầy định mệnh ấy, có những "điềm" rất lạ. Cha tôi bỗng dưng xin đơn vị cho nghỉ ở nhà hẳn 2 ngày. Ông mua giấy dầu lợp lại góc mái nhà bị dột đã lâu, ông cùng mẹ tôi đi chợ, rồi tự tay nấu cơm cho cả nhà cùng ăn. Buổi chiều, ông còn lôi 4 anh em tôi ra tắm rửa kỳ cọ (tôi lớn nhất lúc ấy 14, cậu út mới hơn 3 tuổi). Ông còn "hào phóng" (thậm chí đối với ông là hơi "xa xỉ") dẹp bỏ cái bếp dầu mẹ tôi dùng đã dăm bảy năm, rỉ hoen và nấu món gì cũng oi khói, ra mậu dịch mua hẳn cái bếp dầu mới toanh, loại sắt có tráng men xanh "xịn" nhất thời ấy. Có hôm trong bữa cơm, ông còn dặn chúng tôi: "Mấy hôm nữa, anh em chúng mày đến đơn vị bố gặp các chú hậu cần, mang cái can dầu ma-dút 20 lít bố đã xin các chú ấy mang về cho mẹ, tha hồ mà đun nấu...".

Rạng sáng ngày 16/3/1972, buổi sáng cuối cùng sau 2 ngày nghỉ trọn vẹn ở nhà cùng vợ con, mới 5h sáng, ông Hiệu đã đánh thức cậu con cả dậy. Tuổi ăn tuổi ngủ, Phương uể oải mãi không rời khỏi giường. "Cha tôi ôm tôi rất chặt vào lòng, xoa tóc tôi âu yếm (con cái ông yêu thương hết mực, nhưng cái  kiểu ôm ấp vỗ về "tiểu tư sản" ấy thì chưa bao giờ tôi được thấy ở cha tôi). Giọng thầm thì như gió thoảng, chắc sợ mẹ tôi và các em nhỏ thức giấc, ông dặn: "Phương à...! Con là con trai lớn, ở nhà gắng chăm học, chăm làm. Nhớ cố gắng giúp đỡ mẹ, chăm lo dạy bảo các em khi bố đi xa...".

Tôi chợt thấy ươn ướt trên mái tóc mình. Trời ơi, thì ra cha tôi đang khóc, nước mắt thấm xuống đầu tôi. Đấy là lần đầu tiên tôi thấy cha mình khóc, và cũng là lần duy nhất. Tôi đâu ngờ rằng đó là những giọt nước mắt của cuộc chia ly vĩnh viễn mà cha tôi dường như có linh cảm. Chỉ 40 ngày sau, cũng vào một buổi sáng, cha tôi đã hy sinh trên Vịnh Thái Lan...".

Mấy ngày sau buổi sáng chia tay ấy, nhớ lời cha dặn, Phương cùng cậu em trai mang đòn gánh dây thừng đi bộ từ Hải Phòng sang đơn vị bố bên Thủy Nguyên để khiêng can dầu ma-dút về. “Quái lạ - Phương kể tiếp - suốt bao năm công tác, cả khi ở cơ quan dân sự lẫn lúc trong hải quân, chưa bao giờ cha tôi cho phép mẹ con tôi tơ hào dù là một thanh củi, một hòn gạch, một giọt xăng dầu của công mang về nhà. Công đoàn hay hậu cần phân phối cho thứ gì, như gói trà, bao thuốc, cái xăm xe đạp, viên đá lửa, ông cũng đều nhường cho anh em trong đơn vị cả. Vậy mà lần này, sao cha  lại xin hẳn một can dầu 20 lít cho mẹ con tôi. Tôi giật mình tự hỏi, và có cảm giác gai người không hiểu nổi...".

Hai anh em Phương, khẳng khiu như hai cây sậy, đen đúa như hai cục than, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, bước thấp bước cao khiêng can dầu về nhà trong cảm giác nghi hoặc bất thường ấy, trong linh cảm bất an ấy. Can dầu ma-dút, để làm ấm thêm ngọn lửa của cái bếp dầu cha mới sắm trước hôm đi, để làm sáng thêm ngọn đèn dầu anh em Phương chụm đầu học bài đêm chiến tranh mất điện; can dầu ấy đâu ngờ là món quà cuối cùng của tuổi thơ Phương và các em được nhận từ người cha yêu dấu, là sự quan tâm cuối cùng người chồng dành cho người vợ từ nay mãi mãi lẻ loi bên 4 đứa con thơ dại.

Bình minh ấm áp ký ức đồng đội

Hà Nội cuối năm 1978. Một hôm, khi Nguyễn Đình Phương đang là sinh viên năm thứ 2 Đại học Cảnh sát, đang giờ lên lớp, anh được gọi lên gặp Ban Giám hiệu ngay. Phương sững người khi bước vào Phòng Giám hiệu, nhận thấy bên những bộ cảnh phục quen thuộc của các thầy cô còn có những bộ quân phục hải quân thân thương - dấu ấn về người cha thủy thủ.

Đó là các bác, các chú đến từ Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, tới trường để xin phép cho Phương được nghỉ 2 ngày về Hải Phòng dự Lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT cho cha Phương - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Trung úy hải quân, Chính trị viên Tàu không số.

Và mãi đến buổi lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng, Phương mới biết cụ thể về chiến công, về sự hy sinh của cha mình và đồng đội trong chuyến tàu vào Nam tháng 4/1972 ấy. Còn trên tấm Bằng danh hiệu Anh hùng do Chủ tịch Nước Tôn Đức Thắng ký tặng ngày 6/11/1978 mà mẹ anh - bà Phạm Thị Vi - thay mặt cha và gia đình đón nhận có ghi những dòng chữ vàng: "Tặng Danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc về chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần cùng toàn dân đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn".

Tôi đến Văn phòng Hội truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển nằm ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm (quận Ngô Quyền) sớm hơn hẹn 15 phút, đã thấy các bác cựu chiến binh (CCB) tề tựu đông đủ cả rồi. Họ đều là lính của Đoàn tàu không số, có những người là đồng đội cùng một chiếc tàu với ông Hiệu, có cả người lính đã chứng kiến giây phút cuối cùng của ông trước lúc hy sinh.

Bác Trần Văn Hữu, Chủ tịch Hội, cho tôi biết một điều thật thú vị. Bao nhiêu người đã nói, đã nghe về Đoàn tàu không số, nhưng không biết đấy là một đoàn tàu có số hẳn hoi. Đó là Lữ đoàn 125 Hải quân, trong đó có các tàu như tàu số 235 của Anh hùng Nguyễn Phan Vinh, tàu số 187 của Anh hùng Hồ Đức Thắng, còn tàu của Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu có số 645.

Nói về lịch sử Lữ đoàn 125, bác Lưu Lanh, Phó chủ tịch hội kể chi tiết: Để chi viện trực tiếp vũ khí cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cùng với con đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn trên bộ, ta đã quyết định mở con đường vận chuyển chiến lược trên biển Đông. Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng đã thành lập Đoàn 759 - tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân.

Trong 10 năm (từ tháng 4/1962 đến tháng 4/1972) Đoàn 125 đã vượt biển 168 chuyến, vận chuyển vào 19 bến của 9 tỉnh phía Nam, chuyên chở được 6.105 tấn vũ khí và hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ chi viện cho chiến trường, đã làm nên một "Đường Hồ Chí Minh trên biển" đầy độc đáo của chiến tranh nhân dân. Đoàn 125 đã hai lần được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Có 6 đồng chí được tuyên dương Anh hùng, trong đó có Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu...

"Do công tác bí mật, các tàu của Đoàn 125 khi hoạt động ở vùng biển nước nào thì đeo biển hiệu của tàu nước đó - bác Hữu bổ sung. Thậm chí có lúc nguy hiểm, ta đành phải treo cả cờ, dùng cả màu sơn của tàu nước đó để đánh lạc hướng sự tuần tra kiểm soát của Mỹ - ngụy. Rồi khi vào vùng biển phía Nam, để giữ bí mật tuyệt đối, tất cả các tàu đều xóa số tàu của mình đi. Mọi thứ vật dụng trên tàu như đồ hộp, đường sữa, thuốc lá, xà phòng v.v... cũng đều phải bóc hết nhãn mác đi. Mọi người quen gọi đoàn tàu chúng tôi là "tàu không số" là vì vậy...".

Góp vào chuyện kể của bác Hữu, bác Lanh, các bác CCB khác như bác Phong, bác Hiếu, bác Lịch v.v.... đã cho tôi biết thêm rất nhiều những điều mà sách vở chưa từng nói tới về Đoàn tàu không số của họ. Đối với những người lính tàu không số, ra khơi là xác định cảm tử, ngày rời bến là ngày xác định hy sinh. Có những hy sinh vẻ vang ghi danh sử vàng dân tộc, có những hy sinh thầm lặng giấu vào ký ức cá nhân.

Chỉ riêng việc đảm bảo bí mật cho những chuyến tàu đã có bao điều đáng nói. Có những đồng chí tập kết ra Bắc hơn 10 năm xa nhà xa quê hương, mòn mỏi  chờ mong thương nhớ, vậy mà khi tàu cập bến ngay tại bãi biển làng mình, vượt qua ngàn dặm trùng dương về tới cách nhà chỉ vài trăm mét, vẫn  không được lên bờ. Có đồng chí chồng Bắc vợ Nam, xa vợ đằng đẵng cả chục năm ròng, khi cập bến, trông thấy vợ trong đoàn dân công ra nhận vũ khí, vậy mà phải lánh mặt xuống khoang tàu để đảm bảo bí mật, phải rưng rưng ngậm ngùi nhìn vợ từ xa, từ khe cửa sổ dưới tàu trông lên mà trái tim nghẹn ngào xa xót...

(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: shmel trong 09 Tháng Tám, 2009, 02:55:28 pm
http://antg.cand.com.vn/vi-VN/tulieu/2009/7/69982.cand

Cái chết của một người anh hùng đoàn tàu không số (kỳ cuối)


(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/thuydt1/8_ng876.jpg)

Người vợ và con trai cả của liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.


Một ánh chớp lóe lên, kế đó là một tiếng nổ cực mạnh, một cột lửa đỏ cùng với cột sóng cao hàng chục mét dựng lên giữa biển xanh. Những mảnh vỡ của con tàu văng tung tóe sang cả chiếc khu trục của địch đang hằm hè gần đó làm bọn địch trên tàu kinh hồn bạt vía. Tàu 645 và người Trung úy Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đã ra đi như thế.

Trận chiến cuối cùng của tàu 645 trên biển Đông

Trong suốt cả buổi sáng trò chuyện cùng các CCB đồng đội của Nguyễn Văn Hiệu, tôi để ý có một người đàn ông trạc hơn 60 tuổi, tầm thước và nhỏ nhẹ, đôi mắt đượm buồn, cứ ngồi lặng lẽ lắng nghe, tay run run nắm chặt tay người con trai của ông Hiệu. Thì ra ông là Thẩm Hồng Lăng, người cuối cùng rời khỏi tàu 645, người lính cuối cùng mà ông Hiệu vĩnh biệt trước khi hy sinh.

Ông Lăng người quê Nam Định, sinh năm 1947, là lái tàu chính của tàu 645. Cuộc "sinh tử biệt ly" của ông Lăng với người Chính trị viên của mình, nghe ông kể lại, thật kỳ vĩ và cảm động.

Tàu 645 do Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu và Thuyền trưởng Lê Hà (quê Bà Rịa - Vũng Tàu) chỉ huy, trên tàu có tất cả 21 cán bộ, chiến sĩ. Tàu đã 2 lần nhổ neo ra đi, song bị tàu địch kèm chặt, nên đành quay lại. Tối ngày 12/4/1972, tàu ra khơi lần thứ 3. Sau nhiều ngày đêm vượt qua sóng to gió lớn, vòng lên vùng biển phía trên đảo Hải Nam, rồi vòng xa ra thuộc hải phận quốc tế ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, từ đó xuôi vào phía Nam Việt Nam.

Ngày 22 và 23/4/1972, tàu 645 tới vùng biển Phú Quốc, sau đó lại chuyển hướng về bến phía đảo Cô Công (Campuchia), cách Phú Quốc chừng 60 hải lý với ý định chờ tối sẽ vào. 14h ngày 23/4, tàu nhận được điện của Sở chỉ huy báo cho biết, đêm nay sẽ có thuyền đón ở mũi Cà Mau. Nhưng 17h lại điện: "Bến động". Tàu quay ra hải phận quốc tế. 19h ngày 23/4, xuất hiện một tàu khu trục địch từ Vịnh Thái Lan đi tới. Nó rọi đèn pha sáng rực, đánh tín hiệu hỏi tàu từ đâu đến và đi đâu.

Tàu 645 trả lời: "Tàu từ Trung Quốc xuống, bị lạc". Địch phát tín hiệu dừng tàu. Tàu 645 lập tức tăng tốc nhằm chạy ra hướng biển Đông thoát khỏi tầm truy đuổi của địch. Lập tức địch gọi máy bay bắn pháo sáng. Trong ánh pháo sáng chói lòa, tàu 645 đã nhìn rõ phía trước có 3 tàu địch.

(http://www.cand.com.vn//Uploaded_ANTG/thuydt1/9_cac876.jpg)

Các đồng đội tàu không số của liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.

Tàu 645 vẫn giữ tốc độ đi ra vùng biển quốc tế. Chiếc khu trục 04 của Mỹ - ngụy bám rất sát tàu ta. Ý đồ của địch là bắt sống tàu 645. Đôi bên vờn nhau đến 5 giờ sáng ngày 24/4. 7h45, trời biển sáng rõ, quan sát bằng mắt, địch đã xác định được rằng đây là tàu "Bắc Việt giả dạng", chúng lập tức dùng loa dụ hàng. Anh em ta trên tàu lờ đi, như thể không rõ chúng nói gì. Thấy gọi hàng không kết quả, địch nổ súng bắn uy hiếp, đạn các cỡ chi chít rơi trước mũi tàu 645. Vẫn không ép được tàu 645 dừng lại, địch bắt đầu bắn nhiều loạt đạn liên thanh 14 ly 5 thẳng vào tàu ta, gây thương vong cho một số thủy thủ. Rồi một số quả đạn pháo lớn của địch bắn làm tàu ta thủng lỗ chỗ.

Trước tình thế đó, Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu quyết định nổ súng chống trả quyết liệt. Các loại súng B40, B41, 12 ly 8 của ta hướng nòng về phía tàu địch đồng loạt nhả đạn... Lúc này địch tập trung hỏa lực đánh trả rất ác liệt. Các thủy thủ San, Lân, Giang, Thẻ lần lượt trúng đạn và hy sinh. Một số anh em khác bị thương. 9h sáng ngày 24/4, tàu ta vừa cơ động ra xa, vừa đánh trả quyết liệt.

Khoảng 11h, một quả đạn lớn trúng vào xích lái, tàu ta không còn điều khiển được, bắt đầu chạy vòng tròn. Khi biết tàu hỏng lái không thể cơ động được nữa, Nguyễn Văn Hiệu đề nghị Thuyền trưởng Lê Hà và ra lệnh cho anh em khoác áo phao nhảy xuống biển bơi vào bờ nhằm bảo toàn lực lượng, còn anh xin ở lại điểm hỏa bộc phá hủy tàu phi tang vũ khí hàng hóa (chuyến ấy tàu 645 chở 70 tấn đạn cối cá nhân và 1 tấn thuốc nổ TNT cùng hàng hóa khác).

Lái tàu Thẩm Hồng Lăng và Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu có ý sẽ rời tàu cuối cùng. Khi anh em đã xuống nước, hai anh còn nán lại thu tập tài liệu để hủy. Khi 2 anh đã khoác áo phao định xuống nước, thì phát hiện một tình huống vô cùng nguy hiểm: phía dưới biển gần tàu, anh em thủy thủ phần lớn đều bị thương, nên phải cụm lại một khối dìu nhau mà bơi, tất cả là 15 người, trừ 4 người đã hy sinh nằm lại trên tàu.

Chiếc tàu thì mất lái, cứ chạy vòng tròn, do vậy có lúc gần anh em thủy thủ, lúc lại ở xa. Chính vì vậy Nguyễn Văn Hiệu quyết định không rời tàu. Anh sợ khi tàu gần anh em rồi nổ, tính mạng 16 người sẽ hết sức nguy hiểm. Phải cho tàu nổ lúc ở vị trí xa đồng đội của mình nhất! Dưới biển, anh em đang cố nán lại đợi Hiệu.

Trên tàu, Thẩm Hồng Lăng cũng nấn ná, đòi cùng ở lại điểm hỏa với Hiệu. Ánh mắt người chính trị viên vốn bình thường đầy nghiêm khắc, sao lúc này bỗng dịu dàng thân thương đến lạ kỳ. Anh nói với Lăng, nửa như ra lệnh, nửa như khẩn khoản: "Em còn trẻ, còn cống hiến được lâu, được nhiều hơn anh... Với lại, anh đã có vợ con, em thì chưa kịp có người yêu, thôi Lăng nhảy xuống biển bơi cùng anh em đi...".

Ứa nước mắt thương người anh, người chính trị viên của mình, nhưng Lăng vẫn quyết không rời tàu, không muốn để anh Hiệu một mình ra đi, vẫn vờ như không nghe thấy, cứ lúi húi ngồi đốt hủy tài liệu trên boong tàu. Nói nhỏ không được, anh Hiệu quát to: "Đồng chí về báo cáo với Đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và cho tôi gửi tới anh em lời chào chiến thắng", rồi bất ngờ anh lao tới đẩy Lăng xuống biển. Chới với giây lát, từ dưới biển nhìn lên, Lăng vẫn thấy rõ anh Hiệu đang quay lưng lại, chậm rãi bước về phía cột cờ, nơi cao nhất của con tàu, nơi để đoạn dây điện nối với kíp điểm hỏa bộc phá. Khi Lăng đã nhập được vào gần tốp anh em bơi trên biển, khi vị trí con tàu ở xa đồng đội nhất, Nguyễn Văn Hiệu cho nổ tàu.

Một ánh chớp lóe lên, kế đó là một tiếng nổ cực mạnh, một cột lửa đỏ cùng với cột sóng cao hàng chục mét dựng lên giữa biển xanh. Những mảnh vỡ của con tàu văng tung tóe sang cả chiếc khu trục của địch đang hằm hè gần đó làm bọn địch trên tàu kinh hồn bạt vía. Tàu 645 và người Trung úy Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đã ra đi như thế.

Lúc đó là 11h30 ngày 24/4/1972. Thẩm Hồng Lăng cùng 15 thủy thủ còn lại của tàu 645 sau đó đều bị địch dùng trực thăng và tàu quây bắt trên biển, rồi người thì bị đưa về Sài Gòn giam ở Chí Hòa, người thì bị giam ngay tại nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, 16 anh được trao trả.

Khúc tưởng niệm bên biển Đồ Sơn

Chia tay những người đồng đội của Nguyễn Văn Hiệu, tôi bỗng dưng  không muốn trở lại phố phường ồn ã náo nhiệt mà muốn ra với biển. Người chở tôi ra biển chiều nay là Tuấn, cháu gọi liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu là ông ngoại. Tuấn mới gần 30 tuổi, cao ráo đẹp trai, ăn nói lễ phép, một vợ một con, tốt nghiệp Đại học Ngoại thương Hà Nội, giờ về Hải Phòng làm doanh nghiệp cùng bố mẹ vợ. Nói chung Tuấn là một thanh niên thành đạt.

Vừa lái xe, Tuấn vừa kể cho tôi nghe về cuộc tìm kiếm hài cốt ông ngoại hồi tháng 3 vừa rồi. Tuấn bảo có lẽ ông cháu phù hộ cho cháu lắm, nên chính cháu đã gặp được các cô chú ở Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng UIA ở Hà Nội, rồi được các nhà ngoại cảm ở đấy chỉ dẫn, tìm đến tận nơi xác ông cháu theo gió mùa Tây Nam năm ấy trôi dạt vào bờ đảo Phú Quốc, tấp vào một gốc cây dương ngay bãi cát ven bờ biển.

Xác ông cháu nằm lại dưới gốc dương đó suốt 37 năm, cát vùi lấp năm này qua năm khác sâu tới gần 6 mét. "Tàu nổ tung, sao còn xác hả Tuấn?" - tôi lục vấn. Tuấn bảo: "Không, không phải xác, cháu dùng sai từ, mà là hài cốt chú ạ. Mà cũng chỉ có một số phần xương thôi, gồm xương sọ một ít, xương vai một ít, nhiều nhất là đoạn xương hông...".

“Làm sao biết đó là hài cốt của ông cháu?". "Cháu đã nhờ giám định xương cẩn thận rồi, cả theo cách khoa học và theo mẹo tâm linh, lại được các chú bên Vùng 5 Hải quân giúp đỡ gia đình cháu vô cùng  chu đáo trong việc đào bới tìm hài cốt, trong việc chuyển hài cốt đưa về nghĩa trang liệt sĩ ngoài Hải Phòng  này. Có ngày cả một đại đội hải quân Vùng 5 cùng máy xúc làm việc cật lực bên bãi cát chú ạ. Công phu lắm, tận tình lắm, "nghĩa tử nghĩa tận" là thế chú nhỉ?".

Tôi khẽ khàng với Tuấn: "Tình đồng đội nữa cháu ạ...". Tôi không nỡ tranh luận nhiều với Tuấn. Cháu còn quá trẻ. Khi ông cháu ra trận và hy sinh, cháu còn chưa ra đời. Trọn vẹn một thế hệ đã qua rồi. Nhanh như cánh hải âu vụt liệng qua bến cảng...

(http://www.cand.com.vn//Uploaded_ANTG/thuydt1/9_cuu876-400.jpg)

Cựu chiến binh Thẩm Hồng Lăng (bên trái).

Ngược chiều với xe chúng tôi, thỉnh thoảng lướt qua dăm ba chiếc xe "siêu hạng" bóng lộn chở những "tay chơi" từ Casino Đồ Sơn trở về sau một cuộc đỏ đen sát phạt. Tiếng chát xình rốc ráp mê tan từ xe ngược chiều mở hết cỡ át cả tiếng CD "Có một bài ca không bao giờ quên" trên xe Tuấn. Họ vừa thắng hay thua trên casino, nào ai hay?!

Chỉ biết rằng phóng vun vút thế kia, nhạc nhẽo ầm ĩ thế kia, đỏ đen không biết bao cuộc thế kia, chắc chắn họ chưa bao giờ nhìn thấy, chắc chắn họ không bao giờ biết đến, ngay ven đường lên casino kia, ngay dưới chân ngọn núi có sòng bạc ấy, ngay nơi bãi biển Đồ Sơn đó, 40 năm trước, là bến xuất quân của Đoàn tàu không số, là nơi ra đi và mãi mãi không về của Nguyễn Văn Hiệu và hàng trăm đồng đội của anh.

Mà sao Hải Phòng không đặt tên họ cho những con đường ven biển Đồ Sơn này nhỉ? Và cả trong Quảng Nam quê anh nữa chứ? Nếu có, chắc chắn sẽ có con đường mang tên Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Phan Vinh và những anh hùng liệt sĩ khác đã từ bãi biển này ra khơi để đi vào bất tử?         

Chiều nay mưa vẫn nặng hạt, biển vì thế vắng tanh vắng ngắt. Bến Nghiêng  ngoài bãi 2 Đồ Sơn không một bóng người, như là để thâm nghiêm hơn, hùng vĩ hơn, như là để sừng sững hơn bên doi cát đằng kia, tấm bia tưởng niệm, bức tượng đài ghi công những người thủy thủ anh hùng của đoàn tàu không số.

Chợt nhớ lời chiến sĩ lái tàu 645 Thẩm Hồng Lăng lúc chia tay tôi: "Làm sao quên được phút vĩnh biệt người đồng đội, người chỉ huy của mình. Tôi nhớ lắm bóng hình anh Hiệu, dáng cao gầy mảnh dẻ, vời vợi trên boong tàu giữa trùng khơi, hai tay nắm chặt 2 đầu đoạn dây điện kết nối với khối thuốc nổ hơn 70 tấn chở trên tàu và cho chập nổ con tàu để khỏi rơi vào tay giặc...".

Lại nhớ lời người thủy thủ thương binh Lưu Công Hào nói với tôi lúc ở Hải Phòng: "Tôi bị thương khi tàu số 43 của chúng tôi đụng tàu địch ở vùng biển Quảng Ngãi tháng 2/1968. Cuộc chiến không cân sức với tàu Hạm đội 7, chúng tôi đành cho tàu nổ. Tôi bơi 5km vào bờ, rồi  được du kích vớt lên, đưa về điều trị tại chính Trạm xá của chị Đặng Thùy Trâm tại Đức Phổ suốt trọn một tháng. Cả tháng ấy, bác sĩ Trâm trực tiếp điều trị cho tôi. Khi ấy tôi 21 tuổi, kém chị Trâm 4 tuổi.

Có những buổi trưa, chị ôm tôi vỗ về như với thằng em trai, tôi gục đầu vào vai chị, nghe chị hát những bản tình ca của các cô gái thời ấy thường ưa thích, cho dịu đi nỗi đau vết thương chiến tranh. Chị Trâm còn muốn "làm mối" tôi cho em gái chị nữa. Giữa bom rơi đạn réo, giữa gian khổ hiểm nguy, người con gái Hà Nội ấy, người bác sĩ trẻ ấy vẫn hát tình ca, vẫn ghi nhật ký, vẫn học ngoại ngữ, vẫn mong kết nối những mối tình ngoài việc chữa lành những vết thương...

Giống như Nguyễn Văn Hiệu, chị Trâm và bao người lính khác trong cuộc chiến tranh giữ nước đã đối diện với cái chết sao mà bình thản, đã dám hy sinh sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không chỉ là những anh hùng, họ là những VỊ THÁNH anh ạ...".

Đã hoàng hôn của một ngày. Biển lại dâng thủy triều. Dưới ngọn thủy triều kia là những con sóng ngầm, dưới những con sóng ngầm là đáy biển, là cát, dưới lớp cát trắng phau kia có những trái tim thắm đỏ đã hóa ngọc của bao liệt sĩ còn nằm dưới đó mãi không về. Họ đã hóa trầm tích giữa biển khơi, hay đã hóa rong rêu huyền thoại? Không, họ vẫn mãi là NGỌN HẢI ĐĂNG, sừng sững rọi soi mọi cuộc bể dâu...


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 11 Tháng Tám, 2009, 09:32:12 am
http://antg.cand.com.vn/vi-VN/tulieu/2009/7/69973.cand

Cái chết của một người anh hùng Đoàn tàu không số

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/thanhbinh1/4_anhhung875.jpg)

Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.
---------------------------------------------------------------------------------------
Cảm ơn bạn Smel đã tải câu chuyện bi hùng, cảm động của liệt sỹ Nguyễn văn Hiệu lên diễn đàn. Tôi xin bổ sung một chi tiết quý báu mà tác giả chưa thể hiện trong bài viết.
  Tại buổi khai trương bến phà Tuần Châu Cát Bà ngày 29/4/2009, chúng tôi những đồng đội tàu không số đến chia vui với chủ nhân đảo Tuần Châu Đào Hồng Tuyển. Trên chuyến phà từ Tuần Châu đi Cát bà ký ức xưa ùa về trong gió biển. Trận chiến đấu của tàu 645 của Bác Hiệu được các bác Lăng và các Bác kể lại. Đào Hồng Tuyển hỏi " Sao lúc đó các Bác không lao thẳng tàu vào tàu địch như máy bay Nhật lao vào tàu chiến Mỹ trong trận Trân Châu Cảng? Một bác già bảo : Nó bắn đứt xích lái rồi, tàu xoay tròn làm sao mà lao thẳng được. Các bác cho biết mỗi chuyến đi biển tàu đều lên phương án chiến đấu. Thông thường là :
1/ Nếu phát hiện ra địch thì tìm cách lẩn tránh để đảm bảo bí mật con đường, đảm bảo không để hàng rơi vào tay địch
2/ Nếu bị địch phát hiện thì chiến đấu hoặc hủy tàu không để tàu và hàng bị địch bắt.
3/ Trong trường hợp bị tàu địch quây ép, bắt sống thì lao thẳng tàu vào tàu địch đồng thời hủy tàu để tàu ta và địch tan xác luôn.
Nếu tàu 645 không bị đứt xích lái thì chắc chắn Bác Hiệu sẽ lao tàu vào tàu địch như máy bay Nhật lao thẳng vào tàu chiến Mỹ. Câu chuyện của các Bác hôm đó trước khi có bài báo này. Cùng chuyến đi đó, khi về tôi đã viết bài về trận chiến đấu của tàu 235 do cựu chiến binh Tàu không số  Lưu Công Hào  kể. 



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 11 Tháng Tám, 2009, 09:50:29 am
Xin tải tiếp một bài viết " Chuyện kể về người thuyền phó Tàu không số" đăng trên báo Bình Định

Sự kiện con tàu không số chở 36 tấn vũ khí, đạn dược cùng chất nổ từ hậu phương lớn miền Bắc vượt qua hàng ngàn cây số với bao lớp phòng thủ của địch, cập bến Lộ Diêu (Hoài Nhơn) an toàn vào năm 1964 là một sự kiện bất ngờ, trở thành nỗi kinh hoàng cho bọn ngụy quyền Sài Gòn ở Bình Định lúc bấy giờ... Một chiều đông mưa tầm tã, tại ngôi nhà số 433 đường Nguyễn Huệ - thành phố Quy Nhơn, ông Trần Phi Khanh-  thuyền phó con tàu không số ấy - hồi tưởng lại chuyến đi "cảm tử" của mình ...
 

 Ông Trần Phi Khanh
Ông Khanh kể: Nhằm tăng cường chi viện cho cuộc kháng chiến của quân và dân miền Nam, tháng 5-1959 Tổng Quân ủy Trung ương quyết định mở tuyến đường Hồ Chí Minh dọc dãy Trường Sơn từ Bắc vào Nam (đường 559 - đường mòn Hồ Chí Minh) và đường vận tải trên biển tháng 7-1959 (đường Hồ Chí Minh trên biển). Đầu năm 1960, tôi - Trần Phi Khanh (tức Trần Ngọc Mỹ quê ở Ân Hữu - Hoài Ân) - thiếu tá thuyền trưởng Hải quân Việt Nam - được Bộ Tư lệnh Hải quân, Cục Quân báo và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam biệt phái về Bình Định làm cán bộ tham mưu Ban Quân sự tỉnh, chuyên trách công tác nghiên cứu tình hình, chuẩn bị bến bãi cho tàu không số chở vũ khí vào vùng biển Bình Định. Sau một thời gian nghiên cứu, phân tích tình hình, tôi nhận thấy chỉ có Lộ Diêu là nơi có thể đảm bảo các yếu tố bí mật, bất ngờ, thuận tiện cho tàu cập bến.

Tháng 7-1963, trước yêu cầu bức xúc của tình hình, Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định quyết định thành lập Đoàn công tác đặc biệt gồm 4 đảng viên: Lê Văn Nốt (Lộ Diêu), Phạm Văn Khương và Phạm Văn Kiệm (Phú Thứ - Mỹ Đức) thông thạo đường biển do tôi phụ trách ra Bắc trực tiếp báo cáo với Bộ Tư lệnh Hải quân, Cục Quân báo, Cục Bảo vệ và Ban Chỉ huy Lữ đoàn 125 Tàu không số thuộc Cục Hải quân về tình hình chuẩn bị bến bãi và xin cho tàu chở vũ khí vào. Kể đến đây, giọng ông nghẹn ngào xúc động: Nói thật, lúc được giao nhiệm vụ đặc biệt này, tôi rất vinh dự và tự hào dù biết cuộc hành trình vượt Trường Sơn sẽ rất gian khổ. Nhưng sự tin tưởng của cấp trên và sự khát khao của nhân dân được vũ trang khởi nghĩa giành lấy quyền sống và giải phóng quê hương đã thôi thúc chúng tôi bằng mọi giá phải lên đường.

Sau gần 4 tháng vượt suối đèo qua bao rừng thiêng nước độc, ngày thì đói cơm, thiếu muối, có đêm gió rét, mưa dầm dai dẳng mà bọn vắt rừng cứ như đỉa đói đeo bám bất cứ chỗ nào trên da thịt để hút từng giọt máu còn sót lại của chúng tôi. Thế rồi tất cả cũng qua. Tháng 11-1963, đoàn chúng tôi đã có mặt tại Hà Nội trong niềm vui khôn cùng.
 

Đ/c Võ Nhân Huân (bên phải hàng thứ 2) thuyền trưởng chuyến tàu không số đầu tiên chụp ảnh lưu niệm với Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Tại Hà Nội, chúng tôi trình bày với đồng chí Hàm - Cục trưởng Cục Bảo vệ thuộc Bộ Tổng tham mưu - và sau đó tiếp tục làm việc với đồng chí Phước (Lữ đoàn 125 Hải quân) phụ trách đoàn tàu không số chuyên lo phục vụ chiến trường miền Nam. Và, một điều đáng mừng khi hay tin có Đoàn cán bộ từ Bình Định ra xin chi viện vũ khí, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cho gặp. Tôi lại vinh dự được trực tiếp báo cáo với Thủ tướng ba nội dung mà trước khi lên đường, đồng chí Trần Quang Khanh - Bí thư Tỉnh ủy Bình Định - giao phó: lòng khát khao được vũ trang khởi nghĩa của nhân dân Bình Định; quyết tâm của Tỉnh ủy Bình Định trong việc thực hiện Nghị quyết 15 của T.Ư Đảng; khó khăn về vũ khí đạn dược, đang ngày đêm chờ T.Ư chi viện. Nghe xong, Thủ tướng nói: Đồng chí hãy yên tâm về báo lại với đồng bào miền Nam rằng Đảng, Bác Hồ, Chính phủ luôn vì miền Nam ruột thịt, sẽ lo chi viện không chỉ vũ khí, đạn dược mà còn cả những gì các đồng chí cần, đồng bào miền Nam cần cho cuộc chiến đấu và chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Vậy là phương án, kế hoạch do tôi đề xuất đã được chấp nhận.

Ngày 9-10-1964, Tàu không số thuộc Lữ đoàn 125 Hải quân đã được biên chế tổ chức, gồm 4 cán bộ chỉ huy và 8 thủy thủ, trong đó có Đoàn công tác đặc biệt do Thường vụ Tỉnh ủy cử ra Bắc tháng 7-1963, chở 36 tấn vũ khí đã được lệnh rời căn cứ. Lúc này, thuyền trưởng tàu là đồng chí Phạm Vạn (quê Quảng Ngãi), tôi là thuyền phó 1, đồng chí Trần Phấn là thuyền phó 2. Đồng thời, chúng tôi cũng thành lập Chi bộ gồm 8 đảng viên: Đồng chí Thanh (Khánh Hòa) làm bí thư, tôi và đồng chí Vạn là chi ủy viên - đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong việc quyết định sứ mệnh lịch sử của con tàu khi gặp tình huống đột biến, không để lọt vào tay địch.

Buổi tiễn đưa tại bến Hải Phòng có đồng chí Phạm Hàm - đại diện Bộ Tổng tham mưu. Đồng chí Trà - Chính ủy Tư lệnh Hải quân đã nói rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của chuyến đi, phân tích thuận lợi, khó khăn, ven biển khu V bãi ngang không có sông rạch và rất trống trải, do đó Tàu không số sẽ có thể gặp địch và phải chiến đấu. Như muốn truyền đạt tình cảm của T.Ư, của Quân chủng Hải quân đến quê hương người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ và truyền thêm ý chí quyết tâm cho từng thủy thủ của tàu, đồng chí đã xúc động nói: "Có thể chuyến đi này các đồng chí không trở về nữa, nhưng hi vọng điều ấy không xảy ra. Quân chủng rất tin tưởng các đồng chí hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ và trở về mạnh khỏe". Thú thật, khi nghe đồng chí ấy nói, chúng tôi cũng xúc động lắm nhưng một khi đã dám nhận nhiệm vụ thì phải quyết tâm làm và chấp nhận hi sinh.

Đúng như dự đoán, sau 2 tuần ra khơi, gặp phải gió mùa cấp 7, chiếc tàu vỏ gỗ nhỏ chở 36 tấn vũ khi không chịu đựng nổi phải quay trở về. Đến ngày 26-10-1964, biển bớt động, tàu không số được ngụy trang thành tàu đánh cá xuất phát. Ra đến hải phận quốc tế, tàu chiến hạm đội 7 của Mỹ phát hiện, cho 2 máy bay khu trục quần đảo bám sát boong tàu ta suốt 8 giờ liền, muốn thả bom. Chúng tôi trên tàu ngụy trang trên lưới đánh cá, dưới súng đạn, thuyền viên mặc đồ công nhân, trên tàu treo cờ quốc tế. Cán bộ chiến sĩ trên tàu vẫn bình tĩnh, điều khiển tàu, sẵn sàng chiến đấu. Mỗi đồng chí đều chuẩn bị sẵn 12 quả thủ pháo nặng 20 kg, nếu địch phát hiện thì giựt cho nổ tàu. Chúng tôi lúc này căng lắm, địch giãn ra nhưng vẫn theo dõi. Ngày thứ 2, 3 chúng tôi chuyển hướng vào Bình Định.

Nhờ ngụy trang tàu tốt nên địch vẫn chưa hành động, nhưng chúng vẫn nghi, gọi hải quân ngụy ở Đà Nẵng cho 2 tàu chiến lớn ở Đà Nẵng theo vào. Cái đi trước, cái đi sau... Cứ thế bám theo tàu ta. Đêm 30-10 gần hải phận Bình Định, tàu ta chuẩn bị chuyển hướng thì tàu địch đến gần sát. Chúng tôi tính toán khoảng 12 giờ đêm, 1 giờ sáng là vào bến nhưng địch như vậy nên không dám vào thẳng mà đi vòng nên kéo dài thời gian. May sao lúc ấy trời mù, gió lớn, mưa dầm, sóng lên...

Tàu địch sợ quá không dám theo nữa và bỏ hẳn. Thấy thế mình mừng lắm. Tàu mình bị sóng đánh dạt hẳn vào gần bờ. Đồng chí Phấn nghe sóng vỗ trên gành đá thì biết gần bến Tân Phụng (Mỹ Thọ - Phù Mỹ), lúc này đã hơn 3 giờ sáng, tàu theo hướng bắc ngược gió quay ra vùng biển Lộ Diêu lúc 4 giờ sáng ngày 31-10-1964. Trời vẫn mưa to, gió mạnh, sóng lớn không thể vào sát bờ, Ban chỉ huy tàu quyết định mở hết tốc lực lượn theo đà sóng lao thẳng vào vũng Lộ Diêu...

Biết là không kịp đưa tàu ra hải phận quốc tế nữa, nên khi lấy vũ khí xong, Ban chỉ huy tàu cho tháo máy và các thiết bị trên tàu, đổ dầu, đặt kíp nổ đốt cháy tàu suốt 3 ngày đêm. Bọn hải thuyền ở Tam Quan và Đề Gi tuần tiễu trên biển và máy bay quần đảo trinh sát nhưng chúng cho là tàu đánh cá của dân bị sóng dập và bốc cháy nên không để ý, ta cũng phao tin như vậy để đánh lạc hướng địch. Cũng trong đêm ấy, ta huy động thêm lực lượng từ Hà Ra, Phú Thứ cùng lực lượng có sẵn ở Lộ Diêu hoạt động liên tục trong 10 ngày đêm, bí mật vận chuyển toàn bộ vũ khí về căn cứ an toàn. Đây là chuyến tàu đầu tiên của lực lượng hải quân miền Bắc mở đường Hồ Chí Minh trên biển chuyển chở vũ khí bí mật, an toàn chi viện cho chiến trường miền Trung. Số vũ khí này tăng cường trang bị cho bộ đội chủ lực Quân khu V và lực lượng vũ trang trong tỉnh, góp phần vào chiến thắng chiến dịch Đông Xuân 1964 - 1965 với những trận An Lão, Đèo Nhông, Dương Liễu, Gò Bồi… mở ra vùng giải phóng cắt đường số 1 từ Bồng Sơn đi Quảng Ngãi, tạo thế và lực mới trong giai đoạn chiến tranh cục bộ.

Nhìn nét mặt hân hoan của ông lúc này, tôi chợt hỏi đến tâm trạng của ông như thế nào khi bị địch theo dõi suốt mấy ngày đêm trên biển. Đang vui, đôi mắt ông chợt đăm chiêu: "Nói thật, lúc đó về đến quê mình rồi, tôi căng như sợi dây đồng giữa sự sống và cái chết, giữa cái còn - cái mất, thất bại và thành công, bởi về đến quê mà không hoàn thành nhiệm vụ. Mà điều quan trọng nhất đối với đồng bào mình, mất đi số lượng vũ khí này quả thật là một tổn thất lớn. Cho nên lúc đó chúng tôi chỉ biết nguyện cầu - nói hơi mê tín một chút nhưng sự nguyện cầu lúc đó đối với chúng tôi là một niềm tin lớn... Và sự thật là vũ khí đã được vận chuyển đến nơi an toàn...".

Chiến công lịch sử của Tàu không số đã trở thành nỗi lo sợ của bọn ngụy quyền lúc này. "35 năm sau, chiến công này mới được công bố rộng rãi. Một số cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân...". Ông Khanh xúc động đến nghẹn ngào.                 

(theo Báo Bình Định)
 



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: napoleon trong 16 Tháng Tám, 2009, 03:17:39 pm
Hôm nay đọc trên báo Lao Động thấy chuyện rất xúc động về tìm thi hài AHLLVT Nguyễn văn Hiệu:
http://www.laodong.com.vn/Home/Them-mot-dieu-ky-dieu-ve-Anh-hung-Nguyen-Van-Hieu/20098/151176/Trang-1.laodong

Thêm một điều kỳ diệu về Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu
Lao Động Cuối tuần số 33 Ngày 16/08/2009 Cập nhật: 4:20 AM, 16/08/2009
(http://i773.photobucket.com/albums/yy11/dakto2404/avataraspx.jpg)
Lễ truy điệu Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu tại Nghĩa trang TP Hải Phòng.
(LĐCT) - Năm 1972, trong chuyến chở vũ khí từ miền Bắc vào chi viện cho miền Nam, "Tàu không số"mang số hiệu bí mật là 645, do chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu chỉ huy bị địch phát hiện và tấn công. Trong lúc gian nguy, anh yêu cầu tất cả các chiến sĩ nhảy xuống biển, bơi ra xa, anh ở lại, rồi điểm hoả cho tàu nổ tung cùng với tàu địch.

37 năm trôi qua, trong tiềm thức của gia đình và đồng đội, ai cũng nghĩ máu xương của anh đã hoà quyện cùng biển khơi.

Nhưng bất ngờ, thêm một điều kỳ diệu đã đến...

Có được điều kỳ diệu ấy là nhờ tài năng của các nhà ngoại cảm của Liên hiệp Khoa học - Công nghệ tin học ứng dụng (UIA) và sự quan tâm đầy trách nhiệm của Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an, của các sĩ quan, chiến sĩ Vùng 5 Hải quân - đồng đội của người anh hùng.

Người con đất Quảng anh hùng
Nguyễn Văn Hiệu là một người con của đất Quảng Nam giàu truyền thống cách mạng. Năm 1951, rời quê hương anh nhập ngũ. Năm 1954, tập kết ra Bắc, anh được cử đi học rồi xuất ngũ chuyển ngành về công tác tại Đoàn đánh cá Hạ Long.

Nhưng, như những người tập kết ra Bắc, anh chỉ mong chờ từng ngày được trở về miền Nam chiến đấu. Năm 1962, khát vọng ấy đã thành hiện thực, Nguyễn Văn Hiệu được trở lại quân đội, biên chế vào Đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Hải quân. Nguyễn Văn Hiệu trở thành sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, là chính trị viên kiêm bí thư chi bộ của tàu 645 - Đoàn 125.

Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu luôn là chỗ dựa tinh thần của cả đơn vị. Anh cùng đồng đội đã vận chuyển thành công 13 chuyến hàng vào Nam. Đến chuyến thứ 14, tàu 645 hai lần nhổ neo ra đi, song đều bị tàu địch kèm chặt, nên đành quay lại.

Ngày 12.4.1972, lần thứ ba tàu ra khơi, mang hàng cho quân khu 9. Đúng 17 giờ ngày 23.4.1972, khi chỉ còn cách Phú Quốc chừng 60 hải lý, tàu nhận được bức điện báo ngắn ngủi từ Bộ Tổng Tham mưu: "Bến động!".

Không còn cách nào khác, thuyền trưởng Lê Hà và chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu quyết định cho tàu quay mũi, lao ra vùng biển quốc tế. Đang lúc quay ra tàu ta chạm trán với một tàu khu trục Mỹ từ phía vịnh Thái Lan đi tới. Ngoài ra, phía trước còn có ba tàu địch nữa. Trong tình thế bị bao vây tứ phía, thuyền trưởng Lê Hà và chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu cho tàu phóng thật nhanh ra vùng biển quốc tế. Tàu khu trục Mỹ kèm sát, muốn "bắt sống" tàu 645. Đôi bên vờn nhau tới 5 giờ sáng hôm sau. Đến 7 giờ 45, địch xác định tàu 645 là của "Bắc Việt giả dạng", chúng lập tức gọi loa dụ hàng. Gọi hàng không xong, chúng bắn một loạt đạn uy hiếp trước mũi tàu ta. Lúc này, tàu 645 của ta mới nổ súng đánh trả.

9 giờ sáng. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu vẫn bình tĩnh động viên các chiến sĩ, phát huy hết hoả lực quyết liệt chống trả địch. Nhưng, bất ngờ, một quả đạn pháo lớn của địch bắn trúng bánh lái, tàu không thể di chuyển được nữa! Lại thêm 6 thuỷ thủ ta hy sinh, bị thương. Nguyễn Văn Hiệu yêu cầu thuyền trưởng Lê Hà dẫn anh em nhảy xuống biển, rời tàu. Chính anh sẽ là người cuối cùng rời tàu. Chất nổ được ém sẵn vào khoang máy.

Khi đồng đội đã xuống biển, Nguyễn Văn Hiệu vừa phát tín hiệu giả để kìm chân địch, vừa huỷ hết tài liệu. Xong đâu đấy, anh định nhảy xuống nước, thì thấy một tình huống vô cùng nguy hiểm: 16 chiến sĩ ta, phần lớn bị thương, phải cụm lại dìu nhau bơi. Con tàu mất lái, chạy vòng tròn, lúc thì đến gần đồng đội của anh, lúc thì lùi ra xa. Nếu tàu nổ tung, tính mạng của 16 đồng đội sẽ lâm nguy! Chính vì vậy, anh quyết định không rời tàu, thay đổi cách thức điểm hoả huỷ tàu.

Lo lắng cho tính mạng đồng đội, anh hét to: "Các đồng chí, khẩn trương lên chứ! Tôi sẽ về sau! Hãy báo cáo với Đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ!". Quay vào buồng lái, anh đánh bức điện cuối cùng về miền Bắc: "Báo cáo với Đoàn, tôi, chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu, đã hoàn thành nhiệm vụ. Cho tôi gửi lời chào chiến thắng!". Sau tín hiệu ấy, thấy tàu địch đang đến gần và biết chắc đồng đội đã ở khoảng cách an toàn, anh điểm nổ. Con tàu phát ra tiếng nổ long trời, tung lên cột nước trắng xoá, cao hàng chục mét.

Chính trị viên, bí thư chi bộ Nguyễn Văn Hiệu đã ra đi như thế! Năm ấy, anh vừa tròn bốn mươi.

Trung uý Nguyễn Văn Hiệu đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất, hạng Nhì. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

16 thuỷ thủ, chiến sĩ còn lại của con tàu 645 đều bị địch bắt, giam tại nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, các anh mới được trao trả về miền Bắc.

Vợ con anh nơi đất cảng Hải Phòng và những người đồng đội của anh ai cũng nghĩ rằng, kể từ ngày 24.4.1972 ấy, cùng với con tàu 645 nổ tung, chắc hẳn thân thể của anh đã hoà cùng sóng nước nơi vùng biển xa phía tây nam của Tổ Quốc...

Các chiến sĩ hải quân miệt mài tìm kiếm hài cốt Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.
Tín hiệu đầu tiên
Nguyễn Văn Hiệu ra đi, để lại mấy đứa con nhỏ cho người vợ trẻ ở phường Máy Tơ, quận Hồng Bàng, Hải Phòng. Vượt lên nỗi đau, sự mất mát, chị một mình nuôi con khôn lớn, trưởng thành.

Noi gương ông, giờ đây, người con trai đầu, anh Nguyễn Đình Phương, hiện giữ chức Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng. Như các anh em mình, anh Phương tự hào về ba mình và luôn mong được một lần gặp linh hồn ba dù chỉ trong mơ.

Vũ Tuấn là cháu rể của anh Phương. Tuấn thường được nghe chú kể về người cha của chú, Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu. Và Tuấn nung nấu suy nghĩ phải làm được một điều gì đó, dù nhỏ bé, để giúp đỡ chú.

Những lần về thăm bố mẹ ở Hà Nội, Tuấn vẫn nghe bà con, bạn bè nói về ngôi nhà số 1 phố Đông Tác, phường Kim Liên, Hà Nội. Được biết, đó là trụ sở của Liên hiệp Khoa học - Công nghệ Tin học ứng dụng (UIA). Tuấn bàn với chú Phương "Để con lên đăng ký. May ra mình sẽ gặp được linh hồn ông nhà ta".

Mất một ngày trời lân la tìm hiểu, mắt thấy tai nghe, Tuấn mới tin nơi đây là một "linh địa" để các gia đình triệu hồn các vong linh người thân đã mất trở về gặp gỡ, chuyện trò. Nhưng hỏi những gia đình đang đến đó "áp vong", họ cho Tuấn biết là đã đăng ký cách đây những 3-4 tháng.

Tuấn gọi điện thoại cho PGS-TS Ngô Tiến Quý - Viện trưởng Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công An nhờ chú giúp đỡ. Ông Quý nhiệt tình" Đây là trường hợp của liệt sĩ Anh hùng nên sẽ được ưu tiên". Rồi chú cho gia đình địa chỉ của cô Nguyễn Thị Nguyện (một nhà ngoại cảm thuộc UIA quản lý).  Sau khi nghe anh trình bày, cô Nguyện nói: "Khó lắm đấy. Cháu nên đi "áp vong" xem có tín hiệu không đã rồi mới triển khai các bước tiếp theo". Câu cuối cùng cô Nguyện nói với anh lúc ấy là: "Quay lại đây, nếu cháu và cô có duyên với nhau!".

Liền sau đó, Tuấn lại đến số 1 Đông Tác, Hà Nội xin tìm gặp ông Tổng Giám đốc Vũ Thế Khanh để trình bày. Nghe xong chuyện, ông Khanh lập tức chỉ đạo để xếp lịch ưu tiên "giao lưu sớm"- "Vì đây là trường hợp liệt sĩ Anh hùng!".

Một tuần sau, gia đình anh Phương và Tuấn có mặt tại Liên hiệp. Đúng 6 giờ, gia đình thắp hương trên tam bảo tầng 4 và xuống tầng 2. Thật bất ngờ, khoảng hơn 1 giờ sau, liệt sĩ linh hiển về nhập ngay vào người con dâu là Thoa, vợ anh Phương. Điều đặc biệt, bất ngờ nhất là linh hồn liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu nói: "Các con hãy đi tìm ba! Xương cốt ba vẫn còn. Ba sẽ phù hộ để các con tìm thấy. Ba muốn được về. Chứ ở đây, ba không có đồng đội, buồn lắm!".

Sau lần "giao lưu trực tiếp", các cán bộ của UIA tiếp tục hướng dẫn gia đình anh Phương làm lễ cầu siêu cho tất cả hương linh họ tộc và liệt sĩ trước. Sau đó, Liên hiệp khoa học UIA sẽ sắp xếp để gia đình được gặp nhà ngoại cảm.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: napoleon trong 16 Tháng Tám, 2009, 03:18:51 pm
(Tiếp theo)
(http://i773.photobucket.com/albums/yy11/dakto2404/tim-mo-1.jpg)
Đãi cát đi tìm
Dù vẫn còn có người bàn ra tán vào, cuối cùng anh Nguyễn Đình Phương vẫn quyết tâm sẽ lên đường đi tìm hài cốt. Trước khi đi, anh Phương lại lên Liên hiệp UIA. Ông Vũ Thế Khanh - Tổng Giám đốc Liên hiệp UIA - ân cần, dặn dò anh Phương rất kỹ và cung cấp thêm một số điện thoại của các nhà ngoại cảm khác, trong đó có số điện thoại của cô Năm Nghĩa (tức Nguyễn Minh Nghĩa - một nhà ngoại cảm tận tâm, tài năng và hiện cũng đang tìm mộ liệt sĩ tại đảo Phú Quốc), rồi nói thêm: "Vào trong đó, có gì khó khăn thì cứ gọi cho chị Nghĩa, nói là được anh Khanh giới thiệu!".

Ngày 15.4.2009, gia đình anh Phương lên đường đi Phú Quốc. Từ sân bay Cát Bi đến TPHCM sau đó bay tiếp đến Phú Quốc. Xuống sân bay Phú Quốc, đoàn được Vùng 5 Hải quân đón về đơn vị, cách đó khoảng 35km. Đến nơi, đoàn được các đồng chí ở Phòng Chính sách của Huyện đảo tiếp đón thân thiện và tạo điều kiện giúp đỡ tận tình.

Sau khi ăn cơm tối xong, khoảng 9 giờ, cả đoàn thuê taxi tìm đến nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất đảo để thắp hương. Viếng xong về đến doanh trại là 10 giờ 30, cả đoàn lại giở bản đồ ra để kiểm tra xác định lại vị trí khu vực mình đang ở và gọi điện cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư thì được biết: "Cụ Nguyễn Văn Hiệu cũng vừa về chỗ cả đoàn vừa giở bản đồ ra xem đấy. Nơi mọi người ở đã rất gần cụ rồi!". Nhà ngoại cảm nói thêm: "Đảo Phú Quốc như hình giọt nước ngược và phần nhỏ nhất là vị trí cụ nằm. Sáng mai thức dậy, anh Phương đi ra cổng có một ngã ba gần đó, anh đi về phía Đông Nam khoảng 2km thì rẽ phải khoảng vài trăm mét là đến gần mép biển, sẽ có một người tên là Long hay Phong gì đó dáng cao cao, da đen đen sẽ chỉ cho anh chỗ cụ nằm".

Mừng quá, đoàn cùng hai đồng chí đại đội phó vệ binh nhanh chóng xác định vị trí nhà ngoại cảm nói chính là mũi Con Dương trên bản đồ của hải quân. Một lát sau lại có thêm đồng chí Tham mưu phó huấn luyện tên là Mùi đến cùng nghiên cứu hải đồ. Và thật may, đồng chí Mùi cho biết:"Tôi đi biển đã 30 năm nên rất rõ tình hình khu vực này. Nếu đúng là khi điểm hoả cho tàu nổ ở vị trí phía Tây Nam đảo Phú Quốc thì rất có khả năng Cụ sẽ trôi dạt vào đây, vì ở đây có một xoáy nước, thường xuyên chạy theo hướng Nam, sau đó cuộn vào phía Đông Nam đảo Phú Quốc rồi tấp vào bờ. Các thuỷ thủ, ngư dân đánh bắt cá khi gặp bão biển đánh đắm tàu bè thường đều được dạt vào đây". Những thông tin mới này thật sự bổ ích vì góp phần củng cố thêm niềm tin chắc chắn cho gia đình.
Ngày thứ hai (16.4.2009), đúng 5giờ30, cả nhà bật dậy, rồi cùng ra ngoài đi ăn sáng. Ăn xong, có đồng chí Phong - Trưởng phòng chính sách của Vùng 5 Hải quân - đến đón (hệt như thông tin của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư đã cung cấp trước). Cả đoàn lên xe đi theo hướng dẫn đã biết của nhà ngoại cảm (được đánh dấu trên bản đồ).

Sau sự hướng dẫn qua điện thoại của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư, tất cả mọi người có mặt ai vào việc nấy, người thì bày lễ, người quay về huy động thêm nhân lực. Cúng lễ xong, đang hoá vàng dở thì cô Thoa (vợ anh Phương) bỗng dưng ngồi thụp xuống, nước mắt chứa chan, thân thể thì lắc lư giống hệt hôm "áp vong" ở Hà Nội. Đã có kinh nghiệm từ trước, Anh Phương hỏi: "Có phải ba về với chúng con không?". Cô Thoa mắt nhắm nghiền, toàn thân đung đưa, chợt gật đầu lia lịa. Anh Phương hỏi nhanh: "Thế đây có phải là chỗ ba nằm không?". Cô Thoa lại lắc lư gật đầu, càng lúc càng khóc nhiều. Thấy thế anh Phương lại nói: "Hôm nay chúng con đến cất bốc hài cốt của ba, ba có vui không? Ba có dặn dò gì chúng con không?". Cô Thoa lại gật đầu. Cả đoàn lúc ấy đều nghẹn ngào khóc. Một lúc sau, cô Thoa mới trở lại trạng thái bình thường.

Cả gia đình cùng với một trung đội hơn 30 con người hăng hái bắt tay vào việc tìm kiếm. Nhưng cứ đào tới đâu, cát sụt xuống tới đó. Đoàn chia làm hai đội, một đội đào, một đội dùng tay tát nước, cứ như vậy liên tục. Sức người quá nhỏ bé với thiên nhiên. Cát lở rồi cát lại bồi. Cả đoàn nhìn nhau không ai nói câu gì... Bắt đầu đào là từ 9 giờ 30, ai cũng hăng hái kẻ xúc người đổ, đến 12 giờ, nhìn phạm vi đã đào được cũng mới chỉ toen hoẻn...
 
Nắng càng lúc càng gay gắt, không khí ngột ngạt. Tưởng do nhân lực chưa đủ, gia đình anh Phương lại yêu cầu đơn vị cho thêm một đại đội nữa. Có đông người hỗ trợ, diện tích đất cũng dần mở rộng ra đáng kể, tuy nhiên so với yêu cầu của nhà ngoại cảm thì mới chỉ được 1/4.  Gia đình anh Phương thống nhất phải báo cáo với Tư lệnh Vùng 5 và xin được giúp đỡ. Không ngờ, buổi chiều cùng ngày, chính đồng chí Chính uỷ Vùng 5 đã đến thăm động viên gia đình, rồi  ngay lập tức liên lạc với Quân khu 9 cạnh đó thuê ngay một cái máy xúc.

Ngày thứ tư (18.4.2009), cả buổi sáng công việc vẫn chỉ tập trung đào và theo dõi nhưng chưa thấy có dấu hiệu gì đặc biệt.

Gọi điện cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư, Tuấn được chỉ đạo thêm "Cứ đào mở rộng sang hướng tây nam khoảng 3-5m nữa sẽ tìm thấy xương của cụ". Niềm hy vọng đó tiếp thêm sinh lực cho mọi người. Thời gian như chậm lại. Cả đoàn lại lao vào việc với một quyết tâm lớn. Cuối giờ chiều, khi đoàn đã đào sâu thêm được 6m, rộng dài 10m nữa, phần đã đào thành cả một núi cát sừng sững mà vẫn chẳng thấy gì.  Tuấn gọi điện cho nhà ngoại cảm. Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư nói: "Đã đào hết diện tích tôi nói chưa?". Tuấn quả quyết: "Dạ, đã  đào hết khu vực thầy yêu cầu rồi ạ" và nhanh nhẩu: "Thế thầy thấy cụ em như thế nào ạ?". Nhà ngoại cảm bảo: "Hôm qua trông vẻ mặt cụ tươi tỉnh, phấn khởi lắm. Nhưng hôm nay thấy cụ cứ rầu rầu. Không biết có phải vì mình đã bỏ sót chỗ nào đó không? Hay đào chưa tới? Tôi e là...".

Nghe nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư nói xong, cả gia đình anh Phương hoảng thật sự. Lúc này thì tâm trạng mọi người đã thật sự rất bi quan, mệt mỏi, lo lắng và tỏ vẻ hoang mang lắm lắm.  Liên lạc với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư thì... " Dễ thường gia đình ta đành phải về thôi. Cụ vẫn đang đứng sau lưng anh Phương, mặt rất rầu và nói rằng đoàn đã đào sai vị trí! Bây giờ đoàn hãy tiếp tục đào theo hướng rừng thông xem sao. Tôi sẽ giao lưu thêm với cụ rồi báo cho gia đình tiếp...".

Tuấn nhanh nhẩu rút điện thoại ra tìm số điện thoại các nhà ngoại cảm khác, hy vọng có thêm được manh mối gì... Gọi cho cô Nguyện, sau khi nghe Tuấn trình bày, cô nói: "Đúng vị trí rồi đấy. Cứ triển khai đào theo hướng Đông Nam đi, chắc chắn sẽ thấy cốt".

Cả đoàn lại bắt tay vào việc. Khoảng 10 giờ 30, trời vẫn đang nắng nhưng lại  lác đác có mưa.
Đào một lát, Tuấn lại gọi cô Nguyện, lần này thì cô nói: " Nhìn theo hướng tây nam có thấy một chạc ba cây gỗ giống hình cái súng caosu không?". Tuấn thưa: "Có thấy ạ". Cô Nguyện bảo tiếp "Vậy thì hãy đào theo hướng tây nam, tây nhiều nam ít. Chiều nay chắc chắn sẽ thấy". Cả đoàn lại tiếp tục đào theo hướng mới.

Ăn cơm trưa xong, mọi người lại tiếp tục đào. Tuấn gọi cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư thì thầy vẫn khẳng định: "Cứ theo hướng tây nam mà đào tiếp". Chiều, Tuấn lại gọi cho cô Nguyện thì bị mắng: "Gia đình đang dùng máy để đào phải không? Dừng lại ngay. Đi tìm hài cốt mà dùng máy thì không thể tìm được đâu. Bây giờ hãy sàng chỗ cát đã xúc đi. Xương cốt cụ ở hết trong đó rồi".

Nghe lời cô Nguyện, đoàn lại huy động phương tiện để sàng cát. Đến khoảng 15giờ30 đoàn tìm được mảnh xương đầu tiên. Đó là một mẩu xương được dính bởi một đoạn rễ cây thông rất khó thấy. Qua năm tháng, nhựa thông bám vào xương khiến cho mảnh xương chuyển thành màu tro đen, bị lẫn bởi lòng đất đen không dễ gì thấy rõ. Nhưng cầm mảnh xương trong tay, anh Phương có một cảm giác khác lạ ngay.

Ngày thứ năm (19.4.2009). Sáng sớm, cả đoàn lại bắt tay vào việc với một tinh thần hăng hái đặc biệt. Việc tìm thấy mảnh xương hông thật sự đã khích lệ khí thế lạc quan. Cả đoàn hôm nay với hơn 100 con người lại cần mẫn kiếm tìm.

Nghĩa tình đồng đội và tình huyết thống hun đúc và thôi thúc lòng quyết tâm của mọi người. Đúng 15 giờ 30, các chiến sĩ tìm được 1 mẩu xương đùi. Không tả hết niềm sung sướng của gia đình anh Phương và toàn đoàn. Rồi lần lượt các mảnh xương dần dần lộ ra: xương cánh tay, xương đòn vai, xương ức... Tiếp tục  sàng sẩy và vê từng nắm cát, các phần xương cơ bản của các bộ phận cơ thể của cụ đã  khá đầy đủ.

Ngày thứ bảy (21.4.2009). Gia đình anh Phương cùng các chiến sĩ, bị bày lễ cảm ơn thần Biển và các vị thần Thổ Địa, thỉnh hương hồn anh hùng Nguyễn Văn Hiệu và đồng thời nói lời cảm ơn, tiễn biệt các vong linh bị tai nạn đắm tàu thuyền phiêu bạt nơi đây, bao năm đã kề cận sẻ chia với liệt sĩ.
Cả gia đình anh Phương rưng rưng cảm động không nói nên lời bên cạnh các cán bộ chiến sĩ của Tiểu đoàn Hải quân anh hùng đã trọn một tuần lễ không quản gian khó, chung sức chung lòng với gia đình tìm được hài cốt của Anh hùng.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: napoleon trong 16 Tháng Tám, 2009, 03:20:07 pm
(Tiếp theo)

Ngày trở về...
Ngày 29.4. 2009  Hải Phòng bắt đầu vào hạ. Nhưng hôm chúng tôi từ Hà Nội về đất cảng để dự lễ truy điệu Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu thì trời đổ mưa rào, không khí mát mẻ lạ thường. Trên đường đi, chúng tôi được nghe Tuấn say sưa kể lại những toàn bộ hành trình của việc đi tìm hài cốt của anh hùng. Hết buổi sáng, xong các nghi thức thủ tục phúng viếng tại nhà, đoàn xe rước linh cữu của Anh hùng đi về phía Nghĩa trang của Thành phố Hải Phòng.

Vừa đến cổng nghĩa trang trời chợt hửng những tia nắng vàng hanh khiến cho khu nghĩa trang như được dát vàng nhẹ, nắng chiếu lên những hàng cây lấp lánh sao. Cho tới khi, đại diện chính quyền và đơn vị hải quân đọc lời truy điệu và gửi gắm những tình cảm tri ân tiễn đưa Anh hùng về với cõi vĩnh hằng thì trời lại đổ mưa rào rào... Đây là lần thứ hai gia đình và đồng đội của Anh hùng làm lễ truy điệu cho anh. Lần thứ nhất là vào năm 1978.

Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư cùng đi với đoàn Liên hiệp KHCN tin học ứng dụng UIA có về dự lễ. Khi vừa bước vào để làm lễ và đi vòng quanh linh cữu để tiễn biệt anh hùng, nhà ngoại cảm nói nhỏ với tôi: "Liệt sĩ đang đứng bên phải linh cữu chào mọi người và nói lời cảm ơn chúng ta đấy!".

Thay cho lời kết
Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu hy sinh vì đất nước. Chiến công của anh cũng như các kỳ tích của các chiến sĩ " tàu không số" đã làm nên bài ca bất tử về một - "con đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển Đông". Những chiến sĩ của "tàu không số", trước khi ra khơi đã tự làm lễ truy điệu cho mình, ngày rời bến cũng có thể xem là ngày hy sinh. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng với chúng ta, những việc làm tri ân các anh hùng là điều không thể nào quên. Quê hương anh và mảnh đất Hải Phòng nơi vợ con anh sống, mãi mãi không thể nào quên người con anh hùng, ưu tú Nguyễn văn Hiệu. Một tượng đài mang tên anh trong lòng nhân dân và đồng đội của Đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Hải quân thì đã có, nhưng tượng đài ghi tạc công lao và kỳ tích anh hùng của anh thì sao? Và ở Quảng Nam, Hải Phòng có lẽ nên có đường phố hoặc trường học mang tên người anh hùng Nguyễn Văn Hiệu.

"Có những cái chết hoá thành bất tử", mà không chỉ vậy, chính sự hy sinh của anh cũng như bao người lính đã ngã xuống đã góp vào hồn thiêng sông núi Việt Nam. Việc đi tìm kiếm hài cốt của anh cũng kỳ diệu hiếm có. Sự linh ứng của của Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu đã giao cảm với trái tim của các nhà ngoại cảm UIA, các nhà nghiên  cứu của Viện KHHS Bộ Công An cùng bao người lính Hải quân - đồng đội của người anh hùng đã góp sức để làm nên thêm một điều kỳ diệu.

Ghi chép của Trần Thu Hà


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 17 Tháng Tám, 2009, 09:06:24 am
Tiếng nói của TKS Hà Nội

Cảm ơn bạn Trần Thu Hà và báo Lao động. Sư việc này chúng tôi đã được nghe các anh BLL tàu không số Hải Phòng kể khi về dự lễ truy điệu LS Hiệu nhưng không rõ ràng và chi tiết như bạn Trần Thu Hà đã ghi lại theo lời kể của cháu ruột anh hùng liệt sỹ Nguyễn Văn Hiệu - Người đã trực tiếp tham gia tìm hài cốt anh.

          Với lính TKS chúng tôi bài viết trên không chỉ cung cấp thông tin mà còn thổi bùng khát vọng đi tìm hài cốt lính tàu không số. Trước kia chúng tôi chấp nhận cái chết không mồ hay nói cho văn vẻ là chấp nhận những nấm mồ gió thì nay gia đình của 117 liệt sỹ TKS đã có cơ sở và niềm tin đi tìm hài cốt thân nhân của mình.  Ban LL TKS Hà Nội sẽ tiến hành cùng gia đình liệt sỹ Nguyễn Hữu Hùng ở Tây Mỗ TL Hà Nội tìm hài cốt liệt sỹ. Xin cảm ơn báo LĐ và tác giả Trần Thu Hà. TKS


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: nhapnhom trong 10 Tháng Mười, 2009, 11:15:13 pm
Trích "5 đường mòn HCM", tác giả Đặng Phong, NXB Tri Thức, 2008 - trang220:

- Tàu 168 lên đường ngày 06/07/1967, do Thuyền trưởng Vũ Tấn Ích và...  Do không phá được tàu nên cả tàu và 56 tấn hàng đã bị bắt. Thuyền trưởng và thủy thủ thoát lên bờ, trở về miền Bắc. Toàn đội đã bị kiểm điểm và thi hành kỷ kuật.1
    1 Lịch sử Lữ đoàn Hải quân 125, sđd, tr. 140-142

Các bác có biết hình thức kỷ luật hay các thông tin liên quan không?


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: lonesome trong 28 Tháng Mười Hai, 2009, 02:42:44 pm
http://www.tuanvietnam.net/2009-12-28-khong-chi-la-co-tich

Không chỉ là cổ tích
Tác giả: Dương Trọng Dật
Gió mùa đông bắc như bàn tay của nữ thần mùa đông, lạnh giá nhưng dịu dàng vuốt ve trên mặt tôi. Tôi mê đi trong cái lạnh của giọt mưa bám trên đầu thấm vào từng chân tóc, ngỡ mình đang lạc vào một vùng đất thiêng vừa lạ lẫm vừa quen thuộc.

Tôi đứng lặng bên bến tàu không số. Trời xám một màu chì. Cơn mưa phùn theo chân gió bấc bất ngờ ập xuống. Những giọt mưa trắng như những bông hoa thủy tinh giăng mờ trên mặt biển, huyền hoặc giống hệt bức tranh siêu thực của các họa sĩ tượng trưng. Nghe xao xác những hàng cây đang rụng lá. Gió mùa đông bắc như bàn tay của nữ thần mùa đông, lạnh giá nhưng dịu dàng vuốt ve trên mặt tôi. Tôi mê đi trong cái lạnh của giọt mưa bám trên đầu thấm vào từng chân tóc, ngỡ mình đang lạc vào một vùng đất thiêng vừa lạ lẫm vừa quen thuộc.


Quen thuộc vì đây là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Cái miền quê nghèo gắn liền với những cơn mưa phùn gió bấc cắt da của một thời thơ ấu cay nghiệt và đói rét. Nhưng lạ lẫm vì tôi vừa trở về từ vùng đất đầy nắng gió phương Nam, từ một đô thị sôi động quanh năm không có mùa đông. Thèm đến nao lòng một giọt mưa phùn, một cơn gió mùa đông bắc. Thèm cảm giác phóng xe trên đường Đồ Sơn, đón nhận vào tận thịt da cơn lạnh tê tê trên mặt, thả mình bồng bềnh trong sương như bước vào một miền cổ tích ở cõi thần tiên.

(http://www.tuanvietnam.net/assets/Uploads/lan-2..jpg)

Tàu "không số" lữ đoàn 125 Hải quân vận chuyển vũ khí chi việm cho chiến trường miền Nam. Ảnh: tư liệu

Không chiến tranh và chết chóc. Đã qua rồi những ngày bom đạn giăng đầy đất cảng Hải Phòng. Thành phố biển cùng với đất nước đang rũ bùn vươn lên như những chàng trai Phù Đổng. Cái làng quê nhỏ của tôi, vốn là nơi “chó ăn đá gà ăn sỏi”, đang đổi thay hàng ngày với tốc độ đô thị hóa chóng mặt. Con đường cái quan lồi lõm ổ gà đã được trải nhựa láng. Con đò chở khách từ bao đời nay được thay thế bằng một cây cầu hiện đại, mà ngày ở quê, quần đùi đánh dậm có nằm mơ chúng tôi cũng không dám nghĩ tới. Vùng đất ao tù, nước đọng đã lột xác thành một tiểu đô thị, có đầy đủ các tiện nghi giống như Hà Nội, Sài Gòn. Người nông dân ở quê tôi bây giờ ngồi ở nhà cũng có thể bàn chuyện động đất ở Tứ Xuyên, chuyện bầu cử tổng thống Mỹ. Những làng quê nhỏ bé ấy là thước đo, là minh chứng sống động cho đường lối đổi mới toàn diện của Đảng ta. Nó làm sáng lên gương mặt của đất nước đang vững vàng bước vào thế kỷ 21, đổi mới mà không đổi màu, hòa nhập nhưng không hòa tan. Việt Nam đã trở thành một gương mặt mới, một thế lực kinh tế và chính trị được bạn bè quốc tế nể trọng…


Tôi lắng nghe tiếng rì rào của biển. Hình như mưa đã tan. Cây bàng mồ côi đang đớn đau thả những chiếc lá đỏ cuối cùng. Trong ánh hoàng hôn màu lửa của buổi chiều Đồ Sơn, tôi bần thần nhìn tên tuổi các anh ghi trên tấm bia tưởng niệm mà ngỡ như thấp thoáng đâu đây gương mặt của bạn bè, những chàng trai sông Hồng, sông Mã, sông Thương, sông Cấm. Những người khi ngã vào lòng biển vẫn con trai. Con đường từ Hà Nội đến Sài Gòn, từ Đồ Sơn đến Cà Mau không đơn giản tính bằng cây số. Nó phải được tính bằng máu và nước mắt của nhiều thế hệ đã đổ xuống cho đất nước này, trong đó có các anh. Các anh bước vào cuộc chiến tranh giữa lúc đất nước bước vào cuộc giao tranh khốc liệt nhất. Chấp nhận ra đi là cầm chắc cái chết trong tay. Không ai hứa hẹn với các anh về một thiên đường sau chiến thắng. Chính quả tim biết đau trước nỗi đau chung đã thôi thúc các anh tình nguyện ra đi. Đơn giản là Tổ quốc không có sự lựa chọn nào khác. Dân tộc không có sự lựa chọn nào khác. Đó là sự lựa chọn duy nhất và tất yếu của lịch sử.


Có thể rồi sẽ không còn ai hình dung ra gương mặt các anh. Nhưng điều đó liệu có ý nghĩa gì? Thịt xương các anh đã hòa vào biển cả, hóa thành chất muối mặn cho đời, bồi đắp nên dáng hình Tổ quốc. Tinh anh của các anh thấm vào từng thớ đất, biến thành nhựa trong cây. Nhưng khúc ca bi tráng của các anh không chỉ là khúc ca của một thế hệ. Lòng yêu nước không phải thứ độc quyền của riêng ai, nó như hạt vàng lẩn khuất trong tim mỗi người, chỉ chờ có gió lại rực lên. Nó đã cháy rực lên trong mũi tên đồng Cổ Loa, trong ngọn sóng Bạch Đằng, trong rồng lửa Thăng Long, trên con đường thấm máu và nước mắt đến độc lập tự do, xóa đi nỗi nhục mất nước. Nó sẽ tiếp tục cháy lên trên hành trình đầy chông gai, vượt qua mọi khó khăn, vượt qua chính mình, xóa nỗi nhục đói nghèo. Nó như sợi chỉ xanh lóng lánh trong tim mỗi người, nuôi dưỡng hồn vía Việt Nam, làm nên sức sống bất diệt của dân tộc.

(http://www.tuanvietnam.net/assets/Uploads/_resampled/ResizedImage407241-10359-1964-1972.jpg)
Ca nô phá thủy lôi không người lái T5


Năm tháng sẽ đi qua. Trong tương lai, các thế hệ con em chúng ta sẽ được sống trong hòa bình. Nhưng không ai có quyền quên bến tàu huyền thoại. Huyền thoại về các anh, những người con bất tử của đường Hồ Chí Minh trên biển, huyền thoại về một cuộc chiến tranh nhân dân. Tôi chợt lạnh người khi nhớ đến giả thiết của một ai đó muốn lật lại lịch sử cuộc chiến tranh bằng luận điểm: “giá như”…Không! Lịch sử là cụ thể. Lịch sử không thể giả định. Không có thứ chủ nghĩa nhân văn chung chung. Chạy theo chủ nghĩa nhân văn kiểu “giá như” là chúng ta phản bội lại xương máu của hàng triệu người đã đổ ra trên chiến trường. Nó có nguy cơ đánh lộn sòng người yêu nước và kẻ bán nước, phủ nhận ý nghĩa tinh thần vô giá của cuộc chiến trang bảo vệ Tổ quốc. Tôi bỗng nhớ tới lời khuyên của một nhà báo Mỹ trong lần đến thăm và tiếp xúc với các đồng nghiệp Việt Nam “các anh đừng đi vào vết xe đổ của Đông Âu. Sai lầm của họ là đạp đổ tất cả, trong khi chúng tôi không lên án các cuộc chiến tranh, không hạ bệ Oasinhtơn. Mỗi dân tộc cần có những cái thiêng liêng để mà thờ”. Tôi nghĩ đó là một lời khuyên chân thành. Sẽ không có tương lai nếu điên cuồng đào bới lịch sử, tàn phá quá khứ. Phải chăng, lời cảnh tỉnh của người bạn khác chính kiến ấy cũng là bài học đáng suy ngẫm cho mỗi chúng ta…?


Một cơn gió lạnh làm tôi giật mình sực tỉnh. Mưa đã ngừng rơi từ bao giờ. Trong ánh hoàng hôn cuối cùng của chiều tà, tôi ngẩn ngơ nhìn sóng tung bọt trắng xóa như pháo hoa vỗ vào bờ cát. Hình như có ai đó khẽ khàng hôn lên mái tóc trắng bụi mưa, bạc màu vì sương gió của tôi. Tôi lắng nghe tiếng ca rì rầm của biển và có cảm giác mình đang bay lên cùng những cánh chim hải âu. Ngoài khơi, thấp thoáng bóng những con thuyền câu sải mình trên sóng bạc. Tôi nhìn những hàng cây đang rụng lá, cảm nhận đến từng mao mạch của mình, dòng nhựa sống đang âm thầm chuyển từ đất lên cây. Trong  dáng vẻ gầy guộc  của cỏ cây, trải qua cái khắc nghiệt của mùa đông đã nghe một mùa xuân mới đang về. Tôi lặng lẽ ngắm những gương mặt người xung quanh, sáng ngời như những bông hoa, trong đầu chợt hiện lên câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Nhất đóa hoàng hoa nhất điểm xuân”.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: shmel trong 14 Tháng Hai, 2010, 10:36:19 am
Tết của đoàn tàu không số

(Dân trí)- Trong ký ức những đoàn viên cảm tử của đoàn tàu không số, bữa cơm Tết trên biển là những bát cơm canh đỏ au như xôi gấc vì phôi từ thùng đựng gỉ sét, "đặc sản" là tiếng gào thét của lớp lớp sóng biển, của đạn bom và những phút giao thừa "quyết tử".

Từ những bữa cơm canh trộn gỉ sét

Trung tá Trần Hậu Vệ chỉ tay lên bức ảnh phóng to đặt trang trọng ở giữa phòng trầm ngâm nói: "Đó là ảnh máy bay trinh sát của Mỹ chụp lại một con tàu Không số của đoàn 125 (đoàn tàu không số). Kia là 2 khẩu súng 12 ly 7 đã giăng lưới trắng ngụy trang, chỗ kia đặt thuốc nổ, khẩu DKZ đặt ở góc này... Có lẽ đây là hình chụp tàu bí số 56 của chúng tôi, giống lắm".
 
(http://dantri.vcmedia.vn/Uploaded/2010/02/04/tau-ko-so422010.jpg)
Tác giả bài viết và Trung tá Trần Hậu Vệ

Câu chuyện người cựu binh nói với chúng tôi là về hai chữ "đồng đội" mà rất nhiều người trong số đó đã mãi mãi nằm lại với biển sâu. Người lính đoàn tàu không số khi ra đi đã nguyện mang theo lời thề "Quyết tử vì Tổ quốc quyết sinh". Khi hy sinh, thân xác bọc vào "quan tài" nilon, gửi vào lòng biển mong rằng sóng gió, thủy triều đưa về với đất liền, đồng đội. Đó đã là chặng đường vượt biển cuối cùng của hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đoàn 125.

***

Đầu những năm 1960, con đường mòn trên biển Đông chi viện người, vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam vẫn giữ được bí mật tuyệt đối. Năm 1961, chàng tân binh quê Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh Trần Hậu Vệ được phân công vào đội tàu "không số" khi vừa 19 tuổi.  Trung tá Vệ nhớ lại: "Tàu 56 của chúng tôi là một trong những con tàu sắt đầu tiên của đoàn tàu không số thay cho những chiếc tàu gỗ làm nhiệm vụ trước đó từ năm 1961. Tết năm 1964, tàu được dành riêng cho chiến dịch Bình Giã (1964)".

Tàu 56 đi lần này chở hơn 60 tấn vũ khí xuất phát từ quân cảng bí mật tại Hải Phòng đi Bà Rịa ngay khi ông Vệ vừa hoàn thành nhiệm vụ với chuyến tàu bí số 41. Mãi đến lúc đó, ông cùng hơn 10 thủy thủ đoàn trên tàu 56 vẫn không hề hay biết nguyên nhân của chuyến hành trình gấp gáp, chỉ nghe cấp trên căn dặn: đây là chuyến đi đặc biệt, đi phải chắc thắng!

Vì là chuyến đi vào những ngày áp Tết nên khẩu phần ngoài đồ dùng vật dụng, quần áo trang bị, vỏ bao, thuốc lá Trường Sơn, Tam Đảo đã bóc hết nhãn mác, tàu 56 còn được chu cấp thêm bia, sữa và một lồng gà sống. "Mọi dấu tích miền Bắc phải xoá sạch, nhưng anh em vẫn được "bí mật" cấp thêm bánh chưng, để trên tàu có không khí đất mẹ, cho nguôi ngoai nỗi nhớ miền Bắc trong những ngày lênh đênh".

Chuyến tàu đó có nhiều chiến sĩ trẻ người miền Bắc, lần đầu tiên ăn Tết trên biển. Vì mới đi, còn "lạ miệng" với loại cơm đặc trưng của đoàn tàu không số nên sức đề kháng cũng vì thế mà sút giảm.

Giải thích cho loại cơm đặc trưng đó, người cựu binh già vẽ vài nét trên tấm giấy, chỉ ra loại từng thùng sắt thường để đựng cơm, rau, nước ngọt trên tàu. Vì điều kiện đi biển khắc nghiệt, những thùng sắt này đều bị hoen gỉ. Bữa ăn dọn ra, cơm luôn đỏ ngàu một màu như xôi gấc, nước canh cũng đục ngầu như nước sông Hồng mùa lũ.

Nhưng chuyện nấu cơm xét ra mới thực là khổ. Gió mạnh, tàu nghiêng ngả hết bên này đến bên kia, nhiều khi tới hơn 45 độ. Phải nấu bằng 1 cái nồi thật to, mức nước trong nồi cũng để thấp bởi đầy quá sẽ văng lung tung hết. "Anh nuôi" thường do cán bộ miền Nam vốn là những ngư phủ lâu năm đảm nhận. Hai tay cầm hai tay xách của nồi, người này đứng trong tư thế nghiêm vững chãi, chỉ điều khiển hai tay lên xuống "khớp" với từng cơn lên xuống của con tàu, để sao cho ngọn lửa "liếm" đều. Nhưng dù "anh nuôi" trình độ có vững đến đâu, bữa nào cả tàu cũng phải ăn cơm khê.

(http://dantri.vcmedia.vn/Uploaded/2010/02/04/tau-ko-so422010-2.jpg)
Những người lính đoàn tàu không số năm xưa.

Rồi cái ngày cập bến đã đến. Đêm giao thừa, tàu vào đến cửa biển thì địch ở căn cứ Vũng Tàu bắn pháo sáng rực góc trời. Căng mắt nhìn về phía trước, mãi không thấy gì khác, cho đến khi tất cả gần như một lúc bật reo khe khẽ: "có tín hiệu!". Thế rồi những điểm sáng ấy cứ lớn dần, đã thành hình những bóng người đứng đợi, đã thành bóng các má, bóng đồng đội dang tay vẫy... Chúng tôi nhìn nhau nước mắt vòng quanh mà không thể thốt lên lời.

Chuyến đi này, tàu 56 có 2/3 cán bộ chiến sĩ là người Bà Rịa, gia đình còn ở lại quê nhà, nhưng vì nhiệm vụ tuyệt mật nên khi đó không ai được phép rời tàu. Có nhiều người như anh Lê Hà, gia đình chỉ cách nơi con tàu đứng chân chừng non cây số mà đành nuốt nước mắt đợi ngày Tết đoàn tụ khi hai miền Nam Bắc sum họp. Anh Tống Thành Lập, một cán bộ của tàu được lãnh đạo "mật báo" là có người yêu đang tham gia vận chuyển hàng nhưng cũng chỉ được lấp ló từ trong tàu nhìn ra.

Nối tiếp những huyền thoại

Tết Mậu Thân 1968, khi chiến trường miền Nam bước vào giai đoạn quyết liệt nhất cũng là lúc những con tàu của đoàn 125 bước vào chiến dịch. Những chuyến đi biển phục vụ đợt Mậu Thân trở thành trang sử huyền thoại bi hùng nhất, chói lọi nhất của đoàn tàu không số.

Chiến dịch này đoàn 125 chuẩn bị 4 tàu, xuất phát ở 4 địa điểm khác nhau và hẹn cùng cập bến, "xuống hàng" trong đêm đón giao thừa, vào lúc địch lơ là nhất. Trước đó, "vụ án Vũng Rô" nổ ra, đường vận chuyển vũ khí trên biển Bắc - Nam bị lộ, tuyến đường vận chuyển vũ khí trên biển càng trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết.

Trước khi 4 chuyến tàu mang bí số 165, 56, 43 và 235 lần lượt xuất phát, đại tướng Võ Nguyên Giáp căn dặn: "trong thời điểm khó khăn, gian khổ và ác liệt này, 4 con tàu ra đi vào bến được một nửa cũng đã là thắng lợi. Thậm chí thấp hơn, chỉ một con tàu trở về căn cứ an toàn chúng ta cũng tự hào". Chuyến đi ấy, chỉ mình tàu 56 trở về.

Tàu 165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy cùng 17 cán bộ, thủy thủ khác vượt biển vào bến Vàm Lũng (Cà Mau). Nhưng khi vào khu vực biển miền Nam Việt Nam, tàu bị tàu chiến, máy bay Mỹ bám riết. Khi đến cận bờ vùng biển phía tây nam thì địch nổ súng. Sau nhiều giờ chiến đấu, đạn hết, nhiều cán bộ chiến sĩ bị thương, hy sinh, trưởng tàu quyết định lao thẳng tàu vào đội hình địch rồi chập kíp nổ. Đêm ấy, 18 cán bộ thủy thủ đều hy sinh. Bức điện cuối cùng Sở chỉ huy nhận được từ 165 có nội dung: "chuyển vào. Gặp máy bay trinh sát đi về phía hướng tàu vào - Lương".

(http://dantri.vcmedia.vn/Uploaded/2010/02/04/tau-ko-so422010-1.jpg)

Tàu 43 do thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng chỉ huy đi theo đường dích dắc nhằm đánh lạc hướng trinh sát địch. Khi tàu cách Sa Kỳ (Quảng Ngãi) vài chục hải lý thì xuất hiện nhiều tàu địch áp sát, bao vây, chạy vòng quay và liên tục đánh điện hỏi. Thuyền trưởng Thắng quyết định cơ động tàu để phá vòng vây tiến vào bờ "thả hàng tọa độ" nhưng tàu Mỹ xuất hiện ngày càng đông. Cuộc chiến đẫm máu diễn ra. Sau khoảng 3 giờ, kế hoạch hủy tàu được thực hiện. Chỉ một số ít thủy thủ đoàn còn sống sót bơi vào bờ an toàn.

Tàu 235 do thuyền trưởng Phan Vinh chỉ huy gặp địch tại vùng biển Nha Trang, sau nhiều giờ chiến đấu đã buộc phải nổ tàu. Anh em cán bộ, chiến sĩ hy sinh gần hết.

15 năm vượt biển mở đường về miền Nam Việt Nam, đoàn tàu không số đã huy động gần 1900 lượt, vận chuyển trên 15 nghìn tấn hàng hóa, vũ khí, hơn 80 nghìn lượt người với hàng vạn hải lý xuyên biển đông, chống chọi và vượt qua hơn 20 cơn bão lớn; chiến đấu với hơn 30 lần tàu chiến, 1200 lần với máy bay. Những con tàu không số dọc ngang trên biển Đông đã làm nên chiến tích kỳ diệu.

Phúc Hưng


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: doan10k5 trong 14 Tháng Hai, 2010, 09:14:27 pm
...Ở bến Lộ Giao (Bình Định) vào cuối năm 1962, có một chiếc tàu gỗ do các đồng chí Châu, Đạt, Hường chỉ huy, chở 20 tấn vũ khí vào. Tuy chuyến ấy tàu bị mắc cạn ngoài cửa biển, nhưng hàng hoá thì đã được dân quân du kích địa phương giải phóng lên bờ an toàn, sau đó tàu được phá huỷ, giữ được bí mật tuyệt đối. Nhưng một số thủy thủ khi lên bờ đã bị địch phục kích sát hại. Vì thời gian đã quá lâu, chiến tranh bom đạn kẻ thù cũng đã san lấp, làm mất vị trí mộ chí của các anh, nên hôm nay chúng tôi đi kiếm tìm đã nhiều lần vẫn không có kết quả....
   Hôm nay nhân ngày T.B.L.S (27.7. 2009), với tấm lòng biết ơn vô hạn của mình đối với những đồng đội một thời cùng đi về Nam trên con Tàu không số, tôi viết bài này xin được coi như một nén tâm hương, kính dâng lên hương hồn tất cả các anh.  (Trần Hậu Vệ)

Kính gửi bác trantienve:
Những thông tin mà em trích dẫn nêu trên của bác đã đưa ra, rất tiếc là hôm nay em mới đọc tới nơi. Nhưng phiền bác cho em hỏi 1 chút xíu :
- Bác là người trong cuộc hay nghe người khác nói lại, nếu nghe kể lại thì ai kẻ vậy hả bác.
- Nếu bác là người trong cuộc thì từ đó tới nay bác có lần nào ghé lại "bến cũ" chưa.Vì tại bến cũ, hôm nay có 1 người lính trên chuyến tàu ấy ( 10/1964, chứ không phải 1962 ) đã về lại quê mình để chăm lo mồ mả tổ tiên, ông bà.
- Mời bác vào xem thử đoạn này :
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=7746.80

Một mùa xuân mới đã tới, em xin chúc bác và gia đình vạn sự như ý.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: lonesome trong 29 Tháng Tư, 2010, 05:45:20 pm
VTV4 đang chiếu phóng sự về tàu không số đấy các bác ... những thông tin đọc qua sách vở giờ xem người thật việc thật vẫn thấy gai hết người ... phóng sự có nhắc tới vụ lộ bến Thạch An các thủy thủ ta "chơi tới cùng", hy sinh 9 người... qua phóng sự này cháu mới được nhìn tận mắt 5 bác còn sống của tàu 235 ...

Hôm rồi triển lãm sách tại Thư viện TPHCM em thấy có mấy cuốn về tàu không số, về đường HCM trên biển. Chị Cúc và các bác xem có số hóa được không ạ?


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: napoleon trong 03 Tháng Năm, 2010, 10:16:57 pm
VTV1 đang chiếu phim về tàu không số đấy, các bác đón xem nhé!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: bigcat trong 21 Tháng Năm, 2010, 05:23:31 am
Gửi các anh trong topic.

Cho hỏi thăm, có anh nào biết chủng loại "hàng" (vũ khí) trong chuyến hàng của đoàn tàu không số đầu tiên cập vào Cà Mau. Vì hồi nhỏ tôi cũng có đọc một quyển sách nói về những con tàu không số này, nhưng không nhớ tựa. Trong sách có nói về danh sách vũ khí chuyển vào nam, đặc biệt là quá trình tận dụng vũ khí chiến lợi phẩm sau kháng chiến chống Pháp được cải tạo và ngụy trang rất công phu. Để khi số vũ khí này tham chiến không làm lộ bí mật con đường tiếp viện và ta không vi phạm hiệp định. Nếu có ai biết được thì chỉ giúp mình tài liệu này hoặc có thể số hóa lên topic để anh em tham khảo.

Chân thành cảm ơn.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 14 Tháng Sáu, 2010, 10:12:17 am
Gửi các anh trong topic.

Cho hỏi thăm, có anh nào biết chủng loại "hàng" (vũ khí) trong chuyến hàng của đoàn tàu không số đầu tiên cập vào Cà Mau. Vì hồi nhỏ tôi cũng có đọc một quyển sách nói về những con tàu không số này, nhưng không nhớ tựa. Trong sách có nói về danh sách vũ khí chuyển vào nam, đặc biệt là quá trình tận dụng vũ khí chiến lợi phẩm sau kháng chiến chống Pháp được cải tạo và ngụy trang rất công phu. Để khi số vũ khí này tham chiến không làm lộ bí mật con đường tiếp viện và ta không vi phạm hiệp định. Nếu có ai biết được thì chỉ giúp mình tài liệu này hoặc có thể số hóa lên topic để anh em tham khảo.

Chân thành cảm ơn.

Chào đồng đội! Chúc môt ngày đầu tuần vui vẻ, khỏe mạnh. Mấy hôm vừa rồi đồng đội có xem Word cup không? Sáng nay vào Quân sử VN tôi thấy câu hỏi của bạn, tôi xin có vài lời thế này. Có lẽ chỉ những cán bộ ở bộ Tổng tham mưu khi đó mới có danh mục hàng hóa cho chuyến đầu tiên và nói chung danh mục hàng vận chuyển vào Nam thời gian đầu là do cấp trên lập. Lính Tàu không số như người lái xe trên biển, chỉ biết đưa hàng đến bến an toàn là thắng lợi là hoàn thành nhiệm vụ. Giai đoạn đầu từ năm 1959  đến khi một tàu của ta bị địch bắt với toàn bộ hàng hóa trên tàu là thời gian huy hoàng nhất của đoàn TKS vì chưa bị địch phát hiện nên đi lại thuận lợi dễ dàng, số chuyến thành công cao, có chuyến đi về không quá 15 ngày. Khi đó để giữ bí mật, hàng hóa đều không có nhãn mác nên tôi nghĩ không ai biết chủng loại hàng như đồng đội hỏi đâu, chỉ biết một điều chung chung là chở vũ khí, đạn dược thậm chí cả tiền, vàng, đô la ...  Giai đọan sau đó đến trước ngày ngừng bắn tạm thời đầu năm 1973 là giai đoạn gay go ác liệt và hy sinh nhiều nhất. Số chuyến thành công ít, số chuyến đi phải quay về, phải hủy tàu, thả hàng nhiều do Mỹ Ngụy chặn ngay ngoài hải phận quốc tế không thể vào bến trả hàng được.  Tôi là lính TKS lớp sau ( xuống tàu tháng 7 năm 1972 ) cũng chỉ biết những chiến công của các bậc đàn anh do các anh kể lại, cũng chỉ đi được vài chuyến ra hải phận quốc tế rồi lại quay về. Cách mạng VM ai làm người đó biết, ngay trong cùng một đoàn TKS một sự kiện có người biết, có người không. Bây giờ gặp nhau ôn lại còn cãi nhau ỏm tỏi cả lên vui lắm. Nhân đây tôi kể một chuyện thật như đùa của anh bạn tôi là lính bộ binh mặt trận B3. Trong một buổi gặp mặt tại nhà anh, tôi khoe vừa đi công tác Bản Đôn Đăk Lắc ra, lần đầu tiên được cưỡi voi đi khảo sát tuyến đường từ Bản Đôn lên đồn biên phòng 3 Tây nguyên dài 25 km. đi từ sáng đến tối mịt mới đến nơi.  Bạn tôi bảo, có thế mà khoe nhắng lên. Tao ở Tây Nguyên sốt rét, đói dài người, ăn cả thịt voi đây này. Hào hứng anh kể : " Đói quá chúng tao phải bắn voi lấy thịt ăn nhưng không  ăn thịt mà chỉ lấy mỗi quả tim. Muốn lấy quả tim phải khuyét đít voi, chui vào lôi quả tim ra. Bọn tôi cười phá lên cho rằng anh nói phét và từ đó gọi ông bạn là Tuấn voi. Mấy năm sau trong một cuộc gặp các cựu binh mặt trận B3 tôi có kể chuyện vui đó. Một người bảo đúng thế số còn lại bảo làm gì có chuyện đó. Đúng là cách mạng VN ai làm việc gì người ấy biết. Thôi nhé có chuyện gì vui kể cho anh em nghe. TKS


Tiêu đề: Người phụ nữ duy nhất đi tàu không số
Gửi bởi: altus trong 28 Tháng Bảy, 2010, 04:09:39 am
Cụ này chắc phải có nhiệm vụ đặc biệt lắm, chứ phóng viên báo Phụ Nữ thì nhiệm vụ chắc không đến nỗi phải gian nan như thế.  :-X

http://bee.net.vn/channel/1988/201007/Nguoi-phu-nu-duy-nhat-di-tau-khong-so-1760630/

Trích dẫn
Chuyến tàu không số ấy xuất phát vào một đêm tháng 8/1964 tại bến Đồ Sơn (Hải Phòng), điểm đến là bến Rạch Gốc (Cà Mau). Bà Thụy Nga- lúc đó là phóng viên phụ trách mảng miền Nam, báo Phụ nữ Việt Nam - 1 trong 5 người đã lên chuyến tàu đó cùng với 26 thủy thủ, rời Hà Nội về lại miền Nam theo điều động của tổ chức.

Trích dẫn
Năm 1964, lúc đó bà Thụy Nga 39 tuổi, là mẹ của ba người con: con gái lớn 14 tuổi, hai con trai 8 và 6 tuổi. Mẹ về Nam, 3 con ở lại miền Bắc. Cuộc ra đi không biết được ngày đoàn tụ!

Trích dẫn
Bức thư đã theo tàu không số ra Hải Phòng, được giao lại cho Bộ Tư Lệnh hải quân và đến tay cố Tổng bí thư Lê Duẩn. Sau này có một sĩ quan hải quân đến thăm bà kể : “Tôi đem thư chị đến cho anh Ba. Anh đọc thư trước mặt tôi mà nước mắt anh nhiễu nhòa lá thư”.


