Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Năm, 2024, 12:31:41 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập 2  (Đọc 9155 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #210 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2022, 07:41:16 pm »

Anh hùng Nguyễn Thế Cự


Nguyễn Thế Cự sinh năm 1952, dân tộc Kinh, quê ở xã Hoàng Nam, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Hà, nhập ngũ tháng 8 năm 1969. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là tiểu đội trưởng, thuộc đại đội 20 thông tin, trung đoàn 3 sư đoàn 5 Bộ chỉ huy Miền, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ tháng 6 năm 1970 đến năm 1973, Nguyễn Thế Cự làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc cho trung đoàn. Đồng chí đã tham gia 38 trận đánh, trận nào cũng dũng cảm, mưu trí theo sát đơn vị, phục vụ tốt cho chỉ huy chiến đấu. Nhiều lần bị sốt rét, sức khỏe yếu, đơn vị cho nghỉ điều trị nhưng vì thiết tha với nhiệm vụ, Nguyễn Thế Cự vẫn xin đi chiến đấu bằng được.


Trận Lộc Ninh ngày 25 tháng 12 năm 1970, trong lúc Nguyên Thế Cự đang thu dây thì bọn địch nống ra. Mặc cho hỏa lực địch bắn ác liệt, đồng chí khẩn trương thu dây trước khi địch sục đến. Nhờ đó, sở chỉ huy vẫn giữ được bí mật, an toàn.


Trận Lộc Ninh ngày 5 tháng 4 năm 1972, Nguyền Thế Cự phụ trách đường dây ở hướng chủ yếu của trung đoàn dài 6 ki-lô-mét. Máy bay địch đánh phá ác liệt, đường dây bị đứt hàng chục lần, lần nào đồng chí cũng dũng cảm vượt qua bom đạn đi nối dây kịp thời. Có lần bom nổ gần, đất lấp kín người, đồng chí ngất đi, khi tỉnh dậy, lại tiếp tục đi nối dây. Đường dây do Nguyễn Thế Cự phụ trách bảo đảm thông suốt, phục vụ đẳc lực cho chỉ huy chiến đấu.


Có lần Nguyễn Thế Cự đang làm nhiệm vụ ở sở chỉ huy với tham mưu trưởng trung đoàn thì máy bay địch đến đánh phá. Một quả bom bi rơi ngay chỗ làm việc, Nguyễn Thế Cự nhanh chóng nằm đè lên quả bom. Quả bom không nổ, nhưng hành động dũng cảm của đồng chí được mọi người mến phục tin yêu.


Đồng chí được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 1 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Nguyễn Thế Cự được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #211 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2022, 07:42:54 pm »

Anh hùng Đặng Văn Lợi


Đặng Văn Lợi (tức Văn Lồi) sinh năm 1937, dân tộc Dao, quê ở xã Vinh Tiền, huyện Thanh Sơn, tỉnh Vĩnh Phú, nhập ngũ tháng 6 năm 1968. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là hạ sĩ, tiểu đội phó thông tin, đại đội 18 trung đoàn 1 sư đoàn 324 Quân khu Trị Thiên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1969 đến năm Đặng Văn Lợi tham gia chiến đấu tại chiến trường Trị Thiên. Trong điều kiện bom đạn ác liệt, đồng chí đã chỉ huy và dẫn đầu tổ dũng cảm, mưu trí vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt. Nhiều lần Đặng Văn Lợi bị ngất vì sức ép của bom, tỉnh dậy lại tiếp tục làm nhiệm vụ; hàng chục lần chưa kịp ăn, nhịn đói vẫn đi nối dây. Đặng Văn Lợi đã nối dây gần một nghìn lần trong lúc địch đang đánh phá, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ chiến đấu, nêu gương cho toàn đơn vị học tập.


Tháng 7 năm 1969, trong chiến dịch A Bia (tây Thừa Thiên), địch dùng phi pháo đánh hàng trăm lần vào đoạn đường dây và 6 lần bộ binh địch nống ra cắt dây, lần nào Đặng Văn Lợi cũng dẫn đầu tổ đi nối chữa. Có lần bơi qua sông A Sáp, nước chảy mạnh cuốn đồng chí vào đá, ngất đi, được anh em dìu vào bờ, khi tỉnh dậy, đồng chí lại tiếp tục làm nhiệm vụ.


Tháng 7 năm 1970, phục vụ cho trận đánh điểm cao 935 (Cốc Bai), Đặng Văn Lợi đảm nhiệm đoạn đường dây hơn 2 ki-lô-mét. Địch đánh phá rất ác liệt, trung bình mỗi ngày đường dây bị đứt 10 đến 12 lần, có ngày đứt 27 lần. Suốt 23 ngày đêm liên tục bám trọng điểm, đồng chí đã vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, giữ vững đường dây thông suốt. Đặc biệt, ngày 12 tháng 7, trong khi làm nhiệm vụ, bị bom nổ gần, đất vùi gần kín người Đặng Văn Lợi bị ngất. Khi tỉnh dậy, không đi được, đồng chí dùng hết sức lực còn lại bò đi tìm hai đầu dây đứt nối lại. Nhờ đó thông tin liên lạc được giữ vững.    Trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), tuy sức khỏe giảm sút Đặng Văn Lợi vẫn quyết tâm xin đi chiến đấu. Hành động của đồng chí đã cổ vũ và động viên mọi người trong đơn vị hăng hái chiến đấu.


Trong chiến dịch Trị Thiên năm 1972, Đặng Văn Lợi không hề nghỉ một ngày. Nhiều đợt, liền trong 10 ngày đồng chí ăn, ngủ ngay trên đường rải dây. Hàng trăm lần máy bay địch đánh phá ác liệt, Đặng Văn Lợi vẫn lao vào chỗ nguy hiểm nối dây phục vụ tốt cho chỉ huy chiến đấu.


Đặng Văn Lợi luôn xung phong; gương mẫu trong mọi công việc và tích cực giúp đỡ mọi người cùng tiến bộ.


Đồng chí được tặng thưởng 5 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 3 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Đặng Văn Lợi được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng. 
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #212 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2022, 04:13:42 pm »

Anh hùng Phạm Văn Dẫn


Phạm Văn Dẫn sinh năm 1948, dân tộc Kinh, quê ở xã Thái Dương huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Binh, nhập ngũ tháng 8 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đại đội trưởng đại đội 1 súng máy cao xạ 12,7 ly thuộc tiểu đoàn 24 sư đoàn 7 Bộ chỉ huy Miền, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1966 đến năm Phạm Văn Dẫn chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ, đã tham gia gần 400 trận. Đồng chí luôn bình tĩnh, dũng cảm, chỉ huy đơn vị đánh máy bay, đánh bộ binh đều giỏi. Riêng Phạm Văn Dẫn trực tiếp bắn rơi 12 máy bay và diệt nhiều bộ binh địch.


Ngày 12 tháng 3 năm 1969, đồng chí chỉ huy khẩu đội bắn rơi 4 máy bay địch.


Ngày 11 tháng 9 năm 1969, mặc cho máy bay địch đánh phá ác liệt vào trận địa, Phạm Văn Dẫn chỉ huy khẩu đội đánh trả địch quyết liệt, thu hút hỏa lực địch về phía mình để hạn chế thiệt hại cho đơn vị bạn, chi viện đắc lực cho bộ binh chiến đấu thắng lợi. Trận này, đại đội đồng chí bắn rơi 3 máy bay. Riêng Phạm Văn Dẫn dùng súng AK bắn rơi 1 chiếc.


Trận đánh ngày 13 tháng 6 năm 1972, đồng chí chỉ huy đại đội chiến đấu rất dũng cảm, lúc đánh máy bay, lúc đánh bộ binh địch, hạ 1 máy bay AD6 diệt 40 tên. Riêng đồng chí diệt 15 tên. Trận đánh thắng lợi đã làm thất bại âm mưu của địch đến giải tỏa An Lộc.


Trận Đức Vinh ngày 19 và 20 tháng 9 năm 1972, địch cho máy bay, pháo binh bắn phá ác liệt và bộ binh địch từ ba hướng tiến đánh trận địa của đơn vị. Ngay ngày đầu, Phạm Văn Dẫn chỉ huy đơn vị bắn rơi 4 máy bay, đánh lui các đợt phản kích của bộ binh địch. Ngày hôm sau, máy bay địch lại đến đánh vảo trận địa, đồng chí phán đoán chính xác đường bay, chỉ huy linh hoạt, ngay từ những loạt đạn đầu đã bắn rơi 3 chiếc. Số máy bay địch còn lại bỏ chạy. Kết quả, trong 2 ngày, đơn vị Phạm Văn Dẫn đã bắn rơi 7 máy bay địch, giữ vững trận địa.


Ngày 16 tháng 10 năm 1972, đơn vị đồng chí làm nhiệm vụ yểm trợ cho bộ binh đánh địch ở Vĩnh Tường. Phạm Văn Dẫn chỉ huy mưu trí, vừa đánh trả máy bay quyết liệt, vừa tổ chức lực lượng đánh bộ binh địch khi chúng phản kích vào trận địa. Đơn vị đồng chí bắn rơi 1 chiếc AD6, diệt 30 tên địch. Riêng Phạm Văn Dấn diệt được 10 tên, thu 1 súng.


Phạm Văn Dẫn luôn chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt; bản thân gương mẫu trong mọi việc, tích cực học tập, khiêm tốn giản dị, được mọi người yêu mến.


Đồng chí được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 5 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 9 bằng khen và giấy khen, 4 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Phạm Văn Dẫn được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #213 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2022, 04:14:16 pm »

Anh hùng Hoàng Văn Vẻ


Hoàng Văn Vẻ sinh năm 1947, dân tộc Mường, quê ở xã Thu Cúc, huyện Thanh Sơn, tỉnh Vĩnh Phú, nhập ngũ tháng 6 năm 1967. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là chuẩn úy, đại đội phó đại đội 1 súng phun lửa, tiểu đoàn 961 Cục hóa học Bộ Tổng Tham mưu, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1968 đến năm Hoàng Văn Vẻ tham gia chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị. Tuy có nhiều khó khăn, gian khổ, địch đánh phá ác liệt, đồng chí luôn nêu cao tinh thần tích cực tiến công địch, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, bị thương không rời trận địa. Hoàng Văn Vẻ đã chỉ huy đơn vị diệt gần hai trăm tên địch, bắn cháy 8 xe tăng, phá hủy 15 đại liên, 20 nhà bạt. Riêng đồng chí diệt 30 tên, bắn cháy 2 xe tăng, phá hủy 2 đại liên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Trận đánh ngày 27 tháng 4 năm 1968, khi nổ súng, hỏa lực địch bắn mạnh cản đường tiến của bộ binh ta, Hoàng Văn Vẻ dẫn đầu tổ thọc thẳng vào vị trí địch, dùng súng phun lửa diệt các hỏa điểm của chúng, tạo thuận lợi cho bộ binh xông lên. Khi gần địch không dùng được súng phun lửa, đồng chí dùng lựu đạn, thủ pháo diệt địch. Trận này, đồng chí diệt 6 tên, phá hủy đại liên.


Trận phục kích địch bỏ chạy từ đường 9 về Bản Đông ngày 18 tháng 3 năm 1971, Hoàng Văn Vẻ bị thương vào gáy, máu chảy nhiều, nhưng đồng chí vẫn chiến đấu cho tới khi trận đánh kết thúc. Tổ Hoàng Văn Vẻ diệt 57 tên địch, bắn cháy 4 xe tăng. Riêng đồng chí diệt 24 tên, bắn cháy 2 xe tăng.


Hoàng Văn Vẻ luôn chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về nhiều mặt, hết lòng thương yêu đồng đội. Nhiều lần ngay trong lúc đang chiến đấu, hỏa lực địch bắn rất mạnh, đồng chí vẫn bình tĩnh băng bó chu đáo cho đồng đội bị thương.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 2 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng, 1 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 3 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Hoàng Văn vẻ được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng. 
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #214 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2022, 04:14:56 pm »

Anh hùng Đỗ Hoài Nam


Đỗ Hoài Nam sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Hội Cư, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, nhập ngũ tháng 12 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là bác sĩ, viện trưởng viện quân y Đ.72 thuộc Cục Hậu cần Bộ chỉ huy Miền, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1981 đến năm Đỗ Hoài Nam đảm nhiệm nhiều cương vị công tác. Ở cương vị nào, đồng chí cũng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm việc hết sức mình. Thời gian phụ trách bệnh viện, đồng chí hết lòng phục vụ, dù khó khăn gian khổ, ác liệt thế nào củng tìm mọi cách vượt qua, giành lại sự sống cho thương binh, bệnh binh. Đỗ Hoài Nam đã mổ 1.200 trường hợp an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Quá trình làm nhiệm vụ, đồng chí tích cực rút kinh nghiệm, học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, mổ giỏi các vết thương lồng ngực,  bụng, chân tay và sọ não. Đỗ Hoài Nam đã mổ nhiều trường hợp thương binh có vết thương rất hiểm nghèo, như mổ hộp sọ não lấy ngoại vật, khâu vá màng não; mổ vết thương cột sống, hồi phục hai chân của thương binh đã bị liệt; khâu nối mạch máu lớn, cứu sống nhiều trường hợp vết thương đứt mạch máu; mổ xử trí bọc phòng mạch máu, cứu sống 148 thương binh; mổ vết thương vừa vỡ gan vừa thủng dạ dày ở tình trạng nguy kịch; mổ lồng ngực, xử trí những trường hợp vết thương phổi, cứu sống 32 thương binh; khâu nối thần kinh ngoại vi, thanh toán được nhiều trường hợp tàn tật; khâu thận bảo tồn cho một thương binh vỡ thận; đóng đinh nội tủy cứu sống được thương binh bị gáy cả xương đủi.


Với những thành công trên, Đỗ Hoài Nam đã đúc kết thành tài liệu khoa học và kinh nghiệm giúp trên phổ biến cho toàn ngành quân y của Miền thực hiện đạt kết quả tốt. Ngoài nhiệm vụ chủ yếu, Đỗ Hoài Nam còn tích cực tham gia giảng dạy ở trường đào tạo bác sĩ, tích cực hướng dẫn kèm cặp hàng chục y sĩ làm được phần lớn công việc của bác sĩ.


Đồng chí được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 7 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 17 bằng khen và giấy khen.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Đỗ Hoài Nam được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #215 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2022, 04:15:23 pm »

Nguyễn Ngọc Đắc


Nguyễn Ngọc Đắc sinh năm 1935, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nhập ngũ tháng 3 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đại úy, bác sĩ đội trưởng đội phẫu thuật tiểu đoàn 24 sư đoàn 308, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ khi nhập ngũ đến năm 1973, Nguyễn Ngọc Đắc phục vụ trong ngành quân y, trưởng thành từ chiến sĩ cứu thương lên bác sĩ, luôn nêu cao tinh thần tận tụy phục vụ. Ở cương vị nào, đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Năm 1971 và năm 1972, Nguyễn Ngọc Đắc phụ trách đội phẫu thuật phục vụ chiến dịch Đường 9 - Nam Lào và chiến dịch Quảng Trị. Tuy có nhiều khó khăn, gian khổ, ác liệt, đồng chí luôn tận tụy phục vụ thương binh, bệnh binh, không kể ngày đêm; nhiều ngày làm việc từ 14 đến 15 giờ; có lúc đứng mổ cho  thương binh 5, 6 giờ liền. Nhiều khi đang mổ, bom đạn địch nổ gần, Nguyễn Ngọc Đắc vẫn bình tĩnh, tiếp tục làm việc. Có lần bị thương gãy một xương sườn, ho ra máu, đơn vị cho về tuyến sau, đồng chí vẫn xin ở lại làm nhiệm vụ.


Nguyễn Ngọc Đắc chịu khó học tập, đi sâu nghiên cứu khoa học, kỹ thuật nên trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao. Nguyễn Ngọc Đắc đã mổ hơn 200 trường hợp an toàn, có trên 70 trường hợp vết thương hiểm nghèo như ruột bị thủng nhiều lỗ; vỡ lách, chảy máu bên trong, sau 48 tiếng đồng hồ mới đưa về đội điều trị; phổi nát và bị đứt động mạch; gan bị giập và ruột bị thủng 18 lỗ; vết thương sọ não có triệu chứng bị liệt... cũng được chữa khỏi.


Nguyễn Ngọc Đắc luôn quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho mọi người trong đội phẫu thuật, đã kèm cặp 2 y sĩ làm được nhiều phần việc của bác sĩ, 3 y tá làm được nhiều phần việc của y sĩ và đã góp phần chủ yếu đào tạo được 100 y tá, bổ sung cho các đơn vị trong sư đoàn.


Đồng chí luôn chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt, khiêm tốn, giản dị, được mọi người tin yêu.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 18 bằng khen và giấy khen, 2 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Nguyễn Ngọc Đầc được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #216 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2022, 04:15:54 pm »

Anh hùng Nguyễn Thị E


Nguyễn Thị E (tức Dân Đoàn), sinh năm 1950, dân tộc Kinh, quê ở xã Long Mỹ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, nhập ngũ tháng 9 năm 1966. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là y tá bộ đội địa phương quận Giồng Trôm tỉnh Bến Tre, Bộ chỉ huy miền, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1964 đến tháng 8 năm 1966, Nguyễn Thị E tham gia dân quân tại địa phương. Khi làm quân báo, đồng chí thường ra vào các quận Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành và thị xã Bến Tre năm tình hình địch. Nhiều lần máy bay, pháo binh địch đánh vào ấp, xã, đồng chí nhanh chóng đi cứu chữa cho đồng bào bị thương.


Từ cuối năm 1966 đến năm 1968, làm y tá ở quận Giồng Trôm, Nguyễn Thị E luôn đi sát các đơn vị chiến đấu, không kể ngày đêm, lúc nào có thương binh đến là cứu chữa ngay. Có lần đi cứu chữa thương binh, bị địch phục kích bát được, tra tấn rất dã man, nhưng đồng chí không khai báo gì, buộc chúng phải thả về.


Từ năm 1969 đến năm 1973, Nguyễn Thị E phụ trách trạm thu dung thương binh. Trạm có 3 người, đồng chí là y tá và 2 hộ lý, thường xuyên phục vụ trên 20 thương binh (có lúc trên 30 thương binh). Đồng chí luôn nêu cao tinh thần tận tụy phục vụ, làm việc không kể ngày đêm, chăm sóc thương binh chu đáo. Nhiều lần máy bay, pháo binh địch đánh phá ác liệt vào khu vực trạm, đồng chí bình tĩnh, nhanh chóng dìu, cõng thương binh xuống hầm. Nhiều lần địch càn vào khu vực trạm, Nguyễn Thị E động viên các đồng chí khác cùng mình chuyển kịp thời tất cả thương binh đến nơi an toàn.


Quá trình điều trị cho thương bệnh binh, với kiến thức được bồi dưỡng và học tập các đồng chí khác, Nguyễn Thị E đã tận dụng những dược liệu sẵn có ở địa phương, pha chế một số thuốc đông y phục vụ người bệnh, tiết kiệm cho công quỹ hàng nghìn đồng.


Vừa làm tốt công tác điều trị, vừa làm tốt công tác nuôi dưỡng thương binh, đồng chí tranh thủ những giờ nghỉ, đi bắt cá, hái rau... cải thiện bữa ăn cho anh em.


Đóng quân ở đâu, đồng chí cũng tích cực giúp đỡ nhân dân, chữa bệnh cho người ốm. Nhiều lần Nguyễn Thị E cải trang, vào sát vị trí địch, chữa cho đồng bào bị các bệnh hiểm nghèo. Nguyễn Thị E còn tích cực làm công tác dân vận, vận động nhân dần góp người, góp của cho cách mạng, bất cứ lúc nào cũng tích cực làm công tác địch vận, đã vận động được 25 gia đình binh sĩ ngụy gọi chồng con bỏ hàng ngủ địch trở về nhà làm ăn.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 26 bằng khen và giấy khen, 3 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 11 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Nguyễn Thị E được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #217 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2022, 04:16:38 pm »

Anh hùng Bùi Văn Quảng


Bùi Văn Quảng sinh năm dân tộc Kinh, nhập ngũ tháng 9 năm 1965, quê ở xã Hải Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Hà. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung đội trưởng vận tải (xe đạp thồ) đại đội 3 tiểu đoàn 44 Cục hậu cần Bộ chỉ huy Miền, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1966 đến năm 1973 Bùi Văn Quảng làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu tại chiến trường Đông Nam Bộ. Khi là chiến sĩ nuôi quân, đồng chí luôn chịu khó công tác, thức khuya dậy sớm nấu nướng, bảo đảm sức khỏe cho anh em.


Khi làm nhiệm vụ vận chuyển hàng, Bùi Văn Quảng luôn nêu cao tinh thần vượt mọi kho khăn, ác liệt, dũng cảm bám đường, bám tuyến bền bỉ công tác. Mỗi tháng đồng chí có mặt trên tuyến đường từ 28 đến 29 ngày. Chiến dịch vận chuyển nào đồng chí cũng tham gia từ đầu đến cuối và luôn dẫn đầu đơn vị về năng suất thồ hàng. Bùi Văn Quảng đã chuyển được 35 tấn hàng tới đích đầy đủ. Dù nắng mưa, nguy hiểm, hàng vẫn được bảo quản tốt. Đồng chí còn kết hợp vận chuyển hai chiều, đưa được trên 300 thương binh về phía sau an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Đặc biệt, trong chiến dịch Xuân - Hè năm 1972, làm nhiệm vụ vận chuyển phục vụ các đơn vị chiến đấu ở Lộc Ninh, mặc cho địch đánh phá ác liệt, Bùi Văn Quảng động viên và dẫn đầu trung đội vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, bám sát các đơn vị chiến đấu, đưa hàng đến kịp thời. Suốt 6 tháng liền, đồng chí không nghỉ một ngày nào, luôn dẫn đầu tiểu đoàn về năng suất (trung bình mỗi chuyến 400 ki-lô-gam). Trung đội đồng chí cũng luôn dẫn đầu tiểu đoàn về năng suất. Trong chiến dịch này, Bùi Văn Quảng đã chuyển được 11 tấn hàng ra phía trước, phục vụ chiến đấu và chuyển 94 thương binh về tuyến sau an toàn.


Bùi Văn Quảng hết lòng thương yêu đồng đội, ba lần xông vào lửa đạn cứu được 4 đồng chí bị thương ra khỏi khu vực địch đang đánh phá.


Đồng chí được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 5 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 28 bằng khen.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Bùi Văn Quảng được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lương vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #218 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2022, 04:17:12 pm »

Anh hùng Bùi Văn Minh


Bùi Văn Minh sinh năm 1950, dân tộc Kinh, quê ở xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 1 năm 1968. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng sĩ, trung đội phó thuộc đại đội 6 vận tải, tiểu đoàn 231 trung đoàn 230 cục hậu cần Quân khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1968 đến năm Bùi Văn Minh làm nhiệm vụ vận tải ở chiến trường Tây Nguyên, tuy có nhiều khó khăn, gian khổ, địch đánh phá ác liệt, đồng chí luôn bền bỉ khắc phục khó khăn, tận tụy phục vụ. Năm nào Bùi Văn Minh cũng tham gia vận chuyển hàng trung bình 270 ngày, tích cực cải tiến cách mang vác để tăng cân, tăng chuyến, đưa năng suất ngày một cao. Đồng chí thường nhận chuyển những hàng cồng kềnh, nhường hàng gọn, dễ mang cho đồng đội. Năng suất vận chuyển bình quân của Bùi Văn Minh là 80 ki-lô-gam một chuyến. Nhiều khi do yêu cầu gấp, đồng chí đã mang 130 ki-lô-gam mỗi chuyến trong gần một tháng liền; có chuyến một mình mang 4 viên đạn ĐKB nặng 184 ki-lô-gam.


Năm 1971, vận chuyển bằng xe đạp, đường hẹp, dốc cao, chỉ tiêu 100 ki-lô-gam mỗi chuyến Bùi Văn Minh thường đạt 125 ki-lô-gam một chuyến, có chuyến đạt 230 ki-lô-gam. Tính chung trong 5 năm, đồng chí đã chuyển được 100 tấn hàng, giao đủ, kịp thời gian quy định, hàng được bảo quản tốt.


Tháng 7 năm 1970, địch càn vào khu căn cứ của ta. Để bảo vệ hàng, tổ đồng chí đã chiến đấu rất dũng cảm. Quá trình chiến đấu, anh em bị thương, chỉ còn một mình Bùi Văn Minh vẫn kiên trì bám trận địa, đánh địch. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt, đồng chí đánh lui 5 đợt tiến công của địch, diệt nhiều tên, giữ vững được khu kho và bảo vệ thương binh an toàn.


Bùi Văn Minh luôn khiêm tốn, giản dị, chịu khó học hỏi mọi người được đồng đội tin yêu.


Đồng chí được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 4 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 8 bằng khen và giấy khen.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Bùi Văn Minh được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #219 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2022, 04:17:45 pm »

Anh hùng Y Buông


Y Buông sinh năm 1946, dân tộc Xê-đăng, quê ở xã Đắc Na, huyện Đắc Tô, tỉnh Kon Tum, nhập ngũ tháng 3 năm 1960. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung đội phó nuôi quân thuộc đại đội 1 tiểu đoàn 304 bộ đội địa phương Công Tum, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Y Buông tham gia phục vụ cách mạng từ khi còn nhỏ, 13 tuổi đã làm liên lạc đưa đường cho cán bộ ra vào vùng tạm chiếm hoạt động. Trong khi làm nhiệm vụ, nhiều lần gặp nguy hiểm, đồng chí vẫn bình tĩnh, linh hoạt bảo vệ cán bộ an toàn.


Từ năm 1960 đến năm 1973, Y Buông làm công tác nuôi quân. Công việc gặp nhiều khó khăn, đồng chí vẫn kiên trì, bền bỉ, tận tụy phục vụ, không quản ngại. Đồng chí làm việc quanh năm suốt tháng không nghỉ, năng suất có lúc bằng hai người. Những khi thiếu thốn lương thực, thực phẩm, Y Buông tích cực tim kiếm củ rừng, rau rừng, bắt cua, ốc... để cải thiện bữa ăn cho đơn vị. Những đồng chí ốm được đồng chí chăm sóc chu đáo, nhiều khi nhường cả khẩu phần ăn của mình cho đồng đội, còn mình ăn đói hoặc ăn rau rừng trừ bữa.


Ngoài việc khắc phục khó khăn bảo đảm bữa ăn hàng ngày, Y Buông còn tìm mọi cách kiếm thức ăn nuôi thường xuyên 5, 6 con lợn và hàng chục con gà, cung cấp thêm mỗi năm hơn 3 tạ thịt lợn và trên 100 con gà góp phần cải thiện đời sống cho đơn vị.


Đặc biệt, từ năm 1968, làm nhiệm vụ nuôi quân ở đơn vị chiến đấu, phải hành quân cơ động vất vả, Y Buông luôn bám sát đơn vị. Nhiều khi hành quân 5, 6 đêm liền; ban ngày không nghỉ, đồng chí đào bếp, kiếm củi, nấu cơm cho đơn vị ăn đầy đủ, kịp thời.


Quá trình phục vụ chiến đấu, hàng trăm lần trong hoàn cảnh bom đạn địch đánh phá ác liệt, Y Buông vẫn tìm mọi cách nấu được cơm và mang đến trận địa cho bộ đội.


Y Buông luôn gương mẫu về mọi mặt, hăng say với nhiệm vụ, hết lòng thương yêu đồng đội, sống giản dị, khiêm tốn, được mọi người yêu mến.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 16 bằng khen và giấy khen, lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua.


Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Y Buông được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM