27. M3 “Grant/Lee”
Dòng xe tăng M3 đã trở thành dòng xe tăng “nhiều tầng” duy nhất trong những năm Chiến tranh Thế giới thứ hai và trong các phiên bản ra đời trước mang tên “Lee”. Còn các phiên bản sau, được sản xuất theo đơn đặt hàng của Anh, mang tên “Grant”.
Xe tăng được thiết kế trên cơ sở xe tăng hạng trung M2A1 với việc sử dụng toàn bộ các tổ hợp, hệ thống lực, trục và bộ phận truyền động. Năm 1940, dưới ấn tượng về các hoạt động quân sự tại châu Âu, giới khoa học quân sự Mỹ đã nhận được quyết định thiết kế phiên bản của xe tăng M2 với hỏa lực mạnh hơn. Hiệu quả của pháo 37mm trong các trận đấu tăng đã suy giảm một cách đáng kể, còn sau đó, pháo 75mm không thể lắp được trên tháp pháo chính không lớn. Người Mỹ đã mượn ý tưởng từ các xe tăng hạng nhẹ và lắp nó một cách đơn giản vào thành bên phải xe tăng M2A1. Sau đó là việc điều chỉnh góc bắn cho pháo chính (32 độ). Một trong 4 súng máy, được lắp trên tháp pháo nhỏ dành cho chỉ huy nhưng không thể thực hiện nhiệm vụ phòng không bởi vì góc bắn thẳng của nó quá nhỏ. Giáp bảo vệ cồng kềnh cũng là điểm yếu của dòng xe tăng với thân xe được lắp theo phương pháp tán đinh với nhiều cửa, làm phức tạp hóa kết cấu. Trong các phiên bản cuối cùng của xe tăng đã xuất hiện thân xe trên phương pháp hàn, cải thiện được phần nào các nhược điểm trên. Nhược điểm nữa là tình trạng không đồng nhất về động cơ của “Lee” và “Grant”. Có 4 kiểu hệ thống lực cho loại xe tăng này trên cơ sở các loại động cơ: động cơ hàng không hình sao 7 xi lanh “Rait – Kontinental”; động cơ diezen kép “General motors”; khối 5 động cơ xe hơi “Kraicker”; động cơ diezen “Giberson”. Hệ thống động lực cuối cùng còn được gọi bằng tên “hệ thống khuấy trứng”. Mẫu thí nghiệm M3 được đưa ra bãi thử tháng 5 năm 1941. Nó gồm 3 lớp trang bị với kíp xe 6 người. Sự sản xuất hàng loạt được bắt đầu vào mùa hè trên các công xưởng của 5 hãng khác nhau. Ngoài xe tăng M3 theo tiêu chuẩn Mỹ được sản xuất dưới tên gọi “Tướng Lee”, còn có loại xe tăng M3 dành cho nước Anh có tên gọi “Tướng Grant”. Những mẫu cuối cùng có tháp pháo đúc mới và các tấm chắn xích theo dạng mới nhằm ngăn chặn những đám bụi khi hoạt động trên hoang mạc. Tháp pháo chỉ huy được gỡ bỏ, còn phần sau tháp pháo được trang bị hệ thống vô tuyến điện của Anh.
Xe tăng hạng trung M3 lần đầu tiên tham chiến vào 27 tháng 5 năm 1941 trong biên chế sư đoàn xe tăng số 7 tại Bắc Phi. Trong các trận đánh gần Gazal chúng đối mặt với các xe tăng Đức Pz IV trang bị pháo nòng ngắn 75mm. Các “Grant” cũng đóng góp đáng kể trong chiến thắng của quân Anh trước quân Đức tại El-Alamein. Đối với người Mỹ, việc sử dụng 3 kiểu xe tăng này có ít hơn, cơ bản là trong các trung tâm đào tạo trên lãnh thổ Mỹ và các quốc gia khác. Một số lượng không lớn M3 “Lee” than gia chiến đấu trên mặt trận Thái Bình Dương, đồng thời trong thành phần trung đoàn xe tăng số 13 Thủy quân lục chiến Mỹ tham gia đổ bộ lên Ma rốc. Tổng cộng trong khoảng 2 năm từ 1941 đến 1942, 6258 xe tăng hạng trung M3 đã được sản xuất cho Mỹ và Đồng minh. Trong quân đội Liên Xô cũng có gần 1400 xe tăng kiểu này. Lính tăng Xô Viết gọi M3 là “Mộ tập thể dành cho 7 người” và với sự loại bỏ với số lượng lớn khi xe tăng mới M4 “Sherman” xuất hiện theo hiệp ước “Lend – Lizơ” trong việc thay thế “Lee” và “Grant”.
Trên gầm M3 tại Mỹ đã sản xuất pháo tự hành M7. Các xe tăng M3 cũng được rút khỏi lực lượng vũ trang và chuyển hóa sang xe cứu kéo – sửa chữa M31 và xe kéo pháo M32.
Các thông số chính:
Tên gọi: M3 Lee/Grant
Phân loại: hạng trung
Kíp xe: 6 người
Khối lượng chiến đấu: 27,2 tấn
Chiều dài,m: 5,64
Chiều rộng,m: 2,72
Chiều cao,m: 3,12
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/75; 1/37
Hỗ trợ/mm: 4/7,62
Độ dày giáp đầu: 50mm
Độ dày giáp bên: 38mm
Động cơ: “Kontinental”, R975 EC2, bộ chế hòa khí, 340 sức ngựa.
Tốc độ tối đa: 40km/h
Tầm hoạt động: 230km.