13. PT-76
PT-76 – Loại xe tăng trinh sát lội nước chạy trên xích được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới.
PT-76 được thiết kế bởi Phòng thiết kế Zh. Ia. Kotin, nơi nổi tiếng với dòng xe tăng hạng nặng KV và IS, năm 1951 gia nhập lực lượng vũ trang Liên Xô. Nó khác với các xe tăng lội nước cùng loại khác của các nước Phương Tây ở điểm không cần yêu cầu bất cứ sự chuẩn bị nào cho việc vượt các chướng ngại vật nước. Là xe tăng đầu tiên trên thế giới được trang bị động cơ phụt nước, PT-76 có tốc độ hoạt động trên mặt nước cao gấp hai lần các xe tăng đồng dạng của nước ngoài. Nó có thể vượt lên khỏi mặt nước dưới góc 38 độ, và không chỉ sử dụng để vượt sông, PT-76 còn có thể chở các đơn vị đổ bộ lên bờ nếu sóng biển không quá cấp 4. Kết cấu của xe tăng cho phép nó có thể bắn pháo 76mm trong khi bơi.
Hai động cơ phụt nước thủy – phản lực bố trí ở bộ phận đuôi xe của thân xe có dạng choán nước hình thuôn. Chúng có chức năng xả nước qua bộ truyền động của động cơ chính. Nước tràn quan cửa vào dưới đáy thân xe, sau đó được xả ra quan 2 cửa sổ phía đuôi khi xe tăng di chuyển về phía trước. Khi xe tăng lùi, hai cửa sổ đuôi được đóng kín bởi các vật chắn, nước sẽ được xả qua hai lỗ thoát nước bố trí bên thành xe. Không chỉ khác với các xe tăng cùng loại về khả năng hoạt động trên mặt nước, PT-76 còn rất cơ động trên đất liền. Đó là kết quả của sự phối hợp thành công giữa động cơ diezen và động cơ phụt nước, đồng thời, thể tích thân xe lớn, cho phép bọc giáp mỏng (nhẹ). Trang bị hỏa lực vừa đủ, gồm có pháo chính 76m và súng máy, đảm bảo có thể thực hiện mọi yêu cầu về hỏa lực trong nhiệm vụ trinh sát và đổ bộ. Bộ phận truyền động gồm 6 bánh đỡ với hệ thống treo xoắn riêng mỗi bên. Để tăng khả năng bơi cho xe tăng, trục xe có thân rỗng. Bánh dẫn động bố trí phía sau, băng xích được làm từ các mắt xích nhỏ, bằng thép.
PT-76 được trang bị hệ thống bảo vệ khỏi vũ khí sát thương hàng loạt và thiết bị chống đạn tự động. Ban đầu, hỏa lực của PT-76 gồm pháo 76mm D-56T và súng máy đồng trục 7,62mm SGMT. Từ năm 1957, xe tăng được nâng cấp pháo chính D-56M với hai ống tản nhiệt và hút khói. Cơ số đạn 40 viên cho pháo chính và 1000 viên đạn súng máy. Phiên bản khác của xe tăng mang tên PT-76B, trang bị pháo D-56TS với hệ thống cân bằng pháo – tăng hai phương thẳng – ngang và bổ sung thêm các thùng nhiên liệu. Chiều cao thân xe tăng lên thêm 130mm, đầu xe kéo dài, còn bộ phận nóc phía đuôi xe được thiết kế có chiều nghiêng lớn, ngược lại với đầu xe. Trên cơ sở PT-76, Liên Xô đã chế tạo được xe vận tải lội nước BTR-50P và các hệ thống phóng trên lửa chiến thuật “Mars” và “Luna”.
Tổng cộng đã có khoảng 12 000 PT-76 được sản xuất. Trên 2 000 xe đã được xuất khẩu. Xe lội nước do Liên Xô sản xuất đã được sử dụng trong các hoạt động quân sự tại Châu Phi, Cận Đông, trong xung đột Ấn Độ - Pakistan năm 1965 và đặc biệt rộng rãi trong thời gian từ năm 1968 đến năm 1975, nơi chúng được biên chế trong Quân đội Nhân dân Việt Nam (quân đội Bắc Việt Nam – NV).
Vào thời điểm hiện tại, các xe tăng PT-76 còn lại trong lực lượng lính thủy đánh bộ Nga đã được hiện đại hóa. Trong các đơn vị trinh sát của Lục quân, chúng đã được thay thế bằng các xe đặc chủng BRM-1. Hiện tại, PT-76 còn phục vụ trong 28 quốc gia Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh.
Các thông số chính:
Tên gọi: PT-76
Phân loại : xe tăng lội nước hạng nhẹ
Kíp xe: 3 người
Khối lượng chiến đấu: 14,2 tấn
Chiều dài,m: 7,63
Chiều rộng:,m: 3,14
Chiều cao,m: 2,32
Khối lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/76
Hỗ trợ: 1/7,62
Độ dày giáp đầu: 14
Độ dày giáp bên: 14
Động cơ: V-6, diezen, 240 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 44/10,2km/h
Tầm hoạt động: 250km.