Tiêu đề: Re: Người phụ nữ duy nhất đi tàu không số
Gửi bởi: minhnam1803 trong 28 Tháng Bảy, 2010, 08:00:26 am
Cụ này chắc phải có nhiệm vụ đặc biệt lắm, chứ phóng viên báo Phụ Nữ thì nhiệm vụ chắc không đến nỗi phải gian nan như thế.  :-X

http://bee.net.vn/channel/1988/201007/Nguoi-phu-nu-duy-nhat-di-tau-khong-so-1760630/

Trích dẫn
Chuyến tàu không số ấy xuất phát vào một đêm tháng 8/1964 tại bến Đồ Sơn (Hải Phòng), điểm đến là bến Rạch Gốc (Cà Mau). Bà Thụy Nga- lúc đó là phóng viên phụ trách mảng miền Nam, báo Phụ nữ Việt Nam - 1 trong 5 người đã lên chuyến tàu đó cùng với 26 thủy thủ, rời Hà Nội về lại miền Nam theo điều động của tổ chức.

Trích dẫn
Năm 1964, lúc đó bà Thụy Nga 39 tuổi, là mẹ của ba người con: con gái lớn 14 tuổi, hai con trai 8 và 6 tuổi. Mẹ về Nam, 3 con ở lại miền Bắc. Cuộc ra đi không biết được ngày đoàn tụ!

Trích dẫn
Bức thư đã theo tàu không số ra Hải Phòng, được giao lại cho Bộ Tư Lệnh hải quân và đến tay cố Tổng bí thư Lê Duẩn. Sau này có một sĩ quan hải quân đến thăm bà kể : “Tôi đem thư chị đến cho anh Ba. Anh đọc thư trước mặt tôi mà nước mắt anh nhiễu nhòa lá thư”.
[/quote]

Quan tư Tus trích dẫn hổng có đầy đủ. Đặc biệt ở chỗ nè, cũng link trên:

Trích dẫn
Bà là Nguyễn Thụy Nga - người vợ miền Nam của cố Tổng bí thư Lê Duẩn.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 02 Tháng Tám, 2010, 12:07:38 pm
tôi đã tìm được một chiến sỹ đi chuyến tàu chở ngườivợ miền nam của cố Tổng bí thư. Tôi sẽ hỏi và kể lại cho các bác nghe.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: baoleo trong 02 Tháng Tám, 2010, 12:38:52 pm
@:Các bác lính Hải quân,
Hôm nay, 02/08, là ngày truyền thống của Quân chủng.
Trời HN mưa, chẳng tiện rủ ai, em đã ra Bic C Garden, mua 1 miếng chả và 1 chai vang. Tự nhấm nháp 1 mình, để nhớ về thời trai trẻ ỏ Hải quân.
Chẳng thấy topic nào phù hợp với lính Hải quân, đành mượn tạm đất của bác "taukhongso", để nhớ về Quân chủng vậy.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: smilingmen trong 02 Tháng Tám, 2010, 04:02:57 pm
@:Các bác lính Hải quân,
Hôm nay, 02/08, là ngày truyền thống của Quân chủng.
Trời HN mưa, chẳng tiện rủ ai, em đã ra Bic C Garden, mua 1 miếng chả và 1 chai vang. Tự nhấm nháp 1 mình, để nhớ về thời trai trẻ ỏ Hải quân.
Chẳng thấy topic nào phù hợp với lính Hải quân, đành mượn tạm đất của bác "taukhongso", để nhớ về Quân chủng vậy.


Đôi khi tìm cho mình 1 khoảng lặng, 1 chén rượu riêng cũng hay mà bác.
Chúc mừng bác baoleo và các bác Hải quân nhân ngày truyền thống Quân chủng HQNDVN Anh hùng.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 03 Tháng Tám, 2010, 08:12:37 am
@:Các bác lính Hải quân,
Hôm nay, 02/08, là ngày truyền thống của Quân chủng.
Trời HN mưa, chẳng tiện rủ ai, em đã ra Bic C Garden, mua 1 miếng chả và 1 chai vang. Tự nhấm nháp 1 mình, để nhớ về thời trai trẻ ỏ Hải quân.
Chẳng thấy topic nào phù hợp với lính Hải quân, đành mượn tạm đất của bác "taukhongso", để nhớ về Quân chủng vậy.

Chào baoleo! Hôm chủ nhật bọn mình về Hải phòng gặp mặt tại nhà hàng Vũ Lập cũng rất vui và cảm động. Trước đó ngày 31/7 tại Trụ sở cảnh sát biển Việt Nam ( Hà Đông HN ) cũng tổ chức ngày đánh thắng tàu chiến Mỹ. Baoleôch số ĐT, khi nào bọn mình gặp mặt thì Hú còi nhé. 


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: lixeta trong 03 Tháng Tám, 2010, 08:17:52 am
@:Các bác lính Hải quân,
Hôm nay, 02/08, là ngày truyền thống của Quân chủng.
Trời HN mưa, chẳng tiện rủ ai, em đã ra Bic C Garden, mua 1 miếng chả và 1 chai vang. Tự nhấm nháp 1 mình, để nhớ về thời trai trẻ ỏ Hải quân.
Chẳng thấy topic nào phù hợp với lính Hải quân, đành mượn tạm đất của bác "taukhongso", để nhớ về Quân chủng vậy.


Chúc mừg BL và các chiến sĩ HQ!
Nhưng tại sao trên band của QSVN không có thông báo như thường lệ nhỉ? Hay các mod khác quên, mà mod baoleo thì khiêm tốn quá ???


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: dongadoan trong 03 Tháng Tám, 2010, 08:28:38 am
Hì, ngày 05/8 mới được coi là ngày truyền thống của HQ, cụ ạ! Ngày 02/8 chỉ là ngày các cụ đi đánh cái Maddox thôi! ;D


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: baoleo trong 03 Tháng Tám, 2010, 08:46:22 am
Ngày 2/8 là ngày truyền thống
Ngày 5/8 là ngày thành lập
Bẩm các cụ  ;)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: q.trung trong 03 Tháng Tám, 2010, 08:55:02 am
đúng là vì anh baoleo nhớ nhưng không alu, tụi tôi có tuổi hay quên lắm.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: dongadoan trong 03 Tháng Tám, 2010, 09:43:04 am
Hì, cụ baoleo cá không? ;D

Theo sách báo, Nhà nước, QCHQ công nhận thì: Ngày thành lập QCHQ là 07/5/1955 - ngày thành lập Cục Phòng thủ bờ biển, ngày truyền thống là 05/8/1964 - ngày Mỹ "trả thù vụ tàu Maddox 04/8/64".


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: baoleo trong 03 Tháng Tám, 2010, 10:36:58 am
Trước hết, cảm ơn Đoàn tư lênh đã treo băng rôn nhé ;D
Nhưng nên thêm chữ "và", lý do:
Ừ, đ/c Đoàn đúng, baoleo nhớ nhầm về Ngày thành lập, chắc là vì "đã qua đường tầu rẽ phải" rồi. ;)
Ngày thành lập là 7/5.
Ngày đánh thắng trận đầu là 2/8
Ngày truyền thống là 5/8.
Giờ, chắc thóc cao, gạo kém, nên ngày 2/8 và 5/8 nhập làm 1 chăng  ::)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 05 Tháng Tám, 2010, 01:37:28 pm
@:Các bác lính Hải quân,
Hôm nay, 02/08, là ngày truyền thống của Quân chủng.
Trời HN mưa, chẳng tiện rủ ai, em đã ra Bic C Garden, mua 1 miếng chả và 1 chai vang. Tự nhấm nháp 1 mình, để nhớ về thời trai trẻ ỏ Hải quân.
Chẳng thấy topic nào phù hợp với lính Hải quân, đành mượn tạm đất của bác "taukhongso", để nhớ về Quân chủng vậy.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Chào baoleo! Chiều nay 5/8 Hội Hải quân bọn anh gặp mặt ở nhà hàng bia hơi Lan Chín số 1 Láng Hạ, mời em - Cựu chiến sỹ Hải quân tới dự với bọn anh. Rất vui khi em tới dụ.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: phonglan trong 05 Tháng Tám, 2010, 02:05:06 pm

 Bạn cháu nói:
- Ngày thành lập QCHQ là 7/5/1955 ( Cục phòng thủ bờ bể ).
- Ngày HQND đánh thắng trận đầu là 5/8/1964. Còn vụ đánh đuổi tàu Ma-rốc là từ ngày 2/8 đến 5/8/1964 chứ nhỉ?.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: minhnam1803 trong 11 Tháng Chín, 2010, 11:50:15 am
Lần trước đã có tàu chạy 80 hải lý/h (nếu em nhớ không nhầm), cột nước cao 40m

Lần này thì tốc độ cao hơn:

http://www.tienphong.vn/Phong-Su/512244/Thuyen-truong-tau-khong-so-an-danh.html
Trích dẫn
Và những chuyến tàu cao tốc bất ngờ

Chuyến thứ 5 xuất phát vào tháng 4-1968, lần này đi bằng tàu nhỏ nhanh, lộ trình sát bờ, chở từ 7 tấn hàng do thuyền trưởng trực tiếp lái. Lần này, “hàng” chủ yếu là tên lửa bộ binh, thuốc nổ sức công phá rất lớn. Đội hình có 2 tàu do Hoàng Hữu làm phân đội trưởng kiêm thuyền trưởng, còn tàu số 2 do thuyền trưởng Võ Đán lái. Lái tàu này đòi hỏi có sức khỏe rất tốt. Tàu chạy với tốc độ trên 100 hải lý/giờ, cột nước cao tới 25 m, lân tinh trắng xóa. Nên chỉ một đêm, 15 giờ chiều ăn cơm, 18 giờ tàu ở Long Châu, 23 giờ tàu đã “bay” đến Đà Nẵng chỗ Cù lao Chàm vào, giao hàng xong ra ngay, sáng đã về tới căn cứ Đồ Sơn.

Sau một đêm bay trên biển, người khỏe như bác Hữu mà vẫn mệt rã rời, lên bờ tưởng như không bước đi được nữa. Những chuyến vận tải kiểu “đặc công” như thế, đã đáp ứng kịp thời vũ khí đặc biệt cho chiến trường góp phần tạo nên những cơn “bão lửa” dội xuống căn cứ Chu Lai, Đà Nẵng, sân bay Nước mặn khiến đối phương hoàn toàn bất ngờ.

Chuyến thứ 6 đi vào cuối năm 1968, vẫn bằng phương tiện tàu nhỏ nhanh, chuyến này vào Quy Nhơn, vẫn chở tên lửa bộ binh, chất nổ mạnh, tiểu liên, súng ngắn giảm thanh trang bị cho biệt động... Đây cũng là chuyến đi cuối cùng của thuyền trưởng Hoàng Hữu bởi sau đó tình hình thay đổi.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: doremon1806 trong 01 Tháng Giêng, 2011, 02:30:34 pm
Mấy bác cho em hỏi có ai biết ls Nguyễn Văn Thông c phó tàu 165 hy sinh 1968 k ạ. Đó là ông chú của em nhưng hoàn cảnh hy sinh thì em k biết nhiều cho lắm.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: shmel trong 01 Tháng Năm, 2011, 03:32:36 pm
http://dantri.com.vn/c728/s728-477648/huyen-thoai-anh-la-van-cau-cua-tau-khong-so.htm

Huyền thoại anh "La Văn Cầu" của tàu không số

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, con đường mòn Hồ Chí Minh xuyên dọc dải Trường Sơn đã đi vào lịch sử vẻ vang của cả dân tộc.
Ngoài ra, còn có một con đường khác trên biển Đông không kém phần nổi tiếng gắn với những con tàu không số, những chiến sỹ dũng cảm và những chiến công thầm lặng. Trong số những con người đó, có một người được đồng đội trìu mến gọi bằng cái tên anh "La Văn Cầu trên biển."

Đó là anh Phan Hải Hồ, người đã khẩn thiết đề nghị đồng đội chặt đứt hẳn một phần chân bị thương dập nát của mình để tiếp tục chiến đấu suốt đêm phá vòng vây của tàu địch cho tới khi bị ngất xỉu vì mất nhiều máu. Đặc biệt, anh còn vinh dự được kết nạp Đảng chính thức ngay trong trận đánh ác liệt không cân sức vào thời khắc quả cảm đó.
 
(http://dantri.vcmedia.vn/Uploaded/2011/04/30/PhanHaiHo.jpg)

Thương binh Phan Hải Hồ và các đồng đội trong ngày nhận quà tặng xe lăn từ các đồng đội. (Nguồn: qdnd.vn)

Chiến công thầm lặng

Cũng như lớp lớp thanh niên, trai tráng cùng thời, năm 1962, Phan Hải Hồ rời thôn Địch Lễ A, xã Nam Vân, huyện Nam Trực (nay thuộc thành phố Nam Định) lên đường thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc.

Anh được nhận vào Đoàn 125 (Bộ tư lệnh Hải quân), đơn vị chịu trách nhiệm huấn luyện và cử những con tàu không số chở vũ khí đạn dược vào tiếp viện cho chiến trường miền Nam.

Năm 1964, sau một khoá huấn luyện, anh tình nguyện xin đi B và từ đó gắn chặt cuộc đời mình với con tàu huyền thoại mang mật danh 69. Ngày 21/3/1966, sau 3 chuyến đi an toàn, anh và 15 đồng đội được lệnh xuất phát chở 72 tấn vũ khí vào Vãm Lũng, xã Tân An, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.

Trên đường đi, tàu 69 bị tàu chiến và máy bay địch theo dõi nên phải quay trở về hai lần. Ngày 15/4/1966, tàu được lệnh tiếp tục lên đường. Tối 23/4/1966, vượt qua nhiều hiểm nguy, tàu cập bến ở Cà Mau. Sau khi bốc dỡ và chuyển hàng hoá đến nơi an toàn, các thủy thủ phát hiện chân vịt tàu bị hỏng. Mất hàng tháng trời loay hoay giữa rừng đước trong sự truy lùng gắt gao của địch, mọi người mới sửa xong chân vịt của con tàu nặng hàng trăm tấn với chỉ một cái đốc nổi làm bằng thân cây đước và vài chiếc đèn khò thô sơ.

Đoán tàu 69 của ta đang ở trong rừng đước, địch cho tàu ém ở các cửa biển, chặn lối ra. Mấy lần, ông Hồ cùng các đồng đội của mình tìm cách trở về miền Bắc nhưng không thành. Đêm 31/12/1966 rạng sáng mồng 1/1/1967, nhận định rằng bọn địch đang bận bịu đón Tết Dương lịch, có thể chểnh mảng việc canh phòng, hơn nữa tin báo cho biết tình hình ngoài cửa vàm yên tĩnh, ban chỉ huy Đoàn 962, đơn vị "bến" chuyên tiếp nhận các con tàu không số từ miền Bắc, quyết định tổ chức để tàu 69 bất ngờ rời nơi ẩn nấp.

Theo lời kể của bác Nguyễn Hữu Phước, Thuyền trưởng tàu 69, hiện sinh sống tại thành phố Cần Thơ; bác Đỗ Duy Huyễn, nguyên y tá tàu 69, hiện sinh sống tại xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu (Nam Định) và các đồng đội khác, 17h00 hôm đó, tàu 69 lặng lẽ khởi hành quay trở về miền Bắc. Mọi việc ban đầu có vẻ xuôi. Tuy nhiên, đến khi cách bờ khoảng 5km, vị trí phía sau báo cho Thuyền trưởng có 1 tàu cao tốc của địch đuổi theo. Chúng chủ quan chạy cách tàu ta 50 m và soi đèn vào tàu. Tàu 69 buộc phải dùng toàn bộ hoả lực gồm 3 khẩu B41, 2 khẩu 12 ly 7, 1 khẩu DKZ.

Tàu 69 tiêu diệt gọn mục tiêu. Tuy nhiên, một số anh em trên tàu 69 cũng bị thương vong. Cán bộ chỉ huy tàu họp chớp nhoáng và quyết định cho tàu 69 quay trở lại nơi xuất phát vì nếu đi tiếp sẽ bị địch bắt và tiêu diệt. Toàn bộ vũ khí đạn dược được chuyển lên boong tàu sẵn sàng chiến đấu.

Tàu đi đến 22 giờ 30, địch dùng 2 máy bay thả pháo sáng từ Rạch Dấp đến Vàm Lũng. Chúng điều 5 tàu cao tốc trang bị hoả lực mạnh để truy đuổi. Chúng dàn 3 chiếc bên trái cách tàu ta khoảng 1 km, 2 chiếc khác bám sát sau tàu ta cũng ở cự ly khoảng 1 km. Súng 12 ly 7 và B41 của ta bắn buộc địch giãn ra. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Nhằm ngăn không cho tàu 69 quay lại vàm, địch gọi thêm tàu chắn ở các cửa Rạch Gốc và Bồ Đề, đồng thời nã pháo lớn trước mũi tàu 69. Tàu địch bao vây xung quanh và đổ đạn không tiếc...

Trong cuộc chiến đấu không cân sức đó, chân phải của báo vụ 2 Phan Hải Hồ bị dính đạn. Mảnh đạn găm vào chân khiến máu chảy lênh láng. Xương chân anh dập nát, chỉ còn lớp da dính ngoài. Tuy vậy anh vẫn tiếp tục ôm súng bắn trả địch. Thấy chiếc chân gãy làm mình vướng víu, anh đề nghị y tá Đỗ Duy Huyễn lấy dao cắt. Đồng chí y tá vì thương đồng đội nên không dám cắt. Sau đó, anh Hồ nói với Thuyền phó : "Anh giúp tôi chặt chiếc chân này. Vướng quá. Khó chiến đấu".

Sau 2 lần đề nghị, thuyền trưởng quyết định cho cắt. Anh Huyễn lao vào trong lấy con dao làm bếp. Ngay dưới bệ pháo, dưới làn đạn xối xả của địch, đồng chí chính trị viên tàu dùng dao cắt rời phần chân bị nát của người đồng đội. Máu me anh Hồ chảy đầy boong tàu. Sau đó, Phan Hải Hồ được y tá ga-rô để cầm máu. Trong khi được "phẫu thuật" bằng con dao làm bếp, Phan Hải Hồ tiếp tục dũng cảm dùng 12 ly 7 tấn công địch.

Tàu càng vào gần bờ, bọn địch càng bắn mạnh. Chỉ còn một chân, Phan Hải Hồ vẫn lê đi, điểm từng loạt đạn rất chuẩn. Nhìn anh Hồ đau đớn nhưng không nao núng, chính trị viên tàu 69 Tăng Văn Huyễn cảm động, nói to : "Nhân danh Bí thư Chi bộ, tôi tuyên bố từ giờ phút này, đồng chí đảng viên dự bị Phan Hải Hồ trở thành đảng viên chính thức của Đảng".

Mặc máy bay địch quần thảo trên trời, thả bom, bắn rốc két, các thuỷ thủ cuối cùng cũng đưa được tàu 69 lọt vào cửa vàm, thoát khỏi vòng vây của địch. Phan Hải Hồ và các chiến sĩ bị thương trên tàu được đồng đội đưa vào quân y viện điều trị. Ở đây, anh phải trải qua 3 lần phẫu thuật cắt chân và nhiều lần bị hôn mê bất tỉnh vì quá đau đớn. Vì thành tích trong trận đánh đêm 31/12/1967, anh được cấp trên tuyên dương, tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng 3.

Điều trị vết thương ổn định, anh xin về Đoàn 962 công tác. Tại đơn vị mới, anh được phân công làm trợ lý chính trị của Đoàn 962 và thư ký riêng cho Đoàn trưởng Bông Văn Dĩa, người sau này được tặng thưởng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam."

Tháng 10/1975, anh được cấp trên cho ra Bắc an dưỡng tại Đoàn 586 thuộc Quân khu 3 đóng tại Lý Nhân (Hà Nam). Sau một quá trình chiến đấu, rèn luyện trong quân đội, anh cũng được thưởng nhiều Huân, Huy chương các loại và Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng (năm 2006).

Giản dị giữa đời thường

Khi đang ở trại an dưỡng, cảm phục tấm gương dũng cảm của anh thương binh trẻ, một cô gái trẻ người Nghệ An đã đem lòng yêu mến anh. Hai người quyết định xây dựng gia đình vào tháng 10/1976. Đây là người con gái thứ hai trong đời mà anh rất mực yêu thương.

Trước đó, anh đã có lời ước hẹn với một cô gái cùng thôn ngay trước ngày lên đường nhập ngũ. Tuy nhiên, thương cô con dâu tương lai phải chờ đợi đằng đẵng vô vọng nhiều năm và nghĩ anh khó có ngày trở lại, mẹ anh nhiều lần khuyên nhủ rồi quyết định gả chồng cho chị.


Tháng 4/1977, anh xin giải ngũ về với gia đình. Từ năm 1978, anh tham gia công tác tại Hợp tác xã nông nghiệp Nam Vân và là Bí thư Chi bộ thôn Địch Lễ từ năm 1987 đến năm 1992. Năm 1992, do vết thương tái phát, sức khoẻ không đảm bảo, anh xin nghỉ công tác hẳn. Tuy nhiên, do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, anh và vợ phải lăn lộn đủ nghề để nuôi đàn con 4 đứa đang tuổi ăn học.

Chỉ còn một chân, anh vẫn cố gắng đi cày, đi bừa trên 8 sào ruộng khoán của gia đình. Anh và chị còn chăn nuôi lợn tăng gia thêm. Nhà gần đường quốc lộ, anh quyết định mở một quán nhỏ vừa cắt tóc, vừa bơm vá và sửa chữa xe đạp cho khách đi đường. Tối đến, anh nhận trông coi nhà văn hoá thôn để kiếm thêm tiền. Thương bố mẹ vất vả, khi được nghỉ hè, hai đứa con đầu của anh chị nhận đi bán kem dạo. Tuy vậy, cuộc sống của anh cũng không mấy "xuôi chèo mát mái".

Nhiều lần, vết thương cũ tái phát, rò rỉ tủy, anh phải nằm viện hàng tháng trời, rất tốn kém cho gia đình. Thấy gia đình anh quá khó khăn, nhiều người khuyên anh đi khám lại thương tật để được hưởng mức trợ cấp cao hơn. Những lần như vậy, anh chỉ mỉm cười cảm ơn và tự bảo mình : "Mình không được đòi hỏi điều gì. Đất nước còn nhiều khó khăn và mình còn may mắn hơn nhiều người, nhất là so với những người đồng đội đã bỏ thân ngoài chiến trường."

Tháng 2/1999, sau nhiều năm băm rau, nấu cám, "bán mặt cho đất bán lưng cho trời", cộng với tiền truy lĩnh Huân chương, anh chị cóp nhặt được 3,1 triệu đồng. Nghe vợ bàn định dùng số tiền đó để sửa cái nhà đã quá dột nát, anh im lặng vì chưa dám nói cho vợ điều anh nhiều năm đau đáu. Nhưng rồi thấy anh nhiều đêm trằn trọc, vợ anh hiểu.

Chị đã nói một câu mà trong đời anh không bao giờ quyên được : "Em biết anh muốn dùng số tiền ấy làm việc gì rồi. Em đồng ý. Tiền cũng quý nhưng tình nghĩa còn quý hơn. Anh cứ dùng số tiền đó mà đi thăm mộ đồng đội. Em biết lâu nay anh vẫn bứt rứt vì chuyện đó... Có điều kiện thì nên thực hiện. Nếu cái tâm mình được thanh thản, ba triệu bạc đâu có đắt."

Được vợ ủng hộ hết lòng, ngay hôm sau anh lên đường đi Cà Mau. Anh đã tới thăm lại chiến trường xưa, tới nghĩa trang thắp hương cho 4 ngôi mộ vô danh của đồng đội tàu 69 và đặc biệt là con tàu 69 lúc đó sắp bị chìm hẳn trên rạch Xẻo Già. Sau chuyến đi đầy cảm xúc đó, anh còn may mắn được gặp lại một số đồng đội của mình nhân dịp kỷ niệm 40 năm thành lập đường Hồ Chí Minh trên biển tại Hải Phòng năm 2001.

Sau một ca tai biến mạch máu não phải đi bệnh viện Bạch Mai cấp cứu và điều trị, anh bị liệt không đi lại được và hiện phải gắn chặt với chiếc xe lăn do báo Quân đội nhân dân trao tặng. Tuy nhiên, qua những câu nói ngắt quãng hết sức khó khăn, chúng tôi biết anh vẫn ấp ủ một mong ước cuối cùng của đời mình là được gặp lại các đồng đội tàu 69 xưa tại lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập đường Hồ Chí Minh trên biển vào cuối tháng 10 này tại thành phố Hải Phòng./.

Theo Hữu Chiến
TTXVN/Vietnam+


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: taukhongsohaihau trong 28 Tháng Năm, 2011, 03:33:31 pm
Chào các bác, các chú!
Cháu là con gái của một người lính trên con Tàu không số, tên là Đỗ Duy Huyễn, người y tá có được nhắc tên trong bài viết trên về chú Phan Hải Hồ. Cháu muốn hỏi trên này có ai biết bố cháu thì cháu xin làm cầu nối cho mọi người gặp nhau. Bố cháu hiện trong ban chấp hành của hội liên lạc truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Kính chúc các bác, các chú mạnh khỏe!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: danhthanh trong 15 Tháng Chín, 2011, 10:18:12 pm
 ;D ;D ;D
Xin chào các bác,các chú, các anh chị em trong diễn đàn
rất lâu rồi vì không biết diễn đàn mình đổi tên nên cháu không thể vào được,may mắn là thời gian gần đây cháu đã biết lại được địa chỉ mới này.
Nhân đây cháu có 1 đề nghị mong được các bác,các chú cho phép và tạo điều kiện:
Là hiện nay đang có 1 cuộc thi  tìm hiểu 'Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển' - mà đây là 1 trong những vấn đề cháu rất yêu thích,với tấm lòng kính trọng với những bác đã làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển cháu rất muốn tham gia,nhưng nếu vậy thì cần phải có tài liệu mà cháu đã tìm hiểu thì ít ở đâu có những tài liệu phong phú - đa dạng và chuẩn xác nhất như ở diễn đàn mình.
Vì vậy cháu xin phép được lấy những thông tin trên diễn đàn mình làm cơ sở cho bài thi của mình.có gì không rõ xin được các bác,các chú giúp đỡ ạ. :) :) :)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: bob trong 20 Tháng Chín, 2011, 03:30:59 pm
http://dantri.com.vn/c728/s728-477648/huyen-thoai-anh-la-van-cau-cua-tau-khong-so.htm

Huyền thoại anh "La Văn Cầu" của tàu không số


 "Tàu càng vào gần bờ, bọn địch càng bắn mạnh. Chỉ còn một chân, Phan Hải Hồ vẫn lê đi, điểm từng loạt đạn rất chuẩn. Nhìn anh Hồ đau đớn nhưng không nao núng, chính trị viên tàu 69 Tăng Văn Huyễn cảm động, nói to : "Nhân danh Bí thư  Chi bộ, tôi tuyên bố từ giờ phút này, đồng chí đảng viên dự bị Phan Hải Hồ trở thành đảng viên chính thức của Đảng".

... Vì thành tích trong trận đánh đêm 31/12/1967, anh được cấp trên tuyên dương, tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng  hạng 3".

Theo Hữu Chiến
TTXVN/Vietnam+
Cảm ơn bạn  ..đã sưu tầm bài viết của tác giả Hữu Chiến... nêu tấm gương anh dũng của bác Phan Hải hồ. Tuy nhiên trong bài viết bob tui thấy có chỗ chưa hợp lý lắm , mong tác giả xem xét nên đính chính (chữ màu đỏ) cho chuẩn xác để bài thuyết phục hơn:
 Theo thiển nghĩ của tôi: -về nguyên tắc Đảng: Không được nhân danh cá nhân thay quyết định của tập thể cấp ủy. Hơn nữa trong lúc cuộc chiến đang diễn ra ác liệt như vậy (trong bài đã tả) xem ra việc đó không hợp lý...!
 -Về huân chương: Nếu có thành tích xuất sắc trong chiến đấu thì phải là huân chương chiến công, còn HCCSGP là huân chương niên hạn. Chân thành góp ý cùng tác giả. thân ái,
 


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: thanhh63 trong 04 Tháng Mười, 2011, 01:06:41 pm
Đường Hồ Chí Minh trên biển – nhìn từ phía bên kia (Kỳ 1)


Trước nhu cầu cấp bách trên, đồng thời với việc mở tiếp về phía Nam tuyến chi viện trên bộ, Bộ Chính trị giao cho Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh tổ chức tuyến chi viện trên Biển Đông. Sau một thời gian nghiên cứu và trên cơ sở kinh nghiệm của các chuyến vượt biển từ Nam Bộ ra, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759 vận tải đường biển.

Trung tá, TS, Trương Mai Hương
(Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau những năm đầu hết sức khó khăn, đến năm 1959, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam có bước phát triển nhảy vọt. Phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với đấu tranh vũ trang ngày càng lan rộng. Trước tình hình đó, yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường vận tải chiến lược Trường Sơn lúc này chỉ mới vươn tới được các tỉnh phía Bắc Khu V, còn các tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long không đủ sức đáp ứng yêu cầu đó, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ.

(http://www.quocphonganninh.edu.vn/Pictures/Gallery/Lichsuvn/koso.jpg)

Một chiến hạm của đối phương tuần tra trên Biển Đông. Ảnh tư liệu

Trước nhu cầu cấp bách trên, đồng thời với việc mở tiếp về phía Nam tuyến chi viện trên bộ, Bộ Chính trị giao cho Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh tổ chức tuyến chi viện trên Biển Đông. Sau một thời gian nghiên cứu và trên cơ sở kinh nghiệm của các chuyến vượt biển từ Nam Bộ ra, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759 vận tải đường biển. Đoàn 759 nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, tổ chức trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, hoạt động ngăn chặn trên biển của địch; hiệp đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ, xây dựng các bến bãi sẵn sàng tiếp nhận vũ khí.

Kể từ khi tuyến chi viện chiến lược biển ra đời, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã nghi ngờ miền Bắc sử dụng con đường tiếp tế vũ khí trên biển, ngoài con đường xuyên Trường Sơn. Trong các báo cáo của cơ quan tình báo Mỹ và các chuyên gia quân sự Mỹ về tình hình Việt Nam đã nhiều lần đề cập đến con đường trên biển này. Nhưng họ chỉ đoán biết chứ không có bằng chứng cụ thể nên chưa xác định được chính xác. Mặc dù vậy, Mỹ-ngụy vẫn tích cực tìm cách đối phó. Qua tài liệu thu được của địch, chúng ta thấy rõ hải quân và không quân Mỹ đã sớm lập một phòng tuyến ngăn chặn từ Vịnh Bắc Bộ tới Vịnh Thái Lan. Bên ngoài là máy bay tuần tiễu của Hạm đội 7, bên trong là hải quân Quân đội Sài Gòn và thủy quân lục chiến tuần tra, canh gác, bảo vệ bờ biển, các bến cảng, cửa biển, cửa sông. Tuyến giữa do hải quân Mỹ trực tiếp đảm nhiệm. Theo tính toán của Mỹ-ngụy thì với phòng tuyến ngăn chặn đó không một con tàu nào từ miền Bắc có thể xâm nhập trót lọt vào miền Nam mà không bị phát hiện. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; với ý chí quyết chiến, quyết thắng quân và dân ta mà nòng cốt là bộ đội hải quân đã tìm ra giải pháp mở đường trên biển chi viện cho các chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ khiến cả Mỹ và ngụy đều hết sức bất ngờ. Việc vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam trên đường Hồ Chí Minh trên biển từ năm 1961 đến năm 1972 có thể chia làm các giai đoạn như sau:

Từ 1962-1965


Ngày 11-10-1962, chiếc tàu vỏ gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí mang mật danh: "Phương Đông I” rời Đồ Sơn lên đường vào Nam Bộ. Tiếp theo, trong những năm 1963, 1964, các con tàu bé nhỏ đầy ắp vũ khí liên tục rời Đồ Sơn và một số bến khác (Bính Động, Bãi Cháy), vượt qua hàng ngàn hải lý và hàng rào ngăn chặn phong tỏa gắt gao của máy bay, tàu chiến địch, đưa hàng vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hoạt động tác chiến mạnh mẽ của quân, dân ta tại các chiến trường nói trên đã khiến cho Mỹ-ngụy càng thêm nghi ngờ về con đường vận chuyển vũ khí của ta trên biển, song, chúng vẫn không thể tìm ra manh mối: "Mỹ và chính quyền Sài Gòn cảm thấy số lượng vũ khí rất lớn mà Việt Cộng đang sử dụng được vận chuyển bằng đường biển. Nhưng sự triệt hạ con đường đó là vô cùng khó khăn đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn”(1) và "…thời điểm lực lượng Việt Cộng tấn công quyết liệt, chúng ta (Mỹ-ngụy) chỉ có thể ngăn chặn và đánh trả ở một số nơi nhất định. Bên cạnh đó, việc vận chuyển vũ khí và các trang bị khác bằng đường biển hoạt động khá mạnh”(2).

(1) Theo: Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, Phông số 34- Hồ sơ 106, Lưu Cục Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng.

(2) Theo: Tài liệu dịch của địch, Phông số 34, Hồ sơ 81, Lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

(Còn tiếp)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: thanhh63 trong 04 Tháng Mười, 2011, 01:11:36 pm
Đường Hồ Chí Minh trên biển – nhìn từ phía bên kia (Kỳ 2)


(Tiếp theo)
...
Tính từ chuyến đi đầu tiên của Tàu Phương Đông I đến tháng 2 năm 1965, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã tổ chức thành công 88 chuyến tàu chở hơn 4.919 tấn vũ khí, hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Trung tá, TS, Trương Mai Hương
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

Thời gian này, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên bộ đã được mở qua Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên. Còn các chiến trường xa như Nam Bộ, Trung Nam Bộ chỉ có thể dùng đường biển. Với các chiến trường này, một viên đạn, một khẩu súng đã rất quý báu. Vài chục tấn vũ khí từ miền Bắc đưa vào có thể trang bị cho một sư đoàn. Như vậy, với hàng ngàn tấn vũ khí được chuyển bằng đường biển trong giai đoạn này có tầm quan trọng đặc biệt, thực sự mang ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp kháng chiến của quân dân ta ở các chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đặc biệt là sự chi viện kịp thời những loại vũ khí mới tương đối hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh, thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch, góp phần làm nên những chiến thắng vang dội như: Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Bình Giã... Sau trận Ấp Bắc, tờ báo The Washington Post, số ra ngày 7-1-1963 đã viết: "… Những người Cộng sản coi đây là chiến thắng lớn đầu tiên… Quan trọng hơn, họ đã mới phát triển thành công những kỹ thuật đương đầu được với những công nghệ của Mỹ cung cấp cho miền Nam Việt Nam….” (1). Từ khi quân đội ta ở Nam Bộ có tiểu liên AK, súng chống tăng B41, ĐKZ 57, ĐKZ 75, cối 81, cối 120… thì việc hạ máy bay, đánh các loại tàu chiến, các loại xe, nhổ đồn bốt diễn ra liên tục khiến đối phương từ chủ quan, hung hăng, đến khiếp sợ, né tránh rồi chùn bước. Báo cáo ngày 15-9-1963 của Nguyễn Thành Hoàng, Tỉnh trưởng An Xuyên (Cà Mau), ghi rõ: "Vũ khí của Việt cộng vượt ra ngoài tất cả các ước tính của chúng ta. Việt cộng đã dùng cối 81, Đại liên 12,7mm, ĐKZ75… là những thứ mà Quân đội Việt Nam Cộng hòa chưa có. Đạn của họ rất dồi dào, điều mà trước đây chúng chưa bao giờ làm được”(2).

(http://www.quocphonganninh.edu.vn/Pictures/Gallery/Lichsuvn/koso1.jpg)

Loại tàu 100 tấn của Lữ đoàn 125 trên đường vào Nam. Ảnh tư liệu

Qua báo chí và hồ sơ lưu trữ của đối phương cho thấy, ngay từ khi con đường Hồ Chí Minh trên biển mới ra đời, hải quân, không quân Mỹ, đã đề phòng và tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Nhưng trong suốt 4 năm đầu hoạt động, các con tàu không số của ta đã tổ chức thành công 88 chuyến tàu chở vũ khí, đưa được hàng ngàn tấn vũ khí vào Nam Bộ.

Đồng thời với việc vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ, Quân ủy Trung ương và Bộ tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở đường vận chuyển vũ khí bằng đường biển vào Nam Trung Bộ. Đây là chiến trường có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, có hành lang chiến lược nối liền hai miền Nam - Bắc. Vận chuyển bằng đường biển vào Nam Trung Bộ đường tuy ngắn hơn Nam Bộ nhưng hết sức khó khăn, nguy hiểm. Vũng Rô thuộc huyện Tuy Hòa (Phú Yên) được chọn là một trong những địa điểm đầu tiên được lựa chọn. Đây là nơi có phong trào cách mạng rất mạnh, lại là nơi có địa thế thuận lợi nên chỉ trong thời gian ngắn từ ngày 28 tháng 11 năm 1964 đến ngày 1 tháng 2 năm 1965, đã có 3 chuyến tàu, đưa gần 200 tấn vũ khí vào bến Vũng Rô an toàn.

Tính từ chuyến đi đầu tiên của Tàu Phương Đông I đến tháng 2 năm 1965, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã tổ chức thành công 88 chuyến tàu chở hơn 4.919 tấn vũ khí, hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ(3).Vậy mà phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn không phát hiện được vụ nào. Bí mật của tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển vẫn được giữ vững. Đó quả là một chiến công kỳ diệu, có ý nghĩa chiến lược to lớn, là một thắng lợi vượt ra khỏi dự tính của chúng ta.

Giai đoạn 1965-1968


Ngày 15 tháng 2 năm 1965, Tàu 143 có trọng tải 100 tấn do Thuyền trưởng Lê Văn Thêm, Chính trị viên Phan Văn Bảng chỉ huy cập bến Vũng Rô. Lực lượng bảo vệ bến nhanh chóng tổ chức lực lượng dỡ hàng. Do không đủ thời gian rời bến trước khi trời sáng nên cán bộ, chiến sĩ trên tàu và lực lượng ở bến buộc phải ngụy trang tàu và sẵn sàng phương án đối phó. Trưa ngày hôm sau, địch phát hiện ra tàu, tổ chức đánh phá. Cán bộ, chiến sĩ Tàu 143 buộc phải phá hủy tàu, đồng thời cùng lực lượng trên bến phân tán và cất giấu vũ khí, chiến đấu chống quân địch đổ bộ. Sau bốn ngày chiến đấu ác liệt, chiều 19 tháng 2 năm 1965, địch đổ bộ được lên bờ. Những ngày sau, chúng tiếp tục đổ thêm quân và tổ chức sục sạo quanh khu vực. Địch phát hiện một số hầm cất giấu vũ khí mà ta chưa kịp di chuyển. Sau sự kiện ở Vũng Rô, Mỹ-ngụy tổ chức một cuộc triển lãm khá lớn ở Sài Gòn, có cả Phó thủ tướng ngụy đến dự và làm rùm beng về chiến tích thu hồi vũ khí Bắc Việt Nam tiếp tế cho Việt cộng bằng đường biển. Như vậy là, sau vụ Vũng Rô, tuyến chi viện chiến lược trên biển, với bao kỳ công đã không còn giữ được bí mật nữa. Kẻ địch đã nắm được chính xác ý đồ, phương thức, phương tiện vận chuyển của ta. Trên tờ Naval Institute Press, Đại tá Mỹ R.Schrosbay nhận định: "Vụ Vũng Rô khẳng định điều đã ngờ trong một thời gian dài nhưng chưa có bằng chứng. Số lượng chiến cụ lớn bị phát hiện chỉ ra rằng nhiều lô hàng lớn hơn đã được chở đến bằng tàu trước đó. Sự xuất hiện đồng thời loại vũ khí mới cỡ 7,62mm của địch ở những vùng ven biển khác nói lên một điều chắc chắn là địch còn sử dụng các vị trí khác nữa để nhận hàng chuyển bằng đường biển”(4).

(Còn tiếp)

(1) htt://en.wikipedia.org/wiki/Battle-op Ap Bac

(2) Báo cáo số1803/NA3/M ngày 15-9-1963 của Thiếu tá Tỉnh trưởng tỉnh An Xuyên gửi Phủ Tổng thống, tư liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Tài liệu địch, Hồ sơ số 38.

(3) Sự kiện Tàu không số Vũng Rô (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb Phú Yên, 2006, tr.25.
(4) R.Sohnesdle: "Cuộc chiến tranh của hải quân Mỹ ở Việt Nam”, Tạp chí Học viện Hải quân Hoa Kỳ, số tháng 5 năm 1971.



Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: thanhh63 trong 04 Tháng Mười, 2011, 01:16:49 pm
Đường Hồ Chí Minh trên biển – nhìn từ phía bên kia (Kỳ 3)


(Tiếp theo)
...
Trên biển Đông, diễn ra cuộc chiến đấu không cân sức. Một bên là gần một nửa Hạm đội 7 với không quân được huy động hỗ trợ tối đa và một bên là lực lượng tàu vận tải nhỏ của ta, trang bị vũ khí và phương tiện đi biển thô sơ.

Trung tá, TS, Trương Mai Hương
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

Khi phát hiện ra và thu được vũ khí của ta ở Vũng Rô, địch hết sức bất ngờ. Một loạt kế hoạch nhằm đánh phá miền Bắc, ngăn chặn mọi sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, kiểm soát chặt vùng biển lập tức được đối phương thực hiện. Trọng điểm là kế hoạch mang mật danh "Desoto” đưa Hạm đội 7 vào Biển Đông để đánh phá miền Bắc và ngăn chặn sự thâm nhập của "Bắc Việt” vào Nam bằng đường biển.

Ở miền Nam, một kế hoạch phong tỏa quy mô lớn mang tên "Market time”được thực hiện nhằm ngăn chặn con đường chi viện trên biển của ta. Theo kế hoạch, hải quân Mỹ thực hiện việc ngăn chặn từ ngoài khơi, hải quân ngụy có nhiệm vụ tuần tiễu ven bờ. Đồng thời, Mỹ tăng cường thêm 5 tàu tuần tiễu ngoài khơi, 30 tàu tuần tiễu trên sông và 9 tàu tuần tiễu ven bờ. Ngoài ra, địch cho hàng trăm/lần chiếc máy bay trinh sát bờ biển, sục sạo từng ki-lô-mét vuông biển, đảo liên tục 24/24 giờ; đồng thời hàng chục trạm ra-đa quan sát ven bờ, trên các đảo và một mạng lưới thông tin viễn thông hiện đại được xây dựng.

(http://www.quocphonganninh.edu.vn/Pictures/Gallery/Lichsuvn/koso3.jpg)

Máy bay và tàu chiến thuộc Hạm đội 7 liên tục tuần tra truy tìm dấu vết Đoàn tàu không số. Ảnh tư liệu

Tháng 9 năm 1965, P.Paul, Phó đô đốc Hạm đội 7 của Mỹ cùng tướng Westmoreland tổ chức một cuộc họp khẩn cấp, quyết định tăng cường các biện pháp ngăn chặn tuyến chi viện bằng đường biển của ta. Theo đó, những máy bay thuộc Hạm đội 7 phụ trách việc cảnh giới ngoài khơi bằng hệ thống phát hiện điện tử suốt ngày, đêm, từ vĩ tuyến 17 đến vịnh Thái Lan. Các căn cứ không quân ở vịnh Cam Ranh và Vũng Tàu chịu trách nhiệm giám sát tất cả các cửa sông thuộc Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hệ thống giám sát, tuần tra, ngăn chặn dày đặc như thế, nhưng Nguyễn Hữu Chí - Phó đô đốc Hải quân Sài Gòn vẫn hoài nghi và cay đắng thừa nhận: "Chiến hạm của Mỹ nhập cuộc rất đông, xem như vây kín duyên hải Việt Nam Cộng hòa. Thế nhưng, cộng sản Bắc Việt có chịu chùn bước xâm nhập không?”. (1)

Chỉ sau một thời gian ngắn, lực lượng Mỹ và ngụy trên biển đã được tăng cường thêm gấp nhiều lần, máy bay, ra-đa và các lực lượng quan sát khác hoạt động ngày, đêm nhưng chúng vẫn không sao ngăn chặn được các chuyến hàng chở đầy vũ khí của ta cập bến, nhiều tờ báo ở Mỹ khẳng định: "Cộng sản Bắc Việt có những đội thuyền viên lão luyện, vượt xa hải quân Việt Nam Cộng hòa hai mươi năm. Họ có thể điều khiển tàu đi trong bất luận thời tiết nào, địa hình nào”.(2)

Sau bốn năm đọ sức với quân và dân ta, chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ có nguy cơ bị phá sản. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc-na-ma-ra đã phải thú nhận: "Mỹ đã thất bại quân sự ở Việt Nam”. Tướng Oét-mô-len, Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn thì cho rằng: "Nếu tình hình phát triển theo chiều hướng này, chính phủ Việt Nam cộng hòa (tức ngụy quyền) không thể tồn tại được trong vòng 6 tháng”. Mỹ cảm thấy đang "chơi con bài thua” ở Việt Nam, "…một tâm trạng chán nản vì chiến tranh và một sự tuyệt vọng ngày càng tăng đang bao trùm khắp Việt Nam, đặc biệt là các vùng thành thị”, vì "Việt cộng chiếm được nhiều quá, đến nỗi một lần nữa chúng ta (tức Mỹ) lại đứng trước nguy cơ nước này bị cắt làm đôi bởi một mũi dùi của Việt cộng thọc ra đến tận biển”.(3)

Sau một thời gian tạm ngừng hoạt động, Bộ tư lệnh Hải quân đã nghiên cứu và đề xuất phương thức vận chuyển mới là đi xa bờ bằng phương pháp hàng hải thiên văn. Với phương pháp này, có tàu phải đi qua đảo Hải Nam, Trung Quốc để đánh lạc hướng đối phương, hay đi vòng ra hải phận quốc tế, cũng có tàu phải vòng ra phía Ma Cao, sang Phi-líp-pin… rồi bất ngờ đột nhập vào các bến bãi ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

(http://www.quocphonganninh.edu.vn/Pictures/Gallery/Lichsuvn/koso2.jpg)

Phân chia khu vực tuần tra của hải quân Mỹ - ngụy trong biển vùng miền Nam

Cùng thời gian này, đế quốc Mỹ tổ chức thêm lực lượng đặc nhiệm 116 để ngăn chặn mọi hoạt động của ta. Lực lượng của Mỹ hoạt động ở cửa sông, cửa rạch vùng châu thổ sông Cửu Long và đồng bằng Nam Bộ. Lực lượng đặc nhiệm 117 của ngụy sục sạo gắt gao khu vực tàu của ta thường ra, vào như: Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre…

Ở ngoài khơi, lực lượng Hạm đội 7 của Mỹ được tăng cường tối đa. Nếu như những năm trước, nhiệm vụ chiến lược của lực lượng này là đối phó với Hạm đội Viễn Đông của Hải quân Liên Xô (cũ) và các hạm đội của Hải quân Trung Quốc, thì thời gian này chúng buộc phải dồn lực lượng vào khu vực Đông Nam Á mà chủ yếu là vùng biển Nam Việt Nam. 40% lực lượng của Hạm đội 7 được huy động vào nhiệm vụ "Ngăn chặn xâm nhập bằng đường biển” từ miền Bắc và miền Nam, tức ngăn chặn tuyến chi viện trên biển của ta. So sánh lực lượng trên biển giữa ta và địch hết sức chênh lệch. Một bên là gần một nửa Hạm đội 7 với không quân được huy động hỗ trợ tối đa và một bên là lực lượng tàu vận tải nhỏ của ta, trang bị vũ khí và phương tiện đi biển thô sơ.

(Còn tiếp)

(1) Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 15, Lưu Trung tâm Thông Tin - TTXVN.

(2)Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 21, Lưu Trung tâm Thông Tin - TTXVN.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: thanhh63 trong 04 Tháng Mười, 2011, 01:22:07 pm
Đường Hồ Chí Minh trên biển – nhìn từ phía bên kia (Kỳ 4)


(Tiếp theo và hết)
...
"Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam Cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ - T.G) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập, tiếp tế cho Mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết...”

Trung tá, TS Trương Mai Hương
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

Mặc dù địch tổ chức lực lượng ngăn chặn lớn như vậy, nhưng sau 9 tháng tạm ngừng vận chuyển, ngày 24-10-1965, chuyến tàu chở vũ khí cho miền Tây Nam Bộ của ta đã cập bến tại rạch Kiến Vàng (huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau) an toàn. Thắng lợi của chuyến vận chuyển này đã khẳng định quyết tâm của ta tiếp tục chi viện cho miền Nam bằng đường biển là hoàn toàn đúng đắn. Kỳ tích ấy đã khiến Mỹ-ngụy hết sức ngạc nhiên: "Việt Cộng đã chở vũ khí vào Nam bằng đường biển là mạo hiểm, cuồng tín, không sao hiểu nổi”(1).

(http://www.quocphonganninh.edu.vn/Pictures/Gallery/Lichsuvn/vungro.jpg)

Số vũ khí thu được sau sự kiện Vũng Rô. Ảnh tư liệu

 Từ năm 1967, thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các lực lượng, trong đó có lực lượng vận tải bằng đường biển tập trung cao độ để đáp ứng yêu cầu vận chuyển phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân 1968. Nhiều chuyến hàng được vận chuyển an toàn đến các bến ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, nhưng cũng có nhiều chuyến cán bộ, chiến sĩ ta phải chiến đấu quyết liệt với máy bay, tàu chiến địch, cuối cùng phải hủy tàu, nhiều chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Điển hình như trận chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trên Tàu 235 tháng 3-1968 tại Hòn Hèo, Khánh Hòa. Sau trận đánh này, đài Tự do của chính quyền Sài Gòn tường thuật: "…Các phi tuần, trực thăng, khu trục võ trang được gọi đến bắn phá. Lực lượng tăng viện đến thì cuộc lục soát bắt đầu. Một toán từ phía Bắc xuống, một nhóm từ dọc đồi phía Nam tiến lên khu vực Tân Định, một lực lượng khác gồm 4 tàu dàn hàng ngang tiến vào vịnh. HQ12, HQ617 tiếp tục bắn phá yểm trợ vào sườn núi, nhưng vì chỗ này có nhiều đá ngầm và san hô nên 4 tàu này đều bị cạn, binh lính đành phải xuống nước vào để hợp lực với lực lượng trên bờ”(2). Còn Tạp chí Lướt sóng của Hải quân ngụy viết: "Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam Cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ - T.G) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập, tiếp tế cho Mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết...”(3). 20 cán bộ, chiến sĩ, chỉ còn 5 người sống sót trở về đơn vị, tiếp tục làm nhiệm vụ. Sự kiện Tàu 235 chỉ là một ví dụ về sự khốc liệt, khó khăn của công tác vận chuyển chi viện chiến trường trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.

Cuối năm 1968-1972


Đầu tháng 11-1968, sau khi Tổng thống Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, Bộ tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho Đoàn 125 tham gia chiến dịch vận chuyển mang tên VT5. Đến giữa năm 1969, chiến dịch VT5 kết thúc, các lực lượng vận chuyển đường biển của ta đã đưa được 325.000 tấn vũ khí, đạn dược, xăng dầu và các vật chất khác từ Hải Phòng vào nam Khu 4, tạo chân hàng cho tuyến chi viện chiến lược 559 chuyển tiếp tới các chiến trường. Những con tàu không số chở vũ khí vẫn ra, vào các bến miền Nam trong năm 1969 và 1970: "…Đêm 24-8-1969, sau 18 tháng vắng bóng, không lực Hoa Kỳ mới phát hiện một tàu xâm nhập tại vùng biển cách Đà Nẵng 300 hải lý. Có thể coi đây là một thời kỳ đối phương gia tăng vận chuyển bằng đường biển trở lại. Từ 24-8-1969 đến 23-12-1969 đã phát hiện 4 vụ, năm 1970 phát hiện 12 vụ, nhưng chỉ đánh chìm được một vụ vào rạng ngày 22-11-1970 ở Thạnh Phú (Bến Tre), còn các vụ khác, họ đã thoát. Có vụ ta kèm được 9, 10 ngày; có vụ chỉ kèm được một ngày thì mất mục tiêu…”(4).

Địch càng phong tỏa ác liệt, ta càng tìm nhiều phương kế để đưa hàng vào chiến trường, góp phần đánh thắng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh”. Thời gian này, Mỹ-ngụy sử dụng lực lượng hải quân ngụy lên đến hơn 40.000 tên với 1.600 tàu, 16 trạm ra-đa cảnh giới, 16 căn cứ yểm trợ. Việc tuần tra trên sông, trên biển cũng lần lượt được giao cho hải quân ngụy đảm nhiệm. Trước mắt, Mỹ vẫn là lực lượng chủ yếu tuần tiễu, cảnh giới xa bờ, từ bắc Biển Đông xuống vùng đảo Na-tu-na và An-am-ba (thuộc Ma-lai-xi-a).

Mặc dù Mỹ và chính quyền Sài Gòn đưa ra nhiều phương án, nhiều biện pháp và giả thiết hòng xóa sổ tuyến chi viện bằng đường biển của ta nhưng đều thất bại. Nhiều nhà chiến lược quân sự sừng sỏ của Mỹ vẫn không thể giải thích nổi vì nguyên cớ gì, bằng chiến thuật, bằng kỹ thuật gì, bằng sự màu nhiệm nào mà những con tàu bé nhỏ của đối phương có thể vượt qua bão tố, biển cả, vượt qua sự kiểm soát chặt chẽ của một hạm đội hùng mạnh với kỹ thuật tối tân, trang bị hiện đại, gần như rào kín trên biển, để tới được các bến bờ miền Nam. Điều mà phía đối phương đã mất rất nhiều công sức và tiền bạc để lần tìm con đường trên biển của ta. Họ cho rằng: "Đường Hồ Chí Minh trên biển” là một hiện tượng kỳ lạ, vượt qua cả sự tưởng tượng thông thường. Trong cuốn sách: "Một số quan điểm chiến lược để bảo vệ duyên hải Việt Nam Cộng hòa”, Phó đô đốc Hải quân ngụy Nguyễn Hữu Chí viết: "…Trên thực tế, đối phương sử dụng biển khơi một cách thành thạo, mà việc di hành vào điểm đến càng tỏ ra đặc sắc hơn, làm kinh ngạc không ít chuyên viên đi biển… Trên phương diện quân sự, Bắc Việt đã biết khai thác biển khơi một cách thực tiễn hơn ta (Mỹ-ngụy)… giá trị của Hải quân Bắc Việt đã nói lên trước dư luận quốc tế” và "Nhà nước Bắc Việt nếu sử dụng tàu tiếp vận theo đường lối đó, xét rằng không những có phần tin tưởng ở cấp cán bộ chuyên nghiệp của họ, mà điều họ tin tưởng mạnh mẽ hơn, chính là tỷ lệ nguy hiểm chấp nhận được thấp hơn tỷ lệ thành công thâm nhập. Có thể họ mới duy trì kế hoạch đưa súng đạn vào bằng đường biển…”(5).

Có thể khẳng định, con đường Hồ Chí Minh trên biển của ta đã được đối phương dày công tìm kiếm, hòng hủy diệt nhưng chúng không thể thắng nổi ta, con đường vẫn vươn ra biển, mang theo những con tàu chở đầy vũ khí trang bị cung cấp cho chiến trường miền Nam đánh to, thắng lớn.

(1)Tập san quốc phòng ngụy, số 18, tr. 22. Tài liệu lưu tại Thư viện Quân đội.

(2) Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 25, lưu Trung tâm Thông tin- TTXVN.

(3) Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 25, lưu Trung tâm Thông tin - TTXVN.

(4) Dẫn theo: Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân (1961-2001), Nxb Quân đội nhân dân, H, 2001, tr. 194.

(5) Dẫn theo: Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân (1961- 2001), Nxb Quân đội nhân dân, H, 2001, tr. 206.

Link: http://www.quocphonganninh.edu.vn/index.aspx?Menu=1379&Chitiet=1718&Style=1


Tiêu đề: 50 năm đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 06 Tháng Mười, 2011, 12:35:32 pm
      Kỷ niệm 50 năm đường Hồ Chí Minh trên biển, tôi xin mở topic này để tập hợp các bài viết, ý kiến, tư liệu, hình ảnh, phim tài liệu về quá trình hình thành,  hoạt động của con đường huyền thoại này. Vì kiến thức có hạn nên các bài tôi post lên đây có thể chưa hoàn chỉnh, mong các bác và các thành viên thông cảm và rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, bài viết, hình ảnh .... của các bác và các thành viên để topic được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn.

Xin mở đầu bằng seri phim tài liệu: "Huyền thoại tàu không số" đang được phát sóng trên VTV1

Tập 1: Nơi bắt đầu một con đường

http://www.youtube.com/watch?v=mNRfMtCiWyw

Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=mNRfMtCiWyw


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: chiangshan trong 10 Tháng Mười, 2011, 06:41:29 pm
Một tháng sau khi tàu 100 bị nạn ở Rạch Già, Đoàn 125 cho tàu 187 chở 62 tấn vũ khí lên đường. Ý định lần này của đoàn là vào Trà Vinh để khôi phục lại bến này và giảm mật độ tàu ra vào Cà Mau. Tàu 187 do thuyền trưởng Phan Xã và chính trị viên Hồ Đức Thắng chỉ huy. Đồng chí Dương Tấn Kịch và Phan Văn Đấu làm thuyền phó. Các thủy thủ gồm: Vũ Xuân An, ĐỖ Văn Tâm, Vũ Xuân Bảng, Lê Khi, Phạm Thanh Duyên, Trương Hoàng Minh, Nguyễn Văn Bằng, Nguyễn Văn Kết, Hoàn Việt Trọng, Phạm Viết Đính, Bùi Ngọc San, Trần Mạnh Chinh, Thương và Phiêu. Tất cả là 18 người.

Ngày 11 tháng 6 năm 1966, tàu rời bến. Sau 5 ngày vượt biển, lúc 23 giờ ngày 19 tháng 6, khi tàu đến vị trí 8o35 vĩ bắc, 107o58 kinh đông thì bị máy bay trinh sát của địch phát hiện. Khi rõ rằng đây là tàu vận tải của “Bắc Việt", chúng lập tức điện cho tàu khu trục đang tuần tiễu ở vùng biển Vĩnh Bình (Vĩnh Long) đến ngăn chặn, với ý đồ không cho tàu 187 trở lại. Bộ chỉ huy Hải quân Mỹ điều đến 3 tàu DD755, DER393, LSD Tortuga. Hải quân ngụy điều đến 4 tàu là HQ225, HQ227, HQ231, HQ238 và nhiều tàu xuồng chiến đấu loại nhỏ thuộc duyên đoàn 35 và giang đoàn 23. Trời vừa sáng, anh em trên tàu 187 đã thấy tàu địch bao vây bốn bề. Có chiếc cách ta nửa hải lý.

Theo phương án đã duyệt, gặp trường hợp này, tàu có nhiệm vụ chiến đấu quyết tử. Tàu 187 tăng tốc độ lao nhanh vào bờ. Song, cách bờ chừng 300 mét thì tàu bị cạn. Phía sau, tàu địch vẫn bám theo. Chúng nã pháo quanh tàu 187 và cho xuồng đổ bộ tiến vào. Thuyền trưởng cho anh em rời tàu lên bờ, rồi ra lệnh hủy tàu. Song bộc phá không nổ, chỉ gây ra một đám cháy nhỏ. Địch dã dập tắt được lửa. Chiếc tàu và vũ khí trên tàu bị địch lấy đi. Chúng còn bắt được một thương binh của ta.


Tàu 187 sau khi bị địch chiếm.

Chú thích (dịch thoát từ TA): Ở khu vực ĐBSCL hôm 20/6/1966, 1 tàu cá VC màu xanh lá cây không mang cờ hay dấu hiệu nào đã bị tàu tuần tiễu Point League thuộc LL phòng vệ bờ biển chặn lại. Con tàu kháng cự lại 2 tàu tuần tiễu Mỹ nhưng bị dồn vào chỗ nước nông và bắn cháy. Quân nhân Mỹ có mặt ở hiện trường ước tính chiếc tàu sắt dài 96 ft 11 inch này chở khoảng 80 tấn đạn. Trong số hàng có 120 súng trường, 13 đại liên, 12 súng cối không giật (?) và nhiều vũ khí nhỏ được bao gói như súng ngắn và carbine. Chiếc tàu mắc cạn ở phía nam 7 dặm rưỡi, gần cửa sông Co Chein (?) gần làng Ba Dong (?) ở tọa độ 9,75 vĩ bắc, 106,34 kinh đông, cách bờ 50 yard. Thủy thủ đoàn không bị bắt và được cho là đã nhập được với lực lượng VC gồm 5 tiểu đoàn ở bãi biển.

(http://www.virtual.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?m.njChcAZN8YZvgYKNfIsZIWJPj1rrBaiUbA3pHJ9sVeG3vewpk6.xxfO5q7gJoLrWO.tVXobbPJl5rxq9gRS.Zgk23uVlfDonInFx3AWBY/va049383.jpg)

(http://www.virtual.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?Xpn3tpOhKslRgRnPln.5p0V@BqGBM4XW6K1npNFKvN70Xy@t92R4fZRLIG7jLrgx.ZCOHaE253RFgmd6@ehiiSH0Y4ZM6qhT.e5vGWGFCbM/va049382.jpg)

(http://www.virtual.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?wabHksicrSOZWItaXTW@gXc@D9GI@vS412UEteIKktTwKDPlgabHUd46JxTXrqYAHZfG3w7pWsjSpkJveiFg1oX3kIZKOviDAkzdkSvBOlQ/va059413.jpg)

(http://www.virtual.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?AbRkqlt8CXHaE.dez8XS9Rr9VfzWZajg7im.k0wTPkDdMA2uRtW7mo920.D9WC1Jmb7NR7K3QRRhC9SL44ms7zRMyybHpNwEWo.fIykRGDE/va059392.jpg)

(http://www.virtual.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?nhOrU1BByndrZ3xFGRzODNP6qPZiCvNohvRmlDg87iY1BbWkhXQ93fRpFC.@ibK1eYHD99223@yppYi7MMGIwsZEjvvfFU6aDoEsk.vWi1c/va059420.jpg)

(http://www.virtual.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?sqA2QpikiGRLLE2QcZE6ktUNU2zvZyuYTfTwDhYKTfamrl2p9dMBa@Id.lxFlIX6bMlaUWXu9rB26sVSx.coB.U7vITMUlJBe5Nrb9Ss6TI/va059421.jpg)

(http://www.virtual.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?x27sQUnUOICKmNjO6XNc48t2CtJQ3q1pUjztLCw69zn8dAyglOaXy.lyyWEbfOLmrcV1C5CxrEEXB@bq9JQnylCX1Vmwt5wyn35@FIZPKIg/va059419.jpg)

(http://www.virtual.vietnam.ttu.edu/cgi-bin/starfetch.exe?s0NEq9JpuRs6I@nG2tRTmXPV6k.K3POPVMc.5l.n8u2ZPXKJrCkr4czyUQpdXzMhFtigc72v5fz.iE@JeoJuC5Ekxcm302C5J2YUUUODVRA/va059399.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 11 Tháng Mười, 2011, 10:13:43 am
Huyền thoại tàu không số - Tập 2: Những người vượt biển ra Bắc

http://www.youtube.com/watch?v=a2Hw04Efg8I

Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=a2Hw04Efg8I


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 14 Tháng Mười, 2011, 02:57:50 pm
Huyền thoại tàu không số - Tập 3: Những con tàu mang tên Phương Đông


http://www.youtube.com/watch?v=EOWi643e78k


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=EOWi643e78k


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: lonesome trong 15 Tháng Mười, 2011, 02:31:46 pm
Chiếc tàu mắc cạn ở phía nam 7 dặm rưỡi, gần cửa sông Co Chein (?) gần làng Ba Dong (?) ở tọa độ 9,75 vĩ bắc, 106,34 kinh đông, cách bờ 50 yard.


Cửa sông Cổ Chiên

(http://farm3.static.flickr.com/2328/2267897271_becfe10e77.jpg)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 15 Tháng Mười, 2011, 09:02:35 pm
Huyền thoại tàu không số - Tập 4:  Vũ khí cho cực Nam - Nam Bộ


http://www.youtube.com/watch?v=nME4Tdkk2Bc


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=nME4Tdkk2Bc


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 16 Tháng Mười, 2011, 11:15:28 pm
Huyền thoại tàu không số - Tập 5:  Vũ khí vào khu 5, khu 6


http://www.youtube.com/watch?v=6ihf4I2huOI


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=6ihf4I2huOI


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 18 Tháng Mười, 2011, 12:23:58 am
Huyền thoại tàu không số - Tập 6:  Sự kiện Vũng Rô


http://www.youtube.com/watch?v=pBrPAfUurzA


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=pBrPAfUurzA


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: chiangshan trong 21 Tháng Mười, 2011, 06:47:45 pm
Một tháng sau khi tàu 100 bị nạn ở Rạch Già, Đoàn 125 cho tàu 187 chở 62 tấn vũ khí lên đường. Ý định lần này của đoàn là vào Trà Vinh để khôi phục lại bến này và giảm mật độ tàu ra vào Cà Mau. Tàu 187 do thuyền trưởng Phan Xã và chính trị viên Hồ Đức Thắng chỉ huy. Đồng chí Dương Tấn Kịch và Phan Văn Đấu làm thuyền phó. Các thủy thủ gồm: Vũ Xuân An, ĐỖ Văn Tâm, Vũ Xuân Bảng, Lê Khi, Phạm Thanh Duyên, Trương Hoàng Minh, Nguyễn Văn Bằng, Nguyễn Văn Kết, Hoàn Việt Trọng, Phạm Viết Đính, Bùi Ngọc San, Trần Mạnh Chinh, Thương và Phiêu. Tất cả là 18 người.

Ngày 11 tháng 6 năm 1966, tàu rời bến. Sau 5 ngày vượt biển, lúc 23 giờ ngày 19 tháng 6, khi tàu đến vị trí 8o35 vĩ bắc, 107o58 kinh đông thì bị máy bay trinh sát của địch phát hiện. Khi rõ rằng đây là tàu vận tải của “Bắc Việt", chúng lập tức điện cho tàu khu trục đang tuần tiễu ở vùng biển Vĩnh Bình (Vĩnh Long) đến ngăn chặn, với ý đồ không cho tàu 187 trở lại. Bộ chỉ huy Hải quân Mỹ điều đến 3 tàu DD755, DER393, LSD Tortuga. Hải quân ngụy điều đến 4 tàu là HQ225, HQ227, HQ231, HQ238 và nhiều tàu xuồng chiến đấu loại nhỏ thuộc duyên đoàn 35 và giang đoàn 23. Trời vừa sáng, anh em trên tàu 187 đã thấy tàu địch bao vây bốn bề. Có chiếc cách ta nửa hải lý.

Theo phương án đã duyệt, gặp trường hợp này, tàu có nhiệm vụ chiến đấu quyết tử. Tàu 187 tăng tốc độ lao nhanh vào bờ. Song, cách bờ chừng 300 mét thì tàu bị cạn. Phía sau, tàu địch vẫn bám theo. Chúng nã pháo quanh tàu 187 và cho xuồng đổ bộ tiến vào. Thuyền trưởng cho anh em rời tàu lên bờ, rồi ra lệnh hủy tàu. Song bộc phá không nổ, chỉ gây ra một đám cháy nhỏ. Địch dã dập tắt được lửa. Chiếc tàu và vũ khí trên tàu bị địch lấy đi. Chúng còn bắt được một thương binh của ta.


Tàu 187 sau khi bị địch chiếm.

Chú thích (dịch thoát từ TA): Ở khu vực ĐBSCL hôm 20/6/1966, 1 tàu cá VC màu xanh lá cây không mang cờ hay dấu hiệu nào đã bị tàu tuần tiễu Point League thuộc LL phòng vệ bờ biển chặn lại. Con tàu kháng cự lại 2 tàu tuần tiễu Mỹ nhưng bị dồn vào chỗ nước nông và bắn cháy. Quân nhân Mỹ có mặt ở hiện trường ước tính chiếc tàu sắt dài 96 ft 11 inch này chở khoảng 80 tấn đạn. Trong số hàng có 120 súng trường, 13 đại liên, 12 súng cối không giật (?) và nhiều vũ khí nhỏ được bao gói như súng ngắn và carbine. Chiếc tàu mắc cạn ở phía nam 7 dặm rưỡi, gần cửa sông Co Chein (?) gần làng Ba Dong (?) ở tọa độ 9,75 vĩ bắc, 106,34 kinh đông, cách bờ 50 yard. Thủy thủ đoàn không bị bắt và được cho là đã nhập được với lực lượng VC gồm 5 tiểu đoàn ở bãi biển.

http://dantri.com.vn/c20/s20-529912/chuyen-di-10-nam-sau-3-ngay-trang-mat.htm

Chuyến đi 10 năm sau 3 ngày trăng mật

Năm nay, khi đã bước sang tuổi 70, cựu chiến binh Đỗ Xuân Tâm vẫn không sao quên được những năm tháng làm nhiệm vụ trên những con tàu không số và cả những câu chuyện xúc động quanh chuyến đi 10 năm xa vợ sau vẻn vẹn 3 ngày trăng mật...
 
(http://dantri4.vcmedia.vn/I3KdHJtU0B3ELPKGaTLe/Image/2011/10/tuan2/tau0so_32da4.jpg)
Cựu chiến binh Đỗ Xuân Tâm.

Huỷ tàu khi “thóc” sắp “đổ bồ”

Xuất thân từ một làng chài ở Đồ Sơn (Hải Phòng), tháng 3/1963, chàng trai Đỗ Xuân Tâm nhập ngũ vào Đoàn tàu không số 125 hải quân khi vừa hoàn thành khoá học trung cấp kiến trúc.

Cuối tháng 2/1965, Đỗ Xuân Tâm được đơn vị cho nghỉ 7 ngày phép để về nhà cưới vợ. Một đám cưới đạm bạc chỉ có bánh kẹo, thuốc lá, không có cỗ bàn. Nghỉ phép được 3 ngày thì lại có lệnh về ngay đơn vị để nhận nhiệm vụ: Sang cảng Hậu Thuỷ (Trung Quốc) chuẩn bị cho chuyến đi thứ ba. Thời điểm đó, sau sự kiện Vũng Rô, việc vận chuyển hàng vào Nam trên những con tàu không số đã rất khó khăn, nhiều chuyến đi đã bị địch phát hiện, chịu nhiều tổn thất, hy sinh.

Với vai trò thợ máy 1 trên tàu 187, ông và đồng đội xuất phát ngày 11/6/1966 từ Cống Đông - Quảng Ninh. Chuyến đi lần này, tàu 187 có 18 thuỷ thủ, trong đó cấp trên tăng cường thêm cố vấn chính trị viên Hồ Đức Thắng và cố vấn thuyền trưởng Dương Tấn Kịch - hai cố vấn có thâm niên trong nghề, riêng Hồ Đức Thắng là người Trà Vinh và đã từng có 11 chuyến đi suôn sẻ vào các bến, còn Dương Tấn Kịch là một thuyền trưởng kỳ cựu, rất giỏi thiên văn.

16 giờ ngày 19/6/1966, sau 6 ngày đi vòng sang vùng biển quốc tế và “bắt” được Côn Đảo, vì phải đợi trời tối nên 187 không thể tăng tốc vào hướng Côn Đảo ngay, thuyền trưởng Phan Xã quyết định thả trôi tàu. Vừa thả trôi được vài phút thì phát hiện một máy bay Mỹ đang đi tuần tiễu. Máy bay vòng trở lại hai vòng tại cabin để chụp ảnh.

Anh em trên tàu vẫn thản nhiên làm các công việc của một tàu đánh cá, ai vào việc nấy: Người thì phơi cá, người vá lưới... “Tôi đang ở trong bếp, khi máy bay sà thấp, nhìn rõ viên phi công, tôi đã cầm chiếc đùi gà giơ lên để trêu đùa, tên này đã thò đầu ra và nhoẻn miệng cười” - ông Tâm nhớ lại. Khi thấy máy bay địch tuần tiễu, tàu 187 liền điện báo xin ý kiến cấp trên. 19 giờ, Tàu nhận được điện: “Thóc đổ bồ”, mã cơ yếu được dịch ra là: “Bến êm, cứ vào”. Tàu nổ máy xuất phát.

Khoảng 3 giờ sáng hôm sau, anh em trên tàu dần nhận dạng được ven bờ, các thuỷ thủ rất mừng bởi ít phút nữa, chỉ chờ ám hiệu nhận nhau giữa tàu và đất liền là coi như chuyến đi thành công. Dương Tấn Kịch đo thiên văn để xác định vị trí cập bến Vàm Ba Động. Anh báo với thuyền trưởng Phan Xã là tàu cách bến Vàm Ba Động 1,2 hải lý, nghĩa là tàu đang đi rất chuẩn xác, chỉ ít phút nữa là tàu sẽ vào bến.

Đúng lúc đó, Hồ Đức Thắng bảo rằng: “Anh Kịch ơi, anh nhầm rồi, tôi xin lấy tính mạng của mình mà đảm bảo rằng đây không phải là Vàm Ba Động”. Hai cố vấn kỳ cựu - một người dựa vào kiến thức thiên văn, một người dựa vào kinh nghiệm - đều cho rằng nhận định của mình là chính xác. Khi đó, chi uỷ Chi bộ tàu 187 tổ chức hội ý chớp nhoáng.

Cuối cùng, chi uỷ thống nhất sau cuộc họp là xin ý kiến trên. Cấp trên điện chỉ đạo: “Tìm ngư dân để hỏi”. “Tàu chúng tôi gặp một chiếc ghe, trên ghe có một ông già khoảng ngoài 60 tuổi và một cậu bé hơn 10 tuổi. Những thuỷ thủ giọng miền Nam cất tiếng: “Đây là ở đâu, có phải Vàm Ba Động không?”. Do hoảng hốt nên ông già chưa kịp nói câu nào, còn cậu bé thì sợ quá, chỉ biết khóc... Trong khi đang hỏi, bỗng nhiên hai máy bay địch nhao tới thả một loạt pháo sáng, tàu chúng tôi bị 5-7 chiếc tàu địch bắn xối xả mà không cần phát tín hiệu thăm dò” - ông Tâm kể.

Lúc đó, tàu 187 phát điện báo cáo cấp trên là tàu đã bị lộ và nhận lệnh huỷ tàu. Vừa mới nhận lệnh huỷ thì tàu bị mắc cạn, khi ấy là 5 giờ sáng ngày 20/6/1967. Các thuỷ thủ trên tàu tích cực chiến đấu tới nửa tiếng để anh em rời tàu và hỗ trợ cho thuyền trưởng Phan Xã, máy trưởng Vũ Sơn An khẩn trương lắp kíp bộc phá để huỷ tàu. Thuyền trưởng Phan Xã ra lệnh cho anh em thuỷ thủ khẩn trương rời tàu. Rời tàu, địch tiếp tục bắn chặn với những làn đạn dày đặc.

Vào bờ, các thuỷ thủ quay ra nhìn thì thấy tàu vẫn đứng sừng sững, không nổ... Đồng chí Tư Mau (tức Phan Văn Nhờ, khi đó là Đoàn phó Đoàn 962 của Quân khu 9) liền điều hai khẩu ĐKZ tới bắn vào tàu cả chục viên mà con tàu chỉ cháy chứ không nổ. Vào đến bờ, mỗi người thất lạc một nơi. Có người gặp được cơ sở của ta, người thì thất lạc vào rừng... Sáng 20/6/1966, bầu trời Vàm Ba Động đen kịt từng bầy trực thăng, từng tốp máy bay phản lực nhào lộn bắn phá các khu rừng quanh Vàm Ba Động, địch còn cho các tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên đổ bộ chiếm giữ cửa sông Ba Động.

Ba ngày sau, thuỷ thủ tàu 187 được người dân địa phương và bộ đội đơn vị 962 tìm kiếm, gom về căn cứ. Tất cả 18 anh em thì chỉ tập hợp được 16 người, chính trị viên Lê Công Thương hy sinh ngay trên bãi cát cửa Vàm Ba Động, thuỷ thủ Trần Quang Phiêu - Hàng hải số 1 - bị trúng đạn gãy chân trên bãi cát và bị địch bắt. Riêng báo vụ Phan Thành Duyên bị lạc vào rừng mắm, sau 4 ngày đêm không nước, không cơm đã nhặt lá dừa khô, tìm một gò cao để kê lên, chờ chết; rất may là anh em đơn vị 962 đã tìm thấy và kịp thời cứu sống...

6 tháng sau, khi tới Cà Mau, ông Tâm và đồng đội mới biết nguyên nhân dẫn đến những nhận định không thống nhất giữa Dương Tấn Kịch và Hồ Đức Thắng. Cuối cùng, nguyên nhân được xác định là do... ngọn đèn biển. Trước đó ít ngày, ngọn hải đăng Ô Cấp (Vũng Tàu) đã được chính quyền Sài Gòn nâng cao thêm 5m, trong khi lực lượng quân báo của ta chưa kịp thông báo cho các tàu. Vì thế, theo kinh nghiệm, chưa khi nào Hồ Đắc Thắng nhìn thấy đèn Ô Cấp, vậy mà lần này ngọn hải đăng ấy lại hiện ra mồn một trước mắt người lính biển dạn dày sóng gió và anh đã nhận định đây chưa phải là Vàm Ba Động...

Giữa tháng 8/2011, khi hay tin Bộ đội Biên phòng Trà Vinh phát hiện một chiếc tàu vỏ sắt dài khoảng 20m chở nhiều vũ khí đang nằm sâu dưới biển hơn chục mét, cách phao số 0 khoảng 7 hải lý về phía đông nam biển Trà Vinh, ông Tâm nhận định rất có thể đấy là con tàu 187 thuộc Đoàn tàu không số mà ông và đồng đội đã từng cố gắng phá huỷ trong chuyến đi trung tuần tháng 6/1966. “Ngày hôm sau, phía chính quyền Sài Gòn có cho máy bay rêu rao là đã đưa con tàu do “Bắc Việt giả dạng” về trưng bày ở Cần Thơ, nhưng sau đó qua xác minh, địch chẳng đưa được chiếc tàu nào của ta về đó cả. Theo tôi, do bị bắn cháy và thủng nhiều chỗ nên địch không thực hiện được âm mưu lai dắt về Cần Thơ, có thể tàu và vũ khí đã bị chìm cách bến Vàm Ba Động gần chục hải lý” - ông Tâm khẳng định

Sau chuyến đi ấy, ông Tâm và đồng đội nhận lệnh của Đoàn 125 hành quân bộ sang Campuchia để từ đó ra Bắc, nhưng khi vừa đặt chân tới biên giới thì tình hình chính trị Campuchia có biến động, cả đoàn quay về rừng đước Cà Mau chờ thời cơ. Nào ngờ, ông và nhiều đồng đội đã phải chờ đợi tới cả chục năm trên vùng đất Mũi...

10 năm bặt tin - 10 năm trông ngóng

Quãng thời gian 10 năm biền biệt xa người vợ trẻ, cũng là 10 năm hai vợ chồng ông Tâm không được phép viết cho nhau một dòng thư nhắn gửi. Ông bảo, hồi xin nghỉ phép 7 ngày về cưới vợ, ai cũng bảo anh chàng này “đánh nhanh rút gọn”, nhưng thực ra trước đó ông đã báo cáo với đơn vị về “một nửa” của mình là cô gái 21 tuổi Nguyễn Thị Xuân - người cùng quê và đang là Bí thư Thị đoàn Đồ Sơn.

Hôm tổ chức, đơn vị còn chu đáo cho xe và cử cán bộ về cùng lo liệu đám cưới. “Cũng như nhiều chuyến đi trước, khi bước chân lên tàu, tôi và các đồng đội đều phải để lại mọi thứ liên quan: Từ tên tuổi, quê hương cho đến cả người thân cũng phải giấu... Vì thế, vợ tôi chỉ có thể đến Đoàn 125 để hỏi tin tức chồng và lần nào cũng chỉ nhận được thông báo ngắn gọn: Chồng đang đi công tác xa” - ông Tâm nhớ lại.

Là những người làm nhiệm vụ đặc biệt trên những “con tàu không số”, nên trong thời gian hoạt động trong vùng rừng đước Cà Mau, ông hoàn toàn bặt tin gia đình. Kể từ ngày chia tay người vợ mới cưới (3/3/1965) để nhận nhiệm vụ trên tàu 187 cho tới ngày đất nước thống nhất, 10 năm ròng ông không biết tin tức gia đình, làng xóm và chỉ được nghe những thông tin về sự tàn phá của không quân, hải quân Mỹ khi đánh phá, huỷ diệt miền Bắc và quê hương Hải Phòng của ông qua thông tin từ Đài Tiếng nói Việt Nam. “Sống cùng đồng đội với ý chí và nghị lực vượt qua khó khăn, trong tôi luôn có niềm tin về một tình yêu thuỷ chung với người vợ trẻ nơi quê nhà” - ông Tâm chân thành bộc bạch.

Sau ngày đất nước thống nhất, Đỗ Xuân Tâm và đồng đội nhận nhiệm vụ về tiếp quản cảng quân sự Ninh Kiều và cảng Bình Thuỷ - Cần Thơ. Ngày 3/5/1975, đơn vị ông được đón đồng chí Tố Hữu - khi đó đang là Bí thư Trung ương Đảng - tới thăm. Sau 30 phút gặp gỡ và giao nhiệm vụ, đồng chí Tố Hữu có nhắn anh em đơn vị: Đồng chí nào quê ở miền Bắc nếu cần viết thư về cho gia đình hoặc đơn vị thì sẽ chuyển giúp. “Tôi mừng quá, chỉ kịp viết ít chữ gửi cho các đồng chí lãnh đạo Đoàn 125, nhờ các đồng chí trong đơn vị thông báo giúp xem mọi người trong gia đình tôi những ai còn, ai mất, mức tàn phá của kẻ thù đối với quê hương mình ra sao sau hơn 10 năm xa cách” - ông Tâm kể.

Một ngày trung tuần tháng 6/1975, vào đầu giờ chiều, Đỗ Xuân Tâm và anh em đơn vị đang học nghị quyết tại hội trường thì được thông báo có đoàn khách của Bộ Tư lệnh Hải quân và Đoàn 125 vào thăm. Đồng chí trực ban đơn vị tới gặp riêng Đỗ Xuân Tâm, bảo: “Anh Tâm ơi, lãnh đạo đơn vị còn đưa cả chị Xuân vào thăm anh đấy!”.

Dĩ nhiên Đỗ Xuân Tâm không dễ dàng tin ngay được, ông cho rằng đồng chí trực ban “nói xạo”, bởi tuy Bắc - Nam đã sum họp nhưng người vợ trẻ ấy không dễ gì có thể đặt chân tới được vùng đất “gạo trắng nước trong” này. Nhưng rồi, khi hai chiếc xe con chở đoàn khách tiến vào sân đơn vị, thật bất ngờ, một cô gái tay cầm chiếc nón lá miền Bắc bước ra khỏi xe. “Đúng vợ mình thật rồi!” - Đỗ Xuân Tâm nghĩ thầm và cảm thấy như mình đang bay bổng. “Vợ chồng tôi nhìn nhau thật lâu. Mà cũng rất lạ, hai chúng tôi không hề có những giọt nước mắt nghẹn ngào, không có những lời trách than, hờn tủi, thay vào đó là những nụ cười hạnh phúc” - ông Tâm kể lại.

Sau này, khi hỏi vợ tại sao trong phút giây trùng phùng sau hàng nghìn ngày xa cách ấy mà em không hề rơi nước mắt, ông Tâm nhận được câu trả lời từ người vợ thuỷ chung: “Từng ấy năm em đã khóc thầm vì mòn mỏi đợi chờ, hy vọng nên bao nhiêu nước mắt đã lặn hết vào tim em rồi”. Vào Nam thăm chồng trên những con tàu mà cách đó nhiều năm ông Tâm và đồng đội đã phải bí mật ra khơi trong những hải trình đầy sóng gió, Nguyễn Thị Xuân đã ở lại đất Tây Đô hơn 1 tháng rồi sau đó theo tàu của Đoàn 125 trở ra Bắc. Sau ngày đất nước thống nhất, ông Tâm chuyển ngành về công tác tại Cty du lịch Đồ Sơn. Năm 1996, ông về nghỉ hưu và mở một nhà hàng ăn tại phường Ngọc Hải, Đồ Sơn, Hải Phòng.

Giờ đây, chỉ có một điều vẫn làm ông day dứt là trong những năm tháng xa gia đình, xa người vợ trẻ, cũng là khoảng thời gian mà nhiều người từng nghi ngờ, đồn thổi ông “theo địch” chứ không phải “đi B”.

Vợ ông là người phải hứng chịu những điều tiếng không hay ấy. Chưa kể, các chế độ, tiêu chuẩn dành cho những cán bộ đi B vì yếu tố bí mật mà ông cũng như nhiều đồng đội khác vẫn chưa được hưởng. “Những thuỷ thủ tàu không số lại phải thêm một lần hy sinh vì cả những điều bị coi là nhỏ nhặt ấy, dẫu biết rằng để vượt qua những “điều tiếng” không hay này cũng chẳng phải dễ dàng gì” - ông Tâm đã bộc bạch với chúng tôi như vậy. Chúng tôi cũng động viên, chia sẻ với ông rằng những thiệt thòi ấy thật nhỏ bé so với những lúc ông và đồng đội từng nỗ lực vượt nghìn trùng sóng dữ, rồi cả những lúc phải mình trần, chân đất chịu đói, khát nơi rừng đước Cà Mau để may mắn sống sót, trở về...

Theo Bùi Vũ Minh

Lao Động


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 23 Tháng Mười, 2011, 11:04:41 pm
Nên sử dụng từ “Huyền thoại” như thế nào cho phù hợp?


QĐND - Gần đây, công tác tuyên truyền hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển đã và đang thu hút được sự quan tâm của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân trong nước cùng bạn bè quốc tế. Sở dĩ vấn đề này hấp dẫn mọi người, vì đây là con đường độc đáo, sáng tạo thể hiện tài thao lược của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân ủy Trung ương. Trong 14 năm (1961-1975), các lực lượng tham gia đường Hồ Chí Minh trên biển đã làm nên những chiến công như những huyền thoại, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến tranh đã lùi xa hơn 36 năm, nhưng đến nay, nhiều nhà nghiên cứu của thế giới vẫn đang đi tìm lời giải cho câu hỏi: Vì sao với những con tàu nhỏ bé, trang bị thô sơ như vậy mà “Tàu không số” vẫn vượt qua được sự kiểm soát gắt gao của Mỹ-ngụy để vận chuyển một lượng lớn vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam? Đây là sự thật hay huyền thoại?

Ngày 22-9-2011, Hội thảo khoa học do Bộ Quốc phòng tổ chức với chủ đề “Đường Hồ Chí Minh trên biển-con đường của ý chí và sức sáng tạo Việt Nam” đã khẳng định: Đường Hồ Chí Minh trên biển là một biểu tượng sáng ngời về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân rất độc đáo, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương. Đây là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, hiện thân của lòng quả cảm, trí thông minh, ý chí sắt đá, tình cảm thiêng liêng đối với miền Nam ruột thịt; là một kỳ tích độc đáo và mãi mãi là niềm tự hào của Quân đội nhân dân và dân tộc Việt Nam anh hùng. Độc đáo và như huyền thoại, vì đây là con đường và phương pháp vận chuyển độc nhất vô nhị trong lịch sử chiến tranh thế giới. Nó làm cho đối phương kinh ngạc, bất ngờ và không thể tưởng tượng được về sự có mặt, quy mô, sự dũng cảm và tính sáng tạo vô song của con đường, những con tàu và những con người tham gia tuyến đường này. Những con tàu “không số” cùng với cán bộ, chiến sĩ tham gia đều tuyệt đối giữ bí mật, kể cả với người thân, khi cần thiết phải hủy tàu và hy sinh cùng với con tàu để giữ bí mật con đường. Chính vì vậy, các phương tiện thông tin đại chúng đã dùng từ “huyền thoại” như: Cuộc thi tìm hiểu “Huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển”; có tờ báo còn rút tít “Đường Hồ Chí Minh trên biển, con đường huyền thoại”; bộ phim tài liệu nhiều tập khởi chiếu trên VTV1, Đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 3-10-2011 cũng có tên là “Huyền thoại tàu không số”...

Theo tôi, cách sử dụng từ “huyền thoại” khi nói về đường Hồ Chí Minh trên biển hay về Đoàn tàu "không số" như các ví dụ trên là chưa phù hợp. Theo Từ điển tiếng Việt do Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia biên soạn, xuất bản năm 2005, từ “huyền thoại” có nghĩa là: Câu chuyện huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng hư cấu nên. Theo đó, nếu chúng ta dùng từ “Huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển” hay “Huyền thoại tàu không số” là không đúng với bản chất của con đường Hồ Chí Minh trên biển và những con tàu “không số”. Nếu tuyên truyền như vậy, thì ngay cả người Việt Nam cũng chưa thể hiểu được đầy đủ ý nghĩa của Đường Hồ Chí Minh trên biển, thế thì người nước ngoài phải tra từ điển tiếng Việt để dịch nghĩa.

Để giúp người đọc, người xem hiểu đúng về giá trị của Đường Hồ Chí Minh trên biển và nâng cao hiệu quả tuyên truyền, thiết nghĩ nên dùng từ “huyền thoại” cho phù hợp, có thể là: “...huyền thoại có thật”; “Tàu không số huyền thoại” hoặc “Những chiến công như huyền thoại”... vì thông điệp mà báo chí đưa ra phải là thông điệp dễ hiểu, đến được với đông đảo quần chúng nhất. Đây cũng là một yêu cầu trong công tác tuyên truyền về Đường Hồ Chí Minh trên biển mà Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đặt ra.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/163026/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: quehuongyeudau trong 24 Tháng Mười, 2011, 09:04:07 am
Hôm qua em xem cầu truyền hình về đường HCM xúc động quá, thật cảm phục các chú vì lòng dũng cảm, gan dạ và bình tĩnh trước kẻ thù.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 24 Tháng Mười, 2011, 09:03:07 pm
Huyền thoại tàu không số - Tập 7: Những con tàu bất tử


http://www.youtube.com/watch?v=I6YYmj8lBEg


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=I6YYmj8lBEg


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười, 2011, 12:33:58 am
Huyền thoại tàu không số - Tập 8: Bãi Ngang và Tết Mậu Thân


http://www.youtube.com/watch?v=NjYi9Z3b5YE


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=NjYi9Z3b5YE


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 26 Tháng Mười, 2011, 01:09:30 am
Huyền Thoại Tàu Không Số - Tập 9: Bản hùng ca trên biển


http://www.youtube.com/watch?v=SatJGBDYYJo


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=SatJGBDYYJo


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: jasmine2011 trong 26 Tháng Mười, 2011, 07:23:01 pm
Em có việc này muốn hỏi: Giả sử các anh là người chịu trách nhiệm trang bị khí tài cho con tàu không số. Với chiều dài 30m, rộng 7m, cao 5m của con tàu, các anh có đồng ý với việc trang bị 1 DKZ 57, 3 12 ly 7 và AK, RPD, B40 không? Trong trận chiến trên bến Vàm Lũng, với dàn vũ khí này đã đánh với hàng chục tàu địch 3 tiếng đồng hồ và thoát an toàn. Em không có ý định phê phán gì (vì chắc lúc quyết định BTL đã suy nghĩ rất nhiều, và điều kiện của ta chỉ có vậy), nhưng em thấy hải quân ngụy quá kém, tàu to súng lớn mà để tàu ta chạy thoát, lại còn bị đánh te tua thì em chịu. Vậy, lúc đó trang bị trên các tàu địch ra sao? Tại sao không trang bị thêm vũ khí cho tàu? Một chuyến tàu 1 tuần lễ có thể thay thế 1 tiểu đoàn cơ giới hoặc một sư đoàn bộ binh vận tải trong hàng tháng trời. Tại sao không thể trang bị khá hơn cho tàu? Và tại sao không đi hai ba tàu, một chiếc chở hàng, hai chiếc nghi binh và đánh tháo khi cần. Cần thiết thì hi sinh hai cái tàu để hàng chục tấn vũ khí chạy thoát an toàn. Tàu cá thì cũng có thể đi hai ba chiếc chứ? Đi lẻ có khi lại dễ bị nghi hơn.
Trên đây là thiển ý của em. Xin nhắc lại đây là những thắc măc của một người chưa có hiểu biết đầy đủ. Em không định phê phán gì BTL của 759 vì em chưa hiểu hết. Mong các bác giải thích.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 27 Tháng Mười, 2011, 05:23:00 pm
Huyền Thoại Tàu Không Số - Tập 10: Tri ân đồng đội


http://www.youtube.com/watch?v=gk4U-QhJIcU


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=gk4U-QhJIcU


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 01 Tháng Mười Một, 2011, 12:25:24 am
Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 1)


Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành con đường huyền thoại, duy nhất có trong lịch sử chiến tranh nhân loại. Nhân kỷ niệm 50 năm truyền thống của tuyến đường đặc biệt này, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc những hồ sơ, tư liệu, ghi chép về chân dung những “thuyền trưởng huyền thoại" của "con đường huyền thoại” này.

Kỳ 1: Thuyền trưởng tàu không số đầu tiên

QĐND - Cho đến nay, đã có nhiều bài báo, phóng sự tài liệu về đồng chí Lê Văn Một, người thuyền trưởng của chiếc “tàu không số” đầu tiên mang tên Phương Đông 1. Nhưng cuộc đời cách mạng của ông còn có nhiều bí mật, bất ngờ khiến chúng ta đi từ ngạc nhiên đến khâm phục.

Bắt đầu từ “con đường xuyên Tây”

Lê Văn Một sinh năm 1921, thuộc dòng dõi gia tộc thủ khoa yêu nước Nguyễn Hữu Huân đất Tiền Giang. Từ lúc lọt lòng, ông có tên Pháp là Abel René.  Abel René là con thứ  11 trong một gia đình giáo học quốc tịch Pháp có 13 anh em. Cha là Đốc học Lê Văn Giỏi nổi tiếng đất Mỹ Tho (Tiền Giang). Cậu bé Abel René từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, sáng dạ, chăm chỉ học tập, được bố mẹ cho học ở nhiều trường như Trường Tiểu học Mỹ Tho, Trường Lê Bá Cang - Sài Gòn... rồi ra Hà Nội học ở Trường Thăng Long.

Đến tuổi trưởng thành, Abel René vào lính thủy, làm “nghĩa vụ” với mẫu quốc Pháp, là hoa tiêu trên tàu Lamotte Picquet - tuần dương hạm lớn nhất Đông Dương.

Cách mạng Tháng Tám 1945 là một bước ngoặt mới đến với Abel René. Luồng gió mới thổi vào đời ông. Abel René bừng tỉnh: La france ce n’est pas ma Ptrie! (Nước Pháp không phải là quốc mẫu của tôi!). Ông cùng bạn bè tìm đường theo cách mạng kháng chiến. Abel René đổi tên thành Lê Văn Một.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/7/07092011manh021753090.jpg)
Thuyền trưởng Lê Văn Một. (Ảnh do gia đình cung cấp)

Tháng 12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Lực lượng vũ trang Nam Bộ “thuốc súng kém, chân đi không” đành phải lùi dần về Đồng Tháp Mười và rừng U Minh. Ban sưu tầm vũ khí ở nước ngoài được thành lập. Lê Văn Một và 12 người nữa được đồng chí Năm Phúc (tức nhà lão thành cách mạng Dương Quang Đông) chọn vào lực lượng vận tải vũ khí, lên đường sang Băng Cốc (Thái Lan) bằng ghe buồm để tìm mua vũ khí và tổ chức con đường xuyên Tây, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ.

Lê Văn Một được giao trọng trách mang theo 25kg vàng, bỏ trong ruột tượng, ngày đêm cột chặt quanh mình. Số vàng này là kỳ tích của “Tuần lễ vàng” vì lòng yêu nước của nhân dân quyên góp để mua vũ khí.

Chuyến đầu tiên, Lê Văn Một tổ chức 10 xe bò, 10 voi và lực lượng 70 người, vận chuyển bằng đường bộ qua Cam-pu-chia về nước. Súng theo voi, đạn đeo lưng người. Trải qua 16 ngày vượt núi, qua sông, địch luôn luôn ngăn đường, chặn lối, đơn vị vừa hành quân vừa tác chiến 11 trận trên đất Cam-pu-chia. Đầu tháng 1-1948, đoàn về đến Nam Bộ với 11 người hy sinh và mất tích. Thấy vận chuyển đường bộ gian khổ, hiệu quả thấp, Lê Văn Một tính cách  chuyển sang vận chuyển bằng đường biển. Tuy nhiên, gian khổ, hy sinh vẫn không hề nhỏ. Có lần đoàn vận tải do “cặp đôi” Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa chỉ huy gặp gió bão, phải ghé vào đảo  Phú Quốc để tránh. Gần một tháng nằm tại đây, cả đoàn phải đào củ chuối rừng ăn cầm hơi... Cứ như vậy, suốt mấy năm liền, đi đi, về về trên Vịnh Thái Lan, đơn vị đã vận chuyển được hàng trăm tấn vũ khí, hàng hóa về Nam Bộ. Những chiến công thầm lặng đó đã tạo tiền đề cho ý tưởng vĩ đại mở con đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông.

... Đến mở đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Năm 1960, phong trào cách mạng ở miền Nam phát triển mạnh mẽ, mở đầu là phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre rồi lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ.  Nhu cầu vũ  khí cho chiến trường miền Nam rất lớn. Con đường Trường Sơn đang hình thành. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và đưa thuyền ra Bắc để nhận vũ khí, đồng thời nghiên cứu con đường vận chuyển chiến lược trên biển để sử dụng lâu dài. Từ cuối năm 1961, đầu năm 1962, lần lượt 6 thuyền gỗ của các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bà Rịa, Trà Vinh (trong đó thuyền gỗ Cà Mau do Bông Văn Dĩa phụ trách) đã ra đến miền Bắc an toàn. Con đường vận chuyển trên biển Đông khẳng định là “có thể đưa vũ khí vào được”.

Lê Văn Một lúc đó đang tập kết ngoài Bắc, làm Cảng trưởng cảng Cẩm Phả, được điều chuyển ngay về Đoàn 759 - Bộ Quốc phòng (tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân) chuẩn bị làm nhiệm vụ đặc biệt này, nhiệm vụ mở đường đưa vũ khí từ Bắc vào Nam trên những “con tàu không số”. Phải nói rằng cấp trên đã khéo chọn, khéo sắp xếp một “cặp bài trùng”, Lê Văn Một - Thuyền trưởng, Bông Văn Dĩa - Chính trị viên, cùng chung chuyến mở đường, cũng như họ đã từng kề vai sát cánh trên Vịnh Thái Lan thời chống Pháp đưa vũ khí về Nam Bộ. Họ đã biết tính nết nhau, tôn trọng nhau, đoàn kết yêu thương nhau, chèo lái “con tàu không số” đầu tiên vượt biển Đông mở đường tiếp viện quan trọng đưa vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ.

Ngày 11-10-1961, tại Bến K15, Đồ Sơn, Hải Phòng (Bến K15 vừa được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp quốc gia), con tàu gỗ Phương Đông 1 lặng lẽ nhổ neo ra khơi, hướng về phía Nam, chở 30 tấn vũ khí, mang  theo cả niềm tin, tình thương của Đảng, của Bác Hồ, của nhân dân miền Bắc tới đồng bào miền Nam. Chuyến đi mở đường đã thành công. Một lần nữa hai người chỉ huy Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa lại ghi tên mình vào trang sử vẻ vang của dân tộc.

“Người đi lo một, người chờ tin lo mười”

Phó thủ tướng Phạm Hùng ngày đó đã căn dặn 12 thành viên con tàu gỗ Phương Đông 1 trước giờ xuất phát: “Đây là chuyến đi đầu tiên, nên cực kỳ quan trọng, một việc hệ trọng và lâu dài, do vậy nếu gặp địch phải khôn khéo, mưu trí, trường hợp xấu phải hủy hàng, hủy tàu để giữ bí mật con đường, các đồng chí nên nhớ, người đi lo một, người ở lại chờ tin, lo mười...”.

Ông Sáu Lai, một trong hai người còn lại của tàu Phương Đông 1, hiện sống tại Cần Thơ, kể lại: “Có lần gặp tàu địch bám theo hướng chạy của ta, chúng nã pháo dữ dội. Anh em nhanh trí xổ cả buồm lái và mũi cho thuyền căng gió lướt trên ngọn sóng. Chỉ huy tàu phát lệnh chiến đấu. Toàn tàu xác định, khi cần dùng tốc độ vượt lên, để tàu địch phía sau, rồi cho nổ bom phá áp tàu giặc, dùng tiểu liên, lựu đạn đánh địch, người lái thì cứ cho tàu chạy thoát. Nếu không thoát thì cho nổ 3 trái bom còn lại, quyết không để tàu và vũ khí rơi vào tay giặc. Một và Dĩa dự kiến, nếu địch bắt cả tàu thì lợi dụng trời tối cắt dây cho anh em bơi vào bờ, còn Một và Dĩa ở lại dùng bom thủ tiêu tàu. Một nói với Dĩa: Nếu phải thủ tiêu để một mình tôi thôi! Anh cùng anh em may ra còn sống sót về Trung ương báo cáo...”.

Có lúc, gặp giông bão, tàu nhỏ, chở đầy hàng rất nguy hiểm, không vào bờ, dễ “chết ở ngoài khơi”, vào bờ dễ “làm mồi cho giặc”, Thuyền trưởng Một và Chính trị viên Dĩa phải tính toán cân nhắc đến mức căng thẳng.

Người đi trên biển thì như vậy, người ở nhà chờ tin thì sao? Trung tướng Đồng Văn Cống, nguyên Cục phó Cục Tác chiến, người trực tiếp theo dõi diễn biến của “con tàu không số” đầu tiên, kể lại: “Theo kế hoạch dự kiến đi 5 ngày thì đến. Sáng nào đến giờ giao ban Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng hỏi: “Thế nào rồi? Có tin tức gì không?”... Tôi sốt ruột lắc đầu, rồi ngày thứ sáu, thứ bảy, thứ tám cũng không tin tức gì! Sáng ngày 19-10-1962, tức ngày thứ chín, Quân ủy Trung ương đang giao ban. Tôi bước vào. Đại tướng ngẩng đầu nhìn tôi đăm đăm. Lần này tôi gật đầu, mặt tươi sáng. Đại tướng đứng dậy ôm chầm lấy tôi, Đại tướng khóc. Mừng quá, không sao kể xiết...”.

Chuyến đi thắng lợi, tàu Phương Đông 1 đã cập bến Vàm Lũng - Cà Mau an toàn sau 9 ngày lênh đênh trên Biển Đông.

Một năm sau, Lê Văn Một lại được cử  làm thuyền trưởng tàu gỗ 41, đưa vũ khí vào miền Đông Nam Bộ, mở bến Lộc An (Bà Rịa - Vũng Tàu) ngay trước đồn Phước Hải, đêm 3-10-1963. Đây là một chuyến đi gian khổ bởi tàu bị mắc cạn ngay trước đồn địch. Lê Văn Một đã ứng xử rất linh hoạt, thông minh, bảo đảm đưa hàng tới bến an toàn. Hai chuyến đi này đều ghi những dấu ấn đặc biệt trong hành trình vận chuyển vũ khí bằng đường biển của những “con tàu không số”. Đây là những chuyến mở đường, vào bến mới, đầy khó khăn và thử thách. Bằng kinh nghiệm đi biển, bản lĩnh dày dạn, đặc biệt là tinh thần quả cảm “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Thuyền trưởng Lê Văn Một đã xử trí rất thông minh nhiều tình huống phức tạp trong hiểm nguy và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Lê Văn Một mất năm 1982. Chiến công của ông đã được ghi trong Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, được đánh giá cao trong tập chuyên khảo mang tên “Đường Hồ Chí Minh trên biển Bà Rịa - Vũng Tàu” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1993. Ba năm sau ngày ông mất, Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp với gia đình tổ chức cuộc họp mặt, đánh giá công lao đóng góp của ông trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là thành tích đóng góp cho việc mở đường, vào những bến mới trên con đường Hồ Chí Minh trên biển. Ông được Nhà nước công nhận liệt sĩ và  truy tặng Huân chương Độc lập hạng ba vì những đóng góp của ông vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng của tập thể tàu Phương Đông 1 mà người chèo lái con tàu đó là Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa, những con người đã dũng cảm đi tiên phong, “khai sơn phá thạch” một con đường, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu sẽ mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng kiên cường của dân tộc ta, trở thành huyền thoại mãi mãi không bao giờ nhạt phai trong tâm trí chúng ta, làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159792/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 02 Tháng Mười Một, 2011, 12:32:04 am
Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 2)

Kỳ 2: Thuyền trưởng tàu sắt đầu tiên

QĐND - Đại tá Trần Văn Tú – cán bộ Ban liên lạc truyền thống “Đường Hồ Chí Minh trên biển” giới thiệu với chúng tôi một cách trân trọng và cảm phục về một người thuyền trưởng đã tham gia chở vũ khí vào miền Nam từ những ngày đầu trên con đường biển mang tên Bác. Người đã chỉ huy chuyến tàu sắt đầu tiên, có 10 chuyến đi thành công, một con số thật đáng nể phục trong những năm tháng khó khăn, ác liệt bởi sự phong tỏa gắt gao của kẻ thù. Theo lời giới thiệu, chúng tôi tìm đến phường Đằng Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng gặp ông. Ông là Nguyễn Ngọc Ảnh, Thuyền trưởng của những con tàu không số năm xưa.

Làng Lũng những ngày đầu tháng Tám, đúng tiết ngâu, mưa bay lất phất. Những hạt mưa gợi lại bao ký ức xa xưa, trong không gian thoáng đãng còn phảng phất hương thơm của làng hoa lâu đời. Ông ngồi đó, đối diện với tôi, ở tuổi 80, ông không được khỏe lắm, ngoại trừ đôi mắt sáng và minh mẫn.

Ông là đồng hương của Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Tương và Nguyễn Văn Hiệu những người con ưu tú đất Quảng Nam anh hùng đã ra đi cùng những huyền thoại về Đoàn tàu không số vượt sóng gió ra khơi trong những đêm đen, bão gió, đưa vũ khí về miền Nam. Đó cũng là những ngày tháng có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông. Ông tự hào về điều đó. 10 chuyến đi là 10 chuyến an toàn, 10 chuyến thành công.

Nguyễn Ngọc Ảnh tập kết ra Bắc năm 1954, làm cán bộ trong ngành đường sắt, tuyến đường Hà Nội - Lào Cai; sau đó chuyển về Nhà máy dệt Nam Định, rồi học lớp Sơ cấp Hàng hải và được điều về làm Thuyền trưởng tàu đánh cá của Xí nghiệp đánh cá Hạ Long. Trước yêu cầu vận chuyển đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam, đầu năm 1962 ông và một số anh em trong Xí nghiệp đã nhập ngũ vào Đoàn 759 - tiền thân Đoàn 125 sau này.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/8/080911tonha0321422978.jpg)
Một chiếc tàu sắt của đoàn tàu không số trên đường chở vũ khí vào Nam (Ảnh thu được từ tài liệu của Mỹ-ngụy).

Chuyến đầu tiên ông tham gia chở vũ khí vào miền Nam là chuyến tàu sắt, do Xưởng đóng tàu III đóng. Đây là lần đầu tiên thử nghiệm con tàu do ta đóng và cũng là lần thử nghiệm cho một tuyến đi mới của đơn vị.

- Khi nhận con tàu sắt còn nguyên mùi sơn mới, anh em rất phấn khởi, nhưng không khỏi lo lắng vì chưa kịp tìm hiểu kỹ các tính năng của tàu đã nhận lệnh lên đường. Trước đó, năm 1962 ta đã sử dụng các tàu gỗ gắn máy chở vũ khí vào miền Nam, loại tàu này chỉ đi sát bờ, không ra biển xa được. An toàn đấy nhưng hiệu quả vận chuyển thấp. Trước yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam, phải có những con tàu vận chuyển tốt hơn, trọng tải lớn hơn và đi biển trong mọi thời tiết. Con tàu này có trọng tải 50 tấn, lắp máy của Cộng hòa Dân chủ Đức - loại máy tốt nhất lúc bấy giờ. Tàu chịu được sóng cấp 7, cấp 8, mớn nước nông, có thể ra vào dễ dàng các kênh rạch ở Đồng bằng Nam Bộ.

Ngày 17-3-1963, từ bến K20-Hải Phòng chúng tôi lên đường. Đồng chí Đạt - Phân đội trưởng tàu tuần tiễu được điều sang làm Thuyền trưởng, tôi là Thuyền phó, đồng chí Nguyễn Văn Tiến nguyên là thành viên của đội tàu Bến Tre ra Bắc hai năm trước làm Chính trị viên.

Buổi chiều mùa đông hôm đó trời u ám, mây vần vũ xám xịt, sóng gió cấp 7, cấp 8. Tàu ra khơi. Phải đi vào những ngày sóng như vậy, nguy hiểm đấy, nhưng mới an toàn vì ít chạm tàu địch.

Ông Ảnh ít cười khi nói chuyện, có một nỗi buồn nào đó phảng phất trong đôi mắt mở to đau đáu kia. Sự suy tư hay những ký ức xưa hiện về trong buổi trò chuyện này? Lặng im một lát, ông kể tiếp:

- Trong đêm tối mịt mùng, càng ra khơi sóng mỗi lúc càng to. Gió thổi ràn rạt. Mặt biển tím sẫm. Thiết bị quan sát chỉ có 1 la bàn lái chính, 1 la bàn chuẩn ở trên cao để quan sát trăng sao, núi non. Chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm đi biển. Tàu đi về hướng đảo Hải Nam, vượt qua Đông Nam quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… hướng về phía Nam. Qua mấy ngày đêm vật lộn với sóng gió, tuy rất mệt nhưng ban chỉ huy tàu vừa phải bảo đảm công tác chỉ huy, vừa phải quan sát chi tiết những vị trí, nhận dạng trên đường, làm tiền đề cho những chuyến sau. Sóng gió quần dữ, anh em thủy thủ mệt nhoài vì say sóng. Bụng đói, thèm một chút cháo nóng mà nồi cháo cứ đổ nước vào, mỗi lần tàu nghiêng lại hất tung cả bếp, cả cháo ra. Phải đi biển mới biết nấu ăn trên tàu khi sóng lớn cực đến mức nào, không kiên nhẫn chắc không làm nổi. Anh Trần Lộc, người Quảng Nam, có sáng kiến nắm chặt hai quai nồi và nhấc lên mỗi khi tàu lắc mạnh. Vậy mà mấy tiếng sau cũng được nồi cháo cầm hơi... Vượt qua đảo Cù Lao Thu, tàu hướng thẳng vào cửa Ba Động. Khi bắt được tín hiệu, chuẩn bị vào bến thì bất ngờ được tin báo địch tổ chức càn quét, vây hãm khu vực này, chúng tôi chuyển hướng sang bến Bát Sát, nay là cửa Hàm Luông (Trà Vinh).

Vòng vèo mãi theo con thuyền nhỏ dẫn đường lặng lẽ, mập mờ phía trước, chúng tôi cho tàu vòng xuống bến, đó là đêm 23 rạng ngày 24-3-1963. Đang chạy, bỗng tàu khựng lại! Tàu bị sục cạn. Mọi cố gắng của chúng tôi đều bất thành. Chi bộ hội ý chớp nhoáng quyết định cho anh em sơ tán, mang cả súng 12,7mm, CKC, AK lên rừng đước đề phòng nếu quân địch đến thì chiến đấu. Tôi cùng máy trưởng Kiên và đồng chí Nuôi ở lại trên tàu, tùy tình huống xử trí. Khoảng 11 giờ, có tiếng máy bay tới gần, ngó nghiêng. Bình tĩnh, chúng tôi lấy cờ ba que treo lên như những tàu đánh cá của dân miền Nam, phía trên khoang tàu rải mấy tấm lưới ra phơi. Máy bay địch vẫn quần đi quần lại nhưng không phát hiện thêm điều gì. Đến chiều tối, nước bắt đầu lên, người trong bến đón chúng tôi vào bờ. Tại đây, dân quân và bộ đội địa phương đã bố trí lực lượng đón và tiếp nhận vũ khí an toàn.

Tôi nhớ bữa đó, do tàu bị sục cạn, cánh chân vịt bị cong vênh không chạy được. Một xưởng sửa chữa cơ động dựng lên. Chúng tôi lấy gỗ đóng dưới tàu. Khi nước xuống, con tàu nằm cao trên đà. Anh Kiên người Trà Vinh - thợ máy tàu - có sáng kiến dùng đèn khò xì vào cánh chân vịt cho mềm, dùng búa gõ, nắn cho thẳng. Hì hụi hơn một tuần thì gò xong 4 cánh chân vịt. Nghỉ ngơi lại sức chúng tôi trở về miền Bắc. Chuyến về êm xuôi, lợi gió, lợi nước, tàu chạy nhanh và cập bến Đồ Sơn an toàn.

Sau chuyến đi đầu thắng lợi, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tổ chức gặp gỡ và liên hoan chúc mừng chúng tôi. Phó thủ tướng Phạm Hùng và Thượng tướng Trần Văn Trà cùng dự liên hoan. Anh em rất phấn khởi vì được Phó thủ tướng khen ngợi và tặng quà.

Từ kinh nghiệm của chuyến đi đầu, các chuyến sau chúng tôi thường cho tàu cập bến Láng Nước (tỉnh Cà Mau), bến này sâu lại có nhiều rừng đước nên cập tàu thuận lợi và an toàn hơn. Suốt 6 năm làm nhiệm vụ, tôi đã đi 10 chuyến thành công. Riêng chuyến thứ 5 tàu của chúng tôi đụng phải khu trục hạm của Mỹ, do chủ động phát hiện từ xa, nên đã nhanh trí kịp thời chuyển hướng và chuyển hàng tới bến an toàn...

Giờ đây, với ông, tổ ấm là ngôi nhà nhỏ rợp bóng cây ở làng Lũng - làng hoa, với đủ màu sắc của vùng đất nổi tiếng trồng hoa thành phố, nơi ông bà sống sum vầy cùng các con cháu đã trưởng thành. Ở đó là sự yên bình, đầm ấm, ở đó là những khoảng lặng cần thiết để ngẫm ngợi về những ngày gian khó, ác liệt nhưng hào hùng của những người lính vận tải biển. Vẫn đôi mắt sáng mở to, ông ngồi lặng nhìn ra vườn táo xanh mướt mát kia với ánh nhìn tưởng chừng như lơ đãng mà vẫn ẩn dấu ưu tư. Dường như, ông vẫn thấy bóng dáng còn tàu nhỏ bé năm xưa qua làn mưa ngâu bay lất phất, vẫn thấy gương mặt thân yêu của đồng đội và hy vọng vào ngày gặp mặt...

Ra về, lòng tôi cứ vấn vương mãi hình ảnh về ông, về đôi mắt sáng, tinh tường, mưu trí, dũng cảm của người thuyền trưởng năm xưa đã tham gia chỉ huy chuyến tàu sắt đầu tiên, đã đi 10 chuyến thành công, đưa vũ khí về giải phóng quê hương, góp phần làm nên trang sử huyền thoại của con đường biển mang tên Bác Hồ kính yêu...

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159970/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 03 Tháng Mười Một, 2011, 11:04:24 am
Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 3)


Kỳ 3: Từ du kích trở thành thuyền trưởng

Từ một du kích trưởng thành thành một thuyền trưởng “tàu không số” dày dạn kinh nghiệm với hàng chục chuyến chở vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ. Mỗi chuyến đi là một câu chuyện, một kỷ niệm, nhưng theo ông hồi ức đáng nhớ nhất là “chuyến đón tàu Phương Đông 1 của Chính trị viên Bông Văn Dĩa, Thuyền trưởng Lê Văn Một, ngày 16-10-1962 tại Vàm Lũng-Cà Mau...”. Ông là Nguyễn Xuân Thơm, hiện sống tại 15/7A Đoàn Như Hài, phường 12, quận 4, TP Hồ Chí Minh.

Ông kể, cuộc đời trai trẻ của mình đã gắn trọn với con đường vận chuyển trên Biển Đông, chở vũ khí cho miền Nam đánh Mỹ. Ông đã tham gia 16 chuyến vượt biển, 10 chuyến thành công, đã từng chỉ huy Tàu HQ-673 chở các lực lượng đặc công đi giải phóng quần đảo Trường Sa, nhưng thực sự câu chuyện “đón chiếc tàu Phương Đông 1 của bác Một, bác Dĩa” làm ông nhớ mãi, không sao quên được.

Nguyễn Xuân Thơm sinh ra và lớn lên ở xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Từ nhỏ đã được chứng kiến sự độc tài, thối nát của chế độ gia đình họ Ngô. Luật 10/59 của Ngô Đình Diệm đã lê máy chém đi khắp miền Nam gây ra bao nhiêu tội ác dã man với đồng bào. Quê hương, xóm làng bị chìm ngập trong cái gọi là “khu trù mật”. Căm thù giặc Mỹ, Nguyễn Xuân Thơm đã đi theo cách mạng, vào vùng giải phóng, gia nhập đội dân quân du kích Ấp 7 ở quê hương, sau đó ông được chuyển về trung đội du kích xã làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ căn cứ cách mạng, tính mạng và tài sản nhân dân.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/9/09092011tcq15192951968.jpg)
Ông Nguyễn Xuân Thơm (bên trái) cùng đồng đội.

Ông kể, ngày đó cơ sở vật chất cách mạng còn nghèo nàn lắm. Để chống lại các cuộc càn quét của giặc hay phá tan các “khu trù mật” mở rộng vùng giải phóng, đơn vị ông chỉ có trang bị vũ khí thô sơ như súng kíp, lựu đạn, mìn tự tạo, vũ khí đạp lôi làm bằng chai đựng nước, và một loại vũ khí không thể thiếu được đó là chông hầm và chông bàn (đây là loại vũ khí được coi là lợi hại nhất)... Ngoài ra còn có hai khẩu súng trường, ba súng kíp tự làm bằng ống xe đạp cộng với một số lựu đạn lấy được của giặc và lựu đạn mỏ vịt tự làm.

- Vũ khí thô sơ, thiếu thốn. Vậy mà hai năm trời đơn vị phải chiến đấu với hàng chục trận càn của địch, đối đầu với hàng trăm tên địch được trang bị nhiều vũ khí hiện đại, cùng nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, san bằng khu trù mật, thủ tiêu chính quyền ngụy, lập lại chính quyền cách mạng, xây dựng quê hương làng xóm thân yêu của mình! Ông kể với giọng đầy sôi nổi, tự hào, gương mặt ánh lên niềm vui rạng rỡ.

Khoảng giữa năm 1962, ông và một người đồng chí được chuyển công tác về đơn vị mới mà “hoàn toàn chưa biết gì về đặc điểm và tính chất hoạt động của nó”. Về sau mới biết đó là đơn vị TN-3175, thuộc quân khu miền Tây Nam Bộ, trực thuộc Trung ương Cục miền Nam. Tại đây anh em luôn được sự đùm bọc của nhân dân xóm “ấp Máng Gào” thuộc xã Viên An-căn cứ cách mạng hồi kháng chiến chống Pháp, mang truyền thống của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai của anh hùng Phan Ngọc Hiển năm xưa, giờ còn gây tiếng vang khắp vùng. Nơi đây đã trở thành căn cứ cách mạng kháng chiến. Nhiều đồng chí khác từ các xã: Khánh Bình Tây, Khánh Bình Đông, Khánh Lâm thuộc huyện Trần Văn Thời... cũng được điều về đơn vị. Mọi người sống vui vẻ, chan hòa như anh em một nhà, hằng ngày được học tập chính trị, phổ biến nắm bắt tình hình nhiệm vụ mới. Sau mười ngày học tập đơn vị phân công mỗi người một nhiệm vụ khác nhau.

- Tôi được phân về trung đội vũ trang bảo vệ căn cứ và cơ quan, còn các bộ phận khác đều có nhiệm vụ riêng. Sau đó chúng tôi được Trung ương giao nhiệm vụ chuẩn bị mua ghe tàu, lắp máy trang bị ngụy trang, lo giấy tờ hợp pháp trong vùng địch. Sau ba tháng tích cực chuẩn bị, lo lót chính quyền ngụy, chúng tôi đã có ghe, đầy đủ các loại giấy tờ hợp pháp như giấy đăng ký ghe, thuyền, giấy ngư phủ, giấy hành nghề của hợp tác xã đánh cá của ngụy. Tất cả đã sẵn sàng. Ông Thơm kể.

Một ngày đầu tháng 10-1962, đơn vị nhận được lệnh sẵn sàng ghe, thuyền để đón nhận vũ khí từ miền Bắc vào. Kể sao hết niềm vui sướng của anh em bến bãi trước tin vui này. Mọi người phấn khởi, hối hả làm việc quên cả ngày đêm, kiểm tra ghe, lưới, sửa chữa máy móc, ngư cụ... Vậy là đồng bào miền Nam sẽ có vũ khí hiện đại để chống lại các cuộc càn quét, tấn công tận sào huyệt tiêu diệt kẻ thù, mở rộng vùng giải phóng. Từ hôm đó, 4 anh em gồm: Tư Lưới - người được giao nhiệm vụ phụ trách bến, Chín Thuân, Dũng (Miên) và ông Thơm hằng đêm đưa ghe ra biển giả vờ đánh bắt cá để nắm tình hình. Ban ngày, anh em lại thu lưới vô rừng ẩn giấu.

- Những ngày ấy căng thẳng đến ngộp thở. Ông Thơm bùi ngùi nhớ lại. Chúng tôi ngày không dám ngủ, nơm nớp hồi hộp chờ đêm xuống là ra biển ngay. “Ngư trường” của chúng tôi cách bờ từ 3 đến 10 cây số, anh em thay nhau trực canh, mắt luôn nhìn ra biển, hướng đến những dấu hiệu nhỏ nhất, kể cả một ánh chớp lạ trên mặt biển đen bầm thẫm mênh mông. 10 ngày đêm chỉ với mỗi việc giả vờ thả lưới, rồi lại kéo lên, trong một khu vực. Mỗi khi thuyền trôi khỏi “ngư trường”, anh em lại điều khiển ghe ngược dòng, về vị trí cũ, rồi lại thả lưới. Cứ thế! Công việc thật vất vả! Tấm lưới đâu có nhỏ bé chi! Dài tới 200-300 mét. Kéo lên, thả xuống! Ai đấy đều mệt nhoài! Nhưng cứ nghĩ tàu sắp chở vũ khí về, mọi mệt mỏi tiêu luôn! Nhưng cũng chính sự “làm việc tích cực đó” đã che mắt, đánh lạc hướng bọn địch!

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/9/09092011tcq14192948421.jpg)
Ông Nguyễn Xuân Thơm cùng người nhà bên mộ Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa.

Kể đến đây ông cười giòn giã, ánh lên niềm vui sướng khiến chúng tôi cũng phải bật cười mà nước mắt cứ chực trào khi hình dung cảnh kéo lưới “nghi binh” suốt 10 đêm mịt mùng của 4 chàng “lực điền” mà “chẳng bắt được con cá nào...”.  Đến ngày thứ 11, khoảng 6 giờ sáng ngày 16-10-1962, mọi người nhìn thấy một chiếc tàu rất to thấp thoáng, xa xa ngoài cửa Vàm Lũng, sóng nước bọt trắng xóa.

- Treo cờ tín hiệu lên! Tư Lưới vui mừng ra lệnh. Đèn pin đâu? Sáu Thơm khẩn trương đánh tín hiệu đèn pin! Không khí trên ghe sôi động hẳn. Hồi hộp, tôi lấy chiếc đèn pin, có bịt giấy đỏ để hở một lỗ nhỏ, đánh liền ba chớp dài. Ngoài kia, con tàu vẫn lừ lừ chạy theo hướng sát mép bờ, trên đỉnh có treo cờ và rồi, hai chớp đèn pin nháy dài đánh tín hiệu trả lời.

- Đúng rồi! Đúng tàu ta rồi! Chúng tôi reo to, ôm chầm lấy nhau sung sướng! Hoan hô! Tàu ông Dĩa đã về! Chúng tôi tiếp tục đánh tín hiệu đèn pin, ra lệnh: “Anh đi theo tôi!” Chiếc tàu lù lù, lừng lững đi vào hướng bến, tới rạch Chùm Gọng.

Chuyến vận chuyển vũ khí đầu tiên vào miền Nam đã thành công. Mọi người nghẹn ngào, ùa đến, tay bắt mặt mừng, ôm hôn thắm thiết thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bông Văn Dĩa, thợ máy Năm Sao, Sáu Lai, Năm Kỷ... những người con anh hùng của đồng bào miền Nam, đã vượt qua vòng vây phong tỏa của giặc thù, qua phong ba bão tố chở vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh Mỹ. Niềm hạnh phúc thật lớn lao! Hàng chục chiếc ghe, xuồng lập tức ghé tới bốc hàng. Những thùng vũ khí còn nguyên mùi sơn mới, mùi khét dầu mỡ, nhanh chóng được vận chuyển cất giấu ở nơi khác. Suốt 3 ngày đêm vất vả mới vận chuyển hết số hàng và vũ khí tàu Phương Đông 1 chở về.

Vậy là con đường biển nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn không còn là dự định, là mong ước mà đã trở thành hiện thực. Chuyến đầu tiên thắng lợi làm tiền đề cho những chuyến đi tiếp đó thành công. Chúng tôi đã liên tục đón thêm 3 chuyến tàu nữa tại đây. Đồng chí Tư Đức - người phụ trách bến vui mừng khôn xiết, xúc động nói với các cán bộ, thuyền viên: “Các đồng chí không chỉ đưa vũ khí vào cho chúng tôi, mà còn mang cả tình thương của Đảng, của Bác, của đồng bào miền Bắc với miền Nam ruột thịt; tiếp sức để miền Nam chiến đấu giải phóng quê hương”.

Một năm sau, tôi ra Bắc nhận nhiệm vụ mới và đã trải qua nhiều chuyến đi, nhiều trận chiến đấu, tôi đã trưởng thành, từ một chiến sĩ trở thành thuyền trưởng của Đoàn tàu Không số anh hùng và huyền thoại trên Biển Đông.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160053/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 04 Tháng Mười Một, 2011, 09:47:26 am
Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 4)


Kỳ 4: Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử

21 tuổi nhập ngũ, 35 tuổi hy sinh, đó là những dòng tiểu sử ngắn ngủi, bình dị của Trung úy, Thuyền trưởng tàu Hải quân Nguyễn Phan Vinh (1933-1968). Năm 1970, anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã được mang tên anh, đảo Phan Vinh.

Gia đình người anh hùng

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã có một con đường xẻ dọc Trường Sơn mà hễ nhắc đến là lại liên tưởng tới những sự tích thần kỳ. Song, ngoài con đường ấy, còn có một con đường khác nữa, đó là con đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam trên Biển Đông với một nét độc đáo, sáng tạo như thần thoại, với biết bao kỳ tích cảm động về lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình của những người chiến sĩ Đoàn tàu không số và tình cảm gắn bó keo sơn với quân dân các bến đỗ ở miền Nam. Đó là con đường huyền thoại: Đường Hồ Chí Minh trên biển và tên tuổi Nguyễn Phan Vinh gắn liền với tên con đường ấy.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/10/100911tonha05172538609.jpg)
Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phan Vinh. Ảnh tư liệu.

Nguyễn Phan Vinh là người con ưu tú của mảnh đất Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam (cũ) sinh ra trong một gia đình cách mạng. Tháng 3-1968, anh hy sinh ở Hòn Hèo thì cuối năm ấy, cha của anh, người du kích tên là Nguyễn Đức Mẫn cũng hy sinh trong một trận chống càn tại quê nhà. Mẹ anh mất trước đó 5 năm, (năm 1963) vì bị địch bắt, đánh đập, tra khảo dã man.

Năm bà ra đi cũng là năm người con trai thứ hai, Nguyễn Đức Lân ngã xuống trên chiến trường Quảng Nam. Người duy nhất còn lại trong gia đình là anh Nguyễn Đức Xử. Một người bạn của tôi trong đợt đi làm phim về “Tàu không số” kể chuyện đã được nghe anh Xử nói về người em trai của mình: “Phan Vinh tuy là con út trong gia đình, nhưng ngay từ nhỏ đã là người cứng cỏi, quyết đoán, và đặc biệt là giàu lý tưởng”.

Có lẽ chính từ cái cứng cỏi, quyết đoán và giàu lý tưởng cách mạng đó đã làm nên một Phan Vinh với chiến công oanh liệt trên vùng biển Hòn Hèo.

Tàu 235 - bản anh hùng ca bất tử trên vùng biển Hòn Hèo

Hòn Hèo là tên chung chỉ vùng biển và dãy núi chạy qua hai xã Ninh Phước, Ninh Vân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Hòn Hèo cách Nha Trang khoảng hơn 10km đường biển. Nơi đây, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội đã hy sinh cùng Tàu 235 vào năm 1968.

Thời kỳ đó, kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường “cực kỳ nguy hiểm” này. Không quân, Hải quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn tung lực lượng khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên mặt biển đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia từng tổ bố trí tàu chiến ngăn chặn và lắp đặt ra-đa quét sóng đêm ngày. Trên trời và trong đất liền cả đêm lẫn ngày, chúng cho lính và máy bay trinh sát, tuần tra, canh phòng.

Ông Long An, một trong 5 người sống sót đã kể lại chuyến đi của Tàu 235.

- 11 giờ 30 phút ngày 27-2-1968, Tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm. Một tài liệu của Pháp viết rằng, tàu muốn ra vào Hòn Hèo phải có những tay thuyền trưởng lão luyện, với trên dưới 20 năm tuổi nghề.

Trung úy Nguyễn Phan Vinh tuy chưa có tuổi nghề cao nhưng được tin cậy chỉ huy con tàu này. Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ; Chính trị viên: Nguyễn Tương, Thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi, Thuyền phó 2: Võ Tá Tu, máy trưởng: Trương Văn Mùi. Tôi là thợ máy trên Tàu 235.

Trước giờ nhổ neo, chiến sĩ Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện nên đội hình còn lại 20 người. Chúng tôi đi hai ngày đêm trên vùng biển quốc tế. Tối 29-2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào bờ. Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, 12, 617 và 4 tàu khác của Duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống...

Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điều khiển Tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1-3-1968. Anh quyết định thực hiện phương án 2, cho thả hàng xuống nước để quân dân ở bến mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt lăn xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây ở phía sau, phía trước là núi.

Phan Vinh cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân chừng độ mươi hải lý, nhằm mục đích giữ bí mật không để lộ vị trí thả vũ khí. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội rồi bật đèn pha và gọi máy bay đến thả pháo sáng, bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.

Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu. Anh tự băng bó và vẫn đứng trong buồng lái động viên mọi người chiến đấu. Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.

Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100m, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu. Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ.

20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1-3, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khối thuốc nổ khiến Tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm xuống biển, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Sau những phút giây bàng hoàng, địch gọi máy bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ Tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục.

Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, và cuối cùng, lực kiệt, vết thương ngày một nặng, súng không còn đạn, các anh đã hy sinh. Số thủy thủ của Tàu 235 còn lại 7 người, đó là Thuyền phó Nhi và 6 thủy thủ: Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến và tôi. Tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo.

Mười ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới hay, Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng. Nhưng anh không còn ở đó nữa, chỉ thấy mảnh áo rách và cuốn băng cá nhân, máu đã khô...

Về sự kiện này, tạp chí Lướt sóng của Hải quân ngụy Sài Gòn viết: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho Mặt trận Giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết”...

Kể đến đây, ông Long An lặng đi, đôi mắt đỏ hoe. Đưa tay gạt những giọt nước mắt, ông nói tiếp:

- Phan Vinh là một thuyền trưởng giỏi, anh đã có 11 chuyến vận chuyển vũ khí thành công, dũng cảm, quyết đoán, sống chân thành, được anh em quý mến. Tôi chỉ tiếc chẳng giữ được chút kỷ vật nào của người thuyền trưởng anh hùng ấy.

Những dòng thư đầy ắp niềm tin và lý tưởng cách mạng

Điều mà ông Long An day dứt phần nào đã được giải tỏa bởi tại Bảo tàng Hải quân hiện còn lưu giữ những bức thư của Phan Vinh gửi người bạn thân là Trần Phong (đồng chí Trần Phong - nguyên Quyền đoàn trưởng Đoàn 125 Hải quân). Trần Phong và Phan Vinh là đôi bạn thân. Họ cùng quê, cùng tập kết ra Bắc, cùng học ở Trung Quốc và cùng về Quân chủng Hải quân làm thuyền trưởng. Những lá thư anh viết khi đang ở tại căn cứ trên nước bạn, chuẩn bị cho những chuyến đi.

Lá thư Trần Phong nhận ngày 26-10-1967, có đoạn:

“Chúng ta phải là những con lạc đà trên bãi sa mạc, mỗi bước đi, mỗi vết chân của chúng ta vì sự nghiệp của Đảng, chúng ta phải là những chiếc cầu chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất. Và khi cần thiết, ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân. Thời gian, thời gian sẽ ủng hộ chúng ta...".

Lá thư gửi tháng 1-1968, trước khi anh hy sinh một tháng, có đoạn: “Phong thân! Mình không ngờ đến nơi đây. Mùa hè đã qua mà nóng ghê, nhưng đâu có nóng bằng cõi lòng người chiến sĩ. Mọi việc ở đây diễn ra bình thường, rất mong ngày “thượng lộ”, ấy thế mà cứ ăn chực nằm chờ mãi, kể cũng ê. Còn những gì tiếp theo nữa thì để lịch sử trả lời. Hẹn gặp Phong vào một ngày vinh quang, điều đó khẳng định... Phong hãy giúp mình biên thư cho anh Xử. Khi nào có dịp mình sẽ biên thư sau, hoặc sẽ có dịp gặp. Mình không muốn biên thư vì mình nghĩ rằng mọi riêng tư lúc này sẽ làm con người ta khó bước tới. Tình cảm đó có lẽ để dành cho sau chiến tranh. Bây giờ thì mình chỉ có một tình cảm duy nhất là hãy bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, con người hoàn toàn không sợ ràng buộc bởi những mối dây nào khác. Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi”.

Phan Vinh và thế hệ thanh niên của đất nước đã đi vào chiến trận với tinh thần lạc quan bởi họ luôn nung nấu một lý tưởng cao đẹp, một niềm tin chắc chắn rằng, sự hy sinh vì nghĩa của mình sẽ được nối tiếp, và sẽ thành công. Trong số các anh, có người không còn nữa, nhưng niềm tin và lý tưởng mà các anh tâm nguyện còn sống mãi.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160097/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 05 Tháng Mười Một, 2011, 12:17:38 am
Chân dung các thuyền trưởng đoàn tàu không số (Kỳ 5)


Kỳ 5: Đồng Xuân Chế: “Biển gọi tôi suốt cuộc đời”

Làng biển Nam Sơn (Nghi Sơn, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) những ngày đầu năm 2011. Từ tinh mơ mờ đất, cha con ông Đồng Xuân Chế đã vác lưới ra biển. Ông đi đến đâu là đánh thức bà con đến đấy bởi giọng nói hào sảng. Đã bước sang tuổi 75 nhưng ông vẫn còn nhanh nhẹn lắm. Tay ông vẫn thoăn thoắt thả lưới, bắt chẻo, câu mực..., vẫn lăn lộn với sóng gió để mang về cho vợ con miếng cơm manh áo.

Ông bảo: "Biển gọi tôi suốt cuộc đời". Có lẽ thế mà tuổi già đã không ngăn cản được bước chân ông. Các con ông cũng muốn bố nghỉ ngơi nhưng ông thì không muốn. Bởi một ngày không làm việc với ông thật xa xỉ.

Sau một ngày đầu năm đi biển lấy may, ông trở về trong tâm trạng phấn khởi nên vừa gặp chúng tôi, ông đã hồ hởi bắt chuyện.

- 35 năm trước, khi mới rời quân ngũ trở về làng, tôi đã được dân làng tín nhiệm bầu là Chủ nhiệm hợp tác xã liên hiệp nghề cá.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/11/110911tonha03155133921.jpg)
Thuyền trưởng Đồng Xuân Chế. Ảnh Trịnh Dũng.

Thời chiến tranh, quê tôi là túi đạn bom của giặc Mỹ, làng mạc bị tàn phá, cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, ngư cụ khai thác cá biển thiếu thốn đủ bề... Trước tình hình đó, tôi đã cùng với chi ủy, chi bộ ra sức động viên nhân dân khắc phục khó khăn đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống. Rồi tôi bàn với anh em bạn hữu động viên dân làng, hãy bám biển mà sống, bỏ biển, bỏ làng là có tội với Đảng và Chính phủ. Nhân dân lắng nghe, họ chủ động đóng thuyền, vá lưới ra biển đánh cá. Chẳng bao lâu, cuộc sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Lúc này, xã có chủ trương cho 30 lao động trong thôn đi học cơ khí và khai thác cá biển để về phục vụ sản xuất. Sau khi chúng tôi đi học về đã trực tiếp hướng dẫn bà con cách đánh bắt, sử dụng ngư lưới cụ và các phương tiên thông tin đi biển. Chúng tôi bắt tay vào đánh bắt, các đoàn tàu đi biển thu về từng khoang cá đầy. Nhân dân phấn khởi, làng biển lúc nào cũng rộn vang tiếng cười.

Ông cho chúng tôi xem những tấm huân huy chương đã nhuốm màu thời gian, nói như khoe: “Đây là những tài sản quý giá nhất của đời tôi. Mỗi lần nhìn nó, tôi thấy đồng đội mình đang ở đó, thấy những cung đường biển đầy sóng và gió mà một thời chúng tôi đã vượt qua”.

Rồi như chạm vào mạch nguồn cảm xúc, ông kể:

… Tháng 9-1970, tôi được điều động về Tàu 54-Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 125 làm thuyền phó 1, nhận lệnh chở 70 tấn vũ khí đi Rạch Gốc (Cà Mau). Chuyến đi này khung cán bộ có anh Hai Đặng là thuyền trưởng, anh Hai Hiệu là Chính trị viên, tôi và anh Chử Thái Bình làm thuyền phó.

Chúng tôi xuất phát tại cảng K35 Hải Phòng. Để tạo yếu tố bí mật, bất ngờ, tàu đã thẳng hướng sang đảo Hải Nam (Trung Quốc), đi dọc phía Đông quần đảo Trường Sa tiếp giáp Phi-líp-pin. Khi đang ở vùng biển Phi-líp-pin thì cơn bão số 8 xuất hiện, tàu nằm trong tâm bão, một cơn bão mạnh cấp 12. Con tàu nhỏ nhoi oằn mình giữa cơn cuồng phong của biển cả. Hòm đạn súng B41, đạn ĐKZ cố định trên mặt boong đều bị bật tung, liệng đi liệng lại trên mặt boong, 2 bộ phận giảm lắc của tàu bị sóng đánh gãy nên tàu rất tròng trành.

Do bão nên việc xác định vị trí tàu bằng thiên văn không thể tiến hành được, buộc chúng tôi phải dùng phương pháp tính nhích dần để xác định vị trí tàu. Để chống chọi với bão lớn, phần đông cán bộ, chiến sĩ đã ngậm sâm làm việc, qua mấy chục giờ mọi người gần như kiệt sức. Hơn một ngày một đêm chiến đấu vật lộn với bão tố, tưởng chừng có lúc bão đã nhấn chìm con tàu nhỏ bé xuống đáy đại dương. Nhưng cũng do có bão lớn nên kẻ thù đã nới lỏng kiểm soát trên biển, vì vậy chúng tôi đã vượt qua vòng kiểm soát của địch.

Chúng tôi chuyển hướng về phía bến nhưng vì thời tiết quá phức tạp không xác định được vị trí tàu, chúng tôi phải chuyển sang xác định vị trí tàu bằng phương pháp nhích dần. Dự tính 3 giờ sáng thì tàu vào bến, song 4 giờ đến 5 giờ, 6 giờ, tàu vẫn chưa phát hiện được bến. Đến 7 giờ sáng thì tàu phơi lưng ở ven bờ Cà Mau. Tình huống nguy hiểm ngoài dự kiến do người ở bến đón dẫn đường chúng tôi chờ quá thời gian hiệp đồng đã rút đi, tàu nằm chềnh ềnh ở ven bờ, nếu địch phát hiện được thì vô cùng nguy hiểm. Không có người dẫn đường, chúng tôi đã nhanh chóng tự tìm rạch để vào. Đang cơ động vào bến, bỗng có máy bay địch ở sân bay Bạc Liêu gần đó cất cánh đi tuần ven biển, toàn tàu sẵn sàng chiến đấu. Nếu địch phát hiện được tàu ta thì đây sẽ là tình huống vô cùng nguy hiểm. Nhưng thật may, địch không phát hiện ra chúng tôi. Hơn một tiếng sau, chúng tôi nhanh chóng đưa tàu vào bến an toàn và tiến hành ngụy trang. Mọi người ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm và phấn khởi vì đã đưa được vũ khí vào tận tay đồng bào, chiến sĩ miền Nam.

Kể đến đây, giọng ông phấn chấn hẳn: Một tuần ở bến bốc xong vũ khí, chúng tôi được lệnh trở về miền Bắc. Tình huống bất ngờ nguy hiểm khác lại đến, đó là vào lúc 19 giờ, tàu được lệnh gỡ ngụy trang, một thuyền máy đuôi tôm B10 của bến chuyển cho chúng tôi một ít hàng. Đang chuyển hàng thì bỗng dưng thuyền máy bị bốc cháy, đạn nổ, tỏa ra một quầng lửa sáng rực. Nghe tiếng đạn nổ và vùng lửa sáng, máy bay địch gần đó đã nhanh chóng cất cánh lùng sục. Lưỡng lự không xử lý nhanh lúc này tàu sẽ trở thành mồi cho đạn bom của giặc. Ban chỉ huy chúng tôi hội ý chớp nhoáng và quyết định cho tàu khẩn trương rời khỏi khu vực nguy hiểm. Nổ máy tăng tốc độ vừa ra khỏi rạch thì máy bay địch ở sân bay Bạc Liêu bám theo sát chúng tôi, ngoài biển thấy đèn tàu địch thấp thoáng, hình như địch đã phát hiện ra chúng tôi và đang đón lõng để bắt sống hoặc tiêu diệt tàu. Chúng tôi báo động toàn tàu sẵn sàng chiến đấu và khôn khéo cho tàu bám bờ đi theo hướng Ghềnh Hào để lợi dụng tuyến bờ che lấp tránh ra đa của địch phát hiện. Khoảng 1 giờ 30 phút sau, quả nhiên địch bị mất mục tiêu, máy bay không bám theo, ngoài biển cũng không thấy tàu và đèn thấp thoáng nữa, chúng tôi nhanh chóng chuyển hướng cho tàu đi về hướng Đông Đông Bắc, 6 giờ sáng thì ra đến hải phận quốc tế. 7 giờ sáng chúng tôi lại thấy một tàu lạ bám theo cả ngày và sau đó đêm thì một chiếc máy bay thay tàu bám theo. Chúng tôi bình tĩnh tiếp tục hành trình coi như không có gì xảy ra.

Đây thực sự là một chuyến đi đầy khó khăn, gian khổ, tàu đã phải vượt qua bão tố và sự truy cản của kẻ địch để chở hàng chi viện cho chiến trường miền Nam. Chuyến đi hơn một tháng đã vắt kiệt sức. Tôi và anh Bình thuyền phó phải đi nằm viện chữa bệnh. Sau khi ra viện tôi nhận quyết định của Đoàn điều động về tàu 56 ở Tiểu đoàn 2 nhận nhiệm vụ mới và sau đó đổi số tàu thành 649-Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 125.

Trung tuần tháng 8-1971, Tàu 649 nhận nhiệm vụ chở 70 tấn vũ khí vào chiến trường miền Nam. Trên tàu, ngoài 18 cán bộ, chiến sĩ còn có 3 đồng chí của Đoàn 126 Đặc công. Đầu tháng 11 tàu xuất phát, đi xuyên qua phía Nam đảo Hải Nam để tạo yếu tố bí mật, bất ngờ đánh lừa Hạm đội 7 của Mỹ, chúng tôi đã lựa chọn cách đi trên các bãi cạn của quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trong chuyến đi này biển lặng nhưng căng thẳng nhất là phải đi lách trên các bãi đá ngầm Hoàng Sa, Trường Sa nên yêu cầu xác định vị trí tàu bằng thiên văn và lái tàu phải thật chuẩn xác, chỉ cần sơ suất một chút là tàu có thể cưỡi lên đá ngầm. Vượt qua nhiều bãi đá ngầm, bãi cạn san hô và ra khỏi quần đảo Trường Sa, xuống phía Nam tàu lách về phía vùng biển Phi-líp-pin.

Đến cuối tháng 11-1971, vào gần đến nơi theo kế hoạch, ban chỉ huy tàu họp bàn nhận định: Đây là thời cơ tốt cần nhanh chóng cơ động vào bến ngay trong đêm thứ bảy, vì lúc đó địch thường hay mất cảnh giác. Nếu đi theo kế hoạch cũ thì sang tối chủ nhật mới vào bến và thả hàng được. Cấp trên nhất trí theo phương án của chi ủy và chỉ huy tàu. 23 giờ chúng tôi đến vùng biển Thái Lan và chuyển hướng về đảo Cô Công (Cam-pu-chia). Chúng tôi bắt liên lạc thả vũ khí, nhưng bến lại trả lời sai tín hiệu. Thời gian thả hàng đã quá gấp, không thể chờ đợi thêm được nữa. Chúng tôi cử đồng chí Phan Đình Nhu và đồng chí Nhật, cùng 2 đồng chí đặc công người nhái tập kích bắt sống người đánh tín hiệu trả lời của bến. Hóa ra đúng là người của ta. Chúng tôi cấp tốc về bến thả hàng, lúc đó là 0 giờ 10 phút, tàu phân công 9 đồng chí trực chiến đấu, còn lại 9 đồng chí bốc vũ khí từ dưới hầm hàng có độ cao 4m và thả xuống biển. Tàu không thả neo, chúng tôi thả hàng thành 2 đống với tốc độ của tinh thần thần tốc. Chỉ với 9 người và trong 3 giờ 10 phút chúng tôi đã đưa lên mặt boong và thả xuống bến 70 tấn vũ khí, trung bình mỗi đồng chí bốc gần 8 tấn vũ khí. Sau khi chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ trở về, đồng chí Lê Duẩn đã đánh giá: “Đây là sức mạnh diệu kỳ”.

Suốt cuộc đời quân ngũ, ông Chế luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Bản thân ông được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương và được tặng ảnh Bác Hồ. Giờ đây, cuộc đời ông đã bắt đầu được hưởng những quả ngọt cuối mùa. Ông khoe với tôi: "Cháu à. Bác thông báo một tin vui đây. Ban liên lạc Cựu chiến binh Đoàn tàu Không số tỉnh Thanh Hóa vừa họp và đề nghị Quân chủng Hải quân xây dựng nhà tình nghĩa cho bác đấy. Bác cũng vừa nhận được chế độ trợ cấp hằng tháng đối với người phục vụ trong quân ngũ trên 15 năm.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160182/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 07 Tháng Mười Một, 2011, 12:20:18 am
Những trang đời huyền thoại (Kỳ 1)


Từ năm 1961 – 1975, trên tuyến “đường Hồ Chí Minh trên biển” đã có 1.789 chuyến tàu không số vận chuyển 150 ngàn tấn vũ khí trang bị và 80 ngàn lượt cán bộ, vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục hơn 4.000 quả thủy lôi, chống chọi hơn 20 cơn bão, chiến đấu hơn 30 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu xuồng của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Để lập nên những chiến công chói lọi ấy, có biết bao người con ưu tú anh dũng chiến đấu và không ít người trong số đó đã ngã xuống giữa lòng biển khơi. Báo QĐND Online trân trọng giới thiệu một số nhân vật tiêu biểu, mà chiến công của họ là những trang đời huyền thoại…

Kỳ 1: Trận đánh quyết tử và những dòng ghi trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”

“Hai chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”. Đấy là câu ví von về cuộc đời mình của ông Trần Ngọc Tuấn, cựu chính trị viên tàu 43, Đoàn tàu không số. Ông nói vậy, bởi trong chín lần vượt biển, thì hai lần đánh chìm tàu để không bị rơi tài sản vào tay giặc, bảy chuyến còn lại đều thành công. Để có được kỳ tích ấy, ông và đồng đội đã anh dũng chiến đấu và không ít người trong số đó vĩnh viễn nằm lại giữa lòng biển xanh…

Trận đánh quyết tử

Nha Trang chiều mưa. Những cơn mưa mùa thu khiến phố biển thêm an lành và mát mẻ. Trong ngôi nhà nhỏ số 9A/1B, phố Đặng Tất, cựu chiến binh đoàn tàu không số Trần Ngọc Tuấn say sưa kể về những kỷ niệm một thời cùng đồng đội vượt biển chở vũ khí, lương thực chi viện chiến trường miền Nam.

Những câu chuyện ông kể nhiều tình tiết, tản mạn và nghe qua có vẻ “hơi rông dài” nhưng chắp nối, sắp xếp các sự kiện, thì chính những điều tưởng chừng tản mạn và rông dài ấy lại là nguồn tư liệu vô giá, đầy chất bi tráng về chiến công của các thế hệ cán bộ, thủy thủ đoàn tàu không số năm xưa đã làm nên con đường huyền thoại – đường Hồ Chí Minh trên biển – Con đường của ý chí và sự sáng tạo Việt Nam…

Năm 1968, cục diện trên chiến trường phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, trước tình hình đó, Bộ Tổng tham mưu tin tưởng giao nhiệm vụ cho Đoàn 759 tham gia vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam, phục vụ Chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân – 1968. Chuyến đi đặc biệt ấy, con tàu mang số hiệu số 43 gồm 17 thuyền viên, do thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và Chính trị viên - Bí thư Chi bộ Trần Ngọc Tuấn chỉ huy. Nhiệm vụ trên giao là tàu 43 chở 37 tấn vũ khí vượt biển vào huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) giao hàng tại bến bí mật.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/5/05092011tcq02180650359.jpg)
Ông Trần Ngọc Tuấn (thứ 4 từ trái sang, hàng đứng) cùng đồng đội trên tàu 43 trước lúc đi chiến dịch Mậu Thân – 1968.

Đêm 27-2-1968, tàu 43 và 3 chiếc tàu khác nhận lệnh xuất bến. Mặt biển đen đặc, gió lạnh thốc từng cơn, những con tàu lầm lũi đè sóng thẳng hướng vào Nam. Tuy đã được chuẩn bị rất kỹ và ngụy trang kín đáo, nhưng trên đường đi, máy bay và tàu chiến địch đã nghi ngờ phát hiện và theo dõi sát sao các hoạt động của tàu ta. Trước tình thế đó, chính trị viên Trần Ngọc Tuấn bình tĩnh động viên anh em giả vờ đánh bắt cá, lòng vòng trên biển suốt 3 ngày đêm. Mặc sóng to, gió lớn, bất chấp hành động quần đảo của máy bay và sự phong tỏa của tàu chiến địch, những thủy thủ tàu không số vẫn can trường, bình tĩnh xử lý linh hoạt các tình huống. Cứ kiên trì, bền gan hành quân như vậy, đến đêm thứ ba tàu 43 vào tới vùng biển Quảng Ngãi. Tất cả mọi thành viên đều khấp khởi mừng thầm, bởi chỉ còn một thời gian rất ngắn nữa thôi tàu sẽ cập bến.

Đúng 0 giờ 50 phút ngày 1-3-1968, tàu 43 cách bờ khoảng chừng 20 hải lý thì bất ngờ bị 4 tàu chiến của địch tăng tốc bao vây. Chúng đồng loạt bắn pháo sáng lên bầu trời đêm, những tia chớp sáng rực cả một vùng biển. Chỉ sau vài phút các loại pháo trên tàu địch bắn tới tấp vào tàu 43. Tiếp đến, chúng khép dần vòng vây hòng bắt sống toàn bộ tàu ta.

Không còn cách nào khác, Thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng đứng trên đài chỉ huy phát lệnh tiêu hủy tài liệu, sẵn sàng chiến đấu. Chính trị viên Trần Ngọc Tuấn đến từng vị trí động viên anh em giữ vững tinh thần. Tại khoang lái, chiến sĩ hàng hải Vũ Xuân Ruệ một tay giữ chặt bánh lái, tay còn lại cầm quả thủ pháo giơ cao, giọng dõng dạc: “Báo cáo chính trị viên! Chúng tôi đã sẵn sàng!”. Chính trị viên Tuấn hài lòng: “Được! Các đồng chí giữ vững vị trí chiến đấu!”.

Chính trị viên Tuấn vừa dứt lời thì đạn pháo địch từ bốn chiến hạm bắn cấp tập vào tàu 43. Cùng lúc 10 tàu cao tốc (loại nhỏ) xuất hiện, mỗi đợt hai chiếc lao vào tấn công bên mạn phải tàu ta. Thuyền trưởng Thắng vẫn hiên ngang trên đài chỉ huy cho tàu luồn lách chờ tàu địch vào gần hơn nữa. Tàu địch cách tàu ta 300 mét, 250 mét, rồi 150 mét…

“Nhằm thẳng tàu địch. Bắn!”. Thuyền trưởng Thắng hô lớn.

Chỉ chờ có vậy, các loại súng của ta đồng loạt nã đạn. Một tàu địch trúng đạn bốc cháy dữ dội, hai chiếc khác bị thương nặng. Bị ta đánh trả bất ngờ gây tổn thương nặng nề, máy bay địch điên cuồng vãi đạn xuống tàu 43. Mặt biển như sôi lên vì đạn pháo và rốc-ket. Tiếng DKZ, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 ly của ta rền vang. Trận chiến đấu diễn ra rất căng thẳng, nhưng vì lực lượng của ta không cân sức, nên tàu 43 trúng đạn, chao đảo. Chiến sĩ Vũ Văn Ruệ bị thương nặng, toàn thân đẫm máu, tay vẫn giữ chặt bánh lái. Ở vị trí DKZ, chiến sĩ quân y kiêm pháo thủ số 2 Võ Nho Tòng cũng trúng đạn, hi sinh… Sau hơn 3 giờ đồng hồ chiến đấu ngoan cường, tàu ta vừa dùng bom chìm và bộc phá chặn, vừa sử dụng đại liên, trung liên, súng máy 12,7 ly tiêu diệt thêm 3 máy bay HU-1A, bắn hư hại nhiều tàu cao tốc địch rồi lao vào bờ… Quyết không để phương tiện và vũ khí rơi vào tay địch, thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng ra lệnh hủy tàu….

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/5/05092011tcq03180653125.jpg)
Ông Trần Ngọc Tuấn (người mặc áo quân phục cũ, đeo kính) thắp hương tưởng niệm các đồng đội đã hi sinh.

Ông Trần Ngọc Tuấn đứng dậy bước về phía bàn thờ, thắp nén nhang kính cẩn tưởng nhớ những đồng đội đã hi sinh. Đôi vai gầy của người thủy thủ tàu không số rung lên. Ông nói, giọng nghẹn ngào, mắt ngấn nước: “Chiến tranh là tổn thất và thương vong. Chẳng có cuộc chiến nào mà không mất mát, hi sinh. Không biết bao lần tôi như đứt từng khúc ruột khi chứng kiến những đồng đội thân yêu của mình hi sinh. Đã mấy chục năm trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ mãi lời trăng trối của đồng chí Vũ Văn Ruệ trước lúc ra đi: “Chính trị viên ở lại chiến đấu, trả thù cho em!”. Vũ Văn Ruệ vừa cưới vợ được 20 ngày thì xung phong lên đường. Còn Võ Nho Tòng thì vừa hoàn thành chuyến đi thứ nhất đã tình nguyện đi chuyến thứ hai. Đêm trước ngày lên đường, Tòng còn tâm sự với tôi: “Sau chuyến này em xin tranh thủ về quê cưới vợ. Hôm đó, nhất định chính trị viên phải làm chủ hôn cho chúng em!”. Vậy mà… cậu ấy đã hy sinh, toàn thân ngã vào chân pháo nhưng tay vẫn ôm chặt quả đạn. Để rồi cô thôn nữ Nguyễn Thị Ghi, quê Thái Thụy, Thái Bình vĩnh viễn không bao giờ gặp lại người mình yêu nữa...”.

Những dòng ghi trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”

Nhấp ngụm trà đặc quánh, cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn trao cho tôi cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”. Ông nói: “Tôi còn sống đến ngày hôm nay là nhờ bác sỹ Thùy Trâm và bà con thôn Quy Thiện. Cháu đọc đi, trong cuốn sách này cô Trâm có viết về tôi và đồng đội của tôi đấy!”.

Tôi đọc những dòng bác sĩ Đặng Thùy Trâm viết trong cuốn nhật ký mà cảm thấy khung cảnh chia ly giữa người ra đi và người ở lại thời chiến tranh thật đáng trân trọng. Cuộc chia ly ấy giản dị, hồn nhiên và sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng: “Vậy là chiều nay các anh lên đường, để lại cho mỗi người một nỗi nhớ mênh mông giữa khu rừng vắng vẻ. Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh: những con đường đi, những chiếc ghế ngồi chơi xinh đẹp, những câu thơ thắm thiết yêu thương. Nghe anh Tuấn ra lệnh: “Tất cả ba lô lên đường!”. Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai, mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình bắt tay chào mình một lần cuối. Bỗng dưng một nỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong lòng mình như mặt sông những ngày mưa lũ và… mình khóc ròng đến nỗi không thể đáp lại lời chào của mọi người. Thôi! Các anh đi đi, hẹn một ngày gặp lại trên miền Bắc thân yêu”.

- Thưa bác, cơ duyên nào bác có tên trong cuốn nhật ký này?

Ông Tuấn trả lời: “Thì trong chuyến vượt biển vào Quảng Ngãi hồi Mậu Thân – 1968 đó! Ngày ấy nhân dân xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã che chở, đùm bọc, yêu thương cán bộ, thủy thủ tàu 43 trong những thời điểm khó khăn, ác liệt nhất!”.

Ông kể: “Khi những tiếng nổ lớn ầm vang cả một vùng biển vừa tan cũng là lúc chúng tôi đã ở trong vòng tay che chở của đồng bào thôn Quy Thiện. Hôm đó, quân Mỹ hùng hổ tiến vào làng. Tiếng quát tháo, chửi thề inh ỏi. Tiếng giày đinh nện rầm rầm trên mặt đất. Vậy mà dưới hầm bí mật, chúng tôi vẫn được bà con che chở… Mười ngày đêm nằm hầm trong tình trạng thương vong, nếu không có sự đùm bọc, tận tình chăm sóc của nhân dân thì tôi và đồng đội đã bị địch bắt. Nếu ở lâu dưới hầm bí mật nguy cơ sẽ bị lộ, nên chúng tôi được du kích cáng lên bệnh xá của chị Đặng Thùy Trâm. Hai lần đi đều gặp địch buộc phải quay lại và đến đêm thứ ba mới về tới trạm xá. Trong thời gian điều trị, tôi và đồng đội được bác sĩ Thùy Trâm chăm sóc tận tình, chu đáo. Hình ảnh nữ bác sĩ Thùy Trâm – người con gái Thủ đô Hà Nội duyên dáng, trẻ trung, lạc quan, yêu đời tận tình cứu chữa thương binh trở thành liều “thuốc quý” động viên chúng tôi vượt qua tất cả…

Nói về kỷ niệm lúc chia tay bà con Phổ Hiệp, cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn bùi ngùi: “Không bao giờ tôi quên được giây phút chia tay trước khi vượt Trường Sơn trở về đơn vị hôm 10-4-1968. Tôi là người cuối cùng chia tay mảnh đất nặng tình, nặng nghĩa ấy. Hôm đó, Thùy Trâm nắm chặt tay tôi, mắt đẫm lệ: “Thôi! Các anh đi mạnh giỏi, bình yên, hẹn ngày gặp lại trên miền Bắc thân yêu!”. Phút chia tay bịn rịn khiến tôi không kìm được lòng mình…Và không ngờ lần chia tay ấy, vĩnh viễn chúng tôi chẳng bao giờ được gặp lại Thùy Trâm bằng xương, bằng thịt nữa!”…

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/5/05092011tcq04180656296.jpg)
Chính trị viên tàu không số năm xưa bình dị giữa đời thường.

Chiến tranh đã lùi xa, ông Tuấn giờ đã ở tuổi “xưa nay hiếm”. Năm 1968 bị thương ra Bắc điều trị, rồi chuyển ngành qua làm cán bộ trường Đại học Thủy sản. Gần hai chục năm đứng trên bục giảng, ông “truyền lửa” vào sinh viên bằng những câu chuyện về bao chiến công huyền thoại của đoàn tàu không số năm xưa. Về hưu với khoản tiền lương 116 đồng (nay là 2.700.000 đồng) cuộc sống của vợ chồng ông vô cùng khó khăn. Vợ ông – bà Nguyễn Thị Đệ một thời là thanh niên xung phong. Suốt 5 năm bám trụ trên tuyến lửa Quảng Bình và Quảng Trị, nhưng nay bà vẫn không có chế độ gì. Để có tiền nuôi con ăn học, ông bươn chải khắp nơi, từ nhân viên gác cổng trường, rồi nhân viên bảo vệ… Bây giờ con cái trưởng thành, cuộc sống khá hơn, ông tham gia hội cựu chiến binh. Những lúc vết thương không hành hạ, bệnh tình thuyên giảm là ông lại đến từng gia đình trong khu phố vận động con cháu lên đường nhập ngũ. Bằng tấm gương mẫu mực của mình, ông vận động, thuyết phục thanh niên hư hỏng tiến bộ. Thỉnh thoảng ông lại tìm về thăm hỏi những người đồng đội năm xưa…

Cũng có lúc ông cảm thấy như bị “lãng quên”. Ông chuyển ngành khi quân hàm trung úy, nhưng mới đây Quân chủng Hải quân gửi giấy mời tham gia hội thảo khoa học lại ghi thiếu tá. Ông cười hiền: “Chắc các anh ấy thương nên phong quân hàm vượt cấp cho tớ! Đùa vui vậy thôi, chứ còn sống đến ngày hôm nay là hạnh phúc lắm rồi. Chỉ tiếc thương những đồng đội đã hi sinh giữa biển khơi!”.

Tuy cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn không hề trách cứ ai, nhưng tôi thấy ông quá thiệt thòi. Chín lần vượt biển, thì hai lần gặp địch bủa vây, hai lần chỉ huy đánh bộc phá hủy tàu nhưng ông và đồng đội vẫn mưu trí thoát khỏi vòng vây địch. Các chuyến đi còn lại đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chở vũ khí vào miền Nam. Với những chiến công ấy, ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu cao quý nhất. Tuy không được Nhà nước tuyên dương, nhưng biết bao đồng đội và đồng bào luôn coi ông là người anh hùng…

Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159603/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 08 Tháng Mười Một, 2011, 12:43:16 am
Những trang đời huyền thoại (Kỳ 2)


Kỳ hai: Hai nửa cuộc đời của máy trưởng Phan Nhạn

Mỗi lần vượt biển chở vũ khí vào miền Nam, những thủy thủ tàu không số đều xác định ra đi không hẹn ngày trở lại. Họ được tổ chức truy điệu sống trước lúc xuất bến. Vậy mà nhờ vào sự mưu trí, kiên cường và lòng quả cảm, một máy trưởng đã cùng đồng đội thực hiện 15 chuyến vượt biển, băng qua mưa bom, bão đạn của kẻ thù, vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược vào tiền tuyến lớn miền Nam. Bây giờ ở tuổi 80 con người huyền thoại ấy vẫn đang khó nhọc bươn chải giữa đời thường…Ông là Phan Nhạn – máy trưởng các tàu 41, 43. 56 (Đoàn tàu không số) năm xưa...

Vinh quang thời hoa lửa

Chìm khuất trong con hẻm mịt mù bụi than, ngôi nhà cấp 4 của ông Phan Nhạn thấp lè tè. Tiết trời cuối thu vậy mà không khí ngột ngạt đến khó thở. Đang tắm cho đứa cháu ngoại, thấy chúng tôi đến, ông dừng tay: “Bố mẹ bọn trẻ chia tay, tôi đành vừa làm ông vừa làm cha của chúng!”.

Tuy bận rộn nhưng ông cũng “ưu ái” dành thời gian để kể cho chúng nghe về hai nửa cuộc đời của ông...

“Tháng 3-1962, tôi được cấp trên điều về Đoàn 759 (Đoàn tàu không số). Sau đó biên chế về tàu 02 do đồng chí Nguyễn Dạt làm thuyền trưởng. Vốn quen nghề sông nước lại có tay nghề cơ khí, cấp trên tin tưởng giao cho tôi giữ chức máy trưởng, kiêm tổ trưởng tổ bộc phá. Được giao nhiệm vụ như vậy là tự hào lắm, bởi tàu 02 đi tiên phong mở màn cho chiến dịch “đường Hồ Chí Minh trên biển”. Không ai bảo ai nhưng chúng tôi đều mong chờ ngày vượt biển.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/6/06092011tcq04163141359.jpg)
Ông Nhạn (áo sẫm) cùng đồng đội về thăm lại chiến trường xưa.

Và ước mơ cháy bỏng đã thành hiện thực, ngày 16-10-1962, tàu 02 nhận lệnh chở 20 tấn vũ khí vào vùng biển Cà Mau. Dẫu biết rằng chuyến đi vô cùng nguy hiểm nhưng ai nấy đều háo hức, bởi chúng tôi biết mỗi khẩu súng, viên đạn chi viện cho chiến trường miền Nam là rất quý. Đúng 23 giờ 45 phút, tàu 02 lặng lẽ rời Cảng Đồ Sơn - Hải Phòng ra khơi. Theo hải trình, tàu 02 sẽ đi qua đảo Hải Nam, rồi vòng ra phía ngoài quần đảo Hoàng Sa ở vùng hải phận quốc tế để tránh sự kiểm soát gắt gao của máy bay và tàu chiến Mỹ nhằm đảm bảo tuyệt đối bí mật cho cuộc hành trình. Thế nhưng, tàu 02 ra khơi chừng gần chục hải lý thì gặp gió mùa Đông Bắc giật cấp 5, cấp 6. Những đợt sóng hung hãn chồm lên, chiếc tàu gỗ tròng trành, chao đảo. Tất cả thủy thủ áo quần sũng nước, tơi tả. Máy chính, máy phụ hoạt động hết công suất nhưng con tàu vẫn ỳ ra, khó có thể tiếp tục vượt biển theo lý trình như dự kiến ban đầu. Trước tình hình đó, thuyền trưởng Nguyễn Dạt điện về đất liền xin cho tàu chuyển hướng đi gần quần đảo Hoàng Sa. Đây là một quyết định mạo hiểm vì đi vào vùng này gần đất liền, dễ bị tàu địch phát hiện, nhưng cũng chẳng còn phương án nào tốt hơn. Được sự nhất trí của trên, chúng tôi cho tàu chuyển hướng. Gần 2 giờ đồng hồ vật lộn với sóng gió, tàu gặp sự cố mất liên lạc với sở chỉ huy. Trong lúc nguy nan, anh em vẫn bình tĩnh, mưu trí điều khiển tàu vượt qua vĩ tuyến 17 ngay trước mũi tàu chiến Hạm đội 7 của Mỹ thường xuyên sục sạo, theo dõi.

Trên chuyến vượt biển gian nan ấy, ban ngày chúng tôi giả làm ngư dân thả lưới đánh cá, ngụy trang lừa địch. Tối đến cho tàu tăng tốc nhằm thoát khỏi sự đeo bám của chúng. Hành quân đến ngày thứ 6 thì đồng chí nhân viên hải đồ thông báo, tàu ta chỉ còn cách vùng biển Cà Mau khoảng gần 200 hải lý, như vậy là chậm hai ngày so với dự kiến. Theo kế hoạch, để giữ bí mật cho bến, tàu chỉ vào thả hàng trong thời gian ngắn rồi ra ngay trước khi trời sáng. Thế nhưng, sau gần 3 giờ đồng hồ, chúng tôi vẫn không bắt liên lạc và nhận được tín hiệu gì từ bến. Lúc này, các thủy thủ hết sức lo lắng. Nếu không vào bến ngay trong đêm, thì bắt buộc tàu phải chạy ngược ra vùng biển quốc tế, đợi đến đêm hôm sau mới vào lại. Nếu như vậy thì rất nguy hiểm vì tàu địch sẽ phát hiện tàu ta. Kim đồng hồ nhích dần tới 4 giờ 20, chúng tôi đang chuẩn bị cho tàu quay ra vùng biển quốc tế thì phát hiện bên mạn trái có một chiếc ghe. Thuyền trưởng Dạt ra lệnh dừng máy. Biết chắc đấy là ghe đánh cá của ngư dân vùng giải phóng nên chúng tôi nhờ họ dẫn đường vào bến an toàn. Gặp nhau, thủy thủ tàu không số và những người ở bến cảm động, ôm nhau khóc ròng. Hôm đó, anh Tư Đức, bến trưởng đã thốt lên: “Tàu của các anh đúng là con tàu huyền thoại”.

Sau này nghe các anh ở bến kể lại, chúng tôi mới biết, do sự cố tàu 02 mất liên lạc, nên sở chỉ huy đã điện thông báo tình hình cho bến và hẹn thời gian đón tàu. Nhận điện, các đồng chí ở bến bố trí người túc trực suốt ngày đêm từ Gành Hào đến mũi Cà Mau để đón tàu nhưng chờ hơn một ngày đêm mà vẫn không thấy tăm hơi. Vì thế anh em tại bến tưởng tàu chúng tôi gặp nạn, tất cả thủy thủ đã hi sinh, nên công tác đón tàu được hủy bỏ…”.

Từ chuyến vượt biển đầu tiên thắng lợi, Phan Nhạn tiếp tục được điều về giữ chức máy trưởng các tàu 41, 43, 56…Thời gian từ năm 1962 - 1968, ông đã 15 lần vượt biển trên các con tàu không số chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Tàu 41 được tuyên dương danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân... Trong số những con tàu ông tham gia, có nhiều người trên tàu 41 được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân...

Nhọc nhằn kế mưu sinh

Ông Nhạn nhìn về bức chân dung người phụ nữ phúc hậu trên bàn thờ, giọng nghèn nghẹn: “Vợ chồng sống với nhau chẳng được là bao! Từ ngày bà ấy đi xa, nhiều lúc tôi tưởng mình không thể nào qua khỏi!”.

Tôi hiểu nỗi buồn trong mắt người cựu binh tàu không số, bởi chuyện tình của ông rất đẹp nhưng cũng đầy vất vả, truân chuyên... Năm 1969, sau lần vượt biển trở về, ông nghỉ ngơi, học tập tại Đồ Sơn (Hải Phòng). Trai xứ Quảng chưa vợ lại to cao, đẹp trai, vậy mà ông vẫn “lính phòng không” vì mỗi lần tiếp xúc với con gái là lúng ta, lúng túng như “gà mắc tóc”. Mãi cho tới khi bạn bè giới thiệu, ông mới chịu làm quen người con gái xứ Huế có mái tóc dài óng ả, giọng nói dễ thương. Hồi ấy bà Hoàng Thị Khâm là công nhân Xí nghiệp dày da Hải Phòng. Yêu nhau chưa đầy một năm thì họ nên duyên chồng vợ. Đám cưới giản dị, ấm nồng trong vòng tay bạn bè của cô dâu và đồng đội của chú rể.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/6/06092011tcq05163147421.jpg)
Tuổi 80, ông Nhạn vẫn cùng chiếc xe đạp bươn chải giữa cuộc đời.

Đất nước thống nhất, ông chuyển gia đình vào Nha Trang. Thành phố sau ngày giải phóng với bao nỗi bộn bề, người dân gồng mình khắc phục, hàn gắn vết thương chiến tranh. Vợ chồng ông cùng ba đứa con tá túc trong căn phòng tập thể chật chội. Tiền lương hai người gộp lại chưa đủ mua chiếc lốp xe đạp. Bà lại bị bệnh tim bẩm sinh nên đau ốm liên miên. Ông xoay trở đủ nghề kiếm tiền chữa bệnh cho bà. Dẫu cuộc sống còn vất vả, nhưng gia đình ông đầy ắp tiếng cười. Niềm vui ấy cũng chỉ được một thời gian, bởi năm 1991, bà Khâm qua đời để lại 3 đứa con thơ dại. Thời điểm này ông Nhạn xin về hưu sớm để lo lắng nuôi con ăn học. Phần đau buồn vì người vợ thân yêu về cõi vĩnh hằng, phần vì vết thương cũ tái phát, ông Nhạn tưởng chừng không qua khỏi, nhưng nhớ lời trăng trối của vợ trước lúc đi xa, ông gắng gượng sống để nuôi con.

Điều làm ông day dứt nhất là vì điều kiện kinh tế quá eo hẹp nên không thể lo cho con vào làm việc ở những nơi có mức lương khá giả. Bây giờ ba người con của ông vẫn chưa có nghề nghiệp ổn định, thu nhập bấp bênh. Vợ chồng cô con gái lớn chia tay, hai đứa cháu ngoại về ở hẳn với ông. Nhẽ ra ở tuổi “xưa nay hiếm” được hưởng cuộc sống an nhàn, đằng này ông vẫn lọ mọ lo lắng cơm nước, tắm giặt cho mình và hai cháu ngoại. Có thể nói, ông Phan Nhạn là thủy thủ tàu không số có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhất hiện nay. Ở tuổi gần 80, ông vẫn tá túc trong căn nhà cấp 4 xập xệ chừng 40 mét vuông. Tài sản quý giá nhất của ông là bức chân dung người vợ và tấm Huân chương chiến sỹ Giải phóng hạng Nhất trang trọng lồng trong khung kính...

Tuy sóng gió cuộc đời là vậy, nhưng ông vẫn phát huy phẩm chất của người thủy thủ tàu không số. Hiện ông vẫn là tổ trưởng dân phố. Hằng ngày ông túc tắc trên chiếc xe đạp cà tàng đến vận động bà con chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Thỉnh thoảng ông đến phường Phước Long, trường tiểu học Võ Thị Sáu nói chuyện truyền thống cho thế hệ trẻ. Bằng tấm gương mẫu mực của mình, ông đã cảm hóa được nhiều thanh niên hư hỏng tiến bộ. Ông cười vui: “Làm cái chức tổ trưởng dân phố là “quyền rơm, vạ đá” nhưng mình là cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thì bà con mới tin tưởng!”.

Đang nắng chói chang, bỗng dưng trời tối sầm lại. Phố biển Nha Trang sắp nổi cơn giông. Chúng tôi chào ông Nhạn để về cho kịp tránh cơn mưa. Nhìn dáng người thủy thủ tàu không số năm xưa tất tưởi lo chuẩn bị xô, chậu để hứng nước, tôi thấy thương ông vô cùng. Biết đến bao giờ ông mới có điều kiện xây một ngôi nhà tử tế để thoát cảnh “mưa dột, nắng xiên” trong phần đời còn lại?.


Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159691/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 09 Tháng Mười Một, 2011, 12:35:50 am
Những trang đời huyền thoại (Kỳ 3)


Kỳ ba: Vũng Rô - đêm Giao thừa năm ấy

Trung tá Hồ Đắc Thạnh – Thuyền trưởng tàu không số năm xưa đã trở về cuộc sống bình dị giữa đời thường, nhưng trong ông vẫn tươi nguyên những ký ức của một thời vượt biển trên con đường huyền thoại. Và câu chuyện về “nắm đất thiêng” của cô giao liên trao cho ông trong chuyến vào bến Vũng Rô năm ấy mãi mãi là một kỷ niệm đẹp, ông luôn trân trọng, nâng niu...

Tuổi 75, ông vẫn khoẻ mạnh, giọng nói trầm và ấm; gương mặt phúc hậu, dễ gần; tác phong giản dị, cởi mở. Đó là những cảm nhận của tôi khi tiếp xúc với cựu binh Hồ Đắc Thạnh – nguyên thuyền trưởng tàu không số – người có 12 chuyến vượt biển, vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam...

Ông say sưa kể về ngày xưa với niềm tự hào... “Cuối năm 1964, sau khi thực hiện hai chuyến tàu chở vũ khí vào bến Vũng Rô thắng lợi, tôi được Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ tiếp tục chỉ huy tàu vượt biển, đúng đêm Giao thừa có mặt tại Vũng Rô. Nhận mệnh lệnh, lòng tôi trào dâng niềm vui khó nói nên lời vì sắp trở về quê hương, được gặp lại đồng chí, đồng bào yêu dấu...

Chuyến đi đúng vào dịp Tết nên ngoài việc tiếp nhận vũ khí, theo dõi thời tiết, nắm tình hình địch, chuẩn bị hậu cần… chúng tôi còn chủ động gói bánh chưng, làm giò chả, chuẩn bị mứt Tết sẵn sàng đón xuân trên biển. Trước giờ ra khơi, tôi kiểm tra công tác chuẩn bị lần cuối. Đến khoang hàng hải, bắt gặp một thùng gỗ đậy kín, bên ngoài có dòng chữ “Quà vui Tết, đón xuân”, bên cạnh một cành đào Nhật Tân chúm chím nụ, tôi hỏi đồng chí Hồng Lỳ thủy thủ trưởng: “Thùng này có danh mục ghi trong phiếu chuyển hàng cho bến không?”. Đồng chí Phan Nhạn, máy trưởng nhanh nhảu trả lời: “Báo cáo thuyền trưởng, thùng này do tàu ta xuất phiếu thôi ạ!”. Tất cả cùng cười vang...

Buổi tiễn đưa cán bộ, chiến sỹ tàu 41 thực hiện “nhiệm vụ đặc biệt” trong đêm đông 1964 thật bùi ngùi, xúc động. Đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy đoàn căn dặn từng người chu đáo. Những nụ hôn thắm nồng, những bàn tay xiết chặt gửi gắm niềm tin. Tình cảm hậu phương làm ấm lòng cán bộ, thủy thủ trên đường vào tiền tuyến lớn miền Nam...

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/7/07092011tcq24182758453.jpg)
Ông Hồ Đắc Thạnh (bên phải, hàng trên) trước bia ghi công các anh hùng, liệt sỹ hi sinh trên tuyến đường biển huyền thoại.

Thời tiết không thuận lợi, sau ba ngày vượt sóng to, gió lớn, luồn lách tránh các tuyến tàu tuần tiễu của địch, chiều 30 tháng Chạp, tàu 41 chuyển hướng vào bờ. Trưa hôm đó, khi chúng tôi đang dùng bữa “tất niên”, thì chiến sỹ trực canh báo cáo: “Mạn phải 30 độ, cự li 3 hải lý, phát hiện hai tàu địch di chuyển về phía Nam!”. Lệnh chuẩn bị chiến đấu được phát ra, tất cả về vị trí. Các lớp ngụy trang vũ khí được triển khai vừa che mắt địch, vừa có thể phục vụ chiến đấu được ngay.

Qua ống nhòm, tôi thấy rõ hai tàu tuần tiễu địch đang di chuyển. Phải tránh! Tôi ra lệnh cho tàu 41 chuyển hướng để tránh và tạo khoảng cách xa hơn, lúc này thời gian đã 16 giờ chiều... Sau khi xác định lại vị trí trên hải đồ, tôi lệnh cho máy trưởng sử dụng tốc độ dự bị. Tàu tăng tốc hành quân giữa ánh hoàng hôn bao trùm lên mặt biển...

Gần nửa ngày chống chọi với sóng gió, đúng 23 giờ 50, tàu chúng tôi vào tới Vũng Rô. Tôi cho thả xuồng và cử người vào bến tìm bộ phận đón. Trong lúc đang loay hoay thả xuồng thì thuyền của các đồng chí ở bến cặp mạn tàu. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, tôi ôm chặt anh Sáu Thu mà hai hàng nước mắt chảy ròng, nghẹn ngào không nói nên lời…

Giữa lúc tình cảm giữa người ở bến và chúng tôi đang dồn nén, thì đột nhiên, hàng loạt súng pháo nổ vang, những chiếc đèn dù xanh, đỏ từ đồn địch ở dốc Ba Ty phụt lên treo lơ lửng giữa khoảng trời Vũng Rô.

- Lộ rồi sao? Địch đã phát hiện tàu ta chăng? Sao không thấy động tĩnh từ phía địch?

Mọi người hồi hộp, lo lắng... Từ khoang báo vụ, chiếc đài bán dẫn vang lên lời Bác Hồ chúc Tết nghe đầm ấm, thiết tha. Giao thừa! Mùa xuân 1965 đã tới. Thời khắc trời, đất giao hòa, chúng tôi vui mừng trào rơi nước mắt... Sau khi cử lực lượng cảnh giới nắm tình hình địch, cuộc liên hoan mừng tết Ất Tỵ được thực hiện ngay trong khoang máy và hầm hàng. Rượu, thịt, dưa hành, thuốc lá chúng tôi mang theo. Cá, mực đồng bào biếu tặng được bày ra thơm lừng, càng tăng thêm hương vị đậm đà của mùa xuân bất tận.

Trong niềm vui chan chứa ấy, tôi thay mặt cán bộ, chiến sỹ tàu 41 chúc Tết các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, chiến sĩ, dân công và bà con đồng bào tại bến. Tiếng pháo tay thay pháo Tết nổ vang. Anh Sáu Thu giục cô gái ngồi bên cạnh (là giao liên của bến) thay mặt bà con địa phương chúc Tết anh em thủy thủ. Cô gái ửng hồng đôi má, ngập ngừng đứng lên: “Có Đảng, có Bác Hồ và đồng bào miền Bắc lo cho miền Nam từng khẩu súng, viên đạn, bát cơm, viên thuốc; có các anh thủy thủ vượt qua sóng to, gió lớn, đối mặt với quân thù vận chuyển hàng chi viện cho miền Nam, quê hương Phú Yên nguyện xứng đáng với nghĩa tình cao cả đó”. Nghe cô giao liên nói vậy, ai cũng nghẹn ngào, xúc động...

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/7/07092011tcq25182802281.jpg)
Cùng đồng đội về thăm Bộ Tư lệnh Hải quân.

Tối mồng một Tết Ất Tỵ, chúng tôi bốc dỡ hàng. Chiếc cầu tạm bằng cây không đủ sức cho số đông người đi lại, nên đa số anh chị em dân công phải dầm mình dưới nước chuyển hàng. Phía đèo Cả, súng địch vu vơ bắn cầm canh. Chúng đâu ngờ rằng, cách không xa là không khí làm việc khẩn trương của cán bộ, thủy thủ tàu 41 và đồng bào Phú Yên. Hàng bốc dưới tàu lên là vũ khí, thuốc men, quần áo. Hàng trên bờ xuống là khoai, sắn, bánh chưng, rượu, thịt đồng bào gửi tặng và hàng chục bao cát. Cát của Vũng Rô được chuyển xuống tàu để giữ ổn định phòng khi ra khơi gặp bão giông.

Công việc xếp dỡ hàng vừa xong, từ trong đêm tối có cô gái cầm trong tay một gói nhỏ được bọc cẩn thận bằng chiếc khăn tay trao cho tôi, giọng run run: “Bà con quê hương Phú Yên xin gửi theo tàu các anh nắm đất Vũng Rô, mảnh đất kiên cường, bất khuất. Dù giặc càn quét, lùng sục, bắt bớ, tàn sát dã man, đồng bào lên núi ăn củ mài, quả vả thay cơm nhưng vẫn một lòng, một dạ vững tin theo Đảng, theo Bác Hồ. Có súng, có đạn của miền Bắc chi viện, mảnh đất này sẽ là điểm tựa của những chiến công, là mồ chôn thây quân giặc cướp nước!”. Bùi ngùi, xúc động, cầm nắm đất Vũng Rô trong tay, tôi như muốn ôm cả đất trời quê hương Phú Yên vào lòng với tình cảm trân trọng, thiêng liêng...

Cuộc chia tay trong đêm xuân Ất Tỵ hết sức quyến luyến. Những giọt nước mắt tuôn trào, những lời chúc “lên đường thuận buồm, xuôi gió, ở lại mạnh khỏe, chiến đấu hăng say, hứa hẹn ngày trở lại”. Xa xa, tiếng pháo địch vẫn bắn cầm canh. Đúng 3 giờ sáng mồng hai Tết, tôi ấn mạnh tay chuông, con tàu rùng mình rẽ sóng ra khơi...”.

- Thưa bác! Nắm đất thiêng giờ nơi đâu? Cô giao liên năm nào bác có còn gặp lại? Tôi nêu câu hỏi.

 Ông Hồ Đắc Thạnh trả lời: “Nắm đất thiêng Vũng Rô được chúng tôi nâng niu, gìn giữ suốt chặng đường vượt biển, hiện đang đặt trang trọng trong Bảo tàng Quân chủng Hải quân. Còn cô giao liên ngày ấy tôi đã đi tìm suốt 40 năm qua mới gặp lại!”.

Chuyện người cựu binh thủy thủ tàu không số đi tìm cô gái trao cho mình nắm đất trong đêm xuân Ất Tỵ khá cảm động... Chiến tranh kết thúc, ông Thạnh về công tác ở Bộ tư lệnh Vùng 3 Hải quân. Năm 1984 nghỉ hưu tại thành phố Quy Nhơn (Bình Định). Trong quãng thời gian ấy ông đã mải miết đi tìm, nhưng chẳng ai biết cô giao liên ngày ấy ở đâu. Mãi đến năm 2004 ông về thăm quê hương Phú Yên thì điều kỳ diệu đã đến. Người con gái mà ông đằng đẵng đi tìm gần nửa thập kỷ qua lại chính là bà Nguyễn Thị Tảng, phu nhân của đồng chí Nguyễn Văn Dữ, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh – nguyên Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Tuy An.

Trao nhau nắm đất thiêng từ thuở ấy, gặp lại sau hơn 40 năm xa cách, tóc họ giờ đã chuyển màu sương gió. Nhưng ký ức về những năm tháng chiến tranh ác liệt vẫn tươi nguyên. Ông bảo, những tấm Huân chương mà ông và bà Tảng đeo trên ngực áo thấm đẫm máu, mồ hôi và nước mắt của bao đồng đội kiên trung năm xưa đã anh dũng ngã xuống giữa lòng đất mẹ...

Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159800/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 10 Tháng Mười Một, 2011, 11:13:59 am
Những trang đời huyền thoại (Kỳ 5)


Kỳ 5: Xứng đáng là người con của biển

Đại tá Phạm Duy Tam - Nguyên Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân chính là người đã có 7 lần vượt biển trên con tàu không số chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Ông cũng là người vinh dự được giao trọng trách chỉ huy tàu 675 thần tốc hành quân trong điều kiện sóng to, gió lớn, vượt gần 500 hải lý để cùng với các lực lượng dũng cảm truy kích địch và giải phóng hoàn toàn quần đảo Trường Sa vào rạng sáng ngày 29-4-1975.

Người 7 lần “truy điệu sống”

Chiến tranh đã đi qua hơn 1/3 thế kỷ, nhưng dường như kỷ niệm về những năm tháng lênh đênh trên con tàu không số vượt biển “tiếp máu” cho chiến trường miền Nam chưa bao giờ phai nhạt trong tâm trí Đại tá Phạm Duy Tam.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/9/09092011tcq02174614578.jpg)
Chân dung Đại tá Phạm Duy Tam.

Ông quê Hải Trạch, Bố Trạch (Quảng Bình). Tuổi thơ gắn liền với biển cả, nên lớn lên ông trở thành lính thủy, rồi sau đó tốt nghiệp sĩ quan hải quân, đến năm 1969 thì về nhận công tác tại Đoàn tàu không số, được bổ nhiệm Phó Thuyền trưởng tàu 42.

Ngày còn giữ chức Phó chỉ huy trưởng Vùng 3 Hải quân ông là người thường xuyên sâu sát kiểm tra, bám nắm tình hình cơ sở. Những lần như thế cánh lính trẻ thường yêu cầu thủ trưởng kể chuyện về đoàn tàu không số. Trước khi kể bao giờ ông cũng không quên câu “nhắc khéo”: “Các cậu bây giờ quá sướng, chứ hồi “tớ” làm gì có được tàu to, trang bị vũ khí, máy móc, khí tài hiện đại như bây giờ. Vì thế “các cậu” phải lo mà bảo quản cho thật tốt để dùng bền đó!”.

Cánh lính trẻ đồng thanh: “Thưa thủ trưởng, chúng em sẽ cố gắng”, rồi mắt tròn, mắt dẹt lắng nghe. Ông kể: “Ngày ấy vượt biển, trên tàu chỉ có chiếc la bàn từ, đồng hồ thiên văn, máy 1/6 dùng để đo mặt trời, trăng, sao và một bộ tính thiên văn, không có định vị, la bàn con quay, máy đo sâu, máy tính đường, máy móc thông tin liên lạc chủ yếu đánh moóc tạch tè. Để phục vụ cho mỗi chuyến đi, tàu phải chuẩn bị đầy đủ một tháng lương thực, thực phẩm, nhiên liệu, nước uống... Cán bộ, thủy thủ còn tranh thủ thời gian huấn luyện sử dụng các loại vũ khí, luyện tập xử lý tình huống có thể xảy ra trên biển, các phương án rời tàu, đánh bộc phá khi cần phá hủy tàu….

Do tính chất thực thi “nhiệm vụ đặc biệt”, vì thế trước khi vượt biển, tổ chức làm lễ “truy điệu sống” cho tất cả thủy thủ trên tàu không số. Cấp trên và những người ở lại coi chúng tôi là những chiến sỹ cảm tử quân. Nguyên tắc bất di bất dịch là phải giữ cho bằng được bí mật của con đường. Trường hợp bị địch phát hiện, truy kích, không thoát khỏi vòng vây của chúng thì phải tự dùng bùng bộc phá để hủy tàu, không để người và vũ khí rơi vào tay giặc.

Cứ thế, những con tàu không số âm thầm, lặng lẽ ra đi. Phía trước là bão tố, chông gai, là bom rơi, đạn nổ và mất mát, hi sinh. Phía sau là tiếng gọi quê hương thôi thúc. Do vậy mỗi lần đi chẳng ai biết trước số phận mình sẽ ra sao. Sự sống và cái chết quá mong manh vì tàu ta thì bé nhỏ mà biển khơi thì bao la, đã vậy kẻ thù luôn rình rập ngày đêm.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/9/09092011tcq04174624625.jpg)
Đại tá Phạm Duy Tam (thứ 3 từ phải sang) cùng đồng đội thăm di tích đường Hồ Chí Minh trên biển.

Lễ “truy điệu sống” diễn ra trang nghiêm. Những người ở lại từ thủ trưởng Bộ Tư lệnh cho tới đồng đội đều không cầm được lòng mình. Nhưng chúng tôi – thủy thủ của tàu không số chẳng mấy ai sờn lòng. Chúng tôi hiểu, mỗi khẩu súng, thùng đạn, hộp thuốc... được vận chuyển vào chiến trường miền Nam là quý giá vô ngần. Vì thế 100% cán bộ, thủy thủ đều quyết tâm lên đường...”.

Gần chục năm lênh đênh cùng các con tàu không số vượt biển, Đại tá Phạm Duy Tam có 7 lần được “truy điệu sống”. Nhưng điều kỳ diệu là những chuyến đi của ông và đồng đội nhiều lần gặp bão tố và sự theo dõi gắt gao của kẻ địch nhưng nhờ sự mưu trí, khôn khéo và tinh thần quả cảm, họ đã vượt qua tất cả để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ...

Thần tốc, giải phóng Trường Sa

Nhân dịp Đại tá Phạm Duy Tam về Đà Nẵng thăm gia đình, tôi đã gặp và đề xuất ông kể lại chuyến vượt biển giải phóng Trường Sa năm ấy. Vốn là sỹ quan cấp dưới của ông từ hồi còn ở Vùng 3 Hải quân, thế nên khi tôi đề đạt “nguyện vọng” là ông “chiều” ngay.

Và câu chuyện ông kể như thước phim quay chậm giúp tôi hiểu thêm về biên đội tàu ngày ấy thần tốc vượt biển, giải phóng Trường Sa... “Hai tuần sau ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng, tôi được Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ làm biên đội trưởng một biên đội tàu cá giả dạng (tàu không số) hành quân cấp tốc từ Hải Phòng vào quân cảng Tiên Sa (Đà Nẵng). Cấp trên xác định, lực lượng của chúng tôi là mũi tiến công duy nhất trên hướng biển do các đoàn tàu không số (Đoàn 125) được lệnh phối hợp cùng lực lượng đặc công nước và Sư đoàn 2 bộ binh, Quân khu 5.

Đúng 4 giờ ngày 11-4-1975, biên đội ba tàu 675, 673 và 674 lên đường. Chuyến đi ấy ngoài chức trách là biên đội trưởng, tôi còn làm Thuyền trưởng tàu 675. Đồng chí Nguyễn Xuân Thơm – Thuyền trưởng tàu 673. Còn tàu 674 do đồng chí Nguyễn Văn Đức làm Thuyền trưởng. Do tính cấp thiết của nhiệm vụ nên biên đội tàu chúng tôi chạy hết công suất, thẳng hướng đảo Song Tử Tây. Chuyến đi ấy gió lớn trong khi tàu ta là loại tàu nhỏ nên bị sóng quần cho tơi tả. Tất cả thành viên vẫn phấn chấn vì được ra giải phóng Trường Sa là niềm vinh dự quá đỗi tự hào của người chiến sỹ. Những cơn sóng biển đổ chụp xuống con tàu, ai cũng say sóng nhưng vẫn kiên cường bám trụ. Lực lượng đặc công thủy nằm bẹp dưới hầm tàu để tránh bị phát hiện. Anh em say sóng lừ đừ nhưng vẫn ráng chịu đựng. Biển sóng to, gió lớn trong khi tàu ta bé nhỏ, mọi người quyết định vẫn mở hết công suất máy. Rồi một chiếc tàu bị hỏng máy. Khó khăn hơn, cả đội tàu không thể liên lạc được với sở chỉ huy tiền phương của Bộ tư lệnh Quân chủng đóng ở Đà Nẵng. Trước tình hình đó, chúng tôi vượt biển bằng la bàn, dõi theo con nước và ngắm sao trời... Sau 3 ngày đêm vật lộn với sóng, gió vượt gần 500 hải lý, chúng tôi đã thấy đảo Song Tử Tây như một chấm nhỏ xa mờ. Ngày đó các đảo còn thấp lè tè, chiều cao chỉ từ 1,5m đến 4,5m so với mặt nước biển. Ban ngày phát hiện đã khó, ban đêm lại càng khó hơn vì đảo không có điện, lại nhấp nhô giữa biển nước mênh mông biết đâu là đảo có quân đội ngụy quyền Sài Gòn chiếm giữ”.
Đại tá Phạm Duy Tam (thứ 3 từ trái sang) cùng đồng đội ra thăm Trường Sa nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng quần đảo.

Đại tá Phạm Duy Tam bỗng hạ giọng: “Ngày đó, chúng tôi được trên chỉ thị là tuyệt đối không đánh nhầm. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn bởi máy móc, thiết bị hàng hải mà ta có được lúc đó quá thô sơ. Cuối cùng bằng kinh nghiệm, chúng tôi cũng phát hiện quân đội Sài Gòn chiếm giữ những đảo nổi của Trường Sa. Trong đó đảo Nam Yết là sở chỉ huy với lực lượng lên đến 60 lính; các đảo Song Tử Tây, Trường Sa Lớn đều có 40 lính; các đảo Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang có 20 lính… Thời cơ ngàn năm có một đã tới, biên đội nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Hai tàu 674 và 673 án ngữ phía Bắc đảo 15 hải lý đề phòng đối phương từ phía Bắc xuống và nghi binh hai tàu chiến của ngụy đang lởn vởn ở khu vực đảo Nam Yết. Tàu 675 do tôi chỉ huy bí mật tiếp cận gần mép san hô của đảo, rồi thả xuồng cao su, lần lượt chở bộ đội đặc công nước do đồng chí Nguyễn Ngọc Quế (Đội trưởng Đội 1 – Đoàn 126) chỉ huy đổ bộ lên đánh chiếm đảo.

Đúng 4 giờ 30 phút, ngày 14-4-1975, ta bất ngờ đồng loạt nổ súng, tiêu diệt 7 tên, bắt sống 33 tên, giải phóng hoàn toàn đảo Song Tử Tây. Ngay trong đêm đó, tôi tiếp tục chỉ huy tàu chở tù binh từ đảo Song Tử Tây về Quân cảng Đà Nẵng an toàn. 10 ngày sau, tàu 641 (Đoàn 125) tiếp tục chở phân đội đặc công nước do đồng chí Đỗ Viết Cường (Đội phó Đội 1- Đoàn 126) đổ bộ đánh chiếm và giải phóng đảo Sơn Ca, bắt sống 17 tên ngụy. Thừa thắng xông lên, quân ta tấn công giải phóng đảo Nam Yết.

Đúng 2 giờ sáng ngày 29-4-1975 trên hướng tiến công đường biển ta đã kéo cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, giải phóng những đảo thuộc quần đảo Trường Sa do ngụy quyền Sài Gòn chốt giữ. Ngày đó, ngắm nhìn lá cờ Tổ quốc phần phật tung bay trên các đảo tiền tiêu, chúng tôi ồm chầm lấy nhau, niềm vui vỡ òa trên từng gương mặt. Thắng lợi trên mặt trận Biển Đông, giải phóng Trường Sa góp phần quan trọng vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc”...

Những kỷ niệm của một thời chiến tranh vẫn tươi nguyên trên khuôn mặt dạn dày sương gió của người thuyền trưởng 7 lần “truy điệu sống”. Tuy trở về với đời thường, nhưng người cựu binh già vẫn còn nặng nợ với “binh nghiệp”. Ngôi nhà ông là địa chỉ tin cậy mà thế hệ sỹ quan trẻ hôm nay tìm đến học hỏi, trau dồi kinh nghiệm và bản lĩnh của người thủy thủ. Và trong con mắt họ, bao giờ ông cũng xứng đáng là người con của biển...

Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160021/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 11 Tháng Mười Một, 2011, 01:51:04 am
“Pháo đài thép” tiên phong đi mở bến


Trong lịch sử của Đoàn tàu không số, sự ra đời của chiếc tàu sắt có mật danh 54 do Xưởng đóng tàu 3 Hải Phòng sản xuất đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa, vũ khí phục vụ chiến trường miền Nam. Khi tiếp nhận con tàu, lãnh đạo chỉ huy Đoàn 125 xác định, cần phải làm cho tất cả chiến sĩ đều có niềm tin vào loại tàu mới do chúng ta tự sản xuất. Nếu còn phân vân, lo lắng, thậm chí thiếu tin tưởng, có thể gây trở ngại, ảnh hưởng đến tâm lý của thủy thủ trong chuyến đi thực hiện nhiệm vụ trên con tàu sắt này.

Bằng quyết tâm cao độ và sự chuẩn bị kỹ càng của đơn vị, ngày 17-3-1963, Tàu 54 mang theo 44 tấn vũ khí được lệnh rời bến chuyển hàng tới một bến mới ở tỉnh Trà Vinh. Tàu sắt rất dễ bị phát hiện so với tàu gỗ, nên nó được các thủy thủ ngụy trang rất cẩn thận. Trên chặng đường dài từ Hải Phòng vào Trà Vinh, nhiều lần các đoàn tàu chiến và các loại máy bay của địch bám theo do thám, khiêu khích, nhưng tàu vẫn không bị lộ. Tàu cập bến và bàn giao 44 tấn vũ khí trong niềm hân hoan của đồng chí, đồng bào sau cuộc chống càn “Sóng tình thương” của địch trên chiến trường Khu 9. Các thủy thủ của Đoàn tàu không số hiểu rằng, tàu sắt chính là dấu hiệu mở màn cho giai đoạn phát triển nhảy vọt trong công tác vận tải trên con đường huyền thoại-Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Tính ưu việt của tàu sắt là sự chắc chắn, kỹ thuật tốt, có khả năng vượt qua các luồng lạch nông, chở được nhiều hàng. Nếu ngụy trang khéo léo vẫn có thể che mắt được địch. Điều này đã được chứng minh qua chuyến hành trình vận chuyển 63 tấn vũ khí vào bến mới ở tỉnh Bến Tre an toàn của Tàu 54. Kế thừa những kinh nghiệm có được, trong năm 1964, tập thể thủy thủ Tàu 54 đã thực hiện thắng lợi 6 chuyến vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam.

Sau sự kiện Vũng Rô và cuộc Tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968, địch tăng cường lực lượng, kiểm soát gắt gao khiến công tác vận chuyển vũ khí trên biển của chúng ta gặp muôn vàn khó khăn. Trong chuyến đi năm 1972, Tàu 54 gặp địch và bị lộ. Cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã chiến đấu dũng cảm, kiên cường đến giây phút cuối cùng trước khi điểm hỏa cho nổ tàu để giữ bí mật tuyến vận tải chiến lược trên biển và tiêu diệt địch. Thời gian đã lùi xa, nhưng hình ảnh con tàu và người chính trị viên anh hùng vẫn mãi lung linh trong trái tim các thủy thủ Đoàn tàu không số như một pháo đài thép, luôn tiên phong đi về những bến mới.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/162752/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 13 Tháng Mười Một, 2011, 12:50:29 am
Hình ảnh về hoạt động của tàu không số


(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/9/10/100911tonha06173040703.jpg)
Tàu của Đoàn 125 nhận hàng từ bến Đá Bạc (Thủy Nguyên, Hải Phòng) để vận chuyển, chi viện chiến trường miền Nam.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/10/8/08102011tcq09100241494.jpg)
Các chiến sĩ tàu không số vận chuyển, sắp xếp hàng hóa chuẩn bị chi viện cho chiến trường miền Nam

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/10/4/04102011manh02171905775.jpg)
Tập kết vũ khí đạn dược đưa xuống Tàu không số để vận chuyển vào Nam. Ảnh tư liệu

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/10/5/05102011tcq04165134775.jpg)
Một con tàu không số của Lữ đoàn 125 đang trên đường vận chuyển hàng vào Nam. Ảnh tư liệu.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 14 Tháng Mười Một, 2011, 01:07:37 pm
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Bài 1)


I - Mở bến Vũng Rô

Theo tác phẩm "Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân" của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 2001 viết: "Mùa thu năm 1964, đường Trường Sơn mới vươn tới vùng ba biên giới, chủ yếu chi viện cho Tây Nguyên và vùng giáp ranh của Liên khu 5. Tuy nhiên, việc vận tải bằng đường bộ, do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là sự đánh phá ác liệt của kẻ địch, nên gặp rất nhiều khó khăn".

Thực hiện chủ trương phối hợp toàn miền do Trung ương Cục phát động, Bộ tư lệnh Quân khu 5 mở đợt hoạt động của các lực lượng vũ trang 6 tháng cuối năm 1964, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, phá ấp chiến lược. Được các lực lượng vũ trang hỗ trợ, mùa thu năm 1964, nhân dân Khu 5 đã đồng khởi phá tan 1.485 ấp chiến lược ở đồng bằng, 292 ấp chiến lược ở miền núi, giải phóng 123 xã. Nhiều vùng, quần chúng nổi dậy làm chủ gồm 15 đến 20 xã liền nhau, sát đường số 1, tạo thế cho bộ đội chủ lực về đứng chân. Phong trào đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị phát triển. Tuy nhiên, Khu 5 gặp khó khăn là thiếu vũ khí. Các tỉnh Khu 5 liên tục điện ra Trung ương xin vũ khí. Có lần, tỉnh Quảng Ngãi đã chủ động đưa thuyền ra Bắc xin vũ khí... Một khó khăn đối với Khu 5 nữa là, mùa đông năm 1964, giữa lúc phong trào cách mạng đang lên, một trận lụt lớn chưa từng thấy trong vòng 100 năm đã xảy ra ở địa bàn này. Lợi dụng thiên tai, Mỹ-ngụy dùng xuồng máy, xe lội nước càn quét, đánh phá.

Việc cung cấp vũ khí cho Khu 5 trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu (Bộ phận B) kết hợp với Bộ tư lệnh Hải quân nghiên cứu nhiệm vụ mở bến, chi viện vũ khí cho vùng ven biển Khu 5.

Vận chuyển vũ khí vào Khu 5 là công việc phức tạp và vô cùng khó khăn. Mặc dù cung đường so với mút cùng đất nước có ngắn hơn, song việc đặt bến chẳng thuận lợi. Vùng biển Khu 5 không có nhiều kênh rạch và rừng cây um tùm phủ xuống như ở Nam Bộ. Các cửa sông hẹp, đồn địch ken dày và rất nhiều căn cứ hải thuyền của địch. Là vùng sát giới tuyến, lại nằm sát quốc lộ nên hệ thống ra-đa, tàu chiến và máy bay của địch kiểm soát khá cẩn mật.

Việc mở bến vào Khu 5, Bộ Tổng tham mưu và Bộ tư lệnh Hải quân tiến hành từng bước rất chặt chẽ, thận trọng; phương châm khẩn trương nhưng không nóng vội. Đã đi là chắc thắng. Một bộ phận cán bộ Hải quân do đồng chí Huỳnh Kim và Phan Võ dẫn đầu đã vào Khu 5 truyền đạt ý kiến của Bộ Quốc phòng và cùng cán bộ tham mưu Quân khu 5 đi nghiên cứu địa hình, mở bến bãi.

Sau khi nhận được những tin tức do bộ phận trinh sát và cơ quan quân sự các địa phương báo ra, Bộ tư lệnh Hải quân thông qua phương án vận chuyển vào Khu 5 do cơ quan tham mưu Đoàn 125 trình bày. Bộ tư lệnh nhấn mạnh: Các tàu vào Khu 5 phải thật khôn khéo, đánh lừa địch trên đường hành trình; táo bạo, bí mật thọc sâu vào bến; nhanh chóng dỡ hàng và rút ra ngay trong đêm. Gặp trường hợp đặc biệt mới ở lại ban ngày, song phải có phương án chiến đấu nếu bị lộ.

Tổ trinh sát của hải quân và Quân khu 5 trước mắt đã chuẩn bị được một số bến có khả năng nhận hàng như: Lộ Giao (Bình Định), Đạm Thủy (Phổ An, Quảng Ngãi), Bình Đào (Quảng Nam), Vũng Rô (Phú Yên)..." (SĐD trang 84, 86).

... Lúc này Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng Chỉ thị: "Tìm bến mới ở Phú Yên. Phú Yên đang cần súng đạn!".

Chấp hành Chỉ thị của Bí thư Quân ủy Trung ương, đồng chí Phan Hàm xuống ngay Hải Phòng để trao đổi với đồng chí Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát. Hai người nhất trí chọn Vũng Rô làm điểm đổ hàng cho khu vực Phú Yên.

Ngay sau đó đồng chí Trần Suyền, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên nhận được lệnh của Trung ương và Khu ủy 5 tìm điểm mở bến ở tỉnh Phú Yên để đón các chuyến tàu không số từ miền Bắc chi viện cho chiến trường Khu 5. Hàng loạt các vị trí dọc 189km bờ biển của tỉnh Phú Yên đều được đưa ra xem xét và cân nhắc. Cuối cùng các đồng chí lãnh đạo tỉnh Phú Yên và Liên tỉnh ủy 3 (Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc) đều nhất trí với Trung ương là chọn Vũng Rô để mở bến đón Tàu không số, nhằm tạo được yếu tố bất ngờ và cũng thuận lợi trong việc tổ chức hành lang vận chuyển hàng về phía sau để chi viện vũ khí cho chiến trường ba tỉnh.

Vũng Rô nằm sát Quốc lộ 1A dưới chân Đèo Cả thuộc địa phận xã Hòa Xuân, huyện Tuy Hòa (nay là huyện Đông Hòa), tỉnh Phú Yên, tiếp giáp với Đại Lãnh - Vịnh Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa). Vũng Rô có diện tích mặt nước 17km2, có độ nước sâu gần bờ từ 14 đến 19m, kín gió, đáy vịnh ổn định. Cửa biển vào Vũng Rô rộng 2km. Nơi tiếp giáp hải phận quốc tế ở vị trí 12052' vĩ độ Bắc, 109025' kinh độ Đông. Phía bắc giáp dãy núi Đá Bia cao 706m. Phía nam giáp Đại Lãnh (tỉnh Khánh Hòa). Phía tây giáp Đèo Cả có Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc-Nam. Phía đông giáp Biển Đông (có Mũi Điện - Cáp Varilla)...

Vũng Rô có địa hình núi non hiểm trở bao bọc, có nhiều hang động, gộp đá ở nhiều độ cao khác nhau và đường sá độc đạo, thuận lợi cho việc hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương. Địa hình đó thuận tiện cho việc cất giấu, bảo quản vũ khí, lương thực, thực phẩm an toàn khi chuyển từ tàu đưa vào bến, rồi từ bến chuyển đi các nơi. Trong khu vực Vũng Rô có nhiều bãi như: Bãi Chính, Bãi Chùa, Bãi Lau... rất thuận tiện cho việc xuống hàng và có nguồn nước ngọt phục vụ tốt cho mọi sinh hoạt của bộ đội, dân quân du kích và dân công các xã về đây tải hàng.

Từ Bãi Chính có con đường mòn đi ra Mũi Điện, đi qua núi Bà và núi Bia đến vùng Bãi Xép-khu căn cứ cách mạng Miền Đông, giáp với vùng giải phóng các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Thịnh v.v.. Các xã này đã có lực lượng dân quân du kích khá vững mạnh, đã đánh và thắng địch nhiều trận vang dội, là chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh chính trị ở địa phương.

Nhưng bến Vũng Rô cũng có một số nhược điểm là khá trống trải, khó khăn cho việc tàu chở hàng chi viện đậu lại bến chờ thời cơ. (Nó khác với những kênh rạch ở Nam Bộ, khi tàu vào có rừng đước, rừng tràm che chở, thời gian tàu nằm lại bến từ 5 đến 7 ngày không lo bị địch phát hiện). Ngoài ra, quanh Vũng Rô còn có nhiều núi đá khá cao; địch xây dựng trên đỉnh Đèo Cả bót Pơ Tý và đặt trạm quan sát bảo vệ Vũng Rô. Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc-Nam chạy ngang qua Vũng Rô tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ địch dễ cơ động lực lượng khi phát hiện các hoạt động của ta ở Vũng Rô. Mặt khác, Vũng Rô chỉ có một cửa ra vào nên khi có sự cố, địch huy động lực lượng ứng phó nhanh, chốt chặn cửa vịnh là tàu của ta khó thoát. Và Vũng Rô chỉ cách tỉnh đường Phú Yên của địch chừng 30km theo đường chim bay, nếu bị lộ địch sẽ dùng quân đến vây ráp ngay. Đồng thời, tại bến không có sẵn lực lượng túc trực cố định để làm nhiệm vụ bốc hàng, hầu hết dân công đều huy động ở các xã liền kề trong vùng giải phóng, họ đều có quan hệ gia đình làng xóm, nên công tác bảo mật là rất khó khăn. Với các đặc điểm khó khăn trên của ta nên bọn địch rất chủ quan và quản lý sơ hở.

Cuối năm 1964, các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân thuộc miền đông huyện Tuy Hòa (nay là huyện Đông Hòa) tiếp giáp với Vũng Rô có nhiều thôn đã được giải phóng. Chính quyền cách mạng được thành lập; các tổ chức hội đoàn thể, dân quân du kích và quần chúng nhân dân được tổ chức sinh hoạt, tham gia đóng góp nhân tài vật lực, đi dân công tải vũ khí, lương thực phục vụ chiến trường. Điểm nổi bật nhất của hai xã Hòa Hiệp và Hòa Xuân là phong trào toàn dân đánh giặc rất cao, lực lượng dân quân du kích khá mạnh, là điểm tựa rất vững chắc của bến Vũng Rô.

Năm 1964, dân số xã Hòa Hiệp có 6.350 người, trong đó có 345 dân quân du kích. Dân số xã Hòa Xuân có 5.430 người, trong đó có 258 dân quân du kích. Hệ thống hầm hào, trận địa chiến đấu của hai xã Hòa Hiệp và Hòa Xuân được xây dựng hoàn chỉnh, vững chắc, đúng với các phương án chiến đấu bảo vệ xóm làng, nên nhiều lần kẻ địch mở các đợt càn quét vào xã đều bị lực lượng dân quân du kích, bám trụ kiên cường, đánh địch thắng lợi.

Tháng 10-1964, trong gian nhà nhỏ cuối thôn Lạc Long, nhìn ra hạ lưu sông Bàn Thạch, đồng chí Trần Suyền - Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên cùng Ban chỉ đạo bến làm việc với đại diện Huyện ủy Tuy Hòa và Bí thư Chi bộ hai xã Hòa Hiệp và Hòa Xuân để kiểm điểm công tác mở bến. Theo yêu cầu của Trung ương, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã quyết định tuyển chọn 5 cán bộ thông thạo nghề biển là Lê Kim Tự, Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hiền (quê ở xã Hòa Hiệp, huyện Tuy Hòa), Trần Mỹ Thành, Phan Văn Dợn (quê ở xã Xuân Thịnh và Xuân Thọ, huyện Sông Cầu), vượt Trường Sơn ra miền Bắc để dẫn tàu vào bến Vũng Rô. Các anh vô cùng phấn khởi lên đường vượt Trường Sơn ra miền Bắc, với quyết tâm sẽ sớm đưa tàu chở vũ khí vào bến Vũng Rô.

Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/162546/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 15 Tháng Mười Một, 2011, 10:56:09 am
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Bài 2)


II. Mở đường vào bến Vũng Rô

Từ cuối tháng 11 năm 1964 đến đầu tháng 2 năm 1965, Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh trên cương vị là Phó bí thư chi bộ, thuyền trưởng, đã làm tốt công tác tổ chức, xây dựng quyết tâm, với ý thức sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh. Vì vậy, mà chỉ trong vòng hai tháng đã chỉ huy tàu 41 vào bến Vũng Rô liên tục 3 chuyến, chở gần 200 tấn vũ khí trang bị, thuốc men và 6 cán bộ tăng cường cho bến, đáp ứng kịp thời vũ khí trang bị cho quân và dân 3 tỉnh là Phú Yên, Khánh Hòa và Đắc Lắc đánh giặc.

Đồng chí Hồ Đắc Thạnh sinh ngày 1 tháng 5 năm 1934, quê ở phường 3, thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Chỗ ở hiện nay, 99/2 Chu Văn An, phường 5, Thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Ông nhập ngũ ngày 20 tháng 8 năm 1950, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau ngày 20 tháng 7 năm 1954 kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng Hiệp định Giơ-ne-vơ, ông cùng đơn vị tập kết ra miền Bắc. Năm 1958 trong lúc nhiều đồng đội, có người được đi học nước ngoài, người vào trường sĩ quan Lục quân, Pháo binh, Hóa học... Còn ông thì được thuyên chuyển về công tác ở Quân chủng Hải quân. Ông nghĩ rằng cơ hội mình sẽ trở về miền Nam chiến đấu để giải phóng quê hương như lời hứa trước khi lên đường tập kết ra miền Bắc không còn nữa.

Năm 1962, đang giữa khóa học ở Trường Sĩ quan Hải quân thì Hồ Đắc Thạnh được điều về Đoàn 759 rất khẩn cấp, rất bí mật và ông cũng không biết nhiệm vụ của mình sắp tới sẽ làm gì. Ông được sống biệt lập ở số nhà 83, phố Lý Nam Đế, Hà Nội. Ở đó một thời gian khá dài, lòng dạ vô cùng bồn chồn sốt ruột, mong sao cấp trên sớm giao nhiệm vụ cụ thể để được thực hiện. Vào một buổi sáng mùa đông ông nhận được quyết định xuống tàu làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Lúc đó trong lòng ông vô cùng sung sướng và phấn khởi, cho dù nguyện vọng của ông lúc đó là trực tiếp cầm súng chiến đấu trên đất quê hương chưa thành hiện thực; nhưng ông suy nghĩ vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam cũng vô cùng quan trọng, nó cũng góp phần giải phóng quê hương. Từ đó Hồ Đắc Thạnh xác định quyết tâm sẵn sàng nhận và hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì cấp trên giao cho. Đồng chí Hồ Đắc Thạnh đã liên tục bám tàu, đi nhiều chuyến, vào nhiều bến, vượt qua nhiều tình huống khó khăn, phức tạp, luôn xứng đáng với lòng tin tưởng của cấp trên và đồng đội.

Đồng chí Hồ Đắc Thạnh đã cùng với cán bộ chỉ huy 12 lần/chuyến vận chuyển vũ khí trang bị chi viện cho chiến trường miền Nam với khối lượng 800 tấn và 18 cán bộ theo tàu vào tăng cường cho lực lượng vũ trang miền Nam. 10 lần chỉ huy tàu, vận chuyển vũ khí trang bị gián tiếp chi viện chiến trường miền Nam qua cửa sông Gianh và cửa Hội. Cụ thể:

Chuyến thứ nhất vào bến Cà Mau ngày 19-9-1963.

Chuyến thứ hai vào bến Bến Tre ngày 29-11-1963.

Chuyến thứ ba vào bến Trà Vinh ngày 1-1-1964.

Chuyến thứ tư vào bến Cà Mau ngày 1-5-1964.

Chuyến thứ năm vào bến Cà Mau ngày 27-6-1964.

Chuyến thứ sáu vào bến Bến Tre ngày 26-7-1964.

Chuyến thứ bảy vào bến Cà Mau ngày 22-10-1964.

Chuyến thứ tám vào bến Vũng Rô ngày 28-11-1964.

Chuyến thứ chín vào bến Vũng Rô ngày 25-12-1964.

Chuyến thứ mười vào bến Vũng Rô ngày 1-2-1965.

Chuyến thứ mười một vào bến Phổ An, Đức Phổ (Quảng Ngãi) ngày 27-11-1966.

Chuyến thứ mười hai vào bến Cà Mau, bị địch phát hiện, cấp trên cho tàu quay lại.

Đó là hành trình mười hai chuyến làm thuyền trưởng chỉ huy tàu không số chở vũ khí vượt biển chi viện cho chiến trường miền Nam từ năm 1963 đến năm 1966 của đồng chí Hồ Đắc Thạnh.

Trong mười hai chuyến chở vũ khí về miền Nam ấy có ba chuyến tàu không số cập bến Vũng Rô. Trong hồi ức của mình, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh đã viết khá tỉ mỉ hành trình ba lần ông chỉ huy tàu không số chở vũ khí cập bến Vũng Rô với những cảm nghĩ vô cùng xúc động:

... Chuyến đi Cà Mau thắng lợi vừa về đến Hải Phòng ngày 1 tháng 11 năm 1964. Cán bộ, chiến sĩ tàu 41 đang họp rút kinh nghiệm và tranh thủ nghỉ ngơi sau những ngày vật lộn với sóng to, gió lớn, thì được lệnh: "Đưa tàu về cảng Đồ Sơn để nhận nhiệm vụ". Lúc đó là 16 giờ ngày 10 tháng 11 năm 1964, tôi trao đổi với Thuyền phó Hồng Lỳ và Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu: "Tranh thủ cho anh em ăn cơm sớm để lên đường". Đêm mùa đông lạnh buốt và sương mù dày đặc, nên đến 19 giờ tàu mới tới cảng Đồ Sơn. Tàu cập bến, tôi và Chính trị viên Chiếu được xe con chở về Sở chỉ huy Quân chủng. Tại phòng họp đã có mặt các đồng chí Tư lệnh Quân chủng Nguyễn Bá Phát, Chính ủy Hoàng Trà, Đoàn trưởng Đoàn Hồng Phước, Chính ủy Võ Huy Phúc, Chủ nhiệm Chính trị Võ Hành và các sĩ quan tham mưu chuyên trách vận chuyển B: Bộ Tổng tham mưu có Phó cục trưởng Cục Tác chiến B Phan Hàm, Cục trưởng Cục Bảo vệ Kinh Chi và một người nữa là đồng chí Trần Ngọc Quang - người quê ở Phú Yên cùng đi với tàu của tôi lần này.

Một tấm hải đồ tỷ lệ lớn trải rộng trên bàn trước mặt đồng chí Tư lệnh - nhìn trên đó người ta thấy dày đặc những mũi tên xanh, đỏ cùng những ký hiệu minh họa tình hình có liên quan công tác vận chuyển thu thập qua các nguồn tin mới nhất đáng tin cậy.

Buổi họp giao nhiệm vụ sơ bộ chuyến đi bắt đầu. Đã nhiều lần nhận nhiệm vụ, nhưng không biết sao lần này lòng tôi cảm thấy bồi hồi, rộn ràng. Mặc dù đồng chí Tư lệnh chưa nói, nhưng qua tấm hải đồ mà mọi ký hiệu tình hình đều tập trung vào vùng biển tỉnh Phú Yên. Như đoán được ý nghĩ trong lòng tôi, nên sau khi Trưởng phòng Quân báo Kim Sang báo cáo tình hình địch trên biển miền Nam nói chung và tập trung ở vùng biển Nam Trung Bộ, trên bờ thì khu vực tỉnh Phú Yên; đồng chí Tư lệnh nói: "Năm 1963, tàu X chở 20 tấn vũ khí chi viện Khu 5 vào bến Lộ Diêu tỉnh Bình Định. Lần đó tàu đến nơi, chuyển được hàng, nhưng vì sóng to, gió lớn, nên không về hậu phương được, anh em phải phá tàu rồi đi bộ về. Hiện nay, nhu cầu vũ khí ở chiến trường Khu 5 rất bức thiết. Tỉnh ủy các tỉnh ven biển Khu 5 đã cử người mang thư ra Trung ương xin chi viện vũ khí, đang chờ chúng ta. Theo chỉ thị của Trung ương, lần này ta đưa hàng vào bến Vũng Rô (tỉnh Phú Yên). Ngừng một lát, đồng chí nói tiếp: "Vì sao cấp trên và Thường vụ Đảng ủy Quân chủng chọn Vũng Rô làm bến? Vũng Rô là vũng có nước sâu, tàu ra vào không lệ thuộc vào thủy triều; lại nằm kề sát đường sắt và Quốc lộ 1A, nơi địch rất sơ hở, nếu ta biết lợi dụng yếu tố bí mật, bất ngờ thì ta sẽ thắng. Bên cạnh những ưu điểm đó, Vũng Rô là nơi dễ bị địch bao vây, chỉ cần một tàu đứng chặn giữa Mũi Điện và Hòn Nưa là tàu ta khó thoát. Bộ đã điện cho Khu 5 chuẩn bị đón. Tàu của các đồng chí vào có thể gặp bến đón hoặc không gặp, nhưng dù gặp hay không gặp thì đồng chí Trần Ngọc Quang cũng phải ở lại nắm tình hình, tổ chức bến rồi ra sau. Bộ Tham mưu và Thủ trưởng Đoàn chuẩn bị chu đáo để Bộ Tư lệnh Quân chủng có thể giao nhiệm vụ chính thức cho tàu. Từ giờ phút này tàu 41 cách ly với các đơn vị trong Đoàn và bên ngoài".

Những ngày tiếp theo biết bao công việc bận rộn. Cán bộ tàu chúng tôi bò lăn ra nghiên cứu hải đồ, tính toán thủy triều, nhận dạng mục tiêu, tìm hướng đi tránh ra-đa Cù Lao Ré và Chóp Chài. Đồng chí chính trị viên tàu lo công tác Đảng, công tác chính trị.

Chúng tôi vừa khẩn trương chuẩn bị mọi mặt vừa lo đón tiếp anh em quân giải phóng quê ở tỉnh Phú Yên bổ sung về tàu làm thủy thủ. Đó là các đồng chí Lê Kim Tự, Lê Xuân quê ở xã Hòa Hiệp và đồng chí Trần Mỹ Thành, quê ở xã Xuân Thịnh. Các anh vừa trải qua ba tháng vượt đường Trường Sơn ra miền Bắc, thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức chưa được bao lâu, nay lại xuống tàu làm nhiệm vụ chở vũ khí bằng con đường Hồ Chí Minh trên biển để về lại quê hương. Tàu có 21 đồng chí, hầu hết là anh em quê ở tỉnh Phú Yên và Bình Định cùng một số ít anh em ở các tỉnh khác. Trừ 4 đồng chí có vợ con ở miền Nam và đồng chí Trần Ngọc Quang vừa mới có người yêu, số còn lại chưa một ai được "nếm mùi yêu đương".

Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/162648/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 17 Tháng Mười Một, 2011, 01:23:06 pm
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 3)


Một đêm nằm bên cạnh tôi, anh Quang tâm sự: "Từ hôm được tin cấp trên báo cho mình được đi theo tàu của cậu về lại quê hương chiến đấu, mình mừng quá không sao ngủ được". Tôi nói khích vào: "Chớ không phải nhớ người yêu không ngủ được à?". "Cái đó cũng có! "- Anh Quang nói. "Phải chăng lúc này mình cũng như cậu chưa đụng đến chuyện yêu đương thì sướng biết bao nhiêu. Tập "công văn tình cảm" của cô ấy cất kỹ dưới đáy ba lô theo mình đi khắp nơi, mãi đến chiều hôm qua sau một cuộc đấu tranh dằn vặt, mình đã đốt hết rồi. Bây giờ mình thật sự yên tâm. Khi nào gặp lại cô ấy, cậu hãy nói giúp mình vì sao mình ra đi mà không để lại cho cô ấy một tín hiệu gì. Tất cả vì sự an toàn và thắng lợi của chuyến đi!".

Mùa gió chướng về, mùa hoạt động của những con "tàu không số" đã tới. Buổi giao nhiệm vụ chính thức chuyến đi mở đường vào bến Vũng Rô (tỉnh Phú Yên ) cho tàu 41 được tiến hành ngắn gọn. Sau khi nghe tôi báo cáo tình hình chuẩn bị chuyến đi và báo cáo bổ sung của Trưởng phòng Quân báo về tình hình địch ở khu vực bến, đồng chí Tư lệnh quyết định phương án và thời gian xuất phát của tàu. Đồng chí nhấn mạnh: "Đây là bến mới, có thể lực lượng địa phương tổ chức đón và bốc hàng có khó khăn. Để bảo đảm bí mật sử dụng lâu dài bến mới này, thời gian cho phép tàu vào bến từ 23 đến 24 giờ và nhất thiết phải rời bến trước 3 giờ sáng!".

Buổi giao nhiệm vụ kết thúc, mọi người ra về. Tôi và anh Quang được đồng chí Tư lệnh Quân chủng gặp riêng. Đi bách bộ dọc hành lang Sở chỉ huy, đồng chí Tư lệnh ân cần căn dặn chúng tôi phải hết sức cố gắng tập trung lãnh đạo, chỉ huy để chuyến đi thắng lợi. Siết chặt tay, đồng chí chúc chúng tôi lên đường thắng lợi. Gặp anh Sáu Suyền (Bí thư Tỉnh ủy) và các anh ở bến cho tôi gửi lời thăm!".

Buổi chiều cuối cùng tàu chuẩn bị xuất phát, cấp trên cho xe chở đến 3 người khách. Anh Võ quê ở tỉnh Bình Định, anh Long và anh Kiến quê ở tỉnh Quảng Nam. Các anh nhận nhiệm vụ vào tăng cường cho bến.

Đúng 24 giờ ngày 16-11-1964, tàu rời bến Bãi Cháy. Các đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy Đoàn ôm hôn thắm thiết cán bộ và chiến sĩ của tàu. Các anh đều nói: "Chúc tàu 41 hành trình thuận buồm xuôi gió. Bộ tư lệnh chờ tin thắng lợi của các đồng chí báo về!". Tình cảm hậu phương lớn làm ấm lòng các cán bộ, chiến sĩ tàu 41 trên đường về tiền tuyến lớn.

Trăng trung tuần tháng 11 tỏa sáng một vùng biển bát ngát mênh mông. Sau trận gió mùa Đông Bắc, biển lặng sóng, con tàu lướt nhẹ êm ru. Giữa cảnh trời nước mênh mông, trăng thanh, gió mát, trừ các cán bộ và thủy thủ trực canh, còn lại tập trung lên boong tàu uống trà, trò chuyện và ca hát. Các đồng chí khách trải chiếu nằm trên hầm hàng nói cười sảng khoái. Anh Kiến nói với tôi: "Mình đi ra trận mà như đi du lịch thế này thì còn gì bằng! Các ông lính hải quân thật là sướng!". Đúng là như thế, giữa mùa đông, mùa của gió chướng cấp 7 cấp 8 mà có một đêm biển lặng, trời yên thế này là rất hiếm. Riêng chúng tôi, những người lính biển hiểu rất rõ biển lặng hôm nay là giao thời của những trận gió mùa Đông Bắc, nó chỉ có trong chốc lát. Và trong hoạt động của Đoàn "tàu không số" chúng tôi thì ngược lại: "Biển lặng là thời tiết xấu", khó tránh các trạm ra-đa và các tàu tuần tiễu của địch.

Gần sáng, biển bắt đầu lên tiếng. Con tàu được sóng biển nâng lên và đột nhiên hạ xuống giữa hai đợt sóng của gió mùa. Tốc độ tàu giảm, tàu lắc lư như người say chao đảo. Trong khoang ngủ thủy thủ, đồ đạc văng lên tung tóe. Đó đây một vài người nôn mửa. Không chỉ có khách mà có cả người của tàu cũng nôn mửa. Càng về trưa, sóng càng lớn không nấu cơm được, tất cả chúng tôi phải ăn bằng lương khô.

Tàu hành quân được hai ngày thì có điện của Sở chỉ huy: "Dừng lại ở vùng đảo của bạn chờ lệnh!". Tranh thủ thời gian chúng tôi tiếp tục huấn luyện các phương án chiến đấu. Thời gian chờ đợi nặng nề trôi...

Đúng 18 giờ ngày 26-11-1964, tàu vượt qua giới tuyến tạm thời trên biển. Tuy là giới tuyến tạm thời, nhưng với chúng tôi đây là tuyến chiến đấu. Tôi ra lệnh nâng cấp sẵn sàng chiến đấu và tăng cường quan sát. Thuyền phó Hồng Lỳ trực tiếp đến từng giường của các đồng chí khách để phổ biến tình hình. Tôi đang loay hoay đo đạc xác định vị trí tàu, thì nghe phía sau có người hô to: "Xin chào miền Nam tiền tuyến lớn, chúng tôi đang về theo tiếng gọi của quê hương!". Đó là anh Võ - người khách duy nhất trên tàu không say sóng. Anh đang giơ tay vẫy chào tạm biệt miền Bắc và giang tay ôm lấy miền Nam trong giây phút bồi hồi xúc động khi biết tàu đang qua giới tuyến tạm thời.

Tàu vẫn hành trình theo kế hoạch, thông tin liên lạc giữa tàu và Chỉ huy sở vẫn được giữ vững. Khoảng 12 giờ trưa, đồng chí cơ yếu đưa cho tôi bức điện, nội dung: "Bộ tư lệnh Vùng 1 Duyên hải ngụy phái hai tàu chiến hộ tống một phái đoàn Mỹ đi thị sát ra-đa Cù Lao Ré, tàu 41 qua vùng biển Đà Nẵng-Lý Sơn phải chú ý! Tình hình bến rất êm!".

Đêm trên vùng biển miền Trung, ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc có giảm chút ít, nhưng vẫn còn sóng cấp 5, cấp 6. Xa xa một vài chiếc ghe lưới chuồn chập chờn trên sóng biển.

Ngày 28-11-1964, ngày hành trình cuối cùng của tàu. Ba ngày và đêm qua, ngoài sự chịu đựng sóng gió, tàu đã hai lần cơ động tránh tàu tuần tiễu của địch. Khoảng 5 giờ sáng, một chiếc máy bay của ngụy từ một căn cứ trên đất liền (có lẽ từ Phù Cát hay Đông Tác) bay đến lượn trên tàu nhiều lần ở độ cao từ 50 đến 100 mét. Sau khi hội ý với cán bộ trên tàu, tôi cho một thủy thủ mang cờ ba que kéo lên đỉnh cột cờ, đồng thời cho anh em mang những con cá ướp đá và những bó mực khô đã chuẩn bị sẵn, cùng với những chai rượu giơ cao vẫy gọi như mời chào "người bạn đường trên biển" xuống nhậu.

Sau mấy lần quần lượn trên tàu, lúc cắt ngang, lúc bay dọc theo tàu-có lẽ để xác định hướng đi của tàu-rồi bay thẳng về hướng đất liền. Không khí trên tàu sôi động hẳn lên. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Số anh em mới đi chuyến đầu và khách rất lo lắng. Cảm giác: "Đi chiến trường như đi du lịch", không còn nữa. Tôi nói với anh Võ: "Ở trên bộ khi gặp địch còn có thể tìm chỗ ẩn nấp, hoặc khi không thể tránh được thì nổ súng và chẳng may phải hy sinh, không sớm thì muộn đồng đội sẽ tìm đến đưa thi hài về chôn cất. Còn ở đây, trên biển cả mênh mông, con tàu như chiếc lá trên mặt nước, tìm chỗ ẩn nấp chỉ bằng cách tự giấu tung tích của mình để đạt đến đích cuối cùng là đưa vũ khí vào chiến trường, và trong trường hợp buộc phải chiến đấu thì phải đánh đến cùng và khi có nguy cơ rơi vào tay địch thì sử dụng khối bộc phá ngàn cân làm nổ tung con tàu sao cho không còn một dấu vết!".

"Báo cáo thuyền trưởng, mạn phải 30" có hai tàu xuất hiện!"- Tiếng đồng chí trực canh trên đài quan sát cắt ngang câu chuyện của chúng tôi. Tôi cầm chiếc ống nhòm của đồng chí trực canh trao cho và quan sát. Hai chấm đen rõ nét ở cuối đường chân trời. Một ý nghĩ thoáng trong đầu. Sau khi phát hiện của máy bay, chúng có thể cho tàu chiến tiếp cận kiểm tra. Phải cảnh giác sẵn sàng đối phó. Tôi cho anh em thay số hiệu tàu, sửa lại dàng lưới đánh cá, ngụy trang và đồng thời bí mật chuẩn bị vũ khí khi cần chủ động đánh địch.

Hai tàu địch tiếp cận tàu ta cách một hải lý thì giảm tốc độ. Trên boong tàu lố nhố một đám sĩ quan, binh lính địch đang chỉ chỏ nói cười. Trên ca-bin tàu, một tên sĩ quan ngụy đang dùng ống nhòm quan sát tàu ta. Khoảng 10 phút sau, một chiếc tách đội hình, tăng tốc độ chạy vòng phía sau, sang mạn trái tàu, rồi cả hai chạy song song với tàu ta một khoảng cách nhất định. Thời gian trôi đi, căng thẳng và chờ đợi, sự chờ đợi của hai khả năng: Đánh nhau nếu chúng phát hiện tàu ta chở vũ khí tiếp tế cho Việt cộng ở miền Nam, hoặc bỏ đi nếu ta thành công trong chiếc vỏ ngụy trang giả dạng tàu đánh cá nước ngoài. Rốt cuộc, phần thắng thuộc về người chủ động. Sau 2 giờ hộ tống, kèm cặp, xác minh, 2 tàu địch đã kéo còi tăng tốc độ quay về hướng khác. Không khí trên tàu bị nén chặt, giờ đây được "mở van" giảm sức căng mặt ngoài của bình chứa. Mọi người thở phào, nhẹ nhõm.

Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/162782/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 18 Tháng Mười Một, 2011, 03:31:03 pm
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 4)


Phải tranh thủ ăn uống chút gì để lấy sức đêm nay vào bến! - Đồng chí Lộc, thuyền phó phụ trách công tác hậu cần của tàu - người thường được anh em gọi là "Thần giữ của", lúc này cũng xuôi lòng bởi những lời tán tụng của anh em.

Có một điều thú vị phải qua nhiều lần khảo nghiệm mới nhận biết được: Đó là khi đang say sóng mà gặp tình hình căng thẳng như gặp địch, tàu gặp tai nạn hoặc tàu đi lâu ngày nhìn thấy đất liền... thì cơn say sóng biến đâu mất, nhường lại cho sự tỉnh táo bình thường. Các đồng chí say sóng nhất giờ đây cũng ăn được chút ít.

Tàu tiếp tục hành trình. Đúng 12 giờ ngày 28-11-1964, tàu chuyển hướng vào bến. Không khí chuẩn bị trên tàu rất khẩn trương và bận rộn.

Đúng 14 giờ thì phát hiện lờ mờ rặng núi phía đất liền. Tình hình vẫn yên tĩnh. Thỉnh thoảng có một hai lần chiếc máy bay bay qua hướng đi của tàu. Trời đã tối dần. Lúc này tàu ta đã nằm trong bán kính chiếu sáng của đèn Mũi Nậy rồi mà vẫn chưa nhìn thấy ánh chớp. Bao nhiêu giả thuyết được đặt ra: "Có thể vị trí tàu ta sai lệch! Có thể đèn Mũi Nậy không có hoặc bị hỏng máy phát điện...".

Tàu ta vẫn tiếp tục đi theo hướng đã định. Đúng 22 giờ, tàu cách bờ núi 1 hải lý. Chúng tôi dùng đèn pin phát tín hiệu nhận nhau, 5 phút rồi 10 phút trôi qua vẫn không thấy tín hiệu trả lời.

Bình tĩnh, cảnh giác và thận trọng. Tôi cho tàu giảm tốc độ và tránh xa các mõm núi đá. Lưới ngụy trang trên các ụ súng máy được tháo gỡ ra để sẵn sàng chiến đấu. Phía mạn trái tàu một hòn đảo hiện ra rõ dần. Hòn Nưa! Đúng là Hòn Nưa rồi! Cửa bến Vũng Rô đã ở trước mặt. Tôi cho tàu chạy từ từ vào giữa Vịnh và thả trôi. Bốn bề yên tĩnh. Phía Đèo Cả thỉnh thoảng có một vài ánh đèn le lói rồi vụt tắt. Chiếc xuồng ba lá được thả xuống, đồng chí thuyền phó cùng hai chiến sĩ mang theo vũ khí chèo vào phía bờ tìm bắt liên lạc với bến. Tàu thả trôi chờ đợi. Thời gian nhích dần chậm chạp.

Mười phút, hai mươi phút rồi ba mươi phút trôi qua. Bỗng từ trong bờ có ánh đèn pin chớp lên rồi vụt tắt. Anh Quang dùng đèn pin phát tín hiệu nhận nhau và được phía trong bờ đáp lại đúng như quy định. Toàn tàu thật sự yên lòng mình đã vào đúng bến Vũng Rô.

Một chiếc ghe máy kéo theo xuồng ba lá cặp mạn. Các anh lên tàu. Phút gặp gỡ đầu tiên vô cùng vui mừng, xúc động. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào không nói nên lời.

Đồng chí Chính trị viên Chiếu ngẫu hứng đọc mấy câu thơ:

... Ôi rất gần mà bấy lâu xa cách

Chỉ mấy ngày đường - vạch giới tuyến chia đôi

Mà hôm nay tôi đã đến đây rồi

Bằng con đường Hồ Chí Minh trên biển...

Anh Sáu Suyền và các anh ở bến Vũng Rô xúc động bắt tay tất cả anh em trên tàu. Không ngờ anh Sáu (ngoài kia tôi được chỉ thị vào gặp anh Sáu Râu) Bí thư Tỉnh ủy lại chính là anh Trần Suyền - ông Tú đầu tiên và duy nhất ở quê tôi lúc tôi còn nhỏ và cách nhà tôi không quá 30 phút đi bằng xe đạp.

Sau những phút vui mừng, bồi hồi xúc động, tôi trình bày với các anh ở bến: "Theo lệnh cấp trên, tàu tôi chỉ được ở lại đến 3 giờ sáng là phải rời khỏi bến". Tàu chở 80 tấn vũ khí và một số trang bị khác, làm sao huy động người đến bốc dỡ để tàu ra. Cầm chặt tay tôi, anh Sáu nghẹn ngào nói: "Chúng tôi tổ chức đón tàu các đồng chí từ mấy đêm nay, đêm nào cũng mong được gặp, đêm nay gặp rồi sao cứ bàng hoàng, xúc động, vừa mừng vừa lo, mừng vì ước mong đã trở thành sự thật, còn lo vì con tàu lớn quá, khối lượng hàng lại nhiều làm sao bốc dỡ trong mấy tiếng đồng hồ cho xong!".

Thấu hiểu nỗi bâng khuâng, suy nghĩ của các anh ở bến, tình cảm quê hương trong lòng chúng tôi thôi thúc phải tìm mọi cách để giải quyết. Chi ủy họp cùng cán bộ thuyền, có đồng chí Quang tham dự. Vấn đề đặt ra là: "Nếu cho tàu ra khỏi lãnh hải chờ tối mai vào hoặc ở lại bến, ngụy trang thật kín, tối mai bốc hết hàng rồi tàu ra!". Ý kiến trao đổi khá sôi nổi. Ý kiến của tôi là ta cho tàu ở lại bến. Điều quan trọng là làm sao ngụy trang thật tốt để che mắt được kẻ địch. Chi ủy viên, máy trưởng nói: "Như vậy có trái lệnh của cấp trên là tàu phải rời khỏi bến trước 3 giờ sáng không?". Bây giờ chỉ có một điều duy nhất làm cơ sở cho việc quyết định cho tàu ở lại hay ra là căn cứ chỉ lệnh giao nhiệm vụ cuối cùng của cấp trên: "Cho phép chi ủy-chi bộ và cán bộ tàu tùy tình hình cụ thể mà quyết định và chịu trách nhiệm trước cấp trên".

Cuộc họp kết thúc. Tôi gặp anh Sáu báo cáo là tàu sẽ ở lại bến để tối mai bốc hết hàng rồi ra và đề nghị các anh tìm chỗ giấu và ngụy trang tàu. Tôi cho chuyển ngay bức điện cuối cùng: "Tàu ở lại bến bốc hàng xong, tối mai ra!". Kết thúc liên lạc với Sở chỉ huy.

Đúng 4 giờ sáng hoàn thành xong việc cất giấu và ngụy trang tàu kín đáo. Cùng với bến, chúng tôi cho lực lượng chốt chặn các vị trí cần thiết. Lệnh chiến đấu được ban hành phong tỏa chặt các hướng ra vào Vũng Rô và nghiêm cấm việc đốt lửa nấu ăn trong khu vực tàu đậu. Tất cả đều ăn lương khô và uống nước suối. Việc khó khăn nhất là làm sao giải thích để ghe của ngư dân không vào suối lấy nước, rất dễ bị lộ. Anh Sáu bảo tôi yên tâm, việc đó đã giao cho bảo vệ bến và xã đội trưởng xã Hòa Hiệp rồi.

Mặt trời đi qua chậm chạp trên đỉnh đầu. Không gian yên tĩnh. Thỉnh thoảng có một vài chiếc máy bay bay qua vùng trời Vũng Rô theo hướng Nam-Bắc; tiếng xình xịch của đoàn tàu hỏa; tiếng rú ga, sang số của những đoàn xe quân sự nặng nề leo dốc Đèo Cả nghe chói tai. Trên tàu lúc này còn lại tôi, thuyền phó và máy trưởng-tổ rời tàu cuối cùng nếu phải chiến đấu, điểm hỏa phá hủy tàu.

Khoảng 14 giờ, anh Sáu và đồng chí cần vụ xuống tàu. Anh cho biết tình hình vẫn êm, mọi công tác chuẩn bị cho đêm nay bốc dỡ hàng đã tạm ổn. Lực lượng dân quân du kích và nhân dân các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân đã được huy động, sẵn sàng làm nhiệm vụ. Chúng tôi uống nước và nói chuyện thân mật. Qua anh, tôi biết được tình hình tỉnh nhà sau bao năm xa cách. Tôi rất mừng trước khí thế cách mạng hừng hực của quê hương Phú Yên.

Tia nắng cuối cùng trong ngày đã tắt, hoàng hôn trùm xuống khá nhanh, thời điểm chuyển giao quyền làm chủ bến Vũng Rô cho chúng tôi - lực lượng cách mạng đã tới. Tôi cho anh em nhanh chóng tháo dỡ mạng ngụy trang và cơ động tàu về bãi chính để bốc hàng. Trên bờ, hàng trăm dân công đã chờ sẵn. Chiếc cầu tàu làm tạm bằng cây rừng được khẩn trương lắp ghép. Anh chị em dân công phấn khởi tràn xuống tàu. Không khí lao động khẩn trương, tấp nập. Ai lên tàu cũng muốn đi xem tất cả các nơi của "tàu mình", rồi mới chịu đi làm việc. Một nhóm chị em đứng gần hầm hàng chờ đến lượt mình vác, xầm xì bàn tán: "Làm sao nẫu biết nẫu dô!". Một chị to tiếng: "Tao giả chạt mặt mày, chớ tại sao nãy giờ mày đi đâu không làm!".

Chao ơi, mười mấy năm trời, hôm nay tôi mới được nghe lại tiếng "nẫu", "giả chạt" ở quê hương. Nó thân thương và vô cùng gần gũi, nó đã đưa tôi về với cội nguồn âm sắc quê hương, của một Phú Yên trù phú, có cánh đồng Tuy Hòa thẳng cánh cò bay, bên dòng sông Đà Rằng nước lững lờ trôi chảy.

Trên tàu, dưới bến người chạy đi, chạy lại tấp nập, rộn ràng, khẩn trương bốc dỡ, chuyển hàng. Tôi bưng ca nước mời anh chiến sĩ đang ngồi nghỉ sau khi bốc hàng dưới hầm tàu lên, quần áo ướt đẫm mồ hôi. Anh nói: "Đã mấy ngày nay đơn vị không còn gạo, anh em phải ăn trái sung!". Tôi nói: "Quê mình mà cũng thiếu gạo à?" Anh giải thích: "Gạo thì thiếu cha gì, nhưng gạo từ các xã Hòa Tân, Hòa Xuân... chuyển về đây phải qua đường số 1A thì khó khăn lắm. Bọn lính Nam Triều Tiên nó phục kích dai dẳng hai bên Đèo Cả, khó mà đi lọt qua được!". Hớp một ngụm nước, anh nói tiếp: "Nhưng không sao, kỳ này có súng đạn của các anh đưa vô, bọn tôi sẽ mở rộng địa bàn, giành dân, mà đã có dân là có gạo!". Tôi rơm rớm nước mắt, một mối cảm thông sâu sắc dâng trào. Những con người đã mấy ngày chỉ ăn trái sung mà khi tàu đến đã lao động bốc dỡ hàng với một nhiệt tình và tốc độ chưa từng thấy. Tôi đã đưa tàu vô miền Nam nhiều bến, với lượng hàng này ở những bến ấy phải bốc dỡ đến mấy ngày. Nhưng ở đây... sức mạnh nào đã khiến cho các anh chị em lập nên chiến công kỳ diệu ấy!

Hai giờ sáng, hàng đã bốc xong. Theo đề nghị của chúng tôi, các anh đã cho chuyển cát xuống để đằm tàu tạo nên sự ổn định khi tàu ra khơi gặp gió mùa Đông Bắc.

Tàu chuẩn bị rời bến. Phút chia tay không ai muốn nhưng rồi cũng đến. Anh Sáu cầm tay tôi lắc lắc nói: "Chúc các anh lên đường trở về miền Bắc an toàn, hẹn ngày gặp lại!". Những vòng tay ôm choàng lấy nhau, những dòng nước mắt thấm qua vai áo. Những chiếc khăn tay giơ lên vẫy chào con tàu đang từ từ rời bến Vũng Rô. Tôi dùng tay làm loa nói vọng vào bờ: "Tàu nẫu ra rồi, tàu nẫu lại dô!".

Con tàu từ từ rời bến Vũng Rô.

Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/162893/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 21 Tháng Mười Một, 2011, 01:31:04 pm
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 5)


III. Chuyến hàng đặc biệt

Câu chuyện về người chiến sĩ bảo vệ bến Vũng Rô: "Mấy hôm nay đơn vị hết gạo phải ăn trái sung" cứ day dứt trong lòng và theo tôi suốt con đường tàu trở ra miền Bắc.

Sau mấy ngày được phép nghỉ ngơi và chuẩn bị, hôm nay chúng tôi báo cáo kết quả chuyến đi mở đường vào bến Vũng Rô của tàu 41. Thành phần tham dự cũng đông đủ như cuộc họp giao nhiệm vụ lúc ban đầu. Thay mặt cán bộ, chiến sĩ tàu 41, tôi báo cáo tình hình chuyến đi, hoạt động của địch trên từng đoạn đường, việc tổ chức đón nhận hàng tại bến Vũng Rô... Cả gian phòng im lặng khi nghe tôi báo cáo: "Các anh ở bến mấy tuần nay phải ăn trái sung làm nhiệm vụ chờ đón tàu ta vào!".

Sau khi đánh giá kết quả chuyến đi, đồng chí Tư lệnh Quân chủng nói: "Từ nay trong hoạt động vận chuyển chi viện chiến trường miền Nam, chúng ta có thêm một bến mới, đó là bến Vũng Rô, tỉnh Phú Yên. Qua chuyến đi của tàu 41, tuy điều kiện đón tiếp, tổ chức bốc dỡ hàng có nhiều khó khăn, nhưng bến vẫn bảo đảm được; theo dõi vẫn chưa thấy địch có phản ứng gì, vẫn còn là nơi sơ hở. Thường vụ Đảng ủy và Tư lệnh Quân chủng có trao đổi và quyết định chuyến đi thứ hai của tàu 41. Chuyến đi này ngoài số hàng là vũ khí trang bị, theo đề nghị của cán bộ, chiến sĩ tàu, ta nên chuyển một số gạo chi viện trực tiếp cho lực lượng tại bến".

Gạo! "Có gạo, có vũ khí sẽ mở rộng địa bàn giành dân và khi đã có dân rồi sẽ có gạo". Mối quan hệ nhân quả mà người chiến sĩ bảo vệ bến Vũng Rô nói với tôi trong đêm bốc hàng, tuy không lý luận cao siêu, nhưng đầy tính thuyết phục. Tuy thế nhưng việc chuyển một số gạo vào miền Nam-tuy rất ít nhưng trong tình hình nhu cầu vũ khí chi viện chiến trường cấp thiết cũng làm nảy sinh nhiều ý kiến. Nào là: "Trong lúc ta tận dụng từng khoảng trống nhỏ của tàu để xếp vũ khí, thì đem xếp 2-3 tấn gạo vào chiếm hết chỗ!". Nào là: "Chở gạo vào miền Nam là chở củi về rừng!"...

Gạo! Chỉ có chúng tôi mới hiểu hết sự cấp thiết của gạo lúc này đối với các đồng chí ở bến. Vì vậy, nên khi đã có quyết định của đồng chí Tư lệnh rồi, ngoài việc lo xuống hàng là vũ khí, trang bị, tàu cử một số đồng chí lo tiếp nhận, vận chuyển gạo xuống tàu. Đồng chí Lộc thuyền phó hậu cần được giao trọng trách đó.

Buổi chiều chuẩn bị cuối cùng. Sau khi đóng cố định các nắp hầm hàng, đồng chí Lộc đưa tôi xem phiếu xuất ba tấn gạo tám thơm dành riêng cho bến. Gạo được để vào nơi khô ráo nhất trong khoang hàng đề phòng gió mùa Đông Bắc tạt nước lên ẩm ướt. Thế là chuyến đi thứ hai này ngoài vũ khí trang bị, tàu tôi còn có thêm ba tấn gạo tám thơm. Số lượng tuy ít, nhưng nó là món hàng đặc biệt của nhân dân miền Bắc đã vất vả một nắng hai sương làm ra dưới làn bom đạn ác liệt của máy bay giặc Mỹ, gửi đến những chiến sĩ đang ngày đêm đối mặt với quân thù ở miền Nam tiền tuyến-bến Vũng Rô quê hương tôi.

Chuyến đi thuận lợi. Sau bốn ngày đêm vật lộn với sóng to, gió lớn, lách tránh một vài lần tàu tuần tiễu của địch, tàu chúng tôi lại đúng bến Vũng Rô. Chỉ còn cách độ một cây số, tàu nhận được ngay tín hiệu của bến, dẫn dắt vào nơi trú đậu ngụy trang an toàn, chu đáo.

Vui mừng gặp lại nhau. Những cái bắt tay, những nụ cười rạng rỡ. Đứng bên cạnh anh Sáu, anh Trần Ngọc Quang (người theo tàu tôi chuyến trước) ghé lại nói nhỏ với tôi: "Chúc mừng tàu nẫu lại dô!". Và cả ba cùng cười rạng rỡ.

Mọi công việc lại tấp nập khẩn trương. Nào, cho tàu đi giấu và ngụy trang trước khi trời sáng. Nào tổ chức lực lượng chốt chặn các hướng trọng điểm. Bận rộn nhất vẫn là việc bốc dỡ hàng chuyến này phức tạp hơn vì đoạn đường xa và vận chuyển tới nơi cất giấu ngay trong đêm.

Tôi báo cáo với anh Sáu Suyền, chuyến đi này ngoài hàng là vũ khí trang bị, còn có ba tấn gạo tám thơm dành riêng cho lực lượng bảo vệ bến Vũng Rô. Nỗi xúc động dâng trào trên đôi mắt người Bí thư Tỉnh ủy, trực tiếp lãnh đạo và chỉ huy bến. Vốn biết anh là người rất nghiêm khắc-ngay cả bản thân-trong việc sử dụng lương thực những năm tháng gian khổ của cuộc chiến tranh. Qua người cần vụ kể: "Có lần trên đường đi công tác, "thầy trò" bắt được một con rùa, vì đã mấy ngày ăn muối, "trò" đề nghị giết rùa xào với măng rừng, nhưng "thầy" không cho và bảo "trò" đem thả vào một hốc đá cho rùa lớn lên, sinh sản ra nhiều con rùa khác, để dành khi gặp khó khăn hơn...". Tuy biết vậy, nhưng tôi vẫn mạnh dạn đề nghị anh: "Tranh thủ phát gạo cho anh em ăn lấy sức tối mai bốc dỡ hàng". Dừng một lát như đắn đo, suy nghĩ, sau cùng anh chấp nhận đề nghị của tôi. Thế là nắp hầm hàng được mở ra, từng bao gạo cấp cho các đơn vị được tiến hành ngay trong đêm.

Cầm bao gạo trong tay, anh chiến sĩ bảo vệ bến rưng rưng nước mắt. Hạt gạo trắng trong như tấm lòng miền Bắc. Hạt gạo nghĩa tình lắng sâu ngưng đọng. Ai đã trải qua những ngày ăn trái sung, rau rừng càng thấy quý hạt gạo, bát cơm. Có gạo rồi, nhưng vẫn phải ăn dè xẻn. Không cần phải ai ra lệnh mà tất cả mọi người đều chung một ý nghĩ: "Vì công việc dài lâu của bến!".

Núi rừng quanh bến Vũng Rô qua một ngày yên tĩnh. Mọi hoạt động của địch vẫn bình thường. Mong đợi của chúng tôi rồi cũng đến. Khi màn đêm vừa buông xuống, núi rừng ở bến Vũng Rô như sôi động hẳn lên. Cũng chiếc cầu tàu bằng cây rừng làm tạm, hàng trăm dân công, dân quân du kích tấp nập chuyển hàng.

Gần 4 giờ sáng, mọi công việc đã hoàn tất. Giờ phút chia tay biết bao lưu luyến. Những ánh mắt, những nụ cười và bao dòng lệ đang chảy.

Tàu từ từ rời bến.

Tạm biệt Vũng Rô. Tôi nhớ mãi câu chuyện người chiến sĩ bảo vệ bến: "Có gạo, có vũ khí, chúng tôi sẽ mở rộng địa bàn giành dân. Mà đã có dân là có gạo!". Trong lòng tôi tràn đầy niềm vui sướng. Trước mắt tôi, hình ảnh của một miền quê Phú Yên đang vang dậy tiếng reo hò xông lên diệt lũ ác ôn, phá thế kìm kẹp, mở rộng vùng giải phóng, có phần của những hạt gạo, những khẩu súng trong chuyến hàng "đặc biệt" hôm nay.

IV. Tết ở bến Vũng Rô

Cuối năm 1964, sau khi đã đưa hai chuyến tàu chở vũ khí vào bến Vũng Rô thắng lợi, tôi được Tư lệnh Quân chủng Hải quân gọi lên giao nhiệm vụ mới: "Đảng ủy và Tư lệnh Quân chủng quyết định tàu của các đồng chí phải khắc phục mọi khó khăn trở ngại, đúng Giao thừa phải có mặt tại bến Vũng Rô (Phú Yên).

Rời Sở chỉ huy Quân chủng, lòng tôi dâng trào một niềm cảm xúc đặc biệt xen giữa niềm vui và nỗi lo. Vui vì được tiếp tục làm nhiệm vụ đưa tàu chở vũ khí về quê hương, được gặp lại đồng chí, đồng bào trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Còn lo hôm nay đã là 20 tháng Chạp âm lịch, làm sao khẩn trương chuẩn bị thật tốt mọi mặt để đưa tàu đến bến Vũng Rô đúng đêm Giao thừa như mệnh lệnh của đồng chí Tư lệnh Quân chủng.

Thành phố Hải Phòng sắp vào Tết. Đào Nhật Tân (Hà Nội) đã bày bán đỏ rực ở các dãy phố. Những bóng đèn, chùm đèn màu treo giăng hàng hai bên thành cầu sông Cấm, trên các ngọn cây trong công viên, nhấp nháy tỏa sáng lung linh như hòa cùng niềm vui của tôi trên đường về đơn vị.

Đêm giá lạnh, chung quanh rất yên tĩnh. Để tránh các chiến sĩ đang ngủ say khỏi thức giấc, tôi nhẹ nhàng bước tới giường định thay quần áo đi nằm. Không ngờ các chiến sĩ tung màn xúm lại quanh tôi. Thì ra, họ còn thức chờ tôi đi nhận nhiệm vụ trở về...

Sau khi họp cấp ủy và chi bộ để quán triệt nhiệm vụ mới, ra nghị quyết lãnh đạo chuyến đi, cuộc họp đơn vị được tiến hành khẩn trương, đầy khí thế quyết tâm. Vấn đề nổi lên là làm sao đưa tàu vào bến Vũng Rô đúng lúc Giao thừa. Phải chủ động tạo sự bất ngờ làm cho kẻ địch không kịp đối phó. Ý kiến thảo luận thật sôi nổi; những khó khăn, vướng mắc đã được anh em đóng góp nhiều biện pháp khắc phục. Tôi kết luận cuộc họp và thông qua quyết tâm gửi lên cấp trên.

Thông thường, cuộc họp đến đây là kết thúc, nhưng thật bất ngờ cho tôi, từ hàng ghế thứ hai, một cánh tay giơ lên xin phát biểu ý kiến. Đó là đồng chí Trần Văn Nhợ, người lính mà anh em trong tàu thường gọi với cái tên thân mật "bố già". Đồng chí nói: "Tàu ta đã đi nhiều chuyến, đưa hàng vào nhiều bến, nhưng được đi vào dịp Tết thì thật là hiếm có. Vì vậy, tôi đề nghị tàu ta chuẩn bị cái gì để khi vào bến, ta cùng anh em ở bến ăn Tết!". Tiếng hoan hô đồng tình vang dậy. Thế là ngoài việc cho tàu nhận vũ khí, theo dõi đài để nghe thời tiết, nắm tình hình địch, chuẩn bị hậu cần... một bộ phận anh em đi mua gạo nếp về gói bánh chưng, bánh tét, lo quà Tết.

Mọi công tác chuẩn bị cho chuyến đi đã hoàn thành sớm hơn dự định một ngày. Sau khi nghe cáo báo, tôi trực tiếp kiểm tra công tác chuẩn bị cụ thể của các ngành. Khi đến khoang hàng số hai, ngoài số lượng hàng vũ khí, trang bị kỹ thuật chở cho bến, tôi gặp một hòm gỗ đạy kín, bên ngoài có hàng chữ đậm nét: "Quà đón Xuân vui Tết", bên cạnh một cành đào sum sê hoa lá. Tôi hỏi đồng chí Hồng Lỳ: "Cái hòm này có danh mục ghi trong phiếu chuyển hàng cho bến không?". Đồng chí Nhạn, máy trưởng-người được toàn thuyền cử ra đảm nhiệm công việc chuẩn bị quà Tết vừa cười, vừa nói: "Báo cáo Thuyền trưởng! Cái thùng này do tàu ta xuất phiếu thôi ạ!". Tất cả cùng cười vang. Đồng chí mở nắp thùng và đọc to bản liệt kê bao gồm: "30 chiếc bánh chưng, bánh tét, 10 gói kẹo, bánh quy, 5 gói chè, 20 gói thuốc lá, 40 chai bia và một cành đào. Tất cả đều không có nhãn hiệu như con tàu không số của ta...".

Chiếc thùng gỗ đựng quà Tết chiếm một diện tích rất nhỏ trong khoang hàng của tàu, nhưng nó chứa đựng bao nhiêu tình cảm của toàn thể cán bộ, chiến sĩ tàu 41 đa phần là anh em quê ở Phú Yên. Bằng số tiền dành dụm, họ đã gửi gắm tình cảm của mình qua từng món quà Tết quê hương trong chuyến đi đầy ý nghĩa này.

Nguồn: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/163041/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: y lố 302 trong 21 Tháng Mười Một, 2011, 03:56:45 pm
Những trang đời huyền thoại (Kỳ 3)


Kỳ ba: Vũng Rô - đêm Giao thừa năm ấy

Trung tá Hồ Đắc Thạnh – Thuyền trưởng tàu không số năm xưa đã trở về cuộc sống bình dị giữa đời thường, nhưng trong ông vẫn tươi nguyên những ký ức của một thời vượt biển trên con đường huyền thoại. Và câu chuyện về “nắm đất thiêng” của cô giao liên trao cho ông trong chuyến vào bến Vũng Rô năm ấy mãi mãi là một kỷ niệm đẹp, ông luôn trân trọng, nâng niu...


Xin góp vải bức hình mới nhất của CCB thuyền trưởng tàu không số năm xưa Hồ Đức Thạnh ,nhân dịp gặp mặt tuần qua . Bác vẫn khỏe và truyền lửa cho thế hệ trẻ .

(http://i296.photobucket.com/albums/mm173/nhattansg/Vro04.jpg)

(http://i296.photobucket.com/albums/mm173/nhattansg/Vro03.jpg)

(http://i296.photobucket.com/albums/mm173/nhattansg/Vro02.jpg)

http://www.youtube.com/watch?v=dClZL_-ql_I


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 23 Tháng Mười Một, 2011, 10:33:34 am
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 6)


Vào một đêm tối cuối năm 1964, những trận gió mùa Đông Bắc tràn về, mang cái rét của phương Bắc về theo, cuộc tiễn đưa Tàu 41 lên đường làm nhiệm vụ được tiến hành tại một bên cảng của thành phố biển. Dưới trời mưa phùn, gió bấc, các đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy đoàn ôm hôn thắm thiết cán bộ, chiến sĩ tàu: "Chúc Tàu 41 hành trình thuận buồm xuôi gió - Bộ tư lệnh chờ đón tin thắng lợi báo về!". Tình cảm hậu phương lớn làm ấm lòng các chiến sĩ trên đường về tiền tuyến lớn.

Tàu 41 hành trình vào mùa thời tiết không thuận lợi. Sau ba ngày vượt sóng to gió lớn, lách tránh các tuyến tàu tuần tiễu của địch, chiều 30 tháng Chạp, tàu chuyển hướng vào bờ. Đây là tuyến đi căng thẳng nhất suốt lộ trình.

Toàn tàu dồn hết sức lực, tinh thần, ý chí quyết tâm và lòng dũng cảm sẵn sàng đối phó với địch bất cứ lúc nào. Thành bại của chuyến đi quyết định ở hướng đi này. Bữa cơm "Tất niên" được đồng chí Thuyền phó sắp xếp cho toàn tàu ăn trước 12 giờ để kịp làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Cũng thịt mỡ, dưa hành, nhưng thiếu câu đối đỏ. Không nêu, không pháo, có bánh chưng xanh, nhưng để dành khi cập bến. Toàn tàu đang ăn cơm, bỗng từ đài quan sát, chiến sĩ trực canh báo cáo: "Mạn phải 300, cự ly 3 hải lý, phát hiện có 2 tàu địch đang di chuyển về phía Nam!". Lệnh chuẩn bị chiến đấu được phát ra. Toàn tàu về vị trí chiến đấu. Lớp ngụy trang trên những khẩu súng được kiểm tra, sửa lại, để vừa che mắt địch, vừa có thể nhanh chóng tung ra khi có tình huống chiến đấu. Qua ống nhòm có bội số cao, tôi nhìn rõ hai tàu tuần tiễu của địch. Phải tránh! Tôi cho tàu thay đổi hướng đi song song để tránh tàu địch, tạo khoảng cách xa để thời gian tiếp xúc rất ít. Nhìn đồng hồ đã 16 giờ rồi, chỉ còn 8 tiếng đồng hồ nữa thôi tàu phải có ở Vũng Rô.

(http://image.qdnd.vn/Upload//phucthang/2011/10/9/09102011tonha11212431859.jpg)
Một góc Vũng Rô hôm nay. Ảnh tư liệu.

Sau khi xác định vị trí trên bản đồ, đồng chí Thuyền phó báo cáo: "Tàu ta cách Đá Bia hơn 60 hải lý nữa, khả năng vào bến trễ giờ!". Nhớ câu chuyện cổ tích mà tôi được đọc cách đây rất lâu, chuyện cô bé thông minh, học hành rất giỏi, nhưng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn được cô Tiên hiện lên giúp đỡ. Cô cho em ba điều ước để em lựa chọn: Một là học hành giỏi; hai là cha mẹ sống lâu bất tận và điều thứ ba là em sẽ trở thành vợ của Hoàng tử con vua suốt đời sung sướng. Nhưng cô bé chỉ nhận điều ước thứ nhất và thứ hai. Như cô bé, lúc này tôi chỉ muốn có hai điều ước: Một là trời mau tối để con tàu không phải phơi mình trên biển nhiều giờ dễ bị địch phát hiện; hai là tốc độ tàu nhanh hơn chút nữa để vào bến không trễ giờ. Nhưng việc lặn mọc, tối sớm của mặt trời hoàn toàn do chu kỳ quay của Trái Đất và Mặt trời, còn tốc độ máy tàu thì do nhà sản xuất đã ấn định sẵn, làm sao thay đổi được. Tôi cho mời đồng chí máy trưởng lên đài chỉ huy và quyết định sử dụng tốc độ dự bị. Ước mãi rồi cũng đến lúc hoàng hôn bao trùm khắp mặt biển. Ông bà ta nói: "Tối như đêm 30", thật quả không sai.

Đúng 23 giờ 50 phút, tàu chúng tôi thả trôi giữa Vũng Rô. Tôi cho thả xuồng và sử dụng người vào bến tìm bộ phận đón. Đang loay hoay thả xuồng thì cũng vừa lúc thuyền của các đồng chí ở bến cặp mạn tàu. Cán bộ, chiến sĩ của tàu ôm hôn cán bộ, chiến sĩ của bến. Niềm vui ngập tràn vô tận. Tôi ôm chặt anh Sáu (Bí thư Tỉnh ủy) mà hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào không nói nên lời. Bỗng từ phía bờ, hàng loạt súng pháo đủ các cỡ nổ vang đan chéo bầu trời. Những chiếc đèn dù xanh đỏ từ đồn Pơ Tý phụt lên treo lơ lửng một khoảng trời Vũng Rô.

Lộ rồi sao? Địch đã phát hiện được tàu ta chăng?

Từ dưới phòng báo vụ, chiếc đài bán dẫn vang lên lời Bác Hồ chúc Tết.

Giao thừa! Phút Giao thừa Xuân 1965 đã tới. Phú Yên ơi! Chúng con đã về đây! Về giữa mùa xuân tràn đầy sức sống!

Giá như ở một hoàn cảnh khác, thời điểm khác thì cuộc vui còn có thể kéo dài. Không ai muốn rời nhau, nhưng làm sao khác được khi mà công việc trước mắt còn quá bộn bề. Tàu phải đưa vào sát mép núi và ngụy trang kín đáo trước khi trời sáng.

Mọi công tác được tiến hành khẩn trương. Sau khi đã bố trí các tổ bám chốt các đồn địch và Mũi Điện để kịp thời đối phó, cuộc liên hoan mừng Tết Ất Tỵ, mừng ngày tàu và bến gặp nhau được tiến hành trên nắp khoang hầm hàng số hai dưới vòm lá ngụy trang kín đáo. Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, bánh tét, kẹo, bia và thuốc lá được bày ra. Cành đào Nhật Tân của Hà Nội bên nhành mai vàng của núi Đá Bia (Phú Yên) khoe sắc, càng tăng thêm hương vị của mùa xuân-mùa xuân ở chiến trường.

Trong niềm vui chứa chan tình cảm tôi thay mặt cán bộ, chiến sĩ Tàu 41 chúc Tết các đồng chí cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, chiến sĩ và dân công ở bến Vũng Rô. Chúng tôi cùng nâng cốc chúc mừng thắng lợi, chúc sức khỏe anh Sáu (Bí thư Tỉnh ủy) và các đồng chí đang có mặt tại bến; chúc quân và dân tỉnh nhà năm mới giành được những thắng lợi to lớn hơn như lời chúc Tết của Bác Hồ. Tiếng pháo tay thay pháo Tết nổ vang. Anh Sáu (Bí thư Tỉnh ủy) giục, cô gái ngồi bên cạnh mặt ửng hồng đứng lên thay mặt đồng bào địa phương chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Tàu 41. Cô gái nói: "Đảng, Bác Hồ, đồng bào miền Bắc lo cho miền Nam từng khẩu súng, viên đạn, bát cơm, viên thuốc. Các anh thủy thủ đã vượt qua sóng to, gió lớn, đối mặt với quân thù để vận chuyển hàng chi viện cho miền Nam. Quê hương Phú Yên quyết xứng đáng với tình nghĩa cao cả đó!".

Nghẹn ngào, xúc động, lắng đọng nghĩa tình!

Tối mồng Một Tết, tàu cùng bến bốc dỡ hàng. Chiếc cầu tàu làm tạm bằng cây rừng như mọi lần trước, nay không đủ sức cho số đông người đi lại, nên hầu hết anh chị em dân công và du kích các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Thịnh, Hòa Tân… phải dầm mình dưới nước mới kịp chuyển hàng. Công việc tấp nập, khẩn trương. Phía Đèo Cả, thỉnh thoảng có một vài ánh đèn pha le lói của những chiếc xe lao dốc cùng với những tiếng nổ lạc lõng từ các bốt đồn địch bắn cầm canh trấn an cho giấc ngủ đầu năm của những kẻ xâm lược. Mặc! Không khí lao động, sẵn sàng chiến đấu ở bến Vũng Rô vẫn tấp nập, khẩn trương. Hàng bốc dưới tàu lên là vũ khí, thuốc men. Hàng trên bờ đưa xuống tàu là cát của Vũng Rô để rằn tàu, giữ được sự ổn định khi tàu ra khơi gặp phải sóng to, gió lớn.

Ba giờ sáng ngày mồng Hai Tết Ất Tỵ, Tàu 41 rời bến Vũng Rô. Anh Sáu (Bí thư Tỉnh ủy) ôm chặt tôi, cái hôn tiễn đưa lưu luyến và xúc động. Tay siết chặt tay. Người ra đi và người ở lại đều bùi ngùi. Những hàng nước mắt tuôn trào, những lời chúc lên đường thuận buồm xuôi gió, ở lại mạnh khỏe, chiến đấu hăng say, hứa hẹn sẽ có ngày gặp lại…

Tôi ấn mạnh tay chuông, con tàu lướt sóng ra khơi. Phía sau con tàu là bến Vũng Rô kiên cường-dải đất Phú Yên quê hương chúng tôi, đó là mùa xuân Ất Tỵ! Thời gian dù đã lùi xa bao nhiêu năm đi nữa, nhưng những kỷ niệm về một cái Tết ở Vũng Rô không bao giờ phai nhạt trong tâm trí của tôi.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/163143/Default.aspx


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 24 Tháng Mười Một, 2011, 12:45:04 am
15 năm bảo vệ tuyệt đối an toàn bến tàu huyền thoại K15


Suốt 15 năm (từ năm 1961 – 1975), bằng tất cả tâm huyết, trí tuệ, các cán bộ, chiến sĩ an ninh ta đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu thu thập tình báo của địch về nơi xuất phát của những con tàu không số…

Bí mật, bất ngờ là yếu tố quyết định thành công của “Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Trong rất nhiều trang tư liệu về bến tàu huyền thoại K15 (Đồ Sơn, Hải Phòng), có những chiến công thầm lặng chưa từng được nhắc tới của các lực lượng Công an thành phố Cảng.

Một trong những sĩ quan an ninh được giao trọng trách trên là Đại tá Hoàng Xuân Lâm, nguyên Thường vụ Thành ủy, Giám đốc Công an TP Hải Phòng. Ở tuổi 86, ông vẫn tráng kiện, sôi nổi như những ngày còn gánh vác nhiệm vụ nặng nề - trực tiếp chỉ đạo công tác bảo vệ các bí mật quân sự tại Hải Phòng và Kiến An - trong suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Tiếp chúng tôi tại nhà riêng ở số 10, phố Lê Đại Hành, Hải Phòng, Đại tá Hoàng Xuân Lâm bồi hồi kể lại. Ngày đó, khi Quân ủy Trung ương thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị về mở 2 tuyến đồng vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam, Bộ Công an và UBHC TP Hải Phòng và tỉnh Kiến An (sau này hợp nhất là TP Hải Phòng) giao cho Công an 2 địa phương một nhiệm vụ cực kỳ bí mật và quan trọng. Đó là phối hợp chặt chẽ với lực lượng Quân đội, lập kế hoạch bảo vệ tuyệt đối an toàn việc vận chuyển con người, vũ khí, hàng hóa từ Hà Nội, Hải Phòng ra khu vực Pagodon (Km0 - Bến tàu không số K15) thuộc bán đảo Đồ Sơn.

Kế hoạch rất ngắn gọn nhưng theo đó là hàng “núi” công việc, trong đó nặng nề nhất là phải bằng mọi cách bóc các nội gián, phát hiện, đánh lạc hướng tình báo địch và phải lập một hàng rào thật vững chắc không cho đối phương đánh hơi việc ta mở bến tàu, tập kết hàng, vũ khí vào Nam, từ vùng biển Đồ Sơn…

Vào một buổi sáng cuối đông năm 1960, Chủ tịch UBHC tỉnh Kiến An lúc bấy giờ là đồng chí Nguyễn Bá Thành giới thiệu với ông Lâm một cán bộ cũng tên Thành, hơn ông khoảng dăm tuổi - là cán bộ Bộ Tư lệnh Hải quân. Buổi gặp diễn ra trong nửa giờ. Ông Lâm với tư cách là Trưởng ty Công an địa phương được thông báo: Hiện có khoảng chục con tàu đặc biệt của Quân đội, kiểu cách “đặc sệt” phương tiện đánh bắt cá của người dân Nam Bộ, người trên tàu cũng toàn là người miền Tây đang neo đậu tại các ngóc ngách các tuyến sông Ruột Lợn, Lạch Tray và sông Cấm. Một số lần, các chiến sỹ tàu không số đã “đụng” các chiến sĩ Cảnh sát trên sông và Công an vũ trang ta và bị xử lý rất… căng do nghi là tàu của biệt kích ngụy.

Không thể giải thích mọi việc với anh em và để bảo đảm tuyệt đối bí mật, nhất là tránh sự phát hiện của tình báo, gián điệp địch, Đại tá Hoàng Xuân Lâm đã trực tiếp ký, đóng dấu những “giấy phép đặc biệt” cho từng con tàu, từng thủy thủ với ký hiệu cụ thể có giá trị đi qua tất cả các tỉnh duyên hải Bắc Bộ đến vĩ tuyến 17. Đây chính là những con tàu không số tập kết bí mật tại các điểm hẻo lánh ở Hải Phòng, đợi ngày tập kết bến K15, xuống hàng và xuất phát vào Nam.

Bắt đầu từ năm 1962, Hải Phòng - Kiến An hợp nhất. Giai đoạn này lượng hàng hóa, vũ khí và tàu tập kết về Hải Phòng ngày một nhiều. Được sự chỉ đạo của Trung ương, Thành ủy Hải Phòng đã thành lập “Ban chỉ đạo bảo vệ bí mật quân sự”. Thành viên chủ chốt là: Sở Công an, Bộ Tư lệnh Hải quân, Quân khu III, Sư đoàn 350, Sư đoàn 363.

Đồng chí Trần Đông - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an - lúc đó là Giám đốc Sở Công an Hải Phòng, xúc động nhớ lại, vào thời điểm này, các lực lượng Công an Hải Phòng đã có nhiều cách làm hay, sáng tạo; trong đó đã tham mưu cho Đảng, chính quyền địa phương tổ chức huấn luyện nghiệp vụ cho Công an xã, phát động nhiều phong trào quần chúng có hiệu quả - đặc biệt là phong trào “bảo mật, phòng gian”, đây là những yếu tố cực kỳ quan trọng để nâng cao ý thức cảnh giác cho nhân dân, luôn che chở, đùm bọc cho lực lượng Công an, Quân đội.

Rất nhiều lần, đồng chí Trần Đông lên Hà Nội, trực tiếp báo cáo với Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn về công tác bảo vệ bí mật quân sự tại Cảng Hải Phòng và khu bán đảo Đồ Sơn. Đích thân Bộ trưởng cũng thường xuyên về Hải Phòng kiểm tra và chỉ đạo công tác này, trong đó có bảo vệ bến tàu “không số” (K15) và những con tàu đang tập kết tại các khu rừng ngập mặn thuộc Hải Phòng, Kiến An và cửa sông Bạch Đằng (giáp thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh).

Có thể nói, chưa bao giờ công tác bảo vệ ANTT suốt từ km21/QL5 cho đến tận Đồ Sơn được xiết chặt như thế này. Tại Sở Công an, luôn có mặt hai cán bộ thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân và Quân khu III, thường xuyên làm nhiệm vụ thông báo mỗi khi có chuyển quân hay vận tải vũ khí, để các lực lượng phối hợp bảo vệ. Tuy nhiên, công tác giữ gìn tuyệt đối bí mật quân sự là hết sức khó khăn bởi những đoàn xe chuyên chở vũ khí, mỗi chiếc cách nhau chỉ 20 mét, nối dài hàng hai, ba cây số đi trên đường.

Còn tại bến K15, xe vận tải lớn chở hàng vào tận nơi, rất khó ngụy trang. Song để làm tốt nhiệm vụ, Công an Hải Phòng đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp nghiệp vụ, kết hợp khai thác những đặc điểm tình hình, đánh lạc hướng tìm kiếm, theo dõi của lực lượng tình báo, gián điệp địch. Toàn bộ khu 2 và 3 Đồ Sơn được kiểm soát rất chặt chẽ, các tập thể hay cá nhân ra vào đều phải được cơ quan an ninh cấp giấy phép.

Các đơn vị chức năng do đồng chí Hoàng Trừ - Trưởng phòng Bảo vệ chính trị; Trần Thế Dân - Trưởng phòng Cảnh sát; Trần Tiếp - Trưởng đồn Cảng hiệp đồng rất nhịp nhàng cùng một số cán bộ biệt phái đi các ngành như các đồng chí Đào An, Chủ nhiệm Công ty Cung ứng tàu biển (sau này là Bí thư Thành ủy Hải Phòng); Doãn Duyên, Chủ nhiệm Công ty Cung ứng tàu biển (thay đồng chí Đào An); Nguyễn Văn Thiệp, Giám đốc Công ty Du lịch khu 3 Đồ Sơn; Ngô Ngọc Du, Giám đốc Sở Ngoại thương; Lê Ngọc Bảng, Giám đốc Hải quan... Sự phối hợp ấy đã tạo thế trận vững chắc và địch đã không thể phát hiện được bến tàu không số nằm ngay tại Đồ Sơn, Hải Phòng.

Chính thời gian này, Công an Hải Phòng đã xác lập Chuyên án ED69, phát hiện và “cất vó” một tổ chức hoạt động gián điệp chuyên thu thập, chuyển các thông tin về tình hình vận tải chi viện chiến trường miền Nam của chúng ta cho Trung tâm chỉ huy địch ở Hồng Kông. Kết quả, ta đã thu giữ nhiều tài liệu tình báo, vô hiệu hoá và trục xuất đầu mối chính Lam Ping Nam (quốc tịch nước ngoài) ra khỏi Việt Nam, bắt đối tượng chủ chốt Âu Trạch Niên cùng vợ là Âu Nguyệt Mi và con gái y là Âu Cần Tiên - liên lạc viên của tổ chức gián điệp trên.

Cùng thời gian này, Công an Hải Phòng còn bảo vệ và tiễn đồng chí Nguyễn Tài - nguyên Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị (sau này là Thứ trưởng Bộ Công an), đi công tác tại chiến trường miền Nam bằng tàu “không số” theo đường Hồ Chí Minh trên biển. Khi tàu nhổ neo rời bến bí mật, an toàn, anh em mới quay trở về.

Nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập CAND Việt Nam và hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển, đồng chí Nguyễn Tài cùng một số cán bộ cao cấp của Bộ Công an và Công an Hải Phòng đã trở về thăm Di tích lịch sử K15 và ôn lại những năm tháng hào hùng của dân tộc, của lực lượng CAND, trong đó đã góp phần bảo vệ bí mật, an toàn bến xuất phát của tuyến đường huyền thoại trên biển

Nguồn: http://www.cand.com.vn/vi-VN/phongsu/2011/10/158299.cand


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: altus trong 24 Tháng Mười Một, 2011, 07:58:25 am
Chính thời gian này, Công an Hải Phòng đã xác lập Chuyên án ED69, phát hiện và “cất vó” một tổ chức hoạt động gián điệp chuyên thu thập, chuyển các thông tin về tình hình vận tải chi viện chiến trường miền Nam của chúng ta cho Trung tâm chỉ huy địch ở Hồng Kông. Kết quả, ta đã thu giữ nhiều tài liệu tình báo, vô hiệu hoá và trục xuất đầu mối chính Lam Ping Nam (quốc tịch nước ngoài) ra khỏi Việt Nam, bắt đối tượng chủ chốt Âu Trạch Niên cùng vợ là Âu Nguyệt Mi và con gái y là Âu Cần Tiên - liên lạc viên của tổ chức gián điệp trên.

Nước ngoài nào thế nhỉ? Hồi ấy ta có quan hệ gì với Hồng Kông đâu?  ::)


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: qtdc trong 24 Tháng Mười Một, 2011, 08:55:00 am
Theo em đoán nước ngoài đó có thể là Đài Loan hoặc Anh bác ạ.


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: altus trong 24 Tháng Mười Một, 2011, 09:27:24 pm
Hồi ấy mà cũng có khách Đài Loan hay Anh mắt một mí đến miền Bắc mà lại kiêm cả hoạt động gián điệp thì cũng chịu thật!


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 30 Tháng Mười Một, 2011, 04:56:25 pm
(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/28_nhung1106-450.jpg)
Những cán bộ, chiến sĩ đoàn 759 đi chuyến mở đường đầu tiên vào tháng 10/1962.

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/28_so1107-450.jpg)
Sở chỉ huy đoàn 125 theo dõi, nắm tình hình, chỉ huy các tàu vận tải và chiến dịch vận chuyển. Ảnh: Tư liệu.

Nguồn: http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2011/11/76577.cand


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 16 Tháng Năm, 2012, 10:03:18 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Mở đường

http://www.youtube.com/watch?v=WsqvkSouRSM

http://www.youtube.com/watch?v=a4oKq6Wud_0


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 17 Tháng Năm, 2012, 08:42:11 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Bến gọi

http://www.youtube.com/watch?v=T21GRRH8gj4

http://www.youtube.com/watch?v=S5eLLMhbCJ0


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 18 Tháng Năm, 2012, 07:45:09 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - K15 Mốc son lịch sử

http://www.youtube.com/watch?v=O4QPHr3TqfM

http://www.youtube.com/watch?v=sg1ow5UPhvU


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 20 Tháng Năm, 2012, 11:41:31 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Mẹ Con và TÀU KHÔNG SỐ

http://www.youtube.com/watch?v=KhwD_PqGnjQ


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 21 Tháng Năm, 2012, 06:25:05 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - BẢN HÙNG CA trên biển

http://www.youtube.com/watch?v=R9JKDK5peos

http://www.youtube.com/watch?v=5po5raIBlMQ


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 22 Tháng Năm, 2012, 10:16:29 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Ký ức về ĐOÀN TÀU KHÔNG SỐ

http://www.youtube.com/watch?v=JKMsVpuZnvY

http://www.youtube.com/watch?v=FvfnGtxpxqI


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 23 Tháng Năm, 2012, 06:34:53 am
Kỳ tích Đường HCM trên biển - Những cánh Hải Âu NỐI LIỀN NAM BẮC

http://www.youtube.com/watch?v=kiqnwOXNobY

http://www.youtube.com/watch?v=kSwn7I9KTeI


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 24 Tháng Năm, 2012, 01:18:31 pm
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - TÀU 43 với Ký ức ĐẶNG THÙY TRÂM

http://www.youtube.com/watch?v=NySg4nmrzVs


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 25 Tháng Năm, 2012, 07:06:33 am
Bản hùng ca về những chiến công thầm lặng

http://www.youtube.com/watch?v=sVW323mSdts

http://www.youtube.com/watch?v=VHBt9tHNcig


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 25 Tháng Năm, 2012, 07:08:30 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Chân dung người thuyền trưởng

http://www.youtube.com/watch?v=tJ71uJfzrzk


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 26 Tháng Năm, 2012, 09:53:32 am
Kỳ tích Đường HCM trên biển - VŨNG RÔ - Nơi ghi dấu con đường huyền thoại

http://www.youtube.com/watch?v=tb-171_cXo8


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 28 Tháng Năm, 2012, 07:25:59 am
Kỳ tích Đường HCM trên biển - NGUYỄN PHAN VINH - Bản hùng ca bất tử

http://www.youtube.com/watch?v=14eTBLdyfRE


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 29 Tháng Năm, 2012, 06:55:29 am
Kỳ tích Đường HCM trên biển - TĐ 83 CB Hải quân - Nửa thế kỷ vẻ vang

http://www.youtube.com/watch?v=C6h4UB9jifc


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 30 Tháng Năm, 2012, 06:43:44 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Hòn Hèo - Ngày ấy bây giờ

http://www.youtube.com/watch?v=9IAv5Y8krjQ


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 31 Tháng Năm, 2012, 05:46:12 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Trên bến Lộ Diêu

http://www.youtube.com/watch?v=p7N8RE8pSiM


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 01 Tháng Sáu, 2012, 06:43:36 am
Kỳ tích Đường HCM trên biển - Tàu 645 và Anh hùng NGUYỄN VĂN HIỆU

http://www.youtube.com/watch?v=L46n69gBdTo


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 02 Tháng Sáu, 2012, 01:57:37 pm
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Tâm hồn người lính bến

http://www.youtube.com/watch?v=-lzut6sLjr4


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 03 Tháng Sáu, 2012, 12:19:07 pm
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Về lại bến xưa

http://www.youtube.com/watch?v=7_cy3zeZXbc


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 05 Tháng Sáu, 2012, 06:57:53 am
HÒA NHỊP CÙNG VỚI NHỮNG CHUYẾN TÀU KHÔNG SỐ (Phần 1)

http://www.youtube.com/watch?v=u4PSvVLpGoo


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 06 Tháng Sáu, 2012, 06:42:33 am
HÒA NHỊP CÙNG VỚI NHỮNG CHUYẾN TÀU KHÔNG SỐ (Phần 2)

http://www.youtube.com/watch?v=AQHSd6Bjt4o


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 07 Tháng Sáu, 2012, 06:35:36 am
Tình đồng đội CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH KHÔNG SỐ

http://www.youtube.com/watch?v=sVfH50sXYSw


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 08 Tháng Sáu, 2012, 06:47:47 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Những kỷ vật tàu không số

http://www.youtube.com/watch?v=ZKE3tDgTdKk


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 09 Tháng Sáu, 2012, 02:31:18 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Tri ân những người lính biển năm xưa

http://www.youtube.com/watch?v=SeZbIJtKk6Q


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 10 Tháng Sáu, 2012, 08:29:34 am
Kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển - Góp phần ôn lại CHIẾN CÔNG

http://www.youtube.com/watch?v=VO623Bd56KE


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: longtt88 trong 11 Tháng Sáu, 2012, 06:40:12 am
Những bến cảng CỦA ĐOÀN TÀU KHÔNG SỐ

http://www.youtube.com/watch?v=Ywr21DXTark

http://www.youtube.com/watch?v=Yex8dQA0Ofs


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh trên biển
Gửi bởi: tau khong so trong 09 Tháng Tám, 2012, 04:22:27 pm
Xin chào và ... Rất cảm ơn bạn quydede, bạn Rồng Xanh!
Là lớp sau của TKS, nhập ngũ năm 1972, chỉ được tham gia 2,3 năm trên tàu, không đi thành công một chuyến nào vào miến nam nhưng tôi được vinh dự sống và làm việc với phần lớn những người trong câu chuyện đã được bạn số hóa đưa lên. Người trong cuộc thời điểm đó cũng không biết hết những câu chuyện đó đâu các bạn ạ vì lý do bí mật và không có thông tin như bây giờ. Tàu nào đi lâu lâu không thấy về là chúng tôi truyền tai nhau " Đi toi rồi" Chủ nghĩa anh hùng cách mạng về TKS thể hiện trên truyện, thơ của các nhà văn thật hoành tráng còn chủ nghĩa anh hùng cách mạng của những người trong cuộc là: Nhiệm vụ. Có lệnh là đi, may thì sống trở về để lại tiếp tục đi cho đến ngày thống nhất. Người lính nào cũng có kỷ niệm đáng kính trọng, trong số các anh cựu TKS còn sống nhiều người chưa kể hoặc chưa được đưa lên sách báo. Ở HN cũng có một liệt sỹ tên là Nguyễn Hữu Hùng quê ở Tay Mỗ HN đã hy sinh trong một chuyến chở hàng vào nam nhưng chưa ai viết về anh ấy. Tôi đang tìm tài liệu để viết. Hội TKS chúng tôi mới chỉ đến thắp hương hàng năm vào ngày giỗ của anh ấy mà thôi.
---------------------------------------------------------------------------------------------------
Hôm nay xem lại chương mục này tôi xin thông báo với đồng đội: Gia đình liệt sỹ Hùng đã tìm được hài cốt liệt sỹ và đưa về an táng tại nghĩa trang xã Tây Mỗ huyện Từ Liêm HN. Hội TKS Hà Nội chúng tôi đã phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức chu đáo lễ đón nhận hài cốt, truy điệu LS Nguyễn Hũu Hùng, đặc biệt chúng tôi đã tìm và mời được 2 đồng đội của anh Hùng trong chuyến tàu định mệnh ấy về dự lễ và kể về sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ Hùng ngay tại lễ truy điệu này. Câu chuyện như sau:
Nguyễn Hữu Hùng  sinh ngày 02/01/ 1951 trong một gia đình nông dân ở thôn Dưới xã Tây mỗ huyện Từ Liêm Hà Nội. Hai cụ thân sinh của liệt sỹ là cụ Nguyễn Hữu Như và cụ bà Trần Thị Hồng- hai cụ đã mất.
   Năm 1967  Hùng rời quê hương đi học trung cấp hàng hải ở Quảng Ninh rồi đi bộ đội hải quân tháng 4 năm 1968. Hùng được biên chế về tàu 69B đoàn 125 đoàn TKS, đó là con tàu mới, loại tàu Nhật Lệ do TQ đóng.
Ngày 4 tháng 4 năm 1971, tàu 69B rời cảng K20 Hải Phòng, nhận lệnh chở 200 tấn vũ khí vào bến Rạch Gốc huyện Ngọc Hiển Cà Mau ( Nay là huyện Đầm Dơi ). Đêm ngày 10 tháng 4 tàu chuyển hướng từ đường hàng hải quốc tế vào bến Rạch Gốc.  Cách bờ khoảng 10 hải lý, Tàu 69B gặp tàu tuần tiễu của địch, chúng bắn pháo sáng, chạy cắt ngang mũi tàu, gọi loa kiểm tra. Khi biết là tàu cộng sản chúng huy động thêm máy bay, tàu chiến tới định bắt sống tàu 69B. Máy bay và 6 tàu chiến mỹ phóng Rốc két, đạn xối xả vào tàu, Tàu 69B nổ súng chống trả. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra. Trên tàu đã có 4 thuỷ thủ hy sinh. Để giữ bí mật con đường và hàng hoá cấp uỷ hội ý và quyết định cho thuỷ thủ rời tàu để bảo toàn lực lượng. Huỷ tàu để không cho địch bắt tàu và hàng. Nhiệm vụ điểm hoả 3 kíp nổ ở mũi tàu, đuôi tàu và khoang máy được giao cho chính trị viên, thủy thủ trưởng và máy trưởng( Ảnh ông Lê Văn Hợi Thủy thủ trưởng đang kể về giờ phút huỷ tàu, ông Hợi điểm hoả thuốc nổ ở khoang mũi tàu, ông Hợi hiện đang sinh sống tại xóm Xuân Hòa, xã Hải Hòa huyện Hải Hậu Nam Định) Lợi dụng lúc pháo sáng tắt, từng tốp thuỷ thủ bí mật rời tàu bơi vào phía rừng đước ngập mặn. khoảng 30 - 40 phút sau một tiếng nổ long trời và một nấm lửa vàng xé toang màn đêm đen. Gần 2 tấn thuốc nổ và gần 200 tấn súng đạn cùng nổ, chia con tàu thép ra ngàn mảnh tung lên trời rồi chìm xuống đáy biển Rạch Gốc. Từng tốp thuỷ thủ dìu nhau bơi vào bờ. Tổ thợ máy có anh Sáu Lân đang sống ở Miền Nam, anh Phát hiện sống ở Cần Thơ, anh Bản ở Nam Định và Hùng bơi được vào rừng đước lúc gần sáng, họ chia nhau đi tìm đồng đội và bắt liên lạc với du kích trên bờ. Phía địch chúng huy động lính thuỷ đánh bộ Mỹ đến Rạch gốc truy tìm lính cộng sản bơi vào bờ. Nguyễn Hữu Hùng bị địch phát hiện, đuổi, bắn gãy chân và bắt sống. Chúng tra tấn, khai thác ngay tại bờ. Nhất quyết không khai báo, Hùng bị bọn lính thuỷ Mỹ trói vào cây chất củi khô, tưới xăng thiêu sống trước lúc chúng rút quân vì khu vực này là đất của cộng sản. Anh Hợi cho biết lúc đó là rạng sáng ngày 11 tháng 4 năm 1971. Con tàu 69B có 23 cán bộ, chiến sỹ thì hy sinh 7 người, 6 bị thương trong đó có anh Hợi, số còn lại được du kích đưa về căn cứ sau đó vựợt trường sơn ra Bắc về đơn vị, nhận tàu mới lại tiếp tục những chuyến chở hàng chi viện cho miền Nam. ( Ảnh và video buổi lễ đón nhận hài cốt liệt sỹ Tàu không số kèm theo) Các bạn ạ, trong giấy báo tử các liệt sỹ chỉ được ghi" Hy sinh tại mặt trận phía Nam" Hôm đó gia đình, bà con, chính quyền địa phương mới được biết sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ Nguyễn Hữu Hùng.
TKS

(http://np7.upanh.com/b4.s29.d1/6fd9a662714e58c059c21216dde8fa27_47982737.dsc0010.jpg) (http://www.upanh.com/upanh_dsc_0010/v/0rj17d9a4js.htm)

(http://np2.upanh.com/b2.s28.d3/e73b1cbed3036cf6dfc850e82e2737da_47982772.dsc0047.jpg) (http://www.upanh.com/upanh_dsc_0047/v/4rjbfd9acal.htm)

(http://np2.upanh.com/b2.s28.d3/c3a1b6856cc9f731596e50b674564b96_47986592.dsc0050.jpg) (http://www.upanh.com/upanh_dsc_0050/v/drj36daa6ou.htm)
Lễ mai táng liệt sỹ Nguyễn Hữu Hùng