Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 05:10:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường Hồ Chí Minh trên biển  (Đọc 155457 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #10 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 01:57:26 pm »


Phía sau người anh hùng


Ở Trà Vinh có một thuyền trưởng từng chiến đấu trên biển Đông đã được tuyên dương anh hùng quân đội, nay cũng đã nghỉ hưu: anh Ba Thắng, tức Hồ Đức Thắng. Theo chỉ dẫn của các đồng chí ở đoàn 962, tức đơn vị hải quân nay đóng ở Trà Nóc, Cần Thơ, chúng tôi tìm đến anh Ba Thắng.

Cuộc chiến đấu trên biển của người anh hùng

Anh Ba Thắng thuộc lớp người đầu tiên mở đường biển Đông.

Hồi 1960-1961, khi ở Bà Rịa bác Năm Đông và má Mười Rìu xuôi ngược tổ chức bến bí mật trong lòng giặc, ở Cà Mau anh Hai Địa và anh Tư Mau rong ruổi đi nghiên cứu hàng trăm hòn đảo từ Trường Sa qua Kiên Hải đến Thổ Chu, từ Ninh Thuận Đặng Văn Thanh lội bộ vượt Trường Sơn ra Hà Nội... thì Tỉnh ủy Trà Vinh cũng gửi một thuyền vượt biển bí mật ra bắt liên lạc với trung ương.

Thuyền Trà Vinh có sáu người, lấy tên theo một khẩu hiệu, một quyết tâm lớn: Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi. Ba Thắng chính là người thứ năm trong số này.

Thuyền Trà Vinh vượt biển ra Bắc, gặp bão, trôi dạt sang tận Macau, rồi được trả về Hà Nội qua cửa khẩu Bằng Tường. Cũng như nhiều anh em khác từ chiến trường ra, Ba Thắng được cho đi học, bắt đầu từ i tờ, rồi học hàng hải, cuối cùng tập trung về đoàn tàu không số bắt đầu tham gia cuộc chiến đấu lớn trên biển.

Ba Thắng đã đi trước sau trên 20 chuyến, hầu hết các bến bí mật ở miền Nam thời ấy anh đều đặt chân đến: Rạch Gốc, Gành Hào, Bồ Đề, Hố Bỏ Gùi, Vàm Lũng, Kinh Năm... Gay go, nguy hiểm nhất là các bến ở miền Trung: Lộ Diêu, Phổ An, Phổ Quang, Sa Kỳ, Hòn Hèo, Hòn Khói, Vũng Rô... Sử dụng đủ các loại tàu: tàu gỗ do xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng cung cấp, tàu sắt Quảng Châu, tàu cao tốc những năm về sau này.

Khi con đường vận chuyển trên biển bị lộ, bọn Mỹ đã triển khai một bộ phận hải quân và máy bay thuộc hạm đội 7 phối hợp với hải quân ngụy ráo riết ngăn chặn, tàu ta không thể đi theo địa văn, tức là đi tương đối gần bờ, lấy các rặng núi trong đất liền làm chuẩn để định hướng nữa, mà phải đi vòng ra rất xa, sang tận sát quần đảo Philippines, vòng xuống đến vùng Palawan sát hải phận Indonesia, từ đó men theo eo biển Malacca ngược lên vịnh Thái Lan, và bất ngờ dùng tốc độ cao đâm thẳng vào vùng mũi Cà Mau...

Đã có hàng chục trận phải đánh nhau với tàu địch trên biển, cho nổ tàu phi tang, nhảy xuống biển mà bơi, hoặc cho tàu đâm thẳng luôn vào bờ, vừa đánh địch vừa đốt tàu, rồi tìm đường về căn cứ...

Suốt đêm chúng tôi mới đến và sáng hôm sau anh Ba Thắng kể cho chúng tôi nghe tất cả những chuyện ấy. Rồi anh dẫn chúng tôi ra bến, chính cái bến ngày xưa tàu ta từng bí mật đổ vũ khí vào.

Buổi tối chúng tôi trở về nhà anh Ba Thắng. Chị Ba nấu cháo gà đãi chúng tôi. Và trong khi chúng tôi ngồi uống rượu, chị lui cui dọn dẹp, cho heo ăn, đập xơ dừa một lúc rồi chị đi nghỉ sớm.

Anh Ba Thắng rủ chúng tôi bắc ghế ra sân ngồi hóng mát. Đêm ở đây yên tĩnh đến có cảm giác như ta đã tách hẳn ra khỏi thế giới tất tả chung quanh. Sự yên tĩnh cho ta cái thanh thản trầm lắng và dễ khiến con người trở nên suy tư.

Anh Ba Thắng đột ngột nói:

- Suốt ngày hôm nay tôi đã kể các anh nghe cuộc chiến đấu trên biển của chúng tôi. Bây giờ tôi sẽ kể với các anh một cuộc chiến đấu khác, chắc không ghi trong bất cứ sổ sách nào đâu...

Cuộc chiến đấu không có tiếng súng

... Hồi 1961, lệnh rút sáu anh em chúng tôi để vượt biển ra Bắc là lệnh trực tiếp của tỉnh ủy, hết sức bí mật, ngay trong tỉnh ủy cũng chỉ có một, hai đồng chí thường vụ trực tiếp lo công việc này biết, còn huyện ủy, xã ủy, chi bộ địa phương đều hoàn toàn không hay biết. Chỉ nghe nói là mấy anh em tôi được rút đi thoát ly, còn đi đâu, làm gì không ai rõ. Vợ tôi lúc đó đã là đảng viên trong chi ủy mà tôi cũng không dám hé răng tâm sự chút gì...

Tôi ra Bắc, rồi đi tàu bí mật trở về khắp các bến, như tôi đã kể các anh nghe. Đến chuyến thứ năm mới được trở về đúng bến Trà Vinh này. Tới bến cất hàng, giấu tàu xong xuôi, chúng tôi rút vào rừng nghỉ một tuần.

Ngày tôi ra đi vợ chồng tôi mới có một mặt con. Vợ tôi là chi ủy viên, hoạt động bí mật trong ấp chiến lược, nhớ và lo lắm. Nhưng tuyệt đối không hề dám nghĩ tới chuyện thư từ liên lạc, đừng nói gì đến về thăm, gặp mặt...

Đến chuyến thứ chín, cuối năm 1964, tôi lại được trở về bến Trà Vinh. Lần này đồng chí phụ trách bến gọi tôi lên, hỏi:

- Có muốn gặp vợ không?

Tôi chắc anh ấy thử mình nên trả lời:

- Không dám nghĩ tới chuyện đó đâu. Tùy tổ chức thôi.

Ai dè các anh thương, lần này quyết bố trí cho vợ chồng tôi gặp nhau thật.

Công phu lắm. Phải phái một chị giao liên hợp pháp về tận làng tôi, nói với vợ tôi là trên rút đi công tác đặc biệt, công tác gì không được biết. Vợ tôi phải giả đi buôn ở Cần Thơ. Giao liên dẫn đi vòng vo mấy ngày, chuyển từ giao liên này qua giao liên khác mấy lần, cuối cùng mới đến bến.

Anh em rất chu đáo. Điều kiện ở bến khó khăn vậy mà các anh vẫn bố trí cho vợ chồng tôi một “căn lều hạnh phúc” trong một khu rừng kín. Ở với nhau được hai ngày... Rồi vợ tôi lại vòng lên Cần Thơ, mua một ít hàng linh tinh trước khi trở về nhà. Còn tôi vài ngày sau xuống tàu...

Từ đó cho đến hết chiến tranh tôi còn đi nhiều chuyến, nhưng toàn đi Cà Mau và Khu 5, không còn chuyến nào được trở lại Trà Vinh. Cũng không hề nhận được tin tức gì của vợ con nữa...
Tôi thiệt là cái thằng vô tâm các anh ạ. Nhớ thương vợ con thì luôn canh cánh bên lòng, nhưng không hề đoán nghĩ được những gì sẽ xảy ra với vợ tôi sau lần chúng tôi gặp nhau trong rừng đó...

Mãi đến sau 1975 giải phóng miền Nam rồi tôi về thăm nhà mới biết: thì ra lần ấy gặp nhau trở về vợ tôi có thai. Cơ sự bỗng trở nên hết sức phức tạp. Việc tôi ra Bắc, rồi đi tàu biển chở vũ khí về, địa phương, huyện, xã, tỉnh, chi bộ, bà con làng xóm tuyệt đối không ai biết. Việc tôi có trở về bến Trà Vinh càng không ai biết.

Đối với mọi người, kể cả các đồng chí trong đảng bộ địa phương, cả với cha mẹ tôi, vợ tôi là vợ của một chiến sĩ quân giải phóng đang đánh Mỹ ở đâu đó. Vậy mà bây giờ, đùng một cái, người đàn bà ấy lại có chửa! Với ai? Chỉ có thể là chửa hoang!

Lúc đầu vợ tôi còn lúng túng che giấu, hi vọng một cách hão huyền biết đâu bất ngờ tôi có thể công khai trở về. Nhưng rồi bụng càng ngày càng to, không thể che giấu được nữa. Cha mẹ tôi khinh bỉ và đau khổ. Chi bộ gọi lên kiểm điểm. Nói với chi bộ thế nào bây giờ? Cuối cùng cô ấy khai liều: lâu nay đi buôn ở Cần Thơ, lỡ có dan díu với một người ra cơ sự này!

Cha mẹ la chửi, chi bộ lên án đành cắn răng chịu đựng. Chi bộ quyết định kỷ luật: khai trừ, đuổi ra khỏi Đảng, đình chỉ công tác. Các anh có hiểu được một người đảng viên sống trong lòng địch mà bỗng mất hết đảng, mất hết cả gia đình, xóm giềng, lủi thủi một mình ôm cái bụng chửa, rồi sinh con, nuôi con một mình chống lại với tất cả... là thế nào không? Vợ tôi sinh được một đứa con gái, giọt máu của chúng tôi. Nhưng cha mẹ tôi không cho nó lấy họ tôi.

Vậy đó, kéo dài hơn 10 năm trời. Cho đến ngày giải phóng miền Nam. Và tôi trở về...

Anh Ba Thắng ngừng lời. Tất cả chúng tôi đều im lặng.

Chúng tôi tìm về bến Trà Vinh để gặp một người anh hùng và nghe những sự tích anh hùng của anh trên biển Đông, những trận chiến đấu độc đảm, dữ dội, ác liệt của anh giữa trùng khơi sóng gió. Nhưng hóa ra lại gặp một con người khác, một sự tích khác. Một sự tích không hề có súng nổ, có sóng to, gió lớn biển khơi, thậm chí một sự tích gần như không lời.

Một người đàn bà âm thầm chịu đựng tất cả, hoàn toàn cô đơn, dằng dặc hơn 10 năm trời, để khư khư cắn răng giữ kín một điều ngày ấy vô cùng thiêng liêng: bí mật của con đường biển Đông.

Đặng Văn Thanh và chú Năm Sao từng kiên gan chịu đựng trên con tàu mắc cạn, sẵn sàng hi sinh nổ tung tan xác cùng con tàu, phi tang tất cả cũng là để gìn giữ cho được điều bí mật sinh tử ấy. Họ đã trụ vững suốt một ngày.

Đặng Văn Thanh trở thành anh hùng quân đội.

Còn chị Ba ở tận cuối Trà Vinh, chị đã trụ vững hơn 10 năm. Và trong cô đơn tuyệt đối.
Sử sách nào sẽ ghi lại sự tích này?

Một vùng cát trắng, lơ thơ bông cỏ lông chông khô cháy. Người đàn bà ấy đi trên cát, nắm tay một đứa bé. Chị Ba Thắng và đứa con gái bé bỏng của chị. Lủi thủi, cam chịu hai mẹ con... Có ai ngờ chủ nghĩa anh hùng có khi lại có diện mạo lầm lũi như thế đó...

Những con tàu không số tăng dần theo năm tháng. Năm 1964, 1965 mỗi tuần đều có những chuyến ra khơi. Từ biển Bắc, hàng ngàn tấn súng đạn theo những chuyến đi mạo hiểm ấy đã đến với các bến đợi ở miền Trung, miền Nam.

Con đường chiến lược có nguy cơ bị rò rỉ ngay từ điểm xuất phát. Và nỗi lo rình rập mỗi ngày…

Logged
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #11 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 01:59:12 pm »


Bí mật một con đường

Việc lớp chiến sĩ nghĩa vụ quân sự này có mặt ở Lữ đoàn 125 khoảng năm 1964 là một dấu hiệu cho thấy đến lúc này tuyến vận chuyển bí mật trên biển Bắc - Nam đã phát triển khá lớn: số anh em từ các tỉnh trong Nam vượt biển ra và anh em miền Nam tập kết lấy từ các đơn vị trong và ngoài quân đội về không còn đủ nữa.

Đơn vị đã phải tuyển thêm ngày càng đông những chiến sĩ hải quân quê miền Bắc. Tất nhiên chọn lựa rất kỹ: những người gan dạ, vững chắc, tin cậy nhất. Nguyễn Long An nói:

- Lúc tôi về đơn vị, con đường trên biển của ta có thể nói đã khá tấp nập. Tôi xin nói vài con số: Năm 1962 tổng số tàu đi là năm chiếc, chở được cho miền Nam 810 tấn vũ khí. Năm 1963 tổng số tàu đi 22 chiếc, chở được 1.318 tấn. Năm 1964 tổng số tàu đi 49 chiếc, chở được 2.971 tấn và 113 khách. Riêng hai tháng đầu năm 1965 tổng số tàu đi tám chiếc, chở 408 tấn và 23 khách.

Tức là đến cuối năm 1964 đầu 1965, gần như tuần nào cũng có tàu xuất phát từ Đồ Sơn, Hòn Gai, Hạ Long, Bái Tử Long, Móng Cái, Tiên Yên, nhằm vào các bến Khu 5 và Nam bộ: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bà Rịa, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá. Hệ thống bến đi và bến đến cũng đều mở rất rộng.

Ngoài súng đạn, tàu còn chở cả “khách”. Khách đây là những đồng chí cán bộ thường ở cấp khá cao, cần đi công tác khẩn vào miền Nam hoặc từ các chiến trường miền Nam ra trung ương báo cáo, họp hành. Đi đường Trường Sơn phải mất hai, ba tháng trời. Đi tàu biển của chúng tôi nhiều nhất chỉ mất một tuần...

Mật độ tàu đi lại dày đặc như vậy thì nguy cơ lộ bí mật con đường chiến lược đặc biệt này cũng ngày càng lớn. Có thể nói là mối lo nơm nớp từng ngày. Mà bí mật thì có thể rò rỉ từ những kẽ hở rất nhỏ, rất khó lường.

Một bí mật cao hơn tất cả

Có một chuyện thế này: tàu chúng tôi khi đi vào chở vũ khí rất nặng nên tàu khẳm, đi tương đối đằm. Khi trở ra lại đi tàu không, tàu nhẹ quá, gặp sóng to gió lớn rất chông chênh. Cho nên khi trở ra chúng tôi thường chất đủ thứ linh tinh lên tàu cốt cho nặng: đất đá, than củi, bất cứ thứ gì...

Một lần vô tình anh em chở ra cả một tàu toàn cây dừa nước. Dừa nước Nam bộ thiếu gì. Chở về đến căn cứ của đoàn ở phía trên bến Bính, Hải Phòng rồi đổ bừa xuống đấy... Và quên bẵng đi...

Không ngờ dừa nước là thứ cây rất khỏe. Chỉ một thời gian sau cả một vùng bờ sông phía sau căn cứ bến Bính đã thành một bãi dừa nước rậm rạp, bạt ngàn. Vậy mà chúng tôi bận bịu bao nhiêu công việc chẳng ai để ý.

Cho đến một hôm, có một anh công nhân quê Nam bộ tập kết làm việc ở một nhà máy gì đó bên Hải Phòng, một buổi chiều chắc là nhớ nhà, nhớ quê hương, đi lang thang một mình dọc bờ sông, tình cờ thấy mấy trái dừa nước trôi bập bềnh trên mặt sông.

Anh nhặt lấy, đêm về chợt nghĩ: ở miền Bắc rất hiếm dừa nước. Mấy trái dừa nước này đúng là dừa Nam bộ rồi. Ai mang nó ra đây? Tại sao lại trôi dạt tận bờ sông này?...

Mấy hôm sau anh tẩn mẩn mò đi ngược bờ sông và khám phá bãi dừa nước của chúng tôi. Anh lân la tìm gặp anh em chúng tôi, hỏi: “Có phải các anh đã vào tận Nam bộ mang giống dừa này ra đây không?”.

Thật là nguy to! Tin tức ấy được báo cáo ngay lên Bộ tư lệnh Hải quân, rồi lên tận trung ương. Đoàn chúng tôi bị chỉnh một trận ra trò, được lệnh phá sạch ngay hết bãi dừa nước nọ và phải tổ chức bí mật theo dõi ráo riết anh công nhân nặng lòng nhớ quê hương kia...

Cũng may, theo dõi rất lâu không thấy có động tĩnh gì khác, chắc anh công nhân ấy rồi cũng vô tình quên đi chuyện mấy trái dừa nước, hoặc anh là người có ý tứ, đã biết giữ kín sự khám phá và mối nghi ngờ của mình, không tiết lộ thêm với ai khác... Những ngày ấy khắc nghiệt như thế đó, một tình cảm quê hương thật đẹp thế cũng lại rất có thể trở thành nguy hiểm cho cả một sự nghiệp lớn ta từng biết bao công phu xây dựng, gìn giữ...

Còn một khía cạnh khác nữa cũng rất tế nhị, phức tạp. Ngày ấy tất cả chúng tôi đều còn rất trẻ, hầu hết chưa có gia đình riêng, chuyện yêu đương không thể tránh hết được. Không thể cấm đoán nhưng quả thật mọi mối quen biết của chúng tôi đều bị giám sát rất khắt khe. Chúng tôi biết và hiểu yêu cầu khắc nghiệt của công tác này đòi hỏi phải như vậy.

Một lần cơ quan bảo vệ báo cáo một thủy thủ trong một chuyến đi phép đã gặp và yêu một chị y tá ở Bệnh viện Việt Trung trên Hà Nội tên là Phúc. Và hình như chị Phúc có biết về công việc của lữ đoàn. Cán bộ bảo vệ đi điều tra, không xác minh được điều gì rõ rệt. Nhưng cậu thủy thủ nọ biết mối lo của đoàn liền lẳng lặng cắt đứt và trốn biệt người yêu.

Chị Phúc cuống quít bổ đi tìm khắp nơi, đau khổ vì đây là mối tình đầu của chị... Về sau cậu thủy thủ ấy hi sinh, mất tích trên vịnh Thái Lan. Chắc chị Phúc mãi mãi không bao giờ biết gì nữa về người lính thủy đẹp trai đã đến một lần với chị rồi vĩnh viễn biệt tăm ấy...

Có trăm nghìn câu chuyện như vậy, trăm nghìn hi sinh thầm lặng, vô danh như vậy, ngày ấy.Ngày ấy, đối với mỗi chúng tôi, bí mật của con đường là thiêng liêng, là cao hơn tất cả.
Phương châm công tác trên biển của chúng tôi là: bí mật, bất ngờ, tránh chạm địch đến cùng để hoàn thành nhiệm vụ, khi cuối cùng không tránh được thì chiến đấu đến cùng, không để địch lấy tàu, lấy hàng, lấy tài liệu, không để địch bắt sống.

Về sau có sửa lại: “Trong trường hợp bị địch bắt, giữ vững khí tiết của người cộng sản, đấu tranh để tìm mọi cách tiếp tục nhiệm vụ”. Rồi sau lại bổ sung: “Trong trường hợp lạc đến các nước Đông Nam Á, bị bắt thì đấu tranh tìm mọi cách gặp sứ quán ta để trở về tiếp tục nhiệm vụ”.

Như vậy nghĩa là một mặt hết sức kiên trì giữ đến cùng bí mật của con đường, song mặt khác chúng tôi cũng đã nghĩ đến khả năng một ngày nào đó không thể tránh phải chạm địch, đối mặt với chúng. Mật độ hoạt động ngày càng lớn, càng dày, cái ngày ấy càng đến gần.
Và cuối cùng ngày ấy đã đến thật: ngày 16-2-1965. Ngày hôm đó bùng nổ vụ Vũng Rô.

Vũng Rô, vùng đất hiểm yếu ấy nằm gần bên thành phố Nha Trang, cũng gần bên Cam Ranh - căn cứ hải quân của Mỹ ngụy. Trước khi xảy ra sự kiện ngày 16-2-1965, bất ngờ và táo bạo, những con tàu không số đã chọn Vũng Rô làm nơi cập bến, chuyển lên bờ hàng trăm tấn súng đạn. Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 1964…

Logged
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #12 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 02:01:34 pm »


Vũng Rô - bến đậu trong lòng địch

Câu chuyện của Nguyễn Long An đưa chúng tôi trở về với một vùng đất hiểm yếu và ác liệt vào bậc nhất trong mấy cuộc chiến tranh đã qua: vùng Vũng Rô.

Điều bất ngờ ở nơi nguy hiểm nhất

Con đường thiên lý số 1 và đường xe lửa xuyên Việt Bắc - Nam, đến chặng cuối tỉnh Phú Yên đầu tỉnh Khánh Hòa thì gặp một rặng núi lớn, một cánh tay vạm vỡ của dãy Trường Sơn vươn ra biển Đông, chắn ngang.

Đường xe lửa phải chui qua một hầm dài. Còn đường thiên lý trên bộ thì quanh co leo lên một ngọn đèo cao ngất, hiểm trở: đèo Cả - một trong những ngọn đèo cao nhất ở nước ta và là ngọn đèo cao cuối cùng trên quốc lộ 1 Bắc - Nam. Bên này là núi lớn, tiếp liền với rừng già, nối lên tận Trường Sơn. Bên kia là biển sâu hoắm.

Ngay giữa đỉnh đèo nhìn xuống theo hướng đông, thăm thẳm dưới hàng trăm thước sâu là một vịnh biển tuyệt vời: gần như hình tròn, rộng và sâu, ba mặt vách đá dựng đứng, mặt thứ tư nhìn ra biển lại có hai hòn đảo nhỏ như hai tấm bình phong che chắn: một cảng biển tuyệt vời cho những con tàu đại dương hàng vạn tấn... Đó chính là Vũng Rô.

Không biết ai là người đầu tiên đã táo bạo nghĩ đến việc dùng Vũng Rô làm bến đón các con tàu không số của chúng ta. Thật hết sức mạo hiểm: quá gần một thành phố lớn là Nha Trang, cũng quá gần Cam Ranh là căn cứ hải quân lớn nhất miền Nam của Mỹ ngụy.

Con đường chiến lược số 1 thì chạy ngay trên đỉnh đèo Cả, chỉ cách vài trăm mét, xe quân sự của địch qua lại suốt ngày đêm như mắc cửi. Lại cũng quá gần khu du kích Hòa Hiệp phía bắc và chiến khu Hòn Hèo, Hòn Khói phía nam, là vùng địch rất chăm chú theo dõi và thường xuyên càn quét đánh phá...

Nhưng trong chiến tranh thường vẫn vậy: nơi nguy hiểm nhất cũng có thể là nơi bất ngờ. Nghệ thuật chiến tranh, đặc biệt trên con đường biển Đông gian nan này, là biết và dám đi vào kẽ hở bất ngờ ấy, dám mạo hiểm để giành thắng lợi...

Nguyễn Long An kể:

- ... Vậy là đến giữa năm 1964, ta quyết định phương án táo bạo ấy: lấy Vũng Rô làm một bến lớn cho Khu 5. Chuyến đầu tiên do anh Hồ Đắc Thạnh, thuyền trưởng hải quân, quê ở Qui Nhơn, chỉ huy. Tàu đi xa ra ngoài biển quốc tế. Đến đúng tọa độ, chờ sẩm tối, đột ngột chuyển hướng, dùng tốc độ cao đâm thẳng vào đúng Vũng Rô, 11 giờ đêm phải đến bến.

Hòa Hiệp là vùng du kích mạnh của ta. Lực lượng du kích và bộ đội địa phương ta do một đồng chí thường vụ tỉnh ủy - anh Sáu Suyền - chỉ huy nhanh chóng băng qua dãy núi dưới chân hòn Vọng Phu và mỏm Đá Bia, đến chực sẵn ở bến.

Tàu vừa đến bến, toàn bộ lực lượng được tổ chức rất chặt chẽ, lập tức ùa xuống, bốc dỡ, một bộ phận ngay trong đêm vượt đường số 1 chuyển thẳng lên các dãy núi có rừng rậm ăn liền với căn cứ của ta ở phía tây trên dãy Trường Sơn. Số hàng còn lại không chuyển kịp trong đêm thì cất giấu trong các hang đá gần bến.

Rừng ở đây thưa, toàn cây gai lúp xúp nhưng lại nhiều hang đá... Tàu dỡ xong hàng tức tốc quay ra ngay, vừa sáng lại đã ra đến vùng biển quốc tế...

Chuyến đầu thắng lợi, phấn khởi lắm. Đi tiếp chuyến thứ hai, thứ ba, thứ tư...

Một lần liều lĩnh...

... Tôi về lữ đoàn, được phân công làm chiến sĩ cơ điện, tháng 12-1964 đi chuyến đầu tiên, tàu số 43 vào Cà Mau. Lần đầu còn rất lúng túng, nhờ các anh đi trước dìu dắt. Đi về mất một tháng, an toàn.

Bấy giờ đã gần tết, lại có lệnh chuẩn bị đi tiếp. Từ Đồ Sơn vào Cà Mau. Chuẩn bị sắp xong thì chiều 30 tết bỗng có lệnh điều sang tàu khác, số 401, tập kết ở Hòn Gai, do anh Lê Văn Thêm làm thuyền trưởng, anh Phan Văn Bảng làm chính trị viên, chuẩn bị đổ bộ vào Khu 5, Vũng Rô.

Đúng đêm mồng 1 Tết Ất Tỵ, tức ngày 2-2-1965, chúng tôi rời bến. Đi vào ngày tết là lúc địch sơ hở. Chuyến này, thấy tình hình địch có vẻ hơi khác thường: ban ngày, cứ 5-6 tiếng một lần lại có một máy bay địch bay dọc theo thân tàu, lúc cao lúc thấp. Đêm, lại thấy tàu thủy địch kèm, chiếc phía trước, chiếc phía sau. Nhưng chúng tôi đi trên vùng biển quốc tế nên cứ bình thản, treo cờ như tàu buôn. Sau này chúng tôi mới biết lúc đó địch đã đánh hơi và nghi ngờ. Chúng đã bắt đầu theo dõi...

Tối 15-2, chúng tôi đến điểm chuyển hướng... Chạy ra một lúc, anh Thêm khẳng định đã đúng nam Tuy Hòa, cách bờ 40 hải lý. Chúng tôi vào sát bờ, cứ men theo những chấm đèn điện dọc bờ mà đi. Biển ở đây có cái lợi là nước sâu, tàu ta cứ chạy men bờ, chen vào giữa các tàu đánh cá của dân.

Qua khỏi Tuy Hòa, thấy rõ đỉnh núi Vọng Phu và hòn Đá Bia: đêm ấy là 14 âm lịch, trăng rất sáng. Anh Thêm là thuyền trưởng lão luyện. Vòng qua mỏm Vọng Phu chúng tôi vào sát bờ hơn và lọt vào đúng Vũng Rô. Nhưng do phải chạy vòng vo lúc tối nên đến bến có chậm, đã gần 3g sáng.

Lập tức bốc dỡ, cất hàng. Nhưng tàu gần 100 tấn. Không tài nào bốc kịp trước trời sáng.
Xử trí thế nào đây?

Thường khi gặp tình huống này, an toàn nhất là cất được một phần hàng, còn lại cứ để đấy, đến trước 4g, chậm nhất là 5g sáng, quay tàu chạy ra vùng biển quốc tế, tối sẩm lại quay vào cất nốt.

Nhưng đêm ấy chúng tôi lại không chọn cách đó: chúng tôi quyết định cứ cất cho hết hàng đến sáng bạch, rồi ngụy trang, giấu tàu ngay tại bến, ở lại bến suốt ngày sau.

Vì sao lúc bấy giờ chúng tôi lại chọn phương án mạo hiểm ấy?

Có lẽ vì rất nhiều nguyên nhân. Từ năm 1962, mở đầu con đường này đến nay, chưa chuyến nào bị lộ. Về căn bản, địch chưa hay biết gì.

Riêng cảng Vũng Rô, mấy chuyến liền đều trót lọt, an toàn.

Tình hình ấy rõ ràng khiến chúng tôi sinh chủ quan.

Lúc bấy giờ chúng tôi chưa thể biết được điều này: bọn địch tuy chưa nắm được quả tang việc vận chuyển bí mật trên biển của ta, nhưng dần dà chúng đã chú ý một hiện tượng có phần khác thường: du kích các vùng ven biển Khu 5 ngày càng đánh mạnh, được trang bị một số vũ khí khá hiện đại: súng AK, súng cối cá nhân, đại liên, có khi cả trọng liên 12 li 7, cả súng bắn tăng B40. Đạn thì ê hề.

Số súng đạn này chính là anh chị em du kích ven biển của ta trong khi vận chuyển lên trên cho bộ đội chủ lực đã ranh ma “chôm” bớt một phần. Bọn địch đã có đặt câu hỏi: phải chăng có một con đường đưa vũ khí bí mật từ miền Bắc vào, đổ bộ lên các bến ven biển khu vực này? Chúng đang chăm chú theo dõi...

Chúng tôi quyết định ở lại bến hôm ấy có lẽ cũng có phần vì các bến miền Nam đối với chúng tôi ngày đó bao giờ cũng có sức hấp dẫn rất mạnh. Tình cảm của anh chị em du kích, cán bộ, đồng bào mà những lần trước chúng tôi chỉ thoáng gặp vài giờ trong đêm, không kịp nhìn mặt, không kịp cả nắm tay, tình cảm đó đối với chúng tôi thắm thiết vô cùng. Một giọng nói miền Nam thì thào trong gió biển đêm. Một khuôn mặt thoáng mờ dưới ánh trăng khuya... Và cả không khí chiến trường ngày ấy có gì đó thật thiêng liêng... Ở lại được một ngày trên mảnh đất cháy bỏng và yêu thương này, giữa những con người này, hạnh phúc biết bao.

Anh Thêm, anh Bảng và nhiều thủy thủ trong đoàn đều là người quê Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa. Có người vợ con chỉ ở cách bến năm, mười cây số. Không có chuyện lén về thăm nhà đâu, nhưng được ở lại một ngày, hít thở một chút không khí quê hương đang chiến đấu, ước ao thầm kín mà cháy bỏng đó dễ gì cầm lại được. Một chút liều lĩnh, đã sao...

Vậy đó. Ban chỉ huy tàu quyết định ở lại. Và chúng tôi đều đồng tình. Tự mình cố dẹp đi mọi lo ngại...

Logged
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #13 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 02:03:20 pm »


Bùng nổ sự kiện Vũng Rô

Chúng tôi dỡ hết hàng thì trời đã sáng bạch. Nhanh chóng chuyển hàng vào các hang đá. Và giấu tàu.

Mỏm đá lạ trên vách núi

Vũng Rô ba bề vách đá dựng đứng. Trên những vách sừng sững ấy, thỉnh thoảng có những chòm cây mọc bám vào đá, lơ lửng giữa không trung hay sát mặt nước.

Chúng tôi cho tàu áp sát vào một vách đá đen gồ ghề và chặt những cành cây lớn phủ kín. Từ trên nhìn xuống chẳng khác gì một mỏm đá hơi nhô ra, có một chòm cây lá mọc từ vách đá che phủ.

6g sáng...

Trên đỉnh đèo Cả, ngay từ mũi tàu ta nhìn lên, cách vài trăm mét là một đồn địch lù lù. Nhìn ra phía biển, cách 500m là một đồn địch khác: đồn Mũi Điệng.

Thật tình lúc này rất lo nhưng lại tự an ủi: càng ở ngay trước mũi chúng càng bất ngờ. Chúng không thể nghĩ ta dám vào tận đây đâu.

7g sáng, có ba chiếc trực thăng từ phía nam bay ra...

Trong chiến tranh, những sự kiện vang dội nhất lắm khi lại bắt đầu từ một ngẫu nhiên không đâu. Ngày hôm ấy một ngẫu nhiên như vậy đã xảy đến, mãi về sau này, sau năm 1975 giải phóng miền Nam rồi, qua tài liệu của địch chúng tôi mới biết.

Ngày 15-2-1965, tức là đúng cái ngày chúng tôi đến điểm chuyển hàng trên vùng biển quốc tế ngang Phú Yên, Khánh Hòa, trên chiến trường Khu 5 đã diễn ra một trận đánh lớn đặc sắc: trung đoàn 2, sư đoàn 3 quân giải phóng Khu 5 chặn đánh tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn địch tại đèo Nhông thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

Gần chục xe tăng của địch bị bắn cháy tan tành. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Khu 5 quân ta sử dụng súng chống tăng B41. Số súng này do chính các tàu ta đưa vào Khu 5 trong những chuyến trước.

Thương binh địch ngổn ngang trên trận địa đèo Nhông. Chúng phải dùng trực thăng chở về các bệnh viện ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Bệnh viện Quy Nhơn cũng chật cứng rồi, chúng lại phải chuyển về Nha Trang.

Chính trên một chiếc trực thăng UH1B tải thương đó, bay dọc đường số 1 ven biển từ Quy Nhơn về Nha Trang, lúc qua đèo Cả khoảng 12g trưa, viên phi công đã tình cờ nhận thấy “một mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây Vũng Rô” mà những ngày trước chưa hề thấy. Hắn liền báo về bộ chỉ huy quân đoàn 2 ngụy ở Nha Trang.

Phải nói công tác tham mưu của bọn này rất chặt chẽ, tỉ mỉ. Ngày nào cũng có hai lượt máy bay trinh sát bay chụp ảnh suốt dọc vùng ven biển. Đối chiếu các không ảnh chụp những ngày trước, chúng thấy quả là “mỏm đá lạ trên vách núi phía tây Vũng Rô” mới xuất hiện từ sáng nay.

Bấy giờ là khoảng 1g chiều. Một máy bay trinh sát từ phía Nha Trang ra, quần mấy vòng trên Vũng Rô rồi bắn một quả mù đúng vào chỗ ta giấu tàu. Lập tức hai chiếc khu trục AD6 lao tới, bổ nhào, ném một loạt bom xăng trúng tàu. Tất cả lớp lá ngụy trang của ta bốc cháy rừng rực. Tan khói, toàn bộ hình tàu lộ ra rõ mồn một.

Từ đó đến sẩm tối, hàng chục tốp khu trục liên tiếp đến ném bom. Tới 5g chiều thì tàu chìm hoàn toàn.

Cuộc đụng độ không cân sức

Trước đó, khoảng 4g chiều, tôi được lệnh cùng đồng chí máy trưởng tìm mọi cách xuống tàu để đánh bộc phá. Trong tàu đã đặt sẵn một khối bộc phá 500kg, đảm bảo giật nổ tung tàu, phi tang. Khối bộc phá này bố trí ở khoang máy.

Chúng tôi vượt qua bom đạn mù mịt, tiếp cận được tàu nhưng không vào được khoang máy. Tàu bị trúng bom nghiêng hẳn về một bên, cửa khoang máy chúi xuống phía đáy vịnh, bị sức ép mạnh của nước, chúng tôi lặn xuống nhiều lần không cách nào mở ra được.

Tối, máy bay địch lại đến thả pháo sáng. Mặc pháo sáng, chúng tôi trở lại tàu, lặn xuống, cố lấy hết số súng đạn còn lại trong tàu.

Mờ sáng hôm sau địch lại đến ném bom.

Tối 17-2, quân khu phái xuống một tiểu đội công binh, dùng 1 tấn bộc phá quyết phá tan tàu, thủ tiêu tung tích. Nhưng giật nổ bộc phá xong, chúng tôi trở lại xem thấy tàu chỉ vỡ đôi.

Chiều 17-2 có hiện tượng mới: một chiếc tàu LSM405 của địch có hai tàu chiến PC04 và DCE2 yểm trợ từ phía biển tiến vào, đồng thời trực thăng đổ hai tiểu đoàn bộ binh chiếm các đỉnh cao quanh vịnh. Chúng dùng bộ binh từ các điểm cao đánh xuống, kết hợp tàu thủy đổ bộ, cả máy bay liên tục ném bom yểm hộ. Về sau này chúng tôi mới biết thêm: một tên tướng ngụy từ Sài Gòn bay ra trực tiếp chỉ huy trận này.

Lực lượng ta lúc này chỉ có một trung đội du kích Hòa Hiệp, hai tiểu đội bộ đội địa phương huyện và 18 thủy thủ, trong đó thuyền trưởng Thêm đã bị thương. Chúng tôi chia nhau đánh chặn không cho địch đến gần chỗ tàu và các hang đá còn giấu một số hàng từ các chuyến trước chở vào chưa kịp chuyển đi hết.

Suốt các ngày 17, 18 và 19 địch cố đổ bộ lên bờ mấy lần đều bị ta đánh bật lại. Đến chiều 19, một đại đội địch mới đặt chân được lên bờ. Ta vẫn tiếp tục bám đánh, ngày từng tổ đánh chặn, đêm tập kích bọn địch trú quân trên các đồi trọc. Cứ như vậy suốt các ngày 20, 21, 22 và 23.

Sáng 24, địch lại đổ thêm quân, triển khai từ đường số 1 và các điểm cao phía nam, phía bắc đánh xuống, siết vòng vây chúng tôi lại.

Nhận định lực lượng đã quá chênh lệch, đêm 24 chúng tôi dùng mìn phá nổ hết các hang đá chứa hàng và tổ chức thoát khỏi vòng vây.

Giai đoạn mới sau Vũng Rô

Anh Trần Phong, nguyên tham mưu trưởng Lữ đoàn 125, nói với chúng tôi:

- Vụ Vũng Rô là sự kiện lớn trong lịch sử con đường biển Đông. Nó chấm dứt một giai đoạn hoàn toàn bí mật của con đường này. Nhưng đương nhiên nó không kết thúc con đường, không dập tắt được quyết tâm lớn của chúng ta dùng biển Đông làm con đường quan trọng vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam đang ngày càng đánh lớn hơn. Nó chỉ mở ra một giai đoạn mới của quyết tâm đó. Gian nan hơn, ác liệt hơn, mặt đối mặt thi gan với kẻ thù trên mặt biển mênh mông.

Chúng tôi ráo riết theo dõi động tĩnh của địch.

Tháng 4-1965, tức chỉ gần hai tháng sau vụ Vũng Rô, chúng đã bắt đầu triển khai một chiến dịch mang tên Market time, phân công rõ ràng: hải quân ngụy tuần tiễu ven bờ, hải quân Mỹ, tức một bộ phận quan trọng hạm đội 7, ngăn chặn ngoài khơi. Một lực lượng đặc nhiệm của quân đội ngụy được tổ chức lấy tên là lực lượng 115, gồm bảy tàu khu trục hộ vệ, hai tàu quét mìn, hai tàu vận tải đổ bộ cỡ lớn, năm máy bay trinh sát.

Hải quân Mỹ thì đưa vào công việc này 54 tàu hiện đại. Đến tháng 9-1965, chúng lại tăng thêm năm tàu tuần tiễu ngoài khơi, 30 tàu tuần tiễu trên sông, chín tàu tuần tiễu ven bờ. Toàn bộ vùng ven biển miền Nam được tổ chức lại thành chín khu vực chiến đấu và năm trung tâm giám sát lớn...

Còn ta? Ta tạm dừng một thời gian để rút kinh nghiệm; ráo riết tổ chức, huấn luyện lại lực lượng; tăng thêm 12 tàu cao tốc. Cần có tàu cao tốc là vì chiến thuật thay đổi: tàu đi đến những vùng biển rất xa, đánh lạc hướng địch, rồi bất ngờ dùng tốc độ rất cao lao thẳng vào bờ, thời gian tàu đi trên vùng biển thuộc miền Nam do địch kiểm soát sẽ rất ngắn, vào bờ cất hàng xong, lại dùng tốc độ cao vượt qua thật nhanh vùng biển địch kiểm soát, lao ra vùng biển quốc tế an toàn.

Đó chính là để hạn chế khả năng chạm địch, buộc phải đánh địch trên biển hết sức bất lợi. Hạn chế chứ không loại trừ hoàn toàn được. Bởi Mỹ dùng máy bay trinh sát ngày đêm kiểm soát vùng trời rất rộng, tàu ta rời bến miền Bắc là nó có thể phát hiện được rồi và sẽ theo dõi ta suốt hành trình dài, chờ khi ta vào hải phận miền Nam là vây đánh...

Nghĩa là sau Vũng Rô, tiếp tục đi trên con đường biển Đông sẽ là một trò chơi ú tim lớn, ta hết sức cố gắng lừa địch, tránh địch, nhưng đồng thời cũng sẵn sàng chấp nhận đánh địch trên biển khi không còn khả năng nào khác.

Tháng 10-1965, tiếp tục mở lại con đường.

Một thời kỳ mới của con đường biển Đông đã bắt đầu...

Trò chơi ú tim trên biển Đông ngày càng quyết liệt. Từ 1966-1972, hầu như không chuyến đi nào của tàu không số là hoàn toàn yên ổn, trót lọt...

Nhưng cuộc chiến đấu thì không dừng lại. Vũng Rô hiểm yếu bị phát hiện thì những bãi cát dài trống trải ven biển miền Trung lại được tìm làm bến đậu. Mấy mươi năm sau, nhà văn Nguyên Ngọc đã tìm về một bến đậu như vậy ở tỉnh Quảng Ngãi. Cũng từ đây ông nghe thấy không chỉ tiếng gầm của súng đạn...

Logged
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #14 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 02:05:15 pm »


Một câu chuyện tình


Ngày 8-3-1965, tức là chưa đầy một tháng sau vụ Vũng Rô, sư đoàn thủy quân lục chiến đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng phía bắc tỉnh Quảng Nam, mở đầu cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam.

Ít lâu sau, một sư đoàn thứ hai đổ tiếp vào Chu Lai phía nam tỉnh Quảng Nam. Rồi sư đoàn không vận số 1 nổi tiếng của Mỹ đổ vào Bình Định. Rồi các sư đoàn, lữ đoàn Nam Triều Tiên khét tiếng gian ác tràn vào suốt dọc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa...

Chiến trường Khu 5 trở thành một trong những chiến trường ác liệt nhất của toàn bộ cuộc chiến tranh. Khu 5 khao khát đòi súng. Nhưng vận chuyển đường biển bí mật cho Khu 5 cũng là khó khăn nhất, thậm chí có thể nói là mối lo trăn trở nhất của những người chỉ huy, và là nỗi lo sợ ngay ngáy của những cán bộ thủy thủ được giao nhiệm vụ đi làm công việc mạo hiểm này.

Vậy tiếp tế cho Khu 5 bằng cách nào? Chỉ còn một cách: vào bãi ngang.

Bãi ngang tức là những bãi cát dài ven biển dọc suốt miền Trung. Vô cùng trống trải, nhưng vì rất dài, hàng mấy trăm cây số, chỗ nào cũng phẳng lì tăm tắp, nên địch cũng chẳng biết tập trung vào chỗ nào mà đề phòng, ngăn chặn. Chúng ta chơi trò ú tim với địch trên suốt mấy trăm cây số bãi ngang này vậy!

Chúng tôi lần tìm về một bãi ngang như vậy: bãi ngang Phổ An, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Một bà cụ ở Phổ An bảo chúng tôi:

- Có, có một lần tàu mình vào đây, tại bãi ngang này. Anh em mình phá tàu và đánh nhau với tụi ngụy. Rồi bà con bọn tui nuôi giấu mấy ngày liền, trước khi bắt được liên lạc đưa anh em lên núi... Tui còn nhớ một anh chỉ huy người Nam bộ tên là Tư Thắng... Không biết bây giờ còn sống không?...

Tư Thắng còn sống. Ở Lữ đoàn 125 chúng tôi đã tìm hỏi được địa chỉ của anh: Tư Thắng, tức Nguyễn Đức Thắng, hiện ở Trà Nóc, Cần Thơ. Cả chị Sáu Thùy nữa, vợ anh. Câu chuyện tình yêu của họ cũng từng nổi tiếng một thời trong các đơn vị của con đường bí mật biển Đông.

Cú sét đánh

Tháng 9-1963 tôi (Tư Thắng) đi chuyến đầu tiên, làm thuyền phó, thuyền trưởng là anh Châu người Khu 5, vào bến Kiến Vàng, Cà Mau. Chuyến thứ hai đi tàu sắt, cũng vào Kiến Vàng. Chuyến thứ ba định đi bến Khâu Băng, Bến Tre nhưng bị lệch hướng, cuối cùng vào bến Trà Vinh, cũng trót lọt. Chuyến thứ tư đi tàu số 43, lại vào Kiến Vàng...

Anh Tư Thắng liếc nhìn chị Thùy, hơi cười, còn chị Sáu Thùy thì lườm anh. Rồi chị ý tứ đứng dậy bỏ đi đâu đó.

- Chính chuyến này mới sinh sự đây các anh ạ. Không biết sao mà lần này chúng tôi gặp bão nhiều thế. Trên đường vào sáu trận bão liên tiếp. Nhưng rồi cũng vào tới nơi trót lọt. Ngày ấy đi trên biển gian nan, vất vả, hiểm nguy, nhưng người thủy thủ đã vô đến bến thì sướng như tiên. Đến bến, chúng tôi được coi như những anh hùng, như con cưng.

Bấy giờ ở bến có một số chị em cấp dưỡng, y tá, trong đó có Sáu Thùy, tức là nhà tôi bây giờ đây. Tôi để ý thấy Sáu Thùy chăm sóc tôi có phần nhiều hơn những anh em khác, cách thức chăm sóc, ánh mắt cũng khác, lời ăn tiếng nói cũng khác.

Con gái miền Tây rất lạ các anh ạ, không biết các anh có nhận xét thấy không, rất mộc mạc, thùy mị, nhưng cũng ráo riết, dữ dội. Hay là chiến tranh khiến con người như vậy, tôi cũng không hiểu hết được. Sự bất trắc, cái chết gần kề khiến mọi sự bỗng trở nên đau đớn hơn, mong manh hơn mà cũng lại da diết, quyết liệt hơn chăng? Ngay từ lần gặp mặt thứ hai, tức là bữa cơm thứ hai ở bến, tôi đã thấy cô ấy gần như muốn bộc lộ tất cả với tôi, không cần che giấu gì nữa...

Còn tôi, tôi nghe nhà văn các anh bảo có cái gọi là “cú sét đánh”. Tôi đã bị một cú sét đánh như vậy. Tôi yêu từ đầu nhưng cố kìm mình lại bằng cách bông đùa. Tôi nghĩ tôi đã đi vào cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu cảm tử rồi, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, đem cột cuộc đời người ta vào mình làm gì, càng yêu thương người ta bao nhiêu thì càng phải cắn răng lại mà rứt ra bấy nhiêu... Nói thế chứ không dễ đâu.

Năm ấy, 1964, tôi 30, Sáu Thùy 20, tính thật đúng ra là mới 19, con gái miền Tây sông nước, 19, nói thật các anh, ngon lành hừng hực. Tôi cố tự nén mình bằng cách nằm lì dưới tàu, đến giờ ăn cũng không lên. Nhưng như thế càng nguy vì cô ấy cho là tôi ốm, lại mang cơm nước thuốc men xuống tàu, và ở đấy chỉ có hai chúng tôi... Nhùng nhằng như vậy cho đến ngày tàu quyết định rời bến ra Bắc.

Tôi nghĩ, vừa mừng vừa đau đớn: Thôi, như vậy là thoát, như vậy là hết! Ngày hôm đó mọi công việc đã chuẩn bị xong, công việc cuối cùng là ngụy trang tàu cũng đã làm xong thì 6 giờ tối, mở đài Hà Nội bỗng nghe tin bão khẩn cấp. Thế là đành ở lại. Một tuần. Rồi lại bão nữa. Rồi tiếp bão nữa. Không biết sao năm đó bão nhiều thế. Hay là cái số chúng tôi nó vậy?... Tàu phải nằm lại bến suốt một tháng. Và kéo dài một tháng trời thì sự chống chọi trong tôi đuối dần, không còn sức nữa.

Sáu Thùy cũng vậy. Con gái miền Tây ghê gớm, đánh giặc dữ dằn mà yêu thương cũng dữ dội. Chúng tôi đã đến với nhau không cưỡng lại nổi. Thực tế đã nên vợ nên chồng. Tôi cũng không biết nếu không phải là trong chiến tranh, trong hoàn cảnh khác yên ổn, hòa bình, thì chúng tôi có thế không? Cũng có khi chính là cuộc chiến đấu sinh tử, đầy bất trắc mất còn đã làm cho tình yêu càng mãnh liệt cũng nên...

Hết bão, tôi trở ra Bắc, mang theo lý lịch của Sáu Thùy để báo cáo đơn vị xin cho chúng tôi chính thức xây dựng với nhau. Ngày ấy đối với chúng tôi là phải như thế. Chúng tôi là một đơn vị đặc biệt, những người lính đặc biệt, phải được quản lý đặc biệt. Mọi ngóc ngách trong đời sống riêng tư đều phải được đoàn thể kiểm soát chặt chẽ. Tôi mang lý lịch Sáu Thùy ra báo cáo, tổ chức đồng ý ngay.

Biển Đông cách biệt

Tưởng mọi việc êm xuôi, nhưng rồi hết trục trặc này đến trục trặc khác, lần nào cũng gần đến phút cuối cùng mới nảy ra trục trặc, tôi lỡ hết chuyến này tới chuyến khác, không còn có dịp nào trở lại Kiến Vàng, Cà Mau nữa. Rồi vụ Vũng Rô, rồi bãi ngang ác nghiệt Khu 5... Thỉnh thoảng có chuyến tàu khác vào Kiến Vàng hay có tàu từ Kiến Vàng ra Bắc, chúng tôi vẫn thư từ cho nhau.

Thư từ thống thiết nhưng cách biệt cả một biển Đông sóng gió! Anh em thủy thủ bọn tôi nhiều thằng nghịch như quỉ sứ, có lần tàu từ Kiến Vàng ra, Sáu Thùy gửi cho tôi thư kèm một gói quà, dọc đường bọn quỷ sứ nắn xem thử, thấy mềm mềm, chúng nó giở ra coi thử. Thì thấy... bà ấy gửi ra cho tôi... mấy cái đồ lót phụ nữ kín đáo nhất của mình!... Phụ nữ miền Tây, các anh coi, có ghê gớm không! Đã yêu thì như đám cháy lớn, muốn đốt cháy hết cả biển Đông không chơi...

Khoảng cuối năm 1967 đầu 1968, bẵng đi một thời gian khá dài địch đánh phá căng thẳng, tàu ta không vào được bến Kiến Vàng. Thư từ giữa hai chúng tôi cũng đứt đoạn. Sáu Thùy nóng ruột như điên như dại. Cô ấy nảy ra một ý định ghê gớm: đi tìm tôi.

Các anh nghĩ coi: đang giữa cuộc chiến tranh mênh mông, chiến trường miền Nam đang lúc ác liệt nhất, miền Bắc lúc này cũng đang thời kỳ chiến tranh phá hoại, bom đạn mịt mù, vậy mà một người đàn bà, một người con gái ở tận cuối mũi Cà Mau, ở nơi chót vót tận cùng đất nước, một mình lên đường, thân gái dặm trường, băng qua tất cả, khói lửa, đạn bom, cái chết, dư luận, cả “kỷ luật” nữa, không cần gì hết, quyết đi tìm một người đàn ông, một người con trai ở đâu đó tít tận đầu kia đất nước cũng đang cháy lửa chiến tranh.

Một cuộc đi vô cùng liều lĩnh, vô cùng phiêu lưu, hầu như chẳng có chút lôgic nào cả. Nếu có thì chỉ có một thứ lôgic: lôgic kỳ lạ của tình yêu... Không biết các anh nghĩ thế nào, chứ riêng tôi thì tôi vẫn nghĩ có khi chính vì có những cái lôgic kỳ lạ như vậy mà chúng ta đã đi qua được cuộc chiến tranh chống Mỹ khủng khiếp đấy...

Chị Sáu Thùy lại đã lặng lẽ trở lại ngồi bên cạnh chúng tôi từ bao giờ, im lặng, trầm tĩnh nghe câu chuyện huyền thoại về chính mình, về tình yêu của mình, do chồng đang kể lại. Trầm tĩnh, bình lặng, như là đang nghe kể về một ai đó khác, về một huyền thoại nào đó khác. Huyền thoại về tình yêu của người con gái VN trong chiến tranh.

Chúng tôi trân trọng quay lại nhìn khuôn mặt chị: khuôn mặt một người phụ nữ miền Tây Nam bộ, đã luống tuổi nhưng vẫn còn giữ nét duyên dáng đậm đà của con gái miền Tây, một khuôn mặt hầu như chẳng có gì đặc biệt, khác biệt, như trăm ngàn khuôn mặt các cô gái miền sông nước ta vẫn gặp hằng ngày ở đây, phúc hậu, hiền lành, đằm thắm, thậm chí có cả một chút cam chịu nữa, duy chỉ có ở đuôi mắt, nhìn kỹ lắm mới nhận ra, một nét rắn rỏi và đắm đuối kín đáo và da diết...

Anh Tư Thắng:

- Các anh tính có ghê không: cuối 1967 bả quyết lên đường đi tìm tôi. Đi tìm ở đâu?... Đi ra Bắc!...

Hàng năm ròng đi tìm anh, chị Sáu Thùy chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác, cứ từng chặng một, để lần tìm ra Bắc. Cho đến tháng 2-1968, một tin cơ mật lộ ra: một con tàu không số vào gần bến Cà Mau thì bị nổ tung, tất cả đều hi sinh. Đinh ninh có anh trong chuyến đi ấy, chị Sáu Thùy lên gặp cấp ủy, đầu bịt khăn trắng xin được để tang chồng…

Nhưng lúc này tàu của anh Tư Thắng liên tục chạm địch khi đi vào bãi ngang Khu 5. Năm 1967 phải đánh giáp lá cà trên biển, năm 1968 bị địch chặn đánh bằng cả tàu chiến, trực thăng và xe tăng... Mãi đến đầu năm 1972, phương thức vận chuyển mới đã đưa đến một bất ngờ…

Logged
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #15 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 02:07:15 pm »


Cuộc chiến đấu đưa họ lại gần nhau

Vẫn ở cái hiên ấy của nhà anh Tư Thắng. Vẫn giọng nói hiền lành, đều đều của anh:
- ... Đúng là sau tám năm dài chúng tôi mới tìm được nhau. Nói là “chúng tôi tìm lại nhau” thì cũng được. Nhưng có lẽ đúng hơn phải nói: chính sự diễn biến kỳ lạ trên con đường biển Đông đã đưa chúng tôi lại đến với nhau.

Số là thế này... Sau chuyến đi bãi ngang Đức Phổ, Quảng Ngãi thả hàng đánh nhau phá tàu, lội ngược Trường Sơn trở ra Bắc, tôi còn tiếp tục đi một số chuyến nữa, về Khu 5 và Nam bộ. Nhưng các anh biết đấy, ngày càng khó khăn.

Cho đến nỗi chúng tôi thường lựa chính những lúc có sóng to bão lớn trên biển Đông mà đi, những lúc đó địch mới sơ hở. Tàu ta do xưởng 3 Hải Phòng đóng là tàu cỡ chịu sóng cấp 5, vậy mà có lần chúng tôi đi cấp 12. Tàu vượt sóng, khắp thân tàu kêu răng rắc, có lần sập cả hầm hàng xuống... Quyết tâm đến vậy đó, nhưng thực tế vẫn ngày càng bế tắc...

Tôi nhớ đâu đến khoảng đầu năm 1970 thì một số anh em chúng tôi nghe phong thanh trong Nam, phía cuối Cà Mau, ngoài đơn vị 962 tức là hệ thống bến do anh Bông Văn Dĩa phụ trách, đã có bộ phận tách ra thành lập một đơn vị khác, lấy tên là 371 do anh Tư Mau phụ trách...

Tàu không số “ra công khai”

Đầu năm 1972, tôi bỗng bất ngờ nhận được lệnh điều về chỗ anh Tư Mau. Bấy giờ là ở Đá Bạc, Quảng Ninh. Anh Tư Mau phổ biến nhiệm vụ: đoàn 371 tiếp tục công cuộc vận chuyển vũ khí trên biển Đông nhưng bằng một phương thức hoàn toàn khác, trước nay chưa bao giờ dùng: phương thức hoạt động hợp pháp.

Tức là tất cả chúng tôi sẽ “ra công khai”, sống công khai giữa xã hội miền Nam, trong vùng địch, với giấy tờ giả, tất nhiên, và sẽ chở vũ khí từ Bắc vào Nam trên những chiếc tàu cũng chạy công khai, với sổ sách, hồ sơ giả!

Những anh em chúng tôi được chọn về đây đều quê Nam bộ, phần lớn rút từ miền Nam ra Bắc để tham gia công tác ở lữ 125 từ đầu những năm 1960, cũng có đôi người như tôi là dân tập kết. Nhưng dẫu là tập kết hay rút ra hồi 60 thì chúng tôi đều đã có một thời gian khá dài sống ở miền Bắc, lại ở bộ đội, quen một lối sống hoàn toàn xa và khác với lối sống trong vùng địch chiếm, trong xã hội miền Nam.

Không ai trong chúng tôi từng có kinh nghiệm hoạt động hợp pháp bí mật trong lòng địch. Từ tác phong, cách đi đứng, cư xử, xưng hô, ăn nói, chào hỏi, cả đến chơi bời nữa..., tất cả đều sẽ phải thay đổi, phải học lại hết.

Chúng tôi sẽ dùng những tàu đánh cá hoàn toàn giống như tàu đánh cá của đồng bào miền Nam lúc bấy giờ, loại nhỏ, tối đa là 50 tấn, trang bị hoàn toàn như tàu đánh cá thật, chỉ có một chỗ khác: đáy tàu có hai lớp, giữa hai lớp ấy chèn đầy súng đạn của hậu phương lớn miền Bắc gửi cho chiến trường miền Nam.

Tháng 7-1972 anh Bảy Cứng đi thử chuyến đầu tiên. Trên hải phận miền Bắc, đi ban đêm để tránh máy bay địch phát hiện nghi ngờ. Vào hải phận miền Nam thì phải ra vẻ thật thong dong đúng y như tàu đánh cá bình thường của dân. Đợi đến đêm, bất ngờ đâm vào bến Đầm Cùng. Thành công!

Tôi đi tiếp chuyến thứ hai, có Tư Kỷ làm máy trưởng, Hai Hoàng, Tám Ca và sáu anh em nữa. Chúng tôi xuất phát từ Đá Bạc, vòng qua cảng Dinh Cơ thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc. Lúc này B52 đang đánh Hải Phòng ráo riết nên ta phải xuống hàng ở Hải Nam. 1 giờ sáng thì gặp anh Tư Mau. Chiếc anh Tư Mau đi trước, tôi theo sau, cách chỉ năm ba trăm mét.

Gần tới Vũng Tàu thì gặp một tàu lớn của địch bám theo. Anh Tư Mau chủ động vòng tàu lại, gặp nó, trình giấy tờ đầy đủ. Nó không bắt, nhưng cũng không cho đi, bảo cứ chờ đấy đã. Anh Tư bảo chúng tôi: phải rất bình tĩnh. Nó chưa cho đi, ta cứ dừng lại thả lưới, coi như không có chuyện gì. Đêm, chúng tôi cho tàu ngủ lại.

Sáng, thấy tàu địch đã hơi lảng ra xa, chúng tôi làm ra vẻ thả một mẻ lưới. Tàu địch vẫn bám theo, mãi đến ngang Sài Gòn, nó mới chịu bỏ. Chúng tôi tiếp tục chạy đến ngang Trà Vinh, lại gặp một chiếc FCM của địch chặn lại xét hỏi. Anh Tư kẹp một xấp tiền vào cuốn sổ tàu đưa cho nó. Nó gật gù, trả lại cuốn sổ tàu và cho đi. Chúng tôi về tới sông Ông Đốc. Đây là một bến cá lớn, tàu thuyền của đồng bào và cả tàu địch rất nhiều. Chúng tôi cứ tự nhiên vào thả neo.

6 giờ tối chúng tôi nhổ neo, chạy về Đầm Cùng (căn cứ của 371). Chúng tôi cùng anh em bến bốc hàng, từ 8 giờ tối đến 3 giờ sáng, tất cả được 30 tấn. Cũng chính tại đây, Đầm Cùng, tôi đã gặp lại nhà tôi, Sáu Thùy. Cũng là nhờ anh Tư Mau cả đấy. Con người ấy tình nghĩa vô cùng...

Hạnh phúc ở Đầm Cùng

...Phương thức hoạt động của đoàn 371 như vậy là một phương thức rất đặc biệt, cho nên tổ chức phải rất chặt chẽ. Nguyên tắc là giữa 125, 962 và 371 phải cách biệt, không được biết đến nhau. Các bến cũng phải chia ra, bến của 962 riêng, bến của 371 riêng, tuyệt đối không dính dáng đến nhau về tổ chức, không được dùng chung bến.

Tôi về 371, mọi liên quan đến 962 cũng đều phải cắt hết. Còn Sáu Thùy thì éo le vậy, lại ở 962.

Khi tôi về Đầm Cùng, tức là miệt rừng U Minh Thượng phía tây mũi Cà Mau thì cô ấy lại đang ở bến Rạch Gốc chỗ anh Hai Dĩa, tức miệt rừng U Minh Hạ bên phía đông mũi Cà Mau. Mà không hề biết tin nhau...

Nhưng có một người biết: đó là anh Tư Mau. Chỉ có anh Tư Mau mới được quyền đôi khi qua lại quan hệ công tác với chỗ anh Hai Dĩa. Anh Tư đã gặp Sáu Thùy ở đấy.

Một hôm, tôi vừa đi một chuyến chở hàng về thì anh Tư gọi lên. Anh hỏi:

- Tao hỏi thật chuyện này nhé, mày với Sáu Thùy bây giờ thế nào? Còn gắn bó với nó không? Hay mất liên lạc từ đó đến giờ, tám năm rồi, đã gặp cô nào khác ngoài Hà Nội hay Hải Phòng?...

Tôi nói thật với anh Tư rằng quả thật tôi chẳng còn mấy hi vọng gặp lại Sáu Thùy nữa. Thời gian xa cách, quả có lúc gặp người này người khác ở ngoài Bắc, cũng toàn là những người tốt cả, có lúc tôi đã có ý định hay là gửi gắm cuộc đời mình ở đâu đó... Nhưng rồi không được, không sao được. Biết chuyện gặp lại Sáu Thùy gần như vô vọng, bây giờ làm nhiệm vụ đặc biệt kiểu này càng vô vọng hơn, nhưng quên thì dẫu cố lắm vẫn không quên nổi...

Anh Tư cười:

- Hay là tao điều nó về đây, muốn không?

- Nhưng cô ấy bây giờ ở đâu?

- Bên chỗ anh Hai Dĩa...

Anh Tư Mau đích thân sang bàn với anh Hai Dĩa. Sáu Thùy được lệnh rời 962 đi nhận công tác khác. Lúc đầu Sáu Thùy không chịu đi. Vì cô nghĩ chỉ có ở chỗ 962 may ra mới còn có ngày gặp lại tôi. Anh Hai Dĩa phải làm dữ lắm, cuối cùng cô ấy mới chịu. Chịu mà buồn lắm.
Anh Tư Mau về báo lại với tôi. Tôi mừng quá. Và ngóng chờ.

Cho đến một bữa, tháng 9-1972, khoảng 4 giờ chiều, tôi đang ở trong đồng thì có liên lạc chạy vô báo có cô Sáu Thùy đến tìm. Tôi vội chèo xuồng ra. Thì thấy cô ấy đang đứng trong lùm chuối chỗ anh Tư Mau nhìn ra. Anh Tư Mau không hề nói trước với cô ấy tôi ở đây, đến đây sẽ gặp tôi. Tôi vứt mái chèo, nhảy phóc lên bờ, chạy lên. Nhưng tôi chợt dừng lại. Tám năm. Tôi đã già đi nhiều. Đen cháy. Râu ria xồm xoàm. Liệu cô ấy có còn nhận ra?

... Nhưng mà cô ấy nhận ra ngay.

Con gái miền Tây ghê gớm lắm nghe các anh, dám ôm hôn bừa vậy giữa đồng trống, người ta đầy bốn chung quanh...

Đêm đó chúng tôi ở với nhau. Hai ngày sau anh Tư Mau và anh Năm Rẫy bấy giờ là chỉ huy phó tổ chức đám cưới cho chúng tôi. Đoàn 962 gửi cho 1.000 đồng tiền ngụy. Bên này các anh cho 1.500 đồng.

Các anh bố trí cho vợ chồng chúng tôi một căn nhà hạnh phúc. Đó là căn lều của bộ phận cơ yếu, trong một lùm chuối. Chúng tôi sống với nhau được 15 ngày. Rồi tôi đưa Thùy về cơ quan của cô ấy tức bộ phận y tế ở hố Rạch Già. Còn tôi thì trở về bến của tôi ở hố Lồng Đèn.

Thỉnh thoảng một, hai tuần Thùy lại xin phép sang thăm tôi, một mình chèo xuồng, gặp nước xuôi phải chèo từ sáng sớm, chiều mới đến nơi. Gặp nước ngược thì nửa đêm mới đến. Mà có ở với nhau được nhiều đâu, một đêm, nửa đêm. Rồi cô ấy lại một mình chèo về. Mà biệt kích lội rừng thì nhan nhản. Mỗi lần tiễn cô ấy ra về, tôi lại thấp thỏm suốt ngày, chỉ sợ bất thần nghe một loạt súng nổ ở đâu đó, trên các kênh rạch chằng chịt trong rừng...

Ít lâu sau cô ấy có thai. Và chúng tôi có đứa con trai đầu lòng, đặt tên là Nam. Hôm cô ấy sinh, tôi băng rừng đi thăm, rồi lại lội bộ băng rừng suốt ba tiếng đồng hồ trở về để kịp đi một chuyến công tác khẩn.

Trong câu chuyện của mình, anh Tư Thắng nhắc đến nhiều người, nhiều hi sinh thầm lặng mà không kể ra thì anh không thể yên lòng. Như câu chuyện về cô bác sĩ trẻ ấy. Anh Thắng chỉ biết chị tên là Thùy Trâm người Hà Nội, chị chỉ huy bệnh xá huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, chị giấu đi một nỗi đau riêng và trụ bám “gan lì đến kỳ lạ, kỳ quặc suốt chục năm trời trên vùng đất hẹp bị đánh nát như băm ấy”, cho đến ngày chị hi sinh...

Có cố gắng đến mấy thì mãi mãi vẫn còn những người anh hùng vô danh thôi! Người trong cuộc chiến đấu ngày ấy còn nói vậy thì người hôm nay biết tìm họ ở đâu?

Cuộc sống đã quên và đang tiếp tục lãng quên... Bởi thế câu chuyện về một hòn đảo mang tên một người anh hùng là một câu chuyện hiếm hoi lạ lùng... Anh Tư Thắng bảo, bây giờ may ra chỉ còn một người sống sót để kể lại.

Logged
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #16 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 02:09:25 pm »


Sự tích đảo Phan Vinh

Vẫn là mặt biển xanh mênh mông, phẳng lì ấy. Nhìn kỹ lắm, mãi mới nhận ra, trên sợi chỉ tít tắp chân trời, một vệt nhỏ nhô lên khỏi mặt nước mong manh như một vệt móng tay.

Chong mắt nhìn thật kỹ nữa, hóa ra cái vệt móng tay mong manh trên đường chân trời ấy là một hòn đảo. Một hòn đảo san hô, nhỏ xíu giữa đại dương mênh mông, một hòn đảo đang hình thành, chưa hình thành xong, lúc triều lên thì biến mất dưới mặt nước, lúc triều thấp lại nhô lên... Một chút Tổ quốc ở nơi xa xôi. Một đảo nhỏ, trong số những đảo nhỏ nhất của quần đảo Trường Sa.

Hòn đảo bé tẹo ấy có tên là đảo Phan Vinh. Trên tấm hải đồ lưu giữ ở phòng tham mưu lữ đoàn hải quân 125 có ghi tên đảo ấy.

Trong số hàng nghìn, hay bao nhiêu nghìn hòn đảo lớn nhỏ ở nước ta, có lẽ đây là hòn đảo duy nhất mang tên họ một con người. Theo chỗ chúng tôi dò tìm, hỏi han kỹ nhiều nơi, không có một quyết định nào của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt tên như vậy cho hòn đảo này cả.

Thì ra trong đời sống hiện đại của chúng ta, các truyền thuyết vẫn tiếp tục ra đời và tồn tại. Và cũng như tự ngàn xưa, truyền thuyết là do nhân dân vô danh sáng tạo ra. Các truyền thuyết bao giờ cũng khuyết danh. Tên Phan Vinh được đặt cho hòn đảo nhỏ trong dải Trường Sa phảng phất một không khí truyền thuyết.

Tác giả của nó là những người lính bí mật trên con đường biển Đông. Một người nào đó, trên một chuyến đi biển xa nào đó, có thể là một chuyến đi bến Rạch Gốc, Kiến Vàng, Sông Đốc, Gành Hào Cà Mau, nhưng lại phải đi vòng vo đến tận sát Philippines, Sumatra, Singapore, Malaysia... đã ghé qua hòn đảo nhỏ chơ vơ hoang vắng này. Và nhớ bạn, anh lấy tên người bạn đã hi sinh mà gọi thành tên đảo...

Rồi người ta truyền nhau, người này truyền người kia, và cái cách gọi tình cờ nhưng sâu lắng của người lính biển nọ cứ đi vào lòng người, in sâu ở đấy, ngày càng sâu, không gì xóa đi được nữa.

Nhưng trong số những chiến sĩ biển Đông đã hi sinh trong cuộc chiến đấu bí mật trên con đường mòn kỳ lạ này thời chống Mỹ, còn có hàng trăm người khác mà có lẽ sự nghiệp và hành vi anh hùng chẳng hề thua kém, sao chỉ có tên một người đã trở thành tên một hòn đảo của Tổ quốc? Hẳn con người này phải có điều gì để được đọng lại sâu hơn cả, đậm hơn cả, sắc hơn cả trong tâm trí mọi người...

Người hôm nay còn có thể nói với chúng ta về Phan Vinh - theo lời chỉ dẫn của anh Tư Thắng - là Nguyễn Long An, chúng tôi đã tìm gặp được anh ở Hải Phòng...

Nguyễn Long An kể:

Một chân dung phác thảo

Đúng như các anh nói, ở đơn vị chúng tôi trong cuộc chiến đấu biển Đông thời ấy không thiếu gì những người anh hùng. Nhưng nếu được phép chỉ chọn một người mà tất cả chúng tôi cảm phục nhất, tôn trọng nhất, lại yêu quí gần gũi nhất thì tôi chắc ai cũng sẽ chọn anh Phan Vinh.

Anh ấy dũng cảm vô song, tất nhiên rồi, tài năng nữa, tất nhiên rồi, nhưng có lẽ điều này đối với tất cả chúng tôi còn ấn tượng đậm hơn: đó là một con người vô cùng hào hiệp, một cách hết sức tự nhiên, như là trời sinh ra vốn vậy, không hề cố tình, cố gắng, sắp đặt, suy tính. Tôi không biết diễn đạt thế nào nữa. Thôi, chỉ xin nói thế này: gặp một người chỉ huy như vậy, lập tức thấy mình có thể giao phó cả sinh mệnh của mình cho anh ấy không chút phân vân. Gặp một người bạn như vậy có thể yên tâm suốt đời...

Cũng có thể nói anh Phan Vinh có một tính cách đặc biệt mạnh mẽ, rõ rệt: bao giờ cũng hết mình. Chơi thì chơi hết mình, làm việc hết mình, đối với bạn hết mình, chiến đấu hết mình, mà trong công tác lại hết sức nghiêm khắc, lại đẹp trai, thông minh.

Anh ấy quê Điện Bàn, Quảng Nam. Tham gia công tác từ năm 16 tuổi, làm liên lạc cho huyện ủy... Năm tôi được gặp anh, anh khoảng 30. Tôi có một may mắn lớn: vào lính, được gặp ngay một người chỉ huy là anh. Tôi thuộc lớp chiến sĩ quê miền Bắc, tức là lớp lính nghĩa vụ quân sự đầu tiên được bổ sung về 125.

Lớp chúng tôi có học hành khá, nhưng kinh nghiệm từng trải thì hoàn toàn chưa có chút gì. Chuyến đầu tiên tôi đi tàu 43, làm báo vụ, vào Cà Mau. Máy bay, tàu chiến địch bám riết, hoang mang thì tôi không đến nỗi hoang mang, nhưng rất lúng túng. Nhờ các anh đi trước chỉ vẽ ân cần.

Chuyến thứ hai của tôi chính là chuyến Vũng Rô.

Rồi đến chuyến tàu 235 do anh Phan Vinh chỉ huy đi bến Hòn Hèo, Hòn Khói, Khánh Hòa, đúng dịp tổng tấn công Mậu Thân.

Bước vào trận đánh lớn

Anh Phan Vinh là người được giao điều khiển chiếc tàu cao tốc đầu tiên do Trung Quốc viện trợ. Thủy thủ đoàn được thành lập gồm 21 người tuyển chọn từ các đơn vị về. Kéo sang Trung Quốc học một thời gian, anh Vinh học rất xuất sắc, cán bộ hải quân Trung Quốc cũng phải phục. Xong lại kéo về VN, cải dạng tàu thành tàu đánh cá gần giống như tàu đánh cá của Nhật, sơn trắng.

Đơn vị còn được bổ sung thêm ba đồng chí ở lữ 126 tức đặc công nước, chúng tôi học cả kỹ thuật đặc công đánh nhau dưới nước, và cả kỹ thuật bộ binh đánh nhau trên bờ. Đặc biệt, tôi chú ý trong suốt thời gian chuẩn bị, anh Vinh có ý thức tạo cho thủy thủ đoàn 21 người chúng tôi gắn bó với nhau như một gia đình, mà anh Vinh là người anh lớn.

Sau này tôi mới hiểu điều ấy cần thiết cho chúng tôi biết chừng nào; khi lâm vào hoàn cảnh chiến đấu quyết liệt, mất còn, chúng tôi đã thành một tập thể thật sự ruột thịt.

Đúng Tết Mậu Thân chúng tôi nhận nhiệm vụ, và cho cơ động tàu sang một bến của Trung Quốc gần biên giới ta, cho tàu ta cập lẫn với một số tàu cao tốc của Trung Quốc để đánh lạc hướng máy bay trinh sát Mỹ.

Ngày 10-2-1968 chúng tôi lên đường. Nhưng đến cách bờ biển Khánh Hòa khoảng trên 10 hải lý, nhận được điện từ chỉ huy sở ở Thủy Nguyên báo đã lộ, phải quay về bến Hải Khẩu, Trung Quốc.

Ngày 27-2 lại lên đường.

Theo dõi tình hình địch, chúng tôi nhận thấy lần này chúng hành động có khác. Máy bay trinh sát chúng bay rất cao, ngày bốn hay năm lần, từ phía Philippines hay Guam sang và quay trở lại. Tàu chiến Mỹ không bám theo ta liên tục mà cứ độ tám tiếng đồng hồ mới đảo qua một lần trước mũi tàu ta, nhưng không chạy gần.

22 giờ đêm 27-2 anh Vinh quyết định từ ngoài khơi xa cho tàu mở tốc lực đâm thẳng vào hải phận miền Nam. 23 giờ thì bắt được đảo Hòn Tre. Thấy rõ tám tàu địch giăng thành hai tuyến trong và ngoài. Nhìn thấy cả đèn điện thành phố Nha Trang sáng trưng. Anh Vinh cho tàu lách qua hàng tàu địch ngăn chặn, đâm vào bến. Rất đúng bến Hòn Hèo. Mười hai giờ khuya, chúng tôi bắt đầu thả hàng. Thả được tất cả 30 tấn, phần lớn là súng và đạn B40, B41. Tất cả anh em trên tàu đều lao vào thả hàng, cố gắng thả cho được thật nhiều.

Lúc này anh Vinh nói:

- Ta len vào đến đây, tàu địch đã giăng hai lớp sau lưng rồi, phải nói thật điều này: khả năng tàu ta thoát ra khơi được rất ít. Chắc đến 90% là phải chiến đấu. Có thể hi sinh lớn, nhưng lúc này chiến trường đang tổng tấn công, cần súng đạn hơn bao giờ hết. Ta thả được càng nhiều hàng cho anh em trong này càng quí...

Đến 1g sáng thả hàng xong. Chúng tôi điện báo kết quả về sở chỉ huy lữ đoàn và nhận ngay được điện của anh Phúc chính ủy:

“Lữ đoàn biểu dương các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Chờ các đồng chí trở ra an toàn thắng lợi”.

Một lát sau lại nhận được điện lữ đoàn thông báo tàu anh Tư Thắng ở Quảng Ngãi và tàu anh Ba Râu ở Trà Vinh đang bị địch đánh.

Anh Phan Vinh bảo:

- Ta cũng sẵn sàng đi thôi.

Chúng tôi bắt đầu quay tàu ra. Biển ở đây luồng lạch rất ác, có một rạch sâu bề ngang đúng 40m, chỉ cần lệch một chút là tàu cưỡi lên bãi san hô ngay. Hai chiếc tàu địch đã án ngữ ngay giữa luồng.

Anh Vinh hét lệnh chiến đấu. Vừa nổ súng vừa tiến. Chuyến này tôi đứng máy số một. Nghe lệnh anh Vinh, tôi vừa đẩy cần ly hợp tiến thì nghe toàn tàu rung lên dữ dội. Địch tập trung bắn ngay vào khoang máy quyết liệt. Trên boong, ta cũng nổ tất cả các cỡ súng... Mười phút, máy tàu ta tê liệt. Anh Trương Văn Mùi, máy trưởng, đứng cạnh tôi, bị trúng một viên đạn vào ngực, hi sinh ngay, ngã vào cần gạt, khiến tàu dạt luôn vào bờ.

Các tàu địch áp lại, lúc này có đến hàng chục chiếc. Đánh nhau suốt một tiếng đồng hồ.

Lúc luyện tập ở nhà, anh Vinh đã dự kiến mấy phương án: thả hàng xong là cơ bản hoàn thành nhiệm vụ rồi, nếu sau đó lộ, bắt buộc phải chiến đấu, không ra khơi được thì cho tàu lao vào quân cảng của địch ở Nha Trang, cho nổ tàu phá tung cảng. Hoặc không vào được cảng thì đâm thẳng tàu ta vào một tàu địch to nhất, nổ tàu, phá tan tàu địch và hi sinh...

Nhưng bây giờ những phương án ấy không còn thực hiện được nữa: máy tàu đã bị tê liệt, tàu không còn cơ động được. Chỉ còn một phương án cuối cùng: phá tàu, rút lên bờ chiến đấu.

Logged
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #17 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 02:11:18 pm »


Cuộc chiến đấu cuối cùng của người anh hùng

Lúc này ở dưới khoang máy chỉ còn tôi (Nguyễn Long An) và anh Thứ, người Hải Dương, cũng là thợ máy. Sau một tiếng đồng hồ chiến đấu, bây giờ nghe súng đã lặng đi.

Thứ đã bị thương ở tay, tôi băng cho Thứ, nghe xương cánh tay anh lạo xạo. Tôi cũng bị thương ở chân, cũng chưa kịp sờ kỹ xem vết thương cụ thể thế nào, nhìn xuống chỉ thấy máu bê bết, cứ tạm buộc túm ở đùi.

Phá tàu

Tôi bảo Thứ:

- Nếu anh em đã hi sinh hết, thì nhiệm vụ phá tàu chỉ còn anh với tôi. Chúng ta đã thề trên tàu còn một người còn hơi thở thì quyết không để tàu sa vào tay địch.

Bộc phá đặt ở khoang mũi và khoang lái. Thứ giữ tay cho tôi đu người xuống khoang mũi, ở đấy có một khối bộc phá 800 kilô. Tôi quyết định bấm kíp hẹn giờ 1 tiếng. Tính như vậy lúc lên boong tìm thấy anh em nào bị thương, sống sót, có thể đưa anh em ra khỏi tàu trước khi tàu nổ.

Kíp hẹn giờ, chiếc đồng hồ nhỏ xíu, tôi bấm rồi, rất lạ, bốn bề ầm ĩ - lúc này không nghe súng ta bắn nữa nhưng địch vẫn bắn - vậy mà tôi nghe rõ tiếng tích tắc... Vừa xong thì thấy anh Vinh từ trên đài chỉ huy xuống. Anh Vinh bị thương, băng trắng toát cả đầu.

Anh bảo anh em ta chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu nên tổn thất nhiều. Tôi báo cáo đã bấm kíp nổ khối bộc phá 800 kilô. Anh bảo: “Được”. Rồi tự tay anh đi đặt tiếp 12 kíp nổ nữa. Anh bảo: “Cho chắc chắn”. Anh Vinh rất lạ, tình hình đến nước này mà tôi thấy anh vẫn bình tĩnh như không. Anh đi thu dọn gọn gàng mọi thứ, đốt hết giấy tờ, tài liệu.

Rồi tất cả chúng tôi lên boong và lần lượt rời tàu. Lúc này bọn địch đã hơi dãn ra xa. Chắc chúng sợ ta cho nổ tàu thì chúng cũng tiêu. Chúng tôi lợi dụng tình hình đó dìu nhau bơi vào bờ. Vừa chạm chân đến chỗ cạn thì khối bộc phá đầu tiên nổ. Tan khói, quay lại nhìn kỹ, thấy đuôi tàu vẫn nổi.

Tôi nằm chờ đến 30 phút nữa, thật ra lúc này rất lo, nếu khối bộc phá còn lại bị tịt ngòi thì tôi phải làm cách sao đây bơi trở ra tàu, dùng ngòi nổ khác quyết phá cho nổ kỳ hết. Ba mươi phút sau thì khối bộc phá cuối cùng nổ. Toàn bộ tàu hoàn toàn biến mất. Anh em chúng tôi lên bờ.

Giữa vòng vây của địch

Đến 6 giờ sáng thì nghe ầm ầm, rồi chỉ một lúc đầy trời trực thăng. Chúng bắt đầu đổ quân. Bây giờ đang mùa khô, cả đảo chỉ độc một loại cây gai lúp xúp, lá rụng hết, còn trơ gai cằn cỗi. Mới tảng sáng trời đã nắng chói chang. Chúng tôi phải bứt cỏ che bớt lưỡi lê súng cho đỡ sáng và bố trí phòng ngự vòng tròn. Ước lượng địch khoảng hơn 2 tiểu đoàn, toàn bọn Nam Triều Tiên.

Lúc đầu tôi nghĩ thế trận của anh em chúng tôi như thế này là chỉ còn một nước tử chiến và tất sẽ hi sinh hết: chúng tôi chỉ một nhúm người ở giữa, địch vây kín bốn bề. Chúng tôi chiếm được đỉnh đồi, có ưu thế hơn, nên có thể kéo dài cầm cự, nhưng cũng chỉ là kéo dài thôi chứ không hi vọng gì thoát được vòng vây.

Nhưng một lát sau thì bỗng phát hiện một tình huống bất ngờ: bên trái chúng tôi, cách không xa, chợt nghe tiếng AK nổ. Đúng là anh Phan Vinh rồi. Tiếng súng sắc gọn, dứt khoát, từng loạt rất ngắn, có khi chỉ điểm xạ từng viên một, đanh, ác, quyết liệt. Anh Phan Vinh đánh giặc từ năm 13 tuổi, trưởng thành từ vùng địch hậu nổi tiếng Điện Bàn, Quảng Nam.

Nhạy cảm quân sự của anh rất tinh, sắc. Nghe tiếng súng từ sáng đến giờ, tuy không nhìn thấy nhưng anh đã nhận định bộ phận anh em chúng tôi do anh Nhi (thuyền phó) chỉ huy đang trụ trên đỉnh đồi. Vậy anh và anh Thứ, cả hai đều đã bị thương nhưng vẫn còn sức chiến đấu, sẽ tạo thành một mũi bên sườn phối hợp cùng chúng tôi và thế trận sẽ trở nên khác hẳn.

Nhờ có hai mũi hỗ trợ nhau như vậy chúng tôi trụ suốt được một ngày. Đêm, lợi dụng pháo sáng, chúng tôi tìm cách luồn qua vòng vây địch. Bọn địch đóng rất dày, hầm hố đào chằng chịt, chỉ cách nhau 5-7m một hố... Đến khoảng 10 giờ đêm thì chúng tôi chuyển sang được một đồi khác, cách chừng 100m.

Chúng tôi cứ lần về hướng tây mà đi, di chuyển hết sức chậm vì tất cả đều bị thương, địch thì lùng sục ráo riết. Tuyệt không còn gì ăn. Mấy ngày đầu đói ghê gớm nhưng rồi cũng lạ, cái ăn tự nó dần dần không đòi hỏi nữa, chỉ có cái khát hành hạ. Phải tự uống nước giải của chính mình... Đến ngày thứ bảy, thật ra chúng tôi mới di chuyển được 600 hay 700m, lại chạm địch, đánh nhau một trận. Rồi lui được lên một ngọn đồi có đá.

Bấy giờ cậu Khung, Mai Văn Khung, người quê Thái Bình, chiến sĩ hàng hải, khát quá không chịu nổi nữa, tự đái ra mà uống, nhưng rặn mãi cũng không còn giọt nào. Khung xin mò xuống suối tìm nước. Nghe có tiếng nước róc rách thật, càng kích thích cái khát dữ dội. Khung vừa đi được khoảng 30m thì nghe súng nổ. Chạm địch rồi! Tôi ôm súng lao xuống cố cứu Khung. Tôi bắn liền mấy loạt, ném cả lựu đạn nữa, nhưng khi bò xuống đến nơi thì không còn thấy dấu vết gì nữa. Khung đã bị địch bắt!

Bọn địch bắt được Khung, đoán được hướng đi của ta nên lại ráo riết tổ chức tấn công truy đuổi. Anh Nhi bảo:

- Tình thế này ta ở lại đây là sẽ bị hủy diệt hết. Bây giờ giao đồng chí An làm đoàn trưởng dẫn anh em tiếp tục đi tìm liên lạc với địa phương. Còn tôi ở lại đây, bám tình hình và nếu địch đuổi theo thì sẽ cố đánh chặn.

Chúng tôi đành chia tay anh Nhi ra đi. Tôi lục lọi khắp các túi, tất cả “gia tài” chỉ còn mấy viên vitamin B1 đưa lại cho anh Nhi...

Chúng tôi lại lần mò đi, quanh quẩn suốt ba ngày đêm. Hòn Hèo là bán đảo, nên loay hoay thế nào một đêm lại ra sát mép biển và lần qua một hòn đảo nhỏ khác.

Ngày thứ 10 chúng tôi nằm giữa một bãi cát chơi vơi, thế nào lại đúng một ổ kiến đỏ. May quá, tôi đã nghe các anh lớn phổ biến kinh nghiệm cứ bắt luôn kiến mà ăn, nhai rau ráu, không ngờ tỉnh ra. Đêm lại mò xuống mép biển bắt được mấy con ốc, đập ra ăn sống...
Ngày thứ 11 vẫn không thấy tăm hơi anh em địa phương. Thỉnh thoảng nghe súng nổ đâu đó, không xa. Tôi bảo:

- Chỗ nào địch nổ súng, tức là ở đó có lực lượng ta. Ta cứ hướng súng nổ mà đi, nhất định sẽ tìm ra.

Anh em đồng ý. Chúng tôi đi, đến khoảng 3 hay 4 giờ chiều thì thấy một bóng người ngoài mép biển, ở khu vực về sau này mới biết là xã Ninh Diêm.

Tôi cho anh em dừng lại, bố trí sẵn sàng yểm trợ, còn tôi một mình mò xuống. Tôi bảo Tuyến, chiến sĩ hàng hải, và Mai, chiến sĩ điện công: nếu là địch, chúng bắt tôi thì cứ bắn bừa vào. Diệt được địch cho anh em thoát, tôi có hi sinh còn hơn bị bắt.

Xuống đến gần, thấy rõ một người đàn ông mặc quần áo bà ba. Anh ta hoảng hốt bỏ chạy. Tôi phải ra oai, kéo cò, dọa. Rồi hô ám hiệu. Anh ta trả lời đúng. Hỏi ra, anh ta thuộc lực lượng an ninh huyện.

Tôi gọi tất cả anh em xuống. Anh ta cho chúng tôi mỗi người mấy quả ổi. Anh em các bộ phận của huyện đóng bí mật rải rác ở vùng núi Hòn Hèo, Hòn Khói này cũng rất đói, toàn phải ăn rau rừng. Anh này đang đi tìm hái ổi rừng ăn trừ bữa thì gặp chúng tôi. Anh em chúng tôi nhịn đói cả chục ngày rồi, bây giờ ăn ổi vào té re gần chết...

Chúng tôi về chỗ cơ quan an ninh huyện, rồi từ đó bắt được liên lạc với bộ phận bến do anh Kiến phụ trách. Mới biết 12 ngày nay các đồng chí ở bến cũng tỏa đi tìm chúng tôi mà không gặp.

Tôi cùng các đồng chí ở bến trở lại những ngọn đồi mấy hôm trước để tìm các đồng chí còn thiếu. Trở lại chỗ anh Nhi thấy súng ống bị đập phá tan tành nhưng không tìm được anh Nhi. Đi một đoạn xa nữa thì tìm thấy xác anh Phan Vinh và anh Thứ.

Quanh chỗ anh Vinh nằm rất nhiều dấu vết bông băng đỏ thấm máu khô và súng đạn của bọn Nam Triều Tiêu vỡ nát. Còn anh Vinh, nhìn tư thế, có thể đoán ra anh đã đánh đến viên đạn cuối cùng, và anh đã rút chốt quả lựu đạn cuối cùng để bọn giặc xô lại định bắt sống thì thả cần nổ lựu đạn, diệt địch và hi sinh...

Chúng tôi chôn cất các anh ngay tại chỗ. Núi đá, nhưng chúng tôi cố đào thật sâu. Và trên mỗi nấm mộ cắm một tấm bia nhỏ ghi tên tuổi quê quán từng người. Những anh em miền Nam thì ghi quê hương thật. Còn anh em miền Bắc thì ghi quê hương kết nghĩa...

Chỗ anh Vinh nằm, trên đồi cao, nhìn thẳng ra biển Đông...

***

Nguyễn Long An nói: “Trận ấy chúng tôi hi sinh 12 đồng chí, mất tích một và bị địch bắt một”.

Có một câu hỏi: “Có đắt quá không? Một sự hi sinh quá lớn như vậy, để thả được chừng 30 tấn súng đạn xuống biển, rồi về sau anh em ở bến mò vớt lên chừng được một nửa, mươi, mươi lăm tấn?”.

Các anh ạ, những câu hỏi như vậy chỉ đặt ra sau chiến tranh khi mọi sự đã yên bình, và chúng ta có thể ngồi với nhau bình tĩnh, thong thả, bên mâm rượu thế này... Còn ngày ấy đối với chúng ta, đối với chúng tôi, tôi nhớ không có câu hỏi ấy. Đối với anh Phan Vinh không có câu hỏi ấy...


Sau cơn mưa trời lại sáng

Logged
quydede
Thành viên
*
Bài viết: 17



« Trả lời #18 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2008, 02:38:06 pm »

Vậy là đã hết phần trích đăng bút ký "Có một con đường mòn trên biển Đông" của nhà văn Nguyên Ngọc trên báo tuổi trẻ, báo đăng 13 kỳ. Bác nào có đầy đủ số hoá lên www.quansuvn.net đi.

Hồi trước nghe đọc truyện đêm khuya của Đài TNVN, họ đọc truyện "Biển gọi" của (tự nhiên quên mất
tên tác giả, bác nào nhớ bổ sung cho em phát, hình như là Hồ Phương), viết về đoàn tàu không số, hay phết.
Bác nào còn sách cũ số hoá luôn đê. Đã để ý đi lùng tìm cuốn này trong các quán sách cũ mà không thấy.
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Tám, 2008, 02:50:58 pm gửi bởi quydede » Logged
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #19 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2009, 01:17:49 pm »

Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân (1961 - 2001)

Trích dẫn
Tàu 198 do thuyền trưởng Vũ Tấn Ích và chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch chỉ huy. Tàu xuất phát ngày 6 tháng 7 năm 1967. Đêm 14 tháng 7, tàu 198 gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây. Tàu 198 đánh trả và cơ động vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi).

Song do không tổ chức hủy tàu được nên bị địch lấy nguyên tàu. Anh em lên bờ, đi bộ ra miền Bắc. Trong trận này, chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp hy sinh. Đây là nỗi đau nhức nhối của Đoàn 125 trên con đường vận chuyển vũ khí vào Nam. Sau này, Đảng ủy đoàn và cán bộ tàu 198 đã kiểm điểm sâu sắc sự việc này.

Hành trình của tàu 198 (theo tài liệu Mỹ).
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM