Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 02 Tháng Sáu, 2024, 01:08:24 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  (Đọc 153771 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #100 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2012, 08:29:35 pm »

Trận Đông Bộ Đầu

Hầu như không có tài liệu gốc nào ghi chép tỉ mỉ về cuộc phản công này. Chỉ thấy trong Toàn thư, các sách sau đều chép lại. Theo Toàn thư, đây là trận phản công chủ yếu sử dụng quân thủy: “Ngày 24, vua và thái tử ngự thuyền lầu tiến quân đến bến Đông (Đông Bộ Đầu) đón đánh, phá được quân giặc”115.

Quân Trần đang đóng ở Thiên Mạc, tiến quân đường thủy lên Thăng Long là tiện nhất, lại tránh được sức phản kháng trên bộ của quân Mông Cổ. Dùng thuyền lầu – loại thuyền chở được nhiều lính – chứng tỏ quân Trần chủ trương một trận đổ bộ bất ngờ vào những ngày cuối tuần trăng. Địa điểm đổ bộ được chọn, rõ ràng là bến cảng Đông Bộ Đầu.

Diễn biến trận đánh ra sao, chúng ta không có cơ sở nào để dựng lại, nhưng có thể nói chắc chắn được là trận này quân Trần thắng và khống chế dọc trục sông Hồng, khiến quân Mông Cổ không thể vượt qua sông rút về theo đường tiến quân cũ được nữa, nên một bộ phận đã rơi vào phục binh của chủ trại Quy Hóa là Hà Bổng.

Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân Mông Cổ của quân dân thời Trần đã kết thúc nhanh chóng. Từ những trận đánh bất lợi đầu tiên, vua tôi nhà Trần đã tìm ra cách đối phó thích hợp nhất với quân Mông Cổ. Đó là việc xây dựng quân thủy, nghệ thuật đánh thủy như một thủ đoạn tác chiến chủ yếu, nhờ đó khai thác triệt để chỗ mạnh của ta về địa hình, về sở trường tác chiến. Do đó, dù trong thế bất lợi của Bình Lệ Nguyên, ta vẫn bảo tồn lực lượng, làm thất bại mưu đồ chiến lược của quân Mông Cổ, đặt chúng vào một tình thế phải chấp nhận cuộc chiến tranh của ta và đánh theo nhịp độ, phương thức của ta.


Lược đồ diễn biến cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất

Thắng lợi giòn giã ở Đông Bộ Đầu năm ấy, với lực lượng quân Trần chủ yếu là quân đổ bộ đường thủy, đã khẳng định chiến lược đúng đắn của nhà Trần.

Sử sách không nói rõ, nhưng chúng ta có cơ sở để nghĩ rằng Lê Phụ Trần là linh hồn của đường lối chiến lược đó, mặc dầu bấy giờ ông mới chỉ giữ một chức vụ không lớn trong triều. Tư tưởng sáng suốt của Lê Phụ Trần biến thành đường lối đánh giặc của cả nước là do thái độ trọng nhân tài và rất tỉnh táo của vua Trần Thái Tôn cũng như sự ủng hộ của các tôn thất nhà Trần khác như viên tướng già Trần Thủ Độ, viên tiết chế trẻ tài ba Trần Quốc Tuấn (lúc này mới khoảng 30 tuổi)… Trong thời kỳ chống nhau với quân Ngột Lương Hợp Thai, vua Trần luôn giữ Phụ Trần ở bên và khi giặc tan, Phụ Trần được định công đầu, cất làm Ngự sử đại phu, với lời khen đầy lòng biết ơn: “Trẫm không có khanh thì làm gì được có ngày nay”. Đáng chú ý hơn, một năm sau, khi Thái Tôn nhường ngôi cho con mình là thái tử Hoảng (tức Thánh Tôn), người đã cùng Thái Tôn chỉ huy thuyền lầu đánh Đông Bộ Đầu năm trước, thì vị vua mới này đã chính thức phong cho Phụ Trần chức Thủy quân đại tướng quân, lần đầu tiên thấy ghi trong chính sử nước ta. Khi về già, Phụ Trần được giao làm giáo thụ cho thái tử Khảm (tức Nhân Tôn) – vị vua của hai lần chiến thắng quân Nguyên (1285, 1288).
--------------------------
115 Toàn thư, t. II, tr. 29. Đông Bộ Đầu là bến sông lớn ở vào khoảng dốc Hàng Than hiện nay.
Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #101 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2012, 07:37:54 pm »

CUỘC KHÁNG CHIẾN LẦN THỨ HAI (1285)

Sau khi đánh chiếm được toàn bộ đất nước Trung Quốc và thành lập đế quốc Nguyên (1271), Đại hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt (bấy giờ đã là Hoàng đế Nguyên Thế Tổ) tiếp tục mưu đồ bành trướng ra những phần còn lại mà trước đây luôn là nỗi thèm khát của mọi triều đại phong kiến Trung Hoa. Từ đây, lịch sử chinh phục của “quân Mông Cổ phương Đông” (tức quân Nguyên) bắt đầu bước vào một giai đoạn mới, nhưng là một giai đoạn hoàn toàn khác trước: quân Mông Cổ bách chiến bách thắng trở nên một đội quân liên tiếp bại trận. Biên giới của Đại Nguyên mãi mãi dừng lại trước sức chống trả mãnh liệt của nhân dân vùng Đông - Nam Á. Địa bàn sông biển và tài thủy chiến của các nước trong khu vực này đó là một trong những nguyên nhân khiến cho đội quân kỵ, bộ Mông Cổ thiện nghệ phải bó tay. Mặc dầu sau khi chiếm được cả phần đất còn lại của Nam Tống, được bọn quan lại Trung Quốc đầu hàng giúp đỡ, chúa Nguyên đã ra sức xây dựng những đội thuyền chiến lớn, nhưng lịch sử chinh phạt vượt biển của Nguyên là lịch sử thất bại hoàn toàn. Đó là thất bại của nhiều lần vượt biển đánh Nhật Bản (1274, 1281, 1291…), một lần vượt biển đánh Chiêm Thành (1283), một lần vượt biển đánh Đại Việt (1287) và nhiều lần vượt biển uy hiếp, xâm lược trực tiếp các đảo thuộc In-đô-nê-xi-a hiện nay…


Lãnh thổ đế quốc Mông Cổ thời Hốt Tất Liệt ( Kubilai Khan)

Một đội quân không có truyền thống thủy chiến thất bại trong các cuộc viễn chinh vượt biển thì khả dĩ còn có thể chấp nhận. Song, chính đội quân thiện nghệ kỵ, bộ ấy vẫn thất bại thảm hại trong cả ba lần xâm lược Đại Việt – một nước có đường biên giới trên lục địa, nối liền với đế quốc Nguyên, thì đó là một điều rất đáng suy nghĩ. Vì vậy, có thể nói, trong lịch sử thất bại của quân Mông Cổ phương Đông này, ba lần thất bại ở Việt Nam là thất bại to lớn, sâu cay và thảm hại nhất.
Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #102 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2012, 07:44:35 pm »

Năm 1285, quân Mông Cổ một lần nữa xâm lược nước ta. Nhưng lúc này, nó không còn là một đạo quân của “Ulus  phương Đông”116 nữa mà đã trở thành đạo quân của “thiên triều” mới, thay thế triều Nam Tống ở Trung Quốc, đó là vương triều Nguyên117.

Trong quan trọng chiến tranh với Nam Tống, đặc biệt sau khi chiếm được toàn bộ miền đất ven biển Hoa Nam Trung Quốc, cơ cấu quân đội Mông Cổ ít nhiều có sự thay đổi. Đó là sự xuất hiện những bộ phận quân thủy và những viên tướng Mông Cổ có thiên hướng chuyên đánh thủy. Có thể nói quân thủy Nguyên kế thừa hoàn toàn từ quân thủy Nam Tống. Bộ phận quân thủy đó sau khi chinh phục xong Nam Tống lại càng được chú trọng phát triển để đáp ứng khát vọng bành trướng ra các nước cách biển ở Đông và Đông - Nam Á. Các căn cứ quân thủy ở ven biển của Nam Tống trước đây trở thành bàn đạp cho những cuộc viễn chinh vượt biển của đế quốc Nguyên. Trong số đó đáng chú ý nhất là căn cứ Tuyền Châu.

Cũng như Khánh Nguyên, Hãm Phố, Thượng Hải. nhà Nguyên đặt một ty thị bạc (tức cơ quan quản lý việc buôn bán đường biển) ở Tuyền Châu. Đây là một cảng biển lớn ở ven biển Phúc Kiến (thời Nguyên là Phúc Châu). Từ thế kỷ VI, thời Nam Bắc Triều, Tuyền Châu bắt đầu trở thành một cảng buôn bán với các nước hải ngoại. Trong suốt thời kỳ hoạt động ngoại thương sôi nổi của nhà Đường thì Tuyền Châu vẫn là một cửa khẩu thông thương giữa Trung Quốc với các nước hải ngoại. Nhưng từ thời Tống, vị trí của Tuyền Châu nổi bật hẳn lên so với các trấn cảng khác, trở hành “đệ nhất đại cảng khẩu” của Trung Quốc đương thời. Năm 1087, nhà Tống chính thức đặt tại đây một ty thị bạc, đặc biệt chú trọng đến việc buôn bán thông thương với các nước hải ngoại. Chính vì vậy khi “sắp có việc ở hải ngoại” (Nguyên sử), Hốt Tất Liệt thông qua tên thương nhân Bồi Thọ Canh, bí mật đánh úp quân Tống ở Tuyền Châu, chiếm cảng này, biến đây thành trung tâm của những mưu mô đen tối, nhằm chinh phục các nước phương Nam. Toa Đô được giao làm Tả thừa Tuyền Châu với trọng trách chính là “chiêu dụ” các nước phương Nam. Lịch sử chinh phục các nước phương Nam của nhà Nguyên từ đây gắn liền với tên tuổi Toa Đô cho đến khi y bị nhận chìm xác trên sông Hàm Tử năm 1285.

Từ cuối năm 1282, nhà Nguyên rục rịch chuẩn bị những cuộc nam chinh một cách quy mô và có kế hoạch. Đại Việt và Chiêm Thành là những mục tiêu quân sự đầu tiên. Tham vọng trong chương trình nam chinh của nhà Nguyên rất lớn. Ngoài Đại Việt, Chiêm Thành, triều đình Nguyên còn “bàn việc đem binh đánh các nước Xiêm, La Hộc, Mã Bát Nhi, Tô Mộc Đỗ Lạt…”118.
------------------------
116 Lãnh địa Đại hãn chia cho các con.

117 Sau khi Đại hãn Mông Kha chết, Hốt Tất Liệt nắm giữ toàn bộ quyền hành và năm 1271 chính thức lập nên vương triều Nguyên. Năm 1279, nhà Nguyên tiêu diệt hoàn toàn nhà Nam Tống, chiếm toàn bộ Trung Quốc.

118 Xiêm và La Hộc sau này hợp thành Xiêm La, đều ở lưu vực sông Mê Nam; Tô Mộc Đỗ Lạt tức Xu-ma-tơ-ra nay thuộc In-đô-nê-xi-a; Mã Bát Nhi ở ven biển đông - nam Ấn Độ.
Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #103 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2012, 07:49:05 pm »

Trước đó, đã nhiều lần Hốt Tất Liệt cử thuyền đem thư đến uy hiếp, chiêu dụ các nước nhỏ ở các đảo Gia-va, Ca-li-man-tan…, thậm chí đến tận nước Câu Lam ở ven biển tây-nam Ấn Độ. Tất nhiên, thực trạng của quân thủy Nguyên không cho phép Hốt Tất Liệt dễ dàng và nhanh chóng thực hiện tham vọng của mình như thuở chỉ cần tung hoành trên lưng ngựa. Vì vậy, một mặt nhà Nguyên ra sức xây dựng quân thủy, mặt khác tập trung chinh phục bằng được Đại Việt, Chiêm Thành để khai thông con đường bộ có thể trực tiếp vươn tay tới các nước khác ở lục địa Đông-Nam Á.

Mưu đồ này được Toa Đô phân tích rõ: “Giao Chỉ liền đất với Chân Lạp, Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, vì vậy nên đặt ngay hành tỉnh trên đất ấy và đóng quân trấn giữ ở ba đạo: Việt Lý (nam Đại Việt, bắc Chiêm Thành, tức miền Bình Trị Thiên ngày nay), Triều Châu (tức Quảng Đông), Tỳ Lan (tây-bắc đảo Hải nam), để lấy lương cấp cho quân sĩ, tránh được vận tải đường biển mệt nhọc119.

Thực hiện mưu đồ này, cuối năm 1281, nhà Nguyên lập hành tỉnh Chiêm Thành trao cho bọn Toa Đô, Lưu Thâm… lo việc đánh Chiêm Thành. Năm 1279, nhà Nguyên xuống chiếu đóng thuyền chiến đánh Đại Việt. Cũng khoảng năm 1281 – 1282, lập An Nam tuyên úy đồng thời ra sức cho sứ giả uy hiếp, buộc vua tôi nhà Trần cho mượn đường và cung cấp lương thảo cho đạo quân đánh Chiêm Thành…

Năm 1284, đạo quân thủy do Toa Đô chỉ huy đánh Chiêm Thành bị thảm bại phải co về chốt ở vùng Việt Lý, nơi y nhận thấy là một vị trí chiến lược cho kế hoạch nam chinh của quân Nguyên.

Tức giận vì nhà Trần không chịu chấp nhận yêu sách, một mặt Hốt Tất Liệt phái thêm thuyền chiến tăng cường cho Toa Đô, dự định biến cánh quân thủy của Toa Đô thành một mũi dao thọc theo đường biển từ phía nam lên, mặt khác gấp rút cho triển khai kế hoạch xâm lược Đại Việt đã sắp sẵn từ lâu. Toàn bộ bộ máy lo toan việc hải ngoại được huy động vào cuộc chiến tranh này làm thành hai cánh tiến quân đường bộ từ phía bắc xuống. Cánh quân chính gồm đạo quân của “thiên triều” trung ương do thái tử Trấn Nam vương Thoát Hoan chỉ huy cùng với quan quân trong hành tỉnh Kinh Hồ chuyên lo việc phương nam do A Lý Hải Nha chỉ huy. Cánh quân này. Tiến theo đường Cao Bằng, Lạng Sơn đánh sang. Một cánh quân bộ khác, lực lượng nhỏ hơn, do hành tỉnh Vân Nam chỉ huy tiến theo đường từ Vân Nam theo sông Hồng sang. Tổng số quân xâm lược lên đến 50 vạn quân.
-----------------------
119 Nguyên sử, quyển 209. Theo Hà Văn Tấn, sách đã dẫn, tr. 163.
Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #104 vào lúc: 07 Tháng Giêng, 2012, 07:52:06 pm »

Như vậy, nếu như cuộc tiến quân 1258 của quân Mông Cổ chỉ là một thủ đoạn thực hiện chiến lược lớn đánh quỵ Nam Tống thì cuộc tiến quân lần này được thực hiện theo một chiến lược hoàn chỉnh nhằm xâm lược nước ta để mở đường chiếm toàn bộ Đông-Nam Á. Nếu như trước đây, đó chỉ là một đạo quân chưa đầy 5 vạn thì nay con số đó lên tới gấp chục lần. Nếu như trước đây, quân Mông Cổ chỉ tiến quân theo một đường, thì nay chúng triển khai trên cả ba hướng, đặc biệt có một bộ phận quân thủy với những thuyền chiến vượt biển lớn. Rõ ràng quân dân thời Trần đứng trước một thử thách lớn hơn nhiều lần. Kẻ địch tiến từ Vân Nam xuống, Quảng Tây sang thì đã quá quen thuộc trong lịch sử chống ngoại xâm phương bắc; kẻ địch từ phía biển Chiêm Thành đi lên, ta cũng đã có những phương án chuẩn bị từ thời Lý Thường Kiệt. Nhưng chưa bao giờ nước ta liền một lúc phải đối phó với một cuộc tiến công từ cả ba hướng như vậy.

Có những biểu hiện chứng tỏ nhà Trần đã tiến thêm một bước nhận thức về chiến lược đánh thủy trong đối sách quân sự chống Nguyên.

Từ hội nghị Bình Than cuối năm 1282, với hàng loạt hiện tượng xoay quanh Trần Khánh Dư, ta có thể thấy chủ trương đánh thủy đã được khẳng định. Trần Khánh Dư vốn là một viên tướng có tài đánh thủy. Khi hội nghị Bình Than họp, vì bị tội, ông còn đang lênh đênh sông nước làm nghề đốn củi, bán than. Lúc này, khả năng mặt trận đường biển đã mở ra vì ngày càng có nhiều tin tức về việc Toa Đô chuẩn bị chiến thuyền nam chinh. Địa điểm họp lại là một vùng căn cứ quân thủy lớn vào loại nhất đương thời, ghép thuyền làm thành nhà họp thảo luận kế sách đánh Nguyên trên sông nước, làm đậm màu sắc một hội nghị bàn về chủ trương đánh thủy. Hội nghị thống nhất gọi Trần Khánh Dư về, tha tội mà hỏi kế, và Khánh Dư đã trả lời “nhiều câu đúng ý vua”120. Chính hội nghị đó trao chức phó tướng cho Khánh Dư trông coi toàn bộ mặt trận đường biển, biến Vân Đồn thành một căn cứ quân thủy mạnh, sẵn sàng đối phó với quân Nguyên trên mặt trận này.

Chủ trương đánh thủy đó ngày càng thể hiện rõ qua diễn biến của cuộc chiến tranh, mà điều thấy rõ nhất là mọi hoạt động tác chiến đều diễn ra trên các trục sông và những võ công lớn nhất của quân Trần ngày càng được thực hiện trên các trục sông đó.

Một năm sau hội nghị Bình Than, vua Trần đích thân chỉ huy cuộc tập trận thủy, bộ. Mùa thu năm sau nữa, dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn, toàn bộ quân vương hầu tổng duyệt ở cảng Đông Bộ Đầu, dường như để chuẩn bị nhuần nhuyễn chiến lược đã chuẩn bị trong hội nghị Bình Than. Vì, sau lần tổng duyệt này thì “chia quân đến các xứ Bình Than đóng giữ các nơi xung yếu”121.

Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, tức khi quân Nguyên bắt đầu tiến vào nước ta, quân Trần triển khai thế trận trên ba hướng để chặn giặc. Hướng chính Cao Bằng, Lạng Sơn do Trần Quốc Tuấn chỉ huy; hướng sông Hồng do Trần Nhật Duật và Trần Văn Lộng chỉ huy; hướng phía nam do Trần Quang Khải chỉ huy, cả ba hướng đều dùng thuyền để triển khai đội hình, vua Trần giữ khoảng hơn một nghìn thuyền chiến ở Thăng Long sẵn sàng chi viện cho hướng phòng ngự chính của Trần Quốc Tuấn.

Bộ phận đông nhất tập trung trên hướng hành quân của Thoát Hoan. Tại đây, quân thủy Trần được huy động tới vài nghìn thuyền chặn quân Nguyên từ biên giới tràn sang.

-----------------------
120, 121 Toàn thư, t. II, tr. 53, 55.
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Giêng, 2012, 07:57:11 pm gửi bởi ùi » Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #105 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2012, 03:51:15 pm »

1. Trận Vạn Kiếp – Lục Đầu

Sau loạt trận chặn giặc ở biên giới, Trần Quốc Tuấn lui về giữ Vạn Kiếp, là vùng được coi như trọng điểm phòng thủ phía bắc của quân Trần. Theo thế trận truyền thống, Trần Hưng Đạo bố trí nhiều điểm chốt quân trên bộ, như Phả Lại, Vạn Kiếp, đồng thời có khoảng một nghìn thuyền đóng ở các bến cảng hỗ trợ.

Có một điểm mới trong lực lượng địch, đó là việc xuất hiện một số thuyền chiến trong cánh quân Thoát Hoan. Đây là thuyền quân Nguyên vừa chiếm được trong loạt trận biên giới, được bổ sung thêm những thuyền mà Thoát Hoan vừa cho quân dừng lại mười ngày để tìm kiếm và đóng thêm. Đơn vị quân thủy dã chiến này được trao cho Ô Mã Nhi122, Nạp Hải, Tôn Lâm Đức chỉ huy, sẵn sàng phối hợp đánh xuống Vạn Kiếp. Chính trong tình hình mới đó, quân thủy của ta ở Lục Đầu không thể bị động chỉ làm nhiệm vụ chờ quân rút lui mà trở thành một bộ phận phòng thủ mặt sông, vừa giữ thuyền, vừa chặn không cho quân thủy Nguyên vòng sau lưng đánh vào trận bộ của ta. Để đảm nhiệm tốt nhiệm vụ này, vua Trần đã chuẩn bị hơn một nghìn chiến thuyền từ Thăng Long sẵn sàng ứng cứu.

Ngày 11-2-1285, từ địa điểm tập kết của chúng cách Vạn Kiếp mười dặm, quân Nguyên đi cả đường thủy, đường bộ xuôi theo dòng sông Thương, tiến công vào loạt cứ điểm chốt giữ của ta trên bộ như Vạn Kiếp, núi Phả Lại. Quân ta chống giữ anh dũng trong suốt ba ngày. Sang ngày 14-2-1285, có lẽ thấy tình hình các điểm chốt trên bộ khó giữ được, Trần Quốc Tuấn cho quân rút xuống thuyền. Thuyền chiến của bọn Ô Mã Nhi tập trung lực lượng đánh phá kế hoạch rút lui của ta. Trước tình hình đó, vua Trần tung lực lượng dự bị ở Thăng Long, với mười vạn quân và hơn 1.000 thuyền chiến đến ngã ba Đại Than, nơi sông Đuống đổ ra Lục Đầu để trợ chiến cho quân thủy của Trần Hưng Đạo, đồng thời chặn đường không cho quân thủy Nguyên theo đường sông Đuống thọc vào Thăng Long.

Theo Nguyên sử, quyển 209, quân Nguyên bắt được một số quân Trần, họ đã nói rằng; “Nhật Huyên (tức Trần Thánh Tôn) điều đạo quân Thánh Dực, hơn một nghìn thuyền giúp Hưng Đạo Vương cự chiến”. An Nam chí lược cũng chép tương tự: “Ngày nhâm ngọ, mồng 9 tháng giêng (tức ngày 14-2-1285), thế tử (tức vua Trần) đem mười vạn quân, đại chiến ở Bài Than. Nguyên súy Ô Mã Nhi, chiêu thảo Nạp Hải, trấn thủ Tôn Lâm Đức đem những thuyền bắt được từ trước đánh tan được”123.

Như vậy cả quân thủy của Trần Hưng Đạo lẫn quân thủy của vua Trần đều chạm trán với quân thủy Nguyên. Một trận thủy chiến lớn đã diễn ra trên khúc sông Lục Đầu. Dĩ nhiên, không phải dễ dàng mà đám quân thủy Nguyên dã chiến, với chừng vài trăm thuyền là cùng (số thuyền quân Nguyên cướp được trên biên giới được chép lại là vài chục chiếc – theo An Nam chí lược), lại đánh bại được quân Trần ở đó có tới hai nghìn thuyền, như Lê Trắc đã khoác lác. Chắc chắn là quân Trần đã chủ động tạm rút lui bảo toàn lực lượng về Thăng Long.
-----------------------
122 Chúng ta còn thấy xuất hiện viên tướng này nhiều lần trên mặt trận sông biển trong chiến tranh xâm lược nước ta. Vốn là một viên tướng rất khỏe, thạo chiến trận, Ô Mã Nhi được liệt vào hạng các “bạt đô” của Nguyên, tức “những người dũng cảm vô địch” (theo binh chế Nguyên). Ô Mã Nhi từng xuất hiện trong đội thuyền chiến cứu viện Toa Đô năm 1284, nhưng bị bão tan tác, trở về bị tội, nhà Nguyên cho đi theo Thoát Hoan lập công chuộc tội vì vậy ít nhiều cũng có khả năng đánh thủy. Từ đây, y bắt đầu trở thành linh hồn của quân thủy Nguyên trong chiến tranh xâm lược Đại Việt.

123 An Nam chí lược, sách đã dẫn, Đào Duy Anh, chú giải Toàn thư, t. II, tr. 296.
Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #106 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2012, 03:57:24 pm »

2. Phòng thủ - rút lui trên trục sông Hồng

Sau trận Vạn Kiếp, một mặt quân Trần bố trí thuyền chiến tiếp tục cản địch ở một số khúc sông, nơi quân Nguyên có thể đi qua, mặt khác dồn lực lượng lập một trận quy mô ở Thăng Long phía nam sông Hồng, che chở cho kinh thành rút lui. Về trận ở bờ nam sông Hồng, sử sách của ta cũng như Nguyên đều chép, nhưng chỉ có Nguyên sử, quyển 209, phần An Nam truyện cho thấy một đôi nét về cách bố phòng của ta: Nhật Huyên (vua Trần) bố trí binh thuyền, dựng rào gỗ dọc sông. Thấy quan quân (quân Nguyên) đến bờ lập tức khai pháo hô lớn thách đánh”124. Theo cách ghi chép của Toàn thư thì trung tâm đối trận có lẽ ở cảng Đông Bộ Đầu, có thể quân Nguyên định lợi dụng bãi nổi để bắc cầu phao vượt sông gần khu vực đó. Quân thủy Nguyên đã tham gia trận đánh này (sau đó thấy quân Nguyên dùng thuyền chiến tiếp tục truy kích quân Trần). Chính vì vậy, thuyền chiến Trần được bố trí ở tuyến phòng thủ ngoài cùng. Ta đã gặp cách phòng thủ này trong trận sông Cầu năm 1077, với 200 thuyền chiến dàn ở bờ nam, trước rào lũy và đội quân phòng thủ trên bờ. Sau này, trong cách phòng thủ trên sông Hồng chống quân Minh năm 1407, nhà Hồ cũng áp dụng một hệ thống bố phòng tương tự. Cách bố trí quân thủy như vậy nhằm chủ động đánh địch ngay khi chúng vượt sông, đồng thời khi có thời cơ sẽ đổ bộ đánh sang trận địa địch, thực hiện phòng thủ tích cực. Theo Nguyên sử, quyển 13, Bản kỷ thì vua Trần huy động hơn một nghìn thuyền của mình vừa rút từ Vạn Kiếp về tham gia trận phòng thủ này.

Sau hai ngày chiến đấu giằng dai (ngày 17 và 18-2-1285), quân Trần rút khỏi Thăng Long. Một bộ phận chốt lại ở cứ điểm Thiên Mạc, lấy bãi nổi giữa sông làm trung tâm, còn lại phần lớn xuôi về cửa Hải Thị (ngã ba sông Luộc) tổ chức chốt phòng thủ cuối cùng trước cửa ngõ “kinh đô thứ hai”.

Không loại trừ khả năng quân Trần ở cụm cứ điểm Thiên Mạc có tổ chức chốt trên bộ để chặn đánh quân Nguyên truy kích, nhưng có thể khẳng định nhà Trần chủ trương dùng quân thủy và dùng đánh thủy là chính trong giai đoạn cơ động chiến lược này.

Thiên Mạc là một khúc sông hiểm, với bãi nổi lớn chia nước thành hai, tạo ra hai ngã ba sông nước mênh mông ở hai đầu. Kẻ địch đi thuyền đến đây luôn luôn ở cái thế bị hai dòng đánh một. Quân chốt ở đây chẳng những nắm được cả hai dòng mà còn luôn luôn được hưởng một “đại chiến hạm” tự nhiên là bãi nổi giữa sông, nơi có thể bố trí quân bộ hỗ trợ cho quân thủy tác chiến trên sông.

Chúng ta cũng đã nói tới Thiên Mạc như một cụm cứ điểm, bao gồm cả một số đồn lũy ở tả ngạn nhằm khống chế tuyến đường bộ như Chương Dương, Tây Kết… Rút khỏi Thăng Long về Thiên Trường, nhà Trần biến Thiên Mạc thành chốt ải tiền tiêu ngăn chặn quân Nguyên truy kích.

Từ khi tràn xuống đồng bằng, đội thuyền chiến của Ô Mã Nhi trở thành đội quân tiên phong sục sạo, truy kích vua Trần và cướp bóc vơ vét lương thực. Đó là một mối lo cho quân Trần. Vì vậy, quân Trần chốt ở Thiên Mạc chủ yếu là quân thủy và cũng có trọng trách chặn đánh quân thủy Nguyên. Người được nhà Trần giao cho trách nhiệm chốt ở đây là Trần Bình Trọng, bấy giờ là con rể của Thượng hoàng (tức Thánh Tôn).
----------------------
124 Theo Hà Văn Tấn, và Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, in lần thứ ba, Hà Nội, 1972, tr. 201. Đào Duy Anh, chú giải Toàn thư, t. II, tr. 296.
Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #107 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2012, 04:09:23 pm »

Để vượt qua hệ thống phòng thủ Vạn Kiếp, quân Nguyên phải mất bốn ngày. Từ đó tiến về Thăng Long, quân Nguyên lại mất thêm năm ngày nữa. Nhưng để vượt qua Thiên Mạc, chúng đã phải mất bảy ngày. Chính đây là thời gian cần thiết cho trận địa ở ngã ba Luộc (cửa Hải Thị) tăng cường các chướng ngại và triều đình ở Thiên Trường chuẩn bị triển khai kế hoạch tản lánh tới những vùng an toàn hơn. Tấm gương hy sinh anh dũng của Trần Bình Trọng cùng với lời đối đáp vô cùng khảng khái, phần nào phản ánh mức độ gay gắt của cuộc chiến đấu đã diễn ra ở đây. Sự hy sinh của Bình Trọng trên chiến trường sông nước, là sự tiếp nối truyền thống đánh thủy trong gia đình ông.


Thà làm quỷ nước Nam...

  Trong kiến thức sử dân gian (Thiên Nam ngữ lục, q. II, tr. 46) Trần Bình Trọng và Lê Phụ Trần được coi như là một người và sự kiện của hai người được chép lẫn lộn với nhau. Các tài liệu chính sử (Toàn thư, t. II, tr. 58; Cương mục, V, tr. 167; Lịch triều hiến chương loại chí, t. I, tr. 317…) dè dặt hơn, đều chép rằng tổ phụ của Trần Bình Trọng làm quan thời Trần Thái Tôn (1226 – 1258), vốn họ Lê (dòng dõi Lê Hoàn, người châu Ái), được ban quốc tính (họ vua). Trong thời Thái Tôn, chỉ thấy một người họ Lê được ban quốc tính là Lê Tấn (tức Lê Phụ Trần), hưởng theo chế độ vương hầu (các con với Chiêu Thánh đều được phong thượng vị hầu (Tông) và công chúa (Khuê). Lê Trắc trong An Nam chí lược cho biết tước của Phụ Trần là Bảo Văn hầu và tước của Bình Trọng là Bảo Nghĩa hầu (Toàn thư chép là vương). Có thể đây là kiểu xưng tước trong một gia đình như Hưng Đạo vương với các con (Hưng Vũ vương, Hưng Nhượng vương…).

  Các tài liệu trên cho phép đặt một gạch nối giữa hai nhân vật này. Theo cách tính thế hệ thì họ không thể là một người như trong trí nhớ dân gian hồi thế kỷ XVI – XVII được. Toàn thư cho biết Bình Trọng là chồng sau của công chúa Thụy Bảo, tức con rể Thái Tôn, năm 1285 trước khi chết mới có con gái nhỏ sau này lấy Trần Anh Tôn sinh ra Trần Minh Tôn. Bình Trọng lấy Thụy Bảo ít ra cũng phải sau năm 1277 là năm chồng Thụy bảo là Uy Văn Vương Toại chết (lúc đó Toại 24 tuổi). Trái lại, Phụ Trần thuộc thế hệ Thái Tôn; năm 1250 đã thấy xuất hiện trong Toàn thư với chức Ngự sử trung tướng (thừa) và được nhắc đến nhiều trong những năm 50 – 60. Năm 1274, hẳn đã già, ông được vua cho làm thiếu sư kiêm việc trông nom dạy dỗ thái tử. Chúng ta đều biết Trần Thái Tôn sau khi giáng Chiêu Thánh xuống làm công chúa vì không có con (thực ra năm 1233 bà đã sinh Hoàng thái tử Trịnh, nhưng Trịnh chết ngay khi mới ra đời), đã gả cho Phụ Trần năm 1258. Lúc đó, Chiêu Thánh đã 41 tuổi. Đến năm 1278, Chiêu Thánh chết thì đã có hai người con của Phụ Trần. Bình Trọng có thể là con của Phụ Trần, họ đều gốc gác người châu Ái, dòng dõi Lê Đại Hành. Tất nhiên, Bình Trọng không phải là con đẻ của Phụ Trần với Chiêu Thánh. Có lẽ trước khi lấy Chiêu Thánh, Phụ Trần đã có vợ và Bình Trọng là con của người vợ trước này, thuộc dòng trưởng. Vì vậy Bình Trọng đã được phong vương chứ không phải là thượng vị hầu như Tông, con Chiêu Thánh.


Người anh hùng trên sông Thiên Mạc năm ấy đã từng thề “làm ma nước Nam còn hơn làm vương cõi Bắc”, sau này được nhà Trần truy phong đến tước Đại vương, phẩm tước cao nhất trong hàng vương hầu, xứng với chiến công và tấm gương hy sinh cao cả của ông.
Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #108 vào lúc: 14 Tháng Giêng, 2012, 04:23:55 pm »

Sau khi ải Thiên Mạc vỡ, quân Nguyên cả thủy lẫn bộ ồ ạt tiến xuống cửa ngõ Long Hưng – Thiên Trường. Tại đây, quân thủy Trần dựa vào mấy bãi nổi giữa sông xây dựng một hệ thống phòng thủ kiên cố, có thuyền chiến kết hợp với cọc gỗ giữa sông.

  Khúc sông Hồng đế chỗ này lượn rất gấp thành hình thước thợ và phình ra. Trong khoảng rộng đó nổi lên bốn bãi lớn nhỏ khiến việc phòng thủ khá tiện lợi. Từ đây đường nước chia làm hai; một nhánh đổ sang sông Luộc (đoạn đầu sông còn có tên là sông Hải Triều), theo đường này có thể lên biển phía bắc rất thuận lợi hoặc có thể trở về hệ thống sông Lục Đầu mà không phải ngược sông Hồng. Đoạn Hải Triều bao quanh phía bắc khu Long Hưng – tức là nơi dấy nghiệp của họ Trần. Một nhánh khác lớn hơn là dòng chính của sông Hồng chảy xuống phía nam ra biển. Khúc sông từ đây trở xuống, thời Trần gọi là Đại Hoàng. Khúc này bọc lấy sườn phía tây Long Hưng đồng thời dẫn xuống khu Tức Mặc (tức Thiên Trường) là nơi phát tích của họ Trần, phía hữu ngạn. Thời Trần, đây được coi như miền biển. Trong các cuộc tạm lánh, nhà Trần đều lui về đây, dưới mắt người Nguyên được coi như “chạy ra biển”. An Nam chí lược có đoạn mô tả Thiên Trường thời ấy như sau: “Ở nơi ấy nước thủy triều quanh thành, hoa cỏ bên bờ mùi thơm xông ngát, có những thuyền trang hoàng đẹp đẽ qua lại trên sông, y như cảnh tiên vậy”. Như vậy thời đó thủy triều còn ảnh hưởng mạnh đến ngã ba Luộc hiện nay. Cứ theo nguyên chữ Hải Thị trong An Nam chí lược thì cửa sông này đồng thời là một chợ biển nữa.

Trong trận này, một bộ phận quân thủy lớn, tới hàng nghìn thuyền chiến dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn và điện tiền chỉ huy sứ Phạm Cự Địa xuôi dòng sông Luộc tìm đường ngược lên chiếm lại Lục Đầu, tạo thành một mũi dao thọc sườn quân Nguyên. Một bộ phận lớn khác theo vua Trần lui chốt giữ Thiên Trường, Trường Yên (tức vùng Nam Định – Ninh Bình hiện nay). Đối với cánh quân phía bắc của Thoát Hoan, dường như đây là một thế phòng thủ mà quân Trần có thể từng nghĩ đến trong hội nghị Bình Than. Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, một mô hình phòng thủ tương tự, sau khi quân Nguyên đã chiếm Thăng Long và tỏa quân truy kích, cũng diễn ra như vậy. Mô hình đó thực hiện ý định bám chắc địa bàn chiến lược ven biển, với hai khu vực lớn: Lục Đầu - Hải Phòng và Thiên Trường - Trường Yên. Thế phòng thủ này cho phép quân Trần dựa vào địa hình sông nước, bảo tồn lực lượng, nhưng lại có thể sẵn sàng phản công chiến lược. Rõ ràng, quân Nguyên sau trận Hải Thi đã không thể có hoạt động gì khác. Đà thắng, thế chủ động tiến công của chúng đã hết, buộc phải co lại củng cố địa bàn đã chiếm được, trở thành đối tượng cho quân dân thời Trần tiến công. Tình hình cũng diễn ra như vậy trong cuộc kháng chiến lần thứ ba.

  Trong cuộc kháng chiến lần này, sử sách Nguyên và An Nam chí lược thường nhắc đến tên một viên điện tiền họ Phạm bên cạnh Trần Hưng Đạo (trong những trận cản giặc ở biên giới và trong cuộc hành quân trở lại Vạn Kiếp). Có chỗ Nguyên sử (1. 209, tờ 6a) chép là Phạm Hải Nhai. Nhiều người cho đó là Phạm Ngũ Lão. Thực ra, lúc này Phạm Ngũ Lão còn là một người lính trong đội quân riêng của Trần Hưng Đạo chứ chưa thuộc biên chế của quân triều đình. Sau cuộc kháng chiến lần thứ ba, Trần Hưng Đạo mới tiến cử ông xung vào đội ngũ cấm quân của vua. Năm 1290, ông mới chính thức được vào ngạch tướng, cai quản hữu vệ Thánh Dực, nhận một tước thấp trong triều (hạ phẩm phụng ngự). Theo quy chế thời Trần, người lính dù giỏi nhưng không phải vương hầu hoặc dòng dõi con quan cũng không được làm quan. Ngũ Lão “xuất thân từ trong hàng quân ngũ”, nhờ tài năng và có Trần Hưng Đạo tiến cử mới được dùng. Tận năm 1298, ông mới được phong làm Kim ngô vệ đại tướng quân, tức chức tướng cai quản một vệ trong cấm thành (quân bên trong), theo binh chế nhà Trần thì lúc này mới được gọi là một điện tiền chỉ huy sứ. Năm 1299, ông được phong làm Thân vệ tướng quân, quản một đơn vị thân quân bảo vệ trực tiếp vua, tức quân Thiên Thuộc. Năm 1301, thăng từ tướng quân Thân vệ lên Đại tướng quân Thân vệ, là chức quản lĩnh toàn bộ quân thân vệ. Liền năm sau, đạt tới chức cao nhất trong ngạch tướng cầm quân bấy giờ là Điện súy.

  Vậy chức điện tiền chỉ huy sứ họ Phạm trong cuộc kháng chiến chống Nguyên năm 1285 là ai? Trong Toàn thư, t. II, tr. 35 có chép: “Quý Hợi năm thứ 6 (1263)… Mùa xuân, tháng giêng, sai điện tiền chỉ huy sứ Phạm Cự Địa và Trần Kiều sang nước Nguyên”. Theo chúng tôi, Phạm điện tiền trong chống Nguyên 1285 chính là Phạm Cự Địa. Trong kháng chiến lần này, Toàn thư cũng chỉ nhắc đến Phạm Cự Địa chứ không nói gì tới Phạm Ngũ Lão. Tháng ba âm lịch (tức khoảng tháng 4-1285), viên điện tiền này vì dao động đã cùng bọn Trần Ích Tắc hàng giặc.

Logged

Ùi, úi, ui....
ùi
Thành viên
*
Bài viết: 239



« Trả lời #109 vào lúc: 15 Tháng Giêng, 2012, 07:50:00 pm »

3. Cuộc rút lui tạm tránh bằng đường biển

Một tình huống không lường trước đã xảy ra với quân Trần, đó là quân Nguyên phía nam với lực lượng quân thủy mạnh đã hỗ trợ cho cánh quân bộ phá vỡ nhiều tuyến phòng thủ của quân Trần. Nhưng chúng ta biết, sau khi thất bại trong xâm lược Chiêm Thành, Toa Đô đã đóng quân ở vùng Bình Trị Thiên ngày nay. Khi Thoát Hoan tiến quân vào nước ta thì Toa Đô cũng được lệnh tiến quân lên phía bắc. Đội thuyền chiến của y cuối năm 1282 đã xuất phát từ Quảng Châu, cả thảy gần nghìn chiếc, trong đó số chiến binh tinh nhuệ, chính thức gồm 5.000 quân với 100 thuyền biển (loại thuyền vận lương cỡ lớn) và 250 thuyền chiến, số còn lại là phạm nhân sung quân chuộc tội. Chính nhờ có đội thuyền chiến này, quân Toa Đô đã men theo biển, tiến khá nhanh ra bắc mặc dầu quân Trần chống trả rất mãnh liệt. Khoảng tháng ba năm ấy, Toa Đô đã ra đến Thanh Hóa. Tình hình đó khiến vua Trần ở vào thế bị quân Nguyên ép cả hai mặt. Đặc biệt, lợi thế sông nước ở Thiên Trường, Trường Yên đã từng cầm chân Thoát Hoan thì nay có nguy cơ bị quân thủy Toa Đô gây khó khăn. Chính vậy, vua Trần đã tổ chức một cuộc hành quân đường thủy rất táo bạo, cũng rất tài tình để tiếp tục bảo toàn lực lượng nhưng vẫn giữ được thế chiến lược của ta. Trong cuộc hành quân này, vai trò quân thủy có một ý nghĩa hết sức quyết định.

Đường hành quân của vua Trần có thể phác ra như sau: Từ vùng Thiên Trường, đoàn thuyền rút ra cửa Giao Hải (cửa Ba Lạt hiện nay) men theo biển lên phía bắc. Đến An Bang (vùng biển Quảng Đông hiện nay), quân ta rời thuyền lên bộ, có thể là tản vào vùng núi Đông Triều – Yên Tử, căn cứ của quân Trần Hưng Đạo. Những thuyền nhỏ của triều đình len lỏi vào tận nguồn Tam Trĩ (nay là Ba Chẽ thuộc Quảng Ninh).

  Đây là một vùng nước rất nhiều lau lách và đảo. Hiện nay đảo Đồng Rui còn có tên là Tam Tri (trĩ), hẳn là tên chữ của Ba Chẽ. Đảo này được đảo Cái Bầu cùng thế đất ven bờ ôm khít, kín đáo. Có hai đường nước lớn vào được đảo này, một theo lạch Ông (qua cửa Ông) hiện còn đền thờ con trai Trần Quốc Tuấn) từ phía Nam đi qua đảo Hà Lầm mà vào. Đường này rất khó đi và có nhiều đá ngầm như voi nằm phục, thường thường phải đợi thủy triều lớn mới đi được. Đường phía bắc theo lạch Tiên Yên vào, rộng rãi và dễ đi hơn. Vào đến Đồng Rui, đường nước đều phải chia làm hai, gọi là sông Voi Lớn, Voi Bé. Quanh đào có rất nhiều chỗ lầy, cạn. Đây là một chỗ kín đáo và hiểm hóc.

Quân triều đình đổ bộ lên đây rồi nhanh chóng tản theo đường bộ vòng về phía nam tới khu vực cửa Nam Triệu. Để đánh lừa quân thủy Nguyên, vua Trần sai một bộ phận quân thủy tiếp tục đưa thuyền ngự với đủ cờ quạt tiến lên Mũi Ngọc (Trà Cổ). Từ sông Nam Triệu, vua Trần lại dùng thuyền men theo đường nước vùng Đồ Sơn ra vùng biển Đại Bàng (tức khoảng cửa Văn Úc). Từ đó vua Trần xuôi gió thẳng vào Thanh Hóa125.
----------------------
125 Nguyên văn trong Toàn thư: “… Nhị đế thoát chu nhi tòng bộ chi Thủy chú thượng chu xuất Nam Triệu giang (tức Thủy Đường huyện) du Đại Bàng hải dạt Thanh Hóa” (Bản kỷ, q. 5, tờ 47b). Đào Duy Anh chú thích Toàn thư cho Thủy Chú nghĩa là các dòng hội lại, đoán định thuộc Yên Hưng. Thực ra Toàn thư đã chỉ rõ Thủy Chú tức huyện Thủy Đường, là tên huyện đặt từ thời Minh. Đại Nam nhất thống chí cho biết: trước đó vùng này là một giang (đơn vị hành chính thời Trần): giang Nam Triệu. Đó chính là miền đất thuộc huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng) hiện nay. Sông Nam Triệu có lẽ là Bạch Đằng, đoạn cửa sông. Rất có thể vua Trần đã tập kết ở khu vực Trúc Động, một căn cứ quan trọng trong cuộc kháng chiến lần thứ ba.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Giêng, 2012, 07:16:15 pm gửi bởi ùi » Logged

Ùi, úi, ui....
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM