tranlam99
Thành viên
Bài viết: 182
|
|
« Trả lời #99 vào lúc: 17 Tháng Chín, 2010, 06:16:53 pm » |
|
Đây là đoạn hồi ký của bác Nguyễn Hữu An, về chiến thuật phòng ngự của ta tại Quảng Trị - theo tôi chắc cũng có vấn đề về chiến thuật chưa đúng chăng.
------ Lúc này lực lượng của toàn mặt trận gồm các sư đoàn 320, 304 và 308, hầu như đấu lưng với nhau để giữ vững khu vực Thành Cổ - Quảng Trị. Giữ một đống gạch vụn, không dân, không có ý nghĩa gì về chiến thuật, chiến lược quân sự, nhưng lại rất có ý nghĩa chính trị trên bàn ngoại giao ở Pa-ri.
Nắm tình hình đơn vị xong, đêm hôm ấy tôi trao đổi suy nghĩ của mình về chủ trương của mặt trận (28-6) "chuyển từ tấn công sang chiến dịch phản công tiêu diệt địch giữ vững vùng giải phóng. Đánh bại cuộc hành quân của địch, phát triển tấn công vào thời cơ có lợi". Tôi đặt câu hỏi: tại sao ta từ tấn công lại chuyển sang phản công? Tôi liên tưởng tới chiến dịch Cánh Đồng chum, chỉ khác ở đây về quy mô và cường độ, còn cái ruột diễn biến, gần giống nhau. Cũng lúc đầu chiến thắng ào ạt, tiến rất nhanh vào hậu phương địch bỏ trống vùng mình vừa giải phóng. Lực lượng của ta xa hậu phương đánh liên tục không kịp bổ sung, càng chiến đấu càng yếu. Địch có phương tiện cơ động nhanh. Sau cú đầu choáng váng chúng đã hồi phục, liền cơ động về phía sau ta, và chiếm lại vùng đã mất. Đáng lý với lực lượng chừng ấy ta chỉ phát triển tới sông Mỹ Chánh, dừng lại chuyển sang củng cố khu vực đã chiếm.
Trước mắt quân ta lúc này là sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ và sư đoàn bộ binh số 1 nguy, được yểm trợ bằng hỏa lực mạnh của không quân và pháo của hạm đội 7 Mỹ. Về phía ta, sư đoàn 308 đã mất sức chiến đấu, quân số của một đại đội chỉ còn 20 đến 30 người là cùng. Gạo, đạn tiếp tế kiểu ăn đong. Tôi nhớ, ngay lúc tới đây đã nghe cán bộ hậu cần phàn nàn: "Hậu cần mặt trận tiếp cho sư đoàn một số đạn pháo 105, hậu cần của "304" đã nẫng tay trên". Các sư đoàn 304 và 320, tình hình chung không khác gì sư đoàn 308.
Sự so sánh này rõ ràng là địch "ăn hiếp" ta. Tôi còn gợi ý: ta có nên chuyển vào phòng ngự chăng?
Tất cả sự đánh giá tình hình, anh Hồng Sơn đều đồng ý nhưng tới việc chuyển vào phòng ngự, anh im lặng không tỏ thái độ.
Ngày hôm sau tôi lại mang nội dung ấy để trao đổi với chính ủy Hùng Phong, khi tôi nói "nên chuyển sang phòng ngự", Hùng Phong không nhất trí. Khoảng hơn 11 giờ khuya tôi cầm tổ hợp định gọi chủ nhiệm trinh sát, nghe thấy có người vừa nhắc tên mình, tôi lắng nghe xem chuyện gì. Tôi nghe rõ tiếng Hùng Phong đang nói với người phía đầu dây bên kia là đại tá Lê Tự Đồng.
- Vâng - Hùng Phong nói - anh hữu An tỏ ra không thông với chủ trương của Quân ủy Trung ương, nhất là ở thời điểm này... Dạ ... ý của anh ấy muốn chuyển sang phòng ngự.
Anh Lê Tự Đồng nói: - Tôi đã cùng anh An sống với nhau ở một đơn vị. Anh ấy là người chỉ huy có trình độ vững vàng, mọi ý kiến đều có suy nghĩ với tinh thần trách nhiệm. Theo tôi, ý kiến của anh ấy, ta phải lắng nghe và trân trọng nghiên cứu.
Nghe tới đó tôi đặt tổ hợp xuống, và suy nghĩ về những điều mình vừa tình cờ nghe được. Ngay sáng hôm sau tôi nói thẳng với Hùng Phong điều mình nghĩ: - Tớ tình cờ nghe được - tôi nói - chuyện đêm qua cậu phản ảnh với cấp trên. Vấn đề đó để mình suy nghĩ tiếp, tự mình sẽ làm báo cáo lên trên.
Sau đó một tuần tôi đã báo cáo cho anh Song Hào những đánh giá tình hình của tôi và kiến nghị; tôi biết anh Song Hào có đưa báo cáo của tôi cho cơ quan nghiên cứu và báo cáo lại với anh. Hàng nửa tháng liền, không mấy ngày được nắng ráo; nhiều trận mưa kéo dài, trong hầm hào lúc nào cũng ngập ngụa bún nước. Sư đoàn tôi vẫn giữ vững tuyến ngã ba Long Hưng, khu tam giác Đệ Ngũ, đồn Gia Long, La Vang, Phước Môn, Tân Téo, Như Lệ, Tích Tường. Ngày đêm bom B.52, pháo mặt đất, pháo hạm của địch dội xuống ác liệt. Anh em phải chiến đấu trên tục, không có thời gian làm công sự, phần lớn các phân đội mới làm được hố bắn và chiến hào ngắt quãng. Công sự mỏng yếu nên số thương vong vì bom, pháo tăng lên. Chiến đấu kéo dài liên tục trong ác hệt và mưa gió lầy lội, nên sức khỏe bộ đội giảm sút, ảnh hưởng nhiều tới sức chiến đấu. Tôi nhắc các đơn vị trong nhiệm vụ "phản công" phải chú ý các trận địa chốt và lực lượng dự bị phải có công sự chống đỡ được bom pháo địch, ý muốn nói phòng ngự giữ địa bàn nhưng không hề đả động đến hai chữ “phòng ngự”... Nhiều cán bộ chỉ huy không thông với lệnh "phản công" và cho rằng: dừng lại phòng ngự thì giữ được đất và đỡ thương vong, nhưng họ sợ nói ra điều đó lúc này sẽ bị "quy chụp" cho là "dao động không có tư tưởng tiến công“.
Trong đầu tôi không ngày nào dứt ra khỏi câu hỏi: “Tại sao khi ta thất thế trong tấn công, không chuyển sang phòng ngự? Tại sao lại phản công...?".
Một đêm, đã khuya lắm rồi, tiếng chuông điện thoại reo, tôi nhấc ống nghe và áp vào tai, nghe tiếng Nghi Lộc chọ chẹ của đại tá Hoàng Đan trong máy, tôi rất mừng. Trong lúc này có bạn tri kỷ để tâm sự, còn gì quý bằng, nhất là gặp cây tiếu lâm này chắc sẽ có nhiều chuyện vui.
Hoàng Đan hỏi: - Có thiếu thốn gì không? Chắc đi đường tới đây thì mọi thứ cạn láng rồi phải không? Thiếu đường, thuốc lá mình gửi cho.
Tôi nói vui: - Ở đây cái gì cũng thiếu. Có hảo tâm, cứ viện trợ đừng hỏi. - Ông vào đây cả tuần rồi, đã hiểu chiến thuật Quảng Trị chưa? - Chiến thuật gì? - Chiến thuật "ba chưa, một ngay". - Thế là cái gì, mình chưa biết. - Ba chưa là: thứ nhất, chưa nắm được địch; thứ hai, chưa nắm được địa hình; ba là, chưa có quân bổ sung, chưa có gạo, đạn. Còn một ngay, nghĩa là '"phải đánh ngay“.
Tôi cười to sảng khoái: - Nghe cái chiến thuật lạ tai đấy.
Sau vài câu nói vui, chúng tôi trao đổi vào công việc nghiêm túc. Tôi hiểu ý Hoang Đan cũng chưa thông với tư tưởng “phản công" vào lúc này.
Vài tối sau vào giờ khuya, Hoàng Đan lại gọi điện nói chuyện với tôi. Anh tỏ thái độ tâm đắc việc đánh giá tình hình, và chọn cách đánh của tôi nói chuyện lần trước. Anh nói: - Tình hình này rõ ràng là địch đã giành được quyền chủ động, chúng đang uy hiếp ta, ta chuyển sang phản công tiêu diệt địch là điều hơi khó. Nếu ta chuyển hẳn sang phòng ngự chặn đứng được địch, giữ vững được vùng giải phóng là giỏi rồi. Mình thấy cán bộ trong sư đoàn cũng có ý nghĩ ấy, nhưng không dám nói.
Tôi tỏ ra vui mừng vì Hoàng Đan đã cho tôi lượng thông tin có ích. Tôi nói: - Mình cân nhắc thêm. Thế nào mình cũng sẽ điện lên trên những suy nghĩ đã trao đổi với nhau.
Ngay hôm sau tôi bắt tay viết bức điện gửi ra Cục tác chiến, nhờ đại tá Cục trưởng Vũ Lăng chuyển cho đại tướng Võ Nguyên Giáp (đồng gửi B5). Nội dung bức điện đó có đoạn viết: “Tôi thấy nó giống chiến dịch “Z”… Chỉ khác không gian, thời gian, quy mô và cường độ. Tôi thấy không nên ham tấn công mà nên chuyển vào phòng ngự. Ở đây công tác chỉ đạo, chỉ huy vẫn ham tấn công và phản công, trong tình thế địch mạnh hơn đang ăn hiếp ta; lực lượng ta đã suy giảm và đang rơi vào bị động. Tôi nghĩ rằng: sức ta yếu hơn địch, ta chuyển vào phòng ngự là cần thiết. Nhưng ở đây hễ nói tới phòng ngự thì cấp trên lại cho rằng đó là tư tưởng hèn nhát thụ động, như vậy là không đúng với tình hình thực tế. Đề nghị với Bộ quyết tâm dứt khoát chuyển vào phòng ngự. Tình hình này ta muốn tiêu diệt gọn một tiểu đội, một trung đội cũng khó”.
Sau Hiệp định Pa-ri tôi về Hà Nội, ghé thăm anh Văn. Nói lại chuyện gay go giữ thành Quảng Trị, anh Văn thân mật hỏi: - Nếu tôi cho cậu chuyển sang phòng ngự, cậu có giữ được không?
Tôi nói: - 100% thì không được, chứ 90% đến 95% có thể bảo đảm giữ được. Tôi tìm hiểu tình hình ta trong Thành Cổ. Phương thức tác chiến không dứt khoát, theo lệnh “phản công tiêu diệt sinh lực địch” để giữ thành, nên không có công sự trận địa phòng ngự chu đáo. Hỏa lực của địch gồm hàng trăm nòng pháo, hàng ngày trung bình 35 đến 40 lần chiếc B.52 bắn phá, thả bom, chủ yếu gây thương vong cho ta trong Thành Cổ. Quân số chiến đấu của ta trong Thành Cổ mỗi ngày tiêu hao không ít. Nhiều chiến sĩ đưa vào bổ sung, chưa kịp biết mặt cán bộ phân đội của mình đã thương vong hoặc mất sức chiến đấu. ……………….
|