Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Năm, 2024, 09:12:26 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bí mật về Adolf Hitler và các chiến hữu  (Đọc 19873 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #70 vào lúc: 03 Tháng Tư, 2018, 02:52:05 am »


        ARNOLF SHVARTSENEGGER VÀ KURT VALDKHAIM

        Trong bộ phim nôi tiếng “Hồi tưởng” nhân vật Arnolf Shvartsenegger bị các cơ quan đặc biệt đầy quyền lực có khả năng điều khiển cả lý trí và trí nhớ bắt phải quên đi quá khứ.

        Ngoài đời thực bản thân Shvartsenegger - một diễn viên nổi tiếng và nhà chính trị mới vào nghề muốn quên đi nhiều điều trong số những điều đã xảy ra với ông và gia đình ông trong thời gian xa xưa.

        Ba mươi nhăm năm sau khi chạy sang Hoa Kỳ, người diễn viên nhảy vào chính trị và đã được bầu làm thống đốc bang California. Ông có tất cả các tố chất để làm việc này.

        Tên tuổi của ông ta ở trong nước được mọi người biết đến tuy rằng không phải người Mỹ nào cũng có khả năng phát âm đúng cái họ Đức dài dằng dặc xa lạ với tai người Anglôsăcxông. Và bản thân ông nói giọng nặng Đức. Mặc dù vậy cái giọng lơ lớ cũng không ngăn cản Henri KiSSinger trở thành Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ tuy rằng ban đầu Tổng thống Richard Nicson đề nghị KiSSinger ít phát biểu trước công chúng để khỏi làm tổn thương uy tín của chính phủ. Nhưng không sao, người Mỹ đã quen với giọng của ông.

        Tất nhiên các cử tri quan tâm hơn về thái độ của Shvartsenegger đối với các vấn đề hiện tại.

        Người ta biết rằng khi đến Mỹ ông còn theo quan điểm của phái cực hữu. Nhưng bà vợ người Mỹ đã có ảnh hưởng lớn đối với ông và ông trở thành khoan nhượng hơn. Giờ đây Shvartsenegger đã bình thản nói rằng người phụ nữ có quyền nạo thai còn những người đồng tính có thể tận hưởng cuộc sống bình thường như bao người khác.

        - Tôi không biết thế nào là tốt, thế nào là xấu trong tình dục. - Shvartsenegger nói với các nhà báo. - Đối với tôi những người đồng tính cũng là người. Người có được sự khoái lạc trong quan hệ tình dục với người đàn ông. Tôi thích phụ nữ. Nhưng cả hai trường hợp đều hợp pháp.

        Shvartsenegger - con người trong tất cả các bộ phim là một nhân vật được vũ trang từ đầu đến chân, luôn lên tiếng phản đối việc tự do bán vũ khí!

        Ông thú nhận rằng thời trẻ đã dùng các loại steroid, hoóc môn giúp phát triển cơ bắp. Điều này ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của ông. Có tin đồn là ông đang ở bệnh viện và các bác sĩ phải tiến hành lọc máu cho ông. Ông dễ dàng bác bỏ những tin đồn đó. Còn steroid chẳng hề làm hại bậc thang chính trị. Nếu có lý do nào ngăn cản ông trở thành thống đốc bang California thì đó chính là quá khứ gia đình của ông.

        Vị thống đốc bang tương lai sinh ra ở Áo. Mẹ ông là người nội trợ còn bố ông là một cảnh sát, một người hâm mộ cuồng nhiệt các cuộc tuần tiễu - điều không có gì là ngạc nhiên đối với một người đặc Đức từ tỉnh lẻ. Đó chính là hình ảnh ông bố của Shvartsenegger. Arnold có vẻ như không phải là đứa con trai được yêu quý nhất trên trái đất này. Dù sao đi nữa thì cậu cũng không về dự đám tang ông. Sau này cậu giải thích qua loa rằng có lẽ do quá bận tập luyện hay đang phải nằm viện điều trị chấn thương do thể thao.

        Vấn đề không phải là ở chỗ nhân vật màn ảnh tương lai từ bé đã nếm đủ sự nghiêm khắc của cha ông. Arnold ngại ngùng về cha mình vì quá khứ của ông không gây được cảm tình đối với người Mỹ.

        Mùa hè năm 1938, chỉ ngay sau khi nước Áo bị sáp nhập vào Đế chế Đức thì bố của Arnold gia nhập đảng Quốc xã.

        Trong thanh phần các đơn vị lực lượng vũ trang Quốc xã ông đã tham gia chiến tranh thế giới thứ hai và làm công việc thiết lập trật tự ở các vùng lãnh thổ Liên Xô bị tạm chiếm.

        Năm 1986 Shvartsenegger cưới Maria Shvaiver - một người thuộc dòng họ danh giá và có thế lực Kenneđi. Cuộc hôn nhân này ngay lập tức giúp ông bước chân vào giới thượng lưu Mỹ.

        Shvartsenegger quyết định chứng tỏ rằng mình cũng có giá trong xã hội thượng lưu và mời đến dự đám cưới một nhân vật mà cả thế giới đều biết. Đó là Kurt Valdkhaim - Tổng thư ký liên hiệp quốc - người đã rời bỏ chức vụ để ra ứng cử Tổng thống Áo. Valdkhaim sẵn sàng đến dự đám cưới người đổng hương. Shvartsenegger rất cảm động nói với Valdkhaim: “Tôi rất yêu quý ông”, điều mà không lâu sau đó ông đã phải hối tiếc.

        Sau đó ông phát hiện ra rằng Kurt Valdkhaim là tội phạm chiến tranh.

        Vậy những người Áo đó là ai? Có phải cũng là những người Đức? Hay là một dân tộc tách biệt nào khác? Ngay bản thân những người Áo cũng không tìm ngay được câu trả lời. Nước Áo được thành lập sau chiến tranh thế giới thứ Nhất. Những người chiến thắng đơn giản là chia nhau đế quốc Áo- Hung bại trận.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #71 vào lúc: 03 Tháng Tư, 2018, 02:52:42 am »


        Năm 1918 nhân dân Slavơ và người Hungary tách ra khỏi thành phần đế chế. Lúc đó ở Châu Âu người ta nói một cách kiêu ngạo: “Nước Áo chỉ là những gì còn sót lại”. Từ một cường quốc vĩ đại, từ đế quốc Áo-Hungary chỉ còn lại là một nước Áo nhỏ bé mà đại đa số dân cư ở đó là người Đức.

        Các phần còn lại này sẽ là một quốc gia có chủ quyền hay lại bị sáp nhập vào nước Đức - câu hỏi này chưa thể giải quyêt được trong một sớm một chiều.

        Trong những năm ba mươi, một số người Áo nghĩ rằng nếu quả thực họ là người Đức thì thật là lạ lùng nếu họ sống bên ngoài nước Đức. Hơn nữa Áo lại là một nước nhỏ và yếu kém, một sự hình thành tạm thời và ngẫu nhiên trên bản đồ chính trị. Người Áo trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới chưa kịp yêu đất nước của mình.

        Nước Áo giống như một hộp sô-cô-la sang trọng buộc băng đỏ. Hay, dù sao thì nước Áo muốn có vẻ như vậy. Những đỉnh núi Al-pơ tuyết trắng, nhạc kịch thành Viên, sông Đa-nuýp xanh với những tàu kéo cũ gợi nỗi buồn nhớ tổ quốc, những điệu Vals của Straus, tình yêu đối với phong cách sống cũ -  Gemutlichkeit.

        Tại sao tại Áo chủ nghĩa bài Do Thái lại điên cuồng, hung dữ hơn so với ở ngay nước Đức?

        Trước chiến tranh ở Áo có một trăm chín mươi ngàn người Do Thái sinh sống, cứ ba người thì có một người đã chết trong các trại tập trung.

        Câu trả lời cần tìm trong tâm lý của những người nông dân vùng Al-pơ đầy thiên kiến - những người đã không thế khắc phục được nỗi sợ hãi của mình khi đế chế sụp đổ.

        Năm 1920 từ một đế quốc Áo-Hung chỉ còn lại một lãnh thổ không lớn hơn bao nhiêu so với công quốc Habsburg thời trung cổ. Quân lính trong quân đội chủ yếu là người Hung. Những người Slavơ nghèo từ Bohemia, Moravia, Ba Lan, từ Ban căng đổ xô về Viên để tìm công ăn việc làm.

        Nước Áo là một nước xu hướng Thiên chúa giáo mạnh nhất trong số các quốc gia thuộc Đức. Otto fon Biskmark không ưa nước này. Vùng PruSSia không phản đối việc khai trừ Áo khỏi liên bang Đức năm 1866.

        Áo là vị khách không mời trong một đại gia đình các quốc gia Đức. Như vậy việc sáp nhập vào nước Đức năm 1938 là một sự nhẹ nhõm, kết thúc sự đợi chờ kéo dài suốt trăm năm bị ruồng bỏ. Nước Áo đã nuôi trồng trong mình tất cả những gì mang tính Đức và thả sức căm ghét những người Slavơ, Do Thái và Di-gan - những người làm chấn động Châu Âu.

        Và kết quả là năm 1938 Hitler đã dễ dàng sáp nhập nước Áo vào đế chế Đức Quốc xã.

        Kurt Valdkhaim sinh ra có tên là Kurt Vatslavic. Lúc đó là năm 1918. Đất nước còn bị gọi là đế quốc Áo-Hung nhưng đang ở trong những ngày cuối cùng. Khi bố Kurt từ quân ngũ trở về sau chiến tranh thế giới thứ Nhất thì ông đã rơi vào một nước khác. Từ một đế quốc cũ nay chỉ là các tỉnh của Đức mà thôi.

        Phần lớn cuộc đời bố Kurt mang họ Tiệp, ở đế quốc Áo- Hung, tất cả đã xáo trộn. Nhưng ở nước Áo mới ông nhanh chóng nhận ra rằng với cái họ Tiệp thì không thể thành đạt dược. Do đó Vatslavic đã trở thành Valdkhaim. Dần dần Kurt Valdkhaim hiểu rằng có thể thay đổi không chỉ có họ mà thôi.

        Năm ba mươi tám, gia đình Valdkhaim phản đối sự sáp nhập Áo vào nước Đức Quốc xã. Khi sự việc này trở thành hiện thực thì bố Valdkhaim - một giáo viên trung học đã bị mất việc và thậm chí còn bị tù trong một thời gian ngắn. Nhưng Valdkhaim con lại nhanh chóng định hướng được trong hoàn cảnh mới. Ông gia nhập hội sinh viên Quốc xã và các đội xung kích. Hoàn toàn giống như bố của Arnlod Shvartsenegger.

        Khi chiến tranh bùng nổ Kurt Valdkhaim mặc quân phục sĩ quan lực lượng vũ trang Quốc xã. Còn bố của Shvartsenegger -  một cảnh sát trở thành hiến binh dã chiến.

        Mùa hè năm bốn mươi mốt, sư đoàn bộ binh số 45 thuộc đoàn quân “Trung tâm” - nơi Valdkhaim chiến đấu, đã chiếm được pháo đài Brest. Vì sự tham gia vào các cuộc chiến đẫm máu, trung uý Valdkhaim được thưởng huân chương Thập tự sắt hạng Nhì và huy chương. Ông ta tham gia vào tiêu diệt những đơn vị Hồng quân mắc trong vòng vây và cố gắng thoát về chiến tuyến mình ở phía Đông.

        Sau khi bắt đầu cuộc phản công của Hồng quân gần Matxcơva, tháng 12 năm 1941 thì Valdkhaim không còn gặp may nữa. Ông ta đã bị thương do bị một mảnh đạn đại bác. Người ta đã định cưa chân phải của ông nhưng các bác sĩ đã cứu được cái chân đó. Valdkhaim được đưa vào quân y viện, đầu tiên là ở Minsk và sau đó ở Viên. Còn bố của Arnold Shvartsenegger chiến đấu ở mặt trận Leningrad nhưng số phận đã bảo vệ ông ta.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #72 vào lúc: 03 Tháng Tư, 2018, 02:53:03 am »


        Sau chiến tranh Valdkhaim viết trong hồi ký của mình (cũng đã được dịch sang tiếng Nga) rằng ông được giải ngũ vì lý do sức khoẻ, và từ năm bốn hai đến năm bốn tư nghiên cứu luật học ở Viên. Ông đã thôi không tham gia chiến tranh. Điều này không đúng. Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã nói dối. Hội đồng y khoa công nhận là Kurt Valdkhaim đủ tiêu chuẩn tiếp tục phục vụ trong quân đội cả sau khi bị thương. Như vậy tháng 3 năm 1942, trung uý Valdkhaim được điều về bộ chỉ huy của tập đoàn quân Đức số 12. Tập đoàn quân này đóng trên lãnh thổ Nam Tư bị chiến tranh tàn phá - nơi mà cuộc chiến tranh du kích đang diễn ra. Valdkhaim được điều vào một đơn vị chiến đấu ở Tây Bosnia. Ở đó quân du kích Nam Tư của Iosip Bros Titô đã giáng những đòn thấm thìa vào đội quân Croatia độc lập.

        Trong lịch sử, nhà nước Croatia tự chủ đầu tiên xuất hiện nhờ có Hitler và MuSSolini. Đứng đầu quốc gia là Ante Palevich, nhà lãnh đạo nhóm Ustasha dân tộc chủ nghĩa ở Croatia. Bộ tư lệnh lực lượng vũ trang Quốc xã quyết định giúp các đồng minh Croatia của mình và quét sạch du kích khỏi vùng này.

        Các cuộc giao tranh diễn ra vài tuần lễ. Du kích chống trả quyết liệt. Tất cả du kích bị bắt với vũ khí trong tay đều bị ra lệnh bắn chết, còn những người dân nào giúp đỡ du kích thì bị đưa sang Đức lao động cưỡng bức. Valdkhaim cùng các sĩ quan Đức khác quyết định số phận của người Bosnia: Những người có sức khoẻ bị đưa sang Đức làm việc, còn những người yếu chuyển cho cảnh sát Croatia tiêu diệt, về mức độ tàn bạo của bọn Ustasha không ai sánh kịp - chúng dùng những con dao lưỡi cong đặc biệt để cắt cổ kẻ thù của mình. Sau cuộc giao tranh Valdkhaim được đưa vào danh sách các sĩ quan xuất sắc. Thủ lĩnh Croatia phát xít Ante Pavelich đã thưởng cho ông huy chương bạc của nhà vua Zvonirrur gắn kèm lá sồi - “vì lòng dũng cảm thể hiện trong các cuộc giao tranh với bọn phiến loạn”. Tháng 4 năm 1944, thượng uý Valdkhaim trong khi đang tiếp tục phục vụ trong quân ngũ đã bảo vệ luận án tiến sĩ trong đó gọi nước Đức Quốc xã là “vị cứu tinh Châu Âu”. Trong quân ngũ, vị tiến sĩ luật học này cũng thăng tiến nhanh. Ông được điều về bộ chỉ huy tập đoàn quân "E” đóng ở Hy Lạp. Chỉ huy tập đoàn là thượng tướng không quân Alexandr Lior. Cũng như Valdkhaim ông này là người Áo và phục vụ đến chức chỉ huy các lực lượng không quân ở cộng hoà Áo. Sau lại được điều về Liuftvaffe. Thượng tướng Lior chỉ huy toàn bộ các đơn vị quân đội Đức ở Đông nam Châu Âu, nhiệm vụ của chúng là duy trì chế độ chiếm đóng.

        Valdkhaim - một sĩ quan cẩn thận và có trách nhiệm thuộc phòng chiến thuật ghi chép nhật ký về các hoạt động quân sự. Các mệnh lệnh và báo cáo về việc lưu đầy người Do Thái ra khỏi Hy Lạp, về các cuộc càn quét chống du kích, về việc đuổi hàng loạt dân thường... đều qua tay ông.

        Sau này Valdkhaim đã thề rằng không hay biết gì. Nhưng những nhà sử học kỹ lưỡng lại phát hiện được trong hồ sơ lưu trữ của lực lượng vũ trang Quốc xã các báo cáo mà tự tay ông ta viết. Ông ta biết tất cả. Và với tất cả sức lực của mình ông ta đã tham gia vào các công việc mà sau này cố quên đi. Ông ta là một con vít nhỏ nhưng tin cậy trong guồng máy giết người của Hitler.

        Có thể chấp nhận sự khăng định của Valđkhaim rằng ông không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thi hành các mệnh lệnh của cấp trên của mình. Ông là một người bình thường -  một người sống bình yên và làm việc. Nhưng có lẽ đó là bài học quan trọng nhất của đệ tam Đế chế: Nếu không có sự giúp đỡ của những con người như vậy thì Hitler chắc không thể giết được nhiều triệu người.

        Mùa thu năm 1943 Valdkhaim được điều về phòng tình báo và được giao nhiệm vụ nghiên cứu biên bản hỏi cung những du kích bị bắt. Đây cũng là một chi tiết mà ông cố quên. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ mười một ngày Hitler lên nắm chính quyền, năm 1944, Valdkhaim nhận được phần thưởng mới - Thập tự “vì công trạng” hạng Nhì với một thanh kiếm. Tháng 5 năm 1945 thượng uý Valdkhaim ra hảng người Mỹ. Nhưng ông đã nhanh chóng được thả về nhà.

        Các nước đồng minh đang phân vân. Làm gì với người Áo? Trừng phạt họ như trừng phạt người Đức vì họ cũng là một bộ phận của Đệ tam đế chế? Hay coi Áo là nạn nhân đầu tiên của nước Đức? Người ta chọn phương án thứ hai. Ở Áo người ta quyết định chỉ trừng phạt những chỉ huy cao cấp, còn những tên Quốc xã tầm thường có thể trông cậy vào sự khoan hồng.

        Cũng y hệt như vậy, bố của Arnold Shvartsenegger không bị thiệt hại gì. Ông không những không bị đưa vào loại tội phạm chiến tranh mà lại còn được quay về với công việc yêu quý của mình là phục vụ trong ngành cảnh sát. Hai năm sau chiến tranh đứa con hai ông - nhân vật tương lai của nền điện ảnh thế giới cất tiếng khóc chào đời.

        Vì Kurt Valdkhaim vào phục vụ trong bộ máy nhà nước -  Bộ ngoại giao nên ông phải trải qua thủ tục xác định nguồn gốc dân tộc. Hổ sơ của ông dược chuyển cho một uỷ ban, nhưng uỷ ban này đã bận quá nhiều việc nên chăng thèm xem xét gì, họ báo cáo cho Valdkhaim rằng ông trong sạch. Thật đáng khen cho tính chính xác của người Đức!
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #73 vào lúc: 03 Tháng Tư, 2018, 02:53:25 am »


        Nhưng có một mối nguy hiểm khác đang đe doạ ổng, mối nguy hiểm từ phía Nam Tư - lãnh thổ mà ông đã chiên đấu ở ctó. Nguyên soái Iosip Bros Titỏ có nhửng món thanh toán dối với nước Áo. Ông khăng khăng lập trường là vùng ctất Karintia của Áo phải thuộc về Nam Tư.

        Nhưng nước Áo không dồng ý từ bỏ một phần của lãnh thổ. Lúc dó ở Nam Tư người ta bóng gió răng trong chính phủ Áo, đặc biệt là trong Bộ ngoại giao có quá nhiều cựu đảng viên Quốc xã. Một tù binh sẵn sảng khang định rằng Valdkhaim là “một tên Quốc xã tầm cỡ” và trực tiếp có lỗi trong việc các con tin bị bọn Đức bắn chết. Chính phủ Nam Tư đã chuẩn bị tài liệu đòi ghi tên nhà ngoại giao Áo Valdkhaim vào danh sách các tội phạm chiến tranh Quốc xã và đưa người này ra toà.

        Đây không phải là sự de doạ suông. Thượng tướng Liuftvaffe Alexanđr Lior người trước dây là cấp trên của Valdkhaim, đã bị tuyên án tử hình tháng 2 năm 1947 ở Belgrad và dã bị xử bắn. Còn Valdkhaim dã găp may.

        Vào phút chót ở Belgrad người ta đã từ bỏ ý định. Valdkhaim được điều đến làm việc ở đại sứ quán Áo tại Pháp và ông không còn nghiên cứu vấn đề Karintia nửa. Sự việc đã được khép lại song cánh cửa công danh bắt đầu mở rộng đối với ông.

        Valdkhaim giành nhiều thắng lợi trong lĩnh vực ngoại giao, còn chính trị trị quan trọng hơn tính chính nghĩa lịch sứ. Chính quyền Nam Tư thực hiện sự lựa chọn có lợi cho quan hệ tốt với nước Áo láng giềng. Một số năm sau người đứng đầu Nam Tư Iosip Bros Tito đã tự tay trao cho Valdkhaim huân chương Nam

        Tư. Đó là phần thưởng thứ hai mà ông nhận được trong đất nước này. Phần thưởng đầu tiên được trao bởi Ante Palevich -  tên tội phạm chiến tranh và thủ lĩnh của các nhóm Croatia.

        Thật ngạc nhiên khi không một ai để ý đến việc Kurt Valdkhaim làm gì trong những năm chiến tranh thế giới thứ Hai trong khi tất cả những người Đức trai trẻ đều phục vụ trong quân đội.

        Những tình tiết đáng ngờ trong đời sống của ông không hề được nhắc đến trong bất kỳ một sổ tra cứu quốc tế nào cũng như trong bất kỳ một tiêu sử đặc biệt nào. Còn khi có ai đó hỏi ông về những năm tháng chiến tranh thì Valdkhaim kiêu hãnh trả lời: “Tất nhiên là người ta cũng gọi tôi vào lực lượng vũ trang như tất cả mọi người. Tôi là kỵ binh ở mặt trận với Nga, còn sau khi bị thương người ta cho tôi giải ngũ”.

        Ai dám quy lỗi cho Valdkhaim về số phận một thế hệ? Tuy nhiên cũng có cơ sở để cho rằng các cơ quan đặc vụ Hoa Kỳ và của Liên Xô đều biết quá khứ tội lỗi của Tổng thư ký Liên hiệp quốc, vì vậy mỗi khi cầu cạnh ông họ chưa bao giờ bị từ chối điều gì.

        Năm 1971 các cường quốc đưa ông lên làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc. Sau đó ông lại được bầu nhiệm kỳ sau. Người phó của Valdkhaim về các vấn đề chính trị là một nhà ngoại giao Xô Viết Arkadi Nikolaevich Shevechenko - cựu trợ lý Bộ trưởng ngoại giao Gromưko. Năm 1978 ông chạy sang hàng ngũ người Mỹ. Shevchenko kể rằng Valdkhaim luôn ủng hộ các đại diện Xô Viết.

        Khi kỳ hạn năm năm của Valdkhaim ở Liên hiệp quốc kết thúc thì con người sở hữu chức vụ có một không hai trên thế giới trở về tổ quốc trong vầng hào quang thế giới trong khi vẫn khao khát hoạt động tích cực. Cảm thấv mình là dân tỉnh lẻ giữa Châu Âu những người Áo hy vọng rằng người đồng hương danh tiếng sẽ giúp họ có được một vị trí nổi bật hơn trong đời sống xã hội thế giới.

        Nhưng giữa chiến dịch bầu cử tổng thống đang diễn ra sôi động thì trong các ấn phẩm của cánh tả ở Áo lại xuất hiện sự phanh phui giật gân: người đem lại hoà bình chuyên nghiệp - Tiến sĩ Kurt Valdkhaim là tên tội phạm chiến tranh Quốc xã.

        Điều này không làm tất cả người Áo bực bội.

        Người Áo chỉ chiếm có tám phần trăm dân số Đệ tam đế chế. Nhưng những tên Quốc xã xuất thân từ Áo đã giết một nửa trong số sáu triệu người Do Thái bị tiêu diệt dưới thời Hitler. Chủ nghĩa bài Do Thái ở Áo còn mạnh hơn ở Đức. Những tên Quốc xã địa phương về mặt tư tưởng đã tham gia tiêu diệt cả một dân tộc. Bảy năm nằm trong thành phần Đệ tam đế chế, bảy năm của cơ quan tuyên truyền Quốc xã không trôi qua một cách vô ích. Những tư tưởng Quốc xã đã bắt rễ sâu đến mức đến tận tháng 5 năm 1945 vẫn không hề hấn gì.

        Ngay sau chiến tranh đảng xã hội chủ nghĩa Áo thông qua nghị quyết không đề bạt các cựu đảng viên Quốc xã vào các vị trí quan trọng của đảng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #74 vào lúc: 03 Tháng Tư, 2018, 02:53:55 am »


        Năm 1970, trong số mười một bộ trưởng Áo (tất cả thuộc Đảng xã hội chủ nghĩa) thì bốn người là cựu đảng viên Quốc xã tích cực, một trong số đó thậm chí còn có chân trong SS:

        - Bộ trưởng nội vụ Otto Riosh (thẻ đảng No 8595796).

        - Bộ trưởng xây dựng Iozef Mozer (thẻ đảng No 6269837).

        - Bộ trưởng vận tải Ervin Friubauer (thẻ đảng No 10033793).

        - Bộ trưởng nông nghiệp Hans Fllinger là sĩ quan phục vụ trong SS.

        Viên cựu SS sau vụ tai tiếng đã đệ đơn từ chức vì lý do “sức khoẻ yếu”. Thay chức Bộ hưởng nông nghiệp của ông là Oskar Vais, một cựu đảng viên Quốc xã.

        Mùa thu 1975, trước cuộc bầu cử nghị viện, người ta được biết ràng chức phó thủ tướng dư định dành cho thù lĩnh đảng tự do Fridric Peter. Người ta phát hiện ra rằng ông này đã từng chiến đấu ở mặt trận phía Đông trong thành phần lữ đoàn bộ binh SS số 1. Trên lãnh thổ Liên Xô mùa hè năm 1941 lữ đoàn đã “xuất sắc” trong việc giết trại dân thường. Các tài liệu này đã được trình lên Tổng thống Áo Rudolf Kirkshleger.

        Fridric Peter bắt đầu giải thích rằng ông chỉ là một lính trơn và chưa bao giờ tham gia bắn giết dân thường, thậm chí cũng không biết gì về các cuộc bắn giết đó. Nếu các cuộc bắn giết đó là có thực thì có thể là vào thời điểm ông đang nghỉ phép... Nhưng theo các tài liệu thì mùa hè năm 1941 không một tên lính SS nào thuộc lữ đoàn số 1 này được đi nghỉ phép. Còn các cuộc bắn giết do các đơn vị của lữ đoàn thực hiện thì diễn ra hàng ngày, hết tuần này đến tuần khác. Theo ước tính thì lữ đoàn số 1 đã giết hơn ba trăm ngàn người Liên Xô.

        Fridric Peter không thể trờ thành phó thủ tướng nhưng ông vẫn là nghị sĩ quốc hội và thủ lĩnh đảng cho đến khi một nhà chính trị trẻ hơn lên thay ông.

        Trong bối cảnh đó đã xuất hiện thông cáo về sự tham gia của ứng cử viên Tổng thống Valdkhaim vào các tội ác chiến tranh. Simon Vizetal gọi điện cho Kurt Valdkhaim.

        - Thưa ngài tiến sĩ Valdkhaim - Vizetal hỏi - Cộng đồng Do Thái ở thành phố Saloniki Hv Lạp là một trong những cộng đồng lớn nhất và lâu đời nhất. Bộ chỉ huy mà ngài phụ trách ở đó chỉ cách Saloniki có vài cây số. Lẽ nào ngài không biết một tí gì về việc lưu đầy người Do Thái?

        - Xin hãy tin tôi, tôi hoàn toàn khổng biết gì về điều đó. - Valdkhaim trả lời.

        - Việc lưu đầy kéo dài một tháng rưỡi. Hàng ngày người ta đưa vào trại tập trung khoảng hai ngàn người Do Thái. Các đoàn tàu quân sự chở súng đạn cho lực lượng vũ trang Quốc xã và trên đường về chở những người Do Thái những người chờ chết.

        - Tôi không liên quan gì đến việc đó cả.

        - Chắc ngài thường lui tới câu lạc bộ sĩ quan. Lẽ nào không một ai trong số các sĩ quan nói đến việc lưu đầy?

        - Không một ai và không bao giờ.

        - SS không cho những người Do Thái bị lưu đầy ăn vì vậy chỉ huy lực lượng vũ trang Quốc xã bắt cung cấp một lượng bánh mì nhất định. Mỗi sĩ quan trong ban chỉ huv chịu trách nhiệm cung cấp cho quân đội đều biết điều nay. Lẽ nào ngài không nghe thấy một ai trong số họ nói gì?

        - Không.

        - Ngài thường xuyên đến Saloniki. Người Do Thái chiếm một phần ba dân số thành phố này. Lẽ nào ngài không nhận thấy điều gì? Các cửa hàng của người Do Thái bị đóng cửa. Còn bản thân họ thì bị giải đến nơi bốc đi. Và ngài cũng không nhìn thấy sự việc này.

        - Không, tôi chăng nhận thấy gì cả. -Valđkhaim trả lời.

        Simon Vizental dram dứt cuộc nói chuyện vô nghĩa với câu:

        - Tôi không tin ngài.

        Tháng 6 năm 1986, một nhóm các nhà sử học đáng kính đã tìm hiểu sự thật. Tháng 2 năm 1988 nhóm đã hoàn thành công việc. Kết luận của các nhà sử học: Valdkhaim đã dối trá khi nói rằng ông ta chẳng biết một tí gì.

        Khi xảy ra vụ bê bối, những người Áo bướng bỉnh xuất phát từ tinh thần phản đối đã bầu Valdkhaim là Tổng thống của đất nước mình. Nhưng đã không thể thay đổi được gì.

        Tất nhiên cung điện Hofburg ở Viên - đại bản doanh của người đứng đầu quốc gia khó có thể gọi được lả nhà tù. Nhưng khi Kurt Valdkhaim làm Tổng thống Áo thì ông cảm thấy như mình đang bị giam cầm. Với cương vị người đứng đầu quốc gia người ta dành cho ông sự kính trọng cao nhất. Nhưng bên ngoài lãnh thổ Áo thì không một ai muốn quan hệ với ông. Việc nhập cảnh vào Hoa Kỳ - nơi mà ông đã có những năm tháng đẹp nhất trong đời khi còn ở cương vị Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đối với ông đã bị cấm hắn. Bộ trưởng tư pháp Mỹ đã đưa tên ông vào danh sách các tội phạm đang bị truy lùng và bị bắt ngay lập tức.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #75 vào lúc: 03 Tháng Tư, 2018, 02:54:18 am »


        Năm 1988, Tổng thống Hoa Kỳ Ronal Regan cử Henri Antoli Griunvald - Tổng biên tập báo “Time” làm đại sứ ở Viên. Griunvald đã có khả năng trở về nước với khúc khải hoàn nơi mà trước đây bố mẹ Do Thái của ông đã bắt buộc phải trốn chạy. Nhiệm vụ của Griunvald là thể hiện sự không hài lòng của Washington về việc cương vị Tổng thống của đất nước lại do Kurt Valdkhaim - một người đã cộng tác với bọn Quốc xã trong những năm chiến tranh nắm giữ.

        Người Áo tức giận về câu chuyện liên quan đến Kurt Valdkhaim. Họ không tức giận mình vì đã chọn không đúng người mà tức giận những người khác và cho rằng thế giới không có quyền lên án nước Áo và tất cả người Áo. Họ không hiểu tại sao người ta lại đối xử nghiêm khắc như vậy đối với mình.

        Và chỉ có Thủ tướng Frank Vranitski mới có một bài diễn văn dũng cảm nói với cả nước. Ông nói rằng người Áo có món nợ trước người Do Thái, trong đó có cả về sự hưng thịnh đời sống tinh thần ở Viên vào đầu thế kỷ XX. Rằng người Áo phải nhận thức một cách trung thực những điều tàn bạo mà họ đã làm, rằng họ đã ủng hộ một hệ thống tiêu diệt người Do Thái cùng như không nên cố quên tất cả những điều đó và viết lại lịch sử...

        Người Nga và những người dân Áo có nhiều điểm chung. Đã có thời người Áo cũng đã có những cảm xúc dễ đồng cảm và gần gũi đối với người Nga. Mới cách đây không lâu họ còn là thần dân của một đế quốc vĩ đại mà láng giềng sợ hãi, bỗng nhiên nay trở thành công dân của một quốc gia không lớn lắm và ít có ảnh hưởng đối với nền chính trị thế giới. Vậy phải làm gì trong bối cảnh này? Cố thành lập một đế chế mới, một quốc gia vĩ đại mới để bắt những nước xung quanh sợ mình, hay bắt đầu một cuộc sống mới - một cuộc sống bình thường?

        Người Áo đã thử cả hai phương án. Việc sáp nhập vào đế chế Hitler đã trả lại cho họ một cảm giác ngọt ngào không lâu của sự hùng tráng đế quốc. Nhưng nếu trong số những người Áo lại có những người không thể tìm thấy cho mình ý nghĩa cuộc sống nếu đứng ngoài nước Đức thì sự sụp đổ đế chế đã cứu họ khỏi sự lầm lạc đó. Việc sáp nhập vào Đức đã đưa người Áo đến một thảm hoạ hoàn toàn. Sau đó họ đã tự giải phóng mình khỏi tình yêu, sự lệ thuộc đối với một “cánh tay khoẻ” và đã học được cách quý trọng tự do.

        Sau chiến tranh, nước Áo cũng như nước Đức bại trận bị chia ra thành những khu vực bị cai quản. Nhưng nước Áo đã làm được điều mà nước Đức không làm được. Nước Áo được giữ lại như một quốc gia duy nhất. Các cuộc đàm phán căng thẳng diễn ra trong mười năm về tương lai của một nước nằm giữa hai thế giới. Trong thời kỳ “chiến tranh lạnh” cả phương Tây và phương Đông đều không muốn nhường cho nhau vùng đất quan trọng về chiến lược này.

        Ngày 15 tháng 5 năm 1955, các bộ trưởng ngoại giao của bốn cường quốc đồng minh cùng với Bộ trưởng ngoại giao Áo đã ký một hiệp định quốc gia. Nước Áo được trả tự do và độc lập sau khi hứa sẽ vĩnh viễn là một nước trung lập. Sự trung lập là cái giá mà người Áo đã trả để có quyền có quốc gia riêng của mình.

        Một dân tộc đã hàng trăm năm tham gia vào hầu hết các cuộc xung đột ở Châu Âu không thể nhận thức ngay rằng họ phải đứng ngoài các cuộc ẩu đả, giằng co và rằng họ không được can thiệp vào bất cứ việc gì. Những ký ức về quá khứ vinh quang đã ngăn cản họ.

        Nước quân chủ Áo-Hung có diện tích lớn thứ hai ở Châu Âu sau nước Nga, còn về dân sô đứng thứ ba sau Nga và Đức. Từ 1529 nước Áo là hạt nhân của một cường quốc vĩ đại và người Áo đã quen sống trong một liên minh chính trị lớn.

        Nhưng thực tế là một quốc gia không lớn lại có thể là một tổ quốc, một tổ quốc rất tốt lành và bình yên. Và dần dần khi người ta thấy rằng quốc gia này còn có khả năng hưng thịnh về kinh tế thì tình yêu đối với nước Áo lớn nhanh tới mức không thể tưởng tượng nổi.

        Đế quốc hùng mạnh đã biến mất chỉ để lại sau minh một quốc gia không lớn - một quốc gia không chỉ sống sót mà bắt đầu hưng thịnh.

        Người Áo hiện đại nhìn nhận thế giới một cách tỉnh táo. Họ không hê cảm thấy đau khổ về việc sống trong một quốc gia nhỏ bé chứ không phải trong một đế quốc vĩ đại. Ở Áo ít người nhớ tới cái đế quốc đã biến mất. Người Áo đã thoát khỏi quá khứ đế quốc. Họ thích cuộc sống yên bình và tốt lành.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #76 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2018, 01:32:55 pm »

       
PHẦN BA

TƯỚNG VLASOV -NHỮNG NGƯỜI  THẦY VÀ CHIẾN HỮU

        LẠI THÊM MỘT HỌC SINH CHỦNG VIỆN

        Nếu lịch sử diễn biến khác di thì có lẽ báo “Sao đỏ” cùng sẽ kỷ niệm những năm chẵn của một nhà chỉ huy quân sự lỗi lạc. Thực ra ông có thể đã đi vào lịch sử nhưng hoàn toàn không giống với ý muốn của ông. Ở một góc độ nào đó thì ông quả là người không gặp may chút nào. Nếu không thì khi chiến tranh chấm dứt ông cũng đã có thể trở về với ngôi sao nguyên soái trên cầu vai. Và cùng với thời gian lọ tro hài cốt ông cũng dược chôn trong chân tường điện Krem-lin rồi để tưởng nhớ người ta có thể cũng sẽ lấy tên ông đặt tên cho một đường phố ở Matxcơva. Nhưng mọi sự hoàn toàn khác. Ông đã bị treo cổ. -  Đó là những điều nói về cựu trung tướng Hồng quân Andrei Andreevich Vlasov.

        Những người đương thời và những nhà chép tiểu sử gọi Vlasov theo cách khác nhau - nào là kẻ phản bội, nào là nhà chỉ huy quân sự lỗi lạc. Không thể phủ nhận ông là một viên tướng tháo vát, can đảm và hiếu danh. Bước đường công danh của ông nhờ vào các khả năng bẩm sinh và chỉ thị trực tiếp của Stalin. Lãnh tụ rất thích các viên tướng cao và có dáng hùng dũng. Tiện đây cũng cần nói thêm rằng trong tiểu sử của Stalin và của Vlasov có một điều gì đó giống nhau.

        Andrei Vlasov sinh ngày 1 tháng 9 năm 1901 ở tỉnh Niznegorod. Sau cách mạng ông theo học khoa nông học ở trường đại học nhưng chỉ học có một năm. Tháng 5 năm 1920 ông bị gọi nhập ngũ Hồng quân.

        Sau vài khoá học ngắn của ban chỉ huy ông đã kịp chiến đấu ở mặt trận chống Vrangel. Ông từ chối giải ngũ và chọn con đường binh nghiệp. Vlasov chậm chạp leo lên các bậc thang binh nghiệp, lần lượt chuyển từ quân dịch sang công tác tham mưu. Ông đã tốt nghiệp các khoá xạ thủ chiến thuật tổ chức hàng năm nhằm bồi dưỡng cho đội ngũ chỉ huy “Vưstrel”, một năm học hàm thụ ở Viện hàn lâm.

        Tháng 9 năm 1938, ông được cử giữ chức chỉ huy sư đoàn xạ thủ số 72 ở vùng Kiev, nhưng ngay lập tức được cử đi công tác đặc biệt mà các chỉ huy Hồng quân không được quyền nhắc đến công tác đó thậm chí cả trong các tài liệu công tác.

        Trong lý lịch tự thuật Vlasov luôn viết: chưa hề ra nước ngoài. Đó không phải là sự thật. Trong những năm đó những nhà quân sự Xô Viết có hai tuyến ra nước ngoài - sang phương Tây: đến Tây Ban Nha, hoặc sang phương Đông: đến Trung Quốc. Vlasov được điều sang phương Đông.

        Tháng 8 năm 1937, chính phủ Liên Xô ký với Trung Quốc hiệp ước không tấn công lẫn nhau. Trên thực tế, theo các nhà sử học thì đó là hiệp ước tương trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống Nhật. Vũ khí, đạn dược từ Liên Xô bắt đầu được chở đến Trung Quốc.

        Tiếp sau vũ khí là các chuyên gia quân sự. Tháng 2 năm 1938, các phi công Liên Xô lần đầu tiên tham chiến trên bầu trời Trung Quốc. Trong cuộc không chiến trên vùng Vũ Hán họ đã bắn rơi mười hai máy bay Nhật. Các phi công Liên Xô đã giúp bảo vệ các thành phố lớn của Trung Quốc khỏi sự tấn công của không quân Nhật. Ba ngàn rưởi quân nhân Xô Viết đã kinh qua mặt trận Trung Quốc.

        Đại tá Vlasov đến Trung Quốc vào đầu tháng 9 năm 1938. Ông được cử làm cô vấn trưởng của nguyên soái chỉ huy quân khu số 2. Sau khi về nước vào tháng 9 năm 1939, Vlasov được cử chỉ huy sư đoàn số 99 đóng tại Đông bắc Peremưshli. Tháng 5 năm 1940 bắt đầu phong hàm tướng cho đội ngũ chỉ huy. Trong biên bản nhận xét của Vlasov có ghi: “Một chỉ huy sư đoàn tháo vát, có triển vọng - xứng đáng được phong danh hiệu thiếu tướng”. Ngày 4 tháng 6 ông nhận hàm tướng. Thông báo cùng ảnh chân dung được đăng trên báo “Sự thật”.

        Tháng 11 năm 1940, vị tư lệnh mới của đặc khu Kiev -  thượng tướng Georgi Konstantinovich Zhukov thông qua bản nhận xét công tác của Vlasov, trong đó nói rằng Vlasov có trình độ cao về chiến thuật và tác chiến, đồng thời có uy tín trong quân đội.

        Cuối tháng 9, các cuộc tập trận sư đoàn diễn ra dưới sự giám sát của uỷ viên hội đồng quốc phòng - Nguyên soái Semen Konstantinovich Timoshenko và Tổng tham mưu hưởng mới của Bộ tổng tham mưu Kiril Afanasievich Meretskov. Sau này Vlasov còn được phục vụ dưới sự chỉ huy của Meretskov.

        Viên chỉ huy sư đoàn Vlasov đã phô trương trước toàn sư đoàn một kỹ năng chiến đấu tốt. Cuộc tập trận diễn ra với việc bắn đạn thật, bộ binh tin tưởng bám theo sát hàng rào lửa. Sư đoàn của Vlasov gây một ấn tượng đẹp đẽ nhất đối với vị uỷ viên hội đồng quốc phòng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #77 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2018, 01:33:53 pm »


        Ngày 27 tháng 9, Nguyên soái Timoshenko hài lòng nói:

        - Tôi khẳng định rằng không phải bằng lời nói mà bằng việc làm người ta đã hiểu rất rõ cần phải thi hành mệnh lệnh của tôi như thế nào. Tất cả những gì thông báo trên báo chí đã được các bạn kịp thời tiếp thu và thực thi trong công việc thực tế mà chúng tôi đã quan sát trong suốt ba ngày cuối cùng.

        Phát biểu hước các đại diện sư đoàn số 99 - các chiến sĩ Hồng quân và các chỉ huy cấp dưới, Tư lệnh quân khu - thượng tướng Zukov nói:

        - Đâu là bí quyết thành công của các bạn?... Thành công vì các bạn đã nhanh hơn những người khác tổ chức lại việc tập luyện như vị chính uỷ nhân dân đã dạy, khắc phục nhược điểm một cách mạnh mẽ và lao động nhiều để làm sao thực hiện đầy đủ chỉ thị của chính uỷ nhân dân không chỉ trên lời nói mà băng việc làm với tất cả sự bền bỉ bolshevic.

        Sư đoàn 99 của Vlasov nhận được lá cờ đỏ luân lưu của uỷ ban quốc phòng nhân dân. Và lực lượng pháo binh của sư đoàn cũng được tặng thưởng lá cờ đỏ luân lưu đặc biệt. Đầu tháng 10, tờ báo quân đội chính của đất nước “Sao đỏ” có đăng bài của Vlasov dưới đầu đề “Các phương pháp huấn luyện mới”. Sau một tháng, đến tháng 11, tờ “Sao đỏ” lại đăng một phóng sự ca ngợi Vlasov với nhan đề “Người chỉ huy sư đoàn tiên phong”. Năm sau Andrei Vlasov được thưởng huân chương Lênin. Tiếp theo bài báo đó, dưới chữ ký của ông báo “Sao đỏ” lại tiếp tục đăng. Trong quân đội người ta nói đến Vlasov như nói đến một vị chỉ huy sư đoàn ưu tú nhất.

        “Nhớ đến năm 1940 - trong quyển ghi tiểu sử của mình tướng Pert Grigorievich Grigorenko viết - Hầu như không ngày nào mà “Sao đỏ” lại không viết về sư đoàn 99 do Vlasov chỉ huy. Ông có một học vấn tác chiến kiểu mẫu. Những kiện tướng tác chiến tìm đến ông để học hỏi kinh nghiệm. Tôi đã nói chuyện với những người đó và họ kể những điều kỳ lạ.

        Lần thứ hai tôi nghe nói đến Vlasov là vào tháng 11 năm 1941 khi quân đoàn 20 của ông chiếm lại dược thành phố Sonetchnogorsk ở ngoại ô Matxcơva bị Đức chiếm đóng. Người ta lại nói về ông như một nhà chỉ huy quân sự kiệt xuất.”

        Giữa tháng 1 năm 1941, Vlasov được cử chỉ huy tập đoàn cơ giới số 4.

        Vào những tháng đầu chiến tranh, ông tạo được vinh quang của một tướng giỏi, biết xây dựng phòng thủ và đánh các đòn phản công đối phương. Tập đoàn cơ giới chiến đấu ở khu vực Nemirovka và Berdichev, hoạt động rất tích cực. về điều này có thể đọc được trong hồi ký của nguyên soái Ivan Khristoforovich Bagramian, khi đó là chỉ huy ban tác chiến của bộ tư lệnh mặt trận Đông - Nam (tên của tư lệnh tập đoàn quân không được nguyên soái nhắc đến vì những lý do dễ hiểu).

        Nhà thơ Evgeni Dolmatovski, người được gọi nhập ngũ Hồng quân và được đưa vào toà soạn tờ báo “Ngôi sao Xô Viết” thuộc biên chế quân số 6, trong chuyến công tác đầu tiên đã đến quân đoàn của Vlasov.

        “Tôi nhớ mãi gương mặt - Dolmatovski nhớ lại - hai gò má kiểu Mông Cổ, cặp mắt cận thị sau mắt kính gọng to. Một người chân dài, gầy, trầm lặng, thận trọng - như người ta nói đó là người chỉ huy sư đoàn và nổi tiếng trong quân khu Kiev. Sau này gương mặt ông sẽ xuất hiện trên màn ảnh - trong bộ phim “Cuộc chiến bảo vệ Matxcơva”, tên ông vang lên cùng với tên tuổi các vị Zhukov, Govorov, RokoSSovski...

        Trong khi các chỉ huy sư đoàn xe tăng uống cồn pha không loãng thì người chỉ huy quân đoàn với con mắt của người không uống rượu nhìn họ qua cặp mắt kính to và uống sữa từ lọ sành. Ông ngồi trên chiếc giường cứng bằng gỗ trải vải lanh thô, ngồi theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, bắt chéo hai bàn chân to đi đất, và tôi cảm thấy hơi ngượng thấy ông như muốn phô trương móng chân móng tay dẹt vàng xỉn lâu chưa được cắt.

        Ông cho phép mình đi đất và không cài cúc áo tựa như muốn nhấn mạnh địa vị hơn hẳn của mình trong nhóm này.

        Giữa tháng 6, quân đoàn cơ giới số 4 được điều đến Kiev.

        Đối với Nikita Sergeivich Khrushev - Ủy viên hội đồng quân sự mặt trận Tây - Nam thì Vlasov gây được ấn tượng bằng sự bình tĩnh, gan dạ và am hiểu tình hình. Trong những ngày diễn ra thảm kịch của năm 1941, khi mà có vẻ như mọi thứ đang sụp đổ thì ông đã gây niềm tin tưởng cho những người xung quanh.

        Khrushev với cương vị uỷ viên hội đồng quân sự mặt trận và thượng tướng MikhahPetrovich Kirpones - tư lệnh mặt trận Tây Nam đã cố gắng thành lập một tập đoàn quân mới để phòng thủ Kiev và đang tìm một người chỉ huy phù hợp.

        - Khi quân Đức tiến gần đến Kiev - Khrushev kể tại Hội nghị ban chấp hành trung ương tháng 10 năm 1957 - mà chúng tôi thì hầu như chảng có gì để chặn và bịt lỗ hổng, chúng tôi đã cử Vlasov làm tư lệnh tập đoàn quân số 37, và cũng cần phải nói rằng quân đội dưới sự chỉ huy của ông đã chiến đấu tuyệt vời và đã bắt bọn Đức phải từ bỏ ý muốn tấn công Kiev.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #78 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2018, 01:34:35 pm »


        Sau này, khi đọc cho thư ký ghi chép hồi ký, Nikita Sergeevich kể tỉ mỉ hơn về sự việc này:

        - Chúng tôi tìm kiếm người chỉ huy. Người ta giới thiệu với tôi và Kirponov một loạt tướng lĩnh - những người đã bị lạc mất đơn vị quân đội của mình và đang thuộc quyền điều khiển của chúng tôi. Trong số đó Vlasov gây một ấn tượng tốt. Và chúng tôi cùng với tư lệnh mặt trận đã quyết định chọn chính Vlasov. Phòng cán bộ cũng giới thiệu anh ấy và đưa ra những đức tính vượt trội so với những người khác. Dù sao thì tôi cũng quyết định hỏi Matxcơva. Thời đó chúng tôi luôn có ấn tượng là đâu đâu cũng có kẻ thù của nhân dân và đặc biệt là trong Hồng quân. Và tôi quyết định hỏi Matxcơva về các hồ sơ liên quan đến Vlasov.

        Nikita Sergeevich gọi điện cho Georgi Maksimilanovich Malenkov - người phụ trách cán bộ của Ban chấp hành Trung ương.

        - Chúng tôi muốn biết những lời đánh giá về tư cách đạo đức của Vlasov?- Khrushev hỏi.

        - Anh hoàn toàn không tưởng tượng được gì đang xảy ra ở đây. - Malenkov trả lời. - Chẳng có ai và chẳng có gì. Chẳng thể biết được gì từ bất cứ một người nào. Vì vậy hãy tự gánh lấy hoàn toàn trách nhiệm và hãy làm những gì mà anh cho là cần thiết.

        Khrushev và Kirponos quyết đinh cử Vlasov làm tư lệnh tập đoàn quân số 37 được thành lập từ các đơn vị rút lui hoặc những người lính thoát khỏi vòng vây. Kiev không giữ nổi nhưng Vlasov có ít lỗi nhất trong việc này. Quân đội của ông đã chiến đấu đến người cuối cùng, đã phòng thủ một cách nghệ thuật và thậm chí còn giáng lại những đòn phản công.

        Ngày 17 tháng 9, Hội đồng quân sự tập đoàn quân báo cáo về Matxcơva: “Tập đoàn quân số 37 đang nằm trong vòng tác chiến, dự trữ đã hết, cuộc chiến đấu đang tiếp diễn. Do kết quả các cuộc chiến đấu hai mươi ngày đêm nên các đơn vị còn ít quân số, rất mệt mỏi và cần nghỉ ngơi và rất cần chi thêm. Không liên hệ được với các đơn vị xung quanh”.

        Ngày 19 tháng 9, tập đoàn quân tan rã đã bỏ Kiev, và đến cuối tháng thì bị giải thể.

        Bộ chỉ huy tập đoàn quân số 37 cùng với nhiều tướng tá và binh lính rơi vào vòng vây. Một số bị bắt làm tù binh, một số chạy thoát. Nếu tướng Vlasov đích thực là kẻ thù về bản chất của chính quyền Xô Viết và đã từ lâu nghĩ đến việc chạy sang phía Hitler thì ông có thể làm việc đó từ mùa hè năm 1941và hoàn toàn có thể ở lại với người Đức. Nhưng Vlasov đã thoát khỏi vòng vây.

        “Chúng tôi và Timoshenko - Khrushev kể - tất nhiên là rất vui mừng được gặp anh. Anh ấy đến trong bộ quần áo nông dân và báo cáo đã trốn thoát với cái gậy đóng giả một người nông dân. Và lúc đó chúng tôi đã chuẩn bị cho anh một chức vụ mới. Anh đã tạo được sự vinh quang của một tướng giỏi biết tổ chức phòng thủ và giáng cho kẻ thù những đòn đánh trả. Nhưng người ta không cho chúng tôi dùng anh”.

        Khrushev và Timoshenko tiếp viên tướng một cách thận trọng. Người ta không tin tưởng những kẻ đã bị vây. Ngay khi bộ tổng tư lệnh biết rằng Vlasov đã xuất hiện thì Stalin ra lệnh đưa viên tướng về Matxcơva ngay lập tức.

        “Chúng tôi đưa anh ấy đi - Khrushev nhớ lại - thú thật là lúc đó tôi nghĩ rằng có các thông tin nào đó làm tổn hại Vlasov và người ta muốn hỏi cung anh ở Matxcơva.”

        Stalin đã tiếp tướng Vlasov và đối xử với ông rất nhã nhặn và hỏi thăm sức khoẻ của ông. Lãnh tụ quan tâm đến những người do mình đề bạt. Andrei Andreevich đã vài lần viết một cách phấn khởi cho vợ và tình nhân của mình về các cuộc gặp Stalin.

        Năm 1926 Vlasov cưới vợ là Anna Mikhailovna Voronina -  họ là người cùng làng. Andrei Andreevich không thuộc dạng người giữ sự chung thùy vợ chồng. Trước chiến tranh ông có mối tình ở Leningrad và kết quả của mối tình đó là sự ra đời của một đứa trẻ. Vợ Vlasov biết điều này nhưng hôn nhân vẫn giữ được.

        Tuy nhiên Anna Mikhailova thì ở xa - ở với bố mẹ tại địa hạt Gorki. Con người đa tình Andrei Andreevich để ý đến một nữ bác sĩ được cử đến tập đoàn quân của mình. Đó là AgneSSa Pavlovna Podmazenko. Năm 1941, ngay trước chiến tranh cô tốt nghiệp khoa quân sự trường đại học y số 1 ở Kharkov và được động viên vào quân đội. Cô phục vụ với cương vị bác sĩ quân y trong trạm cứu thương của bộ tư lệnh tập đoàn quân số 37 đo Vlasov chỉ huy.

        AgneSSa đã từng có chồng và đã có một con trai. Sự quan tâm của tư lệnh tập đoàn quân đã đánh gục cô. Hơn nữa vị tướng giấu cô rằng mình đã có vợ. Andrei Andreevich cam kết với cô rằng ông có ý định nghiêm túc và sẽ lo việc đăng ký kết hôn của họ. Trong bộ tư lệnh tập đoàn quàn sô 20 AgneSSa Podmazenko được cấp hồ sơ và giấy giới thiệu với cương vị là vợ của tư lệnh tập đoàn. Và chính cô cũng coi mình là vợ tướng Vlasov nên đã nêu tên ông trong các hồ sơ tiểu sử và đơn thư. Chính điều đó sau này đã làm hại cô.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #79 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2018, 01:37:11 pm »


        Tất cả các bức thư của tướng gửi theo địa chỉ của vợ và tình nhân gần như giống nhau. Ông gửi cho cả hai tiền và đồ đạc, với chức tước cao của ông thì sự quan tâm vật chất là đáng kể gì. Ông khăng định với vợ là ông chỉ có một mình bà, còn đối với nhân tình thì luôn nhắc đi nhắc lại là không thể sống thiếu cô.

        Cùng với Vlasov nữ bác sĩ quân y Podmazenko cũng bị rơi vào vòng vây ở gần Kiev ngày 20 tháng 9 năm 1941.

        Sau hai năm tại cuộc hỏi cung tại cơ quan phản gián Smersh cô kể về bộ tư lệnh tập đoàn quân đã phải phân tán ra sao. Tất cả xe cộ đều bị phá hỏng và mọi người đi bộ. Sau vài ngày họ chỉ còn lại ba người: Vlasov, AgneSSa và chính uỷ Evgeni Sverdlichenko. Họ cải trang thành thường dân, vứt bỏ vũ khí và tài liệu trừ chứng minh thư và thẻ đảng viên. Họ may mắn đến không thể tưởng tượng nổi, họ đi qua các thôn làng và đêm ngủ ở đó nếu người ta cho vào trong nhà và chưa lần nào chạm trán với quân Đức.

        Khoảng 20 tháng 10, họ gặp được du kích và được biết là thành phố Kursk ngay bên cạnh nhưng phải gấp lên vì các đơn vị Hồng quân sắp bỏ lại thành phố này. Rất may cho họ là ranh giới mặt trận còn chưa dày đặc nên cuối cùng thì ngày 1 tháng 11 họ đã về được phía quân nhà...

        Stalin trao cho Vlasov, người đã thoát vòng vây, tập đoàn quân số 20 thuộc thành phần mặt trận phía Tây và bảo vệ Matxcơva.

        Tập đoàn quân được thành lập trên cơ sở các nhóm tác chiến của đại tá Alexandr Ilich Liziukov. Năm 1939, Liziukov bị bỏ tù. Trước chiến tranh được thả ra. Tháng 8 năm 1941, ông được phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô, nhưng người ta cũng không vội vàng đề bạt làm tư lệnh tập đoàn quân. Liziukov được đề bạt làm phó của Vlasov.

        Tháng 12, ông được phong hàm thiếu tướng và sau đó không lâu cũng được phong chức tư lệnh tập đoàn xe tăng số 5. Tháng 7 năm 1942, ông hy sinh trong xe tăng ở mặt trận Voronesh. Tháp xe tăng bị đạn đại bác bắn nổ tung và không thể nhận diện được ngay thi thể của ông. Còn người ta đã vội vã báo cáo với Stalin rằng tư lệnh tập đoàn quân sô 5 đã biến mất.

        Lãnh tụ tức giận hỏi:

        - Liziukov ở với bọn Đức? Chạy sang hàng ngũ chúng?

        Báo “Sao đỏ” bị cấm đăng bài cáo phó Liziukov.

        Chính uỷ sư đoàn Pert Nicolaevich Kulikov trở thành uỷ viên hội đồng quốc phòng tập đoàn quân số 20. Chức tham mưu trưởng tập đoàn quân của Vlasov được trao cho thiếu tướng Leonid Mikhailovich Sandalov - người có nhiều hứa hẹn trong con đường binh nghiệp.

        Vlasov đạt được mục đích là bổ nhiệm bác sĩ thiếu tá quân y AgneSSa Podmazenko vào đơn vị cứu thương thuộc tập đoàn quân dưới quyền mình. Cô chữa cho các sĩ quan ban chỉ huy tập đoàn, đã được thưởng hai huy chương, trong đó có một huy chương “Vì lòng dũng cảm” và được đánh giá cao ở mặt trận. Ngày 27 tháng 1 năm 1942, cô về ở với mẹ mình ở thành phố

        Angel và sinh con (đứa con trai mang họ của cô nên không bị bắt làm tù binh cùng với Vlasov ở mặt trận Volkhov).

        Năm 1942, vợ Vlasov bị kết án 8 năm tù giam còn tình nhân của ông năm 1943 bị kết án 5 năm. Những bức thư họ nhận được từ Vlasov bị cơ quan phản gián tịch thu nên đến nay còn giữ lại được. Thật đáng kinh ngạc về sự dốt nát của một sĩ quan hàm cấp cao. Vlasov viết với quá nhiều lỗi văn phạm và lỗi chính tả.

        Ngày 10 tháng 11 năm 1941, Stalin tiếp Vlasov. Sau này nhiều lần ông kể lại đã xin lãnh tụ xe tăng như thế nào.

        - Tôi không có xe tăng - Stalin trả lời và bỗng nhiên mỉm cười - đồng chí Malenkov, chúng ta có thể cho đồng chí Vlasov bao nhiêu xe tăng?

        - Mười lăm - Malenkov trả lời.

        - Như vậy là hãy nhận lấy mười lăm xe tăng, đồng chí Vlasov. Tôi không có hơn đâu.

        Với sự phấn chấn Andrei Andreevich kể cho tình nhân về chuyến thăm Kremlin: “Anh được ông chủ lớn nhất và quan trọng nhất gọi đến. Em hãy tưởng tượng xem, Người nói chuyện với anh suốt một tiếng rưỡi đồng hồ. Hãy thử tưởng tượng xem anh hạnh phúc như thế nào. Em sẽ không tin rằng con người to lớn như vậy lại quan tâm đến các công việc gia đình nhỏ bé của chúng ta. Người hỏi: vợ anh đâu và nói chung thăm hỏi về sức khoẻ. Chỉ có Người mới có thể làm như thế, Người dẫn dắt tất cả chúng ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cùng với Người chúng ta sẽ đập tan bọn phát xít đê tiện”.

        Vlasov đã viết như vậy - với những lỗi sai văn phạm khủng khiếp.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM