Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Năm, 2024, 09:11:37 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Căn cứ quân sự Cam Ranh  (Đọc 531926 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #480 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2011, 12:17:58 pm »

(tiếp)

Pháo phòng không cỡ nhỏ
 
   

Trên các tàu khu trục đề án 956 trang bị hai khẩu đội pháo phòng không cỡ nòng nhỏ AK-630 (mỗi khẩu đội cho mỗi bên mạn), bao gồm hai tổ hợp pháo và một hệ điều khiển hỏa lực "Vympel".
Pháo 30-mm AK-630 được phát triển vào năm 1974 dựa trên pháo phòng không tự động AO-18 với một blok quay sáu nòng, mà bản thân nó, đến lượt mình, được xây dựng từ pháo lắp trên máy bay. Nhờ đó pháo có tốc độ bắn hơn 4.000 vòng / phút. Để tăng chiều dài, lần lượt các nòng pháo được liên tục làm mát bằng nước từ bên ngoài.
Khối lượng của AK-630 (không có đạn) - 3,8 tấn, khối lượng của đầu đạn (снаряд-shell) - 0,39 kg, phát bắn (выстрел - gunshot) - 0,83 kg, tầm bắn - lên đến 4 km, tốc độ bắn - 4000 phát bắn / phút.


Phát bắn từ pháo hạm. Hình vòng tròn - vết sóng xung kích từ hơi thuốc súng tỏa ra. Tàu trên ảnh là Iowa (BB-61) đang bắn tập mục tiêu gần từ các cỗ pháo 9 nòng 16"/50 và 6 nòng 5"/38 (ru.viki).

Sự xoay của thân súng được thực hiện không phải do dẫn động từ bên ngoài, như thường thấy trong các pháo tự động ở nước ngoài có kết cấu tương tự (pháo tự động của Mỹ cỡ 20-mm «Vulcan» M-61, v.v), mà do năng lượng của khí thuốc súng phát ra luân phiên từ mỗi nòng, cho phép có một cỗ pháo nhỏ gọn nhẹ - với một cơ số đạn chính thức có số lượng 2000, khối lượng pháo vẫn nhỏ hơn khối lượng đạn dược.


Sơ đồ AK-630. Chú thích: 1. Pháo tự động AO-18; 2. Tháp che; 3. Băng đạn; 4. Sàn treo; 5. Cơ cấu hãm khi hành quân; 6. Thiết bị dẫn động điện; 7. Hầm đạn.


Bên tháp ngắm (визирной колонки).


Dẫn bắn cho AK-630 được thực hiện từ xa bằng radar của hệ thống điều khiển "Vympel" hoặc tháp ngắm.
Số lượng tính toán các tên lửa chống hạm «Harpoon» bị bắn trúng bởi một đại đội AK-630 trong thời gian giữa những năm 197x được đánh giá khoảng 0,4-1,0 đơn vị.
Trong khi có các đặc tính xuất sắc của mình, một đại đội gồm hai khẩu đội AK-630, do tính năng tồi tệ của các trạm radar và việc bố trí nó ở một khoảng cách khá xa so với trục hỏa lực, nó đã thua kém về độ chính xác xạ kích trước một khẩu pháo 20-mm «Vulcan / Phalanx» Mk.15 (USA, 1977).

Vũ khí chống ngầm

Vũ khí chống ngầm trên khu trục hạm đề án 956 có thiết bị phóng ngư lôi hai ống 533 mm (ở phần giữa boong trên của tàu, cặp mạn), có thể sử dụng nhiều đạn ngư lôi 533 mm khác nhau, bao gồm cả đạn phổ dụng USET-80 (УСЭТ-80).
So với vũ khí tương tự - đạn ngư lôi MK.48 của Hoa Kỳ - ngư lôi của nước ta có dữ liệu hành trình đặc trưng gần như giống nhau, nhưng nó được trang bị một động cơ chạy điện (электрическая силовая установка- ЭСУ-ESU) - do đó, nó giữ được tất cả các phẩm chất hành trình xuất sắc ở tất cả các độ sâu sử dụng nó chiến đấu.
Bổ sung vũ khí chống ngầm cho con tàu còn có hai dàn RBU-1000, nằm ở phía sau trên thượng tầng (trong khu vực sân CHC). Chúng được thiết kế để tiêu diệt tàu ngầm ở phạm vi gần và độ sâu nông, cũng như sẽ phá hủy các ngư lôi đang hướng đến tàu.

Vũ khí vô tuyến điện tử

Khu trục hạm đề án 956 trang bị radar thế hệ mới nhất phát triển vào những năm cuối 197x. với khả năng phát hiện mục tiêu kích thước nhỏ, độ cao quỹ đạo bay thấp, chẳng hạn như tên lửa chống hạm «Harpoon». Đó là radar dải sóng-cm "Fregat-M", "Fregat-M2" và "Fregat-MA" (từ tàu đóng số 1 đến số 3 gắn radar "Fregat-M", và sau đó - "Fregat-M2", rồi đến "Fregat-MA").

Tổ hợp "Mineral" được sử dụng như một phương tiện chỉ thị mục tiêu cho vũ khí tên lửa hạm có điều khiển. Tổ hợp có cả kênh radar chủ động với khả năng phát hiện mục tiêu mặt nước ngoài đường chân trời và kênh radar thụ động. Ngoài ra, có một kênh chỉ thị mục tiêu cho máy bay trực thăng và máy bay có cánh cố định.
Để phát hiện tàu ngầm và ngư lôi, trên tàu có sonar "Platina-S"được thiết kế vào những năm 197x, và để phát hiện biệt kích ngầm dưới nước - có trạm đặc biệt MG-7.

........
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Chín, 2011, 07:30:34 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #481 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2011, 12:10:53 am »

(tiếp)

Thiết bị năng lượng

Một số sơ đồ nguyên lý tuabin hơi và tuabin khí (Đại bách khoa toàn thư Xô viết)


Sơ đồ tuabin hơi.


Sơ đồ trạm điện tuabin khí chu trình hỗn hợp.


Sơ đồ tuabin khí động cơ một trục chu trình đơn: 1- máy nén; 2- buồng đốt; 3- tuabin; 4- tải.


Sơ đồ tuabin khí động cơ một trục chu trình tái sinh: 1- Buồng hoàn nhiệt hoặc thu hồi nhiệt; 2-máy nén; 3- buồng đốt; 4- tuabin; 5- tải.


Sơ đồ tuabin khí động cơ nhiều trục chu trình đơn có thiết bị phát động lực tự do: 1 - buồng đốt; 2 - máy nén; 3 - tuabin; 4 - tuabin phát lực; 5 - tải. Ghi chú: Mũi tên chỉ hướng tới tổ hợp 2 cấp xoay chiều của động cơ tuabin khí.


Sơ đồ tuabin khí động cơ nhiều trục chu trình phức hợp có công đoạn làm lạnh và làm nóng: 1 - buồng đốt chính; 2 - máy nén áp lực cao; 3 - tuabin áp lực cao; 4 - công đoạn làm lạnh trung gian;
5 - buồng đốt công đoạn làm nóng trung gian; 6 - máy nén áp lực thấp; 7 - tuabin áp lực thấp; 8 - tải.

Ghi chú - Trích công suất từ động cơ tuabin khí thực hiện từ trục rotor áp lực thấp.




Sơ đồ tuabin khí động cơ một trục có trích không khí và trích khí nóng: 1 - buồng đốt; 2 - máy nén; 3 - tuabin; 4 - tải.


Sơ đồ tuabin khí động cơ một trục chu trình kín: 1 - thiết bị làm nguội sơ bộ; 2 - máy làm nóng hoạt chất; 3 - máy nén áp lực thấp; 4 - máy nén áp lực cao; 5 - tuabin; 6 - tải; 7 - máy làm lạnh trung gian.

Khu trục hạm đề án 956 là loại tàu duy nhất thuộc thế hệ thứ ba trên thế giới-có thiết bị động lực là tuabin nồi hơi.
Thiết bị khai thác-sửa chữa hai-trục (REU) của nó bố trí sẵn trong hai buồng máy nồi hơi (МКО). Mỗi khoang đặt một nồi hơi và một tuabin hơi (GTZA) với các cơ cấu hệ thống và cơ cấu bảo dưỡng.
Việc kéo dài việc sử dụng các nồi hơi đầu tiên thế hệ thứ 2 KV-76 trên tàu, do các tham số hơi tính toán cao (64 atm, 450 ° C), đã xác nhận phầm chất sử dụng cao của chúng.
Để tăng hiệu quả kinh tế của nồi hơi, làm giảm trọng lượng và kích thước trong các thiết bị thế hệ thứ 3, đã thực hiện bằng cách chuyển đổi sang nồi hơi áp suất cao với không khí đã được đốt nóng sơ bộ một cách đáng kể. Như kinh nghiệm khai thác với cường độ lớn các tàu có nồi hơi áp lực cao, sự chuyển đổi sang sử dụng loại nồi hơi như vậy trong Hạm đội chúng ta về mặt kỹ thuật và tổ chức là chưa được chuẩn bị.

KTU thế hệ thứ ba đã trở thành hình mẫu xây dựng cho các tàu đóng trong những năm 196x. Tuy nhiên, mỗi thiết bị của các thiết kế tàu khác nhau đều có đặc điểm riêng vốn có của nó. Việc sử dụng các thiết bị nồi hơi áp suất cao so với các thiết bị nồi hơi KV-76 thuộc thế hệ thứ 2 đã cho phép đạt đến một loạt ưu điểm:
     - Khối lượng cụ thể của nồi hơi đã giảm 1,4 lần;
     - Hiệu suất sử dụng (Коэффицие́нт поле́зного де́йствия - КПД) của nồi hơi ở tải trọng tối đa đã tăng 11%;
     - Ứng suất nhiệt trong thể tích buồng đốt tăng 3 lần;
     - Ứng dụng máy quạt tuabin (ТНА- турбонаддувочный агрегат - ) làm giảm nhiệt độ của khí thải xuống mức 100-110 ° C.
Tất cả những điều này đã làm giảm thể tích buồng máy nồi hơi 2 lần đối với 1 tấn hơi nước sản xuất ra, và làm giảm thời gian đầu vào hoạt động của nồi hơi đến 15 phút.  
Những khuyết điểm của nồi hơi áp suất cao là:
     - Giảm nhiệt độ của hơi quá nhiệt ở một phần tải, làm giảm hiệu quả kinh tế thiết bị năng lượng;
     - Tăng cường quá trình ăn mòn bề mặt và giảm tuổi thọ bề mặt chịu nhiệt do ứng suất nhiệt cao của thể tích buồng đốt;
     - Trị số tương đối cao của hệ số thừa không khí ở tải thấp và trung bình của nồi hơi, làm giảm hiệu quả của thiết bị năng lượng.
Máy tuabin hơi bánh răng hai thân có tua bin áp lực cao và áp lực thấp. Tuabin chạy lùi nằm trong thân động cơ máy quạt tuabin (ТНД). Khi chạy tiến, hơi từ động cơ tuabin cánh quạt(ТВД-турбовинтовой двигатель) qua bộ thu đi vào động cơ máy quạt tuabin và tiếp tục đi vào bình ngưng chính.

Để cung cấp điện cho tàu chiến, có hai máy phát điện tua bin hơi nước công suất 1.200 mã lực và 4 máy phát điện diesel dự trữ công suất 600 kW. Các máy phát điện cung cấp cho tất cả các phụ tải cần thiết trên tàu bằng dòng điện xoay chiều ba pha tần số 50 Hz và điện áp 400 V.
Để bù đắp cho sự rò rỉ nước cấp, cũng như cho việc cung cấp nước uống và tắm rửa trên khu trục hạm có hai máy khử muối. Để duy trì hệ thống điều hòa không khí có bốn máy lạnh phun hơi nước làm mát, công suất làm lạnh 300 nghìn kcal / h.
Để đảm bảo cho chế độ đỗ tại chỗ của tàu và khởi động cho các thiết bị năng lượng bước vào làm việc, có thiết bị nồi hơi phụ trợ gồm một nồi hơi phụ trợ công suất sinh hơi 12 tấn / h.

 .......
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Chín, 2011, 06:15:23 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #482 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2011, 06:20:22 pm »

(tiếp)

Bảng 1: Các thông số kỹ-chiến thuật cơ bản của tàu khu trục Xô Viết và tàu khu trục Mỹ



Ghi chú: vận tốc đo bằng hải lý, công suất đo bằng sức ngựa.

Bảng 2



Ghi chú: * cần nhớ tên lửa chống hạm "Moskit" vượt trội "Harpoon" về tính hiệu quả, theo nhiều nguồn đánh giá khác nhau, từ 3 - 3,5 lần.
......
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Chín, 2011, 09:48:01 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #483 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2011, 09:10:24 pm »

(tiếp)

Đánh giá chung về con tàu


Khu trục hạm trang bị vũ khí tên lửa có điều khiển kiểu "Kidd" của Hải quân Mỹ.


Khu trục hạm trang bị vũ khí tên lửa có điều khiển kiểu "Spruance" của Hải quân Mỹ.


Khu trục hạm trang bị vũ khí tên lửa có điều khiển kiểu "Arley Byrke" của Hải quân Mỹ.
      
Đánh giá tàu đề án 956 so với tàu khu trục Mỹ «Spruance» - con tàu mà, để đáp lại nó, khu trục hạm của chúng ta đã ra đời, theo nhiệm vụ thiết kế đã điều chỉnh, có thể kết luận (Bảng 1 và 2) khu trục hạm đề án 956  vượt trội «Spruance» rất nhiều khi thực hiện nhiệm vụ phòng không, cũng như nhiệm vụ tấn công, thua kém về chống ngầm (trong đó, như đã nói, BPK đề án 1155 sẽ giải quyết thay).

Khi so sánh tàu đề án 956 với tàu khu trục Mỹ «Kidd» ưu việt được bảo tồn, nhưng phần nào bị cào bằng trong việc giải quyết các nhiệm vụ phòng không và tấn công bằng vũ khí tên lửa có điều khiển. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng «Kidd» đã được xây dựng thời đó cho Hải quân Iran và "tình cờ" mà nhập vào Hải quân Hoa Kỳ (sau khi chấm dứt hợp đồng vì xảy ra cuộc cách mạng Hồi giáo Iran), do đó nó chỉ có 4 chiếc tàu tất cả mà thôi.* (khu trục hạm kiểu «Spruance» - 31 chiếc).[* chú thích của người biên tập. - Năm 1999, Hoa Kỳ đã có ý định chuyển tất cả bốn tàu khu trục loại «Kidd» cho Hải quân Hy Lạp thuê]  

So sánh tàu của chúng ta với các tàu khu trục Anh, Pháp và Ý đóng thời kỳ 1970-1990 là vô ích, bởi vì khả năng chiến đấu của tàu khu trục đề án 956 ở ngoài các cuộc ganh đua (theo nhận xét chuẩn xác của các chuyên gia, "nó chỉ là con chó con so với con chó săn sói.") Tất nhiên, về một loạt khả năng chiến đấu, "Sarytch" thua kém so với khu trục hạm cuối cùng của Mỹ loại «Arleigh Burke», nhưng chỉ một chút.

Như thế, các khả năng của hệ thống TLPK «Aegis» đã được kiểm chứng trong việc chống lại đòn tấn công của tên lửa chống hạm "Moskit" (Mỹ đã mua một số tên lửa chống hạm loại này), và (những khả năng này) là  khá buồn cho người Mỹ - hầu hết các tên lửa "đã vượt qua hệ thống «Aegis». Chúng ta hãy nhớ rằng, hệ thống TLPK của chúng ta có thể bắn trúng mục tiêu kích thước nhỏ và bay với vận tốc siêu âm, do đó so với các khu trục hạm mới của Mỹ, tàu của chúng ta xem ra khá an toàn.
Tuy nhiên, so sánh này không hoàn toàn chính xác. Thực tế là tất cả các chiến hạm mặt nước của nước ngoài được xây dựng sau Chiến tranh Thế giới thứ hai (ít nhất cho tới giữa những năm 1980), tương ứng với loại BPK của chúng ta hơn là khu trục hạm. Nhiệm vụ chính của chúng là bảo vệ "biên giới cuối cùng" (đặc biệt là chống ngầm) cho tàu sân bay, tất cả những việc khác do máy bay trên tàu sân bay giải quyết. Khu trục hạm của chúng ta tạo ra chủ yếu để "chống tàu khu trục". Vì vậy, nếu vào cuối những năm 197x, Bộ Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô quyết định bắt tay vào việc xây dựng một hạm đội đại dương cân bằng (tức là, hạm đội có tàu sân bay), vị trí trong hạm đội dành cho các tàu đề án 956 sẽ không có, và Hạm đội Hải quân sẽ bị hạn chế bởi đề án 1155.

Cần thêm một "con sâu trong nồi canh". Khu trục hạm đề án 956 được tạo ra như một sự chạy đua với Hoa Kỳ, mà không có sự vượt trước cần thiết về phương diện khoa học và kỹ thuật. Kết quả là, sau 10 năm, người Mỹ đã không chỉ làm giảm được sự tụt hậu của họ, mà còn vượt qua chúng ta bằng cách đưa vào trong thành phần hạm đội của họ tàu khu trục đa năng «Arleigh Byrke».
Ưu thế của chúng ta trong việc giải quyết các vấn đề phòng không, tấn công bằng tên lửa có điều khiển, các tàu của chúng ta thuộc đề án 61-M đã giữ được trong gần 20 năm - cho đến khi có sự xuất hiện của khu trục hạm loại «Kidd». Và điều nây xảy ra, bất kể thực tế là chúng ta đã có cơ hội để tạo ra một đề án tàu chiến đa năng thay vì đề án "956", tương xứng với các khả năng của «Arleigh Burke», sớm trước 11 năm so với Hoa Kỳ!  

Con tàu như vậy cần có tuabin khí "lai" - "956+1155", nhưng với một tổ hợp thủy âm "cắt gọn" hơn một chút, và TLPK kiểu "Fort" (cũng gọi là "FAL"). Và nếu tại thời điểm đó mà quyết định đặt thiết bị phóng kiểu tổ ong thay cho thiết bị phóng kiểu ống trống (cuối những năm 199x rồi người ta cũng phải đi tới giải pháp này), chúng ta đã có thể nói đến việc chuẩn hóa thống nhất các PU (tương tự như Mk.41). Vậy là, ngay cả lúc đó cũng đã có thể tạo ra một loại tàu "giống như" BPK "Đô đốc Chabanenko", nhưng với vũ khí phòng không hùng mạnh hơn. Nghiên cứu về loại tàu này (đề án 11560) được tiến hành vào cuối những năm 197x song song với đề án 956 và 1155.

Tuy nhiên, con tàu này không phù hợp với "tư tưởng" về hạm đội của Liên Xô, nơi các tàu chiến được thiết kế theo kiểu chuyên biệt hóa một cách quá thuần túy. Sai lầm cũng đã được nhận ra 15 năm sau, nhưng thời gian thì đã bị bỏ lỡ ...
Tôi xin lưu ý rằng mặt "tiêu cực" nên được quy cho hệ tư tưởng thời đó, hay đúng hơn là CHIẾN LƯỢC BIỂN CỦA HẠM ĐỘI HẢI QUÂN LIÊN BANG CHXHCN XÔ VIẾT. Phòng thiết kế phương Bắc PKB cũng đã ứng phó với nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo: họ không chỉ xây dựng thành công một loại tàu được vũ trang tốt và vượt trội các đối tác nước ngoài về một loạt các nhiệm vụ phải đảm đương (trừ chống ngầm), mà đó còn là con tàu thế hệ thứ ba duy nhất trên thế giới dùng tuabin nồi hơi, có khả năng đi biển tuyệt vời.

CÔ HÊU.
...........
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Chín, 2011, 11:08:49 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #484 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2011, 01:40:01 pm »

(tiếp)

Tàu tuần tiễu «Razumnyi»  đề án 1135
Tàu tuần tiễu «Rеvnostnyi»  đề án 1135М:    
                                          -  thuyền trưởng  -  thiếu tá hải quân  Коlomeitsev А.G.
Tàu tuần tiễu «Rеzkii»  đề án 1135М:              
                                          -  thuyền trưởng  -  trung tá hải quân Каrghin V.N.
SКR - 3    đề án 159               -  thuyền trưởng  -  thiếu tá hải quân  Sokolov А.N.
SКR - 43 đề án 159М            -  thuyền trưởng  -  đại úy hải quân  Boiko S.I.
SКR - 46 đề án 159М
 
Tàu tuần tiễu «Letuchi» đề án 1135:

Ngày 7 tháng 5 năm 1975 tàu được đăng ký vào danh sách tàu chiến Hải quân Liên Xô và ngày 9 tháng 3 năm 1977 chính thức đặt ky tại nhà máy đóng tàu mang tên А.А.Zhdanov ở Leningrad, hạ thủy 19 tháng 3 năm 1978, nhập biên chế 10 tháng 8 năm 1978 và 20 tháng 9 năm 1978 sau cuộc hành quân liên hạm đội vòng quanh châu Phi từ căn cứ Baltisk tới Pеtropavlovsk-Каmchatskii gia nhập đội hình phân hạm đội hỗn hợp Каmchatka Hạm đội Thái Bình Dương. Tuy nhiên skr "Letutchi" đến 1994  vẫn ở trong đội hình binh đoàn tác chiến số 10 của hạm đội.
Năm 2005 tàu bị loại khỏi biên chế hạm đội và đưa ra bán đấu giá thanh lý.


Tại căn cứ lữ đoàn tàu tên lửa số 175, một đơn vị của binh đoàn 10 trong vịnh Strelok.


Vịnh Abrek, cầu tàu số 3, binh đoàn 10. Tuần dương hạm chỉ huy "Đô đốc Senyavin" và tuần dương hạm cận vệ mang vũ khí tên lửa hành trình "Variag".

Lượng choán nước lớn nhất 3436 t, toàn thể 3191 t, trung bình 3013 t, tiêu chuẩn 2835 t; dài 122,9 m, rộng 14,19 m, mớn nước 7,21 m.   Công suất GTU 2x26 000 mã lực; tốc độ lớn nhất 32 hải lý, tốc độ hành trình 20 hải lý; tầm bơi xa 4600 dặm.
Vũ khí: 1x4 thiết bị phóng tên lửa chóng ngầm (4 ngư lôi-tên lửa "Меtеl"), 2x2 thiết bị phóng TLPK "Оsа-М", 2x2 pháo 76-mm АК-726, 2x12 RBU-6000,  2x4 ống phóng lôi 533-mm, mang theo mọt cơ số thủy lôi phong tỏa. Thủy thủ đoàn 180 người, trong đó có 22 sỹ quan.
Tàu được thiết kế với nhiệm vụ tìm kiếm, phát hiện và theo dõi các tàu ngầm đối phương, đảm bảo phòng thủ chống hạm và chống ngầm cho các tàu chiến và tàu vận tải trên biển, giáng đòn tấn công vào các tàu chiến và tàu vận tải trên biển và trong căn cứ của kẻ thù, yểm trợ tác chiến cho lục quân, đảm bảo cho sự đổ bộ của thủy quân lục chiến và giải quyết một số nhiệm vụ khác.

Tàu tuần tiễu «Letuchi» đã 5 lần vào cảng Cam Ranh:
1. -   tháng 9 năm 1979   -   hành quân liên căn cứ từ Baltisk sau khi đóng xong tới căn cứ cơ bản - cảng Vladivostok với chuyến ghé đỗ tại cảng Cam Ranh để bổ sung vật chất dự trữ và cho các thành viên nghỉ ngơi.    
                                                 -  thuyền trưởng  -  thiếu tá hải quân Zozul А.G.
                                                 -  thuyền phó chính trị đại úy hải quân Khlupin N.F.
                                                 - trợ lý chính thuyền trưởng đại úy hải quân Boikov B.G.
                                                -  chỉ huy ban tác chiến 5  - thượng úy hải quân Uzarevitch А.I.
2. -  tháng 1 – tháng 6 năm 1980  - thi hành nhiệm vụ phục vụ chiến đấu tại cảng Cam Ranh.
                            -  thuyền trưởng  -  thiếu tá hải quân Zozul А.G.
                                                 -  thuyền phó chính trị đại úy hải quân Khlupin N.F.
                                                 - trợ lý chính thuyền trưởng đại úy hải quân Boikov B.G.
                                                -  chỉ huy ban tác chiến 5  - thượng úy hải quân Uzarevitch А.I.
3. -  tháng 9 năm 1980  - tháng 2 năm 1981  -  thi hành nhiệm vụ phục vụ chiến đấu tại cảng Cam Ranh.
                            -  thuyền trưởng  -  thiếu tá hải quân Zozul А.G.
                                                 -  thuyền phó chính trị đại úy hải quân Khlupin N.F.
                                                 - trợ lý chính thuyền trưởng đại úy hải quân Boikov B.G.
                                                -  chỉ huy ban tác chiến 5  - thượng úy hải quân Uzarevitch А.I.

4. -  tháng 5 năm 1982   - bổ sung dự trữ vật chất và cho phép các thành viên nghỉ ngơi sau khi thi hành nhiệm vụ phục vụ chiến đấu trong thành phần binh đoàn tác chiến số 8 Hải quân Xô Viết.
                                              –  thuyền trưởng    -  thiếu tá hải quân  Khorkov V.А.
                                               -  thuyền phó chính trị thượng úy hải quân Моroz S.S.
                                               -  trợ lý chính thuyền trưởng thiếu tá hải quân Boikov B.G.
                                               -  chỉ huy ban tác chiến 5 - thiếu tá hải quân Uzarevitch А.I.                             
Chỉ huy trực tiếp trên chiến hạm trong cuộc hành quân này -  Chủ nhiệm chính trị binh đoàn tác chiến số 10 - đại tá hải quân Kаlinin V.G.
5. -  tháng 5 – tháng 9 năm 1985  -  thi hành nhiệm vụ phục vụ chiến đấu trong đội hình binh đoàn số 17.
                                                -  thuyền trưởng  - thiếu tá hải quân Volk М.Yu.

........
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2011, 10:05:10 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #485 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2011, 10:35:17 pm »

(tiếp)


SKR "Letutchi" trong thời gian phục vụ tại Cam Ranh.


Đề án 1135, sơ đồ nhìn từ bên ngoài. Ghi chú:1 –thiết bị bảo vệ BOKA-Du (охранительное устройство БОКА-Ду-быстроходный охранитель корабельный акустический); 2 –hầm chứa hoạt chất và thiết bị nâng-thả sonar "Vega" (ангар рабочего тела и ПОУ ГАС «Вега» - подъемно-опускное устройство ); 3 –thiết bị phóng đạn phản lực không điều khiển của hệ thống đặt nhiễu thụ động PK-16 (ПУ НУРС(НУРС – неуправляемый реактивный снаряд) СППП (систем постановки пассивных помех) ПК-16); 4 –pháo 76 mm AK-726 (76-мм АУ АК-726); 5 –thiết bị phóng TLPK "Osa-M" (ПУ ЗРК «Оса-М»); 6 –trạm anten radar thuộc hệ thống điều khiển hỏa lực pháo hạm "Turel" (АП РЛС СУАО «Турель»); 7 –trạm anten radar hệ thống điều khiển hỏa lực TLPK 4R-33 "Osa-M" (АП СУО 4Р-33); 8 –trạm anten radar định hướng ARP-50R (АП радиопеленгатора АРП-50Р); 9 –trạm anten radar "Angara-A" (АП РЛС «Ангара-А»); 10 –các anten truyền dẫn của tổ hợp trang thiết bị tác chiến điện tử "Start" (передающие антенны комплекса средств РЭБ «Старт»);
11 –trạm anten radar "Volga" (АП РЛС «Волга»); 12-trạm anten radar hệ thống điều khiển bắn trên hạm "Musson" (АП РЛС КСУС «Мусон»; 13-đèn chiếu 45 mm (45-мм прожектор); 14 –máy ngắm kính tiềm vọng quang học buồng lái và chỉ huy hành trình (оптический перископический визир ходовой рубки); 15-buồng lái và chỉ huy hành trình (ходовая рубка); 16-trạm anten radar "Don-2" (АП РЛС «Дон-2»); 17 –RBU-6000 (РБУ-6000); 18 –thiết bị phóng tên lửa chống ngầm "Metel" (ПУ ПЛРК «Метель»); 19 –bầu chụp rẽ dòng anten sonar "Titan-2" (обтекатель антенны ГАС «Титан-2»); 20 –anten thu của tổ hợp phương tiện tác chiến điện tử "Start" (приемная антенна комплекса средств РЭБ «Старт»); 21 –cầu điều hướng đài chỉ huy hành trình (ходовой мостик); 22 –thiết bị phóng ngư lôi 533 mm PTA-53-1135 (533-мм ТА ПТА-53-1135); 23 –xuồng tải (грузовой катер); 24 –ray dẫn hướng rải thủy lôi (минные рельсы); 25 –xuồng 6 tay chèo (шестивесельный ял).



Đề án 1135, cắt dọc. Ghi chú:1 – chất sinh công của đài thủy âm "Vega" (рабочее тело ГАС «Вега»); 2 – tời của thiết bị nâng-thả di động đài thủy âm "Vega" (лебедка ПОУ (ПОУКБ-1) ГАС «Вега» - подъемно-опускное устройство ); 3 – pháo 76 mm AK-726 (76-мм АУ АК-726); 4 – buồng dưới tháp pháo 76 mm AK-726 (подбашенное отделение 76-мм АУ АК-726); 5 – thiết bị phóng TLPK "Osa-M" (ПУ ЗРК «Оса-М»); 6 –hầm chứa đạn tên lửa có điều khiển và thiết bị nạp đạn cho bệ phóng TLPK "Osa-M" (погреб ЗУР и устройство перезаряжания ПУ ЗРК «Оса-М»); 7 – các kubrik (ca bin) quân nhân (кубрики личного состава); 8 –các trạm  TLPK "Osa-M" ( посты ЗРК «Оса-М»); 9 –ống khói (дымоходы); 10 –trạm anten radar của hệ thống điều khiển hỏa lực pháo hạm "Turel" (АП РЛС СУАО «Турель»);11 - trạm anten radar hệ thống điều khiển hỏa lực TLPK "Osa-M" ( АП РЛС СУО ЗРК «Оса-М»); 12 –các trạm vũ khí vô tuyến điện tử và rào chắn các khối cao tần (посты РТВ и выгородки высокочастотных блоков); 13 –hành lang tránh bão (штормовой коридор); 14 –thiết bị phóng ngư lôi 533 mm PTA-53-1135 (533-мм ТА ПТА-53-1135); 15 –trạm anten radar "Angara-d" (АП РЛС «Ангара- д»); 16 –trạm anten radar "Volga" (АП РЛС «Волга»); 17 –trạm anten radar hệ thống điều khiển bắn trên hạm "Muson" (АП РЛС КСУС «Мусон»); 18 –buồng hoa tiêu (штурманская рубка); 19 –buồng chỉ huy hành trình ( ходовая рубка); 20 –hành lang cabin sinh hoạt chung  sỹ quan (коридор офицерских кают (кают-компании)); 21 –cabin-sinh hoạt chung (кают- компания); 22 –trạm chỉ huy trung tâm (ГКП); 23 –RBU-6000 (РБУ-6000); 24 –buồng thiết bị thông gió (отделения вентиляторов); 25 –thiết bị phóng tên lửa chống ngầm "Metel" (ПУ ПЛРК «Метель»); 26 –các trạm của hệ thống điều khiển bắn trên hạm "Muson"  (посты КСУС «Мусон»); 27 –khoang chứa các cơ cấu máy và cơ cấu dẫn động của thiết bị phóng tên lửa chống ngầm "Metel" (помещение агрегатов и приводов ПУ ПЛРК «Метель»); 28 –buồng tời đứng (шпилевое отделение); 29 –các kho chứa có nhiệm vụ khác nhau (кладовые различного назначения); 30 –hầm mũi (форпик); 31 –hầm chứa xích (цепной ящик); 32 –rào chắn anten đài thủy âm "Titan-2" (выгородка антенны ГАС «Титан-2»); 33 –các trạm làm việc của các đội viên thủy âm (посты гидроакустиков); 34 –các sitec nước ngọt (цистерны пресной воды); 35 –hầm chứa đạn phản lực chống ngầm RGB-60 (погреб РГБ-60); 36 –sitec nhiên liệu (топливные цистерны); 37 –buồng các cơ cấu cơ khí phụ trợ (khoang năng lượng) và đặt thiết bị chống lắc tàu (отделение вспомогательных механизмов (энергоотсек) и помещение успокоителя качки); 38 –buồng máy đằng mũi tàu (носовое МО); 39 –cabin điều khiển từ xa hệ thống thiết bị năng lượng chính (кабина дистанционного управления ГЭУ); 40 –buồng máy đuôi tàu (кормовое МО); 41 –buồng chứa thiết bị bánh lái (румпельное отделение) .

........
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Mười, 2011, 10:23:47 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #486 vào lúc: 01 Tháng Mười, 2011, 10:37:21 pm »

(tiếp)


Sơ đồ nhìn từ bên ngoài SKR đề án 1135М:1 – thiết bị bảo vệ BOKA-Du (охранительное устройство БОКА-Ду-быстроходный охранитель корабельный акустический); 2 – hầm chứa hoạt chất và thiết bị nâng-thả sonar "Vega" (ангар рабочего тела и ПОУ ГАС «Вега»); 3 – thiết bị phóng đạn phản lực không điều khiển của hệ thống đặt nhiễu thụ động PK-16 (ПУ НУРС(НУРС – неуправляемый реактивный снаряд) СППП (систем постановки пассивных помех) ПК-16); 4 –pháo 100 mm AK-100 (100-мм АУ АК-100); 5 – thiết bị phóng TLPK "Osa-M" (ПУ ЗРК «Оса-М»); 6 –trạm anten radar hệ thống điều khiển hỏa lực pháo "Lev" (АП РЛС СУАО «Лев»); 7 – trạm anten radar hệ thống điều khiển hỏa lực TLPK 4R-33 "Osa-M" (АП СУО 4Р-33); 8 – trạm anten radar định hướng ARP-50R (АП радиопеленгатора АРП-50Р); 9 –trạm anten radar "Angara-A" (АП РЛС «Ангара-А»); 10 –các anten truyền dẫn của tổ hợp trang thiết bị tác chiến điện tử "Start" (передающие антенны комплекса средств РЭБ «Старт»);11 –trạm anten radar "Volga" (АП РЛС «Волга»); 12-trạm anten radar hệ thống điều khiển bắn trên hạm "Musson-U" (АП РЛС КСУС «Мусон-У»); 13-đèn chiếu 45 mm (45-мм прожектор); 14 –máy ngắm kính tiềm vọng quang học buồng lái và chỉ huy hành trình (оптический перископический визир ходовой рубки); 15-buồng lái và chỉ huy hành trình (ходовая рубка); 16-trạm anten radar "Don-2" (АП РЛС «Дон-2»); 17 –RBU-6000 (РБУ-6000); 18 –thiết bị phóng tên lửa chống ngầm-tên lửa chống hạm "Rastrub-B"  (ПУ ПЛР-ПКР «Раструб-Б»); 19 – bầu chụp rẽ dòng anten sonar "Titan-2T" (обтекатель антенны ГАС «Титан-2T»); 20 –pháo hiệu 45 mm (45-мм салютная пушка); 21 – anten thu của tổ hợp phương tiện tác chiến điện tử "Start" (приемная антенна комплекса средств РЭБ «Старт»);22 - cầu điều hướng đài chỉ huy hành trình (ходовой мостик); 23 –thiết bị phóng ngư lôi 533 mm PTA-53-1135 (533-мм ТА ПТА-53-1135); 24 –xuồng tải (грузовой катер); 25 –ray dẫn hướng rải thủy lôi (минные рельсы); 26 –xuồng 6 tay chèo (шестивесельный ял).



Cắt dọc SKR đề án 1135М:1 – chất sinh công của đài thủy âm "Vega" (рабочее тело ГАС «Вега»); 2 – tời của thiết bị nâng-thả di động đài thủy âm "Vega" (лебедка ПОУ (ПОУКБ-1) ГАС «Вега»; 3 – pháo 100 mm AK-100 (100-мм АУ АК-100); 4 –hầm dưới tháp pháo 100 mm AK-100 (подбашенное отделение 100-мм АУ АК-100); 5 – thiết bị phóng TLPK "Osa-M" (ПУ ЗРК «Оса-М»); 6 – hầm chứa đạn tên lửa có điều khiển và thiết bị nạp đạn cho bệ phóng TLPK "Osa-M" (погреб ЗУР и устройство перезаряжания ПУ ЗРК «Оса-М»); 7 – các kubrik (ca bin) quân nhân (кубрики личного состава); 8 – các trạm  TLPK "Osa-M" ( посты ЗРК «Оса-М»); 9 –ống khói (дымоходы); 10 –trạm anten radar hệ thống điều khiển hỏa lực pháo "Lev" (АП РЛС СУАО «Лев»); 11 –trạm anten điều khiển hỏa lực TLPK "Osa-M" (АП РЛС СУО ЗРК «Оса-М»); 12 – các trạm vũ khí vô tuyến điện tử và rào chắn các khối cao tần (посты РТВ и выгородки высокочастотных блоков); 13 –hành lang tránh bão (штормовой коридор); 14 –thiết bị phóng ngư lôi 533 mm PTA-53-1135 (533-мм ТА ПТА-53-1135); 15 –trạm anten radar "Angara-d" (АП РЛС «Ангара- A»); 16 –trạm anten radar "Volga" (АП РЛС «Волга»); 17 –trạm anten radar hệ thống điều khiển bắn trên hạm "Muson-U" (АП РЛС КСУС «Мусон-У»); 18 –buồng hoa tiêu (штурманская рубка); 19 –buồng chỉ huy hành trình ( ходовая рубка); 20 –hành lang cabin sinh hoạt chung  sỹ quan (коридор офицерских кают (кают-компании)); 21 –cabin-sinh hoạt chung (кают- компания); 22 –trạm chỉ huy trung tâm (ГКП); 23 –RBU-6000 (РБУ-6000); 24 –buồng thiết bị thông gió (отделения вентиляторов); 25 – thiết bị phóng tên lửa chống ngầm-tên lửa chống hạm "Rastrub-B"  (ПУ ПЛР-ПКР «Раструб-Б»); 26 –các trạm hệ thống điều khiển bắn trên hạm "Musson-U" (посты КСУС «Мусон-У»); 27 –buồng các cơ cấu máy và dẫn động thiết bị phóng tên lửa chống ngầm-chống hạm "Rastrub-B" (помещение агрегатов и приводов ПУ ПЛР-ПКР «Раструб-Б»); 28 –buồng tời đứng (шпилевое отделение); 29 –các kho chứa có nhiệm vụ khác nhau (кладовые различного назначения); 30 –hầm mũi (форпик); 31 –hầm chứa xích (цепной ящик); 32 –rào chắn anten đài thủy âm "Titan-2" (выгородка антенны ГАС «Титан-2T»); 33 –các trạm làm việc của các đội viên thủy âm (посты гидроакустиков); 34 –các sitec nước ngọt (цистерны пресной воды); 35 –hầm chứa đạn phản lực chống ngầm RGB-60 (погреб РГБ-60); 36 –sitec nhiên liệu (топливные цистерны); 37 –buồng các cơ cấu cơ khí phụ trợ (khoang năng lượng) và đặt thiết bị chống lắc tàu (отделение вспомогательных механизмов (энергоотсек) и помещение успокоителя качки); 38 –buồng máy đằng mũi tàu (носовое МО); 39 –cabin điều khiển từ xa hệ thống thiết bị năng lượng chính (кабина дистанционного управления ГЭУ); 40 –buồng máy đuôi tàu (кормовое МО); 41 –hầm chứa đạn của pháo 100 mm (погреб 100-мм выстрелов); 42 – buồng chứa thiết bị bánh lái (румпельное отделение).

.....
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười, 2011, 11:41:20 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #487 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 04:00:22 pm »

(tiếp)

Đề án 1135-21 tàu.
Các yếu tố kỹ chiến thuật cơ bản


Lượng choán nước, т:
– tiêu chuẩn 2810 hoặc 2960(73*) hoặc 3160(74*)
– toàn bộ 3200 hoặc 3455(73*) hoặc 3550(74*)
Kích thước chính, м:
– chiều dài lớn nhất (theo đường mớn nước) 123,0 (113,0)
– chiều rộng thân lớn nhất (theo đường mớn nước) 14,2 (13,2)
– mớn nước trung bình 4,51 hoặc 4,57(74*)
Thủy thủ đoàn, người (sỹ quan) 194 (22)
Khả năng bơi độc lập theo cơ số thực phẩm dự trữ, ngày đêm: 30
Thiết bị năng lượng:
– kiểu tuabin khí với sự cùng làm việc của các động cơ hành trình tuabin khí đốt sau (форсаж)
– số lượng x kiểu động cơ tuabin khí đốt sau (tổng công suất, sức ngựa) 2 x DK59 (36 000) hoặc DT59 (45 400) (75*)
– số lượng x kiểu động cơ hành trình tuabin khí (tổng công suất, sức ngựa) 2 х М-62 (10 000) hoặc DS71 (18 000) (75*)
– số lượng trục truyền lực x kiểu cơ cấu dẫn tiến 2 x chân vịt bước cố định (ВФШ – винт фиксированного шага - VFSh)
– số lượng x kiểu (công suất riêng của các nguồn dòng của hệ thống năng lượng điện, kW) 5 x DG - tức máy phát diesel (bằng 500)
Tốc độ hành trình, hải lý:
– lớn nhất 30-32
– kinh tế 14
Tầm bơi xa, dặm:
– ở tốc độ 14 hải lý 3950
Vũ khí:
Tổ hợp tên lửa chống hạm:
– kiểu «Uran»(76*)
– số lượng bệ phóng x hướng (kiểu bệ phóng) 2 x 4 (TPK- ТПК- dẫn hướng theo cơ chế kiểu conteiner vận chuyển-phóng)
– cơ số đạn 8 đạn tên lửa chống hạm 3M-24
Tổ hợp tên lửa chống ngầm:
– kiểu «Мetel» hoặc «Rаstrub-B»(77*)
– số lượng bệ phóng x hướng (kiểu bệ phóng) 1 x 4 (KT-106U)
– cơ số đạn 4 đạn tên lửa chống ngầm có điều khiển 85-R hoặc 85-RU
– Hệ thống điều khiển bắn trên hạm "Musson" hoặc "Musson-U" (77*)
Tổ hợp TLPK:
– số lượng х kiểu 2 х «Оsа-М» hoặc «Оsа-МА»(76*)
– số lượng bệ phóng x hướng (kiểu bệ phóng) 2 x 2 (ZIF-122)
– cơ số đạn 40 đạn tên lửa có điều khiển 9М-ЗЗМ
– số lượng х kiểu hệ thống điều khiển hỏa lực 2 x 4R-33
Tổ hợp pháo hạm:
– số lượng tháp pháo x số nòng (kiểu pháo) 2 x 2 - 76/60 (AK-726)
– cơ số đạn dược 1600 phát bắn
– hệ thống điều khiển hỏa lực pháo "Turel" (MR-105)
Chống ngầm:
– số lượng thiết bị phóng x số ống phóng (kiểu thiết bị phóng) 2 x 4 - 533 mm (PTA-53-1135)
– cơ số đạn 8 đạn ngư lôi 53-65K hoặc SET-65
– hệ thống điều khiển bắn trên hạm "Drakon-1135"
– số lượng dàn phóng RBU x số nòng (kiểu RBU) 2 x 12 - 213-mm (RBU-6000) (78*)
– cơ số đạn 96 đạn RGB-60
Vũ khí vô tuyến điện tử:
– hệ thống thông tin chỉ huy "Planshet-35"
– radar phát hiện chung "Angara-A" (MR-310A) )(79*)  hoặc "Fregat-MA"(76*)
– radar dẫn đường hàng hải «Volga» (МR-310U) + «Don-2»(80*)
– hệ thống cảnh báo và ngăn ngừa chiếu xạ laser «Spectr-F»(76*)
– tổ hợp phương tiện tác chiến điện tử «Start» (МP-401)
– thiết bị truyền tin vô tuyến: tổ hợp phương tiện truyền tin hoặc "Buran-6"(76*)
– số lượng bệ phóng x ống phóng (kiểu thiết bị phóng) đặt màn nhiễu thụ động 4 x 16 - 82 mm (PK-16) hoặc 2 x 16 - 82 mm (PK-16) + 8 x 10 - 122 mm (PK-10)(76*)
– trạm thủy âm với anten bố trí trong bầu che rẽ dòng dưới sống tàu "Titan-2" (MG-332)(81*)
– trạm thủy âm với anten bố trí trong bầu che rẽ dòng dạng thủy động học kéo theo "Vega" (MG-325)
– tổ hợp thủy âm "Zvezda-M1"(82*)

( 73* ) dùng cho đề án 11352.
( 74* ) đề án 11353.
( 75* ) sau khi tiến hành trung tu.
( 76* ) đề án 11352.
( 77* ) sau khi hiện đại hóa.
( 78* ) trừ đề án 11352.
( 79* ) dùng cho đề án 1135 và 11353.
( 80* ) Trên một số tàu khi bổ sung cho các trạm radar nhắc tới ở trên, đã lắp đặt trạm radar "Tesla" sản phẩm của Tiệp Khắc.
( 81* ) đề án 1135.
( 82* ) đề án 11352 và 11353 với các anten bố trí trong bầu che kéo theo tại cả phía mũi và dưới sống tàu.

Ghi chú về các biến thể của đề án 1135:
• 1135 (Krivak-I class) – đề án cơ sở tàu tuần tiễu dùng tuabin khí hoạt động trên khu vực đại dương (1970)
• 1135-М (Krivak-II class) – thay АК-726 bằng АК-100, thay mới sonar «Тitan-2Т» (1975)
• 11351 (Krivak-III class) – tàu tuần tiễu biên phòng với thành phần vũ khí mới (1984)
• 11352 (Cải tiến Krivak-I class) – thay RBU bằng tổ hợp tên lửa chống hạm «Uran», đổi mới vũ khí vô tuyến điện tử (РЭВ -1980)
• 11353 (Cải tiến Krivak-I class) – hiện đại hóa SKR với tổ hợp thủy âm mới «Zvezda-МG» (1984)

......
« Sửa lần cuối: 02 Tháng Mười, 2011, 06:36:57 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #488 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2011, 09:22:09 pm »

(tiếp)

SKR đề án 159


Tàu tuần tiễu (SKR) đề án 159 trên biển.



Đề án 159, sơ đồ bên ngoài. Ghi chú:
1 – thiết bị bảo vệ BOKA-Du (охранительное устройство БОКА-Ду-быстроходный охранитель корабельный акустический); 2 –ống mìn khói ngụy trang (морские дымовые шашки (МДШ)); 3 –thiết bị nạp bom phản lực chống ngầm RGB-25 (устройство перезаряжания РГБ-2500); 4 –Dàn phóng bom chìm phản lực chống ngầm RBU-2500 (РГБ-2500); 5 –pháo 76 mm AK-726 (76-мм АУ АК-726); 6 –thiết bị phóng ngư lôi 400 mm PTA-40 (400-мм ТА ПТА-40); 7 –bè cứu nạn (спасательный плотик); 8 –trạm anten đài phóng nhiễu chủ động "Tiunpan" (АП станции постановки активных помех «Тюльпан»); 9 –trạm anten radar "Fut-N" (АП РЛС «Фут-Н»); 10-trạm anten đài radar "Nikhrom" của hệ thống nhận dạng "địch-ta" (АП станции «Нихром» системы опознавания «свой-чужой»); 11 –trạm anten đài trinh sát vô tuyến điện tử "Bizan-4B" (АП станции РТР «Бизань-4Б»); 12 –trạm anten radar "Neptun-M" (АП РЛС «Нептун-М»); 13 –trạm anten radar định hướng ARP-50 (АП радиопеленгатора АРП-50); 14 –cầu điều hướng hành trình (ходовой мостик); 15 –trạm anten radar hệ thống điều khiển hỏa lực pháo "Fut-B"  (АП РЛС СУАО «Фут-Б»); 16 –buồng lái và chỉ huy hành trình (ходовая рубка); 17 –cảm biến hệ thống phát hiện vết nhiệt MI-110R (датчик СОТС МИ-110Р); 18 –bầu chụp rẽ dòng anten đài thủy âm "Titan" và "Vytchegda" (обтекатель антенн ГАС «Титан» и «Вычегда»); 19 –bánh lái chủ động với motor điện đặt chìm trong nước (активный руль с водопогружным электромотором); 20 –ray dẫn hướng thả thủy lôi (минные рельсы); 21 –xuồng sáu mái chèo (шестивесельный ял)




Đề án 159, cắt dọc. Ghi chú:
1 –bom chìm (глубинные бомбы); 2 – trạm thả bom (пост бомбосбрасывания); 3 –các kho chứa đồ khác nhau (кладовые различного назначения); 4 –RBU-2500 (РБУ-2500); 5 –trạm ngắm bắn của RBU-2500 (пост наводки РБУ-2500); 6 –các cabin quân nhân chứa được 26 người (+thêm 13 chỗ dự trữ) (кубрик личного состава на 26 человек (+ 13 запасных мест)); 7 –cabin hạ sỹ quan và quân nhân chuyên nghiệp 6 người (каюта мичманов и старшин на шесть человек); 8 –pháo 76 mm AK-726 (76-мм АУ АК-726); 9 –hầm dưới tháp pháo 76 mm AK-726  (подбашенное отделение 76-мм АУ АК-726); 10 –buồng máy tàu đằng lái (кормовое МО (ДД)); 11 –thiết bị phóng ngư lôi 400 mm PTA-40 (400-мм ТА ПТА-40); 12 –trạm điện đằng lái (кормовая электростанция); 13 –buồng máy tàu đằng mũi (носовое МО (ГТД)); 14 –trạm radar đài phóng nhiễu chủ động "Tiulpan" (АП станции постановки активных помех «Тюльпан»); 15 –trạm anten radar "Fut-N" (АП РЛС «Фут-Н»); 16 –trạm anten đài trinh sát vô tuyến điện tử "Bizan-4B" (АП станции РТР «Бизань-4Б»); 17 –trạm anten radar "Neptun-M" (АП РЛС «Нептун-М»); 18 –cầu điều hướng (ходовой мостик); 19 –trạm anten radar điều khiển hỏa lực pháo "Fut-N" (АП РЛС СУАО «Фут-Н»); 20 –buồng hao tiêu (штурманская рубка); 21 –buồng lái và chỉ huy hành trình (ходовая рубка); 22 –buồng chứa các quạt thông gió và lò gió nóng (помещение вентиляторов и калориферов); 23 –hành lang (коридор); 24 –cabin dự trữ điều khiển thiết bị năng lượng chính (запасная кабина управления ГЭУ); 25 –cabin sỹ quan hai người (каюта офицеров на два человека); 26 –buồng vô tuyến điện (радиорубка); 27 –cabin quân nhân 26 người (кубрик личного состава на 26 человек); 28 –cabin quân nhân 21 người (+3 chỗ dự trữ) (кубрик личного состава на 21 человека (+ три запасных места)); 29 –tời trục đứng (шпилевая); 30 –trạm khử khí độc (дегазационный пост); 31 –khoang hầm mũi (форпик); 32 –hầm chứa xích tời (цепной ящик); 33 –kho thực phẩm tươi (кладовая мокрой провизии); 34 –cabin quân nhân 8 người (кубрик личного состава на восемь человек); 35 –buồng máy lạnh (помещение холодильной машины); 36 –sitec nước ngọt (цистерна пресной воды); 37 –buồng radar (агрегатная РЛС); 38 –hầm đạn 76 mm chứa dự trữ đạn dược cho 700 phát bắn (погреб на 700 76-мм выстрелов); 39 –các trạm đặt thiết bị điều khiển bắn "Smerch-159" và thiết bị "Dozor" (посты ПУСБ «Смерч-159» и аппаратуры «Дозор»); 40 –buồng máy điều hòa không khí (помещение машины кондиционирования воздуха); 41 –trạm thiết bị trung tâm điều khiển hỏa lực pháo hạm (центральный артиллерийский пост (ЦАРП)); 42 –các sitec chứa nhiên liệu топливные цистерны; 43 –buồng đặt con quay hồi chuyển (гиропост); 44 –hầm chứa đạn RGB-25 (погреб РГБ-25); 45 –các trạm làm việc của đội thủy âm (посты гидроакустиков); 46 –anten đài thủy âm "Titan" (антенна ГАС «Титан»); 47 –anten đài thủy âm "Vychegda" (антенна ГАС «Вычегда»); 48 –hầm đặt vận tốc kế (шахта лага); 49 –Máy phát diesel (ДГ); 50 –động cơ tuabin khí (ГТД); 51 –buồng đặt thiết bị giảm lắc (помещение успокоителя качки); 52 –động cơ diesel chính (главный ДД); 53 –buồng đặt cơ cấu thay đổi bước thiết bị dẫn tiến (помещение механизма изменения шага (МИШ)); 54 –hành lang chân vịt đẩy (коридор гребного винта); 55 – buồng bánh lái (румпельное отделение); 56 –bánh lái chủ động có motor điện đặt chìm trong nước (активный руль с водопогружным электромотором).




Đề án 159. Các mặt bằng khác mức. Ghi chú:
а – mặt bằng lớp cấu trúc thượng tầng thứ 2 (bên trái), cũng như mặt bằng buồng lái và cầu điều hướng đài chỉ huy hành trình (план второго яруса надстройки (слева), а также план ходовой рубки и мостика (справа); б –mặt bằng sân boong thượng (план верхней палубы); в –mặt bằng sàn (план платформы); г –mặt bằng hầm tàu (план трюма):
1 –buồng hoa tiêu (штурманская рубка); 2 –buồng đặt quạt thông gió và lò gió nóng (помещение вентиляторов и калориферов); 3 –trạm ngắm bắn của RBU-2500 (пост наводки РБУ-2500); 4 –cầu điều hướng hành trình (ходовой мостик); 5 –buồng lái và chỉ huy hành trình (ходовая рубка); 6 –RBU-2500 (РБУ-2500); 7 –pháo 76 mm AK-726 (76-мм ' АУ АК-726); 8 –thiết bị phóng ngư lôi 400 mm PTA-40 (400-мм ТА ПТА-40); 9 –kho thủy thủ trưởng (боцманская кладовая); 10 –ống khói (дымоходы); 11 –tấm thép tháo lắp được (съемный лист); 12 –hầm hút không khí vào động cơ tuabin khí  (шахта забора воздуха к ГТД); 13 –buồng ở hàng ngày cho tập thể quân nhân, sỹ quan (бытовые помещения личного , состава); 14 –buồng thiết bị cao tần radar "Fut-N" (помещение высокочастотных блоков РЛС «Фут-Н»); 15 –buồng sỹ quan trực chiến (помещение дежурного офицера); 16 –bếp (камбуз); 17 –buồng cứu hộ (помещение СПС); 18 –máy thả bom chìm (бомбосбрасыватели); 19 –buồng bánh lái (румпельное отделение); 20 –cabin quân nhân (кубрик личного состава); 21 –buồng máy tàu đằng lái (кормовое МО); 22 –máy phát diesel (ДГ); 23 –động cơ diesel chính (главный ДД); 24 –trạm điện đằng lái (кормовая электростанция); 25 –sitec tuần hoàn dầu máy (цистерна циркуляционного масла); 26 –buồng máy tàu đằng mũi (носовое МО); 27 –động cơ tuabin khí (ГТД); 28 –trạm điện đằng mũi (носовая электростанция); 29 – trạm thiết bị trung tâm điều khiển hỏa lực pháo hạm (ЦАРП); 30 –kho chứa đồ đi biển (шкиперская кладовая); 31 –hầm dưới tháp pháo 76 mm ( подбашенное отделение 76-мм АУ); 32 –chưa rõ ( масляные (Прим: страница скана обрезана на тексте)


............
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Mười, 2011, 06:56:08 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #489 vào lúc: 05 Tháng Mười, 2011, 03:28:01 am »

(tiếp theo post 446 trang 45)

Sư đoàn tàu ngầm số 38  

(Trích hồi ức thuyền trưởng tàu ngầm nguyên tử "K-23" và "K-305" Bondarenko Viktor Konstantinovitch, do A.N.Safonov ghi lại trong loạt bài về các cựu học viên Sỹ quan Kỹ thuật Hải quân Sevastopol)

VỀ CÁC VỊ CHỈ HUY


Tháng 3 năm 1982. Quân cảng Cam Ranh. Tàu ngầm nguyên tử đề án 671RTM số hiệu "K-305" thuộc sư đoàn tàu ngầm số 45  Hạm đội Thái Bình Dương ghé quân cảng trong đợt nghỉ ngơi bổ sung dự trữ vật chất giữa chuyến hành quân thi hành nhiệm vụ phục vụ chiến đấu.
Thủy thủ đoàn trên tàu là thủy thủ đoàn thứ hai thay thế thủy thủ đoàn thứ nhất đi nghỉ phép. Thuyền trưởng trung tá hải quân V.V.Afonin. Thuyền phó chính trị thiếu tá hải quân G.F.Burlai, trợ lý chính cho thuyền trưởng thiếu tá hải quân P.V.Kotelnikov. Đứng trong hàng quân có chỉ huy nhóm đạo hàng điện tử thuộc ban hoa tiêu tác chiến, trung úy hải quân Yu.P.Eryomin, mà sau này trong những năm 1999-2002 trở thành đại tá hải quân, chỉ huy trưởng cuối cùng căn cứ đảm bảo hậu cần - kỹ thuật số 922 tại Cam Ranh.



V.K.Bondarenko.
Sinh ngày 3 tháng Tư năm 1945 tại Ucraina. Tháng 6 năm 1953 gia đình chuyển về tỉnh Irkutsk tại công trường xây dựng thành phố mới của khu công nghiệp hóa dầu Angarsk. Năm 1963 tốt nghiệp lớp 11, năm 1964 nhập học và 1969 tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sỹ quan Hải quân mang tên S.O. Makarov, khoa thủy lôi-ngư lôi. Từ tháng 8 năm 1969 bắt đầu phục vụ trên các tàu ngầm nguyên tử trong thành phần sư đoàn tàu ngầm số 26 có căn cứ cơ bản đóng trong vịnh Strelok. Chức trách sỹ quan đầu tiên – chỉ huy ban tác chiến thủy lôi-ngư lôi tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa hành trình «К-57» đề án 675. Tháng 4 năm 1973 nhận nhiệm vụ trợ lý thuyền trưởng tàu ngầm nguyên tử mang vũ khí ngư lôi «К-45» đề án 659 Т. Tháng 12 năm 1973 nhận nhiệm vụ trợ lý chính thuyền trưởng PLARK «К-23». Tháng 9 năm 1976 – tháng 7 năm 1977 học tập tại khóa 6 lớp bồi dưỡng cao cấp chuyên ngành VSOK của Hải quân Xô Viết. Tháng 8 năm 1977 – tháng 5 năm 1978 trợ lý chính thuyền trưởng tàu ngầm nguyên tử mang vũ khí hành trình «К-23», còn từ tháng 5 năm 1978 đến tháng 8 năm 1979 – thuyền trưởng PLARK «К-23». Từ tháng 9 năm 1979 đến tháng 10 năm 1987 là thuyền trưởng tàu ngầm nguyên tử «К-305» đề án 671 RТМ trong thành phần sư đoàn tàu ngầm nguyên tử số 45 đóng căn cứ tại bán đảo Кrashennikov, Каmchatka. Tháng 8 năm 1987 do tình hình sức khỏe được đưa ra khỏi thành phần sỹ quan trực tiếp hành quân và được trao trách nhiệm giảng viên chính Trung tâm Đào tạo Hải quân, thành phố Opninsk. Năm 1996 về hưu, nhưng còn tiếp tục làm việc trong Trung tâm Đào tạo trên cương vị giảng viên. Đã có vợ và hai con, - 1 con trai và một con gái, một cháu trai và một cháu gái.
   

Cuối tháng 11 tôi nhận lệnh sẵn sàng đến trung tâm đào tạo. Trong thời gian đó chúng tôi đang sửa soạn thắt lưng buộc bụng. Chúng tôi bay đi không vướng măc gì. Khi đến Moskva, tôi thả cho các sỹ quan 3 ngày về thăm gia đình - có người nhà tận Ural. Hôm phải có mặt là thứ hai. Gặp nhau tại ga Kiev vào lúc 8 giờ sáng. Tôi dừng lại nhà người bạn trung tá hải quân Sarafanov Viktor Мikhailovitch, người đã cùng tôi mở đầu đời phục vụ của các chàng trung úy trên tàu ngầm «К-57». Vào lúc đó anh vừa tốt nghiệp học viện. Khi ủy ban y tế kiểm tra sức khỏe, người ta phát hiện rằng anh chỉ có một quả thận. Kỳ lạ thật-anh ấy sống đến 35 tuổi mà không biết mình đang sống chỉ với một quả thận, đã nhiều lần vượt qua các kỳ kiểm tra y khoa. Anh là người gốc Moskva chính hiệu và được về phục vụ tại Moskva.
Ngày hôm sau tôi đến Obninsk, báo cáo Giám đốc Trung tâm về sự có mặt của mình. Cần giải quyết vấn đề chỗ ở cho các sỹ quan và gia đình của họ. Với các chàng độc thân thì đơn giản nhất - nhà chung cư tập thể. Với những người có gia đình thì phức tạp hơn. Người ta phân cho tôi một căn hộ. Dần dần cũng đâu vào đấy.

Xin nói một chút về lịch sử trung tâm đào tạo. Nó được thành lập năm 1956 để đào tạo các kíp thủy thủ tàu ngầm nguyên tử. Từ 12.1959 đến 8.1979 giám đốc trung tâm đào tạo hải quân số 510 là thuyền trưởng tàu ngầm nguyên tử đầu tiên của Hải quân Xô viết «K-3» chuẩn đô đốc Anh hùng Liên Xô Оsipenko Leonid Gavrilovitch. Người thế anh trên cương vị này là đại tá hải quân Abbasov Abdulikhat Umarovitch sau này trở thành chuẩn đô đốc Anh hùng Liên Xô. Trung tâm là đơn vị mật. Tất cả những người đến học tập đều đổi sang quân phục bộ đội của Bộ Nội vụ (МВД ), nhưng riêng đôi giày vẫn là đôi bốt đen. Đến tận bây giờ tôi cũng không thể cắt nghĩa kiểu "ngụy trang" ấy có tác dụng gì. Tại các hạm đội thời ấy có chuyện tiếu lâm thế này. Ấy là khi Tổng tư lệnh của chúng ta sang Pháp, tư lệnh hạm đội đất nước này nói với Đô đốc hạm đội LB Xô viết Gorshkov S.G. rằng ông ta muốn xây dựng cho mình một trung tâm đào tạo như thế, như trung tâm của chúng ta tại Obninsk. Vậy mà chúng tôi vẫn tiếp tục "ngụy trang" như vậy cho đến tận giữa những năm 198x.

Tôi đã đến xem phòng. Thời đó tại trung tâm có hai khu ký túc xá - một cho người độc thân, một cho người có gia đình. Tôi đến trước cửa ra vào. Tại sân hành lang có hai cánh cửa, tôi gõ cửa rồi bước vào một trong hai cánh cửa đó. Có tất cả năm phòng, một nhà bếp với hai bếp gas và hai bồn rửa, nhà vệ sinh. Tiếp tôi là mấy người phụ nữ, chồng của họ đang đi học trên giảng đường. Tôi tự giới thiệu, họ cũng vậy. Sống ở đây có thiếu tá hải quân Vyacheslav Matsyura - trợ lý thuyền trưởng một trong những thủy thủ đoàn và ba trung úy. Chúng ta sẽ sống thân thiện với nhau nhé? tôi hỏi những người phụ nữ. Không ai phản đối.
Đúng thời gian quy định tất cả mọi người đã tập hợp xong, đổi quân phục và có mặt đầy đủ trong trung tâm đào tạo. Các giáo viên hướng dẫn tại thủy thủ đoàn của tôi là:
- Đại tá hải quân Henrix Petrovitch Onopko
- Đại tá hải quân Pustovit Rudolph Vasilevitch
- Đại tá hải quân Segen Rem Viktorovich
- Đại tá hải quân Mikhail Mikhailovitch Temyakov
- Đại tá hải quân Anatoly Mikhailovitch Tazin
- Đại tá quân y Yuri Ivanovich Vinogradov
- Đại tá hải quân Victor Petrovitch Prossu
- Trung tá hải quân Permyakov Yuri Gavrilovitch
- Trung tá hải quân Matveev Vladimir Yakovlevich
- Trung tá hải quân Sergey Ivanovitch Parakhin
- Trung tá hải quân Vladimir Viktorovitch Komarov
- Trung tá hải quân Vladimir Aleksandrovitch Fetisov
- Trung tá hải quân Maslennikov Yacob Sergeevitch
- Trung tá hải quân Marchenko Anatoly Semionovitch
- Thiếu tá hải quân Puzanov Anatoly Tikhonovitch
- Thiếu tá hải quân Protsenko Victor Nikolaevitch
Chỉ huy trưởng - cố vấn - đại tá hải quân Vladimir Konstantinovitch Yakovlev.
Các đồng chí Yakovlev, Onopko và Pustovit đã từng là các thuyền trưởng tàu ngầm.
Cho đến nay, tiếc thay, một số đồng chí đã qua đời - chúng tôi vẫn nhớ mãi đến các anh.

Quá trình đào tạo diễn ra theo kế hoạch. Lịch trình học tập rất bận rộn. Lớp học bắt đầu lúc 8.00 sáng cho đến 17,00 giờ và giữa buổi là bữa ăn trưa. Từ 17,00-18,00 - thời gian để làm việc với các thành viên của chỉ huy trưởng, từ 18,00-20,00 ăn tối và tự học. Thứ Bảy đến 11.00 giờ - ngày dạo chơi công viên làm việc nhà và trực nội vụ. Thuyền trưởng các con tàu từ thứ bảy đến Chủ Nhật và ngày nghỉ lễ bắt buộc phải thực hiện nhiệm vụ trực ban tại trung tâm đào tạo. Mỗi buổi thứ Sáu, giám đốc trung tâm đào tạo tập trung tại văn phòng của ông tất cả các thuyền trưởng để nghe báo cáo. Đó lả một loại xê mi na của các thuyền trưởng. Người ta tiến hành phân tích các thiếu sót mà trực ban phát hiện ra trong tuần, tìm nguyên nhân thiếu sót và đề ra các biện pháp ngăn chặn chúng trong tương lai. Bởi lẽ các chỉ huy chiến hạm có những kinh nghiệm phục vụ khác nhau, cho nên đối với các thuyền trưởng trẻ tuổi đây chính là một trường học tốt.
Một khi kiểm tra thẻ phục vụ của các sỹ quan, tôi chú ý đến số tiền phạt tương ứng với lỗi phát hiện ra. Tôi tập hợp các chỉ huy phân đội và giải thích cho họ rằng phải làm việc với mọi người chứ đừng xuê xoa ve vẩy quân cờ. Trong trình tự thi hành mệnh lệnh đòi hỏi các chỉ huy - trước khi trừng phạt một cấp dưới, phải cùng người có lỗi đến chỗ tôi và chúng tôi sẽ cùng phân tích và điều tra. Điều này có tác động của nó.
    
.......
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Mười, 2011, 02:15:55 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM