Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:38:49 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Căn cứ quân sự Cam Ranh  (Đọc 532472 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #520 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 07:27:04 am »

(tiếp)


Quần đảo Dừa của tàu cứu hộ “Chumikan”. 1982-1983


Кurotchkin А.М., Shadrin V.Е.
"Khu vực cấm tàu thuyền qua lại.
Lịch sử các chiến dịch thám hiểm bí mật",
NXB "Sách quân sự", 2008
Trích các chương trong sách


Tên lửa mang 2 tầng hạng nhẹ KOSMOS-3M. Máy bay quỹ đạo "Spiral".

Ai trong chúng ta thời thơ ấu không mơ ước về những cây cọ, những đại dương và những đảo dừa? Đối với "Chumikan" những hòn đảo đã trở nên hoàn toàn thực tế. Chúng đã trở thành đỉnh cao vinh quang, trang thú vị nhất trong lịch sử của con tàu.

Những năm bảy mươi của thế kỷ trước đặc trưng bởi thực tế là cả hai chương trình không gian của Liên Xô và Mỹ đã tích cực tìm kiếm những cách thức mới để đi vào vũ trụ. Các tác giả tin rằng Liên Xô đã thành công trong việc không bị cuốn vào cuộc chạy đua công nghệ không gian chinh phục mặt trăng bằng con người, chúng ta chuyển giao vai trò này cho các cỗ máy tự động hóa. Điều này, không nghi ngờ gì nữa, đã xác định hướng phát triển của chương trình chinh phục vũ trụ của chúng ta hơi khác so với người Mỹ. Tuy nhiên, nhiều tư tưởng chung được sinh ra và thực hiện cả ở Mỹ và Liên Xô. Một trong những ý tưởng đó – xây dựng các phi thuyền không gian tái sử dụng nhiều lần. Cả hồi đó và bây giờ, hàng thập kỷ sau, một nhiệm vụ thiết kế như vậy vẫn được các nhà bác học toàn thế giới xem như là biểu hiện cao nhất của khả năng công nghệ của một quốc gia.

Sự phát triển đầu tiên công nghệ sử dụng lại nhiều lần ở nước ta bắt đầu cuối những năm 1960. Đó là khi bắt đầu công việc chế tạo raketoplan không người lái (Bor). Tất nhiên, thời kỳ 1960-1970 đó là  công việc rất bí mật và ngay tại TOGE-5 (ТОГЭ = Тихоокеанская океанографическая экспедиция – ТОГЭ = Hải đoàn tàu thám hiểm hải dương Hạm đội Thái Bình Dương; thành lập năm 1958: TOGE-4, thành lập năm 1962: TOGE-5) hầu như không ai biết về đề án. Bây giờ thì đã rõ Bor là nguyên mẫu máy bay quỹ đạo (орбитального самолёта – ОС – OS- spaceplane) "Spiral", câu trả lời của chúng tôi đáp lại thiết bị vũ trụ X-20 của Mỹ "Dyna Soar" – lúc làm nhiệm vụ trinh sát, lúc đảm nhiệm đánh chặn, khi thì làm máy bay ném bom. Các kỹ sư, của nước ta cũng như của Hoa Kỳ đã thực hiện các bước đầu tiên không đều đặn và thiếu quả quyết trong việc tìm kiếm hướng phát triển tiếp theo của ngành chinh phục không gian và, giống như mọi khi trong lịch sử nhân loại, mục đích quân sự đã đóng vai trò hàng đầu ở đây. Mục tiêu số một - tạo ra một con tàu vận chuyển, còn con tàu sẽ chở những gì sau đó – là vấn đề hàng thứ hai.

Các tác giả muốn báo trước để người đọc khỏi lẫn lộn giữa hai đề án khác nhau của Liên Xô, "Bor" và "Buran". Tất nhiên, ngành công nghiệp không gian phát triển trong phức tạp, đôi khi khó có thể nói ai là người đầu tiên đề xuất ý tưởng này hay nọ, ai là người đầu tiên thực hiện nó. Tuy nhiên, có một sự tách biệt rõ ràng về các hệ thống tên lửa-vũ trụ ấy, cả về mặt chủ trương – nghiên cứu, cả về  mục đích chung cuộc của nó. "Buran" là một hệ thống đắt tiền hơn, chắc chắn là như vậy, nó được coi là ưu tiên hơn trong nội bộ giới tướng lãnh, tổng công trình sư và tổng bí thư. Rất nhiều các sản phẩm tồn dư trong các phòng thí nghiệm khác đã được sử dụng tích cực trong thiết bị này. Chính như vậy mà nổi lên vấn đề, khi nào cần không phải chỉ là chế tạo một lớp vỏ cách nhiệt cho "Buran", mà còn phải thử nghiệm nó trong một chuyến bay thực sự. Lớp vỏ bọc này không đơn giản: mỗi khoang của tàu chịu một tải nhiệt khác nhau, còn phần mũi và đường biên bao cánh cần phải có kết cấu chịu nhiệt cao nhất làm từ một loại vật liệu composite đặc biệt.
Một trong những giai đoạn thử nghiệm hệ thống là thử nghiệm trên mô hình thiết bị bay quỹ đạo trong không gian Bor-4, thử nghiệm này phải xác nhận được hiệu quả làm việc của vật liệu bảo vệ chống nhiệt trong một chuyến bay thực sự theo một quỹ đạo gần với quỹ đạo của "Buran". "Bor" và "Buran" giống nhau trong nhiều điểm, đặc biệt là đường viền của phần mũi và thân dưới.

Bor-4 là một thiết bị thử nghiệm không người lái, là bản sao thu nhỏ của máy bay quỹ đạo "Spiral" với tỷ lệ 1:2. Thân dài 3,859 m, sải cánh 2,8 mét (ở vị trí trung gian mở của bản consol cánh), trọng lượng xuất phát khoảng 1450 kg, trọng lượng trong quỹ đạo 1074 kg và trọng lượng sau khi trở về 795 kg. Thiết bị bay này được trang bị một tổ hợp máy đo đạc và hệ thống điều khiển sử dụng động cơ phản lực và bản cánh nghiêng kiểu consol. Nó được lên kế hoạch phóng dưới mã số "Kosmos-1374". Thiết bị bay được đưa vào quỹ đạo gần trái đất bằng tên lửa đẩy K-65M-RB5 (К-65М-РБ5: một biến thể của tên lửa hạng nhẹ hai tầng "Kosmos-3M" -"Космос-ЗМ") từ bãi phóng Kapustin Yar và phải thực hiện đủ một vòng quay quanh trái đất (виток) ở độ cao khoảng 225 km.

Các sự kiện ngày 03 tháng 6 năm 1982 có lẽ là một trong số những va chạm đầu tiên trong công cuộc chinh phục vũ trụ của các kẻ thù tiềm năng của chúng ta và Liên Xô. Trước đó nhiều việc không như vậy: các cuộc phóng tên lửa là bí mật, nhưng theo kế hoạch, mọi người đều biết, trừ các công dân thường của chúng ta. Bây giờ, tại Ấn Độ Dương tập trung rất nhiều vấn đề: chính sách quốc gia về giải trừ quân bị, trên tuyên bố và hoạt động thực tế, viễn cảnh việc bị vượt qua trong không gian vũ trụ và cơ hội để có được một "bất ngờ từ kẻ thù tiềm năng" - thuật ngữ bây giờ đã bị lãng quên, chúng ta dùng ám chỉ Hoa Kỳ. Mức độ tập trung của các lực lượng hải quân và không quân rất quy mô. Về phía chúng ta, có sự tham gia của một số tàu chiến và tàu biển của các bộ ngành khác nhau, "Phi hành gia Viktor Patsayev" và "Phi hành gia Georgy Dobrovolski", SKR và, tất nhiên, KIK "Chumikan". Nhiệm vụ của KIK - tiếp nhận và truyền các số liệu đo đạc từ xa về bãi phóng và tiếp theo tham gia vào hoạt động tìm kiếm - cứu hộ. Gánh nặng chính của các hoạt động tìm kiếm đặt lên các tàu của Lữ đoàn tàu cứu hộ số 3 Hạm đội Biển Đen với các máy bay trực thăng Ka-25 trên hạm: PSK "Absheron", "Donbass", "Yamal". Chỉ huy hoạt động tìm kiếm và cứu hộ của các tàu lữ đoàn này là đại tá hải quân Yuri Gomon.

Tất cả có bảy tàu từ phía chúng ta hoạt động trong bán kính vài trăm dặm. Thực hiện chức năng "giám sát" là các máy bay Úc loại tuần tra biển P-3C "Orion" từ căn cứ Williams của không quân Hoàng gia Úc (RAAF - base Williams) với các phi hành đoàn thay phiên và máy bay trực thăng trên hạm.

.......
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Mười, 2011, 07:27:06 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #521 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2011, 10:02:23 pm »

(tiếp)


Cocos Islands thuộc Úc.

"Kosmos-1374" tiếp nước ở điểm 560 dặm cách quần đảo Cocos: nó lượn trong một quầng lửa plazma từ không gian khí quyển dày đặc xuống đến chiều cao 4 km, buông dù và hạ xuống mặt sóng. Phần phía trên thân Bor-4 sau khi tiếp nước thì bình-phương vị giác hình nón được thổi khí bung lên và trên đầu chóp nón có đèn nhấp nháy. Nó làm tăng tính nổi của thiết bị bay, và đẩy lộ hẳn ra bên ngoài anten của hệ thống tìm kiếm. Anten hình nón của pha vô tuyến dẫn đường trên mặt sau của thiết bị bắt đầu phát sóng vô tuyến vào không trung chỉ dẫn vị trí của nó. Nhưng sai số của điểm hạ cánh xuống mặt nước so với vị trí tính toán là gần 200 km! Cuộc tìm kiếm thiết bị của chúng ta được cả các thủy thủ chúng ta và người Úc khẩn trương tiến hành. Lần này, vinh dự đã bỏ qua "Chumikan" - nó không phải con tàu đến đầu tiên , nó cũng không phải là người ngắt hệ thống tự hủy BOR.

Trong giai đoạn thứ hai nó chỉ làm nhiệm vụ yểm hộ cho chiến dịch đó. Mọi thứ với nó vẫn còn ở phía trước. Nhưng đây là nhiệm vụ không dễ dàng. Nhiều người lưu ý rằng thực tế rất có khả năng thiết bị bay bị đối thủ tiềm năng đánh cắp. Thiết bị bay đã được PSK "Yamal" (thuyền trưởng PSK trung tá hải quân Victor Chupakov) vớt lên mà không có bất kỳ thiệt hại nào. Tất cả các thuyền viên trên các con tàu đã hành động hoàn hảo, các con tàu này đã định được phương vị đi đến điểm mô hình hạ cánh, tính toán ra theo vết plazma cháy trên quỹ đạo và vị trí tiếp nước và trong khoảng thời gian không nhiều hơn một giờ kể từ khi tiếp nước đã đưa được nó lên tàu. Đó là một thành công.

Gần một năm trôi đi. Có vẻ như, thủy thủ đoàn "Chumikan" đề án 1130 được "nghỉ ngơi" trong khoảng giữa năm 1982 và 1983, nó đảm bảo hai chiến dịch cho "Saliout-7" rồi về đứng bình yên trong căn cứ và trong nhà máy sửa chữa tàu biển SRZ-49 tại vịnh Sendevaia (Cá Trích). Trong khi đó "Malysh" - con tàu đề án 1128 - "cày ải", còn nó, đã có kinh nghiệm làm việc với Bor, chờ đợi lệnh đặc biệt.

16 tháng 3 năm 1983 KIK "Chumikan" được tái sử dụng để phục vụ việc phóng Bor-4. Một lần nữa khu vực tiếp nước được chọn là Ấn Độ Dương - quần đảo Cocos Islands. Bor-4 lần này được đặt tên là "Kosmos-1445". Trong chuyến bay này, làm công tác đảm bảo là NIS "Phi hành gia Vladislav Volkov", "Phi hành gia Pavel Belyaev", và vẫn ba tàu cứu hộ trước của Hạm đội Biển Đen. Việc đảm bảo an ninh quân sự được trao cho một tàu SKR thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Học được kinh nghiệm đã qua, các tàu được phân tán rộng hơn. Chiến dịch này dự tính diễn ra trong một thời gian dài và một tàu chở dầu của đội tàu đảm bảo Hạm đội Thái Bình Dương đã được gửi đến khu vực này để đảm bảo việc tiếp nhiên liệu cho các tàu làm nhiệm vụ. Về phía Úc chỉ có một vài tàu và máy bay tham gia. Đặc biệt, hoạt động tích cực nhất là HMAS "Moresby" và các máy bay trinh sát "Orion".


HMAS Moresby năm 1965 gần Indonesia.

Nhưng lần này KIK "Chumikan" thực hiện một nhiệm vụ kép: bên cạnh việc thực hiện các đo đạc quan trắc theo quy định và truyền tải thông tin, nó là tàu tiếp cận gần nhất vị trí thiết bị vũ trụ tiếp nước. Trên tàu đặt trụ sở bộ tham mưu tìm kiếm. Sau khi phát hiện ra thiết bị vũ trụ, một chiếc trực thăng từ trên tàu "Chumikan" cất cánh, bảo vệ BOR vừa tiếp nước tránh những người khách tò mò cho đến khi PSK "Yamal" xuất hiện. Và chính xác là như sau: ở bên ngoài vùng lãnh hải của mình thì bất kỳ tàu nào cũng có quyền vớt vật nổi này. Máy bay trực thăng bay treo trên điểm rơi và, nếu như không cố gắng dọa nó, "Orion" sẽ không bay đi. Chính thời đó KIK "Chumikan" đã lộ sáng trên các trang báo nước ngoài. Có rất nhiều bức ảnh chụp tàu, BOR, và toàn bộ chiến dịch. Các bức ảnh đầu tiên về con tàu siêu bí mật này đã xuất hiện trên báo chí, và do đó, công khai thừa nhận một cuộc đối đầu giữa hai cường quốc trong một mức độ kỹ thuật lớn hơn, tinh vi hơn và chi tiết hơn. Tiếng đồn trong giới quân sự về BOR khá lớn. Không ai trong số những kẻ thù của nước ta có thể tưởng tượng được mức độ phát triển của công cuộc chinh phục không gian như thế, và không biết những gì sẽ diễn ra tiếp theo.

Đây là tạp chí Mỹ "Scientific American" bình luận về chuyến bay: "Một sự bổ sung vào tổ hợp các phương tiện vũ trụ của Liên Xô là việc sử dụng tàu con thoi cỡ nhỏ sử dụng nhiều lần. Các quan chức Liên Xô chưa thừa nhận thực tế là Liên Xô đã có máy bay kiểu như vậy". Đó là một sự thách thức.

Phóng "Buran". Năm 1988


“Buran” trên lưng AN-225.

Cuối những năm 1970, Liên Xô và Hoa Kỳ đều nghiêm túc tập trung vào việc chế tạo các tàu con thoi sử dụng nhiều lần, loại tàu được công nhận là bước phát triển vang dội của kỹ thuật vũ trụ ứng dụng trong quân sự. Toàn bộ ngành công nghiệp của nước ta từ điện tử, toán học đến luyện kim được tập trung vào những công nghệ này. Các tác giả tin rằng mức độ chất lượng của chuyến bay duy nhất của tàu con thoi "Buran" của chúng ta thì Hoa Kỳ vẫn chưa đạt được. Từ góc nhìn thể thao, chiến thắng ở cấp độ áp dụng công nghệ, chất lượng các tính toán cũng như các thuật toán vẫn thuộc về chúng ta, những người chạy đua khác còn phải chạy ít nhất cả cuộc đời vòng quanh sân vận động.

........
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Mười, 2011, 10:21:23 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #522 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2011, 12:21:42 am »

(tiếp)


Một chút lạc đề sang lý thuyết. Tên lửa đẩy sử dụng một lần (ракеты-носители) - phương tiện vận tải truyền thống để đưa tải vào không gian. Cấu trúc hợp thành của phương tiện vận tải vũ trụ được bổ sung vào những năm 1980. Tàu không gian con thoi "Space Shuttle". Với sự vận hành của tàu con thoi, các chuyên gia Mỹ đề nghị từ bỏ việc sản xuất và sử dụng tên lửa đẩy dùng một lần. Tuy nhiên, thực tế sử dụng ít hơn đáng kể so với kế hoạch dự kiến, nhịp độ phóng "Space Shuttle" (25 lần trong 6 năm thay vì 40-60 lần một năm theo kế hoạch) và chi phí cao của một lần phóng (khoảng 100 triệu USD) trong khi nhu cầu rất lớn phải phóng các vệ tinh của Mỹ đã dẫn đến việc sửa đổi các kế hoạch ban đầu. Và mặc dù việc sản xuất các tên lửa mang sử dụng một lần vào thời điểm đó ở Mỹ đã được quay trở lại, họ vẫn tiếp tục cho sử dụng song song phương thức đó cùng với "Space Shuttle" - ba phần tư lần phóng tiến hành bằng tên lửa dùng một lần.


Trước chuyến bay cuối cùng của "Challenger". 7 thành viên, trong đó có: 2 phụ nữ, 1 người Nhật, 1 người da đen.


Phút định mệnh.Giây thứ 73 của chuyến bay STS-51-L (at 11:38 am EST (16:38 UTC), ngày 28 tháng 1 năm 1986, bờ biển Đại Tây Dương, miền trung Florida.


Vòng ngăn (O-ring) của bộ tăng tốc nhiên liệu rắn (SRB): thủ phạm trực tiếp dẫn đến thảm họa (trên hình: B và C).

Thảm họa "Challenger” tháng 1 năm 1986 đã đẩy nước Mỹ tới việc thiếu trầm trọng phương tiện đưa tải trọng vào quỹ đạo. Trong thời gian này, để phóng các vệ tinh của Mỹ đã phải xem xét việc sử dụng tên lửa đẩy "Ariane" của Tây Âu và ngay cả những chiếc tên lửa mang của Trung Quốc. Và trên "Shuttle" - chỉ những tải trọng vượt quá khả năng hiện có của tên lửa đẩy hoặc cần bảo trì trên quỹ đạo hay phải mang trở về Trái đất.

Trái ngược với Mỹ, hệ thống sử dụng nhiều lần "Energya-Buran" được xây dựng nên và chứng tỏ ngay khía cạnh chất lượng rất mới và rất quan trọng – khả năng bảo trì và đưa trở về Trái đất của các vật thể nặng và cồng kềnh. Đó là do hệ thống này được bao gồm các tàu quỹ đạo có cánh và có người lái. Để đưa vào không gian tải trọng có ích "thông thường" chúng ta có tên lửa đẩy giá rẻ dùng một lần. Hơn nữa, ngay từ khi bắt đầu phát triển, chương trình đã dự kiến rằng tên lửa đẩy "Energya" trong hệ thống này chỉ là một mô-đun sản phẩm cơ bản. Điều này cho phép với các cải tiến nhỏ chi phí thấp tạo ra được các loại phương tiện mới để đưa các tải trọng khác nhau lên không gian.

Sự khác biệt về nguyên tắc là hiển nhiên. Theo quan điểm khối lượng lớn hơn và tài nguyên nhỏ hơn của các vệ tinh ứng dụng cho mục đích trong nước, tại Liên Xô đã triển khai không chỉ một xê ri, mà là cả một số lượng rất lớn các loại tên lửa đẩy khác nhau.

Chi phí trên trời của vận tải trong không gian vũ trụ bắt đầu giảm, mà độ tin cậy – tăng lên. Kết quả là, đến giữa những năm 1970, Liên Xô đã tập hợp được các tàu vận chuyển vũ trụ (космических носителей), cho phép giải quyết trên các quỹ đạo gần trái đất và các tuyến liên hành tinh bất kỳ vấn đề khoa học và thực tế có tính chất quan trọng sống còn nào. Nghiên cứu của các viện khoa học quân sự và dân sự cho thấy, tàu con thoi không gian tái sử dụng chỉ đạt hiệu quả ở một điều kiện xác định - số lượng hàng hóa cần mang từ Trái đất vào không gian là lớn và rất lớn.

Các tác giả muốn thu hút sự chú ý của bạn đọc vào tên lửa đẩy dùng một lần, mà theo ý kiến của nhiều khoa học gia rằng, do kết hợp được hài hòa các yếu tố năng xuất - giá thành - tải trọng sẽ một thời gian dài nữa vẫn là phương tiện chính phóng thiết bị vũ trụ.

Tại lữ đoàn, sự tồn tại của một đối tượng bí mật như vậy người ta đã biết từ lâu, mặc dù cố gắng không lớn tiếng về chuyện đó. KIK "Chumikan" đã tham gia thử nghiệm các mẫu thử, mà chúng ta gọi dưới cái tên Bor. Sau các thử nghiệm này, "Chumikan" đã lọt vào vòng ngắm của báo chí phương Tây. Một trong những tác giả của cuốn sách này tại một trong các khóa đào tạo ở Severodonetsk tình cờ ở giữa một nhóm các chuyên gia, họ bong gió ý rằng họ đang làm việc tại chương trình này.


Tàu con thoi đầu tiên "Columbia" hạ cánh trên hồ muối cạn Roger tại căn cứ không quân Edwards ngày 14 tháng 4 năm 1981.

Phần khó nhất trong đồ án lý thuyết là một sự đáp ứng phù hợp đối với việc hạ cánh với độ chính xác đòi hỏi cao: cộng hoặc trừ 30 m. Người Mỹ đã may mắn - họ có một bình nguyên lớn tại Salt Lake – đáy của một hồ muối cũ trước đây có chiều rộng và dài hàng km. Bạn hãy ngồi xuống và yên tâm không phải quá lo lắng, rằng mình sẽ bị trật. Họ tự cho phép mình giải quyết vấn đề hạ cánh "Shuttle" trên bình nguyên đó chính xác đến cấp cây số. Ở Liên Xô không có sự thoải mái như vậy. Chúng ta cần đảm bảo một sự phù hợp với độ chính xác không quá 3 m sang hai bên và 30 mét tới - lui. Tàu quỹ đạo đã được nhận mã 11F35.

Sơ đồ cơ động trước hạ cánh của “Buran”.


Đường ống tính toán quỹ đạo chuyến bay thứ nhất của "Buran" trên phân đoạn lượn vòng vào tuyến hạ cánh và hạ cánh (thể hiện toàn bộ đường CHC, gồm cả đường băng an toàn bằng đất nện - 259 m từ mỗi mặt mút:



1 - "điểm khóa" Н=4км; 2 - khu vực tính toán dẫn trên độ cao Н=4 км; 3 - khu vực dự kiến tiếp xúc với đường CHC; 4 - khu vực dự kiến các điều kiện bắt đầu cho phép; 5 - khu vực tính toán tiếp xúc đường CHC trong chuyến bay thứ nhất; 6 - quỹ đạo chuyển động của "Buran" trong chuyến bay thứ nhất; 7- điểm tiếp xúc đường CHC trong chuyến bay thứ nhất; 8 - khu vực dừng tàu con thoi trên đường CHC; КPB - đường băng an toàn đất nện ở đầu mút cuối chiều dài 50 m.


Khu vực các điều kiện bắt đầu cho phép tàu vũ trụ đi vào bầu khí quyển (ODNU-ОДНУ).
1 - ОDNU; 2 - tuyến tính toán (ngắm) dẫn trên chiều cao H=100 км; 3 - các biên giới khu vực tính toán của quỹ đạo chuyến bay từ ODNU dự tính vào khu vực sân bay Baikonur; 4 - quỹ đạo hạ (về Trái đất) và hạ cánh trong chuyến bay thứ nhất.

Đi vào bầu khí quyển từ độ cao Н=100 км trong chuyến bay thứ nhất diễn ra trong những điều kiện sau:
•    tốc độ bay                                     27330 км/h;
•    góc nghiêng của quỹ đạo                        -0,910;
•    điểm vĩ tuyến địa lý khi vào                       14,90;
•    điểm kinh tuyến địa lý khi vào                   340,50;
•    tầm xa đến đường CHC                          8270 км.


Vì vậy, khi KIK "Marshall Nedelin" vào đầu mùa thu đáng chú ý trên, ngày 05 tháng 10 năm 1988 đi ra biển, gần như mọi người đều biết đi đâu và để làm gì, mặc dù mức độ bí mật vẫn còn rất cao. Mặc dù vậy với thủy thủ đoàn, chuyến đi biển này không phải không bất ngờ - gần như cả năm 1988 sau khi sửa chữa tại nhà máy "Dalzavod" chúng tôi đã không ra khỏi đại dương. Thủy thủ đoàn đã tham gia vào các cuộc phóng các vệ tinh, đảm bảo liên lạc cho các phi hành gia, đã trải qua hai đợt công tác rất quan trọng về các tên lửa "Skalpel" và "Sa-tan". Chuyến đi tới điểm đảm bảo cho tàu "Buran" khá dễ dàng, mọi thứ xảy ra rất điển hình với một thủy thủ đoàn có kinh nghiệm. Chỉ có điểm gợi nên sự kinh ngạc – khá xa về phía Nam Thái Bình Dương và khá xa về phía Đông của New Zealand, các vùng biển đó, cho đến hôm nay chưa được đặt tên. Bản đồ biển rất rõ ràng – biển trắng như tờ, có vài dòng nhắc đến chuyến viếng thăm những nơi ấy 100 năm trước đây. Chúng tôi hiểu rằng các nhà phát triển tàu "Buran" đã cố gắng đưa quỹ đạo chuyến bay tránh xa nhất đến mức có thể khỏi tuyến đường hàng không quốc tế. Dù sao, ngày 25 tháng 10, tàu "Marshall Nedelin" đã chiếm lĩnh xong nơi quy định.

.......
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Mười, 2011, 12:02:55 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #523 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2011, 10:14:51 am »

(tiếp)


Bản đồ hải trình chuyến đi số 11 của NIS "KGD".





KIK "Nguyên soái Nedelin" ảnh trên và NIS "KGD" ảnh dưới, chụp cùng thời điểm.

Cạnh "Marshall Nedelin" là đồng nghiệp của chúng tôi trở về từ cuộc thám hiểm Đại Tây Dương "Phi hành gia George Dobrowolski". Chúng tôi không "kết bạn hai nhà", nhưng thật dễ chịu khi vẫn nhìn thấy nhau. Mặc dù việc phóng hoãn đi rồi hoãn lại, chúng tôi vẫn tập trung bắt mực ống, cá mập, còn "Phi hành gia George Dobrowolski" lẳng lặng bỏ đi đến một trong những hải cảng Nam Mỹ.

Đến giữa tháng mười một lại có thông tin về việc tràn nhiên liệu từ tên lửa "Energyia". Chúng tôi chúi đầu "tham mưu con" các phương án: hoặc về nhà, hoặc kẹt ở đây sang đến năm mới. Nhưng thật bất ngờ, ngày 15 Tháng Mười Một có lệnh: sẵn sàng phóng, và trước khi đó lại một lần nữa, "Phi hành gia George Dobrowolski" đến kịp.

..............
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Mười, 2011, 10:31:29 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #524 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2011, 03:15:03 pm »

(tiếp; buran.ru)


Khởi động tổ hợp “Energya-Buran” ngày 15 tháng 11 năm 1988 từ sân bay vũ trụ Baikonur.


Phóng tổ hợp “Energya-Buran”.


Mô hình hóa các giai đoạn và hoạt động động lực cơ bản của chuyến bay.

Sự căng thẳng là nghiêm trọng, tất cả mọi người cùng tham gia làm việc, và những người rảnh được chuyển sang đội dự bị. Các thông số đo đạc từ xa cả hai tàu cùng dong hành tiếp nhận và nhân bản cho nhau. Phải nói rằng, tính theo số lượng các đơn vị và các cơ sở liên quan, sơ đồ đảm bảo chương trình liên lạc của chuyến bay là rất phức tạp. Ví như, "Marshall Nedelin" truyền thông tin lên vệ tinh địa tĩnh-tiếp sức "Raduga", "Phi hành gia George Dobrowolski" - trạm quỹ đạo "Orbit" và vệ tinh truyền tin "Molniya-1". Như mọi khi, những giờ phút trước "Start - 2" bắt đầu, trôi đi vô cùng khổ sở, thời điểm khi đối tượng xuất hiện trong khu vực nhìn thấy của của chúng tôi. Những phút đo đạc lướt qua mà chẳng ai để ý.


Sơ đồ trao đổi thông tin giũa tổ hợp điều khiển trên tàu vũ trụ và tổ hợp mặt đất điều khiển "Buran".

Theo kế hoạch chuyến bay, con tàu "Buran" khi trở về từ quỹ đạo được dự kiến hạ với động tác cơ động cạnh bên để đi vào khu vực hạ cánh khí động, điều phối vòng cơ động trước hạ cánh, tàu được dẫn đến đường băng hạ cánh, bay vào quỹ đạo tiếp cận hạ cánh và hạ cánh. Vì vậy, trong khi hạ và cơ động, tốc độ tức thời của con tàu được kiểm soát và điều khiển, sao cho tốc độ đó là đủ để đưa nó tới sân bay. Máy tính trên tàu, căn cứ theo tín hiệu vô tuyến điều khiển, tính toán ra độ lệch thực tế so với quỹ đạo dự kiến, và tự mình kiểm soát và điều khiển chuyển động của tàu "Buran".


Sơ đồ quỹ đạo bay của "Buran": 1- khởi động; 2 - tách các khối lấy đà tầng thứ nhất; 3 - tách các khối lấy đà tầng thứ hai khỏi "Buran"; 4 - điểm đưa vào hoạt động các động cơ của hệ thống cơ động trên quỹ đạo; 5 - quỹ đạo làm việc; 6 - quỹ đạo hạ cánh.





Hạ cánh.

Các kết quả thu được, sau chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của "Buran" kéo dài hơn 3 giờ trong không gian vũ trụ và trong bầu khí quyển, đã vượt quá mọi dự đoán: độ lệch của chương trình về thời gian tại thời điểm dừng tàu trên đường băng hạ cánh là 1 giây, và độ lệch của tàu so với trục đường băng - chỉ 1,5 m.


Sơ đồ chạy đà của "Buran" tại đường cất hạ cánh sân bay "Yubileinyi".Chỉ thể hiện phần đường CHC bê tông. Khác với đường thẳng vẽ trên hình, quỹ đạo thực tế chuyển động trên đường CHC là một đường cong, giống đường sinusoid với sự "suy giảm" biên độ, do lô gic làm việc của hệ thống điều khiển chạy đà trên thân tàu (càng trước rất bền chắc của con tàu).

Thủy thủ đoàn chúc mừng người lãnh đạo chương trình, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi điện cảm ơn. "Marshall Nedelin" và "Phi hành gia George Dobrowolski," nhanh chóng tăng tốc độ - dự báo thời tiết cực kỳ xấu. Từ tây, từ đông và đông-bắc, các cơn bão đang dồn về. Tránh xa hoặc "xuống đáy" là không thể: đây là vùng xuất xứ các núi băng trôi, lốc xoáy và các loại "rác rưởi" khác. Thuyền trưởng V.F Volkov chỉ ra có một quyết định, có lẽ là duy nhất - kịp thời trượt giữa các cơn lốc. Như các thủy thủ già dặn nói một cách chính xác: Thuyền trưởng có thể chẳng làm gì hàng năm trời ngoài một trường hợp duy nhất, khi anh ta cần phải đưa ra một quyết định đúng!


Quỹ đạo hạ cánh "Buran" chiếu xuống mặt đất, được miêu tả nằm bên trong đường ống tính toán các quỹ đạo có xác suất xảy ra. Các điểm đánh dấu vị trí trên đường bay có ghi chú cao độ chuyến bay tại điểm đó (các ký hiệu quy ước dẫn trong phần nói về thuật toán hạ cánh).


Sơ đồ cơ động trước hạ cánh.
1 - hình trụ tiêu hao năng lượng phía tây; 2 - khu vực chính thức dẫn tại độ cao H=20km khi hướng sang hình trụ tiêu hao năng lượng phía tây; 3 - cũng như trên nhưng với hình trụ tiêu hao năng lượng phía đông; 4 - hình trụ tiêu hao năng lượng phía đông; 5 - hình trụ hiệu chỉnh hướng phía đông; 6 - đường băng cất - hạ cánh; 7 - hình trụ hiệu chỉnh hướng phía tây; 8 - đường bay theo quỹ đạo của tàu vũ trụ quỹ đạo Trái đất; AH - đường xoắn ốc mép gấp lên; HE - đường xoắn ốc mép gấp xuống; EC - đoạn tiếp xúc hình trụ điều chỉnh hướng; CG - cung bao hình trụ điều chỉnh hướng; GK - đoạn thẳng đích cuối cùng; KT - điểm khóa; Đường màu đỏ biểu diễn quỹ đạo lượn tiếp cận trước khi vào đúng tuyến hạ cánh trong chuyến bay đầu tiên.


Tình thế trên biển rất căng thẳng: bão xoáy trên cầu điều hướng, thổi bay toàn bộ theo chiều ngang nó quét qua, tất cả những gì không chằng buộc cố định đều bị phá hỏng hoặc quăng mất. Một đợt sóng đã bẻ gẫy cột buồm mũi. Mọi người trên tàu hầu như không dịch chuyển đi đâu được. Không hề phóng đại, con tàu dường như treo trên đầu sợi tóc của thần chết. Một sự cố nhỏ trong đội máy tàu (như đã xảy ra một năm sau khi ở quần đảo Fiji), và toàn bộ con tàu sẽ không ai sống sót. Mặc dù tất nhiên vẫn có, diesel dự phòng, nguồn điện dự phòng như V.F.Volkov đã tính trước. Và mọi người: những thủy thủ giàu kinh nghiệm và can đảm. Đôi khi con tàu treo tại chỗ hàng ngày đêm liền trong bóng tối mịt mùng!


Núi băng trôi (Iceberg A22A in the South Atlantic Ocean) trên Nam Đại Tây Dương, hiểm họa của các con tàu thám hiểm.

Việc tính toán của các nhà máy đóng tàu trong nước là rất đáng tin cậy: sau ba ngày bị quần đảo tơi bời - danh dự và niềm tự hào của hạm đội đã là người chiến thắng!

Theo tướng Vladimir Evghenevitch Gudilin, người lãnh đạo công tác chuẩn bị và phóng tên lửa đẩy "Energyia", trong chương trình "Buran", qua thời gian 18 năm, đã có 1 triệu 2 trăm ngàn người tham gia. Và tôi cũng đã ở đấy ...

Ngày 12 Tháng Năm năm 2002, vào khoảng 9 giờ 40 phút sáng, mái nhà tổ hợp lắp ráp - thử nghiệm MIK - 112, nơi lắp ráp các thành phần của hệ thống "Energiya-Buran", bị sập. Vụ tai họa giết chết tám người làm việc và chôn vùi cả "Buran".


Mô tả chi tiết quỹ đạo chuyển động thực tế tàu vũ trụ trên quỹ đạo trái đất "Buran" 15.11.1988 theo số liệu đo đạc quỹ đạo của hệ thống "VYMPEL".
.......
« Sửa lần cuối: 23 Tháng Mười, 2011, 01:22:00 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #525 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2011, 12:56:50 am »

(tiếp)


Đô đốc hạm đội V.N.Tchernavin
(Адмирал флота В.Н. Чернавин)
Nguyên Tổng tư lệnh cuối cùng Hải quân Xô Viết
Nguyên Tổng tư lệnh đầu tiên Hải quân CHLB Nga


Tập san kỹ thuật - quân sự “Bão tố” của CHLB Nga số 6 năm 2000
(Военно-технический альманах «Тайфун» №6/2000 (25))


<a href="http://www.youtube.com/watch?v=SNnOc0r7lsQ" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=SNnOc0r7lsQ</a>

Chiến dịch “Atrina”
(Операция «Атрина»)




Chúng ta đã làm tất cả các biện pháp có thể để giảm bớt sự ngạo mạn ở những người quá thừa thãi đặc tính đó. Và chiến dịch sẽ được thảo luận dưới đây, được soạn ra và tiến hành, không phải để cảnh báo đùa cợt với Lầu Năm Góc và gây ra chất vấn tại Quốc hội Hoa Kỳ. Tôi không biết người Mỹ gọi cuộc hành quân cơ động của chúng ta như thế nào, nhưng trong các văn bản chính thức của chúng ta, chiến dịch hoạt động này diễn ra dưới tên mã "Atrina" .* [* Lưu ý. tác giả. "Atrina" – một từ nhân tạo, nó không có trong bất kỳ từ điển nào. Chúng tôi không muốn thậm chí có một nghĩa bóng nào đó của từ mã này nói được điều gì về chiến dịch đã được khai thác. Theo nguyên tắc này, người ta đã đặt tên gọi cả cho một giai đoạn khác của nó - "Fermatsit", và v.v.]

Nó được nghĩ ra khi tôi đang chỉ huy Hạm đội Biển Bắc, còn việc chuẩn bị để thực hiện nó bắt đầu ngay khi tôi vừa được phê chuẩn làm Tổng tư lệnh Hải quân Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Thế nhưng vấn đề sẵn sàng về kỹ thuật, tính đơn trị của thủy thủ đoàn một số tàu không cho phép tiến hành nó ngay lập tức. Phải hoãn nó đến đầu năm 1987.

Ý nghĩa của "Atrina" là gì? Người Mỹ đã quen với thực tế là các tàu ngầm của chúng ta luôn được đưa ra khu vực phục vụ chiến đấu - mà trước hết là Bắc Đại Tây Dương và Địa Trung Hải - trong cùng một hướng với độ lệch nhỏ, hoặc là giữa các đảo Faeroes và các đảo của Scotland, hoặc giữa Iceland và Greenland. Vâng, rất khó tìm thấy con đường biển nào khác có điều kiện đi biển tối ưu (tôi không nói về mặt chiến thuật của sự vật) dẫn từ bờ bán đảo Kola (Kolskii) tới biển Địa Trung Hải.




Quần đảo Faroe

Vì vậy, sau nhiều năm chúng ta thực hiện nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, lực lượng chống ngầm của NATO đã học được cách đánh chặn tàu ngầm Liên Xô trên các tuyến đường biển triển khai chính. Chúng tôi đã phải tìm và kiểm tra trong thực tế khả năng làm thế nào triển khai các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của mình mà không lộ bí mật, đồng thời dạy bài học nhẹ nhàng cho những "kẻ thù tiềm năng" tự phụ biết rằng nếu cần thiết chúng ta vẫn có thể giáng đòn tấn công đáp trả.

Sự thành công của cuộc biểu dương này ngay lập tức sẽ ảnh hưởng đến giọng điệu tại các cuộc đàm phán quốc tế, mà trong nửa sau của những năm 198x người Mỹ đã theo đuổi xu hướng trong khi gây áp lực ngoại giao mạnh mẽ, vẫn tăng cường củng cố hạm đội và thỉnh thoảng giở “trò chơi cơ bắp", nói cách khác, chúng ta cần phải đặt "chính sách tàu ngầm tuần dương" đáp trả "chính sách ngoại giao pháo hạm" một cách đích đáng.

Sự thành công của chiến dịch này làm tăng giá trị và uy tín quốc tế của Hải quân chúng ta lên rất nhiều. Các nhà chiến lược NATO cần phải thấy rằng với sự ra đi của cựu Tổng tư lệnh - Đô đốc hạm đội Liên bang Xô Viết S.G.Gorshkov, người đã làm rất nhiều việc cho hạm đội và đưa các tàu của chúng ta tiến ra các khoảng không gian đại dương bao la của thế giới - người kế nhiệm ông sẽ không để mất vị thế đã có, nhưng cũng sẵn sàng tiếp tục xu hướng cứng rắn và độc lập của người tiền nhiệm.

Như vậy, chiến dịch "Atrina", trong một mức độ, đã trở thành cuộc ra mắt trên cương vị Tổng tư lệnh của tôi, nó không thể thất bại trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Lựa chọn của tôi rơi vào sư đoàn tàu ngầm nguyên tử số 33 Hạm đội Biển Bắc, được trang bị vào thời điểm ấy những con tàu hiện đại nhất, được biên chế những sỹ quan – chiến sỹ tàu ngầm có kinh nghiệm nhất. Trên thực tế, đây là đơn vị tàu ngầm hạt nhân lâu đời nhất, biểu tượng của nó - con gấu trắng Bắc cực, bẻ gãy tàu ngầm của đối phương trong nanh vuốt của nó, tự đào tạo cho bản thân và cho các đơn vị khác cũng như cho hạm đội những thuyền trưởng tàu ngầm, đã được tôi luyện trong những điều kiện khó khăn nhất của vùng Bắc Cực.


K-524 giữa biển băng tại Bắc Băng Dương, tháng 8 năm 1984.


....
« Sửa lần cuối: 23 Tháng Mười, 2011, 01:15:19 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #526 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2011, 11:22:32 am »

(tiếp)


Nhưng quan trọng nhất - các thủy binh của sư đoàn này có nhiều kinh nghiệm độc đáo về hợp đồng tác chiến ở Đại Tây Dương, giống như những người được kế hoạch trù tính sử dụng trong chiến dịch "Atrina". Tháng sáu năm 1985 tại dãy đá ngầm New Founland, họ đã tiến hành một chiến dịch có tên mã là "Aport", trong đó có hai mục tiêu chính: phát hiện khu vực tuần tra của các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa của kẻ thù tiềm năng, và xác định các thủ đoạn chiến thuật mới của các lực lượng chống ngầm của NATO.


Đá ngầm New Foundland.

Vấn đề tính tự chủ và khả năng độc lập tác chiến của các thuyền trưởng tàu ngầm trong đại dương luôn luôn làm tôi lo lắng. Ngay khi còn là sư đoàn trưởng, tôi luôn ghen tị nhìn sang các đồng nghiệp của tôi trong quân đội. Các tư lệnh sư đoàn bộ binh cơ giới, tư lệnh sư đoàn xe tăng chính họ tạo ra các trận chiến, tự mình phát triển những phương cách hành động và chỉ huy kiểm soát toàn bộ lực lượng của mình, tức là mặc dù đơn vị nhỏ, nhưng họ là người chủ soái của nó.

Tại Hạm đội Hải quân của chúng ta lại có một hệ thống khác. Chúng tôi, những tư lệnh sư đoàn hải quân trên biển - là "đô đốc chủ soái" chỉ khi ở trong căn cứ và trong phạm vi huấn luyện chiến đấu. Kể từ khi ra khơi, hoạt động của các tàu ngầm được chỉ huy từ Sở chỉ huy hạm đội của mình hoặc từ Moskva - từ Sở chỉ huy trung ương Hạm đội Hải quân Xô Viết.

Tôi đã nghĩ và đang còn nghĩ rằng đó là điều cần thiết, nhưng lại không hoàn toàn có tính thực tế. Trong điều kiện một cuộc chiến tranh hạt nhân trên các đại dương, các chỉ huy đơn vị tàu chiến và các thuyền trưởng dù vô tình hay hữu ý, sẽ có được tự do hành động lớn hơn trong thời bình, do đó họ sẽ phải biết cách độc lập đưa ra quyết định của riêng mình và không sợ làm như vậy. Nói ngắn gọn hơn, họ phải biết chế ngự mối hiểm nguy và nỗi sợ hãi của riêng mình, có lúc không cần đợi mệnh lệnh từ bộ chỉ huy cấp cao, mà trong điều kiện tác chiến điện tử và chế áp điện tử khốc liệt, không phải luôn luôn đến được với con tàu. Ở đây chỉ nói đến chỉ huy quản lý các lực lượng tàu ngầm, còn lực lượng tàu mặt nước có một hệ thống khác.

Tôi chưa hề quên những kinh nghiệm và suy tư của các tư lệnh sư đoàn mình từ xưa, và theo thói quen kinh nghiệm tôi trao trách nhiệm chuẩn bị kế hoạch của chiến dịch trên đại dương này cho bộ tham mưu sư đoàn. Hơn nữa, tôi đề nghị việc chỉ huy các tàu ngầm hoạt động không phải chỉ từ Moskva mà còn từ người sư đoàn trưởng có mặt trong khoang một con tàu ngầm đang ở trên biển.

Nhưng trước tiên hãy dành vài lời về chiến dịch "Aport". Xây dựng kế hoạch là bộ tham mưu sư đoàn 33 cùng người lãnh đạo là tư lệnh sư đoàn - một sư đoàn trưởng trẻ, tràn đầy năng lượng, người thủy thủ tàu ngầm giầu kinh nghiệm nếu so với tuổi đời của mình, đại tá hải quân Anatoli Ivanovitch Shevchenko (hiện là Phó đô đốc). Nhận thức rõ rằng sự thành công của bất kỳ chiến dịch quân sự nào nằm trong tính bất ngờ và sự đảm bảo cho tính bất ngờ đó - bí mật trong huấn luyện chuẩn bị, Shevchenko đã giới hạn chỉ trong một nhóm người chọn lọc và thực hiện một loạt các biện pháp tung thông tin sai lạc. Ngay cả chủ nhiệm ban đặc biệt, người sỹ quan phản gián chuyên nghiệp, cũng không nghi ngờ rằng sư đoàn đang chuẩn bị cho một hoạt động quy mô lớn. Một ngày trước khi các con tàu ra biển, Shevchenko mời trưởng ban đặc biệt ký tên dưới ngày tháng bản viết tay báo cáo của mình về sự kiện bắt đầu chiến dịch.




Biển Sargasso, giới hạn bởi các dòng hải lưu Gulfstream, Canada, North Atlantic, North Atlantic Equatorial. Rìa phía tây của nó là Bermuda. Hệ các dòng hải lưu trên góp phần hình thành vực xoáy cận xích đạo Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Subtropical Gyre).

...........
« Sửa lần cuối: 23 Tháng Mười, 2011, 01:08:54 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #527 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2011, 01:49:13 pm »

(tiếp)



Biểu tượng của Hạm đội Biển Bắc Hải quân Nga.


Các căn cứ của Hạm đội Biển Bắc Hải quân Nga.

- Tôi tìm ở đâu ra cho anh trong một ngày từng ấy người để ủy thác như vậy? - Anh ta rất ngạc nhiên.
Tuy nhiên, đã tìm thấy, và ngày 29 tháng 5 năm 1985 sư đoàn bắt đầu triển khai. Từ Zapadnaya Litsa ra khơi là bốn tàu ngầm đa mục đích: K-299 (đề án 671RTM), K-324 (đề án 671RTM), K-488 (đề án 671RT)  và K-502 (đề án 671RT, RTMK). Tầu ngầm thứ năm, K-147 (đề án 671) - với một hệ thống phát hiện vệt rẽ nước sống tàu mới (theo dấu vết bất thường tương tự) đến từ Gremikha.

Bộ tham mưu hành quân, dẫn đầu là đại tá hải quân Shevchenko đã đến khu vực chiến dịch sẽ hoạt động từ trước (biển Caribbean) - trên tàu trinh sát cỡ lớn BRZK "Lira". Ở phía Đông Cuba, Shevchenko và các sĩ quan của anh ta đã chuyển sang tàu khảo sát hải văn GISU "Kolguev", từ trên boong tàu này, qua đường liên lạc vũ trụ, anh dẫn dắt, sau đó chỉ huy các tàu ngầm nguyên tử.

Chiến dịch bắt đầu ngày 18 tháng Sáu về phía tây dải đá ngầm New Foundland. Hai tàu ngầm nguyên tử di chuyển so le nối nhau theo chiều kim đồng hồ, và hai tàu kia - hướng tới chúng theo chiều ngược lại. Trong vòng đua ngựa gỗ cặp đôi này còn có 4 máy bay hải quân Tu-142M cất cánh từ sân bay San Antonio - Cuba tham gia.

Người Mỹ nhốn nháo. Các máy bay tuần tra chống ngầm bay lên không trung từ căn cứ Brunswick (khu vực Bermuda), Lagens (khu vực Azores) và Greenwood (khu vực Canada). Họ tìm kiếm tàu ngầm của chúng ta ngày cũng như đêm, thực hiện 3-4 phi vụ cho một ngày.

Họ chỉ phát hiện được K-488, lúc đó đang ở tại khu vực Iceland, trên đường trở về.


K-488 đề án 671RT (đơn vị quân đội 95465) tại nhà máy sửa chữa tàu biển "Nerpa" trong vũng Kut, vịnh Olenhia, khoảng 1989.

"Mẻ cá" của chúng tôi bắt được nhiều hơn: K-324 (đề án 671RTM)  có ba tiếp xúc với SSBN và SSGN của Mỹ, tổng thời gian theo dõi chúng đến 28 h. Xuất sắc hơn cả là K-147 (thuyền trưởng - V.V. Nikitin). Thủy thủ đoàn của tàu ngầm nguyên tử này, năm ngày liền theo dõi một SSBN Hoa Kỳ, bám theo vệt rẽ nước của tàu Mỹ. Sau đó, theo mệnh lệnh của Tổng tư lệnh, K-147 (đề án 671), khi đến gần hơn và sau khi bước vào tiếp xúc thủy âm, tiến hành theo dõi trong chế độ sonar thụ động một ngày đêm nữa.
.....
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Mười, 2011, 05:32:57 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #528 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2011, 05:31:49 pm »

(tiếp)

Phải chú ý chú ý đến thời gian (ngày) theo dõi  SSBN Hoa Kỳ một cách thích hợp. Tôi nhấn mạnh điều đó chỉ bởi vì một số "chuyên gia-học giả" vẫn đang cố gắng chứng minh rằng tàu ngầm của chúng ta - vừa "mù dở" vừa "điếc dở", còn tàu của người Mỹ thì ...

01 Tháng Bảy năm 1985 chiến dịch "Aport" đã hoàn thành. Kết quả đã khám phá ra hai vùng tuần tra của SSBN Hoa Kỳ loại «James Madison» (James Madison-class submarine fleet ballistic missile submarine), hai khu vực hoạt động của tàu ngầm nguyên tử đa mục đích Mỹ, cũng như các thủ đoạn chiến thuật của máy bay Mỹ khi tìm kiếm các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đang triển khai trên biển. Tất cả các tàu của chúng ta đã trở về căn cứ một cách an toàn.


USS James Madison (SSBN-627), trang bị tên lửa đạn đạo chiến lược phóng từ tàu ngầm Triden-C4, trên biển.


Cảnh ghép phóng tên lửa đạn đạo chiến lược Triden-C4 từ tàu ngầm.

Khi xây dựng kế hoạch chiến dịch "Atrina" chúng ta có tính đến các kinh nghiệm của chiến dịch  "Aport". Tất nhiên, người phù hợp hơn với vị trí chỉ huy thê đội tàu ngầm như đại tá hải quân A.I. Shevchenko, * [* - một chi tiết thú vị. Năm 1992, các sứ giả của Lực lượng Phòng vệ Ucraina đã thuyết phục phó đô đốc Shevchenko rời khỏi hạm đội Nga về lãnh đạo Hải quân Ucraina. Tuy nhiên, Anatoliy từ chối thay đổi lời tuyên thệ. Suốt cả một thời gian dài, tôi đã và đang biết Anatoly Ivanovich, và một hành động khác ở anh ta tôi chẳng hề chờ đợi] là rất khó tìm thấy. Sỹ quan trưởng ngành hạm đội cấp dưới (Младшим флагманом), như trước kia người ta gọi, hoặc người chỉ huy biên đội tàu ngầm hạng 2 (bao gồm 2 chiếc), đại tá hải quân Ravkat Zagidullovich Chebotarevsky đã được bổ nhiệm làm người chỉ huy thê đội này * [* - Chuẩn Đô đốc Chebotarevsky vào cuối những năm 198x được bầu làm đại biểu nhân dân của các lực lượng vũ trang Liên bang Nga và tích cực bảo vệ lợi ích của Hải quân. Sau cuộc khủng hoảng tháng Mười năm 1993 (tức vụ khủng hoảng giữa phái Tổng thống và phái Quốc hội Nga dẫn đến sự kiện nã pháo vào nhà Quốc hội Nga năm 1993), người thủy thủ giàu kinh nghiệm nhất, người có thể mang lại nhiều điều tốt đẹp cho hạm đội tàu ngầm Nga, tiếc thay, đã bị chuyển sang ngạch dự bị. Tin rất buồn và không thể tin nổi: ở tuổi 47 Chebotarevsky không còn nữa. Ông qua đời ở Serbia, trong một chuyến công tác quan trọng, tháng tư 1994] cũng là một sỹ quan rất đáng tin cậy và có khả năng, mà sau này nhiều năm tôi không chỉ giữ quan hệ tốt, mà còn có sự cộng tác rất hiệu quả cho Hải quân Nga, đặc biệt khi ông là đại biểu nhân dân và làm việc tại Moskva. Thật không may, cuộc sống của ông quá ngắn ngủi và ông đã sớm rời xa chúng ta.

Như vậy, năm tàu ngầm nguyên tử đa mục đích, năm thuyền trưởng, năm đoàn thủy thủ phải nhanh chóng chuẩn bị cho chiến dịch hợp đồng bơi biển thi hành nhiệm vụ vô cùng quan trọng ở bán cầu Tây của địa cầu. Để giữ bí mật công tác chuẩn bị trước mọi dạng trinh sát tình báo của khối NATO, mà chúng tôi - tôi nói đến lực lượng tàu ngầm hạt nhân của Hạm đội Biển Bắc - lại là trung tâm chú ý của các phương tiện tình báo có thể tưởng tượng và không thể tưởng tượng nổi, vì thế tại Sư đoàn tàu ngầm số 33, cũng như trước chiến dịch "Aport", đã tổ chức một hoạt động nghi binh mạnh mẽ. Ngay cả các thuyền trưởng tàu ngầm, chỉ tại thời điểm cuối cùng mới biết được các chi tiết của chiến dịch này, tàu của họ sẽ đi đâu và nhằm mục đích gì.

Cùng với các tàu ngầm hạt nhân, tham gia trong chiến dịch còn có hai chiếc tàu mặt nước với ăng-ten kéo thả linh hoạt "Kolguev" và một sư đoàn hàng không hải quân. Theo kế hoạch, các máy bay sẽ cất cánh không chỉ từ các sân bay bán đảo Kola và trung tâm nước Nga, mà còn từ các sân bay của Cuba.

Cần tổ chức sao cho đạt được sự hiểu nhau rõ ràng của các lực lượng binh chủng khác nhau. Tham gia tích cực vào vấn đề này là Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc, đô đốc I.M.Kapitanets. Không hề nhầm lẫn nếu tôi nói rằng một cuộc huấn luyện chuẩn bị hợp đồng có định hướng chọn lọc kỹ lưỡng như vậy giữa các chỉ huy tàu ngầm và máy bay trong hạm đội chúng ta đến lúc đó còn chưa diễn ra. Đó là một cuộc tập huấn được nghiên cứu và lên kế hoạch tốt ...

Vào đầu tháng ba năm 1987, từ Zapadnaya Litsa chiếc tàu ngầm đầu tiên của thê đội tương lai ra khơi. Sau một thời gian đã định, chiếc thứ hai rời bến tàu, rồi chiếc thứ ba, thứ tư, thứ năm ... Chiến dịch "Atrina" bắt đầu ...


..........
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Mười, 2011, 06:08:33 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #529 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2011, 08:12:04 pm »

(tiếp)



Biểu tượng của sư đoàn tàu ngầm nguyên tử số 33 Hạm đội Biển Bắc Hải quân Nga, một sư đoàn hoàn toàn trang bị các tàu ngầm nguyên tử đề án 671RT, RTM, RTMK là những tàu ngầm đa mục tiêu hiện đại thời điểm đó. Năm 1987 đóng căn cứ tại Zapadnaya Litsa trên bán đảo Kola. Sư đoàn giải thể năm 2001.


Tại Bắc Cực, trong một chuyến đi của K-244.


Đại tá hải quân về hưu V.I.Alikov, thuyền trưởng đầu tiên K-244, người đã cùng con tàu và thủy thủ đoàn tham gia chiến dịch "Atrina".


K-244 đề án 671RTM (RTMK), sư đoàn 33 trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương.

Tôi phải nói rằng các tàu ngầm hạt nhân đi làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu thường hoạt động một mình. Hiếm hơn - chúng đi theo cặp. Còn ở đây gần như toàn bộ một sư đoàn tàu ngầm nguyên tử đã tiến vào đại dương: K-299 (thuyền trưởng trung tá hải quân Kliuev M.I.), K-244 (thuyền trưởng trung tá hải quân Alikov V.I.), K-298 (thuyền trưởng trung tá hải quân Popkov), K- 255 (thuyền trưởng trung tá hải quân Muratov B. Yu), và K-524 (trung tá hải quân Smelkov).


K-298 đề án 671RTM.

Tới "góc nhỏ" - tên các thủy binh biển Bắc vẫn thường gọi bán đảo Scandinavia - sư đoàn vẫn đi theo lối thông thường. Do đó, đối thủ tiềm năng, mà tất nhiên, sự biến mất khỏi căn cứ của năm "chú cá măng" không phải họ không nhận thấy, không quá lo lắng. Chúng đi theo con đường mòn đã quá nổi tiếng - và ok. Các nhà phân tích ở Lầu Năm Góc thậm chí có thể dự đoán "tàu ngầm xô viết" sẽ đi vào khu vực nào trên Đại Tây Dương.


Tuyến chống ngầm của NATO.

Nhưng lần này đó là tính toán sai lầm lớn. Vào ngày đã tính, vào giờ đã định tất cả các "tàu ngầm tuần dương nguyên tử" quay ngoắt "đột ngột". Từ đội hình hành quân tuần tự - trải khá dài trong thời gian và không gian - tập hợp thành thê đội, nhanh chóng chuyển về hướng W. ..


Xuất phát lần lượt.


Vòng qua "ugolok".

Trừ những nhiệm vụ khác, đặt ra cho thê đội này là mục tiêu khám phá tình hình đi lại của tàu ngầm và tàu mặt nước trong khu vực này của đại dương, mục tiêu rất khó hoàn thành được bằng các phương tiện trinh sát hải quân khác. Đi trước một chút, tôi lưu ý: nhiệm vụ này đã được thực hiện hoàn toàn trọn vẹn. Tôi đã nhận được báo cáo về nhiều tiếp xúc với tàu ngầm của Mỹ và Anh, được triển khai trong những ngày đó tại không gian chiến trường Đại Tây Dương.


Ra gần đến điểm tập hợp.


Tập hợp thành thê đội.

Tất nhiên, tàu của chúng tôi không thoát được sự chú ý. Rất đáng lo ngại, khi toàn bộ một sư đoàn tàu ngầm hạt nhân tuần dương của Liên bang Xô Viết với những mục tiêu không ai biết đang di chuyển tới bờ biển nước Mỹ, di chuyển bí mật, và các đồng nghiệp-đối thủ cạnh tranh của tôi từ Lầu Năm Góc đã ném vào cuộc săn tìm thê đội tàu ngầm này hàng chục máy bay tuần biển và lực lượng chống ngầm hùng mạnh.


...và biến mất như trêu ngươi...

Sau này, các thuyền trưởng báo cáo tôi rằng đôi khi không thể nổi lên chiều sâu kính tiềm vọng để vào phiên liên lạc hoặc dương ống RKP để hút không khí vào các bình khí nén áp lực cao. Đó là một cuộc đi săn thực sự với việc sử dụng tất cả các phương tiện săn tìm và phát hiện tàu ngầm. Các đài ra dar và máy tầm phương vô tuyến hoạt động, các đài định vị thủy âm trên tàu mặt nước phát sóng siêu âm sục sạo các vực thẳm trên Đại Tây Dương. Máy bay tuần biển từ các căn cứ và các tàu sân bay quay cuồng trên đại dương suốt ngày đêm, dựng nên các hàng rào chống ngầm bằng sonobuoy, sử dụng tất cả các chế độ của thiết bị tìm kiếm trên hạm: máy đo từ trường, máy tầm phương nhiệt, chỉ thị kế vết sinh học ...
........
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Mười, 2011, 07:29:32 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM