18. T-72
T-72 – xe tăng chủ lực tiêu chuẩn, có mặt trong lực lượng vũ trang Nga và nhiểu nước SNG.
Sự xuất hiện của T-72 nhằm thay thế cho T-64, có những tính năng chiến đấu tốt (đặc sắc), nhưng mang những nhược điểm về hệ thống động cơ không tin cậy, bộ phần truyền động và cơ chế nạp đạn. Tất cả các nhược điểm đó đã được khắc phục trên T-72, đồng thời những tham số chiến đấu và kỹ thuật – ưu điểm của T-64 vẫn được duy trì. Không tính đến việc xe tăng mới nặng hơn T-64 đến 2 tấn, tốc độ, tầm hoạt động và sức cơ động của T-72 vẫn được duy trì và nâng cao nhờ sự trợ giúp của hệ thống động cơ mạnh hơn, bản xích rộng hơn và các thùng nhiên liệu dự trữ cũng được bổ sung. Ngoài ra, T-72 còn được biết đến là loại xe tăng rẻ, dễ trong sản xuất và khai thác sử dụng, đồng thời có rất nhiều lựa chọn trong các gói nâng cấp. Năm 1973, xe tăng gia nhập lực lượng vũ trang với tên gọi “Uran”. Thân xe sử dụng phương pháp hàn từ các tấm thép có độ dày khác nhau. Tấm thép trước đầu xe được làm từ tổ hợp thép 3 lớp, góc nghiêng 63 độ theo đường thẳng. Tháp xe có hình dạng phức tạp và phần trước tháp pháo dày 280mm
Trong tháp pháo bố trí trưởng xe và pháo thủ. Xe tăng được lắp pháo nòng trơn 125mm D-81TM với chế độ nạp đạn tự động chạy điện, súng máy đồng trục 7,62mm PKT. Trên tháp chỉ huy lắp súng máy phòng không 12,7mm NCVT. Kính ngắm – đo xa quang học TPD-2-49 được sử dụng cho sự dẫn bắn của pháo chính, còn khi tác xạ với các mục tiêu khuất tầm nhìn, sử dụng các thiết bị quan sát bên hông. Hệ thống cân bằng pháo – tăng 2E28M cho phép xe tăng có thể bắn vào mục tiêu khi đang di chuyển. Trong quá trình sản xuất hàng loạt, những phiên bản nâng cấp mới của T-72 cũng xuất hiện. T-72A, được lực lượng vũ trang tiếp nhận năm 1979, trang bị kính ngắm – do xa laze TPD-K1 và kính ngắm ban đêm với đèn pha. Pháo chính 2A46 tăng chiều dài nòng pháo và cơ số đạn. Giáp bảo vệ được gia cố, bên thành xe được lắp hai màn chắn bằng cao sup ha thép đặc, còn tháp pháo – hệ thống bắn lựu đạn khói “Tucha”. T-72B ra đời năm 1985, trang bị tổ hợp trang bị “Svir” cho khả năng bắn tên lửa chống tăng từ nòng pháo với hệ thống dẫn bắn bán tự động theo tia (chum) laze. Trong hệ thống điều khiển hỏa lực có thước ngắm – đo xa laze TPD-K1, máy tính đường đạn, hệ thống cân bằng pháo – tăng 2E42-2 và các thiết bị khác. Hệ thống giáp phòng ngự tích cực gồm 227 hộp thép chứa các túi đựng thuốc nổ. T-72B1 được giới thiệu là T-72B không có tổ hợp “Svir”. T-72A với hệ thống giáp phòng ngự tích cực có tên gọi T-72AB. Seri sản xuất T-72 không chỉ hạn chế trong Liên bang Xô Viết mà còn ở Nam Tư, Ba Lan, Tiệp Khắc và Ấn Độ. Giữa các biến thể khác nhau, có các phiên bản xuất khẩu T-72M và T-72S (các phiên bản tái trang bị của T-72A và T-72B). Trong phần lớn các phiên bản này được chuyển giao Irak, Siri, Libi, Co oét, Algieri, Phần Lan. Sự tham gia chiến đấu của T-72 vào thời gian chiến tranh Siri – Israel năm 1982, nơi mà chúng tỏ ra vượt trội hoàn toàn so với các xe tăng của đối phương. Chúng cũng được sử dụng trong xung đột Iran – Irak tại khu vực vịnh Pecxich. Vào năm 1991, trong thành phần lực lượng vũ trang Irak, có gần 1000 T-72, tập trung phần lớn trong các đơn vị trực thuộc các sư đoàn Vệ binh Cộng hòa. T-72 còn tham gia chiến tranh tại Nam Tư (cũ) và các cuộc xung đột quân sự trong không gian Liên bang Xô Viết cũ.
Trên gầm T-72, thiết kế và chế tạo cho lực lượng vũ trang xe cứu kéo – sửa chữa BREM-1, xe công binh IMP-2. T-72 sẽ còn phục vụ lâu dài trong Thiên niên kỷ thứ 3 vì cấu trúc của nó có khả năng nâng cấp và hiện đại hóa rộng rãi. Đặc biệt, trên gầm xe đáng tin cậy của T-72 còn được các hãng của Nam Phi, Pháp, Slovakia cùng hợp tác và thiết kế loại pháo tự hành 155mm.
Các thông số chính:
Tên gọi: T-72B
Phân loại : xe tăng chủ lực
Kíp xe: 3người
Khối lượng chiến đấu: 44,5
Chiều dài,m: 9,53
Chiều rộng:,m: 3,46
Chiều cao,m: 2,23
Khối lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/125
Hỗ trợ: 17,62; 1/12,7
Độ dày giáp đầu: 280 + giáp phòng ngự D3
Độ dày giáp bên: 80 + giáp phòng ngự D3
Động cơ: V-84-1, diezen, 840 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 60km/h
Tầm hoạt động: 500km.