FN FAL là khẩu súng trường tấn công phương Tây phổ biến nhất thế giới trong thời AK-47.
Xuất phát ban đầu, khẩu súng nằm trong nỗ lực chế tạo súng trường tấn công chung của Anh và Bỉ.
Ở đây, chúng ta thấy tồn tại 3 quan điểm khác nhau về nỗ lực cho ra súng trường tấn công. Thực chất chỉ là 2 quan điểm của Liên Xô và Đức trong chiến tranh. Sau chiến tranh, các công ty Đức phát tán ra xung quanh nước Đức tan nát và tạo thành quan điểm thứ 3 trung gian. Quan điểm của Liên Xô là chế tạo súng trường, tức là súng dài súng mạnh, nhưng nhỏ nhẹ. Quan điểm của Đức là chế tạo MP, súng ngắn, nhưng mạnh mẽ. Như mình đã viết trên, thật ra ban đầu Đức cũng có quan điểm đúng, nhưng Hiler và bang phái đã nhận định sai hướng phát triển, họ đầu tư vào các MP và kiểu súng máy bắn đạn nặng MG-42, một chú quá nhỏ và một chú quá to làm chột mất súng trường tấn công Đức G35. Có thể, hai hướng xuất phát từ súng trường và súng ngắn sẽ đến cùng một điểm nếu như Đức không chết sớm, nhưng tóm lại Đức chưa có khẩu súng trường tấn công nào, điều đó làm cho quan điểm "phóng to súng ngắn" tự nhiên trở tha thành sai lầm.
Theo cá nhân tớ, một khẩu súng trường nhỏ nhẹ là đúng đắn nhất, súng trưpờng tấn công trước tiên là súng trường, vì vậy, AK mới có sức mạnh đầu đạn cao như vậy. Thực chất, quan điểm của Liên Xô là không cần đến tầm bắn trên 1000 mét của các loại súng trường chiến đấu hạng nặng như Mauser, Mosin, vì khả năng bắn trúng rất thấp, xạ thủ lộ hàng là ăn pháo ngay. AK các loại thu hẹp tầm bắn xuống dưới 1000 mét nhưng so với các loại súng trường hạng nặng cũ không giảm hoặc chỉ giảm chút ít sức mạnh đầu đạn. Như link dưới đây cho thấy, đầu đạn AK mạnh hơn NATO 7,62 x 51 mặc dù bé hơn. Việc giảm động năng đầu đạn phải được các công thức khoa học bù vào, thuật phóng ngoài external ballistic tốt sẽ giảm tản mát và làm tầm bắn tốt hơn, còn sức phá đầu đạn, terminal ballistic tốt sẽ tăng sức công phá. Tầm bắn và sức phá quyết định đâu là súng trường, đâu là súng ngắn.
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1539.msg31094#msg31094Sau chiến tranh, ở phương Tây thấy Đức đã sai lắm rồi, nhưng nhất quyết không theo Liên Xô. Luôn luôn phản đối bậc thầy có lẽ là lý do lớn nhất để súng trường tấn công của phương Tây phở lởm đến ngày nay, mặc dù đầu tư rất nhiều tiền bạc, công nghệ. Phương Tây đưa ra "
Quan điểm trung gian". Họ định nghĩa "
một súng trường hiện đại cho bộ binh thỏa mãn những yêu cầu nhẹ, chọn chế độ bắn, tầm bắn hiệu quả cao hơn súng ngắn bắn nhanh (SMG), nhưng ngắn hơn các súng trường truyền thống. Đặc điểm này yêu cầu một cỡ đạn trung gian." Chính vì quan điểm trung gian này mà ngày nay phương Tây lẫn lộn hết cả súng trường và súng ngắn, âu cũng là cái tội của những thằng dốt như vịt nhưng thích nói nhăng nói cười.
Như mình đã nói, Đức trước chiến tranh đã thử nghiệm cỡ súng trường đạn nhỏ G35, nhưng bị Hitler làm héo. Quan điểm này tồn tại ở nhiều nước thân cận với Đức, Bỉ, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Đan Mạch. Sau chiến tranh, Anh cũng muốn tiếp cận các phát triển này, sau khi xây dựng lên "
Quan điểm trung gian", Anh đã cùng FN nỗ lực phát triển súng trường tấn công. Họ cùng với các công ty Bỉ phát triển cỡ đạn 7x43 mm (.280 British), sơ tốc tính toán (thường thấp hơn so tốc thật chút) là 745 m/s (2445 fps), đầu đạn 9,08 g (140 grain). Loại đạn này được Bỉ nhập dùng cho SAFN-49. Sau này, loại đạn này thể hiện giật mạnh (đầu đạn quá nặng), không được phát triển tiếp.
Theo ý kiến riêng của tớ, đạn 7x43 mm (.280 British) quá dài, không thuận lợi cho thuật phóng ngoài và Anh lúc đó cũng không đủ điều kiện làm đầu đạn rỗng. Điều này thể hiện rõ rệt nhược điểm của "
Quan điểm trung gian", không Nga chả Đức, tức là không tri thức hay nói một cách khác là ngu si.
Đứng trên quan điểm súng trường nhỏ, người ta phải đổ tri thức vào đạn nhỏ để nó mạnh như đạn to, chứ theo "
Quan điểm trung gian" thì thu nhỏ đạn to là được. Đứng trên quan điểm "súng trường nhỏ để bắn được khi đang chạy" mới thấy rõ độ giật của đạn cần ở mức nào. Dù sao thì đạn này cũng mạnh hơn đạn M1 cạc bin.
Cỡ đạn 7x43 mm được Anh dùng cho súng trường tấn công đầu tiên của họ, khẩu British EM-2 (Experimental Model-2). Khẩu súng làm theo dáng bullpup, nòng và máy thụt vào báng để giảm chiều dài, giống như Korobov cùng thời với AK-47 hay Famas ngày nay. Tuy áp dụng công nghệ làm ngắn nhiều như vậy nhưng súng chả gọn gàng j` 889 mm. Cân nặng thì như súng ngày đó, 3,4 kg chưa đạn. Nòng quá dài 889 mm là nhược điểm của loại đạn trên.
Về cấu tạo, súng có bộ máy đặc trưng của DP, sau được dùng cho RPD, SVD và G43 Đức Hitler, bộ máy này dùng được nhưng nguyên liệu rẻ như gang cầu và phương tiện gia công không cần cao cấp j`. Hai phiên bản EM-1 và EM-2 na ná như nhau. Không có cái ảnh nào của máy EM-2, mình mượn cái ảnh của DP bốt lên. Khóa nòng (bolt) liền với bệ khóa nòng (bolt carrier) vuông, có hai ngạnh xòe ra chống vào thành vỏ máy (receiver) để khóa nòng, ngạnh xòe ra được do khối nối với piston tác động. Ngạnh của DP và RPD ở khối trước còn EM ở sau. Quan điểm thiết kế súng vay mượn và nghèo sáng tạo, thậm chí, đến cả cái chụp đầu nòng cũng hok có.
Tuy nhiên, cái thước ngắm ngự trên quai xách cho cao thì AR-15 thừa kế, M16 hợp chúng quốc mà.
Khẩu súng mãi mãi dừng lại tuổi ấu thơ, không bao h vượt qua thử nghiệm. Tuy nhiên, dân Anh-Mỹ rất nhiều nhà ái quốc thái quá, thường tung hô đây là bullpup đầu tiên trên thế giới và là nguyên mẫu cho British SA80 / L85 , lòng ái quốc chói lòa che mất cả Korobov và việc máy L85 chả liên quan j` đến EM-2 cả.
Tóm lại, đây là sản phẩm của "quan điểm trung gian" chả Nga cũng không Đức. Về súng đạn, phương Tây mà không có Nga Đức thì chưa bao h ngẩng đầu được, thế nhưng có một giai đoạn cãi thầy. Bi h, ở thế kỷ 21 thì thái độ xì tin là tung hô súng Nga súng Đức, cũng tiến bộ so với thời đó. Việc sai concept ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của súng trường phương Tây, mặc dù có rất nhiều hướng phát triển đúng đắn đã hình thành. Tuy nhiên, thị trường lớn nhất đã được chú vua đẻ non AR-15 chiếm, còn các nước nhỏ (hay trung bình
) ở châu Âu thì sợ đánh nhau và không ai dám dùng đạn của bạn của ta.
7mm Anh, M43 AK, M16 5,56mm , NATO 7,62 x 51
Khóa nòng của DP, bên cạnh là cái nòng cắm vào vỏ máy súng (receiver). Hệ súng Đegtriaryov Дегтярёв thiết kế như DP, RPD đặc trưng bởi cái khóa nòng này, đi kèm trích khí piston hành trình dài và có vít chỉnh tiết lưu khí. Hai mấi trên ngạnh sẽ ăn vào trong ray của khối lùi gắn với piston, mở ra đóng vào theo ray. AM2 bố trí ngạnh ngược lại. FN FAL cũng là hệ khóa nòng này, nó có nguyên lý giống SVT nhưng ngạnh cắm xuống dưới.
Đây là G43 Đức, một bản sao của SVT-40 Liên Xô. Phiên bản dùng cho súng trường của kiểu khóa nòng này. Kiểu piston rời lùi ngắn cũng từ đây mà ra cả. SVT- và G43 không dùng ray như DP và RPD mà có một cái chêm chẻ ngạnh ra.
http://www.gunpics.net/german/g43/g43dis.htmlĐây là hình ảnh SVT-40, tuy nhiên ảnh xấu quá. Các bạn có thể thấy, Piston chén cup piston, piston rời lùi ngắn mà LWRC đang thuê cửu An quảng cáo rầm rĩ chính có cụ tổ là đây, piston SVT-40. Có điều, đến cả bố đẻ là piston AR-18 mà piston LWRC còn không nhận thì sao nhận cụ tổ (
). Piston AR-18 bị như vậy cũng vì nó không chịu nhận cha nó là piston G43 Đức Phát Xít, nó dám đổi tên cái "cylinhder" thành "cup piston" để ra vẻ ta đây không phải con ông (
).
G43 lại chít phéng đi rùi, mà trước khi chít đánh bố đẻ SVT-38 tơi bời khói lửa (
). Số phận SVT-38, SVT-40 thật là đau khổ, đẻ ra cả dòng giống bất hiếu. Mở ngoặc là G43 giống y như đúc gần toàn bộ SVT-40 nhé chứ không phải chỉ piston. Điểm khác nhau duy nhất của SVT với G43 là nút điều chỉnh khí và đầu nòng tháo rời được của SVT. Thiết kế này có từ trước đó 20 năm để tiện điều chỉnh khí mà vẫn dễ gia công trong điều kiện cực kỳ khó khăn.
http://www.surplusrifle.com/svt40/rifle/hs.aspkhóa nòng G34 sao lại của SVT-40 và được dùng cho EM-2.
http://www.gunpics.net/german/g43/g43dis.htmlhttp://inloc.ru/content/view/177/2/http://w.kalash.pp.ru/index.php?paged=2http://www.airforce.ru/history/romanov/chapter3/page3.htmhttp://www.nvkz.kuzbass.net/michael/raznoe/Dp.htm