Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 12:38:20 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường Hồ Chí Minh trên biển  (Đọc 155441 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Mig21Bis_1
Thành viên
*
Bài viết: 552



« Trả lời #170 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2011, 11:04:41 pm »

Nên sử dụng từ “Huyền thoại” như thế nào cho phù hợp?


QĐND - Gần đây, công tác tuyên truyền hướng tới kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển đã và đang thu hút được sự quan tâm của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân trong nước cùng bạn bè quốc tế. Sở dĩ vấn đề này hấp dẫn mọi người, vì đây là con đường độc đáo, sáng tạo thể hiện tài thao lược của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quân ủy Trung ương. Trong 14 năm (1961-1975), các lực lượng tham gia đường Hồ Chí Minh trên biển đã làm nên những chiến công như những huyền thoại, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến tranh đã lùi xa hơn 36 năm, nhưng đến nay, nhiều nhà nghiên cứu của thế giới vẫn đang đi tìm lời giải cho câu hỏi: Vì sao với những con tàu nhỏ bé, trang bị thô sơ như vậy mà “Tàu không số” vẫn vượt qua được sự kiểm soát gắt gao của Mỹ-ngụy để vận chuyển một lượng lớn vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam? Đây là sự thật hay huyền thoại?

Ngày 22-9-2011, Hội thảo khoa học do Bộ Quốc phòng tổ chức với chủ đề “Đường Hồ Chí Minh trên biển-con đường của ý chí và sức sáng tạo Việt Nam” đã khẳng định: Đường Hồ Chí Minh trên biển là một biểu tượng sáng ngời về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân rất độc đáo, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương. Đây là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, hiện thân của lòng quả cảm, trí thông minh, ý chí sắt đá, tình cảm thiêng liêng đối với miền Nam ruột thịt; là một kỳ tích độc đáo và mãi mãi là niềm tự hào của Quân đội nhân dân và dân tộc Việt Nam anh hùng. Độc đáo và như huyền thoại, vì đây là con đường và phương pháp vận chuyển độc nhất vô nhị trong lịch sử chiến tranh thế giới. Nó làm cho đối phương kinh ngạc, bất ngờ và không thể tưởng tượng được về sự có mặt, quy mô, sự dũng cảm và tính sáng tạo vô song của con đường, những con tàu và những con người tham gia tuyến đường này. Những con tàu “không số” cùng với cán bộ, chiến sĩ tham gia đều tuyệt đối giữ bí mật, kể cả với người thân, khi cần thiết phải hủy tàu và hy sinh cùng với con tàu để giữ bí mật con đường. Chính vì vậy, các phương tiện thông tin đại chúng đã dùng từ “huyền thoại” như: Cuộc thi tìm hiểu “Huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển”; có tờ báo còn rút tít “Đường Hồ Chí Minh trên biển, con đường huyền thoại”; bộ phim tài liệu nhiều tập khởi chiếu trên VTV1, Đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 3-10-2011 cũng có tên là “Huyền thoại tàu không số”...

Theo tôi, cách sử dụng từ “huyền thoại” khi nói về đường Hồ Chí Minh trên biển hay về Đoàn tàu "không số" như các ví dụ trên là chưa phù hợp. Theo Từ điển tiếng Việt do Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia biên soạn, xuất bản năm 2005, từ “huyền thoại” có nghĩa là: Câu chuyện huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng hư cấu nên. Theo đó, nếu chúng ta dùng từ “Huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển” hay “Huyền thoại tàu không số” là không đúng với bản chất của con đường Hồ Chí Minh trên biển và những con tàu “không số”. Nếu tuyên truyền như vậy, thì ngay cả người Việt Nam cũng chưa thể hiểu được đầy đủ ý nghĩa của Đường Hồ Chí Minh trên biển, thế thì người nước ngoài phải tra từ điển tiếng Việt để dịch nghĩa.

Để giúp người đọc, người xem hiểu đúng về giá trị của Đường Hồ Chí Minh trên biển và nâng cao hiệu quả tuyên truyền, thiết nghĩ nên dùng từ “huyền thoại” cho phù hợp, có thể là: “...huyền thoại có thật”; “Tàu không số huyền thoại” hoặc “Những chiến công như huyền thoại”... vì thông điệp mà báo chí đưa ra phải là thông điệp dễ hiểu, đến được với đông đảo quần chúng nhất. Đây cũng là một yêu cầu trong công tác tuyên truyền về Đường Hồ Chí Minh trên biển mà Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đặt ra.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/308/308/163026/Default.aspx
Logged
quehuongyeudau
Thành viên
*
Bài viết: 39


« Trả lời #171 vào lúc: 24 Tháng Mười, 2011, 09:04:07 am »

Hôm qua em xem cầu truyền hình về đường HCM xúc động quá, thật cảm phục các chú vì lòng dũng cảm, gan dạ và bình tĩnh trước kẻ thù.
Logged
Mig21Bis_1
Thành viên
*
Bài viết: 552



« Trả lời #172 vào lúc: 24 Tháng Mười, 2011, 09:03:07 pm »

Huyền thoại tàu không số - Tập 7: Những con tàu bất tử


<a href="http://www.youtube.com/watch?v=I6YYmj8lBEg" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=I6YYmj8lBEg</a>


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=I6YYmj8lBEg
Logged
Mig21Bis_1
Thành viên
*
Bài viết: 552



« Trả lời #173 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2011, 12:33:58 am »

Huyền thoại tàu không số - Tập 8: Bãi Ngang và Tết Mậu Thân


<a href="http://www.youtube.com/watch?v=NjYi9Z3b5YE" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=NjYi9Z3b5YE</a>


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=NjYi9Z3b5YE
Logged
Mig21Bis_1
Thành viên
*
Bài viết: 552



« Trả lời #174 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2011, 01:09:30 am »

Huyền Thoại Tàu Không Số - Tập 9: Bản hùng ca trên biển


<a href="http://www.youtube.com/watch?v=SatJGBDYYJo" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=SatJGBDYYJo</a>


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=SatJGBDYYJo
Logged
jasmine2011
Thành viên
*
Bài viết: 170


« Trả lời #175 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2011, 07:23:01 pm »

Em có việc này muốn hỏi: Giả sử các anh là người chịu trách nhiệm trang bị khí tài cho con tàu không số. Với chiều dài 30m, rộng 7m, cao 5m của con tàu, các anh có đồng ý với việc trang bị 1 DKZ 57, 3 12 ly 7 và AK, RPD, B40 không? Trong trận chiến trên bến Vàm Lũng, với dàn vũ khí này đã đánh với hàng chục tàu địch 3 tiếng đồng hồ và thoát an toàn. Em không có ý định phê phán gì (vì chắc lúc quyết định BTL đã suy nghĩ rất nhiều, và điều kiện của ta chỉ có vậy), nhưng em thấy hải quân ngụy quá kém, tàu to súng lớn mà để tàu ta chạy thoát, lại còn bị đánh te tua thì em chịu. Vậy, lúc đó trang bị trên các tàu địch ra sao? Tại sao không trang bị thêm vũ khí cho tàu? Một chuyến tàu 1 tuần lễ có thể thay thế 1 tiểu đoàn cơ giới hoặc một sư đoàn bộ binh vận tải trong hàng tháng trời. Tại sao không thể trang bị khá hơn cho tàu? Và tại sao không đi hai ba tàu, một chiếc chở hàng, hai chiếc nghi binh và đánh tháo khi cần. Cần thiết thì hi sinh hai cái tàu để hàng chục tấn vũ khí chạy thoát an toàn. Tàu cá thì cũng có thể đi hai ba chiếc chứ? Đi lẻ có khi lại dễ bị nghi hơn.
Trên đây là thiển ý của em. Xin nhắc lại đây là những thắc măc của một người chưa có hiểu biết đầy đủ. Em không định phê phán gì BTL của 759 vì em chưa hiểu hết. Mong các bác giải thích.
Logged
Mig21Bis_1
Thành viên
*
Bài viết: 552



« Trả lời #176 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2011, 05:23:00 pm »

Huyền Thoại Tàu Không Số - Tập 10: Tri ân đồng đội


<a href="http://www.youtube.com/watch?v=gk4U-QhJIcU" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=gk4U-QhJIcU</a>


Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=gk4U-QhJIcU
Logged
Mig21Bis_1
Thành viên
*
Bài viết: 552



« Trả lời #177 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2011, 12:25:24 am »

Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 1)


Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành con đường huyền thoại, duy nhất có trong lịch sử chiến tranh nhân loại. Nhân kỷ niệm 50 năm truyền thống của tuyến đường đặc biệt này, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc những hồ sơ, tư liệu, ghi chép về chân dung những “thuyền trưởng huyền thoại" của "con đường huyền thoại” này.

Kỳ 1: Thuyền trưởng tàu không số đầu tiên

QĐND - Cho đến nay, đã có nhiều bài báo, phóng sự tài liệu về đồng chí Lê Văn Một, người thuyền trưởng của chiếc “tàu không số” đầu tiên mang tên Phương Đông 1. Nhưng cuộc đời cách mạng của ông còn có nhiều bí mật, bất ngờ khiến chúng ta đi từ ngạc nhiên đến khâm phục.

Bắt đầu từ “con đường xuyên Tây”

Lê Văn Một sinh năm 1921, thuộc dòng dõi gia tộc thủ khoa yêu nước Nguyễn Hữu Huân đất Tiền Giang. Từ lúc lọt lòng, ông có tên Pháp là Abel René.  Abel René là con thứ  11 trong một gia đình giáo học quốc tịch Pháp có 13 anh em. Cha là Đốc học Lê Văn Giỏi nổi tiếng đất Mỹ Tho (Tiền Giang). Cậu bé Abel René từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, sáng dạ, chăm chỉ học tập, được bố mẹ cho học ở nhiều trường như Trường Tiểu học Mỹ Tho, Trường Lê Bá Cang - Sài Gòn... rồi ra Hà Nội học ở Trường Thăng Long.

Đến tuổi trưởng thành, Abel René vào lính thủy, làm “nghĩa vụ” với mẫu quốc Pháp, là hoa tiêu trên tàu Lamotte Picquet - tuần dương hạm lớn nhất Đông Dương.

Cách mạng Tháng Tám 1945 là một bước ngoặt mới đến với Abel René. Luồng gió mới thổi vào đời ông. Abel René bừng tỉnh: La france ce n’est pas ma Ptrie! (Nước Pháp không phải là quốc mẫu của tôi!). Ông cùng bạn bè tìm đường theo cách mạng kháng chiến. Abel René đổi tên thành Lê Văn Một.

Thuyền trưởng Lê Văn Một. (Ảnh do gia đình cung cấp)

Tháng 12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Lực lượng vũ trang Nam Bộ “thuốc súng kém, chân đi không” đành phải lùi dần về Đồng Tháp Mười và rừng U Minh. Ban sưu tầm vũ khí ở nước ngoài được thành lập. Lê Văn Một và 12 người nữa được đồng chí Năm Phúc (tức nhà lão thành cách mạng Dương Quang Đông) chọn vào lực lượng vận tải vũ khí, lên đường sang Băng Cốc (Thái Lan) bằng ghe buồm để tìm mua vũ khí và tổ chức con đường xuyên Tây, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ.

Lê Văn Một được giao trọng trách mang theo 25kg vàng, bỏ trong ruột tượng, ngày đêm cột chặt quanh mình. Số vàng này là kỳ tích của “Tuần lễ vàng” vì lòng yêu nước của nhân dân quyên góp để mua vũ khí.

Chuyến đầu tiên, Lê Văn Một tổ chức 10 xe bò, 10 voi và lực lượng 70 người, vận chuyển bằng đường bộ qua Cam-pu-chia về nước. Súng theo voi, đạn đeo lưng người. Trải qua 16 ngày vượt núi, qua sông, địch luôn luôn ngăn đường, chặn lối, đơn vị vừa hành quân vừa tác chiến 11 trận trên đất Cam-pu-chia. Đầu tháng 1-1948, đoàn về đến Nam Bộ với 11 người hy sinh và mất tích. Thấy vận chuyển đường bộ gian khổ, hiệu quả thấp, Lê Văn Một tính cách  chuyển sang vận chuyển bằng đường biển. Tuy nhiên, gian khổ, hy sinh vẫn không hề nhỏ. Có lần đoàn vận tải do “cặp đôi” Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa chỉ huy gặp gió bão, phải ghé vào đảo  Phú Quốc để tránh. Gần một tháng nằm tại đây, cả đoàn phải đào củ chuối rừng ăn cầm hơi... Cứ như vậy, suốt mấy năm liền, đi đi, về về trên Vịnh Thái Lan, đơn vị đã vận chuyển được hàng trăm tấn vũ khí, hàng hóa về Nam Bộ. Những chiến công thầm lặng đó đã tạo tiền đề cho ý tưởng vĩ đại mở con đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông.

... Đến mở đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Năm 1960, phong trào cách mạng ở miền Nam phát triển mạnh mẽ, mở đầu là phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre rồi lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ.  Nhu cầu vũ  khí cho chiến trường miền Nam rất lớn. Con đường Trường Sơn đang hình thành. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và đưa thuyền ra Bắc để nhận vũ khí, đồng thời nghiên cứu con đường vận chuyển chiến lược trên biển để sử dụng lâu dài. Từ cuối năm 1961, đầu năm 1962, lần lượt 6 thuyền gỗ của các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bà Rịa, Trà Vinh (trong đó thuyền gỗ Cà Mau do Bông Văn Dĩa phụ trách) đã ra đến miền Bắc an toàn. Con đường vận chuyển trên biển Đông khẳng định là “có thể đưa vũ khí vào được”.

Lê Văn Một lúc đó đang tập kết ngoài Bắc, làm Cảng trưởng cảng Cẩm Phả, được điều chuyển ngay về Đoàn 759 - Bộ Quốc phòng (tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân) chuẩn bị làm nhiệm vụ đặc biệt này, nhiệm vụ mở đường đưa vũ khí từ Bắc vào Nam trên những “con tàu không số”. Phải nói rằng cấp trên đã khéo chọn, khéo sắp xếp một “cặp bài trùng”, Lê Văn Một - Thuyền trưởng, Bông Văn Dĩa - Chính trị viên, cùng chung chuyến mở đường, cũng như họ đã từng kề vai sát cánh trên Vịnh Thái Lan thời chống Pháp đưa vũ khí về Nam Bộ. Họ đã biết tính nết nhau, tôn trọng nhau, đoàn kết yêu thương nhau, chèo lái “con tàu không số” đầu tiên vượt biển Đông mở đường tiếp viện quan trọng đưa vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ.

Ngày 11-10-1961, tại Bến K15, Đồ Sơn, Hải Phòng (Bến K15 vừa được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp quốc gia), con tàu gỗ Phương Đông 1 lặng lẽ nhổ neo ra khơi, hướng về phía Nam, chở 30 tấn vũ khí, mang  theo cả niềm tin, tình thương của Đảng, của Bác Hồ, của nhân dân miền Bắc tới đồng bào miền Nam. Chuyến đi mở đường đã thành công. Một lần nữa hai người chỉ huy Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa lại ghi tên mình vào trang sử vẻ vang của dân tộc.

“Người đi lo một, người chờ tin lo mười”

Phó thủ tướng Phạm Hùng ngày đó đã căn dặn 12 thành viên con tàu gỗ Phương Đông 1 trước giờ xuất phát: “Đây là chuyến đi đầu tiên, nên cực kỳ quan trọng, một việc hệ trọng và lâu dài, do vậy nếu gặp địch phải khôn khéo, mưu trí, trường hợp xấu phải hủy hàng, hủy tàu để giữ bí mật con đường, các đồng chí nên nhớ, người đi lo một, người ở lại chờ tin, lo mười...”.

Ông Sáu Lai, một trong hai người còn lại của tàu Phương Đông 1, hiện sống tại Cần Thơ, kể lại: “Có lần gặp tàu địch bám theo hướng chạy của ta, chúng nã pháo dữ dội. Anh em nhanh trí xổ cả buồm lái và mũi cho thuyền căng gió lướt trên ngọn sóng. Chỉ huy tàu phát lệnh chiến đấu. Toàn tàu xác định, khi cần dùng tốc độ vượt lên, để tàu địch phía sau, rồi cho nổ bom phá áp tàu giặc, dùng tiểu liên, lựu đạn đánh địch, người lái thì cứ cho tàu chạy thoát. Nếu không thoát thì cho nổ 3 trái bom còn lại, quyết không để tàu và vũ khí rơi vào tay giặc. Một và Dĩa dự kiến, nếu địch bắt cả tàu thì lợi dụng trời tối cắt dây cho anh em bơi vào bờ, còn Một và Dĩa ở lại dùng bom thủ tiêu tàu. Một nói với Dĩa: Nếu phải thủ tiêu để một mình tôi thôi! Anh cùng anh em may ra còn sống sót về Trung ương báo cáo...”.

Có lúc, gặp giông bão, tàu nhỏ, chở đầy hàng rất nguy hiểm, không vào bờ, dễ “chết ở ngoài khơi”, vào bờ dễ “làm mồi cho giặc”, Thuyền trưởng Một và Chính trị viên Dĩa phải tính toán cân nhắc đến mức căng thẳng.

Người đi trên biển thì như vậy, người ở nhà chờ tin thì sao? Trung tướng Đồng Văn Cống, nguyên Cục phó Cục Tác chiến, người trực tiếp theo dõi diễn biến của “con tàu không số” đầu tiên, kể lại: “Theo kế hoạch dự kiến đi 5 ngày thì đến. Sáng nào đến giờ giao ban Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng hỏi: “Thế nào rồi? Có tin tức gì không?”... Tôi sốt ruột lắc đầu, rồi ngày thứ sáu, thứ bảy, thứ tám cũng không tin tức gì! Sáng ngày 19-10-1962, tức ngày thứ chín, Quân ủy Trung ương đang giao ban. Tôi bước vào. Đại tướng ngẩng đầu nhìn tôi đăm đăm. Lần này tôi gật đầu, mặt tươi sáng. Đại tướng đứng dậy ôm chầm lấy tôi, Đại tướng khóc. Mừng quá, không sao kể xiết...”.

Chuyến đi thắng lợi, tàu Phương Đông 1 đã cập bến Vàm Lũng - Cà Mau an toàn sau 9 ngày lênh đênh trên Biển Đông.

Một năm sau, Lê Văn Một lại được cử  làm thuyền trưởng tàu gỗ 41, đưa vũ khí vào miền Đông Nam Bộ, mở bến Lộc An (Bà Rịa - Vũng Tàu) ngay trước đồn Phước Hải, đêm 3-10-1963. Đây là một chuyến đi gian khổ bởi tàu bị mắc cạn ngay trước đồn địch. Lê Văn Một đã ứng xử rất linh hoạt, thông minh, bảo đảm đưa hàng tới bến an toàn. Hai chuyến đi này đều ghi những dấu ấn đặc biệt trong hành trình vận chuyển vũ khí bằng đường biển của những “con tàu không số”. Đây là những chuyến mở đường, vào bến mới, đầy khó khăn và thử thách. Bằng kinh nghiệm đi biển, bản lĩnh dày dạn, đặc biệt là tinh thần quả cảm “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Thuyền trưởng Lê Văn Một đã xử trí rất thông minh nhiều tình huống phức tạp trong hiểm nguy và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Lê Văn Một mất năm 1982. Chiến công của ông đã được ghi trong Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, được đánh giá cao trong tập chuyên khảo mang tên “Đường Hồ Chí Minh trên biển Bà Rịa - Vũng Tàu” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1993. Ba năm sau ngày ông mất, Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp với gia đình tổ chức cuộc họp mặt, đánh giá công lao đóng góp của ông trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là thành tích đóng góp cho việc mở đường, vào những bến mới trên con đường Hồ Chí Minh trên biển. Ông được Nhà nước công nhận liệt sĩ và  truy tặng Huân chương Độc lập hạng ba vì những đóng góp của ông vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng của tập thể tàu Phương Đông 1 mà người chèo lái con tàu đó là Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa, những con người đã dũng cảm đi tiên phong, “khai sơn phá thạch” một con đường, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu sẽ mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng kiên cường của dân tộc ta, trở thành huyền thoại mãi mãi không bao giờ nhạt phai trong tâm trí chúng ta, làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159792/Default.aspx
Logged
Mig21Bis_1
Thành viên
*
Bài viết: 552



« Trả lời #178 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2011, 12:32:04 am »

Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 2)

Kỳ 2: Thuyền trưởng tàu sắt đầu tiên

QĐND - Đại tá Trần Văn Tú – cán bộ Ban liên lạc truyền thống “Đường Hồ Chí Minh trên biển” giới thiệu với chúng tôi một cách trân trọng và cảm phục về một người thuyền trưởng đã tham gia chở vũ khí vào miền Nam từ những ngày đầu trên con đường biển mang tên Bác. Người đã chỉ huy chuyến tàu sắt đầu tiên, có 10 chuyến đi thành công, một con số thật đáng nể phục trong những năm tháng khó khăn, ác liệt bởi sự phong tỏa gắt gao của kẻ thù. Theo lời giới thiệu, chúng tôi tìm đến phường Đằng Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng gặp ông. Ông là Nguyễn Ngọc Ảnh, Thuyền trưởng của những con tàu không số năm xưa.

Làng Lũng những ngày đầu tháng Tám, đúng tiết ngâu, mưa bay lất phất. Những hạt mưa gợi lại bao ký ức xa xưa, trong không gian thoáng đãng còn phảng phất hương thơm của làng hoa lâu đời. Ông ngồi đó, đối diện với tôi, ở tuổi 80, ông không được khỏe lắm, ngoại trừ đôi mắt sáng và minh mẫn.

Ông là đồng hương của Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Tương và Nguyễn Văn Hiệu những người con ưu tú đất Quảng Nam anh hùng đã ra đi cùng những huyền thoại về Đoàn tàu không số vượt sóng gió ra khơi trong những đêm đen, bão gió, đưa vũ khí về miền Nam. Đó cũng là những ngày tháng có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông. Ông tự hào về điều đó. 10 chuyến đi là 10 chuyến an toàn, 10 chuyến thành công.

Nguyễn Ngọc Ảnh tập kết ra Bắc năm 1954, làm cán bộ trong ngành đường sắt, tuyến đường Hà Nội - Lào Cai; sau đó chuyển về Nhà máy dệt Nam Định, rồi học lớp Sơ cấp Hàng hải và được điều về làm Thuyền trưởng tàu đánh cá của Xí nghiệp đánh cá Hạ Long. Trước yêu cầu vận chuyển đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam, đầu năm 1962 ông và một số anh em trong Xí nghiệp đã nhập ngũ vào Đoàn 759 - tiền thân Đoàn 125 sau này.

Một chiếc tàu sắt của đoàn tàu không số trên đường chở vũ khí vào Nam (Ảnh thu được từ tài liệu của Mỹ-ngụy).

Chuyến đầu tiên ông tham gia chở vũ khí vào miền Nam là chuyến tàu sắt, do Xưởng đóng tàu III đóng. Đây là lần đầu tiên thử nghiệm con tàu do ta đóng và cũng là lần thử nghiệm cho một tuyến đi mới của đơn vị.

- Khi nhận con tàu sắt còn nguyên mùi sơn mới, anh em rất phấn khởi, nhưng không khỏi lo lắng vì chưa kịp tìm hiểu kỹ các tính năng của tàu đã nhận lệnh lên đường. Trước đó, năm 1962 ta đã sử dụng các tàu gỗ gắn máy chở vũ khí vào miền Nam, loại tàu này chỉ đi sát bờ, không ra biển xa được. An toàn đấy nhưng hiệu quả vận chuyển thấp. Trước yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam, phải có những con tàu vận chuyển tốt hơn, trọng tải lớn hơn và đi biển trong mọi thời tiết. Con tàu này có trọng tải 50 tấn, lắp máy của Cộng hòa Dân chủ Đức - loại máy tốt nhất lúc bấy giờ. Tàu chịu được sóng cấp 7, cấp 8, mớn nước nông, có thể ra vào dễ dàng các kênh rạch ở Đồng bằng Nam Bộ.

Ngày 17-3-1963, từ bến K20-Hải Phòng chúng tôi lên đường. Đồng chí Đạt - Phân đội trưởng tàu tuần tiễu được điều sang làm Thuyền trưởng, tôi là Thuyền phó, đồng chí Nguyễn Văn Tiến nguyên là thành viên của đội tàu Bến Tre ra Bắc hai năm trước làm Chính trị viên.

Buổi chiều mùa đông hôm đó trời u ám, mây vần vũ xám xịt, sóng gió cấp 7, cấp 8. Tàu ra khơi. Phải đi vào những ngày sóng như vậy, nguy hiểm đấy, nhưng mới an toàn vì ít chạm tàu địch.

Ông Ảnh ít cười khi nói chuyện, có một nỗi buồn nào đó phảng phất trong đôi mắt mở to đau đáu kia. Sự suy tư hay những ký ức xưa hiện về trong buổi trò chuyện này? Lặng im một lát, ông kể tiếp:

- Trong đêm tối mịt mùng, càng ra khơi sóng mỗi lúc càng to. Gió thổi ràn rạt. Mặt biển tím sẫm. Thiết bị quan sát chỉ có 1 la bàn lái chính, 1 la bàn chuẩn ở trên cao để quan sát trăng sao, núi non. Chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm đi biển. Tàu đi về hướng đảo Hải Nam, vượt qua Đông Nam quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… hướng về phía Nam. Qua mấy ngày đêm vật lộn với sóng gió, tuy rất mệt nhưng ban chỉ huy tàu vừa phải bảo đảm công tác chỉ huy, vừa phải quan sát chi tiết những vị trí, nhận dạng trên đường, làm tiền đề cho những chuyến sau. Sóng gió quần dữ, anh em thủy thủ mệt nhoài vì say sóng. Bụng đói, thèm một chút cháo nóng mà nồi cháo cứ đổ nước vào, mỗi lần tàu nghiêng lại hất tung cả bếp, cả cháo ra. Phải đi biển mới biết nấu ăn trên tàu khi sóng lớn cực đến mức nào, không kiên nhẫn chắc không làm nổi. Anh Trần Lộc, người Quảng Nam, có sáng kiến nắm chặt hai quai nồi và nhấc lên mỗi khi tàu lắc mạnh. Vậy mà mấy tiếng sau cũng được nồi cháo cầm hơi... Vượt qua đảo Cù Lao Thu, tàu hướng thẳng vào cửa Ba Động. Khi bắt được tín hiệu, chuẩn bị vào bến thì bất ngờ được tin báo địch tổ chức càn quét, vây hãm khu vực này, chúng tôi chuyển hướng sang bến Bát Sát, nay là cửa Hàm Luông (Trà Vinh).

Vòng vèo mãi theo con thuyền nhỏ dẫn đường lặng lẽ, mập mờ phía trước, chúng tôi cho tàu vòng xuống bến, đó là đêm 23 rạng ngày 24-3-1963. Đang chạy, bỗng tàu khựng lại! Tàu bị sục cạn. Mọi cố gắng của chúng tôi đều bất thành. Chi bộ hội ý chớp nhoáng quyết định cho anh em sơ tán, mang cả súng 12,7mm, CKC, AK lên rừng đước đề phòng nếu quân địch đến thì chiến đấu. Tôi cùng máy trưởng Kiên và đồng chí Nuôi ở lại trên tàu, tùy tình huống xử trí. Khoảng 11 giờ, có tiếng máy bay tới gần, ngó nghiêng. Bình tĩnh, chúng tôi lấy cờ ba que treo lên như những tàu đánh cá của dân miền Nam, phía trên khoang tàu rải mấy tấm lưới ra phơi. Máy bay địch vẫn quần đi quần lại nhưng không phát hiện thêm điều gì. Đến chiều tối, nước bắt đầu lên, người trong bến đón chúng tôi vào bờ. Tại đây, dân quân và bộ đội địa phương đã bố trí lực lượng đón và tiếp nhận vũ khí an toàn.

Tôi nhớ bữa đó, do tàu bị sục cạn, cánh chân vịt bị cong vênh không chạy được. Một xưởng sửa chữa cơ động dựng lên. Chúng tôi lấy gỗ đóng dưới tàu. Khi nước xuống, con tàu nằm cao trên đà. Anh Kiên người Trà Vinh - thợ máy tàu - có sáng kiến dùng đèn khò xì vào cánh chân vịt cho mềm, dùng búa gõ, nắn cho thẳng. Hì hụi hơn một tuần thì gò xong 4 cánh chân vịt. Nghỉ ngơi lại sức chúng tôi trở về miền Bắc. Chuyến về êm xuôi, lợi gió, lợi nước, tàu chạy nhanh và cập bến Đồ Sơn an toàn.

Sau chuyến đi đầu thắng lợi, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tổ chức gặp gỡ và liên hoan chúc mừng chúng tôi. Phó thủ tướng Phạm Hùng và Thượng tướng Trần Văn Trà cùng dự liên hoan. Anh em rất phấn khởi vì được Phó thủ tướng khen ngợi và tặng quà.

Từ kinh nghiệm của chuyến đi đầu, các chuyến sau chúng tôi thường cho tàu cập bến Láng Nước (tỉnh Cà Mau), bến này sâu lại có nhiều rừng đước nên cập tàu thuận lợi và an toàn hơn. Suốt 6 năm làm nhiệm vụ, tôi đã đi 10 chuyến thành công. Riêng chuyến thứ 5 tàu của chúng tôi đụng phải khu trục hạm của Mỹ, do chủ động phát hiện từ xa, nên đã nhanh trí kịp thời chuyển hướng và chuyển hàng tới bến an toàn...

Giờ đây, với ông, tổ ấm là ngôi nhà nhỏ rợp bóng cây ở làng Lũng - làng hoa, với đủ màu sắc của vùng đất nổi tiếng trồng hoa thành phố, nơi ông bà sống sum vầy cùng các con cháu đã trưởng thành. Ở đó là sự yên bình, đầm ấm, ở đó là những khoảng lặng cần thiết để ngẫm ngợi về những ngày gian khó, ác liệt nhưng hào hùng của những người lính vận tải biển. Vẫn đôi mắt sáng mở to, ông ngồi lặng nhìn ra vườn táo xanh mướt mát kia với ánh nhìn tưởng chừng như lơ đãng mà vẫn ẩn dấu ưu tư. Dường như, ông vẫn thấy bóng dáng còn tàu nhỏ bé năm xưa qua làn mưa ngâu bay lất phất, vẫn thấy gương mặt thân yêu của đồng đội và hy vọng vào ngày gặp mặt...

Ra về, lòng tôi cứ vấn vương mãi hình ảnh về ông, về đôi mắt sáng, tinh tường, mưu trí, dũng cảm của người thuyền trưởng năm xưa đã tham gia chỉ huy chuyến tàu sắt đầu tiên, đã đi 10 chuyến thành công, đưa vũ khí về giải phóng quê hương, góp phần làm nên trang sử huyền thoại của con đường biển mang tên Bác Hồ kính yêu...

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159970/Default.aspx
Logged
Mig21Bis_1
Thành viên
*
Bài viết: 552



« Trả lời #179 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2011, 11:04:24 am »

Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 3)


Kỳ 3: Từ du kích trở thành thuyền trưởng

Từ một du kích trưởng thành thành một thuyền trưởng “tàu không số” dày dạn kinh nghiệm với hàng chục chuyến chở vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ. Mỗi chuyến đi là một câu chuyện, một kỷ niệm, nhưng theo ông hồi ức đáng nhớ nhất là “chuyến đón tàu Phương Đông 1 của Chính trị viên Bông Văn Dĩa, Thuyền trưởng Lê Văn Một, ngày 16-10-1962 tại Vàm Lũng-Cà Mau...”. Ông là Nguyễn Xuân Thơm, hiện sống tại 15/7A Đoàn Như Hài, phường 12, quận 4, TP Hồ Chí Minh.

Ông kể, cuộc đời trai trẻ của mình đã gắn trọn với con đường vận chuyển trên Biển Đông, chở vũ khí cho miền Nam đánh Mỹ. Ông đã tham gia 16 chuyến vượt biển, 10 chuyến thành công, đã từng chỉ huy Tàu HQ-673 chở các lực lượng đặc công đi giải phóng quần đảo Trường Sa, nhưng thực sự câu chuyện “đón chiếc tàu Phương Đông 1 của bác Một, bác Dĩa” làm ông nhớ mãi, không sao quên được.

Nguyễn Xuân Thơm sinh ra và lớn lên ở xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Từ nhỏ đã được chứng kiến sự độc tài, thối nát của chế độ gia đình họ Ngô. Luật 10/59 của Ngô Đình Diệm đã lê máy chém đi khắp miền Nam gây ra bao nhiêu tội ác dã man với đồng bào. Quê hương, xóm làng bị chìm ngập trong cái gọi là “khu trù mật”. Căm thù giặc Mỹ, Nguyễn Xuân Thơm đã đi theo cách mạng, vào vùng giải phóng, gia nhập đội dân quân du kích Ấp 7 ở quê hương, sau đó ông được chuyển về trung đội du kích xã làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ căn cứ cách mạng, tính mạng và tài sản nhân dân.

Ông Nguyễn Xuân Thơm (bên trái) cùng đồng đội.

Ông kể, ngày đó cơ sở vật chất cách mạng còn nghèo nàn lắm. Để chống lại các cuộc càn quét của giặc hay phá tan các “khu trù mật” mở rộng vùng giải phóng, đơn vị ông chỉ có trang bị vũ khí thô sơ như súng kíp, lựu đạn, mìn tự tạo, vũ khí đạp lôi làm bằng chai đựng nước, và một loại vũ khí không thể thiếu được đó là chông hầm và chông bàn (đây là loại vũ khí được coi là lợi hại nhất)... Ngoài ra còn có hai khẩu súng trường, ba súng kíp tự làm bằng ống xe đạp cộng với một số lựu đạn lấy được của giặc và lựu đạn mỏ vịt tự làm.

- Vũ khí thô sơ, thiếu thốn. Vậy mà hai năm trời đơn vị phải chiến đấu với hàng chục trận càn của địch, đối đầu với hàng trăm tên địch được trang bị nhiều vũ khí hiện đại, cùng nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, san bằng khu trù mật, thủ tiêu chính quyền ngụy, lập lại chính quyền cách mạng, xây dựng quê hương làng xóm thân yêu của mình! Ông kể với giọng đầy sôi nổi, tự hào, gương mặt ánh lên niềm vui rạng rỡ.

Khoảng giữa năm 1962, ông và một người đồng chí được chuyển công tác về đơn vị mới mà “hoàn toàn chưa biết gì về đặc điểm và tính chất hoạt động của nó”. Về sau mới biết đó là đơn vị TN-3175, thuộc quân khu miền Tây Nam Bộ, trực thuộc Trung ương Cục miền Nam. Tại đây anh em luôn được sự đùm bọc của nhân dân xóm “ấp Máng Gào” thuộc xã Viên An-căn cứ cách mạng hồi kháng chiến chống Pháp, mang truyền thống của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai của anh hùng Phan Ngọc Hiển năm xưa, giờ còn gây tiếng vang khắp vùng. Nơi đây đã trở thành căn cứ cách mạng kháng chiến. Nhiều đồng chí khác từ các xã: Khánh Bình Tây, Khánh Bình Đông, Khánh Lâm thuộc huyện Trần Văn Thời... cũng được điều về đơn vị. Mọi người sống vui vẻ, chan hòa như anh em một nhà, hằng ngày được học tập chính trị, phổ biến nắm bắt tình hình nhiệm vụ mới. Sau mười ngày học tập đơn vị phân công mỗi người một nhiệm vụ khác nhau.

- Tôi được phân về trung đội vũ trang bảo vệ căn cứ và cơ quan, còn các bộ phận khác đều có nhiệm vụ riêng. Sau đó chúng tôi được Trung ương giao nhiệm vụ chuẩn bị mua ghe tàu, lắp máy trang bị ngụy trang, lo giấy tờ hợp pháp trong vùng địch. Sau ba tháng tích cực chuẩn bị, lo lót chính quyền ngụy, chúng tôi đã có ghe, đầy đủ các loại giấy tờ hợp pháp như giấy đăng ký ghe, thuyền, giấy ngư phủ, giấy hành nghề của hợp tác xã đánh cá của ngụy. Tất cả đã sẵn sàng. Ông Thơm kể.

Một ngày đầu tháng 10-1962, đơn vị nhận được lệnh sẵn sàng ghe, thuyền để đón nhận vũ khí từ miền Bắc vào. Kể sao hết niềm vui sướng của anh em bến bãi trước tin vui này. Mọi người phấn khởi, hối hả làm việc quên cả ngày đêm, kiểm tra ghe, lưới, sửa chữa máy móc, ngư cụ... Vậy là đồng bào miền Nam sẽ có vũ khí hiện đại để chống lại các cuộc càn quét, tấn công tận sào huyệt tiêu diệt kẻ thù, mở rộng vùng giải phóng. Từ hôm đó, 4 anh em gồm: Tư Lưới - người được giao nhiệm vụ phụ trách bến, Chín Thuân, Dũng (Miên) và ông Thơm hằng đêm đưa ghe ra biển giả vờ đánh bắt cá để nắm tình hình. Ban ngày, anh em lại thu lưới vô rừng ẩn giấu.

- Những ngày ấy căng thẳng đến ngộp thở. Ông Thơm bùi ngùi nhớ lại. Chúng tôi ngày không dám ngủ, nơm nớp hồi hộp chờ đêm xuống là ra biển ngay. “Ngư trường” của chúng tôi cách bờ từ 3 đến 10 cây số, anh em thay nhau trực canh, mắt luôn nhìn ra biển, hướng đến những dấu hiệu nhỏ nhất, kể cả một ánh chớp lạ trên mặt biển đen bầm thẫm mênh mông. 10 ngày đêm chỉ với mỗi việc giả vờ thả lưới, rồi lại kéo lên, trong một khu vực. Mỗi khi thuyền trôi khỏi “ngư trường”, anh em lại điều khiển ghe ngược dòng, về vị trí cũ, rồi lại thả lưới. Cứ thế! Công việc thật vất vả! Tấm lưới đâu có nhỏ bé chi! Dài tới 200-300 mét. Kéo lên, thả xuống! Ai đấy đều mệt nhoài! Nhưng cứ nghĩ tàu sắp chở vũ khí về, mọi mệt mỏi tiêu luôn! Nhưng cũng chính sự “làm việc tích cực đó” đã che mắt, đánh lạc hướng bọn địch!

Ông Nguyễn Xuân Thơm cùng người nhà bên mộ Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa.

Kể đến đây ông cười giòn giã, ánh lên niềm vui sướng khiến chúng tôi cũng phải bật cười mà nước mắt cứ chực trào khi hình dung cảnh kéo lưới “nghi binh” suốt 10 đêm mịt mùng của 4 chàng “lực điền” mà “chẳng bắt được con cá nào...”.  Đến ngày thứ 11, khoảng 6 giờ sáng ngày 16-10-1962, mọi người nhìn thấy một chiếc tàu rất to thấp thoáng, xa xa ngoài cửa Vàm Lũng, sóng nước bọt trắng xóa.

- Treo cờ tín hiệu lên! Tư Lưới vui mừng ra lệnh. Đèn pin đâu? Sáu Thơm khẩn trương đánh tín hiệu đèn pin! Không khí trên ghe sôi động hẳn. Hồi hộp, tôi lấy chiếc đèn pin, có bịt giấy đỏ để hở một lỗ nhỏ, đánh liền ba chớp dài. Ngoài kia, con tàu vẫn lừ lừ chạy theo hướng sát mép bờ, trên đỉnh có treo cờ và rồi, hai chớp đèn pin nháy dài đánh tín hiệu trả lời.

- Đúng rồi! Đúng tàu ta rồi! Chúng tôi reo to, ôm chầm lấy nhau sung sướng! Hoan hô! Tàu ông Dĩa đã về! Chúng tôi tiếp tục đánh tín hiệu đèn pin, ra lệnh: “Anh đi theo tôi!” Chiếc tàu lù lù, lừng lững đi vào hướng bến, tới rạch Chùm Gọng.

Chuyến vận chuyển vũ khí đầu tiên vào miền Nam đã thành công. Mọi người nghẹn ngào, ùa đến, tay bắt mặt mừng, ôm hôn thắm thiết thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bông Văn Dĩa, thợ máy Năm Sao, Sáu Lai, Năm Kỷ... những người con anh hùng của đồng bào miền Nam, đã vượt qua vòng vây phong tỏa của giặc thù, qua phong ba bão tố chở vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh Mỹ. Niềm hạnh phúc thật lớn lao! Hàng chục chiếc ghe, xuồng lập tức ghé tới bốc hàng. Những thùng vũ khí còn nguyên mùi sơn mới, mùi khét dầu mỡ, nhanh chóng được vận chuyển cất giấu ở nơi khác. Suốt 3 ngày đêm vất vả mới vận chuyển hết số hàng và vũ khí tàu Phương Đông 1 chở về.

Vậy là con đường biển nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn không còn là dự định, là mong ước mà đã trở thành hiện thực. Chuyến đầu tiên thắng lợi làm tiền đề cho những chuyến đi tiếp đó thành công. Chúng tôi đã liên tục đón thêm 3 chuyến tàu nữa tại đây. Đồng chí Tư Đức - người phụ trách bến vui mừng khôn xiết, xúc động nói với các cán bộ, thuyền viên: “Các đồng chí không chỉ đưa vũ khí vào cho chúng tôi, mà còn mang cả tình thương của Đảng, của Bác, của đồng bào miền Bắc với miền Nam ruột thịt; tiếp sức để miền Nam chiến đấu giải phóng quê hương”.

Một năm sau, tôi ra Bắc nhận nhiệm vụ mới và đã trải qua nhiều chuyến đi, nhiều trận chiến đấu, tôi đã trưởng thành, từ một chiến sĩ trở thành thuyền trưởng của Đoàn tàu Không số anh hùng và huyền thoại trên Biển Đông.

Nguồn: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160053/Default.aspx
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM